hơn 7.000 Dân Quân Cán Chính bị Cộng quân sát hại. Trong số đó có ba SVSQ
Khóa 23 là: Võ Văn Dung, Đoàn Đại Đề và Phan Tốn bị thảm sát. Chỉ có SVSQ Hồ
Văn Quỳnh và Nguyễn Đăng Đức đã thoát chết trong gang tấc vào sáng mùng một Tết
tại nhà. Cộng quân đã “gây nợ máu” với Khóa 23 kể từ mùa Xuân năm 1968.
Tháng 6/1968 Thiếu Tướng Lâm Quang Thi thay thế Đại Tá Đỗ Ngọc Nhận làm
Chỉ Huy Trưởng TVBQGVN và đã đề nghị K23 được thụ huấn nhảy dù vào mùa
Quân Sự năm thứ III.
Mùa Văn Hóa Năm Thứ II
Tiếp tục học theo chương trình văn hóa 4 năm. (Chi tiết như năm I)
Dù ban đêm phải ứng trực làm lính gác giặc, nhưng chương trình văn hóa năm
thứ II không nhẹ nhàng, Khóa 23 đã bở hơi tai với các môn học như đã nói ở trên. Một
số các bạn cùng khóa đã phải rời trường sau năm thứ I, vì thiếu điểm văn hóa, khiến
những người còn lại phải cố gắng “Tự Thắng”, chăm chỉ học hành hơn.
Ban Văn Nghệ K23 trình diễn với các ca sĩ Đà Lạt
tại Hội Quán của TVBQGVN
Năm Thứ III
Mùa Quân Sự Năm Thứ III
Học chương trình quân sự chiến thuật và chỉ huy cấp đại đội bộ binh, chiến
thuật trực thăng vận, nhị thức bộ binh-thiết giáp, các loại vũ khí nặng như súng cối, đại
bác không giật và điều chỉnh tác xạ pháo binh.
Tiểu Đoàn I SVSQ tham dự chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại Phước Tuy,
cùng thụ huấn Khóa 162 Nhảy Dù tại Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa
Thám, dưới sự hướng dẫn của Đại Úy Hoàng Lê Cường. Điều đáng ghi nhớ là, quý vị
490
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
huấn luyện viên của Sư Đoàn Nhảy Dù đều ngạc nhiên và thán phục, bởi thể chất tuyệt
hảo, và nếp kỷ luật vô song của SVSQ/TVBQGVN. Trước khi đi thụ huấn nhảy dù,
Khóa 23 phải qua một cuộc khảo hạch như chạy tốc lực 100 mét, 500 mét, leo dây, gập
bụng và chạy trường lực 5 cây số với tác chiến số 6. Trong khoá học ba tuần, mỗi buổi
sáng huấn luyện viên đều dẫn TĐI/SVSQ Khoá 23 chạy sáng 5 km, quanh phi trường
quân sự Tân Sơn Nhứt, và hết lời ngợi khen nhịp chạy đều và quân số 100% về mức
đến, không một ai bỏ cuộc một lần nào.
Sau thời gian huấn luyện và nhảy 4 “sauts” tại Ấp Đồn, bãi nhảy chính của
TTHL SĐND, TĐI SVSQ Khoá 23 được đưa về Đà Lạt để nhảy “saut” cuối cùng trước
khi nhận lãnh bằng tốt nghiệp Nhảy Dù tại Vũ Đình Trường Lê Lợi dưới sự chủ tọa của
Thiếu Tướng Lâm Quang Thi (cùng nhảy dù với SVSQ) và các huấn luyện viên của Sư
Đoàn Nhảy Dù.
Sau “saut” nhảy biểu diễn nầy, các SVSQ Trường VBQGVN càng được dân
chúng ngưỡng mộ hơn. Nào ai có biết là chúng tôi đã vô cùng lên ruột, vì chiếc phi cơ
C119 chở chúng tôi ra bãi nhảy, trong khi vào vị trí để thả dù thì bị chết một động cơ,
nên chỉ còn đủ thời gian để thả Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng và bốn bạn chúng
tôi xuống, còn tất cả phải tháo dây cáp ngồi lại vị trí cũ, để phi cơ đáp khẩn cấp. Sau
đó chúng tôi lại lên chiếc phi cơ C47 khác để tiếp tục “saut” nhảy cuối cùng! Hú hồn.
BẢN
THẢO
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
491
Trong thời gian này Khóa 23 thuộc Tiểu đoàn II SVSQ đón nhận và huấn luyện
TKS Khóa 25. Lễ Gắn Alpha cho TKS Khóa 25 xong là Khoá 23 bước vào mùa Văn Hóa
năm thứ III.
Mùa Văn Hóa Năm Thứ III
Tiếp tục học các bộ môn như các năm I và II, với trình độ cao hơn. Điều đáng nói
các SVSQ thụ huấn 4 năm rất xuất sắc trong các bộ môn về Toán và Khoa Học. Chúng
tôi còn nhớ có lần, một phái đoàn sinh viên của Trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn lên
thăm Trường, đúng vào lúc các SVSQ đang làm bài thi bán niên.
Phái đoàn sinh viên của Đại Học Khoa Học Sài Gòn nhìn đề thi của SVSQ năm
thứ III và hỏi vị giáo sư phụ trách:
- Với đề thi này các SVSQ phải mất bao lâu mới hoàn tất?
Vị giáo sư trả lời:
- Nếu là SVSQ giỏi họ chỉ cần 1 giờ 30 phút là xong, SVSQ trung bình thì phải
cần cỡ 2 giờ và nếu SVSQ kém họ phải hoàn tất vào khoảng 2 giờ 30 phút. Các sinh
viên trong phái đoàn Trường Đại Học Khoa Học đều rất ngạc nhiên, bởi cũng đề thi
như vậy, họ có thể phải mất ít nhất là 4 giờ mới làm xong.
Họ ngạc nhiên là phải, vị giáo sư giải thích:
- Các bạn có biết tại sao SVSQ Võ Bị làm nhanh như vậy không?
Sau đó, vị giáo sư giới thiệu với phái đoàn “cây thước tính.”
Mỗi SVSQ đều có riêng một cây thước tính (slide rule - thời đó chưa có máy tính
calculator). Ở các trường đại học dân sự của Việt Nam Cộng Hòa ngày ấy, rất hiếm ai có
được cây thước tính như sinh viên Võ Bị.
Thước tính (slide rule)
Năm Thứ IV
Mùa Quân Sự Năm Thứ IV
Tháng 12/1969 sau khi Khóa 22B mãn khóa, Tiểu Đoàn 1 SVSQ Khóa 23 đón
tiếp và huấn luyện TKS Khóa 26.
Khóa 23 nhận lãnh trách nhiệm đ i ề u h à n h Hệ Thống Tự Chỉ Huy Trung
Đoàn SVSQ gồm bốn Khóa 23, 24, 25 và 26.
Trong mùa Quân Sự năm thứ IV, Tiểu Đoàn 2 SVSQ đi thực tập chỉ huy tại
Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Chi Lăng tại Thất Sơn - Châu Đốc, và thụ huấn
Khóa 184B Nhảy Dù tại Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa Thám.
492
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
Mùa Văn Hóa Năm Thứ IV
Tiếp tục học phần kết thúc
của các môn học như chương
trình năm I, II và III. Đặc biệt các
SVSQ nào đạt được thành tích
cao đều là ứng viên của các khóa
đào tạo cho chương trình hậu
chiến. Tùy theo khả năng, s ẽ
được tuyển chọn du học Hoa Kỳ K23 thực tập tại Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng
đ ể được đào tạo làm giáo sư
V ă n H ó a V ụ c ủ a T r ư ờ n g , hoặc về các ngành chuyên môn như Công Binh,
Truyền Tin …
Đêm 31/3 rạng 01/4 /1970 lợi dụng sương mù dày đặc, Việt Cộng đã đột kích
vào Trường ở hai vị trí trạm gác, cổng Nam Quan và Bộ Chỉ Huy. Các SVSQ ứng
chiến đã chống trả thật anh dũng. Kết quả: SVSQ Bùi Lễ K26, bắn chết một tên VC,
v ề phía ta, có SVSQ Huỳnh Kim Quang Khóa 25 và một sĩ quan Văn Hóa Vụ hy
sinh. Sau đó có hai SVSQ được ân thưởng mỗi người hai huy chương, một của Tư lệnh
Quân Đoàn II và một của Hoa Kỳ.
Khoảng một tháng sau, đặc công Cộng Sản lại toan xâm nhập vào Trường Võ Bị
lần thứ hai. Lần này chúng đã bị phục kích bởi toán phòng thủ "tiền đồn" khi còn ở
cách xa Trường. Kết quả là khoảng một tiểu đội cộng quân đã để lại xác chết do hỏa
lực của toán phục kích và đội phòng thủ từ Đồi Bắc.
Đêm 17/12/1970
Tất cả Trung Đoàn SVSQ gồm các Khóa 23, 24, 25 và 26 đều có mặt tại Vũ Đình
Trường trong quân phục đại lễ mùa Đông. Lễ Truy Điệu cử hành với sự hiện diện của
Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH cùng Thiếu
Tướng Chỉ Huy Trưởng, toàn thể sĩ quan cơ hữu, và sự tham dự đông đảo của thân nhân
các SVSQ tốt nghiệp ngày hôm sau. Đây là một buổi lễ truyền thống của TVBQGVN.
Quang cảnh Vũ Đình Trường Lê Lợi chìm trong bóng tối, chỉ còn ánh lửa bập
bùng tại đài Tử Sĩ cùng những bó đuốc cách khoảng đều nhau lập loè vòng quanh sân
cỏ... Gió lạnh của mùa đông cao nguyên từ các đồi thông quanh trường rít ù ù qua
các thông thủy, tạo nên âm thanh rờn rợn giữa một khung cảnh huyền ảo linh thiêng.
Buổi lễ chiêu hồn tử sĩ uy nghi trong niềm ai oán, diễn ra cùng tiếng sáo tiếng chiêng
trống u trầm, khiến mọi người tham dự đều tê tái trong nỗi xúc động tột cùng.
Bài văn Truy Điệu Truyền Thống do SVSQ Dương Hoàng Kỳ diễn đọc, và
giọng ngâm của SVSQ Hoàng Văn Diên, để tưởng niệm chư v ị anh linh Chiến Sĩ
Trận Vong, đặc biệt để tưởng niệm các sĩ quan QLVNCH xuất thân từ Trường Mẹ, đã
hy sinh vì Tổ Quốc. Trong lễ Truy Điệu Truyền Thống, SVSQ bốn khóa hiện diện, cầu
BẢN
THẢO
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
493
xin anh linh các bực đàn anh hãy về chứng giám, và chỉ lối đưa đường cho đoàn trai trẻ
ngày mai lên đường nối gót tiền nhân để làm cho Tổ Quốc, Non Sông thêm tỏ rạng.
Bài văn Truy Điệu và tám tuần sơ khởi Tân Khóa Sinh, là những ấn tượng sâu
sắc, không thể nào quên của tất cả các SVSQ xuất thân từ Trường Mẹ và là những mối
dây nối kết Tình Võ Bị mãi tới ngày nay, với hy vọng sẽ còn nối kết cả các hậu duệ sau
này của toàn thể chúng ta.
K23 đi diễn hành Quốc Khánh năm 1967 tại Sài Gòn
Ngày 18/12/1970
Trong buổi lễ mãn khoá dưới sự chủ tọa của Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn
Thiệu, cùng các cấp lãnh đạo của QLVNCH, 241 SVSQ K23 đã được Thiếu Tướng
CHT/TVBQGVN long trọng trình diện lên Tổng Thống và quan khách.
“Kính thưa Tổng Thống, tôi xin trân trọng trình diện lên Tổng Thống, 241
SVSQ hiện dịch Khóa 23. Các SVSQ này đã thụ huấn 4 năm tại Trường, và hôm nay
đã sẵn sàng lên đường để phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc. Kính thưa Tổng Thống,
xin Tổng Thống đặt tên cho SVSQ Hiện Dịch Khóa 23.”
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
“Tôi quyết định, đặt tên cho Khóa 23 SVSQ Hiện Dịch là Khóa Nguyễn Đức
Phống.” (Nguyễn Đức Phống là Thủ Khoa Khóa 22B mới hy sinh trước đó.)
Nghi thức gắn cấp bực thiếu úy cho Khóa 23 tiếp diễn sau đó. Thủ Khoa Trần
Vĩnh Thuấn hô:
“Quỳ xuống Sinh Viên Sĩ Quan!”
Sau khi được Tổng Thống và CHT gắn cấp bực xong. Thủ Khoa hô tiếp:
“Đứng dậy Tân Sĩ Quan!”
494
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
Thủ khoa bắn bốn mũi tên đi bốn phương trời, biểu hiện chí nam nhi “tang bồng
hồ thỉ” của những người trai mang lý tưởng Quốc Gia, “không cầu an lạc dễ dàng,
mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm.”
Từ đây 241 sĩ quan thực thụ của QLVNCH, đã lưu luyến rời khỏi mái
Trường Mẹ thân yêu, sau những năm hun đúc cho “kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp
tàng hung trung”, hăng hái cất bước lên đường phục vụ Tổ Quốc và Dân Tộc.
Các tân sĩ quan tốt nghiệp Khóa 23 đã được bổ nhiệm đi phục vụ các đơn vị:
- Không quân - Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến
- Hải quân - Các Liên đoàn Biệt Động Quân
- 10 Sư Đoàn Bộ Binh (1-2-5-7-9-18- - Pháo Binh
21-22-23-25) - Thiết Giáp
- Trung Đoàn 51 Bộ Binh Biệt Lập - Nha Kỹ Thuật
- Sư đoàn Nhảy Dù
Sau khi tốt nghiệp có 17 cựu SVSQ Khóa 23 được g ử i đi du học Hoa Kỳ
trong chương trình đào tạo Giáo Sư Văn Hóa Vụ cho TVBQGVN, với văn bằng MS
hoặc MA. Đặc biệt có 3 cựu SVSQ tốt nghiệp Ph.D. là Trần Xuân Phước, Nguyễn
Văn Hiếu và Ngô Công Cẩm. Ngoài ra với Chương Trình Hậu Chiến, một số cựu SVSQ
Khóa 23 đã được Bộ TTM/QLVNCH điều động từ các đơn vị về học 2 khóa Cao Đẳng
T
ruyền Tin và Cao Đẳng Công Binh tại Sài Gòn.
Danh sách Khóa 23 du học Hoa Kỳ sau ngày mãn khóa:
1. Đặng Văn Anh 7. Đoàn Công Vân 13. Trương Minh Danh
2. Ngô Văn Ban
3. Tô Văn Hưng 8. Trần Vĩnh Thuấn 14. Bùi Văn Hồng
4. Bùi Nguyên Hy 9. Trần Xuân Phước 15. Nguyễn Công Tài
5. Trương Tấn Quới 10. Nguyễn Văn Hiếu 16. Ngô Công Cẩm
6. Dương Công Thơ 11. Nguyễn Xuân Nghị 17.
Lâm Dũng
12. Nguyễn Kinh Luân
Khóa 23 còn có nhiều sĩ quan, sau một thời gian ngắn phục vụ tại các đơn vị tác
chiến, đã được Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đưa về Trường làm Sĩ Quan Cán Bộ,
Huấn Luyện Viên, và giáo sư Văn Hóa Vụ. Điều nầy đã chứng tỏ được khả năng “đa
hiệu” của những sĩ quan tốt nghiệp từ TVBQGVN cũng như giá trị thực sự của văn bằng
tốt nghiệp 4 năm.
Kể từ ngày tốt nghiệp, tính tới ngày 30/4/1975, Khóa 23 đã phục vụ Tổ Quốc và
Dân Tộc được 4 năm, 4 tháng 12 ngày. Vận nước nghiệt ngã, tháng Tư Đen 1975,
Khóa 23 cũng như tất cả quân nhân của QLVNCH, phải tuân lệnh buông rời vũ khí, kẻ ra
BẢN
THẢO
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
495
đ
i làm kiếp lưu vong, người ở lại chịu cảnh tù đày.
Những Điều Đáng Nhớ về Khóa 23
• Khóa đầu tiên được cấp Bằng Nhảy Dù trong thời gian thụ huấn.
• Khóa được Bộ Quốc Phòng và Bộ Giáo Dục, chấp nhận Văn Bằng Tốt
Nghiệp tương đương với Văn Bằng Kỹ Sư Tốt Nghiệp Trường Cao Đẳng Kỹ
Thuật Dân Chính.
• Khóa đầu tiên với toàn thể khóa hoàn tất chương trình 4 năm tại Trường.
• Khóa được huấn luyện 2 khóa đàn em là Khóa 25 và 26.
• Khóa được tham dự chương trình Bình Định Nông Thôn và Thực Tập Chỉ Huy
Đơn Vị trước khi ra trường.
• Khóa vừa tốt nghiệp là tham dự chiến dịch cấp quân đoàn trong cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ Quốc, đó là cuộc hành quân Hạ Lào Lam Sơn 719, sau đó là trận Đỗ
Xá ở Vùng I Chiến Thuật. Chưa đầy 3 năm phục vụ tại đơn vị, đã có những cựu
SVSQ K23 được bổ nhiệm làm tiểu đoàn trưởng như Ngô Quang Minh, Nguyễn
Vũ Địch và Nguyễn Minh Châu.
Cấp Bậc Khác Thường của Khóa 23
• Thiếu Úy "muôn năm" Phạm Văn Chắc, bị bắt làm tù binh ngay trong những
ngày đầu tiên của Chiến Dịch Hạ Lào, đến sau 1975 mới được thả.
• Lưu Công Vũ, Trần Văn Chính thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Nguyễn Tiến Việt
Sư Đoàn Nhảy Dù, Đoàn Trung Sơn Biệt Động Quân, và một số cựu SVSQ K23
khác, được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận An Lộc, khoảng 1 năm rưỡi kể từ
ngày ra trường. Riêng Lưu Công Vũ được chọn làm chiến sĩ xuất sắc trong phái
đoàn du ngoạn Đài Loan của QLVNCH.
Khóa 23 tại Việt Nam sau 1975
Với những khó nhọc như mọi quân nhân khác còn kẹt lại quê nhà, các cựu
SVSQ Khóa 23 vẫn có những buổi hội ngộ đầy ắ p chân tình. Khóa 23 có những
chương trình họp mặt hằng năm tại Đà Lạt, để tưởng nhớ một thời đã được đào
luyện tại Trường Mẹ, dưới sự trợ giúp đượm tình Võ Bị của Khóa 23 tại hải ngoại.
Mỗi năm vào tháng 12, các “Cùi 23” ở Việt Nam lại kéo nhau về Đà Lạt một lần,
để ngậm ngùi hàn huyên tâm sự. Ngoài ra các bạn cũng vẫn đều đặn chia sẻ
cùng nhau trong các vấn đề “quan - hôn - tang - tế”.
Khóa 23 tại Hải Ngoại
Dù vất vả với cuộc sống tại xứ người, nhưng dù sao cũng còn nhiều diễm phúc
hơn các Cùi 23 còn ở tại quê nhà, các cựu SVSQ Khóa 23 ở hải ngoại luôn luôn liên lạc
với nhau thật chặt chẽ từ nhiều năm nay, nhất là từ ngày thành lập Diễn Đàn Khoá 23
trong Yahoogroups. Ở diễn đàn này, các bạn Khóa 23 trao đổi với nhau những buồn vui
trong cuộc sống, tin tức gia đình từng người. Những hình ảnh, các buổi thăm viếng họp
496
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
mặt gặp gỡ các bạn tại các địa phương, được đưa lên diễn đàn để chia sẻ với các bạn
cùng khoá ở khắp nơi.
Có một số bạn của Khóa 23 đã dấn thân, làm những điều lợi ích cho Cộng
Đồng Người Việt Tỵ Nạn ở địa phương đang trú ngụ. Nổi bật nhứt là các bạn Trần
Ngọc Thăng (Nam Cali), Nguyễn Ngọc Tiên (Bắc Cali), Trương Minh Danh (Texas),
Nguyễn Hữu Hải (Louisana), Nguyễn Lợi (New York), Nguyễn Xuân Cung
(Massachusetts).
Đặc biệt có Nguyễn Kiêm Hoa K23, hiện đang giữ chức Chủ Tịch Cộng Đồng St.
Clound-Minesota trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Đài Việt Mỹ, mà ngày khai mạc có
Trung Tướng Lâm Quang Thi, Cựu Chỉ Huy Trưởng tham dự.
Ngoài ra còn có Hồ Văn Quỳnh đã hơn 30 năm gắn bó với chương trình dạy
tiếng Việt, phụ trách cử hành Lễ Chào Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa và Phút Mặc
Niệm tại Orange County, California.
Nguyễn Tiến Việt, từng giữ nhiệm vụ quyền Giám Đốc Ban Việt Ngữ Đài Á
Châu Tự Do, cơ quan truyền thông của Hoa Kỳ, có sứ mạng cổ võ tự do dân chủ
nhân quyền tại Việt Nam từ năm 1996.
Trần Như Dy cựu Trưởng Ban Thương Phế Binh tiểu bang VIC, Úc Châu đại diện
báo chí Việt Ngữ (Branch Director bán tuần san Việt Luận tiểu bang VIC), đồng chủ
tịch (1 Úc + 1 Việt) Ủy Ban Trùng Tu và Bảo Vệ Tượng Đài Chiến Sĩ Úc Việt
DANDENONG.
Năm 2000, để đánh dấu 30 năm rời Trường Mẹ, Khóa 23 lần đầu tiên tổ chức
“Buổi Họp Mặt Khóa 23 Toàn Cầu” và phát hành “Đặc San Khóa 23”. Cũng trong dịp
nầy Khóa 23 đã làm công việc “Vinh Danh Các Nàng Dâu Võ Bị” để cám ơn các phu
nhân “23B” qua bao nhiêu thăng trầm, gian nguy, khổ nhọc của cuộc sống vẫn hỗ trợ
và giúp đỡ phu quân. Từ đó đến nay, theo nội quy, cứ 2 năm lại có một lần Đại Hội
Khóa 23, anh em Cùi 23 cùng các phu nhân lại họp mặt hàn huyên tâm sự, để mà
“mày-tao-mi-tớ” om sòm, giữa những nụ cười thương mến của các bà “23B”, gây lại
không khí trẻ trung vui nhộn như những ngày mới bước thấp, bước cao vào đời quân
ngũ dưới mái TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM.
Bài Tiểu Sử và Danh Sách này do CSVSQ Hồ Văn Quỳnh soạn thảo,
với sự đóng góp của các bạn K23.
BẢN
THẢO
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
497
Danh Sách Tân Khóa Sinh Khóa 23
Chú thích: (a) = VN, (b) = Hải ngoại, (Chữ nghiêng) = Tử sĩ + Qua đời
Bỏ trống = Đang sưu tầm Danh sách cập nhật ngày 10 tháng 10 năm 2015
001
Ngô Văn Ấn (a) 033
Mai Văn Chính (b) 065
Nguyễn Đăng Đức
002
Lê Văn Anh (b) 034
Trần Văn Chính (b) 066
Phạm Tấn Đức
003
Đặng Văn Anh (b) 035
Vương Chước (b) 067
Vũ Công Đức
004
Trương Kim Anh (b) 036
Lê Văn Chuối (b) 068
Trương Văn Đực
005
Nguyễn Văn Ánh (b) 037
Lưu Đình Công 069
Lê Trí Duệ (b)
006
Võ Văn Ba (b) 038
Nguyễn Văn Công 070
Phan Anh Dũng
007
Lê Văn Bá (b) 039
Lương Văn Của 071
Trần Viết Dũng
008
Nguyễn Kim Bách 040
Nguyễn Xuân Cung (b) 072
Võ Văn Dung (a)
009
Ngô Văn Ban (b) 041
Nguyễn Văn Cuối 073
Châu Văn Đứng (a)
010
Nguyễn Xuân Bảng 042
Lương Việt Cương (b) 074
Lâm Dũng (b)
011
Lê Khắc An Bang (b) 043
Huỳnh Văn Dân (b) 075
Lương Văn Đương (b)
012
Đinh Văn Bảo 044
Vũ Công Dân (b) 076
Phạm Đình Đương (b)
013
Nguyễn Hữu Bích (b) 045
Đặng Công Danh 077
Trần Như Dy (b)
014
Lê Lâm Biền (b) 046
Điêu Văn Danh (a) 078
Trần Văn Giác
015
Lương Trọng Bình 047
Nguyễn Thành Danh (a) 079
Trần Văn Giao
016
Nguyễn Văn Bính (b) 048
Trương Minh Danh (b) 080
Phan Văn Hà (b)
017
Nguyễn Ngọc Bồng 049
Huỳnh Thành Đạt (b) 081
Lê Văn Hai
018
Nguyễn Viết Bửu (b) 050
Lê Tất Đạt (b) 082
Võ Văn Hải (a)
019
Trần Ngọc Bửu (b) 051
Võ Hữu Đạt (b) 083
Lê Hồng Hải (b)
020
Nguyễn Ngọc Cầm (b) 052
Đoàn Đại Đề 084
Nguyễn Hữu Hải (b)
021
Ngô Công Cẩm (b) 053
Nguyễn Văn Đen (b) 085
Lê Văn Hải(b)
022
Phan Quốc Cảnh 054
Nguyễn Vũ Địch 086
Trương Văn Hạnh
023
Nguyễn Văn Cát (a) 055
Hoàng Văn Diên 087
Trương Đăng Hậu
024
Phạm Văn Chắc (b) 056
Nguyễn Văn Diễn 088
Nguyễn Trung Hậu (b)
025
Liêu Hữu Chấn 057
Trần Minh Điện (b) 089
Lê Văn Hên
026
Hồ Văn Chạnh 058
Hồ Văn Hoàng Diệp 090
Nguyễn Văn Hiền (b)
027
Nguyễn Hoàng Châu 059
Trương Văn Diệp 091
Phạm Ngọc Hiền (b)
028
Nguyễn Minh Châu (b) 060
Lê Ngọc Điệp (b) 092
Phạm Xuân Hiệp
029
Tôn Minh Chi (b) 061
Phạm Văn Diệu (a) 093
Trần Hữu Hiệp
030
Nguyễn Hữu Chí (b) 062
Trần Ngọc Đóa (b) 094
Lê Văn Hiếu
031
Bùi Ngọc Chiến 063
Nguyễn Thành Đông 095
Phạm Văn Hiệu
032
Vũ Đăng Chiến (a) 064
Bùi Văn Dục 096
Mai Văn Hiếu (b)
498
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
097
Trần Trung Hiếu (b) 136
Đặng Phước Lộc (a) 175
Phùng Phàn (a)
098
Nguyễn Văn Hiểu (b) 137
Nguyễn Lợi 176
Hồ Văn Phất
099
Nguyễn Văn Hòa 138
Nguyễn V. Nam Long 177
Nguyễn Châu Phố (a)
100
Huỳnh Văn Hoa (a) 139
Lý Văn Long 178
Hồ Ngọc Phố (b)
101
Nguyễn Kiêm Hoa (b) 140
Nguyễn Kinh Luân (a) 179
Lâm Hùng Phong
102
Đào Minh Hòa (b) 141
Ngô Bá Luật 180
Lý Văn Phúc
103
Trần Vi Hoàng (b) 142
Nguyễn Tấn Lực 181
Đỗ Tấn Phước
104
Lê Hoành (b) 143
Trương Ngọc Lượng 182
Võ Phước (b)
105
Hồ Hời (a) 144
Ngô Duy Lượng (b) 183
Trần Xuân Phước (b)
106
Dương Trường Hội(b) 145
Đỗ Quang Lưu 184
Phạm Văn Quảng
107
Bùi Văn Hồng (b) 146
Phạm Duy Lý (b) 185
Phan Xuân Quang (b)
108
Trần Đức Hợp 147
Nguyễn Văn Mậu (b) 186
Trần Tự Quí (b)
109
Trương Văn Huẩn 148
Trần Hữu Minh 187
Trương Tấn Quới (b)
110
Phạm Công Huân (a) 149
Ngô Quang Minh (b) 188
Nguyễn Quý (a)
111
Trần Viết Huấn (b) 150
Phạm Thánh Minh (b) 189
Tưởng Dân Quyền
112
Phạm Đình Huệ 151
Tăng Khải Minh (b) 190
Hồ Văn Quỳnh (b)
113
Đặng Văn Huệ (b) 152
Trần Quang Minh (b) 191
Hà Sa
114
Lương Cảnh Hùng 153
Tô Công Minh (b) 192
Phạm San
115
Bùi Văn Hưng 154
Trần Thế Mộng 193
Nguyễn Lương Sang
116
Nguyễn Thanh Hùng 155
Tống Văn Mừng (a) 194
Trương Hữu Sáu (b)
117
Nguyễn Đình Hùng (a) 156
Trần Văn Muôn 195
Nguyễn Văn Sen (b)
118
Nguyễn Tấn Hưng (a) 157
Tôn Thất Na (b) 196
Đoàn Trung Sơn (b)
119
Tô Văn Hưng (a) 158
Tô Phương Năng (a) 197
Trần Duyên Sơn (b)
120
Trần Văn Hùng (b) 159
Lê Trung Nga (b) 198
Trần Thế Sung
121
Nguyễn Văn Hưng (b) 160
Hoàng Văn Nghị 199
Võ Hữu Tài
122
Nguyễn Phước Hùng b 161
Nguyễn Xuân Nghị (b) 200
Huỳnh Tấn Tài (a)
123
Nguyễn Tăng Hường 162
Lê Quang Nghĩa 201
Tô Tài (b)
124
Huỳnh Hương (a) 163
Vũ Công Nghĩa (a) 202
Nguyễn Công Tài (b)
125
Lê Tinh Huy 164
Vũ Huy Nghĩa (b) 203
Huỳnh Văn Tâm
126
Bùi Nguyên Hy (b) 165
Vũ Xuân Nghiêm (b) 204
Trần Duy Tâm . (b)
127
Trịnh Hữu Kế 166
Nguyễn Nguyên 205
Trần Văn Tâm (b)
128
Nguyễn Văn Khanh (a) 167
Nguyễn Thành Nhân 206
Phan Văn Tăng (b)
129
Lê Văn Kỉnh 168
Nguyễn Văn Nhạn 207
Nguyễn Văn Tạo (b)
130
Dương Hoàng Kỳ 169
Trần Đình Nhạn 208
Huỳnh Văn Thai (b)
131
Trần Ngọc Kỵ 170
Đỗ Văn Nhĩ 209
Phạm Văn Thám
132
Vũ Đình Lâm (b) 171
Lê Ngọc Nhiều 210
Trần Ngọc Thăng (b)
133
Phạm Thành Lân 172
Đặng Hữu Nho (b) 211
Lê Văn Thanh
134
Trần Văn Loan (b) 173
Nguyễn Đình Nhơn (b) 212
Nguyễn Trung Thành
135
Bùi Văn Lộc (a) 174
Đặng Hồng Nhựt (a) 213
Võ Ngọc Thành (b)
BẢN
THẢO
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
499
214
Dương Phát Thạnh (b) 237
Lê Trí Thức (a) 260
Đặng Trinh Trường
215
Trần Phát Thạnh (b) 238
Nguyễn Bình Thượng 261
Đỗ Mạnh Trường (b)
216
Trần Trọng Thạnh (b) 239
Đào Mạnh Thường (b) 262
Nguyễn X. Trường (b)
217
Lê Thảo 240
Cao Hồng Thủy 263
Huỳnh Anh Tuấn
218
Nguyễn Văn Thể (b) 241
Phạm Đình Tiến 264
Hồ Đắc Tùng
219
Phạm Xuân Thể (b) 242
Nguyễn Ngọc Tiên (b) 265
Trần Đình Tùng
220
Đào Thi 243
Lê Văn Tỏ 266
Dương Tấn Tước (b)
221
Trương Trọng Thiện 244
Hoàng Thiên Toại (a) 267
Phạm Văn Tý
222
Trương Tấn Thiện (b) 245
Bùi Đức Toại (b) 268
Trần Văn Tỷ (b)
223
Trần Văn Thiệt (b) 246
Lê Khoa Toàn (b) 269
Đoàn Công Vân
224
Đỗ Đạt Thơ (a) 247
Cao Xuân Tôn 270
Lê Xuân Việt
225
Dương Công Thơ (b) 248
Phan Tốn 271
Dương Tuấn Việt (b)
226
Vũ Hữu Thoan 249
Nguyễn Văn Tông (b) 272
Nguyễn Tiến Việt (b)
227
Đặng Văn Thới (a) 250
Võ Trâm (b) 273
Nguyễn Trọng Việt (b)
228
Nguyễn M. Thông (b) 251
Võ Ngọc Trầm (b) 274
Vũ Đình Vịnh (b)
229
Đinh Xuân Thu 252
Phạm Ngọc Trấn (b) 275
Nguyễn Văn Vinh (b)
230
Trần Công Thu (a) 253
Đào Tráng (b) 276
Lưu Công Vũ (b)
231
Phạm Xuân Thư (b) 254
Nguyễn Văn Tranh (b) 277
Ngô Cát Vượng
232
Lý Thuận 255
Bùi Văn Tre (b) 278
Nguyễn Vỹ (b)
233
Trương Văn Thuận 256
Châu Văn Trí (b) 279
Nguyễn Văn Xiêm
234
Ngô Văn Thuấn (b) 257
Tiêu Khải Trí (b) 280
Trần Văn Xuân
235
Trần Vĩnh Thuấn (b) 258
Nguyễn Văn Trinh 281
Nguyễn Vạn Xuân
236
Lý Châu Thuần (b) 259
Trần Tâm Trung
282
.
.
. ............................
Chúng tôi chỉ sưu tập được 281 TKS Khoá 23 gia nhập TVBQGVN. Vì có 1 bạn phải rời Trường
ngay trong những ngày đầu tiên của "8 Tuần Sơ Khởi" nên không ai nhớ tên.
500
Khóa
23
-‐
Nguyễn
Đức
Phống
BẢN
THẢO
KHÓA 24 - ĐẠI TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ
TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM
Đại Tướng Đỗ Cao Trí
SƠ LƯỢC
Nhập Trường: 7-12-1967
Số Ứng Viên Nhập Trường: 312
Lễ Mãn Khóa: 17-12-1971
Chủ Tọa Lễ Mãn Khóa: Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm
Số Sĩ Quan Tốt Nghiệp: 245
Tên Khóa: Đại Tướng Đỗ Cao Trí
Thủ Khoa: Vũ Xuân Đức
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
501
DẪN NHẬP
Để đáp ứng nhu cầu về cán bộ nòng cốt cho quân đội trong trào lưu tiến triển của
thế giới, đòi hỏi một tầng lớp sĩ quan có trình độ đại học, có khả năng về mọi lãnh vực
không riêng về quân sự. Mặc dù VNCH phải đối diện với chiến trường ngày càng khốc
liệt, trong khi Cộng Sản Bắc Việt tiếp tục gia tăng quân số xua quân vào miền Nam, hầu
áp đặt chế độ Cộng Sản trên toàn đất nước. Chính phủ VNCH đã kêu gọi những thanh
niên ưu tú của đất nước tòng quân trong chương trình thụ huấn văn hóa và quân sự 4
năm. Hàng trăm thanh niên từ vạn nẻo đường đất nước đã đáp lời Sông Núi giã từ mái
trường thân yêu, xếp bút nghiên hăng hái lên đường tình nguyện gia nhập Khoá 24 Sĩ
Quan Hiện Dịch Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN)
.
ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP
• Ứng viên phải trong lớp tuổi từ 18 đến 22, là công dân miền Nam Việt Nam.
• Chiều cao tối thiểu 1m60, cân nặng 45kg trở lên.
• Độc thân và cam kết không kết hôn trong suốt thời gian thụ huấn.
• Không can án.
• Tối thiểu có văn bằng Tú Tài II Ban B (Toán) hoặc Ban A (Khoa Học Thực
Nghiệm). Ưu tiên Ban B.
• Chương trình thụ huấn là 4 năm, và tình nguyện phục vụ trên toàn lãnh thổ Việt
Nam sau khi mãn khóa.
• Từ khắp 4 vùng chiến thuật, tất cả ứng viên Khóa 24 phải được khám sức khỏe
tổng quát tại một Quân Y Viện địa phương.
NHẬP HỌC - HUẤN LUYỆN
Đầu tháng 12 năm 1967, các ứng viên hội đủ điều kiện được lệnh tập trung tại các
địa điểm sau đây:
• Vùng I, tại Đà Nẵng.
• Vùng II, tại TVBQGVN, Đà Lạt.
• Vùng III và Sài Gòn, tại Biệt Khu Thủ Đô ngày 30 tháng 11, 1967. Đêm hôm đó,
tạm trú tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
• Vùng IV, tại nhà Bác sĩ Nguyễn Như Giu, thân phụ của Sinh Viên Sĩ Quan
(SVSQ) Nguyễn Như Lâm Khóa 22B.
Bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 1967, phi cơ quân sự lần lượt chở các ứng viên
Khoá 24 từ khắp nơi về phi trường Liên Khương, Đà Lạt. Sau đó họ được tập trung trong
doanh trại Khu Quang Trung, một cơ sở nằm trong khuôn viên TVBQGVN. Người đến
trước chờ người đến sau. Cuối cùng đã đầy đủ quân số và sẵn sàng nhập trường.
502
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Trưa ngày 7/12/1967, tất cả ứng viên Khoá 24 tập trung tại Hội Quán Sinh Viên Sĩ
Quan. Tại đây, mọi người làm thủ tục nhập trường. Họ được chia thành 8 nhóm (8 Đại
Đội A, B, C, D, E, F, G, H) và tập họp trước Cổng Nam Quan của TVBQGVN.
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
503
SVSQ Cán Bộ Tân Khóa Sinh lúc đó là các Niên Trưởng Khoá 22B, năm thứ 3, đã
hân hoan chào đón và nhận Tân Khóa Sinh (TKS). Đứng trước hàng quân Khoá 24,
SVSQ Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Tân Khóa Sinh Nguyễn Đức Thiêm dõng
dạc lên tiếng:
“Chào mừng các anh đã tình nguyện gia nhập TVBQGVN... Những ngày
sắp đến, các anh sẽ tuân hành kỷ luật sắt của quân trường này, tôi chắc chắn các
anh sẽ vượt qua theo gương các khóa đàn anh...”
Sau đó theo lệnh SVSQ Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng, các SVSQ Cán Bộ Đại Đội
Trưởng đã hướng dẫn các TKS tiến vào doanh trại theo lộ trình Alpha. Quân nhạc oai
hùng trổi lên chào mừng, TKS Khoá 24 chính thức qua khỏi cổng Nam Quan, bắt đầu
một đời sống mới.
GIAI ĐOẠN "HUẤN NHỤC" (12/1967 - 1/1968)
Không có một sĩ quan hiện dịch xuất thân từ TVBQGVN nào có thể quên được cái
ngày “thử lửa” kinh hoàng nhất trong đời quân ngũ của mình, ấy là ngày nhập trường với
8 tuần sơ khởi huấn nhục, đầy mồ hôi ở thao trường, một thời gian vô cùng khó khăn tại
quân trường này. Mấy hôm trước là một thanh niên dân chính “bạch diện thư sinh,”
nhưng chỉ vài ngày sau đã mang bóng dáng một quân nhân cứng cáp, biết nghe và thi
hành lệnh.
Vừa bước qua cổng Nam Quan, SVSQ cán bộ hướng dẫn TKS ra lệnh “Theo
Tôi!” để chạy theo con đường vòng Alpha bao quanh trường, lúc đó con đường sao mà
dài đến thế, dài đến vô tận! Bao nhiêu hành trang mà mẹ hiền sửa soạn cho con mang
theo
để “đi lính,” mong con ấm áp nơi xứ lạnh Đà Lạt sương mờ, vì mệt lử đành buông
504
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
rơi rớt dọc đường trong lúc chạy theo tiếng lệnh, và sự thúc dục của SVSQ Cán Bộ.
Thêm vào đó, TKS còn được dẫn ra phía sau khu Phạn Xá để thử món “nhúng dấm” là
món ăn chơi độc đáo, thân thể đang lúc mồ hôi nhễ nhại lại bị quyện lẫn với bùn lầy.
Sau vài giờ hành xác nhập trường, TKS Khóa 24 nằm la liệt trên bãi cỏ Trung
Đoàn, nhưng phải cố gắng đứng dậy theo lệnh “Tập Họp Đại Đội”.
Tổng số TKS Khóa 24 nhập trường vào ngày 7 tháng 12 năm 1967 là 312 người
và được gọi là Tiểu Đoàn TKS Khóa 24, quân số được chia đều cho 8 đại đội. SVSQ cán
bộ huấn luyện Khóa 24 lúc đó là SVSQ khóa 22B, năm thứ 3 TVBQGVN. Mỗi đại đội có
3 SVSQ Cán Bộ: 1 SVSQ Cán Bộ Đại Đội Trưởng và 2 SVSQ Cán Bộ Trung Đội
Trưởng.
Vào buổi chiều ngày nhập trường, TKS được lãnh quân trang, quân dụng, và sau
đó Tiểu Đoàn TKS chỉ có "30 giây" để thay thế đồ dân chính bằng “chiến y.” Tuy rằng
quân phục quá rộng nhưng họ rất hân hoan trên đường tấp tểnh học làm “Quan.”
Các TKS được hướng dẫn đi, đứng, ngồi và ăn uống vuông góc, chén cơm hay ly
nước đưa thẳng lên cao ngang miệng và đưa vào miệng để ăn. Nếu “lờ quờ” không làm
đúng thế, sẽ bị trả giá bằng hình phạt hành xác (nhảy xổm, hít đất) tại chỗ.
Về quân sự, TKS Khóa 24 được huấn luyện “cơ bản thao diễn,” bước chân đi có
hàng lối cho đều, lọt gọn theo tiếng đếm 1, 2 nhịp nhàng. Với môn Chiến Thuật, họ được
học “cá nhân chiến đấu.” Môn Địa Hình, TKS được học cách định hướng bản đồ, xác
định điểm đứng, dùng la bàn biết hướng đi. Môn Vũ Khí, TKS được học cách tháo ráp và
bảo trì súng trường Garant M1, đại liên, trung liên BAR, súng phóng lựu, cũng như học
tác xạ với đạn thật ngoài sân bắn.
Sau ngày nhập trường không đầy 3 tuần, là dịp lễ Giáng Sinh, đêm hôm ấy các
TKS Công Giáo có xe đưa rước đi lễ, trong lúc các bạn khác tập trung ở hành lang đọc
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
505
thư của thân nhân và chia sẻ văn nghệ. Họ cũng được nhắc nhở để chuẩn bị tinh thần đón
tiếp các “hung thần” Cán Bộ đợt 2, ngay sau Tết Dương Lịch 1968. Quả vậy, giây phút
mà K24 không thể quên là khi SVSQ Cán Bộ Nguyễn Trần Quốc Ái, Tiểu Đoàn Trưởng
TĐ TKS đợt 2 "lên bục".
Thời gian "huấn nhục" rồi cũng ngắn lại dần. Những “Tuân lệnh!” “Tự thắng” sau
lệnh phạt từ các “hung thần” Cán Bộ; những lần xưng danh lớn tiếng từ thật xa; những
khổ nhục vì hình phạt dã chiến, làm gân cốt mệt nhoài; những đêm đang ngon giấc bỗng
giật mình, vì văng vẳng đâu đây có tiếng hô “Tiểu Đoàn TKS còn 15 giây tập họp”… dần
dà rồi cũng quen đi.
Ấy thế, cũng có lúc “hung thần” đi nhẹ vào phòng ngủ TKS, nhẹ nhàng kê lại
chiếc gối cho ngay khi Tân Khóa Sinh vừa chợp ngủ, hoặc đắp lại tấm mền, tấn lại góc
mùng khi TKS say ngủ đã đạp tung ra.
Ngày cuối của tuần thứ 7 trong 8 tuần huấn nhục, TKS chứng tỏ đã trưởng thành
trong kỷ luật, với một thân thể cường tráng, phản ứng mau lẹ hơn trong tinh thần đồng
đội. TKS Khóa 24 thi đua chinh phục Lâm Viên vào thứ Sáu 26 tháng 1 năm 1968. Lâm
Viên là ngọn núi cao nhất miền Cao Nguyên Trung Việt.
Chiều hôm đó trong quân phục chỉnh tề, tại phòng của TKS, SVSQ Cán Bộ vào
phòng công bố:
“… Tôi long trọng trao nón, dây biểu chương, và thắt lưng cổ truyền của
TVBQGVN đến các Chú, các Chú hãy bảo vệ nó bằng danh dự và bằng xương
máu.”
Trong niềm hân hoan phấn khởi, Tân Khóa Sinh Khoá 24 ra Vũ Đình Trường Lê
Lợi làm Lễ Gắn Alpha: “Quỳ xuống, Tân Khóa Sinh!” “Đứng dậy, Sinh Viên Sĩ Quan!”
Ngày hôm sau, thứ Bảy ngày 27 tháng 1 năm 1968, Khóa 24 lần đầu tiên được
xuất trại “đi phố” Đà Lạt, lúc này cũng vào dịp Tết Nguyên Đán Mậu Thân.
506
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Theo thông lệ, sau khi nghỉ Tết xong, Tân Sinh Viên Sĩ Quan phải “trở lại một
tuần Tân Khóa Sinh” nữa cho trọn 8 tuần, nhưng vào lúc đó có cuộc Tổng Tấn Công của
Cộng Sản Bắc Việt nhắm vào dịp Tết Mậu Thân, Khóa 24 cùng các khóa đàn anh đáp
ứng trước tình thế của Đà Lạt, được trừ nợ một tuần ấy, chỉ trải qua 7 tuần huấn nhục.
Sau thời gian huấn nhục, số Tân Khóa Sinh được nhận xét không hội đủ điều kiện
để tiếp tục 4 năm gian khổ tại trường, do đó phải rời khỏi khóa học là 32 người.
NHỮNG SỰ KIỆN ĐÁNG GHI NHỚ TẠI TRƯỜNG
Tết Mậu Thân 1968
Trong chiến dịch tổng tấn công mưu toan cưỡng chiếm toàn miền Nam Việt Nam,
đêm 31 tháng 1 năm 1968, tức là đêm 30 rạng Mùng Một Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã
đánh chiếm Đà Lạt. Khi đó tại Trường Võ Bị chỉ có SVSQ Khóa 22B và các TKS Khóa
24 mới gắn Alpha được vài ngày. Các SVSQ niên trưởng Khóa 23 khi đó đang đi phép
thường niên, nhà trường phải ra lệnh thu hồi các giấy phép đã ký và yêu cầu họ trở về
Trường. Trong thời gian này, Khóa 22B cùng Khóa 24 được tung ra giữ an ninh cho
thành phố Đà Lạt ở các địa điểm như ga Đà Lạt, khu Hòa Bình, Trường Domaine De
Marie.
Thay Đổi Chỉ Huy Trưởng
Khi nhập học và trong biến cố Mậu Thân, Đại Tá Đỗ Ngọc Nhận là vị Chỉ Huy
Trưởng của Trường. Tháng 6 năm 1968, Thiếu Tướng Lâm Quang Thi (sau này là Trung
Tướng) được bổ nhiệm ở vị trí này.
Việt Cộng Đột Kích vào Trường năm 1970
Nửa đêm 31 tháng 3 rạng ngày 1 tháng 4 năm 1970, lợi dụng lúc sương mù dầy
đặc, Việt Cộng bất thình lình đột kích vào trường tại các địa điểm cổng Nam Quan và Bộ
Chỉ Huy. Các SVSQ Khóa 24, 25 và 26 đại đội G trách nhiệm phòng thủ hôm đó đã anh
dũng chống trả, bắn hạ 1 cán binh VC, SVSQ Huỳnh Kim Quang K25 dũng cảm hy sinh,
và 1 sĩ quan Văn Hóa Vụ bị chết.
Sau vụ này, các SVSQ Dương Văn Thái K24 và Bùi Lễ K26 được Trung Tướng
Lữ Lan, Tư lệnh Vùng 2, gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Đồng. Họ
cũng được cố vấn Mỹ trao thưởng huy chương Bronze Star của Hoa Kỳ.
Hơn một tháng sau, VC lại âm mưu xâm nhập Trường một lần nữa nhưng đã lọt
vào vùng phục kích của quân nhân cơ hữu Trường. Trên 10 Việt Cộng bị hạ tại chỗ.
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
507
Đại Tá Đỗ Ngọc Nhận Trung Tướng Lâm Quang Thi
Chỉ Huy Trưởng khi K24 nhập học Chỉ Huy Trưởng khi K24 mãn khóa
Đại Tá Nguyễn Văn Sử HQ Đại Tá Nguyễn Vân
Quân Sụ Vụ Trưởng Văn Hóa Vụ Trưởng
508
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
GIAI ĐOẠN SINH VIÊN SĨ QUAN
NĂM THỨ NHẤT (2/1968 - 12/1968)
Tổng số SVSQ lúc đầu năm 1968 là 280. Sau đó vì thiếu điểm văn hoá phải bị loại
là 21 người, tai nạn 1 người, sức khỏe 1 người, cuối năm còn lại 257 người.
Chương trình Quân Sự
Thời gian TKS nằm trong chương trình huấn luyện quân sự năm thứ nhất. Chấm
dứt 8 tuần sơ khởi huấn nhục, thời gian “Mùa Quân Sự” của trường rơi vào mùa lạnh tại
Đà Lạt, TKS được gắn alpha trơn (không gạch, năm thứ nhất). Các Tân SVSQ Khóa 24
mới toanh này đã tức khắc đối mặt với thực trạng chiến tranh, bên ngoài phạm vi quân
trường, tham gia đối phó trước cuộc Tổng Tấn Công Mậu Thân tại Đà Lạt, như đã đề cập.
Tình trạng an ninh vãn hồi sau đó không lâu, các khóa trong trường lúc đó là 22B, 23, 24
trở lại sinh hoạt bình thường, mùa Văn Hóa bắt đầu vào tháng 3 1968. Văn Hóa Vụ
Trưởng là Hải Quân Trung Tá Nguyễn Vân (sau được thăng cấp Đại Tá).
Danh từ “Tiểu Đoàn Tân Khóa Sinh Khóa 24” đi vào lịch sử. “Tân SVSQ K24” ở
yên vị trí theo các đại đội như đã phân định lúc đầu, họ cùng các khóa đàn anh tạo thành
“Liên Đoàn Sinh Viên Sĩ Quan” dưới mái Trường Mẹ. Ngôi trường này được thiết kế bởi
vị kiến trúc sư đã đoạt giải Khôi Nguyên La Mã, đó là Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ.
Liên đoàn SVSQ gồm Tiểu Đoàn I và II. Trực thuộc Tiểu đoàn I là các đại đội A,
B, C, D và Tiểu đoàn II với các đại đội E, F, G, H.
Chỉ huy trực tiếp SVSQ đầu tiên là Thiếu tá Huỳnh Văn Tâm (Liên Đoàn SVSQ),
sau đó là Trung Tá Bùi Trạch Dzần (Trung Đoàn SVSQ) và cuối cùng là Đại Tá Nguyễn
Văn Sử làm Quân Sự Vụ Trưởng.
Về huấn luyện, lúc đó do Phòng Quân Sự với Thiếu Tá Nguyễn Ri, tiếp theo là
Thiếu Tá Cổ Tấn Tinh Châu, sau đó phòng này sát nhập vào Khối Quân Sự Vụ do Trung
Tá Võ Vàng điều khiển.
Khóa 24 nằm trong chương trình huấn luyện 4 năm. Mỗi năm học được chia làm
hai mùa: Mùa Văn Hóa từ tháng 3 cho đến giữa tháng 12, và Mùa Quân Sự từ giữa tháng
12 đến tháng 3.
Như nhận xét của Cố Vấn Quân Sự Vụ, Thiếu Tá Dorsey Edward Rowe, xuất thân
từ USMA, West Point:
“...mỗi Sinh Viên Sĩ Quan Võ Bị có khả năng cần thiết cho sự tiến triển và
tăng trưởng cuộc đời binh nghiệp của một Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, được chứng tỏ qua những tác phong như sau: 1- Ðức tính toàn năng và khả
năng lãnh đạo của cấp chỉ huy. 2- Một căn bản quân sự thật vững vàng. 3- Một
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
509
văn hóa bao quát gồm sự thông hiểu kỹ thuật tương đương trình độ kỹ sư tốt
nghiệp tại các trường đại học dân sự, được tăng cường với việc huấn luyện về các
môn khoa học xã hội, nhân chủng.”
Chương Trình Văn Hóa (Tổng Quát 4 Năm)
Theo tài liệu của Văn Hóa Vụ, mùa văn hóa gồm hai lục cá nguyệt, với mỗi lục cá
nguyệt có 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn 6 tuần lễ. Cuối mỗi tuần, giai đoạn, lục cá nguyệt và
mùa văn hóa đều có các kỳ sát hạch. Giảng viên gồm giáo sư dân sự và quân đội.
Điểm học lực trung bình của SVSQ phải đạt là 2.5/4.0, tương đương với 12,5/20
của đại học dân sự.
Tổng cộng gồm 45 môn với khoảng 2.970 giờ, không kể giờ thực tập phụ trội.
• TOÁN (6 môn): Giải Tích 1A, 1B, 2A, 2B, 3 và Thống Kê;
• KHOA HỌC (5 môn): Vật Lý 1, 2, Tân Vật Lý, Hóa Học Vô Cơ, Hóa Học Hữu
Cơ;
• ANH VĂN (5 môn): Anh Ngữ 1, 2, 3, 4 và Anh Ngữ Quân Sự;
• NHÂN VĂN (5 môn): Văn Chương VN 1, 2, Sử Âu Mỹ, Sử Á Việt và Quân Sử;
• KHOA HỌC XÃ HỘI (8 môn): Tư Tưởng Chính Trị, Tâm Lý, Lãnh Đạo, Chính
Thể Hiện Đại, Luật, Hành Chánh Công Quyền, Quản Trị, Kinh Tế;
• KỸ THUẬT ĐIỆN (5 môn): Mạch Điện, Điện Tử, Hệ Thống Phân Tích, Điện Khí
1, 2;
• CƠ KHÍ (6 môn): Cố Thể 1, 2, 3, Lưu Chất 1, 2, Máy Đẩy;
• CÔNG CHÁNH (6 môn): Trắc Lượng 1, 2, Kiến Tạo 1, 2, Kỹ Thuật Thanh Hóa;
• KỸ THUẬT QUÂN SỰ (4 môn): Xa Lộ Phi Trường, Quân Cụ, Canh Nông, Khí
Tượng
Hình thức tổ chức lớp học rất tân tiến so với các đại học dân sự trong nước thời
bấy giờ:
• Số học viên ít, mỗi lớp học chỉ gồm 16 người;
• Trực tiếp đối
diện: trong lớp học, các bàn ghế, chỗ ngồi xếp theo hình chữ U
(không có hàng ghế sau). Học viên ngồi chung quanh, giảng viên ở giữa. Mọi học
viên vì thế ở hàng đầu, đối diện trực tiếp, thảo luận.
Song song với chương trình văn hoá, SVSQ Khóa 24 là đàn em nhỏ nhất phải học
“làm lính” giữ sạch sẽ doanh trại, luôn luôn đi đầu trong các công tác canh gác và tạp
dịch, SVSQ Khóa 24 được xuất trại đi phố hai tuần một lần.
510
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Huấn Luyện Thể Chất
Ngoài giáo dục văn hóa, quân sự ra, SVSQ tiếp tục duy trì thể lực có sẵn từ thời
gian tân khóa sinh qua các chương trình võ thuật, điền kinh và thể thao liên tục suốt khóa
học. SVSQ năm đầu học Quyền Anh (boxing) sau đó được chọn Thái Cực Đạo
(Taekwondo) hay Nhu Đạo (Judo), ít nhất là đạt đai xanh, đa số là đai nâu, một số đạt đai
đen. Mỗi tuần SVSQ tập bóng chuyền, bóng rổ, bóng tròn hay quần vợt (tennis) 3 lần từ 4
đến 6 giờ chiều.
Bên ngoài phạm vi quân trường, SVSQ K24 nào có tài năng đặc biệt sẽ được kết
hợp với SVSQ các khóa khác có cùng tài năng của Trung Đoàn SVSQ lúc bấy giờ, để
tham dự các buổi tranh giải hàng năm về thể dục, thể thao tại thị xã Đà Lạt. Nổi bật là 2
trung phong Nguyễn Văn Định và Nguyễn Trung Nhân trong đội bóng tròn.
Hoạt Động Văn Nghệ
Trên lãnh vực văn nghệ, Ca Đoàn Tự Thắng của SVSQ K24 được mệnh danh là ca
đoàn lớn nhất miền cao nguyên. Qua bao nhiêu năm tháng, “Tiếng Hát Khóa 24” Vũ Cao
Hiến, Nguyễn Dzương Dzương như vẫn còn phảng phất đâu đây trong trí nhớ của bạn bè,
qua những chương trình phát thanh hàng tuần vào chiều thứ Sáu trên Đài Phát Thanh Đà
Lạt.
NĂM THỨ HAI (12/1968 - 12/1969)
Tổng số SVSQ lúc đầu năm 1969 là 257, sau đó 1 ra trường vì kỷ luật, 3 bị tai nạn,
1 bị mất tích, cuối năm còn lại 252 người.
Chương Trình Quân Sự
Sau khi mùa văn hóa năm thứ nhất chấm dứt, tháng 12 năm 1968, SVSQ lên
“alpha 1 gạch” và mùa quân sự năm thứ hai bắt đầu. SVSQ Khóa 24 học Chỉ Huy cấp
Trung Đội Trưởng, cách điều quân, thám sát mục tiêu, ban hành kế hoạch hành quân,
phân chia lực lượng tấn công, thành phần yểm trợ và thành phần trừ bị. Vũ Khí và Địa
Hình thì ôn lại các bài học từ TKS, học tác xạ “cắm cùi chỉ điểm”.
Sau mùa quân sự này đến giai đoạn mà tất cả Khóa 24 đã nao nức suốt 14 tháng
dài, đó là được về phép 2 tuần thăm gia đình. Năm trước đây, khi ra đi với hình dáng thư
sinh, giờ đây trở về hiên ngang trong bộ đồ Jaspé, dây biểu chương, alpha đỏ trên vai
áo… có người được cha mẹ, anh em và người yêu nhìn mãi mới nhận ra!
Giữa mùa văn hóa năm này, SVSQ K24 đi thăm viếng, học hỏi tại chỗ các quân
binh chủng:
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
511
• Tại Nha Trang, đi thăm các quân trường Lam Sơn, Dục Mỹ, Trường Pháo Binh,
Trường Sĩ Quan Hải Quân, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân, Trường Hạ Sĩ
Quan Đồng Đế;
• Tại Sài Gòn, thăm Bộ Tổng Tham Mưu, Trung Tâm Kiểm Báo Sài Gòn, Trung
Tâm Huấn Luyện Thủy Quân Lục Chiến (căn cứ Sóng Thần), Trung Tâm Bảo Trì
Quân Cụ, Trung Tâm Khai Thác An Bài Điện Tử;
• Tại Vũng Tầu, thăm Trung Tâm Huấn Luyện Chí Linh (Xây Dựng Nông Thôn),
Trường Thiếu Sinh Quân, Trường Truyền Tin, Trung Tâm Huấn Luyện Quân
Cảnh.
Chương Trình Văn Hóa
Theo thứ tự kế tiếp mỗi môn đã tổng quát hóa như trình bầy ở năm thứ nhất.
NĂM THỨ BA (12/1969 - 12/1970)
Tổng số SVSQ lúc đầu năm 1970 là 252, sau đó bị tai nạn 1, kỷ luật 1, cuối năm
còn lại 250 người.
Chương Trình Quân Sự
Như thường lệ, mùa văn hóa năm nay kết thúc vào cuối tháng 11, mùa quân sự
năm thứ ba bắt đầu, SVSQ lên lon “alpha 2 gạch.” Theo chương trình quân sự tiếp nối
năm trước:
Nhẩy dù xuống Đà Lạt Chuồng cu tại trại Bằng Nhảy Dù
Hoàng Hoa Thám
512
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
• Học Quân Sự cấp Đại Đội;
• Toàn K24 và K23 Tiểu Đoàn 2 về Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù Hoàng Hoa
Thám học nhảy dù Khóa 184A và 184B.
Chương Trình Văn Hóa (3/1970 - 12/1970)
Theo thứ tự kế tiếp mỗi môn như đã trình bầy tổng quát ở năm thứ nhất.
NĂM THỨ TƯ (12/1970 - 12/1971)
Tổng số SVSQ lúc đầu mùa quân sự năm thứ tư là 250, sau đó thiếu điểm văn hóa
4, tử nạn 1, kỷ luật 1, thêm 1 K23 ở lại K24, cuối năm còn lại 245 người tốt nghiệp.
Chương Trình Văn Hóa và Những Chủ Đề Đặc Biệt
Về văn hóa, SVSQ hoàn tất cá các môn học như đã liệt kê, ngoài ra còn một số
chủ đề, hoạt động đáng ghi như:
• Trao đổi văn hóa, tiếp đón SVSQ ngoại quốc (USMA, WestPoint);
• Học phong thái, cách xã giao (giảng viên ngoài trường), học lái xe hơi;
• Tranh luận, hùng biện giữa SVSQ cấp Tiểu Đoàn;
• Đặc biệt là Hội Đồng Danh Dự SVSQ;
• Lãnh Đạo Chỉ Huy qua sự tự đánh giá giữa các SVSQ.
Chương Trình Quân Sự (Chuẩn Bị Mãn Khóa)
• Đảm nhận Hệ Thống Tự Chỉ Huy và điều hành Trung Đoàn SVSQ dưới sự giám
sát của các sĩ quan cán bộ Quân Sự Vụ bắt đầu từ tháng 12 năm 1970;
• Huấn luyện Tân Khóa Sinh khóa 27;
• Thực tập chỉ huy tại Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn và công tác Chiến Tranh
Chính Trị;
• Văn Bằng Tốt Ngiệp: Tương đương với Văn Bằng Kỹ Sư, chiếu theo Nghị Định
số 2349 ND/QP;
• Nhẫn Tốt Nghiệp và Sách Lưu Niệm Khóa 24 cho mỗi tân sĩ quan;
• Phân phối quân binh chủng và đơn vị: Không Quân 20 người, Hải Quân 20, Pháo
Binh 10, Thiết Giáp 10, Truyền Tin/Tổng Tham Mưu 1, Nha Kỹ Thuật/Tổng
Tham Mưu 5, Nhảy Dù 14, Thủy Quân Lục Chiến 14, Biệt Động Quân 23, Trung
Đoàn 51 Biệt Lập 4; Sư Đoàn: SĐ1 11 người, SĐ2 10, SĐ3 12, SĐ5 11, SĐ7 11,
SĐ9 11, SĐ18 11, SĐ21 11, SĐ22 14, SĐ23 11, và SĐ25 11.
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
513
Khóa 24 Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19/6/1971 tại Sài Gòn
LỄ MÃN KHÓA
Đêm trước ngày mãn khóa, tại Vũ Đình Trường Lê Lợi Trung Đoàn SVSQ gồm
có các Khóa 24, 25, 26 và 27 cử hành Lễ Truy Điệu trước đông đảo quan khách, cùng
nhau tưởng niệm những cựu SVSQ xuất thân từ Trường Mẹ đã bỏ mình, về chứng giám
và chỉ lối cho đoàn trai trẻ ngày mai lên đường. Sáng hôm sau, trong Lễ Mãn Khóa cũng
tại địa điểm này, Tân Sĩ Quan Khóa 24 cùng nhau sắt son chung một lời thề vì Sông Núi,
hăng hái lên đường phục vụ, và rời xa ngôi trường thân yêu sau 4 năm 10 ngày thụ huấn
tại đây.
Khóa 24 tại Vũ Đình Trường Lê Lợi ngày 17/12/1971
514
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Văn Bằng Tốt Nghiệp Khóa 24
Trung Tướng Đỗ Cao Trí
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
515
Kịch Mãn Khóa
KHÓA 24 - GIAI ĐOẠN CHIẾN ĐẤU
DẤU BINH LỬA
Sau khi tốt nghiệp, các Tân Sĩ Quan K24 được nghỉ phép 2 tuần trước khi trình
diện đơn vị, đa số trình diện đơn vị mình ngày 2 tháng 1 năm 1972.
Thời gian này tình hình chiến sự yên tĩnh một cách lạ thường. Ở Sài Gòn, thủ đô
của VNCH và mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê, dân chúng tưng bừng chuẩn bị đón
xuân Nhâm Tý vào ngày 15 tháng 2 năm 1972. Đây cũng là thời gian Cộng Sản Bắc
Việt âm mưu chuẩn bị cho Chiến Dịch Nguyễn Huệ, tung quân đánh miền Nam với 3
mũi tấn công là Bình Long, Kontum và Quảng Trị bắt đầu vào tháng 4 năm 1972.
Khởi đầu với “Mùa Hè Đỏ Lửa”, một trong những sĩ quan trẻ đầu tiên hy sinh vì
tổ quốc là Thiếu Úy Trần Đại Chiến, Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù (ND), đã anh dũng hy sinh
tại Đồi Gió, An Lộc khi cản đường tấn công của địch để đơn vị rút lui; sau đó là Phan
Hữu Tại, Tiểu Đoàn 2 ND, nằm xuống ở vùng núi rừng Trường Phước, Quảng Trị; Phạm
516
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Việt Hưng, Tiểu Đoàn 11 ND, được coi là mất tích ở Charlie, địa danh đã đi vào lịch sử.
Sau đó ngoài Quảng Trị, các bạn Vàng Huy Luyến, Nguyễn Dzương Dzương, Phạm Đại
Tá của Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) cũng đã ra người thiên cổ. Hung tin tới tấp bay về.
Mỗi chiều tại phạn xá, trước bữa cơm các SVSQ K25, 26 và 27 tranh nhau lật trang chót
của báo hàng ngày để xem mục phân ưu, rồi SVSQ Trực Trung Đoàn ngậm ngùi thông
báo “Trung Đoàn SVSQ vừa nhận được tin buồn, cố Trung Uý… đã hy sinh vì Tổ
Quốc. Trung Đoàn SVSQ dành một phút mặc niệm để tưởng nhớ người quá cố.”
Tiếp theo là năm 1973, tháng Giêng Hiệp Định Paris được ký kết nhưng phe đối
phương trắng trợn vi phạm khi chữ ký của mình chưa ráo mực. Mỹ rút quân, Việt Nam
hóa chiến tranh, quân lực VNCH phải đánh giặc theo kiểu nhà nghèo, pháo binh yểm trợ
đếm từng trái, quân viện bị cắt trong khi khối Cộng ồ ạt viện trợ cho Bắc Việt nhiều hơn
trước, và việc gì phải đến đã đến! Miền Nam mất Phước Long, bỏ Ban mê Thuột, rồi
Vùng 1 cuốn chiếu, tan hàng...
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, giao lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn
Hương.
Đến lượt Cụ Hương ngậm ngùi giao cho Ông Dương Văn Minh, cay đắng làm sao
bài diễn văn trao quyền, để rồi… “Ngày 30 tháng Tư” năm 1975, Dương Văn Minh tuyên
bố buông súng.
Trong 3 năm 4 tháng chiến đấu, các tân sĩ quan K24 đã trưởng thành nhanh chóng
trên khói lửa chiến trường khắp các vùng chiến thuật. Chỉ 6 tháng sau khi tốt nghiệp, đã
có 9 người được đặc cách thăng trung úy tại mặt trận. Đó là Vũ Văn Hợi, Vũ Văn
Gioanh, Trần Văn Tường, Lưu Đắc Thắng, Thái Bình Chương, Trương Văn Bé, Nguyễn
Hùng Đởm, Nguyễn Văn Xuân, Võ Văn Bé. Nhiều người được tuyên dương công trạng
trước Quân Đội và được trao thưởng Huy Chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương
Liễu (huy chương cao quý đứng sau Bảo Quốc Huân Chương) trong chiến dịch tái chiếm
Quảng Trị.
Cho đến tháng 4 năm 1975, ở Lục Quân có K24 đã được đặc cách thiếu tá, đảm
nhiệm chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng như Phan Hùng Dũng, Bùi Minh Đức. Một số đã đeo
lon đại úy và có những Đại Đội Trưởng Trinh Sát nổi tiếng như Dương Phước Tuân,
TS/42. Ở Hải Quân có Trần Minh Chánh, Hạm Trưởng một chiến hạm; Nguyễn Hữu
Phúc, Chỉ Huy Phó một giang đoàn và Nguyễn Ngọc San, Trưởng Phòng Nội Vụ kiêm
Chỉ Huy Trưởng Tạm Trú Hạm, Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Bên Không Quân, Nguyễn
Quang Toản trở thành huấn luyện viên T37.
Tham gia Hành Chánh, sau khi bị thương và giải ngũ, là Lê Ngọc Thạch và Trần
Văn Tường làm Trưởng Ty Cựu Chiến Binh Tỉnh Bình Dương và Tỉnh Phước Long.
Một số bạn kém may mắn đã bị thương nặng và trở thành phế binh như Trần Ngọc
Thanh cụt hai chân, Nguyễn Văn Tuân liệt nửa người. Bị mất một chân là Nguyễn Thanh
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
517
Lương, Ngô Tấn. Hư mắt có Lưu Khánh Thành, Trần Văn Thanh, Phạm Dương. Ngoài ra
một số bạn bị thương được phân loại 2 và chọn giải ngũ về làm phó giám đốc các chi
nhánh cùa Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín như Lương Văn Phát, Đỗ Khắc Khoan.
MÙA HÈ ĐỎ LỬA
Trận An Lộc
Đầu tháng 4 năm 1972, trong lúc Tân Sĩ Quan K24 Không Quân còn đang học
Anh Ngữ ở Nha Trang, các Sĩ Quan K24 Nhảy Dù đa số đang thực tập chỉ huy tại đơn vị
(OJT), chưa nắm trung đội, thì tình hình chiến sự biến chuyển nhanh chóng.
Sáng sớm ngày 6 tháng 4, khi TĐ8 ND đang ở hậu cứ, TĐ6 ND tại Vũng Tàu
chuẩn bị nhảy dù thao dượt hành quân thì nhận lệnh quay về hậu cứ tại trại Trần
Quý
Mại, Sài Gòn để chuẩn bị hành quân. Ngay sáng hôm sau, Lữ Đoàn 1 ND xuất phát với 3
Tiểu Đoàn 5, 6 và 8 di chuyển lên Lai Khê, đi ngược quốc lộ 13, hướng về Chơn Thành.
Tham dự cuộc hành quân có Trần Đại Chiến và Nguyễn Văn Phượng TĐ6, Vũ Văn Hợi
TĐ5, Lê Ngọc Thạch và Huỳnh Thiện Lộc TĐ8.
518
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
Đây là vùng trách nhiệm của SĐ5 BB, nơi đây có 10 Tân Sĩ Quan K24 là Phạm
Tử Bình, Vũ Văn Gioanh, Lưu Đắc Thắng, Trần Văn Tường, Lê Văn Hùng, Nguyễn Văn
Xuân, Trương Thành Minh, Võ Văn Bé, Vũ Thế Cần, và Lương Văn Phát.
Vài ngày sau đó được tăng cường của SĐ21 BB với 10 Sĩ Quan K24, ngoại trừ
Thiếu úy Huỳnh Phú Hiền bị thương trong trận đánh ở căn cứ hỏa lực Hòa Bình ở U
Minh ngày hôm trước, 9 sĩ quan K24 tham dự: Trung đoàn 31 với Trần Minh Tâm, Phan
Hùng Dũng; Trung Đoàn 32, có Bùi Văn Ánh, Phan Vĩnh Thủy, Ông Vĩnh Huấn, Trương
Văn Xuân và Lâm Văn Phước; và Trung Đoàn 33 với Bùi Minh Đức và Trần Ngọc
Thanh.
Thêm vào đó SĐ9 BB phái Trung Đoàn 15 tham dự, trong đó có mặt của 4 sĩ quan
K24 là Nguyễn Văn Tốt, Phạm Hữu Bảo, Nguyễn Thấn Hưng và Nguyễn Văn Đực. Về
phía Thiết Giáp có Phan Thế Thiệp Thiết Đoàn 1, Phạm Tấn Thịnh Thiết Đoàn 9.
Trận chiến kéo dài cho tới ngày 8 tháng 6, sau khi người lính TĐ8 ND bắt tay
được với TĐ6 ND của lực lượng giải tỏa vào ngày 20 tháng 6, khi Đồi Đồng Long và Sân
Bay Quản Lợi đã sạch bóng thù, các lực lượng tăng phái mới trở về vùng trách nhiệm.
Đây là trận đầu tay của K24, đương đầu với đại pháo 130, thiết giáp T54, PT 76,
BTR 60,
cùng với chiến thuật kiềng chốt rất khó giải tỏa.
Điều cần lưu ý là sau khi vào được An Lộc, các cố vấn Mỹ đã được âm thầm được
bốc ra khỏi mặt trận vào buổi tối, để Quân Lực VNCH tự xoay sở.
Tổng kết sau trận này đối với sĩ quan K24:
• 6 được thăng cấp Trung úy tại mặt trận như Hợi, Gioanh, Thắng, Tường, Xuân,
Bé.
• 2 hy sinh, được Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu là Trần Đại Chiến và
Bùi Văn Ánh.
• 2 huy chương cho Lê Ngọc Thạch: 1 Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao vàng, 1 Chiến
Thương Bội Tinh.
• 2 huy chương cho Lâm Văn Phước: 1 Anh Dũng Bội Tinh nhành dương liễu, 1
Chiến Thương Bội Tinh.
• 1 Chiến Thương Bội Tinh cho Phạm Tấn Thịnh.
• Trong phòng ngoại thương Tổng Y Viện Cộng Hòa, K24 gặp lại nhau ở đây gồm
có Lưu Khánh Thành, Lâm Văn Phước, Trần Văn Tường, Phạm Hữu Bảo, Trần
Văn Thanh, Huỳnh Thiện Lộc, Nguyễn Văn Tuân, và Trần Hữu Hùng.
Trận Quảng Trị
Quảng Trị nằm trong phạm vi trách nhiệm của Sư Đoàn 3 BB, nơi đây có 12 Tân
Sĩ Quan thuộc Khóa 24 đó là Hoàng Nhu, Đặng Hữu Lợi, Lê Đình Phúc, Phạm Đình
Hồng, Nguyễn Hạnh Phúc, Nguyễn Đăng Đoàn, Trần Minh Xuyên, Trần Hữu Hùng, Ngô
Đức Hải, Trần Hữu Tám, Đào Trọng Tài, và Nguyễn Mười.
Trước tháng 3 năm 1972, TQLC đã tăng cường Lữ đoàn 147 và 258 cho SĐ3 BB
ở Quảng Trị, và Lữ Đoàn 369 cho Đà Nẵng. Ngày 30 tháng 3, cộng quân bắt đầu tấn
công. Sau 1 tháng giao tranh, quân ta phải rút lui về lập phòng tuyến tại sông Mỹ Chánh.
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
519
Sau trận Charlie vào đầu tháng 5, Lữ Đoàn 2 ND được tăng cường ra mặt trận, tiếp
theo là Lữ Đoàn 3 và cuối cùng Lữ Đoàn 1 cũng ra tăng cường, sau khi mặt trận An Lộc
kết thúc.
Bên ND có Trần Văn Thể, Trần Vũ Trụ, Nghiêm Xuân Trường, Vũ Văn Hợi,
Nguyễn Hồ Sơ, Lê Ngọc Thạch, và Hà Văn Đoái. Thiết Giáp có Nguyễn Văn Quyến,
Thiết Đoàn 18.
Quân ta phản công ngày 28 tháng 6, lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, bên phải là
TQLC, bên trái là ND thẳng hướng Quảng Trị, tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 19
tháng 6 và tiếp tục chiếm lại những phần đất đã mất tới khi Hiệp Định Paris 1973 có hiệu
lực. Trận này ác liệt nhất vì cộng quân liên tục tiếp tế người và vũ khí vào từ bên kia vĩ
tuyến 17.
Tổng kết sau trận này đối với sĩ quan K24:
• Bên TQLC, 6 bạn đã hy sinh được Anh Dũng Bội Tinh là Vàng Huy Luyến,
Nguyễn Dzương Dzương, Phạm Đại Tá, Nguyễn Thanh Long, Hoàng Đình Long,
và Phạm Văn Cang; 3 người bị thương với Chiến Thương Bội Tinh là Nguyễn
Thanh Lương, Trần Văn Thanh, và Nguyễn Văn Nhái.
• SĐ3 BB có Ngô Đức Hải hy sinh với Anh Dũng Bội Tinh, Trần Hữu Hùng và Đào
Trọng Tài bị thương với Chiến Thương Bội Tinh.
• Bên ND, Nghiêm Xuân Trường hy sinh với Anh Dũng Bội Tinh, 2 bị thương với
Chiến Thương Bội Tinh là Lê Ngọc Thạch và Nguyễn Hồ Sơ.
• Lê Ngọc Thạch được thêm 1 huy chương Anh Dũng Bội Tinh nhành Dương Liễu.
520
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
• Nguyễn Văn Quyến được huy chương Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao Vàng,
được đặc cách lên Trung Úy tại mặt trận.
Trên 4 Vùng Chiến Thuật
• Tháng 7 năm 1972 trong cuộc hành quân của SĐ 22 nhằm tái chiếm quận Bồng
Sơn, Quách Vĩnh Niên xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ được thăng cấp đặc cách
Trung Úy tại mặt trận, ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao vàng và The
Army Commendation Medal with "V" Device của Hoa Kỳ.
• Cùng trong Trung Đoàn 41/SĐ22 BB, Dương Văn Thái thoát chết trong đường tơ
kẻ tóc mấy lần với:
o 1 Chiến Thương Bội Tinh cho lần giải tỏa các quận Bắc Bình Định.
o 1 Chiến Thương Bội Tinh cho lần giải tỏa Thanh An, Thanh Giáo, Đức Cơ,
Pleiku và Kontum.
o 1 Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao đồng cho lần giải tỏa đèo Bình Đê để
kịp ký Hiệp Định Paris năm 1973.
• Hiệp định ngưng bắn vừa dứt, mùa xuân năm ấy (1973), VC chiếm Đồi 273. Với
cao độ 273 trong vùng Đông Nam Thành Phố Huế, rất thuận lợi để pháo kích vào
phi trường Phú Bài, chế ngự đường không lưu, hơn nữa đồi chỉ cách khoảng 30
km đường chim bay đến căn cứ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 54 tại La Sơn. Vào một
đêm hè, Đại Đội Trưởng Lê Xuân Thọ, ĐĐ3/TĐ 1/Trung Đoàn 54 chỉ huy 1 tiểu
đội thiện chiến của đại đội bất ngờ đột kích, đã tái chiếm đồi 273, được ân thưởng
Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao bạc. Phóng viên đến tại chỗ cùng ngày để phỏng
vấn, chụp hình các chiến lợi phẩm cũng như tuyên dương công trạng trên Đài Phát
Thành Huế.
• Ngoài ra sau Hiệp Định Paris, một số Sĩ Quan K24 được chuyển về học trường Sĩ
Quan Truyền Tin và trường Cao Đẳng Công Binh để bổ sung cho số sĩ quan hiện
dịch của 2 ngành Truyền Tin và Công Binh.
Vị Quốc Vong Thân và Qua Đời
Tính đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, 53 Sĩ Quan K24 đã hy sinh vì Tổ Quốc, 10 tử
nạn. Sau ngày đó, đến nay có thêm 28 người từ giã cõi đời, danh sách CSVSQ K24 năm
2013 tại hải ngoại là 126.
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
521
Tưởng Niệm Bạn…
522
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
DANH SÁCH SĨ QUAN KHÓA 24 VỊ QUỐC VONG THÂN
1. Bùi Văn Ánh SĐ21 28. Hoàng Đình Long TQLC
2. Ngô Ngọc Ấn SĐ22
SĐ22 29. Nguyễn Thanh Long TQLC
3. Bùi Dân Bá SĐ22
4. Huỳnh Bá SĐ18 30. Ngô Trung Lương SĐ7
5. Trương Văn Bé SĐ9
6. Đinh Phú Bình BĐQ 31. Vàng Huy Luyến TQLC
7. Nguyễn Thiện Căn
8. Phạm Văn Cang TQLC 32. Trương Thành Minh SĐ5
9. Nguyễn Văn Châu SĐ23
10. Trần Đại Chiến 33. Nguyễn Văn Muời BĐQ
11. Nguyễn Đăng Chuẩn ND
12. Thái Bình Chương SĐ23 34. Võ Văn Nhiều BĐQ
SĐ18
13. Lê Công Dung BĐQ 35. Nguyễn Ngọc Nở SĐ2
14. Nguyễn Dzương Dzương
15. Lê Đắc Đoàn TQLC 36. Phạm Hữu Phuớc SĐ18
16. Hoàng Văn Giai SĐ21
17. Hà Thanh Giảng BĐQ 37. Trần Hữu Phuớc SĐ22
SĐ2
18. Tào Nhân Hành SĐ7 38. Nguyễn Trọng Phú BĐQ
19. Ngô Đức Hải SĐ3
20. Nguyễn Trung Hiếu SĐ7 39. Võ Văn Phụng SĐ23
BĐQ
21. Châu Tòan Hu SĐ7 40. Phạm Đại Tá TQLC
22. Lê Minh Khiết SĐ2
23. Lý Trực Kỳ SĐ22 41. Phan Hữu Tại ND
24. Nguyễn Hồng Lạc
25. Đồng Ngọc Lâm HQ 42. Đinh Bá Tẩm BĐQ
26. Lê Văn Lẹ BĐQ
27. Nguyễn Văn Lia 43. Lâm Thành Thanh SĐ2
KQ
44. Nguyễn Thọ SĐ23
45. Nguyễn Văn Thương SĐ18
46. Nguyễn Trọng Tiến BĐQ
47. Huỳnh Hữu Trị SĐ18
48. Trần Văn Trung SĐ22
49. Nghiêm Xuân Truờng ND
50. Tống Hoàng Văn SĐ2
51. Nguyễn Văn Xuân SĐ5
52. Trương Văn Xuân SĐ21
53. Phùng Xứng SĐ23
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
523
KHÓA 24 SAU 30/4/1975
Sau 30/4/1975 ngoại trừ một số rất ít may mắn vượt thoát đến bến bờ tự do, đa số
K24 lâm vòng cảnh lao lý tại các "trại cải tạo" từ Nam ra Bắc, từ Long Thành, Suối Máu
tới Bình Điền miền Trung, Nam Hà, Thanh Cẩm miền Bắc. Có những người được thả ra
rồi bị bắt lại, một số người khác sau khi được thả, tham gia vào Hội Đồng Liên Tôn để
tiếp tục chống Cộng bị kết án chung thân như Quách Vĩnh Niên, có kẻ lại tổ chức chống
Cộng ngay trong nhà tù cải tạo, đã bị chúng giết chết như Đại Úy BĐQ Nguyễn Thuận
Cát.
Sau khi được thả từ các “trại cải tạo” một số tìm đường vượt biên và đi thoát tới
các quốc gia tự do. Nhưng có những bạn không may, ôm hận vào lòng Thái Bình Dương
như Nguyễn Hoàng Hùng, Vũ Cao Hiến, Phạm Kinh Luân. Tại các trại tị nạn, anh em
Khóa 24 đã hăng hái tham dự vào các công tác phục vụ cộng đồng, tại Ga Lăng có Hà
Văn Thành, Trần Minh Chánh. Tại Paula Bidong và Sungei Beisi có Lê Ngọc Thạch làm
Trưởng Khối Xã Hội. Tại trại chuyển tiếp ở Phi Luật Tân, Vũ Xuân Đức làm Trưởng
Vùng 8.
Cây Mùa Xuân và các Hoạt Động Khác
Tập thể K24 hàng năm tổ chức Cây Mùa Xuân giúp các thương phế binh, quả phụ.
Các cô nhi của K24 đều được khóa tận tình giúp đỡ, cấp vốn làm ăn. Ngoài ra các TPB
K24 đều được trợ giúp hàng năm với số tiền trên 1.000 dollars 1 năm, chưa kể đến những
bạn tham gia tích cực vào các hội đoàn khác.
Ban Đại Diện Cựu SVSQ K24 (2012-2014):
• Đại Diện: Dương Văn Thái
• Phó Đại Diện: Lê Văn Thanh
• Thủ Quỹ: "Ngỗng Già" Lê Ngọc Thạch
Những giây phút bên nhau
Xa nhau thì nhớ, gần nhau thì phiền
Nước chảy đá mòn, tấc dạ chẳng mòn
Mãi sắt son, Nước Việt tròn thắm tươi!
524
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
•39 Năm Tình Bạn Khóa 24
Họp Khóa 24 cuối năm 2006 tại Santa Ana, California, USA
• 43 Năm Tình Bạn Khóa 24
Họp Khóa 24 (15/10/2010 - 19/10/2010) tại San Jose, California, USA
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
525
• 45 Năm Tình Bạn Khóa 24
Họp Khóa 24 (6/10/2012-8/10/2012) tại Santa Ana, California, USA
LỜI CUỐI
Trong khuôn khổ hạn hẹp của những trang này, các bạn là động cơ thúc đẩy, là
những gì trân quý trong kỷ niệm của các anh em Khóa 24 Trường VÕ BỊ QUỐC GIA
VIỆT NAM, ngôi Trường Mẹ thân yêu mà từ đó chúng ta có cơ hội, được tôi luyện trong
sắt thép để trưởng thành trong lý tưởng mà quốc gia mong đợi.
Thân chúc các bạn và thân quyến những gì tốt đẹp nhất.
526
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
DANH SÁCH KHÓA 24 (Theo Nghị Định Số 0123/TTM/NĐ)
1. Nguyễn Thế Anh 41. Đinh Tiến Đạo
2. Bùi Văn Ánh 42. Hà Văn Đoái
3. Ngô Ngọc Ấn 43. Lê Đắc Đoàn
4. Nguyễn Viết Ấn 44. Nguyễn Đăng Đoàn
5. Nguyễn Xuân Âu 45. Nguyễn Hùng Đởm
6. Nguyễn Văn Ba 46. Bùi Minh Đức
7. Trương Văn Ba 47. Huỳnh Đức
48. Vũ Xuân Đức
8. Bùi Dân Bá 49. Nguyễn Văn Đực
9. Huỳnh Bá 50. Nguyễn Văn Được
10. Lữ Minh Bá 51. Tôn Thất Đường
11. Phạm Hữu Bảo 52. Hoàng Văn Giai
12. Võ Trọng Bảo 53. Hà Thanh Giảng
13. Nguyễn Đức Bé 54. Bùi Đình Giao
14. Trương Văn Bé 55. Vũ Văn Gioanh
15. Võ Văn Bé 56. Ngô Đức Hải
16. Đinh Phú Bình 57. Nguyễn Hoàng Hải
17. Phạm Thăng Bình 58. Phạm Văn Hàm
18. Phạm Tử Bình
19. Phạm Văn Cang 59. Tào Nhân Hành
20. Nguyễn Thuận Cát 60. Phan Văn Hào
21. Vũ Thế Cần 61. Nguyễn Văn Hậu
22. Nguyễn Thiện Căn 62. Vũ Cao Hiến
23. Trần Minh Chánh 63. Huỳnh Phú Hiền
24. Nguyễn Văn Châu 64. Trịnh Dương Hiển
25. Trần Đại Chiến 65. Vũ Quang Hiển
26. Nguyễn Đăng Chuẩn 66. Nguyễn Trung Hiếu
27. Thái Bình Chương 67. Mai Đức Hoà
28. Nguyễn Thành Danh
29. Nguyễn Hữu Dậu 68. Phan Hoà
30. Nguyễn Văn Du 69. Phạm Đình Hồng
31. Phạm Hữu Du 70. Phan Văn Hồng
71. Vũ Văn Hợi
32. Lê Công Dung 72. Châu Toàn Huệ
33. Phan Hùng Dũng 73. Nguyễn Huệ
34. Nguyễn Văn Duy 74. Nguyễn Khoa Huân
35. Phạm Dương 75. Trần Văn Huấn
36. Phạm Văn Dzương 76. Ông Vĩnh Huấn
37. Nguyễn Dzương Dzương 77. Đoàn Văn Hùng
38. Nguyễn Văn Đạc 78. Lại Đức Hùng
39. Phạm Văn Đàng 79. Lê Văn Hùng
40. Nguyễn Văn Đằng 80. Huỳnh Ngọc Hùng
BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
527
81. Nguyễn Hoàng Hùng 123. Lê Văn Minh
82. Nguyễn Văn Hùng 124. Trương Ngọc Minh
83. Trần Hữu Hùng 125. Trương Thành Minh
84. Trần Thế Hùng 126. Trương Văn Minh
85. Võ Đức Hùng 127. Trần Văn Một
86. Nguyễn Thấn Hưng 128. Lê Văn Mười
87. Phạm Việt Hưng 129. Nguyễn Mười
88. Nguyễn Văn Hương 130. Nguyễn Văn Mười
89. Nguyễn Văn Hướng 131. Nguyễn Văn Mừng
90. Đoàn Nhật Hỷ 132. Bùi Mỹ
91. Lê Văn Kẹt 133. Trần Nam
92. Phạm Tài Khanh
93. Nguyễn Kim Khánh 134. Ngô Nên
94. Dương Quốc Khánh 135. Nguyễn Văn Nghề
95. Đỗ Khắc Khoan 136. Nguyễn Văn Nhái
96. Vũ Đăng Khiêm 137. Nguyễn Văn Nhàn
97. Lê Minh Khiết 138. Thái Văn Nhi
98. Hoàng Bá Kiệt 139. Võ Văn Nhiều
99. Lê Văn Kín
100. Lý Trực Kỳ 140. Hoàng Nhu
101. Đồng Ngọc Lâm 141. Nguyễn Nông
102. Trần Bá Lân 142. Nguyễn Ngọc Nở
103. Võ Đình Lân 143. Nguyễn Văn Niên
104. Chương Thành Lập 144. Quách Vĩnh Niên
105. Lê Văn Lẹ 145. Nguyễn Phán
106. Nguyễn Văn Lia 146. Lương Văn Phát
107. Nguyễn Văn Liêm 147. Võ Kỳ Phong
108. Trương Hoàng Linh 148. Nguyễn Trọng Phú
109. Hoàng Đình Long 149. Lê Đình Phúc
110. Nguyễn Thanh Long 150. Nguyễn Hạnh Phúc
151. Nguyễn Hữu Phúc
111. Võ Long 152. Mai Văn Phụng
112. Ngô Bửu Lộc 153. Hồng Văn Phụng
113. Huỳnh Thiện Lộc 154. Võ Văn Phụng
114. Đặng Hữu Lợi 155. Phạm Hữu Phước
115. Trần Đình Lợi 156. Lâm Văn Phước
116. Phạm Kinh Luân 157. Lê
Hữu Phước
117. Vàng Huy Luyến 158. Phan Văn Phước
118. Đặng Văn Lực 159. Trần Hữu Phước
119. Nguyễn Đức Lưu 160. Lưu Xuân Phước
120. Ngô Trung Lương 161. Nguyễn Văn Phượng
121. Nguyễn Thanh Lương
122. Dương Duy Mẫn 162. Ông Quan
163. Nguyễn Thành Quan
528
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
164. Tạ Văn Quang
165. Nguyễn Văn Quân 207. Hoàng Ngọc Thịnh
166. Phạm Ngọc Quế 208. Phạm Tấn Thịnh
167. Đặng Ngọc Quý 209. Phan Thế Thiệp
168. Nguyễn Văn Quyến 210. Nguyễn Thọ
169. Dương Quang Quyền 211. Lê Xuân Thọ
170. Cao Ngọc Sa 212. Diệp Thuận
171. Nguyễn Ngọc San 213. Nguyễn Hữu Thuần
172. Lê Văn Sang 214. Nguyễn Văn Thương
173. Đinh Sinh 215. Phan Vĩnh Thủy
174. Nguyễn Hồ Sơ 216. Nguyễn Trọng Tiến
175. Quách Văn Sở 217. Phạm Văn Tiền
176. Võ Hỷ Sơn 218. Trần Kim Tiếng
177. Nguyễn Thanh Sơn 219. Nguyễn Tất Tình
178. Trần Thế Sung 220. Nguyễn Quang Toản
179. Phạm Ngọc Sương 221. Trần Văn Tổng
180. Nguyễn Văn Sự 222. Nguyễn Văn Tốt
181. Phạm Đại Tá 221. Trần Văn Tổng
182. Đào Trọng Tài 222. Nguyễn Văn Tốt
183. Phan Hữu Tại 223. Phan Văn Trác
184. Trần Hữu Tám 224. Hồ Đức Trai
185. Trần Minh Tâm 225. Huỳnh Hữu Trị
186. Đinh Bá Tẩm 226. Nguyễn Đắc Trung
227. Võ Thiện Trung
187. Ngô Minh Tân 228. Trần Văn Trung
188. Nguyễn Nhật Tân 229. Trần Vũ Trụ
189. Dương Tấn 230. Nghiêm Xuân Trường
190. Ngô Tấn 231. Châu Hoàn Tư
191. Lê Văn Tập 232. Dương Phước Tuân
192. Phạm Bảo Thạch 233. Nguyễn Văn Tuân
193. Nguyễn Đức Thạch 234. Nguyễn Trọng Tường
194. Lê Ngọc Thạch 235. Trần Quý Tường
195. Dương Văn Thái 236. Trần Văn Tường
196. Lê Văn Thanh 237. Nguyễn Đức Văn
197. Trần Ngọc Thanh 238. Tống Hoàng Văn
198. Trần Văn Thanh 239. Phạm Quốc Việt
199. Phan Đạm Thành 240. Đặng Đức Vượng
200. Hà Văn Thành 241. Nguyễn Văn Xuân
201. Trần Thạnh 242. Trương Văn Xuân
202. Lưu Đức Thắng 243. Trần Minh Xuyên
203. Đinh Văn Thân 244. Phùng Xứng
204. Trần Văn Thể 245. Nguyễn Văn Yên
205. Lê Văn Thiêm
206. Mạc Tấn Thiện BẢN
THẢO
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
529
Biên Soạn: Lê Ngọc Thạch, Ngô Minh Tân, Huỳnh Thiện Lộc, Nguyễn Đắc Trung
Kỹ Thuật: Ngô Minh Tân
Đóng góp: Lê Văn Thanh, Vũ Xuân Đức, Trần Văn Huấn, Nguyễn Viết Ấn, Trần
Vũ Trụ, Trần Văn Thanh, Dương Văn Thái
Cung cấp sử liệu: Cựu SVSQ K24
Tháng 7 năm 2013
530
Khóa
24
-‐
Đỗ
Cao
Trí
BẢN
THẢO
KHÓA 25 - QUYẾT CHIẾN TẤT THẮNG
TRƯỜNG VÕ BỊ QUỐC GIA VIỆT NAM
SƠ LƯỢC
Nhập Trường: 10-12-1968
Số Ứng Viên Nhập Trường: 298
Mãn Khóa: 15-12-1972
Chủ Tọa Lễ Mãn Khóa: Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm
Số Sĩ Quan Tốt Nghiệp: 260
Tên Khóa: Quyết Chiến Tất Thắng
Thủ Khoa: Nguyễn Anh-Dũng
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
v Được tuyển chọn từ hơn 3.000 thí sinh qua một cuộc thi văn hóa tại nhiều địa
điểm trên toàn quốc.
v Ứng viên nhập trường làm 4 đợt, trong thời gian khoảng hơn một tuần, với tổng số
298 người.
BẢN
THẢO
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
531
v Một Tân Khóa Sinh (TKS) bị tử nạn trong thời gian huấn nhục.
v Vì lý do an ninh, TKS chinh phục đỉnh Lapbé Nord thay vì đỉnh Lâm Viên như dự
định.
v Trong năm thứ hai, một Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) hy sinh tại chiến hào trong
đêm Việt Cộng tấn công Trường.
v Cũng trong năm thứ hai, một SVSQ được chọn đi thụ huấn tại Trường Võ Bị West
Point Hoa Kỳ và tốt nghiệp Khóa USMA 1974.
v Khóa đầu tiên mở đầu truyền thống Lễ Trao Nhẫn Khóa.
v Khóa đầu tiên được huấn luyện Liên Quân Chủng (Hải, Lục & Không Quân) trong
năm thứ ba và thứ tư trước khi tốt nghiệp.
v Khóa đầu tiên có Đại Đội I (Không Quân) và Đại Đội K (Hải Quân), nâng tổng số
thành 10 Đại Đội SVSQ trong Trung Đoàn SVSQ.
*
**
Tết Mậu Thân 1968, sau khi cuộc tổng tấn công của Cộng Sản miền Bắc vào phần
lớn lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa bị thất bại nặng nề, toàn thể dân chúng trên khắp 4
vùng chiến thuật đều sôi sục ý chí đấu tranh chống Cộng triệt để. Trước hoàn cảnh dầu
sôi lửa bỏng, Tổ Quốc lâm nguy, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ban hành lệnh Tổng
Động Viên kêu gọi thanh niên yêu nước gia nhập quân đội để chiến đấu chống lại sự
xâm lăng của Cộng Sản.
Giữa tháng 8 năm 1968, hơn 3.000 thanh niên đầy đủ điều kiện văn hóa (tối thiểu
Tú Tài II Ban Toán hoặc Khoa Học Thực Nghiệm) trên toàn lãnh thổ đã nộp đơn xin gia
nhập vào Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Sau một kỳ thi tuyển văn hóa tại các thành
phố chính và cuộc tuyển chọn sức khỏe tại Đà Lạt, 298 thanh niên đã trúng tuyển, trở
thành các ứng viên Khóa 25 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Đây là nét đặc biệt đầu
tiên của Khóa 25. Đặc biệt bởi vì các tân khóa sinh được tuyển chọn từ một số lượng
đông đảo nhất trong lịch sử tuyển lựa các thanh niên để gia nhập vào Trường Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam.
NGÀY NHẬP TRƯỜNG
Trung Tâm Huấn Luyện Cảnh Sát Dã Chiến ở Trại Mát, Đà Lạt được dùng làm
trại tạm trú cho các ứng viên trúng tuyển văn hóa. Nơi đây các ứng viên được khám sức
khỏe và thi thể lực tổng quát, một số ứng viên bị loại vì không đạt được tiêu chuẩn thể
chất.
Ứng viên Khóa 25 nhập trường trong 4 đợt vì những khó khăn về liên lạc, phương
tiện di chuyển, v.v… Có những ứng viên được gọi nhập trường sau khi đã trình diện vào
Trường Võ Khoa Thủ Đức. Ngoài ra có 8 ứng viên đến từ Trường Thiếu Sinh Quân Việt
Nam.
532
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
BẢN
THẢO
Ứng Viên K25 đang được khám sức khỏe tại Trại Mát, Đà Lạt,
trước khi chính thức gia nhập TVBQGVN
Các Ứng Viên K25 được khảo sát về thể chất tại Trại Mát, Đà Lạt
BẢN
THẢO
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
533
Ngày 10 tháng 12 năm 1968, trước Cổng Nam Quan, đợt đầu tiên nhập trường
theo nghi lễ chào đón truyền thống với số ứng viên đông nhất: Gần 200 ứng viên đã trình
diện SVSQ Cán Bộ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn Tân Khóa Sinh (SVSQ Trần Vĩnh
Thuấn Khóa 23) và Hệ Thống SVSQ Cán Bộ Tân Khóa Sinh (thuộc Khóa 23, Tiểu Đoàn
II). Đợt sau cùng nhập trường vào ngày 19 tháng 12, với 3 ứng viên trình diện trễ từ
Vùng I Chiến Thuật. Cũng nên nói thêm, trong thời gian này Khóa 23, Tiểu Đoàn I, đi
thụ huấn Nhảy Dù tại Sài Gòn và sẽ huấn luyện TKS Khóa 26 vào năm tới.
Quang cảnh các ứng viên K25 trước Cổng Nam Quan trước khi nhập trường.
Trong ảnh, các SVSQ Cán Bộ TKS đang thực hiện thủ tục trình diện
lên SVSQ Trần Vĩnh Thuấn K23, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ/TKS/K25
Hình ảnh ngày nhập trường của một số Ứng Viên K25 trình diện trễ
534
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
BẢN
THẢO
Phải “gập cằm 3 ngấn” trong ngày đầu của tám tuần sơ khởi
Tập bò dưới giao thông hào trong ngày nhập trường
BẢN
THẢO
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
535
TKS K25 được hớt tóc ngắn 3 phân ngay trong ngày nhập trường
Đến giờ phút này, đời sống quân trường mới bắt đầu. Tất cả những thay đổi đột
ngột về thể chất, môi trường, những giao động tình cảm, phản ứng tinh thần có lẽ không
cho họ một ý niệm nào về “KHÓA 25,” một danh từ chung mới mẻ mà họ đã nhận.
Nhưng đây chính là thời gian đánh dấu cho một khóa được hưởng nhiều may mắn đặc
biệt. May mắn được tuyển lựa từ một số đông đảo ứng viên trên toàn quốc. May mắn
được thụ huấn trong một giai đoạn chuyển hướng toàn diện của Trường, chương trình cả
văn hóa, quân sự lẫn lãnh đạo chỉ huy được cập nhật hóa, và những cơ sở tối tân đồ sộ
được hoàn tất như Khu Văn Hóa Vụ, Nhà Thí Nghiệm Nặng, Thư Viện và Khu Quân Sự
Vụ.
TÂN KHÓA SINH KHÓA 25
Ngày 22 tháng 12 năm 1968, lễ khai giảng Mùa Tân Khóa Sinh Khóa 25 được cử
hành trọng thể tại Vũ Đình Trường Lê Lợi và khởi đầu từ đó, các Tân Khóa Sinh bắt đầu
những tháng ngày thực thụ làm lính quân trường.
Trong 9 “tuần sơ khởi,” từ 10-12-1968 đến 14-02-1969, các TKS phải trải qua một
thời gian lột xác thật sự, từ một thanh niên dân chính yếu đuối thành một quân nhân
mạnh mẽ. Ngoài những tục lệ truyền thống khắt khe của nhà trường lúc ban đầu, họ còn
phải trải qua những thử thách đầy cam go và gian khổ, những chịu đựng dày dạn gió
sương và tuân hành kỷ luật tuyệt đối.
Mùa Tân Khóa Sinh cũng là mùa quân sự năm thứ nhất với các bài học trong lớp
và ngoài bãi tập về kỹ thuật cá nhân chiến đấu, chiến thuật cấp Tiểu Đội, và vì trong thời
gian huấn nhục nên cũng là thời gian vất vả nhất. Không một phút nào rỗi rảnh, tinh thần
luôn luôn căng thẳng, lúc nào cũng phải chuẩn bị để nghe lệnh và thi hành lệnh. TKS
tuyệt đối tuân lệnh và thi hành, không lý do và không khiếu nại.
536
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
BẢN
THẢO
Tân Khóa Sinh K25 trong một buổi học Chiến Thuật
Một Đại Đội TKS K25 trước doanh trại
BẢN
THẢO
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
537
TKS K25 trên đỉnh Lapbé Nord
Ba mươi sáu (36) TKS đã phải rời Trường trong thời gian này vì “chí những mong
tiến bước, nhưng sức không kham nổi đoạn đường.” Riêng TKS Võ Bá Vạn thuộc Đại
đội B đã không may tử nạn trong thời gian huấn nhục.
Ngày 14 tháng 02 năm 1969, TKS Khóa 25 chinh phục đỉnh Lapbé Nord (cao độ
1.732m). Cuộc hành quân truyền thống chinh phục đỉnh Lâm Viên (còn gọi là Lang
Biang, cao độ 2.167m) bị huỷ bỏ vào giờ chót vì lý do an ninh.
Buổi chiều cùng ngày là nghi lễ Trao Găng, Mũ và Thắt Lưng Cổ Truyền tại từng
phòng của mỗi TKS bên cạnh ánh nến lung linh. Buổi tối, tại Vũ Đình Trường Lê Lợi,
dưới sự chủ tọa của Thiếu Tướng Chỉ Huy Trưởng Lâm Quang Thi, 261 TKS Khóa
25 được chấp nhận là SVSQ năm thứ nhất. Trước khán đài danh dự, Thiếu Tướng Chỉ
Huy Trưởng đã gắn cặp Alpha Đỏ lên cầu vai Đại Diện TKS Khóa 25, Lê Xuân Thảo, và
các SVSQ Cán Bộ Khóa 23 đã gắn cấp hiệu Alpha cho mỗi TKS trong hàng quân.
NĂM THỨ NHẤT (1969)
Sau lễ gắn Alpha, Khóa 25 hoàn tất thêm 2 tuần lễ "trả nợ" mùa Quân Sự năm thứ
nhất. Có người suốt 9 tuần lễ TKS vẫn vững vàng nhưng đã phải điêu đứng trong giai
đoạn này. Đây cũng kể là một điểm đặc biệt của Khóa 25, vì TKS Khóa 25 phải chịu
đựng tất cả 11 tuần lễ huấn nhục.
Bốn khóa 22B, 23, 24 và 25 bắt đầu mùa Văn Hóa 1969 với chương trình giảng
dạy của một trường đại học khoa học kỹ thuật dân chính để khi tốt nghiệp họ sẽ được
nhận lãnh văn bằng Cử Nhân Khoa Học Ứng Dụng là mục tiêu của Trường. Khóa 25
được đòi hỏi phải học hành trong một chương trình đầy đủ với những tiêu chuẩn khắt
538
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
BẢN
THẢO
khe. Kết quả rất đáng khích lệ và sau kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt, Thiếu Tướng Chỉ Huy
Trưởng, lần đầu tiên, đã cấp phép đặc biệt cho 20 SVSQ Khóa 25 đạt điểm văn hóa cao
nhất về thăm gia đình.
NĂM THỨ HAI (1970)
Ngoài chương trình Văn Hóa và Quân Sự, toàn thể Khóa 25 đã được gởi đi du
hành vào đầu tháng 11 năm 1970 tại các Trung Tâm Huấn Luyện và đơn vị lớn trong lãnh
thổ Quân khu II và III để quan sát, học hỏi và gặt hái những kinh nghiệm về tổ chức và
chỉ huy, đồng thời nhận thức tiềm năng của quốc gia.
Giữa năm thứ hai, SVSQ Khóa 25 Phạm Minh Tâm là người Việt Nam đầu tiên
được tuyển chọn theo học Trường Võ Bị West Point, Hoa Kỳ. Sau khi tốt nghiệp
khóa USMA 1974, Thiếu Úy Tâm đã trở về làm Sĩ Quan Cán Bộ tại Trường. Một thành
viên Khóa 25 khác đã phải từ giã bạn bè trong năm này vì lý do sức khỏe, đó là SVSQ
Nguyễn Văn Hoan, thuộc Đại Đội C.
SVSQ K25 trong giờ học Văn Hóa
Và cũng rất đặc biệt, ngay khi còn là SVSQ, Khóa 25 đã có con chim đầu đàn
SVSQ Huỳnh Kim Quang nêu gương hy sinh. Đêm 31 tháng 3 rạng ngày 1 tháng 4 năm
1970, lợi dụng sương mù dày đặc, một toán Cộng Quân đã đột kích đánh phá Bộ Chỉ Huy
nhà trường. Quang đã gục ngã tại chiến hào trước Hội Quán SVSQ, bên ngoài Cổng Nam
Quan, khiến địch không thể bước chân đến được cổng Trường Mẹ. Oai hùng thay người
SVSQ năm thứ hai ra đi khi còn quá trẻ, mới 21 tuổi đời, anh đã để lại trong tâm hồn các
SVSQ Khóa 25 một tấm gương cao quý với những tiếc thương khôn cùng. Để tưởng nhớ
BẢN
THẢO
Khóa
25
-‐
Quyết
Chiến
Tất
Thắng
539