The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2019) - Tập 1 (Vietnamese Edition)

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-05-12 10:10:40

44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại

44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2019) - Tập 1 (Vietnamese Edition)

Bùi Vĩnh Phúc © 81

sách, bước vào thế giới của chữ nghĩa, con người đã đẩy cửa
đe bước vào một thế giới khác, cũng đầy ắp những ký hiệu.
Những ký hiệu trong sách cũng đòi hỏi phải được giải mã,
lôt vỏ. Có thế, chúng mới có thế dâng hiến cho người đọc
cái tinh chất của chúng, cái chất ngọt, cay, đắng. chát, mặn
mà, thơm tho, nồng đượm, hay cái cảm giác thô ráp, mềm
mai. sắc lẻm. xù xì... của cuộc đời. Tìm đến những ốc đảo
ấy, mỗi người sẽ chỉ còn có chính mình. Họ mang theo cùng
với mình tất cả những gì làm nên con người họ, tất cả những
gì cấu thành cái thế giới tinh thần của họ: kinh nghiệm sống,
những điều trải qua trong đời, giáo dục, sở thích, những ham
muốn từ thấp nhất đến cao nhất, thậm chí những dục vọng,
những mộng tưởng, lý tưởng của cả một đời. Tất cả những
hành trang vô hình đó họ đặt bên cạnh mình khi ngồi trước
trang sách. Cuốn sách, bấy giờ. là một văn bản tràn ứ những
ký hiệu. Chúng tràn lênh ra, bập bềnh như trên một mặt sóng.
Chúng như những làn nước, những lớp nước, chỉ chực tràn
ra khỏi trang sách trước mặt người đọc. Có khi chúng lại là
những tiếng chim, tiếng gió chạy đuổi nhau trong một cánh
rừng đầy nắng lá, hay chúng là những âm thanh, những bóng
dáng chập chờn của cuộc đời lúc xa lúc gần, lúc rõ nét khi
nhòa nhạt, thức ngủ trong chính chúng ta, trong những thời
gian và không gian mà chúng ta không thể luôn luôn gọi tên
hay định tính.

Tất cả hiện ra từ trang sách, tất cả bùng lên từ văn bản.

Đó là văn chương. Và, có lẽ, để nói về văn chương,
những lời lẽ có thể mang ít nhiều dấu vết văn chương như
một, hai đoạn văn trên cũng là tạm đủ. Chúng ta phải đi vào
hiện thực “xám” của lý thuyết (“tất cả mọi lý thuyết thì đều
màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”) để có thể cảm
nhận, năm bắt được rõ hơn những điều mà chúng ta muốn nói.

82 © 44 NĂM VĂN HỌ

Julia Kristéva

liên văn bân (intert
Tây phương, đã cho
trúc hóa. Nó là một
đối thoại, hoặc va đậ
hay, nói tóm lại, củ
văn bản, có nhiêu d
bản này có thể xa rờ
Chúng đan xen chồn
nghĩa trên văn bản g
khuất sâu dưới lớp
với kinh nghiệm, sự
thành con người tin
nói văn bản là một
luôn mời gọi, liên k
được đánh thức dậ
nhau. Nghĩa của ch
luôn ở trong thế tiề
Những hàm nghĩa,
chờ được khai mở.

ý nghĩa khác nhau
bản là một liên văn
có thể nhìn ra nhiề
chất này mà một tá
sức hút của nó. Nh
khác nhau, những
lấp lánh của một tá

Ở một góc c
của một tác phẩm
nhất thành bất biến
văn học có thể ma

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

a, người đã giới thiệu những ý tưởng về

textuality) cùa Bakhtin đên VƠI the giơi
o thấy văn bản là một thê giới được câu
hiện trường, nơi xảy ra những sự gặp gỡ,
ập của những hình ảnh, tư tưởng, văn hóa,
ủa những thế giới khác nhau. Irong một
dâu ân của các văn bán khac. Nhưng van
ời nhau trong cả không gian lẫn thời gian.
ng chéo và tạo nên những hàm nghĩa, liên
gốc. Những văn bản này năm chìm, lẫn và
chữ của văn bản gôc mà môi người đọc,
ự giáo dục và những phẩm chất riêng làm
nh thần của mình, tự phát hiện ra. Có thê
t nguôn nghĩa vô tận.( 11 Nghĩa cua mọt tu
kết với những nghĩa khác, và luôn chờ đê
ậy trong cái đọc của môi con người khác
hữ, như thế, luôn biến hóa, mở rộng. Nó
ềm năng và có thể triển khai vô giới hạn.

liên nghĩa luôn nằm trong thê tiêm tại đê
Như thế, một văn bản có thể đem lại nhiều

cho những con người khác nhau. Môi văn
n bản. Từ một văn bản văn học, người ta
ều tác phẩm khác nhau. Và chính là vì tính
ác phẩm văn học trở nên có chiều sâu, có
hững cách nhìn khác nhau, những cái thay
cách giải mã khác nhau, tất cả làm nên độ
ác phẩm.

cạnh khác, theo Serge Dubrowski, cấu trúc
không phải là một cái gì có tính ôn dinh,
n. Mà nó là một thế giới mở. Một tác phâm
ang trong mình nhiều lớp nghĩa, và nghĩa

của nó không bao giờ có tính chu

đổi tùy theo cái nhìn, góc nhìn củ
thái độ quan sát nó của người ấy
với một con người đặc thù nào đ

đổi không chỉ từ cá nhân này sa
từ những lần đọc này sang lần đ
người qua thời gian. Bởi vậy, ý
co thể thay đổi theo những tâm
những sự “rót vào” khác nhau củ
lần đọc. Ý nghĩa của tác phẩm, b
phương trình mà tất cả những gì
sách cùng với mình khi đọc trở nê
không được tính đến. “Ý nghĩa c
nên một hàm số, thay đối với nh
mang vào cùng với cá tính riêng
con người hắn. Tình hình này làm
của cơ học lượng tử đối với các vậ
thể (particles), được khảo sát. Ngư

“thái độ”, cái dự tính, cái ý hướn
khảo sát, thí nghiệm đó, cũng nh
thiết bị mà ông ta dùng để đo lườ
làm thay đổi kết quả của thí nghiệ

Nói rộng ra, tất cả mọi sự
tượng này đều như thế. Cái nhìn
hơn, chính cái tâm ý của ta đã tạo
còn phải là vấn đề tâm lý hay triế
luận của Phật giáo, nhìn một cách
luận như thế. Đọc những quyển sá
của FritjofCapra, hay The Hologra
Talbot, trình bày cái nhìn của nhi
lý lượng tử cũng như của một vài

Bùi Vĩnh Phúc © 83

ung kết, dứt khoát. Nó thay
ủa người đọc, sự quan sát và
y.(2) cấu trúc là cấu trúc đối
đó. Cái cấu trúc ấy sẽ thay
ang cá nhân khác, mà còn
đọc khác của cùng một con

nghĩa của tác phẩm cũng
cảnh, tâm thế khác nhau,
ủa mỗi người đọc hay mỗi
bấy giờ, được dựa trên một
người đọc mang vào trang
ên những biến số không thể
của tác phẩm”, như thế, trở
hững biến số mà người đọc
và tất cả những gì làm nên
m ta liên tưởng đến cái nhìn
ật thể, đúng hơn là các chất
ười ta không thể bỏ qua cái
ng của người làm công việc
hư không thể bỏ qua những
ờng. Những điều ấy có thể
ệm.

xảy ra trong thế giới hiện
tạo ra thế giới. Hay, đúng
ra thế giới này. Đây không
ết lý nữa, cho dù Duy Thức
chung, cũng đưa ra một kết
ách như The Tao of Physics
aphic Universe của Michael
iều nhà vật lý lý thuyết, vật
i nhà khoa học nghiên cứu

84 © 44 NĂM VĂN HỌC

về thần kinh, về não b
University) và Karl P
phải giật mình khi thấ
trụ này, trong quan sá
một quyển sách, chỉ là
cái nội dung riêng tư
những “văn bản” khá

Nói như L. Wi

hiện trong câu đâu
Logico-Philosophicu
case”. Tất cả mọi sự đ
như thế, là nơi dung c
Và “sự” đây là “sự k
“sự vật” (things).(5ì N
trong việc xét văn bả
với xác quyết của n
thần của chủ nghĩa h
văn bản như một cấ
nữa, mà tên tuổi đượ
Hủy-tạo) về sau, cũn
văn bản. Tất cả mọi

Văn bản là mộ
(là những yếu tố cấu
bởi một lớp ngôn từ
vào nhau cũng như t
dấu mờ, những ký h
sáng khi tối trước m
liên kết và rủ rê nh
hiệu mới được tạo r
Đọc là đi vào trung
là một “thực hành tạ

C VIỆT NAM HAI NGOẠI

bộ nổi tiếng, như David Bohm (London
Pribam (Stanford University), khiến ta
ấy rằng cả thế giới, và, rộng hơn, cả vũ
át và nghiên cứu của họ, cũng giông như
à những văn bản mở, đe con ngươi" I ot
ư của nó vào, lam nên cái lap lanh cua
ác nhau.(3)

ittgenstein (với mệnh đề nổi tiếng, xuất

tiên của tiêu luận tnet học Tractatus
us của ông), “The world is all that is the
đều diễn ra trong thế gian. Phải, thê gian,
chứa mọi hoàn cảnh, nơi diên ra đủ sự.'41
kiện/dữ kiện” (facts) chứ không phải là
Nhìn ở một góc độ nào đó, và chỉ giới hạn
ản, phán đoán này co nhưng cho gan gui
những nhà nghiên cứu văn bàn theo tinh
hình thức Nga, hay của cấu trúc luận, nhìn
ấu trúc mang tính tự trị. Và cả J. Derrida
ợc gắn liền với Giải-câu-trúc luận (thuyêt
ng thế, khi nói rằng không có gì ở ngoài

sự là ở bên trong.

ột thế giới, và trong thế giới đó, chừ nghĩa
u thành nó) cứ trượt đi. Nó được xây dựng
ừ động. Chữ và nghĩa, các nghĩa tô, trượt
trượt qua nhau (glissement), để lại những
hiệu của ký hiệu, như những tinh vân, khi
mắt con người. Nghĩa vẫy gọi nghĩa, nghĩa
hau. Ký hiệu tạo ra ký hiệu, và những ky
ra đó lại sinh sản ra những ký hiệu khac.
g tâm của những vòng tròn tạo nghĩa. Đọc
ạo nghĩa” (pratique signifiante), nói như J.

Kristéva. Tất cả những ký hiệu, và
dêt nên một tấm thảm bay với nh
nghĩa sáng nghĩa tối, nghĩa mờ n
net. đan kết, xoắn bện vào nhau. M
thảm này có thể nâng con người lên

Cũng có thể nhìn văn bản
(kaleidoscope). Tất cả những ký
nhau, trượt qua nhau, và làm thàn
hợp khác nhau đó làm nên thế gi
lại một thế giới khác hiện ra. Và
những cách xoay ổng kính riêng c

Một điều cũng nên nhắc lại
ký hiệu (ngôn ngữ). Như F. de S
sự vật được phản ánh (như con n
biểu-đạt (là mặt chữ, vỏ tiếng hay
biểu-đạt (tức khái niệm được phản
“con ngựa” hay “cái cây”, v.v.) kh
cơ nào. Đó chỉ là một sự vũ đoán
của một tập thể người.(6) Và chín
ký hiệu (ngôn ngữ) nói chung và
mang tính đa nghĩa, mơ hồ và n
tích cực của nó. Sở dĩ thế là vì, nh
và phân tích của Saussure và nhiề
trong cùng một vỏ tiếng, vỏ âm
con người có thể lồng ghép, đắp
hệ xa gần với nhau. Những nghĩ
những nhánh chính, và những n
nhánh phụ. Trường nghĩa cứ thế
nghĩa trượt lên nhau, trượt vào n
làm thành một trường nghĩa rộng
những liên nghĩa, hàm nghĩa, ngh

Bill Vĩnh Phúc © 85

à những dấu mờ của chúng,
hững hàm nghĩa, liên nghĩa,
nghĩa đục, nghĩa nhòe nghĩa
Một tấm thảm kỳ diệu. Tấm
n và chở nó đi khắp mọi noi.

như một ổng kính vạn hoa
hiệu, như đã nói, trượt vào
nh sự khác biệt. Những kết
iới. Mỗi lần ổng kính xoay,
mồi người chúng ta đều có
của mình.

i ở đây là tính vũ đoán của
Saussure đã phân tích, giữa
ngựa, cái cây, v.v.) với cái-
y vỏ ngữ âm) và cái-được-
n ánh bên trong những chữ
hông hề có một quan hệ hữu
n, chấp định. Một quy ước
nh là từ sự chấp định này,
văn bản văn học nói riêng,
nhập nhằng trong cái nghĩa
hư đã nói, với sự khám phá
ều nhà ký hiệu học sau này,

thanh (enveloppe sonore),
đổi nhiều nội dung có liên
ĩa xuất phát từ những chi,
nghĩa từ những chi, những
ế mà sinh sôi nảy nở. Các
nhau và trượt qua nhau đã
lớn. Nghĩa tạo ra nghĩa, từ
hĩa ẩn, nghĩa chìm, và dấu

86 © 44 NĂM VÀN HỌ

vết của chúng, sau
đấy, làm đầy cái kh
có thể tiếp diễn một

Sử dụng nhữn
các nhà vàn, nhà th
viết, của văn phạm.
kẻ sáng tạo lại có t
bằng cách mở rộng
dùng, nhất là trong
trục chọn lựa và kế
chiếc đũa thần(7), co
kỳ diệu, với cá tính
của mình.

2.

Giống như tr
động hoàn toàn ma
cấu. Đúng, hiểu the
dạng sáng tạo dựa
w Nhưng cũng chí
này đã làm nên điề
làm được. Là vất đẩ
mới, không hề mò
kiến thức, bản lĩnh,
và, dĩ nhiên, cũng
tại của việc đọc vă
thể mở ra những th
bình và đọc văn đú
giới phàng, như cá

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

khi bị vượt qua, vân còn tiêp tục năm ở
hông gian ngữ nghĩa. Và cái chu trình ấy
t cách vô tận.

ng con chữ như một thứ khê ước xã hội,
hơ phải tuân thủ những luật tăc củạ chữ
Nhưng, dựa trên chính những quy tăc ây,
thể tự do hư cấu trong thế giới của mình
g phạm vi ngữ nghĩa của các ký hiệu hắn
thơ. Bằng cách sử dụng và lồng ghép hai
ết hợp khi hành từ và bô (trí) câu nhự một
on người có thể sáng tạo ra nhiều thê giới
h và qua hư cấu chủ quan, vũ đoán riêng

rong sáng tác, phê bình cũng là một hoạt
ang tính chủ quan, vũ đoán, thậm chí hư
eo một nghĩa nào đó, phê bình cũng là một
trên hư cấu. Và nó rất chủ quan, vũ đoán.
ính tính chất chủ quan, vũ đoán và hư câu
ều kỳ diệu mà chữ viết của con người đã
ẩy người đọc vào một (hay những) thế giới
òn. Nó mở ra những thế giới. Với cá tính,
, và. thậm chí, sự mơ mộng riêng của mình,
với việc phải tuân thủ một số quy luật nội
ăn bản, mỗi người đọc, người phê bình, có
hế giới khác lạ khi tiếp cận với văn bản. Phê
úng nghĩa không bao giờ mở ra những thê
ái thế giới hiện tại mà con người đang sông,

trong quan niệm của Thomas Frie
nghĩa và liên nghĩa, nó mở ra nhữn
song. Những thế giới này, nói một
nhau, chập vào nhau, và trao đổi c
bản văn học. đê biến nó thành một
đọc cần làm không phải chỉ là dùn
hơn, sự liên tưởng và trí tường tượ

Hãy thử đọc một vài câu thơ

Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt ảo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bổn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha

Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phổ (...)

(Thuở làm thơ yêu em, 1962

Những câu thơ thật đẹp. Và
câu thơ như lụa phất ấy vào nhạc
yêu em. Một thuở. Chắc chắn cái
cân tìm biêt hệ quả của những hà
làm trong thuở ấy. Điều đó không
có một thuở trong đời. Tình yêu.
vàng hoa. Gió may. Bờ dậu. Nhữn
ảnh lông vào nhau. Những con âm

Bùi Vĩnh Phúc © 87

edman. Mà. với những hàm
ng thê giới “cong”, đầy sức
t cách hình tượng, lồng vào
chất cho nhau. Đọc một văn
t tác phẩm, có lẽ điều người
ng lý trí, mà là dùng, nhiều
ợng của mình.
ơ của Trần Dạ Từ:

)
2)
à Cung Tiến đã đưa những
c của mình. Thuở làm thơ

thuở ấy đã qua. Ta không
ành động chàng tuổi trẻ đã

cần thiết. Chi biết rằng đã
Trời mưa. Hoa cúc. Màu
ng ký hiệu và những hình
vang lên trong đầu. Chúng

88 © 44 NĂM VĂN HỌC

nhân nhau lên trong
thơ, vì những hình ản
cơn mưa, V.V., trong
với nhiều ấn tượng. C
Từ những kinh nghiệ
vũ đoán của mỗi ngư
thể lôi cuốn nhau và
hết lại những hình ả
người trong thế gian
của một thi sĩ bất kỳ
với bao nhiêu bài th
đời này (chưa nói đ
dài hơi khác), chúng

Trong bốn câu
óc của một người V
nhiều âm hao, ám ản
và bờ dậu chăng? Có
chập vào những hìn
một vài trong bao nh
cúc, làm tôi nhớ đế
vàng, anh vê yêu h
hoa cúc trong câu th
đôi mắt của người
em có sầu cô quạnh
hơn nữa là cái gió h
Trịnh Công Sơn. Cò
ở cạnh nhà tôi/ Cá
Nguyễn Bính. Bờ d
câu thơ Đứng im n
Lặng nhìn em kinh n
thiên thâu/ Ta sụp l

C VIỆT NAM HAI NGOẠI

trí và trong tâm hồn cùa mỗi người đọc
nh, những ám gợi về tình yêu, vê những
mỗi con người là khác nhau và găn bó
Chúng tạo ra hàng loạt các trường nghĩa.
ệm, xúc cảm, và từ những liên tưởng rât
ười đọc, một con âm hoặc một con chữ có
à tạo thành một cơn lũ. Nếu có thể cộng
ảnh, ấn tượng, rung động của tất cả mọi
n này khi đọc một câu thơ hay một bài thơ
nào đó, ta sẽ có cả một thê giới. Vậy thì,
hơ, câu thơ mà con người có trong cuộc
đến những câu văn hoặc những tác phâm
g ta có bao nhiêu thế giới?

u thơ đầu, dù sao đi nữa, có lẽ trong trí
Việt như tôi, những ấn tượng mang lại có
nh Việt Nam. Vì những hoa cúc, gió may

ó lẽ. Những hình ảnh ấy rung lên, lấp lóa,
nh ảnh khác trong tôi. Hãy chỉ thử đưa ra
hiêu ấn tượng nở bùng lên trong đầu. Hoa
ến một câu thơ của Nguyên Sa, Áo nàng
hoa cúc. Chỉ là nhớ đên, không can biet
hơ của ai nở trước. Gió may, tôi nhớ quá
con gái trong thơ Quang Dũng, Mát kia
h/ Khi chớm may vê một sớm mai. Và gân
heo may đã vê, chiêu tím loang vỉa hè của
òn bờ dậu? Nó làm tôi nhớ đên Nhà nàng
ách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn của
dậu, thậm chí còn làm tôi nhớ đên những
ngoài hàng dậu/ Em mỉm nụ nhiệm mâu/
ngạc/ Vừa thoáng nghe em hát/ Lời ca em
lạy cúi đầu (Thược Dược, Quách Thoại).

Bùi Vĩnh Phúc © 89

Một đóa hoa nở bên bờ dậu đấy. Bao nhiêu là hình ảnh thật

Việt Nam!
Sang bốn câu thơ kế, hình ảnh Việt Nam chắc vẫn còn

đấy. Nhưng chúng không còn đậm đặc như trong bốn câu
thớ đầu nữa, với những hình ảnh có chút chênh chao ngả nhẹ
theo nhịp ngữ pháp Tây phương, cộng với những thủ pháp
nhân hóa và ẩn dụ được dựng lên trong từng câu thơ. Đến
đoạn ba, tự nhiên ta thấy như được dẫn vào một khung trời
“la hóa” với những đường nét không gian không còn hoàn
toàn mang tính điên hình của một khung cảnh Việt Nam. A,
thế nào là Việt Nam? Rất khó nói, có lẽ là do cách đọc, cách
cảm cùng với kinh nghiệm đọc và rung động của từng người.
Riêng tôi, cả đoạn thơ này tự nhiên nhắc tôi nhiều đến những
khung trời Paris của Jacques Prévert. Riêng câu Cả vai cầu
tay nghiêng thì lại làm tôi đặc biệt nhớ đến Apollinaire trong
bài Le Pont Mirabeau. Trong bài này, thi sĩ đã tả hai người
nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống
như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:

Les mains dans les mains restonsface àface
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éterneIs regards I ’onde si lasse...

Vienne la nuit sonne I ’heure
Lesjours s 'en vontje demeure

(Cứ mặt nhìn mặt, cứ tay cầm tay
Cánh tay mình kết cầu này
Cho làn nước dưới kia chạy trốn
Những ảnh nhìn muôn thuớ chán chường thay...

90 © 44 NĂM VẤN HỌ

Cho đêm cứ về
Tháng ngày đ

[Hoàng Hưng

Những liên tư
thấy trong Cả vai cầ
trong lòng tôi của L
thương yêu của Apo
cả các liên tưởng đ
cho bài thơ, đối với

Đọc là liên t
đoán như thế. Như
ta viết, dù thơ hay
kết hợp các từ ngữ
Nhất là khi ta, mộ
biện pháp chuyển
hoán dụ, so sánh,
nào đó, trong xa x
bán hàng/ Còn an
Em như cái giếng
rửa chân, thi qua
tâm hồn hay thân
một người con gá

giếng. Thế nhưng,
nhưng câu ca dao
cho những hình ả
Thị Kính, tác giả
vơi anh No bằng m
toe dải yếm đao
hương. Tác giả c
đã đặt vào miệng

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

ề, cho giờ cứ điếm
đi anh vân còn đay.

g dịch])

ưởng đã dẫn tôi đi xa như thê, đê toi nhìn
ầu tay nghiêng những hình ảnh còn in đậm
Le pont de nos bras, và cả một khung trơi
ollinaire có dòng sông Seine chảy qua. Tât
đều là vũ đoán. Và sự vũ đoán đó đã làm
i tôi, có thêm chiều dày và lấp lánh hơn.

tưởng và thực hiện những hành động vũ
ưng viết thì cũng không khác. Khi chúng

văn (nhưng đặc biệt là thơ), sự chọn lựa,
ữ cũng chính là một hành động rât vũ đoán.
ột cách vô tình hay hữu ý, sử dụng nhưng

nghĩa/ những dụ pháp (tropes) như ân dụ,
nhân hóa, v.v... Khi một người Việt Nam
xưa, đã sáng tạo ra câu Lòng em như quán
nh là khách qua đàng trú chân, hay cau
giữa đàng/ Người khôn rửa mặt, kẻ phàm
la người đó đã rất vũ đoán để dem so sánh
n phận của một con người (đặc biệt lại là
ái) với một túp hàng quán, hay như một cái
, chính cái vũ đoán đó đã đê lại cho chúng ta
o tuyệt vời như thế cho đến bây giờ. Nó làm
ảnh ấy sống mãi. Cũng thế, trong vở chèo
ả đã cho Thị Mầu “chào hàng"/ “nhá hàng"
một câu chòng ghẹo táo bạo, Gió xuân đánh
o/Anh trông thấy oản sao không vào thăp
của câu chèo tinh quái và “kinh khủng” nay
Thị Mầu một ân dụ thật... trẻ khong tha. gia

không thương (hay Phật không tha
“oan” là để cúng Phật, và câu há
hoa ghẹo nguyệt kia, “gọi mời thắ
ra trong khung cảnh nghiêm trang
vì ả Thị Mầu đang ve vẩy ở nơi đ
người ta vào thắp hương như the!
ket để rồi so sánh đến vậy, không
đoán, ập vào nhau những hình ảnh
là rất xa nhau. Nó làm bật ra nhữ
Đúng là có những cái vũ đoán ch
khắc nét vào văn chương như thế.

3.

Trở lại với chuyện đọc văn
jeunes biles en fleurs (Dưới bóng
của Marcel Proust, trong bộ A la R
(Đi Tìm Thời Gian Đã Mất), Bern
những bông hồng nở vội của Rons
si la rose/Qui se matin avait décỉo
n’attendez à demain/ Cueillez dè
la vie - Em ơi, ta hãy ra xem/ Đ
hay chưa/... Hái đi, đừng để quả
chăng chờ đến mai). Cùng lúc, ô
bông hoa ác, những bông hoa tội l
Baudelaire, cùng với cái mùi của d
thời, ông cũng nhớ đến cả những
Feu) của Nerval. Một sự liên tưởn
vũ đoán, nhưng hắn nhiên là nó có
đọc, mơ mộng, và phân tích của
cùa Proust, hình ảnh những cô gái

Bùi Vĩnh Phúc © 91

a, Chúa không thương? - vì
át bóng gió đầy tính... trêu
ắp hương” kia, lại được thốt
g nơi cửa thiền. Mà chính là
đấy nên mới có cớ giục mời
!). Một sự nhìn ngắm, liên
gì khác, chính là một sự vũ
h, những khái niệm đáng lẽ
ững tia lửa của sự sáng tạo.
hết người, nhưng chúng đã
.

n. Khi đọc À rombre des
g những cô gái đương hoa)
Recherche du Temps Perdu
nard Raffalli(9) đã nghĩ đến
sard (Mignonne/Aỉlons voir
ose/... Vivez, si m ’en croyez,
ès aujourd’hui les roses de
Đóa hồng dã nở bên thềm

mùa/ Hoa hồng cuộc sống
ông cũng nghĩ đến những
lỗi (Les Fleurs du Mal) của
dục tính và sự tàn rữa; đồng
g cô gái lửa (Les Filles du
ng nhìn thoáng qua tưởng là
ó nguồn gốc từ kinh nghiệm
a Raffalli. Trong tác phẩm
i đẹp tươi, đương trong lứa

92 © 44 NĂM VÀN HỌ

tuổi hoa niên ấy, đư
khóm hoa, những b
Và những người co
chính là người kề
muốn bị kìm nén củ
hương thương nhớ,
đọc và những liên
phúc cho người đọ
biết và làm phong p

Cũng thế, tro
sâu), Jean Pierre R
Gérard de Nerval,
ám ảnh bởi độ sâu
nếu không thực hi
Nerval thì muốn gi
nổi lên. những sự v
yếu đuối hơn, luôn
sâu vô tận, những
cho dù có hãi sợ, c
xoáy của những độ
tận đáy vực 0°) Ph
một sự vũ đoán nh
tích tâm lý đến mộ
ra những so sánh v
Richard có thể đã l
nơi một nhà thơ nà
phản ứng và cơ chế
tưởng đến những n
cũng đã bắt gặp nh
Rồi, có thể bằng m
xếp chồng những v

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

ược liên kết với nhiều hình ảnh của những
bụi hoa, tưoi sáng có, mà tàn rữa cũng có.
on gái đương hoa kia, cùng với nhân vật
chuyện, với những mối tình, những ham
ủa họ. như những đóa hồng tỏa ra một mùi
, phả khắp những trang sách. Kinh nghiệm
tưởng của nhà phê bình đã đem lại hạnh
ọc ông. Chúng cũng làm dày thêm sự hiểu
phú tâm hồn người đọc.

ong Poésie et Profondeur (Thi ca và Độ
Richard đã phát hiện ra rằng cả Baudelaire,

Arthur Rimbaud và Paul Verlaine đều bị
u. Rimbaud thì muốn lấp bằng độ sâu, và
iện được, ông tìm cách thoát ra khỏi nó.
iảm bớt độ sâu bằng nỗ lực mô tả những gì
vật nôi lềnh bềnh trên mặt nước. Verlaine,
n bị sự ám ảnh kinh hoàng của những độ

lỗ hồng không đáy. Còn Baudelaire thì,
có hoang mang choáng váng trước cái hút
ộ sâu, vẫn muốn đâm đầu lao mình xuống
hải có một liên tưởng bén nhạy, cộng với
hất dinh, cùng với một năng khiếu phân
ột độ nào đó, thì người ta mới có thể đưa
và nối kết như thế. Và thao tác của Pierre
là, đầu tiên, ông nhìn thấy hình ảnh độ sâu
ào đó trong bốn nhà thơ vừa kể, cùng với
ế tâm lý của nhà thơ ấy. Từ đó, ông đã liên
nhà thơ còn lại mà, qua thơ ca của họ, ông
hững độ sâu, với những phẩm chất khác.
một phương pháp gần gũi với phương pháp
văn bản của bốn nhà thơ này lên nhau, ông

Bùi Vĩnh Phúc © 93

đi sâu vào tìm hiểu kỹ hon tính cách và phong cách của từng
nha thơ. Tất cả đều bắt nguồn từ liên luông, từ sự nối kết các
(liên) văn bản của nhà phê bình.

Khi nghe nhũng câu hát này trong bài Đêm của Trịnh
Công Sơn:

Đêm xanh hay đêm đỏ
Đêm hồng đêm mong manh
Đém đêm rừng nuôi gió
Đêm hồng má thị thành

Đêm ôm vai em nho
Giấc ngu như chiêm bao
Đêm thơm từng chiếc lá
Cho tình bay lên cao

Đém sáu không xa lạ
Kéo gần đêm thiên thu
Đêm xin thành noi nhớ
Đém đợi đóa hẹn hò

Đêm yên như pho cổ
Chút tĩnh riêng xôn xao
Đêm xa gần môi mả
Có dài không đêm tháu (...)

tự nhiên tôi nhớ đến bài Đêm Trăng của Đoàn Thị Lam
Luyến:

Đêm dài như châu chấu
Của tuổi thơ chín mười

94 © 44 NĂM VĂN HỌC

Đồng trưa mư
Theo đàn châu

Đêm dài như x
Xé tan tuổi đô
Chưa tiêu gì r
Đã hết veo cu

Đêm dài... đê
Như kiến leo c
Leo vào rồi le
Đâu biết mình
Hai bài thơ, n
nhau, cho dù chúng
không phân tích dà
khác biệt đó. Có lẽ
Việt, chữ nghĩa Việ
ngôn ngữ khác nha
Cho dù chúng đều
giống nhau như ẩn
bài thơ đã tạo nên
khối tinh vân tự xo

Bài thơ của
pháp tu từ ập vào
rung nuôi gió, đêm
tư xa đến gần, rồi
từ trong ra ngoài,
của hiện tại, kéo d
thu, rồi lại thu kéo
Con bài thơ của Đ
văn bản trong nhữ

C VIỆT NAM HAI NGOẠI

ưa rào tạnh
u chấu bơi

xác pháo
ôi mươi
ra món
uộc đời

êm cành đa
cành cộc
eo ra
h trùng lặp
nếu có thể nói như thế, có nhiều nét khác
g đều lấy đêm làm xuật phát diêm. Ta sẽ
ài dòng vào chi tiết đê thây rõ những sự
ẽ chỉ nên nói là, dù có dùng các con âm
ệt, các tác giả đã sử dụng những chất liệu
au để làm ra những sản phâm khác xa nhau.
gắn bó với những thủ pháp chuyên nghĩa
n dụ, hoán dụ, so sánh, nhân hóa, V.V., hai
n hai khí quyển khác biệt. Chúng như hai
oay vần theo quỹ đạo của riêng mình.

TCS có mật độ dày hơn của những biện
nhau, như trong những hình ảnh đêm đem
m đợi đóa hẹn hò. Bài thơ đưa ra cái nhìn
lại từ gần ra xa, và từ ngoài vào trong, ròi
về mặt không gian; và từ điểm quy chiêu
dài cho nó chạm vào cõi xa thăm của thiên
o về cõi người bé nhỏ, xét vê mặt thời gian.
ĐTLL thì lại bắt vào những hình ảnh liên
ững câu như Đêm dài... đêm cành đa, như

Bùi Vĩnh Phúc © 95

kiến leo cành cộc. Câu thơ làm ta nhớ đến câu ca dao tuổi nhỏ
Con kiến mày leo cành đa. Leo phai cành cộc leo ra leo vào.
Con kiến mày leo cành đào. Leo phải cành cộc leo vào leo
ra Nó tạo nên một cảm thức quấn quanh, bít bùng, không
lối thoát. Những câu thơ soi chiếu vào hạnh phúc tuổi thơ và
thân phận mình hiện tại. Hình ảnh châu chấu, được lặp đi lặp
lai hai lần, gắn với một cái gì sinh động, hớn hở. Một màu
xanh như ngọc của thân mình những con châu chấu được đưa
vào cận ảnh dưới ánh mắt tuổi thơ. Chân chúng búng tanh
tách, và chúng bơi trên mặt nước. Điều đó gắn với cái hồn
nhiên, sinh động của tuổi nhỏ. Rồi những mảnh pháo hồng nổ
tan tác. Rộn rã đấy, nhưng rồi vụt biến nhanh. Cuộc đời trôi
qua vội vã, rồi vỡ vụn như những xác pháo. Để, cuối cùng,
cái còn lại chỉ là sự nhỏ nhoi, quanh đi quân lại của những lối
mòn... Ngoài ra, thủ pháp so sánh trong Đêm Trăng lại là một
cái gì mang tính rất biểu kiến. Dạng thức thì là so sánh, Đêm
dài như châu chấu, Đêm dài như xác pháo, nhưng bản chất
thì lại là ẩn dụ lồng vào hoán dụ (bởi lẽ, đêm không thể nào
dài như... châu chấu hay xác pháo được). Hai bài thơ đưa ra
những khắc khoải riêng, những tâm sự đặc thù, theo những
hướng khác nhau, và tạo ra những không gian, thời gian khác
biệt. Vậy mà nó lại thu hút nhau, ập vào nhau trong cảm thức
của một người đọc. Đọc hay nghe riêng biệt bài hát của TCS
và bài thơ của ĐTLL, chắc chắn là mỗi người đọc khác lại
thây nảy nở ra trong lòng minh những liên tưởng khác biệt,
những ám gợi, những hình ảnh không trùng hợp với cách liên
tưởng, cách đọc của tác giả bài viết này. Đó chính là do kinh
nghiệm sống và đọc, do cơ chế tâm lý riêng của mỗi người
khi tiếp cận với tác phẩm.

Liên tưởng có khi được giai thích, có khi không, nhưng
chac chăn là chúng có những gốc rễ của mình. Bởi vậy, khi

96 © 44 NĂM VĂN HỌ

nói phê bình là mộ
quan là đúng, còn v
điệu. Bởi đó khôn
rễ, và gốc rễ ấy nằ
nhau của liên tưởng
một định nghĩa của
vào, sự thẩm định
on or subject to in
thefreedictionary.c
tùy vào độ mở của
những nồ lực riêng
cũng như nối kết nh
đã đưa vào tác phẩm
hắn mới cảm nhận

Đọc là một h
nghĩa và tạo nghĩa
hợp. Cũng giống n
viết, hai thao tác c
cách có vẻ có ý th
khi đọc, tất cả nhữ
không kịp trở tay. N
vứt đẩy ta vào mộ
hàm nghĩa. Hai loạ
trên văn bản. Theo
là nó luôn hàm chứ
cái được nói ra, nh
những cái không đ
được nói ra. Có mộ
và cái ẩn kín bên
khấu. Đó là cái khô
bản là một không

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

ột hành động chủ quan và vũ đoán, thì chủ
vũ đoán chỉ là một cách nói có phần cường
ng hề là một thái độ tùy tiện. Nó có gốc
ằm trong "vùng giao”, vùng chồng lấp lên
g và sáng tạo. Và thái độ đó thích hợp với
a “vũ đoán”, là “dựa trên, hoặc tùy thuộc
hay chọn lựa mang tính cá nhân” (based
ndividual judgment or preference - WWW.
com). Và, đúng thế, người tiếp cận văn bản.
a văn bản mà hắn đang khảo sát, phải có
g của mình để bóc, tách những lớp nghĩa,
hững ấn tượng, những hình ảnh mà tác giả
m một cách hữu thức hoặc vô thức. Có thế,
được những hạnh phúc của sự đọc.

hành trình thám mã. Là một quá trình tìm
a. Qua liên tưởng, qua chọn lựa, qua kết
như khi chúng ta viết. Chỉ có điều là khi
chọn lựa và kết hợp được thực hiện một
hức hơn. Và có thời gian hơn. Còn trong
ững điều này xảy ra rất nhanh. Người đọc
Những hình ảnh và ấn tượng tóm lấy ta và
ột cơn cuồng lũ của ý nghĩa, liên nghĩa và
ạt nghĩa sau là những cái không hề có mặt
o Pierre Macherey, cái đặc thù của văn học
ứa trong nó một cái vắng mặt. Văn bản là
hưng trong cái được nói ra đó có hàm chứa
được nói ra. Cái nói ra dựa vào cái không
ột sự chồng lên nhau giữa cái được nói ra
trong, cái lùi khuất khỏi tiền trường sân
ông được phát ngôn, tức sự im lặng.(11) Văn
gian, một hiện trường được tổ chức theo

Bùi Vĩnh Phúc © 97

các quy luật ngôn ngữ. Nó che đậy ở bên dưới nó những cái
vang mặt, những kho tàng được chôn giấu, ẩn kín. Bởi vậy,
doc hay phê bình văn học là đi tìm cái bị che giấu kia, đi tìm
cai vắng mặt, cái không hề hiện diện tại hiện trường.

4.

Như đã nói, ký hiệu ngôn ngữ, nói chung, mang tính
vũ đoán. Đọc, phê bình, tìm cách mở một văn bản, cũng hàm
chứa tính chất đó, nhưng ở một cấp độ khác. Những cái được
nói, được viết ra và những cái ờ đằng sau, ở bên trong, ở hậu
trường, giằng co, đòi được khám phá, bộc lộ. Chính điều đó
khiến cho tác phẩm trở nên mơ hồ, “nhập nhằng”, đa nghĩa.
Chúng tạo nên một độ căng, do sự giằng kéo của các ý nghĩa,
liên nghĩa, và hàm nghĩa, mà người đọc phải tìm cách giải
quyết. Tạo được một tác phẩm đầy tính “khiêu gợi” như thế,
trong chừng mực nào đó, với ý thức của mình, kẻ sáng tạo
làm nổi rõ dấu ấn sáng tạo của hắn. Tôi nói “trong chừng
mực nào đó, với ý thức của mình”, vì không phải lúc nào tác
giả cũng kiểm soát được những điều mình viết ra. Rất nhiều
khi, chữ, nghĩa, và các hình ảnh, ý tưởng trong một văn bản
vượt ra khỏi ý thức của người viết. Đọc được, hay, đúng hơn,
đọc thấy, những điều ẩn kín, những điều không nói ra trong
văn bản, những vết tích của vô thức, những liên tưởng bất
ngờ làm bật sáng văn bản, những ngã rẽ lối quành của nghĩa,
cũng khẳng định bản lĩnh của người đọc, người phê bình. Đó
là sự xâm nhập văn bản và bóc nó ra, coi nó như một dạng
scriptible (khả tác). Là không nhìn nó một cách hời hợt như
một dạng lisible (khả độc).(12) Một tác phẩm thật sự luôn ở
trạng thái tiềm thế. Nó luôn có thể được soi rọi, nhìn ngắm
và phân tích lại, để cung hiến cho người đọc những cách nhìn

98 © 44 NẨM VẦN H

mới, những ý nghĩ

Như thế, the
giữa những hình ả
hắn) giữa ý tưởng
liên tưởng kia. Là
trong văn bản, để r
các nghĩa tố khác
một thế giới đa ngh
nhiều màu sắc. Đó
cái nhìn trượt theo
là đồng sáng tạo ch

Khi đọc, có
nghĩa”, có lẽ cũng
là tác giả đã thiếu
hay điều kia (nhất
đáng lý phải được
một truyện ngắn, m
bình. Tất cả đều là
do nào đó đã khiế
giữ chúng lại để tr
Trường hợp Tolsto
Chiến Tranh và H
đương thời đã trác
thiếu hẳn dấu vết
nô, một đặc trưng n
sâu thêm qua việc
người ta thấy rằng
mô tả chi tiết các k
khổ đau của tầng
hiện thực cuộc số
khó, của những co

HỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

ĩa mới.

eo tôi, đọc là sự phân vân (của chủ thể đọc)
ảnh, những ấn tượng, là sự phân vân (của
này và ý tưởng nọ, giữa liên tưởng này và
à sự gặp gỡ của chủ thể đọc với các nghĩa
rồi phải quyết định trước sự giằng kéo của

nhau. Từ đó, người đọc có thể nhìn thấy
hĩa, nhiều chiều cạnh, một thế giới lấp lánh
ó không còn là một thế giới bị mòn đi trong
quán tính của cuộc sống thường ngày. Đọc
hính là ở trong tinh thần đó.

ó nghĩa là khi làm những “thực hành tạo
không nên quá hăng hái để vội quyết đoán

u sót vì đã không trình bày được điều này
t là khi chúng khá hiển nhiên), như chúng

trình bày như vậy. Dù là đọc một bài thơ,
một cuốn tiểu thuyết, hay một tác phẩm phê
à những văn bản văn học. Có thể có một lý
ến tác giả không viết chúng ra, hoặc là đã
rình bày trong một dịp khác thích hợp hơn.
oi có thể là một thí dụ đáng nghĩ. Sau khi
Hòa Bình được xuất bản, “báo chí cấp tiến
ch cứ Tolstoi là trong tác phẩm đồ sộ ấy
của hiện thực thảm khốc của che độ nông
nổi bật của thời đại...”. Tuy nhiên, tìm hiểu
c nghiên cứu các bản nháp của tác phẩm,
g, trong những dị bản đầu tiên, Tolstoi đã
khía cạnh tiêu cực, đen tối, phản ánh những

lớp nông nô. Đó là những mô tả hết sức
ống khổ đau của những lớp người nghèo
on người thấp cổ bé miệng, cho dù họ là

ông nô hay binh lính. Những mô
ay gắt giữa những tầng lớp trên, n
ĩhững tầng lớp dưới, như nông n

sao những mô tả này không thấy

cuối cùng được phát hành. Những
cho rằng, “cảm hứng chủ đạo của
( ) là niềm tin say đắm của tác giả
rằng thời đại mà ông miêu tả là thờ

đao đức nhân dân, là thời kỳ phục h
đưa ho tới chiến công cứu nước.”
đao nàv. cuối cùng, đã khiên Tolst
tả về những phương diện khổ đau

nhấn mạnh vào lòng dũng cảm, ý
dân trong chiến tranh vệ quốc.(13) Đ
trong việc trình bày đề tài của mình

Và hy sinh.

Một người đọc có ý thức và
nên chú ý đến những cái vắng mặt
văn bản văn học, để thử lý giải nhữ
khi lên tiếng phản đối hay đưa ra p
như Macherey đã nói: một tác ph
được hết tất cả những gì tác giả m
một điều gì đó thì có những điều k
hoặc không nên nói ra.”(U)

Trong kinh nghiệm cá nhân
cũng đã rất ngạc nhiên và khá bấ
Những Bài Ca Không Năm Tháng
của mình, được xuất bản mấy năm
Công Sơn đã không đưa vào nhữn
thời đã làm nên tên tuổi anh. Có lẽ
nào đó, có một ý nghĩa quyết định

Bùi Vĩnh Phúc © 99

tả này cho thấy mâu thuẫn
như địa chủ và sĩ quan, với
nô và binh lính đói rét. Dù
y xuất hiện trong văn bản
nhà nghiên cứu Tolstoi đã
Chiến Tranh và Hòa Bình
ả vào tư tưởng mà ông cho
ời đại nảy nở cao nhất của
hưng của toàn dân Nga, đã
” Chính cái cảm hứng chủ
toi phải hy sinh những mô
của nông nô, để tập trung
chí và sức mạnh của nhân
Để đạt hiệu ứng tối đa nhất
h, Tolstoi đã phải chọn lựa.

có sự cẩn trọng có lẽ cũng
t khá hiển nhiên trong một
ững sự vắng mặt đó, trước
phán quyết của mình. Đúng
hẩm không bao giờ thổ lộ
muốn nói, bởi vì “để nói ra
khác đã không được nói ra,

n, về phương diện này, tôi
ất ngờ khi thấy trong tập
g, tuyển hơn 120 ca khúc
m trước khi anh mất, Trịnh
ng ca khúc phản chiến một
đã có một suy nghĩ đắn đo
h, đã khiến anh không đưa

100 © 44 NÀM VÀN HỌ

chúng vào tuyển tập đ
Tôi bỡ ngỡ, nhưng th
Cho dù, hình như, co
về một hành vi của n
mình. Bất cứ phán đ
thể là một phán đoán
định đó, có tính cách
không làm mất đi gi
phẩm này đã tạo ra tr
Việt Nam cũng như t

Khi viết chuyê
tôi cũng đã đi vào p
những loạt ca khúc n
v.v... Nhưng sau đó,
phần ngắn trong chưo
Thuật, phần Ám Ảnh
những chủ tố về Thâ
phải chỉ về thân phận
một cuộc chiến), Tì
của TCS. Và tôi đã
và tránh đi sâu vào n
ấy được nhấn mạnh
chuyên luận. Tôi đã
những chủ tố quan t
của mình, bằng cách
lơi một vài nhịp khú
đoán trong quá trình

ỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

đánh dấu một đời sáng tác này của mình.
hấy không nhất thiết phải lý giải điêu đó.
on người dễ dàng đưa ra một phán đoán
người khác, hom là về hành vi của chính
đoán nào trong vấn đề này cũng đều có

mang tính đon giản và dễ dãi. Và quyết
hết sức cá nhân của người nhạc sĩ, cũng
iá trị và những dấu ấn lửa mà loạt tác
rên lưong tâm, trên tâm thức con người,
toàn thế giới.

ên luận về Trịnh Công Som(14)’ lúc đầu,
phân tích sâu khía cạnh phản chiến của
như Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam,

tôi đã bỏ đi tất cả, chỉ còn giữ lại một
ong hai, Dần Vào Những Ám Ảnh Nghệ
h Chiến Tranh. Tôi muôn tập trung vào
ân Phận Con Người (nói chung - không
n con người Việt Nam, đóng khung trong
ình Yêu và Nỗi Cô Đom trong sáng tác
làm điều ấy với một chủ ý văn chưomg
những phân tích lý thuyết. Những chủ tố
h, trình bày chỗ đậm, chỗ lợt trong suôt
giải quyết sự giằng co và độ căng giữa
trọng, xét về mặt đối tượng nghiên cứu
nhấn kỹ một vài nhịp khúc này và buông
úc khác. Âu đó cũng là một chọn lựa vũ
h xây dựng văn bản.

Bid Vĩnh Phúc © 101

5.

Viết, Đọc, Thẩm Thức văn bản văn học để biến nó
thành tác phẩm, ít nhất cho chính mình, có những quy luật
chung mà người viết, người đọc phải tuân thủ. Nhưng từ
những cái chung đó, mỗi người lại có những bước đi riêng
trong hành trình lập mã và thám mã của mình. Tât cả những
cái riêng đó đều có thê đem lại một độ dày thêm cho văn bản.
một ánh sáng mới cho tác phẩm mà mình xây dựng hoặc tiếp
cân. Địa lý của văn học nói riêng, và nghệ thuật nói chung, từ
đó, được mở rộng thêm. Và con đường đi vào tác phàm, như
thế, không phải là một con đường mòn, một con đường một
chiều. Nó có thể, qua cách viết, cách đọc, cách thẩm thức, lý
giải rất chủ quan, mang tính vũ đoán của mỗi cá nhân người
viết hay người đọc, biến thành một thế giới.

Viết và đọc đều là những nồ lực rất riêng tư, chủ quan,
vũ đoán và mang đầy tính hư cấu. Phê bình, một nhịp nhảy,
một vũ điệu, 80 với bước đi của cái đọc thông thường, cũng
vậy. Nó mang đầy nét hư cấu, chủ quan. Nó cho thấy bản lĩnh
hay tài hoa của mỗi người.

Hãy biến những con đường mòn thành một thế giới.
Hãy cứ, bằng những nồ lực rất riêng tư và chủ quan của
mình, nới giãn cái biên độ của thế giới ấy ra. Đe nó làm
thành vũ trụ.

Kẻ viết hay người đọc nào lại không thiết tha muốn
hướng về cái vũ trụ ấy.

Tustin Ranch, Calif.
12. VIII. 2009 (Xem lại & nhuận sắc: tháng 9, 2015)

102 © 44 NẨMVẨNHỌC

Ghi chú:

(1) Xem Julia Kristéva, Re

1969
(2) Xem Serge Doubrowsk

Mercure de France, 1966
(3) Đây chì là một so sánh
về những lý thuyết khá ph
khoa học nghiên cứu về
nhìn thế giới, đúng hơn cà
trụ toàn ảnh, do chính tâm
(4) “World”, ở đây, có thể
qian” cho dù “thế gian” h
Sự chọn lựa có lẽ là do li
tôi nhớ đến những câu n
nằm trong khoảng có thể

giang thượng chi thanh
mát ở trên sông cùng VỚ
Phú). “Gian”, so với “giớ
hạn rõ rẹt, cụ thể. Nó lại
trên. Đó là một chọn lựa

(5) Facts, sự kiện (có n
biểu đung về sự vật (thi
này mau đo” thì đó là (h
ta biết, theo Wittgenstei
tạp hợp cua những sự
hơn là những sự vật tá
chúng. Chính ngôn ngữ
giới, về mọi thứ bao qu

ta đối với chúng.
(6) Roman Jakobson
trưng về Am (Sound S
cái-biểu-đạt (CSV) và
có tính vũ đoán. Luận

llll

C VIỆT NAM HẢI NGOẠI

echerches pour une sémanalyse, Paris: Seuil,

ky, Pourquoi la nouvelle critique?, Paris:

h hết sức đơn giản, vắn gọn cùa tác giả bài này
hức tạp được một số nhà vật lý lượngI tử và nhà
thần kinh đưa ra. Thật sự qua nghiên cứu họ
à vũ trụ này, như một hình ảnh hologram, một vũ
m và ý của con người phóng chiếu ra.
ể dịch là thế giới, hay thế gian. Tôi thích từ “thế
hay “thế giới” thì đều chỉ thẳng vào cái cõi thế này
iên tưởng. Khi chọn “gian” có lẽ vô thức đã nhac
như “Thi thị khả giải bất khả giải chi gian’’ (Thơ
ể giải thích và không thể giải thích được), và “Duy
phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt” (Chi có gió
ỚI trăng sáng ở sườn núi - Tô Thức Tiềr' XichE^ch
ới”, gợi ra ấn tượng về một không gian có tính giới
i mang tính “thơ mộng” vì một, hai liên tườngnhư
a mang tính vũ đoán trong vấn đề đọc, hay dịch.
những chỗ được hiểu như “dữ kiện”), là những phát
ings). “Ghế” là một sự vật; còn mệnh đề “Cái ghế
hay có thể là) một sự kiện. “Thế gian’’ như chúng
in, chẳng qua chỉ là hoàn cảnh, chỉ giản dị là một
kiện được biết - đó chính là “what is the case"- .
ách biệt khỏi những gì mà chúng ta có thế nói vê
ữ đã xây dựng nên cảm thức của chúng ta vê hê
uanh chủng ta, cũng như về kinh nghiệm của chúng

và những người trong nhóm Chù nghĩa Tượng
Symbolism), ngược lại, đã cho rằng quan hệ giữa

cái-được-biểu-đạt (CĐBĐ) là thiết yếu không he
điểm của nhóm này, đặc biệt của R. Jakobson, có

Bùi Vĩnh Phúc © 103

những nét độc đáo. Một khía cạnh của chủ nghĩa tượng trưng về âm,
đã khiến Jakobson quan tâm đặc biệt, liên hệ đến các nguyên âm mang
màu sắc (“coloured vowels”). Hiện tượng này chưa được tất cà các nhà
ngôn ngữ công nhận, và vẫn còn đang được tiếp tục tranh luận, nghiên
cứu (inconclusive and under investigation), cho dù Jakobson đã thừ áp
dụng nó vào việc bình thơ Mallarmé và đưa ra được một số phát hiện
độc đáo.<6 bis) Việc ông và Claude Lévi-Strauss cùng đọc chung bài thơ
Les Chats (Mèo) của Baudelaire cũng vậy. (Dù sao, có thể xem thêm
luận văn Describing Poetic Structures: Two approaches to Baudelaire’s
“Les Chats” của Michael Riffaterre, nhà phê binh nổi tiếng Mỹ, giáo sư
đại học Columbia, tác giả của Semiotics of Poetry (Ký hiệu học về Thơ),
phản bác Jakobson và Lévi-Strauss). Tuy nhiên, trong việc đọc thơ, nếu
biết sử dụng một cách hợp lý những hệ luận của cả hai quan điểm này, về
sự liên hệ giữa CBĐ và CĐBĐ, người ta dễ bẳt được ý nghĩa và những
nhịp đập quan trọng của trái tim thơ. Trong vai trò một nhà ngôn ngữ và
một nhà thi pháp, Jakobson đã có nhiều đóng góp đáng kể; nhưng có lẽ
một trong những đóng góp nổi bật của ông là, từ sự mở rộng về quan hệ
liên tường và quan hệ ngữ đoạn của Saussure, phát hiện về hai trục lựa
chọn và kết hợp trong thao tác hoạt động của ngôn ngữ, đặc biệt trong
việc sáng tạo và đọc thơ.

(6 bis) Xem Arby Ted Siraki, Problems of a Linguistic Problem: On Roman
Jakobson’s Coloured Vowels, Berlin: Springer Netherland (Neophilologus,
tập 93, số 1, Jan. 2009)

(7) Thường, đối với thơ, người ta áp dụng trục chọn lựa (gắn liền với ẩn
dụ) nhiều; với văn, trục kết hợp (gắn liền với hoán dụ). Nhưng, cả trong
văn lẫn trong thơ, khả năng lồng ghép nhuần nhuyễn hai trục và hai thủ
pháp này vào nhau để đưa đến những kết quả thẩm mỹ thích đáng là một
nghệ thuật. Nó là một dấu chỉ rõ nét của sự sáng tạo.

(8) ở đây, chúng ta chỉ tạm nói gọn về ván đề đọc và phê bình như một
quá trình tạo nghĩa, trong đó tính chất vũ đoán của ký hiệu đưa đến những
liên nghĩa, hàm nghĩa, đã làm đổ xô lên văn bản một trường nghĩa, có thể
nói là vô tận, với những liên văn bản mà người đọc, người phê bình có
thể tim ra trên bản gốc. Chúng ta không đi vào những khía cạnh đặc thù
của những lý thuyết về đọc văn bản, như thuyết Hồi ứng cùa người đọc
(Reader Response), hay thuyết Giải cấu trúc/ Huỷ tạo (Deconstruction)

104 © 44 NĂM VĂN HỌC

chẳng hạn. Những vấn đề

(9) Xem Bernard Raffalli, L
en Fleurs”, Paris: Laffont,
(10) Xem Jean Pierre Rich

(11) Xem Pierre Macherey
Paris: Maspéro, 1966
(12) Đây là những từ do R
lisible, khả độc, là loại vă
người đọc trong việc tạo n
đọc thành một con người t
người viết. Văn học theo
đòi hỏi người đọc phải gó
phải động não để làm việ
nối ra trong văn bản. Đọc,

(13) Xem Trần Đình Sử, V
2000.
(14) Bùi Vinh Phúc, Trịnh
Thuật, California: Văn Mớ
cố bo sung: Nhà xuất bản
in lại của nhà xuất bản Tr

C VIỆT NAM HAI NGOẠI

đó cần được trình bày trong những bài khác.
Le Manuscrit de “À I’Ombre des Jeunes Filles
1998.
hard, Poésie et Profondeur, Paris: Seuil, 1955.
y, Pour une théorie de production littéraire,

Roland Barthes sáng tạo ra. Vàn học theo dạng
ăn học dễ dãi, không đòi hỏi sự đóng góp của
nghĩa cho văn bản. Nó là loại văn học biến người
thụ động và lười lĩnh. Nó tách người đọc ra khỏi

dạng scriptible, khả tác, trái lại, là Ịoại văn học
óp sức tạo nghĩa cho văn bản. Nó bắt người đọc
ệc và tạo thói quen cho hắn tìm kiếm cái không
, với loại văn bản này, là một quá trình tạo nghĩa.
Văn Học và Thời Gian, Hà Nội: Nxb Vân Học,

h Công Sơn/ Ngôn Ngữ và Những Ám Ảnh Nghệ
ới, 2005. Tái bản lần thứ nhất tại Việt Nam, bản
n Văn Hóa Sài Gòn, 2008. Sau đó là những lần
rẻ.

Bùi Vĩnh Phúc

Cái Trọng Ty © 105

CÁI TRỌNG TY

Quê:Thừa Thiên Huế. Cựu Sĩ quan QLVNCH, 10 năm tù

cs sau 1975.

Định cư tại Mỹ từ tháng 8 năm 1991. Hiện làm công chức
City of Houston từ 1993.
Tác phẩm đâ xuất bản:
- Có một mùa trăng xa như biến (thơ, 4-2015; tái bản
6-2015. 1-2017)
- Vàng Khanh (thơ; 6-2017)

106 © 44 NẤM VẨN H

Hoa từ bi độ

(Gửi Tô Thẩm Huy)
em với dòng sông
trắng quanh đời k
mong manh sợi n
nối hai bờ bơ vơ
hai bờ nay cách t
xôn xao rừng tiến
chuông chiều van
tuệ nhãn thấu tâm
đau đớn lửa phần
oải hương vườn
bức tranh đời vâ

ai gọi mãi chuyế

chiều sương dày
hương sen đầu h
thơm suốt mùa h
hương ơi cội ho

HỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

ộ lượng

)
g ngân
khô nạn
nấng tàn

trở
ng động
ng mật ngữ
m như
n thư
sắc tứ
ân cấu
ến đò
y thành cô
hồ tịnh
hạ qua
oa tình

em đi rồi mấy thu
đóa hoa vườn tĩnh tọa
nhịp đời sóng từ bi
cõi phù trường thấu thị

cám ơn đời có em
nhóm lên tình hoang tưởng
yêu một trời vô ngại
cát phàng nắng dừa hoa

yêu từ trăng bóng nhạn
bay vút trời đâu suất
hoa từ bi độ lượng
hương tiếp mộng miên trường.

Cái Trọng Tỵ © 107

108 ©44 NẰM VẴN HỌC VIỆT NAM HAI NGOẠI

Hoa cải vàng

em đi là tháng mười
vườn xưa mùa hoa dại
anh về đây tìm lại
gió thoảng mùi hương cau
em hiền như bông lau
một thời trong trí tưởng
nơi bạt ngàn cao nguyên
núi rừng xanh ngút hướng
sao em không là phượng
thổi mùa hè bốn phương
thổi mùa xuân vô tận
chiều mưa bụi lê thê
anh có về như thế
nắng vàng giỏ vàng lay
chút bụi nhòe mắt cay

rồi tháng mười xa mãi

bốn mùa hoa cúc dại
nở vàng lối đường xưa
thuở trộm nhìn khung cửa
và cuộc tình chia xa

sao em không là hoa
luống cải vàng vàng tươi
chuyện tinh buồn hóa bướm
bay la đà chiều mưa

anh đi tìm hương xưa
ôi chiều vàng xa xót
thôi gió trời bao la
em xa và anh xa.

Cải Trọng Ty © 109

110 © 44 NẰM VẨN H

Phương thu b

đường xưa phương
đồ quyên vọng tiến
xa lắm dưới hương
trường giang lạc hư

đêm xanh màu hư
từ tiếng gọi tiên th
dao tình ư sắc lẻm
cắt ngọt tình chia đ

nghiệp duyên chuy
trăng khuyên hoàn
xanh lạnh bãi thùy
thiên đường hang

bỗng dưng rừng h
tái sinh hạ kỳ hươ
kiếm cùn vạch mô
chiến địa chết xuâ

em sóng tình hồ t
tan theo bọt muôn
chờ nhau từ vô lư
chợt thoáng ngộ


Click to View FlipBook Version