CÔNG TRÌNH 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (1930 - 2015) Tập 1: Phong trào Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (1930 - 1975) * * * BAN CHỈ ĐẠO & QUẢN LÝ CÔNG TRÌNH Trưởng ban: Bà Nguyễn Thị Ngọc Bích - Nguyên Chủ tịch Hội LHPN TP.HCM Phó ban: Bà Lâm Thị Ngọc Hoa - Phó Chủ tịch Thường trực Hội LHPN TP.HCM Các thành viên: - Bà Đỗ Thị Chánh - Phó Chủ tịch Hội LHPN TP.HCM - Bà Trần Thị Phương Hoa - Phó Chủ tịch Hội LHPN TP.HCM - Bà Trần Thị Huyền Thanh - Phó Chủ tịch Hội LHPN TP.HCM - Bà Lê Huyền Ái Mỹ - UV BTV Hội LHPN TP, Tổng Biên tập Báo Phụ nữ TP.HCM - Bà Phan Thị Bích Hường - UV BTV Hội LHPN TP, Giám đốc Nhà Văn hóa Phụ nữ TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh - UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Hội LHPN TP.HCM - Bà Đoàn Thị Thanh Thủy - UV BTV, Trưởng Ban Gia đình - Xã hội Hội LHPN TP.HCM - Bà Cổ Tấn Mỹ Dung - UV BTV, Trưởng Ban Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế Hội LHPN TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Thanh Loan - UV BTV, Trưởng Ban Chính sách - Luật pháp Hội LHPN TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Ngọc Linh - UV BTV, Trưởng Ban Tổ chức - Kiểm tra Hội LHPN TP.HCM - Bà Nguyễn Thúy Hằng - UV BTV, Chánh Văn phòng Hội LHPN TP.HCM
BAN BIÊN SOẠN Chủ biên: Bà Nguyễn Thị Ngọc Bích - Nguyên Chủ tịch Hội LHPN TP.HCM Đồng Chủ biên: Bà Hoàng Thị Hồng Hà - Tiến sĩ Ngữ văn Các thành viên: - Bà Lâm Thị Ngọc Hoa - Phó Chủ tịch Thường trực Hội LHPN TP.HCM - Bà Lê Huyền Ái Mỹ - UV BTV Hội LHPN TP, Tổng Biên tập Báo Phụ nữ TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh - UV BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Hội LHPN TP.HCM - Bà Hoàng Mi - ThS. Chuyên ngành Báo chí Khoa học công nghệ - Bà Nguyễn Thị Hồng - ThS. Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Kim Thoa - ThS. Chuyên ngành Quản trị Du lịch, Trường Đại học Hutech TP.HCM - Ông Phan Văn Khoa - ThS. Chuyên ngành Công nghệ thông tin, Trường Đại học Hutech TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Mến - ThS. Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM - Bà Nguyễn Thị Liên - ThS. Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM - Bà Dương Bảo Linh - ThS. Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM - Bà Thái Thị Thu Thắm - ThS. Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM
- 5 - Lời giới thiệu Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn ba quyển sách: Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1930 - 1954) xuất bản năm 1985, Phong trào phụ nữ Thành
- 6 - phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1954 - 1985) xuất bản năm 1987, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (1975 - 2005) xuất bản năm 2006. Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các tài liệu, dữ kiện lịch sử truyền thống của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Nam Bộ, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, tài liệu từ ba quyển sách Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn bộ sách 85 năm Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1930 - 2015) gồm 2 tập. Tập 1: Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (1930 - 1975); Tập 2: Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1975 - 2015). Trong tập 1 của bộ sách sẽ thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc và vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ Thành phố. Mặc dù Ban Biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý chân thành của Quý độc giả. BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- 7 - - CHƯƠNG I - PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được hình thành trên nền tảng những đặc điểm của vùng đất và quá trình tác động vào con người, tạo nên quan niệm sống, tính cách và chọn lựa của họ trong suốt những thời kỳ lịch sử nối tiếp nhau. Nhằm mục tiêu xác định những nền tảng cơ sở hình thành lực lượng và phong trào, chương này tập trung xác định các yếu tố thực tiễn: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, con người, tư tưởng, đặc điểm địa phương… để xem xét những ảnh hưởng mang tính tổng hợp đã hình thành nên nhận thức, hành động của tầng lớp phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong giai đoạn 1930 - 1945, chi phối đặc điểm của phong trào phụ nữ và tiếp tục là cơ sở cho sự phát triển trong các giai đoạn sau này. Nét nổi bật cơ bản trong giai đoạn này là sự hình thành và chuyển biến của tầng lớp phụ nữ. Dần dần bứt ra khỏi
- 8 - những lề lối, ràng buộc của xã hội phong kiến truyền thống, một tầng lớp phụ nữ Nam Bộ hiện đại đã hình thành, phạm vi cuộc sống của họ dần được mở rộng, không còn bị bó hẹp trong góc bếp xó nhà và bổn phận nữa. Người phụ nữ từng bước lột xác, bước ra khỏi bóng tối mà xã hội phong kiến đã trùm lên thân phận của họ. Không khí chung của thời đại, sự giải phóng con người cá nhân về mặt nhận thức, tư tưởng, học vấn… đã từng bước ảnh hưởng đến người phụ nữ. Người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có đặc điểm riêng của mình, một cách tổng quan hay chi tiết, đặc điểm này đều được thể hiện trong hoàn cảnh hay nhân vật lịch sử. Tuy nhiên, sự khẳng định này cần phải được khảo sát từ nhiều bình diện, để thấy được yếu tố cơ sở, sự hình thành và quá trình tác động chặt chẽ đã tạo nên con người và phong trào, cũng là những yếu tố sẽ duy trì sức phát triển của con người và phong trào ấy trong các giai đoạn tiếp theo. I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ THÀNH PHỐ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, địa giới hành chính địa phương của một khu vực hoặc tỉnh thành, thường không cố định bất biến mà luôn có sự thay đổi. Sự thay đổi thường gắn liền với bối cảnh lịch sử cụ thể hoặc do yêu cầu thực tiễn đặt ra. Sài Gòn - Gia Định là một vùng đất mới, địa giới hành chính vùng đất này có sự chuyển dịch linh hoạt và phức tạp, đặc biệt khi thực dân Pháp xâm chiếm mảnh đất này. Khảo sát phong trào phụ nữ của vùng đất này, trước tiên, phải hình dung rõ địa giới hành chính của nó. Những thay đổi về mặt hành chính có thể không trực tiếp tác động ngay đến phong trào vào thời điểm diễn ra sự kiện lịch sử, song khi có một quãng lùi nhất định để quan sát, đúc
- 9 - kết lại trong một hành trình, những thay đổi này rõ ràng có vai trò rất quan trọng. 1. Địa giới hành chính Sự kiện Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, lập Phủ Gia Định vào năm 1698 là một cột mốc có ý nghĩa lịch sử. Khi ấy, địa phận phủ Gia Định(1) bao gồm hai huyện Phước Long (Biên Hòa) và Tân Bình (Sài Gòn, từ sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ Đông), với diện tích khoảng 30.000km2 ). Trải qua những lần chính biến, cả tên gọi và diện tích vùng đất này đều có nhiều thay đổi, mở rộng hay thu hẹp đều tùy theo chính sách cai trị của giai cấp và nhà nước cầm quyền(2). Phần này chủ yếu lược lại những thay đổi quan trọng trong giai đoạn này. Năm 1859, Pháp chiếm Gia Định, đổi tên tỉnh Gia Định thành tên gọi mới - tỉnh Sài Gòn, sau khi chiếm trọn Nam Kỳ vào năm 1867. Tỉnh Sài Gòn gồm Sài Gòn (gồm 2 huyện Bình Dương và Bình Long), Phước Lộc (huyện Cần Giuộc), Tân Hòa (huyện Gò Công), Tân An (huyện Bình Lập), Tây Ninh (huyện Tây Ninh), Quang Hóa (huyện Trảng Bàng). Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng…). Ngày 11/4/1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định 1. Dưới thời Nguyễn, Gia Định mang ý nghĩa biểu tượng của Nam Kỳ, diện tích cũng như tên gọi liên tục thay đổi. Tên gọi Phủ Gia Định vẫn giữ nguyên đến năm 1779, nhưng khi ấy địa phận vùng đất này đã được mở rộng gấp đôi, lên đến 64.743km2 , gồm Dinh Phiên Trấn (Sài Gòn), Dinh Trấn Biên (Biên Hòa), Dinh Trường Đồn (Định Tường), Dinh Long Hồ (Vĩnh Long), Trấn Hà Tiên. Mười một năm sau, Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái theo kiến trúc Vauban, đặt tên là Gia Định Kinh. Không lâu sau, Gia Định Kinh đổi thành Gia Định Trấn Thành khi Gia Long lên ngôi, chọn Phú Xuân (Huế) làm kinh đô. Gia Định Trấn Thành đổi ra Gia Định Thành cai quản 5 trấn. Khi Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng đổi ra thành Phiên An, rồi tỉnh Gia Định. Khi Pháp chiếm Gia Định, mảnh đất này bước vào một cuộc phân ly lớn. 2. GS.PTS. Nguyễn Phan Quang (1998), Góp thêm tư liệu Sài Gòn - Gia Định từ 1859 - 1945, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 32 - 39.
- 10 - xác định địa giới thành phố Sài Gòn: phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km². Trước khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, Phó Đô đốc De La Grandière, trong nghị định số 53, 4/4/1867, quy định về việc “Tổ chức một ủy ban thành phố Sài Gòn”. Từ năm 1861, thực dân Pháp đã dự định quy hoạch biến Sài Gòn thành một thành phố theo kiểu phương Tây. Năm 1872, thực dân Pháp điều chỉnh địa giới, chia tỉnh Sài Gòn thành Sài Gòn (gồm huyện Bình Dương, Bình Long, Ngãi An), Chợ Lớn (gồm huyện Tân Long, Phước Long cũ), Tân An (gồm huyện Tân Thạnh, Cửu An), Tây Ninh (gồm huyện Tây Ninh và Quang Hóa cũ). Năm 1880, tỉnh Sài Gòn được mở rộng hơn, sáp nhập thêm tổng Bình Chánh Thượng (vùng Tân Định, Chợ Đũi, Đa Kao, Hòa Hưng và một phần của quận 3 ngày nay) và Dương Minh (Cầu Kho, Khánh Hội, Hòa Hưng, Chợ Đũi, Đa Kao). Hội đồng thành phố được thành lập năm 1877. Đến ngày 20/10/1879, Ủy ban Thành phố Chợ Lớn được thành lập. Sài Gòn được xếp vào loại thành phố lớn - thành phố cấp 1, Chợ Lớn được xếp loại thành phố cấp 2. Chưa đầy một năm sau, thống đốc Nam Kỳ ra nghị định sáp nhập hai thành phố thành Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Tám năm sau, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định xoá bỏ Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, lập lại hai thành phố như cũ. Thành phố Sài Gòn được xếp là thành phố loại 1, vẫn nằm trong phạm vi huyện Bình Dương, thành phố Chợ Lớn được xếp là thành phố loại 2 nằm trong phạm vi huyện Tân Long. Hai thành phố chỉ chiếm diện tích nhỏ (Sài Gòn: 447 ha, Chợ Lớn: ngót 700ha), tuy đã đô thị hóa nhưng vẫn còn chung
- 11 - không gian sinh hoạt với một số xã thôn cũ, quá trình đô thị hóa chưa có ảnh hưởng rõ rệt. Sang thế kỷ XX, thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn lại sáp nhập lại thành Khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Như vậy, tỉnh Sài Gòn lúc này có hai thành phố gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn, hai tỉnh là tỉnh Gia Định và tỉnh Chợ Lớn. Thành phố Sài Gòn rộng 1.000ha, tương đương Quận 1, Quận 3, Quận 4 ngày nay, phía bắc giáp rạch Thị Nghè, phía đông giáp sông Sài Gòn, phía nam giáp rạch Bàu Đồn, phía tây giáp Thành phố Chợ Lớn. Thành phố Chợ Lớn có diện tích xấp xỉ Thành phố Sài Gòn, tương đương Quận 5, một phần Quận 6, Quận 10 ngày nay, phía bắc giáp đường Ba Tháng Hai ngày nay, phía đông giáp đại lộ Nguyễn Văn Cừ ngày nay, phía nam giáp rạch Bến Nghé, phía tây giáp rạch Lò Gốm. Tỉnh Gia Định gồm 200 thôn xã thuộc các tổng: An Bình, An Điền, An Thành, An Thít, An Thổ, An Thủy, Bình Thạnh Hạ, Bình Thạnh Trung, Bình Trị Hạ, Bình Trị Thượng, Long Tuy Hạ, Long Tuy Thượng, Long Tuy Trung, Long Vịnh Hạ. Tỉnh Chợ Lớn gồm 69 thôn xã thuộc 11 tổng: Cầu An Hạ, Long Hưng Thượng, Long Hưng Trung, Long Hưng Hạ, Phước Điền Thượng, Phước Điền Trung, Phước Điền Hạ, Lộc Thành Thượng, Lộc Thành Hạ, Tân Phong Hạ, Lộc Thành Trung. Năm 1931, tổng thống Pháp ra lệnh thành lập trở lại Khu Sài Gòn - Chợ Lớn đặt dưới sự cai trị của một Trưởng khu - kiêm luôn Chủ tịch Hội đồng quản trị Khu. Từ năm 1932, thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn sáp nhập lại, gọi là
- 12 - Khu Sài Gòn - Chợ Lớn, được chia thành 5 quận, bao gồm: Quận 1 (nay là một phần Quận 1), Quận 2 (nay có một phần thuộc Quận 1), Quận 3, Quận 4 (nay là địa bàn Quận 5 và Quận 8), Quận 5 (nay là địa bàn thuộc Quận 6). Năm 1940, chính quyền Nam Kỳ lập ra các quận tương tương phủ huyện, đứng đầu là một viên “phủ” hay “đốc phủ sứ”. Tỉnh Gia Định được chia thành 4 quận: Hóc Môn (5 tổng, gồm huyện Hóc Môn và Củ Chi ngày nay); Thủ Đức (5 tổng, thuộc địa bàn tỉnh Biên Hòa); Gò Vấp (2 tổng, gồm 1 phần đất thuộc quận Gò Vấp, Bình Thạnh, Phú Nhuận, các huyện Bình Chánh, Hóc Môn ngày nay); Nhà Bè (4 tổng, gồm một phần đất thuộc các huyện Nhà Bè và Cần Giờ ngày nay). Tháng 5/1944, địa phận Sài Gòn - Gia Định tiếp tục mở rộng khi chính quyền Nam Kỳ ra nghị định thành lập tỉnh Tân Bình gồm Gia Định, Thủ Thiêm, Nhà Bè, tương đương địa bàn các quận Gò Vấp, Bình Thạnh, Tân Bình, Phú Nhuận và hai xã Vĩnh Lộc (Bình Chánh), An Khánh (Thủ Đức). Tên gọi Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn hay Sài Gòn - Gia Định, hay Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn là kết quả của những đợt điều chỉnh của các nhà cầm quyền. Sự thay đổi về tên gọi, ở mỗi thời điểm lịch sử đều liên quan đến sự thay đổi về diện tích, địa giới mỗi khu vực, và tất yếu tác động đến cư dân. Sự co dãn về diện tích, thu hẹp hay mở rộng, sáp nhập, sẽ quyết định vai trò và ảnh hưởng của khu vực đó. Tỉnh Gia Định vốn có vị thế của một đơn vị hành chính quan trọng, mang ý nghĩa biểu trưng của Nam Kỳ lục tỉnh dưới triều Nguyễn, được đánh dấu từ khi Nguyễn Hữu Cảnh chọn vùng đất này để khởi dựng cơ nghiệp. Vị thế này đã chuyển sang cho Sài Gòn - vốn chỉ là một bộ phận trước thuộc huyện
- 13 - Tân Bình của tỉnh Gia Định. Khi Pháp chiếm Gia Định, mảnh đất này đã bị chia cắt, bị thu hẹp lại trong phạm vi 18 tổng với 200 thôn xã, diện tích 1.840 km2(1), không còn giữ vai trò trung tâm như trước đây nữa. Từ đây và cả sau này, Sài Gòn sẽ đảm nhiệm vai trò trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Nam Kỳ. Vì thế, trước năm 1945, trong các tên gọi, Sài Gòn/ Sài Gòn - Gia Định/Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, tất cả đều cho thấy vị trí trung tâm và thiết yếu của thành phố Sài Gòn. Sài Gòn với những thuận lợi về cảng biển, có vị trí thuận lợi trong giao thương, trung chuyển quốc tế, lại có chỗ dựa lưng là vùng đồng bằng Sông Cửu Long về lúa gạo, vùng miền Đông Nam Bộ về sản phẩm cao su. Thực dân Pháp đã nhìn ra những tiềm năng này từ sớm, đã bắt tay thực hiện âm mưu biến Sài Gòn thành một dạng thành phố thuộc địa của Pháp. Song song với việc phân chia về địa giới hành chính, Pháp bắt tay thực hiện khai thác thuộc địa lần thứ nhất trên toàn Đông Dương (1897 - 1914)(2). Sài Gòn - vị trí trung tâm của Nam Kỳ đã được đầu tư để khai thác một cách triệt để. Một mặt, Pháp vạch ra các chiến lược khai thác kinh tế từ việc xây dựng cảng Sài Gòn, thiết lập hệ thống giao thông đồng bộ từ trong phạm vi nội ô, hướng ra các vùng phụ cận, vươn ra toàn quốc, là nơi trung chuyển quốc tế. Nhiều nhà máy, nhiều công xưởng được thiết lập. Mặt khác, Pháp bắt tay vào 1. Tham khảo Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Xưa & Nay, 1997. 2. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) do Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer soạn thảo năm 1897 có 7 điều gồm các nội dung: tổ chức bộ máy cai trị toàn Đông Dương theo ý tưởng: chia để trị, thiết lập chính sách thuế khóa mới, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế thuộc địa, tăng cường khai thác sức lao động của người bản xứ, tăng cường lực lượng quân sự, bình định xứ Bắc Kỳ, mở rộng ảnh hưởng của Pháp… Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất kết thúc khi chiến tranh thế giới nổ ra vào năm 1914.
- 14 - việc xây dựng bộ máy thống trị, đặc biệt quy hoạch lại kiến trúc thành phố Sài Gòn, bám sát theo mục tiêu đã đề ra. Hầu hết các công sở, dinh thự của chính quyền thực dân đều tập trung tại thành phố Sài Gòn: từ dinh Toàn quyền, ngân hàng Đông Dương, dinh Thống đốc Nam Kỳ, dinh Thượng thơ, nhà thờ Đức Bà, chợ Bến Thành… Đây cũng là bộ mặt mà chính quyền thuộc địa Pháp ở Nam Kỳ muốn trưng ra trước dư luận quốc tế và chính quốc Pháp, cố gắng điểm tô cho một hình ảnh xa hoa về một “Hòn ngọc Viễn Đông” sau vài chục năm cai trị của người Pháp ở xứ này, hòng che đậy đi những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra. Những thay đổi trong thời kỳ này đã tạo ra những bước chuyển về mặt kinh tế - xã hội của Nam Kỳ, mà Sài Gòn có sự thay đổi lớn nhất. Nhìn chung, qua nhiều lần chia tách, sáp nhập, mở rộng thu hẹp địa giới, đô thị Sài Gòn mang tính chất mở, có mối quan hệ gốc rễ chặt chẽ với các vùng giáp ranh, phụ cận, có sự giao thương với bên ngoài, phần nào dẫn đến sự linh hoạt nhất định trong phong cách, trong suy nghĩ của con người. Khác với hình ảnh tự nhiên về địa giới của vùng Bắc Bộ, Trung Bộ, vốn đã hình thành các làng xã, hương thôn với ranh giới là luỹ tre, cổng làng… từ sớm và ổn định, ranh giới địa phương ghi dấu ấn trong xã hội khá rõ ràng và bền vững, các khu vực địa giới của Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng có tính chất khác. Đặc điểm của vùng đất mới khai phá, ý thức xã hội và truyền thống địa phương chưa định hình gắn kết đủ để tạo nên quán tính; cùng với sự dịch chuyển nhiều lần của ranh giới hành chính, Nam Kỳ đã trở thành một dạng “đất mới”, mà ý nghĩa sâu hơn có thể là tinh thần dễ chấp nhận thay đổi, tính cách phóng khoáng, hào hiệp. Một trong những biểu tượng của vùng đất và tinh thần ấy là đô thị Sài Gòn.
- 15 - Khái niệm “Thành phố Sài Gòn” được dùng trong toàn bộ công trình này gồm cả sự dịch chuyển về ranh giới địa lý qua các thời kỳ như trên và tính chất linh hoạt của các ranh giới hành chính. Ranh giới cũ chưa kịp ổn định thì ranh giới mới đã được công bố. Từ thực tế này, phong trào cách mạng nói chung, và phong trào phụ nữ nói riêng, có thể coi là một cuộc tập hợp lực lượng vượt trên những địa giới hành chính do nhà cầm quyền áp đặt. Trên nền tảng của vùng đất ấy, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, dù là dân địa phương, hay các nơi khác đến sinh sống làm việc trên mảnh đất này bởi lực hấp dẫn của nó, đều chịu những ảnh hưởng nhất định. Tinh thần phóng khoáng, cởi mở, hào hiệp của đất và người Nam Bộ là một điều kiện, cơ hội cho người phụ nữ được bước ra khỏi những rào cản của tư duy phong kiến, được mạnh dạn suy nghĩ và trải nghiệm, được thể hiện mình. Họ đã để lại những dấu ấn sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống thời kỳ đó. 2. Đặc điểm đời sống chính trị Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc (1914 - 1918), thực dân Pháp bắt tay ngay vào cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929). Chính sách khai thác này đã kéo theo nhiều hệ lụy. Sự phản kháng của người dân vốn tiềm ẩn từ trước, nay gặp sự áp bức bất công và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo của bọn thực dân và tay sai, đã bùng lên thành tinh thần tranh đấu. Sài Gòn không chỉ là trung tâm kinh tế, văn hóa mà còn là đầu mối chính trị quan trọng của cả nước, là điểm khởi đầu của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, cả bề rộng lẫn chiều sâu.
- 16 - Sài Gòn trước 1930, có ba sự kiện lớn và ít nhiều có ảnh hưởng đến sự hình thành phong trào phụ nữ: cuộc bãi công của công nhân Ba Son (8/1925), phong trào đấu tranh đòi nhà cầm quyền trả tự do cho chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu (11/1925) và đám tang cụ Phan Chu Trinh (4/1926). Điểm qua các sự kiện này có thể giúp cho cái nhìn về đời sống chính trị của thành phố giai đoạn sau 1930 trở nên chính xác hơn. Cuộc bãi công của Công nhân Ba Son nổ ra vào tháng 8/1925 nhân sự kiện ba chiến hạm Pháp Jules Ferny, Le Maine, Jules Michelet trên đường sang Trung Quốc để đàn áp các phong trào đấu tranh cách mạng, giữa đường bị hỏng phải neo đậu ở cảng Sài Gòn để sửa chữa. Lãnh đạo công nhân xưởng Ba Son đã tổ chức cuộc bãi công, với lý do đòi đáp ứng các yêu cầu về kinh tế. Ngày 4/8/1925, công nhân Ba Son đình công không làm việc, chỉ trở lại làm việc nếu chủ đáp ứng yêu cầu tăng 20% lương, được nghỉ sớm nửa giờ trong ngày lĩnh lương và thu dụng lại số thợ bị giảm. Thống đốc Nam Kỳ đe dọa đuổi việc, đóng cửa xưởng nếu không quay lại làm việc ngay vào hôm sau. Mệnh lệnh đó không có tác dụng. Trong suốt 8 ngày công nhân không quay trở lại làm việc. Pháp đã nhượng bộ, tăng lương 10%, các thợ bị đuổi được quay lại làm việc, những ngày đình công cũng được trả lương. Công nhân Ba Son quay trở lại làm việc, ba tháng sau, chiến hạm mới sửa xong. Cuộc bãi công của công nhân Ba Son thắng lợi vì được đông đảo là hàng vạn công nhân viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ủng hộ, trong suốt một tuần tranh đấu. Thắng lợi ấy chỉ ra: đấu tranh phải có tính tổ chức, có tính mục đích chính trị rõ ràng, phải có người lãnh đạo. Góp vào chiến thắng đó, có một lực lượng ủng hộ lặng lẽ nhưng vô cùng quan trọng là gia đình, những người vợ, người mẹ của
- 17 - các công nhân, thợ thuyền. Họ tuy không trực tiếp đứng ra đấu tranh, nhưng đã là một hậu phương thực sự có sức mạnh, cung cấp lương thực, thực phẩm, nuôi dưỡng phong trào đấu tranh. Tham gia ở mặt trận này, bản thân tầng lớp phụ nữ cũng ít nhiều có trải nghiệm thực tế quan trọng. Phong trào đấu tranh đòi nhà cầm quyền trả tự do cho chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là cuộc đấu tranh chính trị lớn. Phan Bội Châu là một trong những lãnh tụ của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX, một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn của Việt Nam, bị thực dân Pháp xử tử hình vắng mặt. Sau khi bố trí bắt cóc Phan Bội Châu trên đất Trung Quốc, thực dân Pháp đưa cụ về giam ở Hỏa Lò, Hà Nội, dự định bí mật sát hại (11/1925). Nhưng chúng còn chưa kịp trở tay, giới trí thức Hà Nội đã tổ chức cuộc biểu tình đòi xét xử công khai cụ Phan Bội Châu. Cuộc đấu tranh từ Hà Nội nhanh chóng lan vào Sài Gòn, và các địa phương trong cả nước, đòi trả tự do cho cụ. Từ án tử hình, cụ được trả tự do nhưng phải về an trí ở Huế, chịu sự quản thúc của Pháp. Tại Sài Gòn, những tờ báo được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp đã tích cực tranh đấu, phản ánh, hướng dẫn dư luận, một cách tích cực. Chưa bao giờ một chính trị phạm đã bị xử tử hình vắng mặt lại được công khai ca tụng trên báo chí, được người dân công khai gọi là anh hùng dân tộc. Lòng yêu nước được công khai và hãnh diện phô bày bất chấp sự đe dọa của nhà cầm quyền thực dân. Cuộc đấu tranh đã mang tính chất một cao trào yêu nước dân chủ công khai rộng rãi. Phan Bội Châu cũng là một trong những trí thức có quan điểm tiến bộ về phụ nữ và sớm có ý thức vận động phụ nữ tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc. Năm 1929, Phan Bội Châu viết cuốn Vấn đề phụ nữ, bày tỏ quan điểm của
- 18 - mình, nguyên văn: “Phụ nữ là một hạng người ở trong loài người, cũng là một xuất dân ở trong dân nước… muốn nghiên cứu vấn đề về loài người và vấn đề về quốc dân mà lại bỏ vấn đề phụ nữ, thiệt là khuyết điểm cho nhà luân lý, và đến khi cải lương xã hội, thiệt là một chốn tệ hại rất to”(1). Phan Bội Châu đã đặt vấn đề cần thiết phải vận động phụ nữ và liên kết các đoàn thể phụ nữ, tạo nên sự thống nhất một lòng để “bẻ đôi gông vô đạo, chặt đứt xiềng bất nhân”(2). Cùng với ảnh hưởng của phong trào đấu tranh, sức lan tỏa của những tư tưởng của cụ Phan đã góp phần tác động to lớn, thay đổi nhãn quan tư tưởng của các tầng lớp xã hội, tạo một nền tảng, một gốc rễ sâu bền, rộng rãi hơn cho phong trào phụ nữ. Đám tang cụ Phan Chu Trinh là một hoạt động trên mặt trận khác. Tháng 11/1925, từ Pháp về Sài Gòn, Phan Chu Trinh đã tham gia diễn thuyết về hai đề tài “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và “Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa”. Đúng như lời đề dẫn của tác giả, hai vấn đề này không mới, nhưng thật sự cần thiết cho Sài Gòn lúc này, khi cái mới, cái cũ lẫn lộn, những giá trị đạo đức dường như bị đảo lộn, và một bộ phận không nhỏ của trí thức Sài Gòn đang ngộ nhận về chế độ tư sản. Người dân Sài Gòn dễ nhận ra điều Phan Chu Trinh muốn nhắn gửi: “Ai nắm việc thương mại thì nắm được thế giới”(3). Với không khí của đô thị Sài Gòn, tư tưởng của Phan Chu Trinh là một lời kêu gọi phù hợp, có sức động viên lớn và dễ được đồng cảm. Cụ mất ngày 24/3/1926. Giới 1. Phan Bội Châu (1929), Vấn đề phụ nữ, Duy Tân thư xã, Huế, tr. 1. (Lưu ý chữ “cải lương” dùng ở đây có nghĩa là “cải cách, thay đổi”; chữ “một chốn tệ hại rất to” nghĩa là “một thiệt hại, thiếu sót lớn”). 2. Phan Bội Châu (1929), Vấn đề phụ nữ, Duy Tân thư xã, Huế, tr. 14. 3. Hồ Tường (2016), “2 bài diễn thuyết và 1 đám tang rung chuyển Sài Gòn”, Báo Tuổi Trẻ Online, ngày 24/3/2016, nguồn: http://tuoitre.vn/2-bai-dien-thuyet-va-1-dam-tangrung-chuyen-sai-gon-1070701.htm, truy cập ngày 30/12/2017.
- 19 - trí thức Sài Gòn đã tổ chức đám tang của cụ rất trọng thể, là một sự kiện chấn động Sài Gòn thời kỳ đó. Nhiều trí thức ở các tỉnh cũng về viếng và tham gia đưa tang, sau đó về địa phương mình tổ chức đám tang cụ Phan Chu Trinh, thực chất là một hình thức đấu tranh, phổ biến tư tưởng mới. Đánh giá tầm ảnh hưởng lịch sử của sự kiện này, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Trong lịch sử người An Nam chưa hề được chứng kiến một sự kiện to lớn như vậy bao giờ”(1). Trong những bức ảnh(2) còn lưu lại, trong cuốn hồi ký của bà Nguyễn Thị Minh - con gái nhà yêu nước Nguyễn An Ninh(3) ghi sự kiện này như sau: “Tại nhà bác Điển ở đường Pellerin số 54, suốt hơn 10 ngày đó dòng người không ngớt hương trầm nghi ngút. Ngày đi chôn, dân chúng sắp hàng dọc đường Pellerin, qua Nodorom, quẹo Paul Planchy đến Phú Nhuận rồi thẳng lên Tân Sơn Nhất (ngày nay là Pasteur, qua Lê Duẩn, Hai Bà Trưng đến Phú Nhuận lên Tân Sơn Nhất). Hàng chục ngàn người nghiêm trang, tay đeo băng tang xếp hàng đi, có thanh niên của Đảng Jeune An Nam giữ gìn trật tự suốt dọc đường. Một đám tang lớn nhất chưa từng có ở Sài Gòn, đám tang thể hiện sự giác ngộ của quần chúng, đám tang là tấm lòng của đồng bào đối với nhà ái quốc suốt đời chỉ nghĩ đến dân”(4). 1. Nguyên Ngọc, “Đám tang cụ Phan Chu Trinh “Một Big Bang của lòng yêu nước””, Website Đồng hương Tiên Phước, nguồn: http://www.donghuongtienphuoc.com/ tin-tuc/dam-tang-c%E1%BB%A5-phan-chau-trinh-m%E1%BB%99t-big-bangc%E1%BB%A7a-long-yeu-n%C6%B0%E1%BB%9Bc, truy cập ngày 30/12/2017. 2. Bức ảnh được đưa vào Phụ lục. 3. Nguyễn Thị Minh (2004), Nguyễn An Ninh “Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 132 - 133. 4. Nguyễn Thị Minh (2004), Nguyễn An Ninh “Tôi chỉ làm cơn gió thổi”, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 133.
- 20 - Đó là một ngày đặc biệt của người Sài Gòn, 1/3 dân số không kể già trẻ, gái trai, tôn giáo đến đưa tang cụ Phan Chu Trinh như: công nhân, giới chức nghỉ làm, tiểu thương ngừng buôn bán, học sinh tự nghỉ học để làm nghĩa cử của một công dân yêu nước, hưởng ứng lời kêu gọi: “Một dân tộc nào mà không biết tôn kính người ái quốc là dân tộc ấy không có lòng ái quốc!”. Chứng kiến đám tang, giới ngoại kiều ở Sài Gòn nhận xét: Dân tộc này đã tỉnh giấc, họ thức dậy rồi. Đám tang là một hành động có ý nghĩa khẳng định: Sài Gòn là xứ thuộc địa của Pháp, nhưng Sài Gòn là của người Việt Nam. Dòng máu nóng đang chảy trong huyết quản của người Sài Gòn cũng là dòng máu của dân tộc Việt - của con Lạc cháu Hồng, chứ không phải của dân Gaulois như người Pháp đã âm mưu đầu độc từ trong các trường học(1). Sau phong trào, công nhân bị sa thải, học sinh bị trách phạt, nhiều nữ học sinh Trường Nữ sinh Áo Tím đã bị đuổi học vĩnh viễn vì tham gia hoạt động này. Nhưng sự đàn áp hà khắc của nhà cầm quyền thực chất đã trở thành một điều kiện rèn luyện lòng yêu nước. Tinh thần tự cường dân tộc đã được người dân Sài Gòn tiếp nhận một cách sôi nổi, trong đó giới nữ đóng một vai trò quan trọng. 1. Tư tưởng của thực dân Pháp khi thi hành chính sách chế độ giáo dục ở Việt Nam là đào tạo một số tay sai cho chúng, cung cấp một số kiến thức cần thiết cho những người làm công cho tư sản Pháp ở các nhà máy, công xưởng… Mục tiêu là tìm cách hủy hoại những tinh hoa văn hóa dân tộc, ý thức dân tộc, khiến cho người học mất gốc, nhận “Tổ quốc chúng ta là xứ Gaule”, “Tổ tiên chúng ta là người Gaulois”. Đây là chủ trương thâm hiểm làm cho người Việt Nam mất gốc, âm mưu đồng hóa. Viên Thống sứ Bắc Kỳ đã khẳng định trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ngày 1/3/1899: “Thật không thể nào để cho người An Nam được học lịch sử và đọc sách của chúng ta mà lại không gây nguy hại cho lòng yêu nước, yêu tự do… Kinh nghiệm của các dân tộc châu Âu khác đã chỉ rõ ra rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người dân bản xứ là hết sức dại dột”. (Theo Bùi Thị Thu Hà, “Chính sách ngu dân của thực dân Pháp - một tội ác thâm hiểm”, in trong: Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam (1858 - 1954), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 211).
- 21 - Các sự kiện giai đoạn này phản ảnh một thực tế: sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc bằng cách dựa vào một quốc gia khác là không phù hợp, cần một đường lối khác. Con đường ấy đã được người thanh niên Nguyễn Tất Thành tìm thấy, khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Người đã tích cực truyền bá tư tưởng tiến bộ về nước, tích cực liên lạc với các tổ chức tại Việt Nam để vận động thành lập tổ chức Đảng, thông qua cửa ngõ Sài Gòn. Sự kiện này cũng nói lên rằng tinh thần yêu nước trong quần chúng nhân dân rất mạnh mẽ, đang cần một tổ chức chính trị để lãnh đạo giai đoạn sắp tới, với ý thức đấu tranh cao hơn, mạnh hơn. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất ba tổ chức cộng sản dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đây là một sự kiện có tính bước ngoặt của dân tộc: chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối, lãnh đạo dân tộc đấu tranh theo con đường cách mạng chuyên chính vô sản. Sự kiện này có ý nghĩa sâu sắc với tầng lớp phụ nữ. Trong Văn kiện thành lập Đảng tháng 2/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nêu chủ trương lớn về phương diện xã hội “thực hiện nam nữ bình quyền” và vạch ra rõ ràng lộ trình đi đến tự do của người phụ nữ: “Phụ nữ muốn được bình quyền, muốn được tự do và hạnh phúc trước hết phải làm cách mạng giải phóng dân tộc”. Đảng Cộng sản đã nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ của Đảng là “làm cho phụ nữ thoát khỏi tư tưởng tư bổn, đánh đổ cái mộng tưởng “nam nữ bình quyền” trong vòng tư bổn chủ nghĩa” và lưu ý cần tuyên truyền cho phụ nữ nhận thức được rằng: Chỉ khi nào nước nhà được độc lập, chế độ phong kiến bị xoá bỏ thì phụ nữ mới có cơ hội được bình đẳng thực sự, được giải phóng thực sự, do vậy việc vận động phụ nữ tham gia vào các hoạt động cách mạng là
- 22 - vô cùng quan trọng, “nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt mục đích giải phóng được”(1). Mục tiêu giải phóng con người là quan trọng, mục tiêu ấy chỉ đạt được khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đạt đến thắng lợi. Từ 1930 - 1945, trong khoảng thời gian 15 năm này, đời sống chính trị ở Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn cực kỳ sôi động, phức tạp, chịu ảnh hưởng trực tiếp của bối cảnh chính trị từ chính quốc - Pháp, và trong nước. Ba sự kiện chính trị nổi bật ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn thời kỳ này: sự kiện thành lập Đảng (1930), phong trào Đông Dương Đại hội (1936), đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng (1941). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ đã chứng tỏ được năng lực hoạt động, đấu tranh cách mạng, được ghi nhận qua thực tiễn. Ngày 18/2/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, trong đó có lời kêu gọi: “Hỡi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh. Anh chị em bị áp bức, bóc lột! Đảng Cộng sản ở Đông Dương đã được thành lập. Đó là đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta. Từ nay anh chị em cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để: Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến An Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng. Làm cho nước An Nam độc lập. Thành lập chính phủ công nông binh (…). Thực hiện nam nữ bình quyền”(2). 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 189. 2. Nguồn: baotanglichsu.vn/portal/vi/Tin-tuc/Theo-dong-lich-su/2015/01/3A9244E6.
- 23 - Hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, một phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi rộng khắp ba kỳ đã diễn ra, nhiều phụ nữ tham gia, đi theo ngọn cờ của Đảng, ngọn cờ kết hợp giải phóng dân tộc và giải phóng phụ nữ với chủ nghĩa xã hội. Ngay sau khi Đảng Cộng sản được thành lập (3/2/1930), Sài Gòn đã được chọn là nơi đóng cơ quan của Trung ương, của Xứ ủy, của Tổng công hội. Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo các chi bộ Đảng trong xí nghiệp, khu phố. Khi ấy, ở Sài Gòn và vùng phụ cận, ngoài Đảng Cộng sản, không còn đảng nào tồn tại, dù nhỏ. Đảng Cộng sản ở Sài Gòn có cơ sở ở đề pô Dĩ An, đề pô Sài Gòn, hãng dầu Nhà Bè, Ba Son, nhiều công ty xây dựng của Pháp và của Việt Nam, nhiều nhà máy xay, nhiều nhà in, cả hãng buôn Charner. Lực lượng của Đảng khá dày trong tầng lớp thợ thuyền: thợ giặt ủi, thợ đóng giày, thợ nhuộm, thợ may mặc, công nhân sở vệ sinh, điện, nước, bưu điện, công nhân Hoa Kiều ở Chợ Lớn, trong lực lượng nhân công chạy xe thổ mộ, xe kéo, trong công chức và tư chức(1). Đảng Cộng sản không những có cơ sở hoạt động ở nội thành, xí nghiệp mà còn có các cơ sở mạnh ở ngoại thành - “vành đai đỏ của Sài Gòn”, trong các làng thuộc tỉnh Gia Định và tỉnh Chợ Lớn: quận Gò Vấp, quận Hóc Môn, Trung Quận Chợ Lớn, quận Cần Giuộc, quận Đức Hòa… Những cơ sở này tạo thành thế liên minh công nông mật thiết. Tin công nhân tranh đấu từ thành phố dội về thôn quê, tin thôn quê tranh đấu dội vào thành phố, tin tức qua lại trong một giờ, một buổi, giúp cho các chỉ đạo nhanh chóng, kịp thời. Hầu hết các làng xã xung quanh Sài Gòn đều có quần chúng tin theo Đảng 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 370 - 372.
- 24 - Cộng sản Việt Nam. Trong bán kính gần 30 km, cứ 100 người dân thì có 50, 60 người cảm tình với Cách mạng(1). Đây cũng là những nơi nuôi giấu cơ sở cách mạng và che giấu cán bộ Cách mạng. Các mẹ, các chị đảm đương công việc thầm lặng, với ý thức trách nhiệm, đã góp phần bảo vệ cơ quan lãnh đạo, trái tim, khối óc của Đảng và làm cho mạch máu giao thông liên lạc, tin tức, chỉ đạo “chạy” đều, đưa “ý Đảng” xuống tới cơ sở, hòa vào lòng dân. Phụ nữ Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn đã tự nguyện tập hợp dưới ngọn cờ của Đảng, xây dựng chỗ đứng hợp pháp cho lãnh đạo, đùm bọc cán bộ, bảo vệ trụ sở đầu tiên của Trung ương Đảng đóng tại thành phố này, đồng thời móc ráp, duy trì thông suốt mạch máu giao thông liên lạc của Đảng. Phụ nữ là chỗ dựa tin cậy, vững vàng, là những chiến sĩ chiến đấu ngoan cường, bất khuất ngay trong hang ổ của địch. Phụ nữ Sài Gòn thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo, có khả năng giác ngộ cách mạng phong phú, có sự trưởng thành vượt bậc, và có vai trò ngày càng nổi bật trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã có nhiều sáng tạo trong đấu tranh. Các chị em xuất thân từ nhiều vùng miền, từ nhiều địa phương với những hoàn cảnh khác nhau, sau khi giác ngộ, bước ra khỏi phạm vi gia đình, dứt áo ra đi, vượt qua thành kiến “khuê môn bất xuất”, thoát ly theo yêu cầu của cách mạng, đều được điều động lên công tác ở Sài Gòn - nơi có cơ quan Xứ ủy, của Tổng Công hội, của Trung ương Đảng. Ngay 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 370 - 372.
- 25 - từ buổi sơ khai, Đảng đã đánh giá vị trí của thành phố Sài gòn là trung tâm chính trị của khu vực, cũng là môi trường xây dựng, đào luyện đội ngũ, bồi dưỡng cán bộ trưởng thành qua thực tế đấu tranh. Chị Tư Giả vừa làm liên lạc cho Trung ương, vừa giữ tài liệu và bảo vệ cán bộ Đảng. Chị Tư Vẻn nuôi giấu các cán bộ (như đồng chí Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Lê Duẩn), chị Nguyễn Thị Xưa (tức Bảy Sao) vừa hoạt động ở cơ sở, vừa làm liên lạc cho Xứ ủy. Bên cạnh các chị là những phụ nữ vô danh, vì hoàn cảnh bí mật không ghi chép được tên tuổi, đã cống hiến công sức, trí tuệ, tuổi thanh xuân cho đất nước. Chính những cố gắng không mệt mỏi này của hàng ngàn phụ nữ cần cù, giản dị đã nuôi dưỡng lực lượng, làm tai mắt cho Đảng khi còn trong thời kỳ trứng nước, nên chỉ trong một thời gian ngắn, Đảng đã vươn lên với sức mạnh Phù Đổng(1). Chị Nguyễn Thị Lựu xuất thân từ một gia đình địa chủ ở Sa Đéc, là nữ sinh Trường Áo Tím, đã tham gia đám tang cụ Phan Chu Trinh, tham gia phong trào ủng hộ đòi thả Nguyễn An Ninh những năm trước đó, rồi tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (1928), từ đó thoát ly gia đình để phục vụ cách mạng. Chị Lựu cùng với chị Năm Lượng, Mai Huỳnh Hoa thành lập các tiểu tổ Phụ nữ giải phóng và ra tờ Phụ nữ giải phóng, là người phụ nữ đầu tiên ở Nam Kỳ được Đảng chỉ định làm Xứ ủy viên vào năm 1931. Cô giáo Nguyễn Thị Nhỏ ở Vĩnh Long, thoát ly gia đình, được Đảng điều lên Sài Gòn làm công tác biên tập, in và phát 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 49.
- 26 - hành báo Công Nông Binh và nội san Bôn Sê Vích của Đảng. Thực hiện chủ trương vô sản hóa, chị làm phu gánh hồ ở Ba Son để vận động thợ thuyền. Chị được Đảng phân công làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, giữa thời điểm cao trào cách mạng 1930 - 1931 đang dồn dập diễn ra. Chị Nguyễn Thị Ngọc Tốt, sau này là chị Mười Thập, sinh tại Mỹ Tho trong một gia đình nghèo đông con, sớm mồ côi mẹ. Chị hăng hái hoạt động trong phong trào đấu tranh ở quê nhà, bị lộ, chị thoát ly lên Sài Gòn, đi vô sản hóa ở hãng dầu Tếch-đa-cô, tham gia Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Điểm gặp gỡ của các chị, tiêu biểu cho lớp nữ cán bộ đầu tiên của thành phố là nhiệt tình cách mạng, tinh thần phục vụ Đảng và nhân dân được đặt lên trên hết. Nhờ vậy, khi vận động quần chúng, các chị được quần chúng nghe, tin và làm theo. Chỉ trong một thời gian ngắn, các chị đã trưởng thành nhanh chóng, và trở thành những cán bộ lãnh đạo phong trào, được giao trọng trách quan trọng trong tổ chức Đảng. Điều này thực sự là một điểm son ở một đất nước nông nghiệp nói chung và Nam Kỳ lúc đó nói riêng, còn mang nặng tàn dư phong kiến, coi thường phụ nữ. Đảng đã đánh giá đúng khả năng, tinh thần của chị em, mạnh dạn đề bạt và phân công trách nhiệm quan trọng cho cán bộ nữ. Bước sang năm 1936, phong trào nhân dân thành phố trên đà khôi phục và phát triển, cũng là lúc tình hình tại Pháp và trong nước có nhiều chuyển biến. Giai đoạn 1936 - 1939, những biến cố chính trị và xã hội Pháp có ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình thuộc địa Nam Kỳ. Mặt trận bình dân Pháp ra đời năm 1935 gồm các Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Cấp tiến. Trong cuộc
- 27 - bầu cử Quốc hội Pháp, tháng 5/1936, ba đảng của Mặt trận Bình dân chiếm đa số ghế. Đảng Xã hội đóng vai trò chủ chốt liên hiệp với Đảng Xã hội Cấp tiến đứng ra thành lập chính phủ được gọi là Chính phủ Mặt trận Bình dân, do Léon Blum đứng đầu với Marius Moutet, lãnh tụ Đảng Xã hội giữ chức Bộ trưởng bộ thuộc địa (4/6/1936 - 10/1/1938). Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền tại Pháp năm 1936 có những ảnh hưởng đến đời sống chính trị tại Sài Gòn. Ngay sau khi được thành lập Chính phủ Mặt trận Bình dân của Léon Blum đã đưa ra ba quyết định: (1) Thả một số tù chính trị, (2) Thành lập Ủy ban điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt tại Bắc Phi và Đông Dương, (3) Thi hành một số cải cách trong lĩnh vực lao động. Những chuyển biến chính trị này đã tạo nên tại Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng một bầu không khí chính trị lạc quan, thúc đẩy các hoạt động đấu tranh(1). Một số cải cách xã hội được ban bố, trong đó có nhiều điều khoản quan trọng liên quan đến phụ nữ. Trong suốt ba năm, tức cho tới khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai (1939), Sài Gòn là nơi diễn ra những hoạt động chính trị sôi nổi không ngừng. Một trong số đó là việc họp nhóm Đông Dương Đại hội, soạn thảo những yêu sách quốc gia để đệ trình cho Ủy ban điều tra về các thuộc địa mà Chính phủ Pháp đang chuẩn bị thành lập vào tháng Giêng 1937(2). Tin một Ủy ban điều tra thuộc địa thành lập ở Paris sắp sang Việt Nam làm dấy lên một phong trào “làm bản nguyện 1. Nguyễn Nghị (2007), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn - Gia Định thời kỳ 1862 - 1945, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr. 263 - 264. 2. Nguyễn Nghị (2007), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn - Gia Định thời kỳ 1862 - 1945, Sđd, tr. 263 - 264.
- 28 - vọng của dân”, phong trào tổ chức những ủy ban hành động và hướng đến việc tổ chức Đông Dương Đại hội nhằm thu lượm và kết thúc các yêu sách của các tầng lớp xã hội. Ngày 26/7/1937, Nguyễn An Ninh đăng trên báo La Lutte bài “Tiến tới cuộc Đại hội Đông Dương”. Và như thế, khái niệm “Đông Dương Đại hội” được trình bày trước đông đảo quần chúng, với định hướng chính trị tiến bộ. Đó sẽ là một đại hội quy tụ đại biểu của tất cả các tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nhân dân lao động khắp Nam - Trung - Bắc, Lào, Cao Miên, tập hợp các nguyện vọng từng nơi, từng ngành, từng đoàn thể, tổng kết tất cả lại để làm ra bản dân ý, dân nguyện thực sự của toàn thể nhân dân. Lời kêu gọi của Nguyễn An Ninh được sự ủng hộ của Đảng, của nhân dân, mà trước hết là các tầng lớp nhân dân lao động Sài Gòn - Chợ Lớn. “Lúc này hơn lúc nào hết, thời giờ rất thuận lợi cho sự triệu tập một cuộc Đông Dương Đại hội trong đó các giai cấp sẽ được đại diện để thảo luận ra một tập yêu sách gồm các điều đòi hỏi của các dân tộc Đông Dương. Bị thúc đẩy bởi sự tiến hóa chính trị của đất nước, các chính đảng từ khá lâu đã nói lên thái độ của mình. Các cơ quan báo chí của các đảng đã đăng các điều yêu cầu của mình một cách rõ ràng, điều này dọn đường sẵn cho các đảng hợp sức nhau trong một cuộc hành động tập thể. Chúng tôi kêu gọi những người thuộc đủ các xu hướng để triệu tập một cuộc đại hội Đông Dương để mà thảo ra một tập hợp dân nguyện đưa lên cho chính phủ bên Pháp”(1). Nguyễn An Ninh kêu gọi thành lập một ủy ban triệu tập Đông Dương Đại hội kéo theo việc thành lập các Ủy ban hành 1. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp công nhân Việt Nam - Từ khi Đảng Cộng sản thành lập đến Cách mạng tháng Tám thành công, tập 2 (1936 - 1939), Nxb. Sử học, Hà Nội, tr. 72.
- 29 - động. Ủy ban hành động này được tổ chức như sau: “Cơ sở tổ chức của Ủy ban hành động đặt nền tảng trên hai địa bàn: chỗ ở và chỗ làm việc. Ở thành thị, tổ chức theo xóm, theo đường phố, ở thôn quê, tổ chức theo làng. Đó là chỗ ở. Trong công xưởng, nơi đồn điền, kinh tế đã tập trung người lao động, cơ sở tổ chức vững chãi hơn hết là chỗ làm việc, tức là tổ chức từ công xưởng, đồn điền, hãng buôn, công sở. Một nhóm năm bảy người đã có thể họp thành một Ủy ban hành động. Ủy ban hành động mọc lên trước nhất là ở Sài Gòn. Nhà máy, hãng buôn, công sở, đường phố, ngành nghề, đâu đâu cũng có Ủy ban hành động, ở xung quanh thành phố hầu như mỗi xã đều có Ủy ban hành động. Ủy ban hành động lan ra Lục tỉnh, ra Bắc. Riêng ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, trong vùng làng mạc và thôn quê, các vùng ngoại ô, các tỉnh lân cận hàng chục Ủy ban đã hành động từ tháng 8, tháng 9/1936. Hầu như tất cả các làng của tỉnh Gia Định đều có Ủy ban của mình, cũng như các nhà in, các ngành đường sắt, hãng rượu Bình Tây, kho xăng dầu Nhà Bè… Các Ủy ban này tổ chức các cuộc tranh luận chính trị trong quần chúng. Cuộc sinh hoạt chính trị do các ủy ban tổ chức đã tạo nên được một bầu không khí sôi sục đến độ nhà cầm quyền lo lắng về sự chuyển biến đang diễn ra trong tâm trí mọi người. Những báo cáo của nhà cầm quyền đã dẫn tới việc Marius Moutet cho phép chính quyền thuộc địa cấm đại hội ngày 9/9/1936(1). Nổi bật nhất trong giai đoạn này là các hoạt động đấu tranh công khai và bán công khai của nhiều bộ phận Đảng Cộng sản Đông Dương, sự vận động rầm rộ của Đông Dương Đại hội trong năm 1936, phong trào làm yêu sách, lên cao 1. Nguyễn Nghị (2007), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn - Gia Định thời kỳ 1862 - 1945, Sđd, tr. 256 - 265.
- 30 - nhất là nhân dịp Godard sang Việt Nam 1937, cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ đòi tự do, cơm áo, hòa bình… Các cuộc đấu tranh diễn ra trên cả hai mặt trận: chống thực dân và chống Trốtkít âm mưu chia rẽ giai cấp. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7/1936 tại Thượng Hải có một ý nghĩa quan trọng, mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của Cách mạng Việt Nam. “Hội nghị xác định: kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương chưa phải là chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến nói chung, mà là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng; mục tiêu và nhiệm vụ trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi dân chủ, dân sinh và hoà bình”(1). Nghị quyết của Hội nghị có 12 điều, trong đó dành riêng một điều (số 12) cho phụ nữ: 1. Mở rộng Hội đồng Đông Dương kinh tế lý tài thành nghị trường do nhân dân cử ra, có quyền biểu quyết hết thảy các vấn đề kinh tế, chính trị. 2. Người Pháp và người bản xứ hễ 18 tuổi đều có quyền tuyển cử và ứng cử như nhau. 3. Tự do ngôn luận, hội họp, tổ chức đi lại 4. Ân xá hết thảy chính trị phạm, bỏ luật quản thúc. Cho hết thảy những người tù chính trị bị đuổi, bị trốn ở ngoài nước về xứ. 5. Luật lao động ngày làm tám giờ, xã hội bảo hiểm. 6. Giảm sưu thuế. Tha sưu thuế cho dân nghèo. 1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, nguồn: http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/cac-ban-dang-trung-uong/doc-392620 159265146.html.
- 31 - 7. Cứu tế thất nghiệp, tăng lương cho công nhân và những người tòng sự trong các công sở và tư sở. 8. Bỏ độc quyền muối rượu. 9. Cấm sự cướp đất và sự tịch ký đất của người thiếu nợ, thiếu sưu thuế. 10. Đuổi những quan lại tham tàn, tẩy chay các phần tử quan lại phản động người Tây và người Nam. 11. Mở rộng nền giáo dục, sửa đổi những thể lệ vào trường học, lên lớp, thi cử; cưỡng bách giáo dục bằng tiếng mẹ đẻ, chí ít là đến trình độ sơ học. 12. Phụ nữ được hưởng quyền lợi kinh tế và chính trị ngang hàng với đàn ông(1). Từ Nghị quyết Đại hội này, Đảng ta đã vận dụng sách lược một cách mềm dẻo, tranh thủ lực lượng đồng minh, dù là nhỏ bé, bấp bênh, tạm thời để chống lại bọn phản động thuộc địa và lợi dụng các khả năng hợp pháp để tuyên truyền, giáo dục quần chúng, phát động quần chúng trong đấu tranh. Bước vào giai đoạn lịch sử mới, đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương được vạch ra theo ánh sáng của Nghị quyết Đại hội lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản, là ngọn đèn pha soi đường cho phong trào quần chúng ở Đông Dương nói chung, phong trào phụ nữ Sài Gòn nói riêng. Một Ủy ban hành động trung ương lâm thời gồm 19 người được thành lập, trong đó có hai phụ nữ tham gia (là các cô Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Năm, tức Năm Lượng). Tháng 8/1936, nhân dân các tỉnh Nam Kỳ kéo đến trước tòa soạn 1. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp công nhân Việt Nam - Từ khi Đảng Cộng sản thành lập đến Cách mạng tháng Tám thành công, tập 2 (1936 - 1939), Sđd, tr. 67 - 69.
- 32 - báo La Lutte nhờ hướng dẫn lập các ủy ban hành động. Việc trực ở tòa soạn phải tăng cường thêm cô Nguyễn Thị Sóc và cô Nguyễn Thị Kim. Các cô hoạt động trong phong trào Đông Dương Đại hội rất hăng hái, ngoài việc viết báo, còn được bà con mời diễn thuyết ở nhiều nơi. Hoạt động công khai có cô Tám Lựu, cô Huỳnh Hoa, cô Nguyễn Thị Kim, cô Hai Sóc, cô Tư Đầy, cô Năm Lượng. Hoạt động bí mật có cô Nguyễn Thị Thiên, liên lạc giữa các vùng như con thoi, mang tài liệu, báo cáo cho Đảng. Cô Nguyễn Thị Giả hay cô Tư bán trầu cau, là đầu mối liên lạc giữa Trung ương và Xứ ủy, cô còn là hòm thư liên lạc giữa Quốc tế Cộng sản với Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 8/2/1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về nước, ở Pắc Bó, Cao Bằng. Người bắt tay vào việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, tổ chức các hội cứu quốc và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám là hội nghị có ý nghĩa trọng đại đối với vận mệnh dân tộc. Hội nghị này đã bổ sung và phát triển thật sáng tạo Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu, vạch ra những chính sách cụ thể nhằm giải quyết mục tiêu chiến lược số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc. Chính hội nghị này đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, đẩy mạnh khởi nghĩa vũ trang từng phần, tiến lên tổng khởi nghĩa, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã chỉ ra con đường cứu nước: “Hiện thời, muốn đánh Pháp - Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết. Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng… Hễ có lòng yêu nước, hễ có lòng hy sinh thì bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, hay trẻ em đều có thể đánh quân thù”. Lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh, theo sát
- 33 - ý kiến đề xuất của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, có một “mãnh lực hiệu triệu” phi thường. Chính hai chữ “cứu quốc” thiêng liêng, gần gũi ấy đã tập hợp được toàn dân, trong đó có chị em phụ nữ. Nên khi có thời cơ, cán bộ tới tiếp xúc là chị em nô nức gia nhập đoàn quân Phụ nữ cứu quốc trong một tâm thế rất mạnh mẽ(1). Trong suốt một thời kỳ lịch sử kéo dài, từ năm 1930 trở đi, Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh dưới nhiều hình thức, bằng những cao trào rộng lớn, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua con đường chuyên chính vô sản. Uy tín của Đảng dần được khẳng định qua các phong trào đấu tranh của dân tộc, khởi đi từ sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh, Đông Dương Đại hội 1936 - 1939, Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940. Đỉnh cao là cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, mở ra một trang sử mới cho dân tộc, trang sử mới cho người phụ nữ - từ đây được chính thức làm chủ cuộc đời mình. 3. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội Nam Bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng là vùng đất mới, với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, hoàn cảnh lịch sử của nó đã tạo nên một đặc tính rất riêng: tính chất “mở” trên nhiều phương diện, so với tính cách truyền thống tương đối khép kín của vùng Bắc Bộ và Trung bộ. Đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa là những yếu tố cơ bản góp phần tạo nên những sắc thái mới trong tính cách của người phụ nữ tại vùng đất năng động này. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 133.
- 34 - a. Đặc điểm kinh tế Ngay từ thế kỷ XVII - XVIII, Sài Gòn đã sớm trở thành một đầu mối huyết mạch của kinh tế Nam Bộ. Đây là nơi trung chuyển hàng hóa giữa các nước trong luồng thương mại quốc tế trong công cuộc tiếp xúc Đông - Tây, chính nhờ vào ưu thế lớn về cảng biển. Sau khi thực dân Pháp biến Nam Kỳ thành xứ thuộc địa thì ưu thế này càng được khai thác mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thành phố Sài Gòn - trung tâm kinh tế của Nam Bộ, thủ phủ một thuộc địa lớn của thực dân Pháp. Ngay từ những ngày đầu tiên, thực dân Pháp đã áp dụng kiểu quy hoạch kiến trúc, cách thức quản lý đô thị phương Tây hiện đại, với sự phát triển giao thông nội ô và liên vùng, hình thành hệ thống liên hoàn các dịch vụ kỹ thuật và dịch vụ xã hội nhằm hình thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Theo đó khi xây dựng hạ tầng cơ sở, điện nước, đô thị, khu công nghiệp, cảng biển, sân bay, giao thông thủy bộ… đều chú ý bám sát mục tiêu này. Vùng đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định mang tính chất một đô thị mở, lối tư duy theo kiểu tư bản chủ nghĩa của thực dân Pháp đã được tiếp nhận, thông qua những hoạt động đầu tư xây dựng một cách mạnh mẽ vào thành phố, dẫn đến sự ra đời một nền tảng công nghiệp hiện đại và tiên tiến với mức độ tập trung cao đầu tiên và sớm nhất ở Việt Nam. Sự đầu tư này không phải nhằm mục tiêu chính là để khai hóa văn minh như người Pháp vẫn rêu rao, mà thực chất nhằm khai thác tối đa nguồn tài nguyên, nhân công ở xứ thuộc địa phục vụ cho chính quốc. Tính đến thời điểm trước chiến tranh thế giới thứ nhất, với những lợi thế sẵn có
- 35 - và những chính sách đầu tư của Pháp, Sài Gòn đã được xưng tụng là “Hòn ngọc Viễn Đông”(1). Sau chiến tranh thế giới, để bù đắp thiệt hại, Pháp đẩy mạnh khai thác kinh tế thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929) nhằm mục đích bù đắp những thiệt hại về kinh tế khi tham chiến(2). Nước Pháp tuy thắng trận, nhưng phải chịu nhiều tổn thất về kinh tế, tài chính. Nhiều nhà máy, đường sá, cầu cống, làng mạc của Pháp bị chiến tranh phá hủy; nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ; thương mại giảm sút; nước Pháp trở thành con nợ lớn, nhất là món nợ với Mỹ. Các vấn đề lạm phát, tăng giá và đời sống khó khăn của các tầng lớp lao động đã làm trỗi dậy các phong trào đấu tranh chống chính phủ “ngay tại mẫu quốc”. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai kéo dài đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, tức là trong khoảng 10 năm. Nếu đợt khai thác lần thứ nhất, Pháp chủ yếu đầu tư vào khai mỏ và giao thông vận tải, thì cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, Pháp đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh khai thác khoáng sản, ra sức cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền. Hầu hết đồn điền đều chủ yếu trồng lúa và một số loại cây công nghiệp như cà phê, cao su… Tuy nói là “khai thác”, song tại các đồn điền trồng lúa, phương thức canh tác và bóc lột của địa chủ Pháp - Việt vẫn chủ yếu theo kiểu phong kiến (cho mướn ruộng đất, thu tô thuế), các biện pháp kỹ thuật ít được áp dụng, năng suất lúa rất thấp. 1. Trần Thuận (2017), Nam Bộ - Vài nét Lịch sử Văn hóa, tập 2, Nxb. Văn hóa Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 29. 2. Thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác lần thứ hai với tốc độ, quy mô ồ ạt và rộng hơn nhiều lần so với đợt khai thác lần thứ nhất. Số vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm; riêng năm 1920 đầu tư đạt 225 tỉ franc (giai đoạn 1888 - 1918 Pháp mới đầu tư khoảng 1 tỉ franc, chỉ tính trong 5 năm 1924 - 1929 số vốn đầu tư đã lên đến 4.000 franc).
- 36 - Công nghiệp khai mỏ được tăng cường vốn đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất. Bên cạnh than, các mỏ thiếc, kẽm, sắt… đều được bổ sung thêm vốn, nhân công và đẩy mạnh tiến độ khai thác. Tuy nhiên, đây vẫn là khai thác phục vụ nhu cầu, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp của chính quốc và các thị trường khác, không phát triển ngành công nghiệp nặng (luyện kim, cơ khí). Công nghiệp Việt Nam vẫn là nền công nghiệp dịch vụ và phục vụ, chịu lệ thuộc nặng nề vào thực dân Pháp và thị trường nước ngoài. Song song đó, giao thông vận tải được tăng cường đầu tư vốn và các trang thiết bị kỹ thuật để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Chính quyền thực dân cho xây dựng một số tuyến đường sắt xuyên Đông Dương, đường bộ cũng được đẩy nhanh tiến độ xây dựng, các cảng Hải Phòng, Sài Gòn được nạo vét và củng cố nhà kho, bến bãi; một số cảng mới được xúc tiến xây dựng. Mạng lưới giao thông thủy trên các sông Hồng, Cửu Long tiếp tục được khai thác. Nhìn chung, những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, Đông Dương là một trong những nơi có hệ thống giao thông tốt nhất ở Đông Nam Á, nhằm phục vụ cho hoạt động khai thác thuộc địa đạt hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất và lần thứ hai của thực dân Pháp chỉ là sự mở rộng, nhân lên của tình trạng sản xuất lạc hậu trong các cơ sở kinh tế thuộc địa; số máy móc và tiến bộ kĩ thuật được áp dụng cực kỳ hạn chế. Toàn bộ cơ cấu kinh tế Việt Nam thời thuộc địa phát triển mất cân đối: nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ, bên cạnh nền công nghiệp mỏng manh, yếu ớt. Trong công nghiệp, ngành khai mỏ chiếm phần lớn, các ngành khác như hóa chất, luyện kim, cơ khí, năng lượng… thì hầu như không phát triển. Thuộc địa Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng hầu như vẫn nguyên trạng trong nghèo nàn, lạc hậu.
- 37 - Các đồn điền Pháp thắt chặt bóc lột để kiếm lời trong kinh doanh đồn điền cao su. Ở Nam Kỳ, cây cao su được đầu tư nhiều nhất. Pháp phát triển đồn điền, đặc biệt là đồn điền cao su Nam Kỳ, nhằm thu hoạch thứ nguyên liệu quý này với giá rẻ để cung cấp nguyên liệu cho chính quốc và bán đi các nước khác. Riêng huyện Hóc Môn đã có sở cao su, sử dụng công nhân, mà khá đông công nhân cạo mủ là nữ(1). Đời sống công nhân đồn điền cao su vất vả, cực khổ vô cùng. Lương công nhân nam 4 cắc, nữ công nhân cũng làm việc như vậy chỉ 3 cắc. Thực dân Pháp niêm yết 12 tội “đánh” nếu công nhân phạm lỗi, ví dụ “Đặt chén hứng mủ nghiêng, đánh… Cạo không ngay, đánh. Mủ rơi xuống đất vài giọt, đánh (…)”. Còn tội thứ 13, không niêm yết công khai, nhưng ai nấy đều biết: “Vô phúc có cô vợ đẹp thì vợ bị cướp, bị gả bán cho người khác để lấy tiền, mà chồng thì bị đánh, có khi bị giết nữa”(2). Trong công nhân thời Pháp thuộc thường lưu truyền những câu ca dao về cuộc sống thống khổ của những người bị đày đọa trong các đồn điền cao su “địa ngục trần gian”: “Lỡ chân vào đất cao su, Chẳng tù thì cũng như tù chung thân. Cao su đi dễ khó về. Trai thì bỏ xác, gái thì ra ma”. “Kiếp phu đổ lắm máu đào Máu loang mặt đất máu trào mủ cây Trần gian địa ngục là đây Đồn điền đất đỏ nơi Tây giết người”. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd. 2. Nguyễn Hải Trừng (1955), Địa ngục cao su, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 7.
- 38 - Cùng với việc kéo dài giờ làm việc từ 12 - 15 giờ/ngày, bọn điền chủ cao su không bao giờ thực hiện đúng những điều khoản đã ghi trong hợp đồng về những quyền lợi công nhân được hưởng. Chúng đẩy công nhân vào một cuộc sống vô cùng tồi tệ: ăn uống kham khổ, gạo mục, cá thối, chỗ ở chật hẹp, bẩn thỉu, ốm đau không được điều trị, lương bổng bị bòn rút, cắt xén, khấu trừ đủ mọi khoản, đánh, phạt công nhân tàn ác. Có những chủ đồn điền hành hạ phụ nữ, “cho đào trên sân nhà điểm những hố tròn lớn nhỏ đủ cỡ. Bên miệng hố, cắm những biển có đề chữ “3 tháng - 7 tháng - 9 tháng”, chị em có thai rủi phạm lỗi thì cứ tự động tìm đến cái hố vừa bụng mình nằm úp xuống mà chịu đòn. Có người đánh bị sảy thai, mẹ con đều chết tại chỗ(1). Pháp tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, vơ vét bằng cách tăng thuế. Thuế thân ở Nam Kỳ tăng từ 5,58 đồng (1913) lên 7,5 đồng (1929). Tính từ năm 1912 - 1929, tiền thuế thực dân Pháp thu được ở Việt Nam tăng 3 lần. So với cuộc khai thác lần một, cuộc khai thác lần thứ hai có thời gian ngắn hơn, nhưng mức độ sâu rộng và tàn bạo hơn, tài nguyên vật lực thu lại cũng tăng gấp nhiều lần. Bên cạnh việc đem đến mối lợi khổng lồ cho chính quyền thực dân, cuộc đại khai thác này đồng thời gây ra những biến chuyển sâu sắc cho kinh tế Việt Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng. Sài Gòn là trung tâm hành chính, tập trung các cơ sở kinh tế, sản xuất, dịch vụ, cũng là đầu mối chính trị trong cả nước. Vì vậy, để khai thác được tốt nhất, Pháp cần 1. PGS. Huỳnh Lứa (2001), “Tội ác của tư bản thực dân Pháp trong việc cướp đất lập đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ”, trích trong: Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam (1858 - 1954), Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 190.
- 39 - đầu tư hệ thống cơ sở dịch vụ tương ứng. Những công trình quan trọng có tác động ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế được đầu tư trong giai đoạn này: Ngân hàng Việt Nam mở năm 1926, Đài Phát thanh Sài Gòn thành lập năm 1929, tuyến điện thoại Sài Gòn - Paris thông suốt năm 1930, đường bay quốc tế Sài Gòn - Paris mở năm 1933, tuyến đường sắt Sài Gòn - Hà Nội khánh thành năm 1936, Sở Hàng không lập năm 1938… Thực dân Pháp đã đưa những kỹ thuật của phương Tây vào Sài Gòn, cùng với quá trình đô thị hóa, Sài Gòn đã nhanh chóng trở thành một đô thị hiện đại. Lối sống phương Tây cũng xuất hiện, biến Sài Gòn thành một thành phố phát triển mạnh. Một Sài Gòn thay đổi nhanh chóng, mới mẻ, có mối quan hệ giao thương cùng năm châu bốn biển dần hình thành. Cơ cấu kinh tế Việt Nam có sự chuyển biến. Những yếu tố kinh tế tư bản thực dân được phát triển, tiếp tục mở rộng và trùm lên nền kinh tế phong kiến Việt Nam, song chỉ mang tính chất cục bộ. Các khu vực nông thôn vẫn tồn tại nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Khu vực đô thị, nền kinh tế ngày càng bị cột chặt vào kinh tế Pháp. Tiếp thu ý thức và hưởng ứng lời kêu gọi của các chí sĩ có tinh thần dân tộc, một số nhà tư sản dân tộc đã cố gắng tự cường. Mô tả về đời sống kinh tế Sài Gòn giai đoạn này, GS. Trần Văn Giàu viết: “Người ta đếm được ở Sài Gòn mấy chục nhà giàu Việt Nam làm chủ vườn cao su: như Lê Phát Vĩnh, Nguyễn Hữu Hào, Lê Phát Tân, Nguyễn Văn Của, Trần Văn Tư… Họ có xí nghiệp công thương tại thành phố, có ruộng đất tại Lục tỉnh; họ mướn vài trăm công nhân, viên chức. Trương Văn Bền lập hãng xà bông Việt Nam từ 1925. Lê Phát An, Lê Tùng Lân lập công ty dệt. Nhà máy xay xát của Lê Văn Tiết xay mỗi ngày 16 tấn lúa. Nhà máy dệt
- 40 - lụa của Lê Phát Vĩnh lập năm 1920, mua tơ ở Bắc, Tàu, mướn người Pháp làm quản đốc. Nguyễn Hữu Thu là một chủ hãng xe tay nhỏ ở Sài Gòn, đã sắm sửa được gần một chục tàu nhỏ, chở khách đi khắp các đường biển Sài Gòn - Đà Nẵng - Nam Định - Hải Phòng, thậm chí còn đi sang tận Bắc Hải, Hồng Kông. Còn những người Việt Nam làm chủ nhà in, nhà báo, chủ thầu xây dựng, chủ tàu đò…. thì thiếu gì”(1). Điều này đã giải thích được hiện tượng đặc biệt ở vùng đất này: Sài Gòn là thành phố thuộc địa phát triển, hiện đại bậc nhất, nơi đây tư tưởng Duy Tân, Minh Tân(2) vẫn còn phổ biến. Nổi bật trong giai đoạn trước 1930 có Liên Thành Thương Quán và Hãng xà bông của Trương Văn Bền, tạo nên đặc điểm nổi bật trong cơ cấu kinh tế Sài Gòn, còn ảnh hưởng mạnh cho đến sau năm 1930. 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 368. 2. Do ảnh hưởng của Phong trào Duy Tân ở miền Trung được khởi xướng bởi cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, các nhân sĩ trí thức tư sản yêu nước Nam Kỳ đề xuất phát động phong trào Minh Tân. Tôn chỉ của phong trào là nâng cao dân trí, đổi mới phong tục tập quán, chấn hưng công thương nghiệp, người Việt Nam mua hàng của người Việt Nam, góp vốn với nhau để thành lập các công ty, xí nghiệp, thương điếm, khách sạn, tẩy chay nhóm công thương Chà (Hoa kiều) và Chệt (Ấn kiều) giành lại quyền hoạt động kinh tế về tay người mình. Phong trào nổ lên rầm rộ ở Sài Gòn rồi như một làn thuốc pháo đến Hải Phòng, Hà Nội và nhiều tỉnh lỵ khác như Nam Định, Thái Bình… Ngoài mục đích chấn hưng kinh tế, mục đích của phong trào còn dùng lợi nhuận của hoạt động kinh tế để tài trợ cho các hoạt động cách mạng như phong trào Đông Du, mở trường học, tổ chức các buổi nói chuyện chính trị, cung cấp kinh phí cho các cán bộ thoát ly hoạt động. Người khởi xướng phong trào Minh Tân tại Nam Kỳ là ông Trần Chánh Chiếu, theo đạo Thiên Chúa, gia nhập quốc tịch Pháp. Ông từng là thông ngôn cho viên chủ tỉnh Rạch Giá, là nhà điền chủ lớn có hàng ngàn hécta ruộng ở Rạch Giá. Nhưng ông bỏ việc, bán hết tài sản lên Sài Gòn hoạt động, thành lập Nam Trung khách sạn. Ngoài ông Trần Chánh Chiếu, phong trào Minh Tân còn có một số mạnh thường quân khác đóng góp nhiều tài sản và công sức cho tổ chức như bà Nguyễn Thị Xuyên, tục danh là Năm Chiêu Nam Lầu, vì bà trông coi khách sạn Chiêu Nam Lầu ở Sài Gòn là nơi tá túc của các nhà yêu nước, cụ Phan Chu Trinh khi về nước cũng được đón tiếp tại đây. (Theo Nguyễn Đình Tư (2016), Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam Kỳ (1859 - 1954), tập 1, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 145).
- 41 - Liên Thành Thương Quán, tên đăng ký tiếng Pháp: Société de Lien Thanh, năm 1917 đã chuyển hoạt động kinh doanh từ Phan Thiết, Bình Thuận về Sài Gòn để hưởng ứng lời kêu gọi Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh. Do nền công nghiệp và hoạt động thương mại đều bị phụ thuộc vào Pháp và thương nhân Hoa kiều, nên Liên Thành Thương Quán lựa chọn sản xuất kinh doanh nước mắm, sản phẩm truyền thống dân tộc. Đây là một tổ chức kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập vào năm 1906 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Trên phương diện lịch sử, Liên Thành đánh dấu sự hình thành của chủ nghĩa tư sản dân tộc ở Việt Nam, khởi nguồn từ tinh thần dân tộc rồi sau đó chuyển đổi sang tinh thần thực nghiệp Tây phương. Liên Thành gồm có Liên Thành Thư xã (1905) nhằm để truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước; Dục Thanh Học hiệu (1907) nhằm dạy chữ cho con em những người yêu nước và lao động nghèo; và Liên Thành Thương quán (1906) làm kinh tế, gây quỹ hoạt động, tạo công ăn việc làm cho người dân, hoạt động tương ứng với cương lĩnh hành động ba điểm “Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh” của phong trào Duy Tân lúc bấy giờ. Đây cũng là công ty Việt Nam có lịch sử tồn tại dài trên 100 năm và vẫn còn hoạt động cho đến tận ngày nay. Hãng xà bông của Trương Văn Bền được coi là một doanh nghiệp nội địa thành công. Ký sự của nhà báo Phạm Quỳnh “Một tháng ở Nam Kỳ” viết năm 1918 ghi lại: “Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to
- 42 - tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp”. Năm 1932, Trương Văn Bền mở thêm nhà máy sản xuất xà bông từ dầu nông sản. Vào thời gian này, hầu hết xà bông dùng trong nước cũng như ở Đông Dương là nhập cảng từ Pháp. Chỉ có một số ít xưởng thủ công nhỏ ở Chợ Lớn làm xà bông, chất lượng kém, sản xuất giới hạn, không thể cạnh tranh với xà bông nhập từ Marseille, Pháp. Hãng xà bông của Trương Văn Bền nằm trên đường Rue de Cambodge, là Công ty Trương Văn Bền và các con - Dầu và Xà bông Việt Nam (Truong Van Ben & fils - Huilerie et Savonnerie Vietnam). Trương Văn Bền kêu gọi sử dụng hàng nội địa, quảng cáo của hãng thường đăng: “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam”. Ngoài thị trường Việt Nam, xà bông Cô Ba được dùng rộng rãi tại Lào, Campuchia, xuất khẩu qua Hồng Kông, Tân Đảo, và một số nước châu Phi(1). Bước sang năm 1930, kinh tế Việt Nam bắt đầu suy thoái do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933). Sài Gòn vẫn được Pháp tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho mưu đồ khai thác kinh tế Đông Dương, nhưng vẫn không thể tránh khỏi những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Sài Gòn, với lợi thế của một đô thị lớn về cảng biển trong việc xuất khẩu gạo và cao su, nhưng giai đoạn này gần như tê liệt vì hai mặt hàng này không bán được, kéo theo mọi ngành sinh hoạt xã hội đều bị lôi vào cuộc khủng hoảng. Lúa rớt giá liên tục, từ 10 đồng/100kg 1. Nguyễn Đức Hiệp (2016), Sài Gòn Chợ Lớn - Ký ức đô thị và con người, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 403.
- 43 - (1926 - 1929) xuống 6,72 đồng/100kg (1930) xuống còn 4,25 đồng/100kg (1932 - 1935). Giá cao su, từ 28 franc xuống còn 3 franc/1kg(1). Hậu quả là ruộng đất trồng lúa, đồn điền trồng cao su(2) bị thu hẹp, các nhà máy xay xát, chế biến lúa gạo, cao su ngưng hoạt động, hoạt động xuất cảng cũng ngưng trệ theo. Từ nông nghiệp (vốn là thế mạnh) đã kéo theo công nghiệp các ngành suy giảm, thương nghiệp xuất nhập khẩu đình đốn, giá cả tăng vọt. Cuộc khủng hoảng kinh tế làm cho đời sống của đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khốn cùng. Nhiều tài sản bị tịch biên, giới tư sản người Việt bị phá sản hàng loạt(3). Từ thầy thợ cho tới công nhân đều bị mất việc, số người còn giữ được việc làm thì tiền lương ít ỏi, còn hầu hết đều rơi vào 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 368. 2. Sài Gòn trở thành trung tâm giao dịch “vàng xanh”. Vàng xanh ở đây chính là cao su, một mặt hàng có giá trị trao đổi trên thị trường quốc tế. Theo Franchini, những giao dịch thương mại đặc biệt đối với “vàng xanh” tại Sài Gòn vốn là nơi quá cảnh và là một cái chợ của những trao đổi hàng hóa khi ấy đã tạo nên không biết bao nhiêu khát vọng và mộng vàng. Thập niên 20, sau khi các nhà trồng tỉa người châu Âu thất bại trong việc phát triển diện tích trồng lúa và cải tiến kỹ thuật canh tác lúa tại miền Tây nhưng lại thành công tại miền Đông Nam Bộ với cây cao su, các đồn điền cao su phát triển biến Nam Kỳ thành một trong những nước sản xuất và xuất khẩu cao su có hạng trên thị trường thế giới. Năm 1933, miền Đông Nam Kỳ sản xuất được 18.867 tấn. Con số này tăng thành 45.137 tấn vào năm 1937. (Nguyễn Nghị (2014), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn thời kỳ 1862 - 1945, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 203 - 204. 3. Giới tư sản Việt Nam ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chủ yếu là tiểu chủ trung gian làm thầu khoán, cung cấp nguyên vật liệu, hay làm đại lý hàng hóa cho Pháp. Bước vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới, 1929 - 1933 cho tới 1945, thế lực kinh tế của tư sản Việt Nam ngày càng giảm sút. Đây là thời kỳ tư sản Việt Nam bị phá sản và phân hóa mạnh: yếu tố tư bản tăng, yếu tố dân tộc giảm. Xu hướng địa chủ hóa tăng lên trong giai cấp tư sản. Do kinh doanh khó khăn, nhiều tư sản quay về mua đất lập đồn điền, tiến hành canh thu theo kiểu địa chủ. Trong khi thế lực của tư sản dân tộc ngày càng giảm sút thì bộ phận tư sản mại bản ngày càng gia tăng. Vào cuối những năm 1930 - 1940, nhiều hãng buôn hàng ngoại đã xuất hiện, có hãng chung vốn làm ăn với tư bản Pháp.
- 44 - cảnh thất nghiệp hoàn toàn hoặc thất nghiệp từng phần. “Bớt việc không phải là làm nhẹ hơn, ít nhọc đâu, ấy là vẫn giữ thợ mà thợ làm 3, 4 ngày hay đôi ba buổi một tuần. Ông Testelin, chủ nhà in Moderne bớt lương liên tiếp 3 lần: 13%: 50%: 5%, cả ba lần là 68% trong mười mấy tháng. Số lương còn lại ông không trả nguyên một lần đâu mà cho mượn khi 5 đồng, khi 3 đồng và bao giờ thợ thấy cũng còn vài tháng lương chủ chưa trả. Bộ mặt Sài Gòn trong những năm kinh tế khủng hoảng là bi đát”(1). “Đời sống nhân dân vốn đã cực khổ nay thêm cay đắng muôn phần. Đi đến đâu cũng thấy ta thán về sinh hoạt ngày càng eo hẹp, sinh sống rất khó khăn (…). Công nghệ và thủ công lớn nhỏ của người Việt Nam, người Hoa Kiều, tất cả đều điêu đứng, thị trường bị thu hẹp đến cực độ. Tiền bạc biến đi đâu mất. Hàng hóa xuống giá nhưng ít ai mua nổi. Món hàng xuống giá nhất là sức lao động, vậy mà ít ai mướn. Thành thị, các cửa hiệu đóng cửa, rất nhiều gian nhà treo biển cho mướn; nhiều phố xá, xí nghiệp mang biển “Địa ốc ngân hàng, Đông Dương ngân hàng” ấy là những tài sản đã bị nhà băng và chủ nợ tịch thu trừ nợ. Nhà máy vắng khói. Xe ngựa, xe hơi ít người đi. Nhà hàng, tiệm buôn vắng khách, chủ ra tận cửa mời khách qua lại thưa thớt. Bộ mặt Sài Gòn những năm kinh tế khủng hoảng là bi đát như vậy”(2). “Sài Gòn: “rất buồn”- Chợ Lớn: “thành phố chết”(3). “Tiền công quá hạ, đó là tiếng kêu thảm thiết khắp nơi, chúng tôi đã phải ngheđến mỗi ngày. Với số lương “nạn kinh tế” 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 369. 2. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp công nhân Việt Nam - Từ khi Đảng Cộng sản thành lập đến Cách mạng tháng Tám thành công, tập 2 (1936 - 1939), Sđd, tr. 1, 17. 3. Bằng Giang (1999), Sài Côn cố sự, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 84.
- 45 - mà tiền mướn nhà, giá sản vật cũng theo thói thời “nạn kinh tế” thì vẫn có thể chịu được. Nhưng không, với số lương đã hạ và bị bớt, trước kia, mà tiền nhà cứ mắc, giá sản vật cần thiết cho sự sống hằng ngày đều theo sự hạ giá đồng bạc mà tăng lên 20, 30% cả. Như thế mới sống làm sao?”(1). Đứng trước thực trạng đó, nhà cầm quyền thuộc địa đã đưa ra những giải pháp, không phải để cải thiện tình hình, mà chỉ nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của chính quyền thực dân. Pháp sẵn sàng bỏ ra 150 triệu franc để trợ cấp cho các công ty cao su, nhưng chỉ trợ cấp có 0,5 đồng cho mỗi người thất nghiệp. Quá ít ỏi, thế nhưng “bọn thực dân và tay sai còn “nghiên cứu lại” bảo rằng nếu có 0,5 đồng trợ cấp thất nghiệp mỗi người mỗi ngày, thì dân nghèo sẽ ghi tên vào sổ thất nghiệp hết, cho nên vào năm 1932, nhà cầm quyền lập ra “quán cơm thất nghiệp” ở đường D’Ayot gần chợ Bến Thành, bỏ ra 7 xu cho mỗi đầu người sớm cháo, chiều cơm, ai muốn vào cái quán “cơm thất nghiệp” này thì phải trình giấy thuế thân(2). Báo Công luận ngày 9/3/1932 viết: “Từ ngày xảy ra nạn thất nghiệp đến nay, các ông hội đồng có biết có bao nhiêu người chết đói hay chưa? Tuy mắt các ông chưa từng thấy cái thảm trạng này, nhưng thường ngày coi báo, các ông đã chẳng thấy ở mục thời sự, có những thây người chết đầy đường, già có, trẻ có, đàn ông có, đàn bà có (…). Lời kết luận dưới bài nào cũng nói họ chết vì đói cơm”. Đô thành Sài Gòn phồn hoa còn rơi vào thảm cảnh, các vùng nông thôn còn khốn đốn hơn. Nông dân bị phá sản, 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 380. 2. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 384.
- 46 - ruộng đất mất vào tay địa chủ. Địa chủ cũng bị ngân hàng tịch thu ruộng vườn vì nợ ngân hàng. Trong khi đó, thuế má tăng vọt, giá cả sinh hoạt đắt đỏ, đẩy các giai tầng vào cuộc sống quẫn bách, làm kiệt quệ Nam Kỳ cả về tài lực, vật lực. Từ năm 1934 - 1936, kinh tế Việt Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng có những dấu hiệu phục hồi. Thực dân Pháp lại tiếp tục đầu tư trở lại cho các hoạt động kinh tế(1), nhưng tốc độ và quy mô đầu tư vào các ngành kinh tế của Việt Nam bị giảm hẳn so với thập niên 1920. Các lĩnh vực từ nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, giá cả, sản xuất, xuất cảng có dấu hiệu khởi sắc. Giá của tất cả các món hàng đều cao, ngoại trừ giá của sức lao động, nhất là khi chính phủ Léon Blum phá giá đồng franc. Giá sinh hoạt lên cao sau khi đồng franc bị hạ giá mà tiền công thì cứ giữ theo mức hồi khủng hoảng. Những điều kiện kể trên là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến phong trào bãi công hết sức sôi nổi ở Sài Gòn năm 1936. Sang cuối giai đoạn 1936 - 1939, một mặt, khủng hoảng kinh tế mới lại bắt đầu; mặt khác, các nước đế quốc ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945). Vừa phải đóng góp cho Pháp, vừa phải lo chuẩn bị để tự mình đương đầu với sự xâm lăng của Nhật Bản, đời sống của nhân dân lao động thuộc địa bị áp bức, bóc lột liên tục và nghiêm trọng(2). Sài Gòn không nằm ngoài vòng xoáy ấy. 1. Mở tuyến đường bay quốc tế Sài Gòn - Paris (cuối năm 1933), khánh thành tuyến đường sắt Sài Gòn - Hà Nội (1936), thành lập Sở Hàng không dân dụng Đông Dương (1937). 2. Trần Văn Giàu (1962), Giai cấp công nhân Việt Nam - Từ khi Đảng Cộng sản thành lập đến Cách mạng tháng Tám thành công, tập 2 (1936 - 1939), Sđd, tr. 7.
- 47 - Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, số vốn đầu tư của Pháp vào Việt Nam rất nhỏ bé, chủ yếu là của Ngân hàng Đông Dương. Một bảng ghi chú(1) cho biết: Năm Số tiền (triệu franc) 1859 - 1902 126,8 1903 - 1918 238,0 1920 255,6 1924 - 1930 2.862,2 1931 - 1939 1.036,1 Trong hoạt động kinh tế nói chung, đầu tư vốn nói riêng của tư bản Pháp ở Việt Nam thời kỳ này, Ngân hàng Đông Dương đóng vai trò quan trọng. Với chức năng phát hành tiền giấy trên ngân bản vị, được chính quyền Pháp cho phép, Ngân hàng Đông Dương liên tục cho in và lưu hành giấy bạc, làm tăng nhanh nạn lạm phát (năm 1913: 32,2 triệu đồng, đến năm 1939: 216,3 triệu đồng, tức là cứ mỗi năm số tiền lưu hành tăng 5%), đã làm thay đổi tỷ giá đồng bạc Đông Dương và đồng franc, gây ảnh hướng tới tình hình đầu tư vốn của tư bản Pháp vào Việt Nam. Với chức năng thương mại và đầu tư, Ngân hàng Đông Dương nắm tài khoản hiện hành của ngân khố Đông Dương, nắm vốn của những xí nghiệp của người Pháp. Thông qua hoạt động phát hành giấy bạc, cho vay đầu tư, góp vốn, Ngân hàng Đông Dương đã dần thâm nhập vào 1. Nguồn: Nguyễn Văn Khánh (2004), Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ thuộc địa (1858 - 1945), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 78.
- 48 - các lĩnh vực kinh tế - xã hội Việt Nam, đóng vai trò chúa tể trong nền kinh tế Đông Dương. Đời sống nhân dân càng thêm khó khăn, khốn đốn khi Nhật nhảy vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu ách cai trị của hai đế quốc Pháp - Nhật, lâm vào tình cảnh một cổ hai tròng. Từ tháng 7/1941, hàng vạn quân Nhật bắt đầu vào Sài Gòn, trưng dụng xe cộ, lừa, ngựa, thuyền bè, nhà cửa, trường học, bắt phu, mộ lính, nhưng vẫn để y nguyên và sử dụng bộ máy cai trị của thực dân Pháp(1). Hiệp ước quân sự Pháp - Nhật về “Phòng thủ chung Đông Dương”(2) ngày 29/7/1941 và ngày 8/12/1941, thực tế đặt Đông Dương dưới quyền đô hộ của Nhật. Sài Gòn bị Nhật biến thành kho lương thực và làm một cái đầu cầu tiền tiêu, làm căn cứ quân sự hạng ưu để xâm lược toàn bộ Đông Nam Á. Tại Nam Kỳ, Pháp giao việc mua bán lúa gạo cho một nhóm độc quyền của bọn thực dân, độc quyền phát lúa cho các nhà máy xay. Riêng ở Sài Gòn - Chợ Lớn vào tháng 2/1943, trong số 47 nhà máy xay lúa cho “comptoir lúa” có 24 cái chạy, 23 cái vắng khói. Mỗi người nông dân phải khai số lúa, các bồ lúa bị niêm phong, muốn xay ăn phải xin phép(3). Từ năm 1943, Nhật không còn làm bá chủ trên mặt biển Đông nữa, tàu Nhật đến Sài Gòn ngày càng thưa, bị hải quân Anh - Mỹ đánh chìm nhiều. Năm 1944, Sài Gòn chỉ xuất đi Nhật có 740.000 tấn 1. Bộ máy cai trị của thực dân Pháp vừa có nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho quân đội Nhật lại phải cung cấp lương thực, tài chính, nhân công cho quân đội Nhật. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương thì xem việc “đóng góp” của chúng vào cuộc chiến tranh của Nhật như là cái giá để cho Pháp còn có mặt trên Đông Dương. 2. Nguồn: baotanglichsu.vn. 3. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 404.