The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search

TẬP 1 || PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH (1930 - 1975)

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- 349 - phản đối mạnh mẽ chính từ cộng đồng Thiên Chúa giáo. Linh mục Trần Hữu Thanh, Chủ tịch Phong trào nhân dân chống tham nhũng - một tổ chức của người Thiên Chúa giáo chống cộng - họp báo phản đối Luật Tổng động viên tại nhà thờ Tân Chí Linh (nay thuộc quận Tân Bình), ngày 17/3/1975. Sinh viên của ba đoàn thể Thiên Chúa giáo là Phong trào Thanh niên Công giáo đại học Việt Nam, Liên đoàn sinh viên Công giáo Sài Gòn, Liên đoàn sinh viên Công giáo Minh Đức, đã kêu gọi toàn thể sinh viên học sinh chống tổng động viên, đồng thời tố cáo bộ mặt thật của chính quyền Sài Gòn: “biện pháp đôn quân, bắt lính của chính phủ không phải là biện pháp trực tiếp và hữu hiệu để chấm dứt chiến tranh, không phải là con đường thực sự đưa đến hòa bình dân tộc trong khi miền Nam còn đầy rẫy bất công, tham nhũng, con ông cháu cha ăn chơi phè phỡn, thi đua xuất ngoại…”(1). Về mặt tổ chức hành chính, chính phủ bãi bỏ bầu cử ở cấp thôn xã, tước quyền bầu cử đại diện của hội đồng thay mặt người dân. Từ tháng 6/1956, Tỉnh trưởng trực tiếp bổ nhiệm các viên chức điều hành cấp xã(2). Trên phương diện chính danh, người dân mất quyền kiểm soát tổ chức cộng đồng trực tiếp gắn bó, bền vững và lâu đời của mình. Thói quen sinh hoạt truyền thống sẽ thúc đẩy họ tìm kiếm một thủ lĩnh tinh thần gắn bó với mình. Chính tâm lý này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những cán bộ kháng chiến được cài cắm sẵn từ thời chống Pháp mở rộng hoạt động và tầm ảnh hưởng trong dân, nhanh chóng có được sự tin tưởng của nhân dân, lôi cuốn họ theo phong trào đấu tranh do Đảng lãnh đạo. 1. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 338. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 194.


- 350 - Theo Robert Scigliano, “vào năm 1962, Việt cộng đã chiếm được 80% nông thôn của Việt Nam Cộng hòa”(1). Để tách nhân dân ra khỏi cán bộ cộng sản nằm vùng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thi hành “quốc sách” Ấp chiến lược (1961 - 1963), sau cải tiến thành chương trình Ấp đời mới (1964) rồi Ấp tân sinh (1965 - 1966). Nằm trong kế hoạch xây dựng nông thôn, nhưng thực tế thì các chương trình này buộc nông dân xa rời đồng ruộng, dồn vào sống trong các trại tập trung. Trên toàn miền Nam, chỉ trong vòng 3 năm 1965 - 1967, đã có 2,2 triệu người bật khỏi nông thôn dạt về các đô thị(2). Đồng thời quân viễn chinh Mỹ và đồng minh của Mỹ cũng tập kết ồ ạt vào miền Nam, tính đến tháng 12/1967 có 557.774 binh sĩ, trong đó có đến 497.498 quân Mỹ(3). Quá trình đô thị hóa cưỡng bức tại Sài Gòn diễn ra nhanh chóng. Năm 1958, dân số Sài Gòn vào khoảng 2.000.000 người(4). Giai đoạn 1969 - 1970, dân số Sài Gòn lên đến 3.000.000 người, với mật độ 12.740 người/dặm vuông. 3. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội Nói về kinh tế Sài Gòn, rộng hơn là kinh tế miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975, không thể bỏ qua vai trò quan trọng của quân đội Mỹ và nguồn viện trợ từ Mỹ. 1. Dẫn theo Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 333. 2. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu khoa học thị trường - giá cả, Hà Nội, tr. 49. 3. Tổng kết hoạt động hành quân (mật), số 2555/TTM?TTHQ/HQ, tháng 12/1967 của Trung tâm hành quân Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 15829, PTTg, tài liệu lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 4. The Straits Times, “Saigon growth”, 29/4/1958, p.3, http://eresources.nlb.gov.sg/newspapers/Digitised/Search?ST=1&AT=search&k= saigon, truy cập ngày 22/9/2017.


- 351 - Sau khi chính thức nắm quyền tại miền Nam, chế độ Ngô Đình Diệm gấp rút xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngày 7/8/1959, đường xe lửa nối liền Đông Hà (tiền đồn cận kề vĩ tuyến 17) với Sài Gòn, trung tâm miền Nam - được khánh thành. Nhờ viện trợ, đến thập niên 1970, miền Nam có 1.700km đường nhựa qua các tỉnh, 9 hải cảng lớn, 14 sân bay. Bên cạnh nguồn viện trợ kinh tế cho miền Nam, Mỹ gây sức ép lên các quốc gia châu Á để kích thích giao thương quốc tế tại vùng đất này. Tuy nhận được nhiều hậu thuẫn kinh tế từ Mỹ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại không tận dụng hiệu quả những khoản viện trợ khổng lồ, mà trái lại, đã biến nền kinh tế miền Nam trở thành một cơ thể phương phi hào nhoáng bề ngoài nhưng thực chất thối ruỗng, èo uột ở bên trong. Phụ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ khiến kinh tế Việt Nam Cộng hòa gặp nhiều rủi ro. Giá cả tăng cao, nhất là nhu yếu phẩm, đã làm đời sống nhân dân lầm than. Chỉ trong vòng 1 năm, từ tháng 4/1962 đến tháng 4/1963, giá nhu yếu phẩm tăng từ 30% - 100%. Chính quyền nhận thấy nguy cơ chính trị từ tình hình kinh tế này: “Nguyên nhân của nhiều vụ tranh chấp là sự lên giá của thực phẩm và vật phẩm thường dùng. Bộ Lao động ước mong Bộ Kinh tế làm sao cho giá sinh hoạt trở lại mức bình thường của những năm 1958 - 1959, Việt cộng không còn duyên cớ nghề nghiệp để thúc đẩy công nhân tranh chấp”(1). Trong khi đó, nạn tham nhũng ngày một lan rộng tệ hại hơn, nhóm cầm quyền tranh thủ gom tiền của, hàng hóa từ chương trình viện trợ Mỹ vào túi riêng, thay vì chuyển đến 1. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016), Phong trào công nhân ở các đô thị miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ từ năm 1954 đến năm 1965, Luận án Tiến sĩ sử học, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tr. 66.


- 352 - đúng địa chỉ được viện trợ. Tình hình nghiêm trọng đến nỗi Hạ viện Mỹ phải cử một phái đoàn kiểm tra về việc này. Chuyện các nhân vật chóp bu trong chính phủ và gia quyến kiếm lợi riêng bất chấp luật pháp bằng con đường buôn lậu, đầu cơ, chiếm độc quyền kinh doanh,… vốn không lạ gì từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, lại tiếp tục tái diễn dưới thời Cộng hòa đệ nhị, mà tai tiếng nhất là âm mưu của Nguyễn Văn Thiệu hòng đánh tháo 16 tấn vàng từ quốc khố ra nước ngoài qua ngân hàng quốc gia Mỹ. Đồng tiền Việt Nam Cộng hòa tụt dốc không phanh. Hối suất thống nhất theo quy định năm 1955 là 35 đồng/USD, năm 1963 là 80 đồng/USD, năm 1970 là 275 đồng/USD, đến năm 1973 thì chính quyền Sài Gòn chủ trương “hối suất di dộng”: giá quy đổi đồng tiền do hội đồng hối đoái quyết định theo diễn biến thị trường, nghĩa là chính quyền không kiểm soát đồng tiền của mình được nữa nên buộc phải thả nổi. Thực tế là thị trường đã tự điều chỉnh chênh lệch giá trị giữa các đồng tiền và tiền Sài Gòn được định giá rất thấp so với tính toán của chính quyền: năm 1966, tỉ giá thị trường chợ đen lên đến 500 đồng/USD trong khi hối suất quy định năm 1965 chỉ là 118 đồng/USD. Năm 1962, kinh tế miền Nam lạm phát 3,9 tỉ đồng; năm 1964, lạm phát 16,4 tỉ đồng. Khi rục rịch rút quân về nước năm 1969, Mỹ cũng giảm viện trợ; chính quyền Nguyễn Văn Thiệu dùng cách tăng thuế để trang trải kinh phí quân sự. Năm 1973, khi viện trợ đã giảm xuống chạm đáy, hàng nhập khẩu vào Sài Gòn ngày càng khan hiếm, vật giá vì thế tăng theo cấp số nhân. Từ năm 1972 sang năm 1973, giá gạo tăng 2 lần, giá đường tăng 6 lần, giá phân bón, sợi, xi măng tăng từ 2 - 4 lần.


- 353 - Đồng tiền Việt Nam Cộng hòa mất giá trên thị trường tự do. Năm 1967, tỉ giá quy định 1 USD đổi 80,8 đồng Sài Gòn, nhưng giá chợ đen là 1 USD đổi 164 đồng Sài Gòn. Bên cạnh viện trợ, Mỹ cũng nhập một lượng lớn hàng hóa vào miền Nam, đa chủng loại, từ bột mì, bột sữa, bông, thuốc lá, hóa chất… cho đến chất dẻo, sắt thép, động cơ… Giá trị hàng Mỹ nhập vào năm 1963 là hơn 3,7 tỉ đồng (trong tổng số hơn 7,5 tỉ đồng hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài). Con số này tăng dần qua các năm, đến năm 1973 khối lượng hàng Mỹ nhập vào có giá trị hơn 128,5 tỉ đồng (trong tổng số 214,6 tỉ đồng hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài). Chính vì lượng hàng nhập tràn lan này, nhiều nghề thủ công bị triệt tiêu, như nghề trồng bông, đan lát và đường mía. Các nhà máy chế biến mọc lên sử dụng nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Ngành công nghiệp nhẹ phát triển mạnh. Năm 1974, số cơ sở sản xuất công nghiệp tại Sài Gòn - Gia Định đã lên đến 38.000. Hàng hóa đầy rẫy ở các chợ, nhưng chỉ có tư sản và giới cầm quyền kiếm được lợi. Để phục vụ cho liên quân Mỹ và đồng minh, cũng như lực lượng lính “quốc gia” đông đảo tại Sài Gòn, hàng loạt nghề dịch vụ ra đời và phát triển mạnh: nhà nghỉ - khách sạn, rạp hát, xích lô, taxi, đánh giày,… Nhân công trong các ngành này lại chính là những nông dân đã rời bỏ làng mạc kiếm sống qua ngày tại thành thị. Nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa thiếu hẳn bộ phận sản xuất, mà chỉ còn bộ phận tiêu dùng và dịch vụ, với những khu vực lao động không trực tiếp làm ra hàng hóa. Nông nghiệp miền Nam đình đốn vì chính sách kinh tế thiên vị giai cấp địa chủ của chính quyền. Ngay từ những


- 354 - ngày đầu của chế độ cộng hòa, nông dân miền Nam nói chung và nông dân Sài Gòn nói riêng đã phải chịu nhiều bất công. Những nông dân được Việt Minh cấp ruộng đất trong kháng chiến chống Pháp bị thu hồi đất, hoặc phải đóng tiền rất nặng để được tiếp tục gieo trồng trên mảnh đất ấy. Ngược lại, số ít đại điền chủ - vốn giàu có - hoặc là con chiên, theo đạo Thiên Chúa - đã có nhiều đặc lợi - lại được hưởng quyền khai thác những vùng đất rộng lớn. Đến tháng 7/1971, khoảng 700.000 nông dân trên toàn miền Nam phải làm thuê cho điền chủ, không hề có một tấc ruộng cho riêng mình. Viện trợ Mỹ dành cho nông nghiệp cũng hết sức hạn chế: năm 1964, số viện trợ nông nghiệp chỉ chiếm 2% tổng viện trợ cho dự án kinh tế, sang năm 1972, tỉ lệ này là 3%. Nông dân miền Nam, sau 20 năm đất nước có người Mỹ tham chiến, vẫn phải cuốc tay hoặc dùng cày trâu là chủ yếu, diện tích đất cày máy không quá 20% tổng diện tích trồng trọt. Miền Nam không có nhà máy sản xuất phân bón, toàn bộ đều phải nhập khẩu. Giống chăn nuôi do Mỹ viện trợ là giống một đời, chỉ sử dụng được cho chu kỳ sản xuất đầu tiên và duy nhất. Hệ quả tất yếu là miền Nam không làm ra đủ lương thực thực phẩm đáp ứng được chính nhu cầu của mình. Từ một vựa gạo của khu vực Đông Nam Á, miền Nam những năm 1955 - 1956 lại bị thiếu gạo trầm trọng. “Tờ information (Paris, 12/1/1956) viết: “Ở Sài Gòn giá gạo chợ đen lên đến 1.700 đồng/tạ. Từ xưa đến nay, người ta chưa bao giờ thấy hiện tượng trái ngược đời là gạo miền nam Việt Nam, một trong những vựa lúa lớn nhất thế giới, lại đắt hơn cả gạo Paris. Miền Nam trước đây xuất cảng trung bình 1 triệu 500 tấn gạo một năm (năm 1937 xuất tới 1.700.000 tấn), vậy mà bây


- 355 - giờ thiếu gạo trầm trọng”(1). Miền Nam phải nhập khẩu gạo và càng ngày lượng gạo nhập siêu càng nhiều: năm 1965 là 129.000 tấn, chỉ 3 năm sau (năm 1968) con số đã tăng lên gấp 6 lần: 765.000 tấn. Kinh tế miền Nam phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ. Mục đích của viện trợ Mỹ là đầu tư chiến tranh, do đó nền kinh tế miền Nam cũng phát triển theo hướng phục vụ chiến tranh, những khu vực kinh tế ngoài mục tiêu của cuộc chiến đều bị ngưng trệ. Thực tế cho thấy, không có viện trợ của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa lộ rõ tính chất “tự chủ” hình thức giả hiệu, đến nỗi bỏ rơi cả nền “độc lập quốc gia”. Sau Hiệp định Paris, Mỹ quyết định rút dần khỏi miền Nam để bảo toàn danh dự. Về tài chính, số tiền viện trợ bị cắt giảm mạnh: viện trợ quân sự năm 1973 là 2,1 tỉ USD, sang năm 1974 còn 1,4 tỉ USD, đến năm 1975 chỉ 700 triệu USD; viện trợ kinh tế dự kiến cho năm 1975 là 650 triệu USD bị Ủy ban phân bổ ngân sách Thượng viện Mỹ duyệt chi giới hạn 250 triệu đô la. Quân đội Cộng hòa lâm vào cảnh cạn kiệt nguồn lực và vũ khí, đạn đại bác phải tính từng viên. Sau khi quân giải phóng nắm thị xã Phước Bình, Phước Long (nay thuộc tỉnh Bình Phước), ngày 7/1/1975, Việt Nam Cộng hòa không tổ chức tái chiếm. Đây là lần đầu tiên tình trạng này xảy ra, nguyên nhân trực tiếp là từ khó khăn kinh tế. Người Sài Gòn - cư dân của đô thị sầm uất nhất miền Nam, sống tại trung tâm của các cuộc đấu tranh liên quan đến vấn đề kinh tế - bao giờ cũng có độ nhạy cảm nhất định với thể trạng tài chính quốc gia. Ngày 25/10/1969, phiên 1. Lê Cung, “Phong trào công nhân vì mục tiêu dân sinh ở các đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1959”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4/2012.


- 356 - họp bất thường của Ban Chấp hành Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - đại diện cho hơn 30.000 sinh viên - đã phản đối quyết định tăng thuế kiệm ước(1) trên gần 2.000 mặt hàng, kêu gọi toàn thể đồng bào lên tiếng. Tiếp đó, ngày 27/10/1969, đại diện của 118 nghiệp đoàn thuộc Liên hiệp Nghiệp đoàn Đô thành, cũng như Nghiệp đoàn Xe lam thuộc hệ thống Tổng Công đoàn Tự do đã đòi chính quyền phải hủy bỏ tăng thuế; đến ngày 31/10/1969, Liên đoàn Vận tải Sài Gòn cũng tổ chức hội thảo khẩn cấp với cùng một tinh thần… Những biến chuyển kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống là một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các cuộc đấu tranh của nhân dân Sài Gòn, trong đó có phụ nữ, giai đoạn 1954 - 1975, mà tiêu biểu là hoạt động của Nghiệp đoàn 36 chợ. Về mặt văn hóa, dù thực tế luôn hô hào tự do, nhưng chính sách văn hóa của chế độ Việt Nam Cộng hòa đã lập ra nhiều rào cản, hạn chế tự do tư tưởng. Trong lĩnh vực giáo dục, kỳ thi Tú tài II bằng tiếng Pháp lần cuối cùng được trường Pétrus Ký tổ chức năm 1957. Tuy nhiên, chương trình học vẫn còn dùng nhiều tiếng Pháp, nhiều khoa vẫn sử dụng 100% tiếng Pháp trong giảng dạy. Ngày 7/2/1958, hàng trăm học sinh sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình trước Nha Tổng Giám đốc học vụ, đòi dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, sử dụng tiếng Việt ở bậc đại học thay cho tiếng Pháp, đòi sửa đổi nội dung chương trình giảng 1. Thuế kiệm ước: thuế TVA (AVT, Added-Value Tax): Đầu năm 1973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình được ký kết ở Paris vào ngày 27/1, đánh dấu việc Mỹ rút hết quân, siết hầu bao với chính quyền Sài Gòn. Miền Nam vì tình thế bắt buộc phải nghĩ đến những chương trình kinh tế tự lực, tự cường. Trong những biện pháp, nổi bật nhất là thuế kiệm ước, cùng với thuế trị giá gia tăng. Các thứ thuế phân suất quân bình, kiệm ước, trị giá gia tăng đều nhằm tìm nguồn thu ngân sách.


- 357 - dạy cho thích hợp với văn hóa dân tộc…(1). Đến năm học 1966 - 1967, sinh viên Đại học Y khoa tổ chức hội thảo với khẩu hiệu “Dân Việt Nam học tiếng Việt”, phong trào lan rộng sang các trường khác. Sinh viên Đại học Sư phạm lập Ủy ban Thanh niên, sinh viên, học sinh đòi chuyển ngữ tiếng Việt ở đại học, do Hồ Hữu Nhựt làm Chủ tịch, ra tờ Chuyển ngữ làm cơ quan ngôn luận. Sau thắng lợi của phong trào, ngoại trừ trường Đại học Y khoa có một hệ học bằng tiếng Anh, các trường đại học đều dùng tiếng Việt trong giảng dạy(2). Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đóng tại số 4 đường Duy Tân (nay là đường Phạm Ngọc Thạch), có tư cách đại diện cho sinh viên thuộc 14 phân khoa, cao đẳng, học viện tại Sài Gòn; dẫn dắt bởi Ban Chấp hành có nhiệm kỳ 1 năm. Nhiều thế lực muốn chi phối Tổng hội Sinh viên Sài Gòn để có lực lượng xung kích cho hoạt động của mình. Từ nhiệm kỳ 1966 - 1967, Đảng và Đoàn Thanh niên nắm được Tổng hội Sinh viên Sài Gòn. Sinh viên trở thành người đấu tranh công khai, không chỉ đòi hỏi quyền lợi cho mình và bạn bè mình, không chỉ cho nền văn hóa - giáo dục; mà còn sát cánh cùng đồng bào trong cuộc chiến đấu vì hạnh phúc nhân dân và thống nhất đất nước: chống đàn áp Phật giáo năm 1963, chống đàn áp đồng bào miền Trung năm 1966, chống bầu cử gian lận năm 1966 - 1967… Ở đó, tập thể nữ học sinh, sinh viên sát cánh cùng anh em: 600 nữ sinh tham gia chống đàn áp Phật giáo trong số 2.400 học sinh trung học bãi khóa ngày 1. Dẫn theo Phan Thị Lý, “Phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định vì mục tiêu dân chủ giai đoạn 1954 - 1960”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 121. 2. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 296.


- 358 - 7/7/1963. Tháng 9/1963, 4.000 nữ sinh Gia Long(1) bị đàn áp khi đấu tranh. Tính từ ngày 8/5 đến ngày 16/9/1963, trên 60.000 lượt nữ học sinh, sinh viên đã hưởng ứng phong trào Phật giáo(2), “Phong trào hòa bình” năm 1965 phản đối Mỹ xâm lược Việt Nam, phong trào Hát sử ca, phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe,… Bản chất của một nền giáo dục trong một quốc gia không tự chủ làm nảy sinh nhiều vấn đề. Việt Nam Cộng hòa tổ chức cho sinh viên du học dưới dạng các học bổng. Tuy nhiên, việc chọn lựa sinh viên trúng học bổng có sự thiên vị cho khối Thiên Chúa giáo (thời Đệ nhất Cộng hòa)(3). Nạn buôn bán đề thi kéo dài từ năm 1963 đến tận năm 1975(4). Viện trợ dành cho dự án giáo dục, bao gồm tất cả các cấp học và ngành nghề, cũng rất hạn chế: từ năm 1955 - 1961 là 8,3 triệu USD, năm 1961 là 2,1 triệu USD, năm 1972 là 3,7 triệu USD; phần lớn trong số đó đổ vào hai trường quân sự là trường Võ bị Đà Lạt và trường Quân sự Thủ Đức, các trường phổ thông và đại học không được đầu tư bao nhiêu(5). Mặt khác, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lại “bật đèn xanh” cho phép mở một loạt quán bar, hộp đêm, sàn nhảy khắp Sài Gòn để phục vụ lính Mỹ sang tham chiến. Văn hóa phương Tây tràn sang với cả những yếu tố tích cực lẫn tiêu 1. Trường Gia Long cũng là Trường Áo tím, xem thêm về các nhân vật nổi bật của trường tại Chương 1. 2. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 301. 3. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 563. 4. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 236. 5. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở miền Nam, tr. 111.


- 359 - cực: tạp chí khiêu dâm, văn học hiện sinh, chủ nghĩa cần lao - nhân vị,… Tâm lý và tư tưởng giới trẻ Sài Gòn bị ảnh hưởng mạnh: một mặt, họ bị ám ảnh, sợ hãi chiến tranh; một mặt, họ mê muội với làn sóng phương Tây, thoát ly hiện thực. Phụ nữ trở thành nạn nhân của lối sống thực dụng, thực dân hóa trong vùng tạm chiếm. Trên mặt trận báo chí, các ký giả tham gia một cuộc chiến văn hóa gay go với chính quyền. Các sân khấu, báo chí có hơi hướng chống xâm lược bị chính quyền bắt bớ, khủng bố. Báo chí bị kiểm soát gắt gao. Nhà cầm quyền tổ chức mạng lưới mật vụ trong các tòa báo để bóp chết các cuộc đấu tranh ngôn luận ngay từ trứng nước, kết hợp với cảnh cáo công khai bằng vũ lực của cảnh sát và truy tố ra tòa. Ngay cả những tòa báo không chống chế độ mà chỉ có khuynh hướng đối lập cũng lao đao(1). Trong nền Cộng hòa thứ nhất, Ngô Đình Diệm còn xảo trá dùng báo chí như phương tiện tự bào chữa trước dư luận, đến khi xuất hiện các bài viết có ý châm biếm đả kích nhà cầm quyền thì hèn nhát khủng bố, mà vụ việc tại tòa soạn báo Tự do tháng 2/1960 là một ví dụ(2). Chào mừng xuân Canh Tý 1960, báo Tự do phát hành số Xuân có bìa là bức tranh 5 “ông Tý” cắn quả dưa vàng, không đề tên người vẽ. Báo đã phát hành và bán rất chạy thì đột nhiên tòa soạn bị cảnh sát lục soát, tịch thu những số còn lại, truy tìm tác giả bức tranh; vì chính quyền cho rằng tranh bìa có ý quy kết 5 anh em nhà họ Ngô đang độc tài cai trị miền Nam! 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 200. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 203.


- 360 - Vào thập niên 1960, chỉ có 12 - 15 tờ báo được phát hành tại Sài Gòn(1) sau khi một loạt tờ báo lớn như: Người Việt tự do, Chuông mai, Thần chung, Thời cuộc,… đình bản do chính sách báo chí khắc nghiệt của chính quyền. Từ khi nền Cộng hòa thứ hai được thiết lập đến khi Hiệp định Paris được ký kết, giới ký giả Sài Gòn phải đối mặt với chính sách báo chí còn khắc nghiệt hơn thời Ngô Đình Diệm. Ngày 24/6/1964, trong cuộc họp báo tuyên bố tình trạng chiến tranh trên toàn lãnh thổ miền Nam, Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ công bố quyết định đóng cửa tất cả các tòa báo Sài Gòn để “tái lập trật tự”. Nhà báo Tô Văn lập tức đứng dậy hô to “Đả đảo độc tài” và bỏ ra khỏi phòng họp(2). Sau đó, 36 tờ nhật báo bị ngừng hoạt động. Ngày 5/8/1972, Nguyễn Văn Thiệu ban hành Sắc luật 007/TT/SLU (thường gọi là Sắc luật 007/72), theo đó mỗi tờ nhật báo bắt buộc phải ký quỹ 20.000.000 đồng (tương đương 1.000 lượng vàng đương thời), tuần báo và nguyệt san ký quỹ 10.000.000 đồng tại Tổng nha Ngân khố. Số tiền này dùng chi trả án phí khi tòa báo bị kết án dân sự, nếu không nộp đủ, báo coi như tự đình bản. Bên cạnh đó, tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Do ảnh hưởng của Sắc luật, 16 tờ nhật báo và 15 tờ báo định kỳ phải đóng cửa. Tính đến cuối năm 1973, có 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí(3). Chỉ những tờ báo thân chính quyền là yên ổn, như tờ Dân chủ của chính phủ, tờ Tiền tuyến của quân đội, tờ Bình minh - cơ quan ngôn luận của Phong trào Cấp tiến. Ký 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 205 2. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 449. 3. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 209.


- 361 - giả Sài Gòn thời ấy đều phải đề phòng đội ngũ đồng nghiệp giả hiệu, thực chất là chỉ điểm hoặc tình báo quốc gia. Mặc cho các cơ quan nắm quyền kiểm soát ráo riết, báo chí đã lên tiếng luận tội chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, yêu cầu hòa bình ngay trong các hoạt động xuất bản của mình. Nhiều tờ báo công khai chỉ trích chính sách chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, qua đó gián tiếp vạch trần sự phụ thuộc của chính quyền vào ngoại bang. Tờ Điện tín có loạt tranh đả kích sắc sảo của họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành), và chuyên mục Văn tế sống đăng thơ châm biếm của tác giả Cung Văn (Nguyễn Vạn Hồng) đã “vỗ mặt” gần như không chừa một nhân vật trụ cột nào của nền Cộng hòa đệ nhị, kể cả Tổng thống Mỹ Nixon và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu(1). Cũng tờ Điện tín, ngày 18/8/1972, thống kê trọng lượng và số bom do máy bay Mỹ ném xuống Đông Dương và Việt Nam, sau đó kết luận con số này nhiều hơn cả lượng bom được Mỹ sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chính vì bài báo này, nhật báo Điện tín trở thành tòa báo đầu tiên bị chính quyền Sài Gòn truy tố ra Tòa án Quân sự Mặt trận Biệt khu Thủ đô vì tội “phổ biến tin tức và tài liệu có thể gây phương hại đến an ninh quốc gia”. Sau phiên tòa ngày 22/9/1972, nữ quản lý tòa báo bị phạt 1.000.000 đồng tiền Việt Nam Cộng hòa và bị kết án 1 năm tù(2). Báo Bút thần trước khi phải đóng cửa theo Sắc luật 007/72 đã đăng bài xã luận lên án chế độ, qua mắt kiểm duyệt bằng cách cho phát hành sớm trước 4 tiếng đồng hồ theo luật; khi 1. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 195. 2. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 236. Xin xem tường thuật phiên tòa xử báo Điện tín tại phần Phụ lục. Hiện chưa xác định được nhân thân nữ quản lý báo Điện tín bị kết án, chỉ biết bà là một tư sản ngành in ấn.


- 362 - cảnh sát đến lục soát thì chỉ thu được bản chì trên máy in, việc lục soát bị hãng truyền hình CBS của Mỹ ghi hình theo lời mời của chủ báo(1). Độc giả hưởng ứng cuộc thi phóng sự “Viết cho quê hương, viết cho dân tộc” của báo Tiếng nói dân tộc bằng các bài dự thi chống chiến tranh, chống sự can thiệp của Mỹ. 10 bài viết hay nhất sau đó được tập hợp, dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Mỹ vào năm 1970, nữ nhà báo Frances Fitzgegrald viết lời mở đầu(2). Báo chí có những phát ngôn trực diện: “biến căm thù thành hành động cách mạng” (báo Tin sáng, ngày 11/3/1971), “đánh Mỹ bằng ngòi bút” (báo Đối diện, số 39, tháng 9/1972)(3). Hoạt động gây tiếng vang nhất của báo chí Sài Gòn trước ngày thống nhất là cuộc xuống đường “Ký giả ăn mày”, ngày 10/10/1974, do Hội chủ báo, Nghiệp đoàn ký giả Nam Việt, Nghiệp đoàn ký giả Việt Nam, Hội Ái hữu ký giả cùng khởi xướng đã lôi cuốn 5.000 người thuộc nhiều tầng lớp tham gia biểu tình. Trong sinh hoạt tôn giáo, sự kiện “Chúa vào Nam” năm 1954 do chính quyền Ngô Đình Diệm kích động đã khởi lên làn sóng di cư từ Bắc vào Nam của hơn 860.000 người, trong đó có gần 700.000 người theo đạo Thiên Chúa, nâng số tín đồ Thiên Chúa giáo tại miền Nam lên 1.400.000 người(4). Thành phần tôn giáo chiếm chưa đầy 1/10 dân số, dưới chế độ này, được hưởng những đãi ngộ khác biệt, ngoài luật. Chính quyền chỉ thừa nhận Thiên Chúa giáo như là tôn giáo duy 1. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 236. 2. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 148. 3. Nguyễn Công Khanh, “Đấu tranh của giới báo chí Sài Gòn, thời kỳ sau Hiệp định Paris 1973”, in trong sách: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc - Kỷ yếu truyền thống Ban Trí vận - Mặt trận Sài Gòn - Gia Định, giai đoạn 1954 - 1975, tập I, tr. 139. 4. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 395.


- 363 - nhất tại miền Nam Việt Nam; các tôn giáo khác như Phật giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo chỉ có tư cách pháp nhân của hiệp hội. Năm 1956, ngày Phật Đản bị loại khỏi danh sách ngày nghỉ lễ(1). Công điện số 9195 ngày 6/5/1963 cấm treo cờ Phật giáo thế giới trong dịp Đại lễ Phật Đản. Trong khi đó, cờ Tòa Thánh mặc nhiên treo khắp nơi, không giới hạn trong khuôn viên cơ sở tôn giáo như quy định. Ngoài việc châm chước, ưu tiên, Ngô Đình Diệm còn ban hành chính thức một loạt chính sách ưu đãi cho cộng đồng Thiên Chúa, khiến họ không chỉ nhanh chóng ổn định cuộc sống tại vùng đất mới, mà còn trở thành một thế lực trong cơ cấu kinh tế - xã hội. Dân di cư có nghề thương mại và kỹ nghệ được sắp xếp an cư tại vùng ngã ba Ông Tạ, Tân Bình, Gò Vấp(2). Phần lớn cơ sở thương mại, báo chí tại khu Phạm Ngũ Lão gần chợ Sài Gòn do người Công giáo làm chủ. Nhà thờ, tu viện và trường học Thiên Chúa được thành lập nhiều không đếm xuể. Đến năm 1969, toàn miền Nam có 1.256 trường Thiên Chúa giáo các cấp từ mẫu giáo đến trung học - so với hơn 100 trường của Phật giáo, không có trường nào của Cao Đài và Hòa Hảo(3). Những quy định dành đặc quyền lộ liễu cho người theo đạo Thiên Chúa đã dần dần tách biệt cộng đồng này ra khỏi khối gắn kết tự nhiên của nhân dân miền Nam, gây mối ác cảm giữa người “có đạo” với người “không có đạo”. 1. Lê Cung, “Huế - Nơi mở đầu phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2005), Về phong trào đô thị miền nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 147. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 145. 3. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 577.


- 364 - Mặt khác, những hành động phân biệt đối xử với Phật giáo, dù tôn giáo này gắn bó sâu đậm với đồng bào, đã khiến 11 tông phái và đoàn thể Phật giáo (gồm: Giáo hội Thiền định đạo tràng, Giáo hội Tăng già Việt Nam, Giáo hội Tăng già Nam Việt, Tổng hội Phật giáo nguyên thủy Việt Nam, Giáo hội Tăng già Bắc Việt (tại miền Nam), Giáo hội nguyên thủy Việt Nam, Giáo hội Theravada (người Việt gốc Miên), Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Hội Việt Nam Phật giáo (Bắc Việt), Đoàn thể Phật tử Theravada (người Việt gốc Miên), Hội Phật học Nam Việt) họp tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn, đồng lòng đấu tranh trong cao trào 1963(1). Cuộc đấu tranh của Phật giáo Sài Gòn, cũng như của Phật giáo miền Nam, những năm 1960 đã huy động một số lượng lớn Phật tử và các thành phần xã hội có cảm tình với Phật giáo, cùng sát cánh với các tăng ni đã xuất gia. Ngày 30/5/1963, gần 400 tăng ni tập trung tại chùa Xá Lợi và chùa Ấn Quang, đổ về công trường Lam Sơn, trước trụ sở Quốc hội Sài Gòn, biểu tình với khẩu hiệu đòi bình đẳng tôn giáo: “Quốc hội, Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa hãy thực thi bình đẳng tôn giáo. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho Phật giáo. Yêu cầu Tổng thống giải quyết ngay 5 nguyện vọng của Phật giáo. Nhịn đói vì lá cờ Phật giáo và tự do tín ngưỡng”(2). Trước khí thế của phong trào đấu tranh Phật giáo, chính quyền lo sợ sẽ có biến động lớn vào ngày rước di thể thiền sư Thích Quảng Đức, đã được ấn định là ngày 16/6/1963. Do đó, Ủy ban Liên bộ của chính quyền đã cấp tốc thương lượng với Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo từ ngày 14/6/1963, không 1. Lê Chính Tâm, Từ Ánh Nguyệt, “Phong trào Phật giáo Sài Gòn năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 159. 2. Công văn số 5273-CSĐT/P2/L2/M, ngày 31/5/1963 của Giám đốc Nha Cảnh sát Quốc gia Đô thành Sài Gòn gởi Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia và Đô trưởng Sài Gòn, tài liệu lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu tài liệu: ĐICH-8534.


- 365 - kể ngày đêm, để đưa ra bản Thông cáo chung vào 2 giờ sáng 16/6/1963. Nội dung Thông cáo chung về cơ bản đáp ứng các nguyện vọng của Phật giáo(1). Tuy nhiên, lãnh đạo Phật giáo sớm nhận định rằng chính quyền sẽ không tuân thủ Thông cáo, và thực tế đúng là như vậy. Ngày 19/6/1963, Văn phòng Phủ Tổng thống gửi mật điện số 13242/VP/TT đến các Đại biểu chính phủ các miền và Tư lệnh các vùng: “Để tạm thời làm dịu tình hình và khí thế đấu tranh quá quyết liệt của bọn tăng ni Phật giáo phản động, Tổng thống và ông Cố vấn ra lệnh tạm thời nhún nhường họ. Các nơi hãy theo đúng chủ trương trên và đợi lệnh. Một kế hoạch đối phó thích nghi sẽ gởi đến sau. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị dư luận cho giai đoạn tấn công mới, hãy theo dõi, điều tra, thanh trừng những phần tử Phật giáo bất mãn và trình thượng cấp, kể cả sĩ quan và công chức cao cấp”(2). Do những hành động vi phạm Thông cáo chung của chính quyền, giới lãnh đạo Phật giáo phát động trở lại cuộc đấu tranh. Chiều ngày 16/7/1963, gần 200 tăng ni biểu tình trước tư dinh Đại sứ Mỹ, đòi Mỹ và các nước khác không được viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa; Mỹ phải chịu trách nhiệm về chính sách đàn áp Phật giáo của nhà họ Ngô(3). Ngày 17/7/1963, tăng ni và Phật tử chùa Xá Lợi tập hợp trước chợ Bến Thành, đòi chính quyền thi hành nghiêm túc Thông cáo chung. Cảnh sát cưỡng ép người đấu tranh lên xe: “Với sự trợ lực của lính mũ sắt, cảnh sát chiến 1. Xem toàn văn Thông cáo chung giữa Ủy ban liên bộ Việt Nam Cộng hòa và Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo, ngày 16/6/1963, tại phần Phụ lục. 2. Lê Chính Tâm, Từ Ánh Nguyệt, “Phong trào Phật giáo Sài Gòn năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 168. 3. Lê Chính Tâm, Từ Ánh Nguyệt, “Phong trào Phật giáo Sài Gòn năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 172.


- 366 - đấu đã dùng báng súng và gậy gộc đánh các người biểu tình rồi túm cổ vất họ lên xe cam nhông của nhà binh đang đậu bên cạnh. Tăng ni, đàn bà và trẻ con bị cảnh sát đánh ngã lăn ra đường. Rất nhiều người đổ máu. Cà sa vàng của tăng ni và áo dài của đàn bà bị xé rách tả tơi trong khi họ bị dồn lên xe” (báo Stars and Stripes, ngày 18/7/1963)(1). Ngày 23/7/1963, sư bà Diệu Huệ tổ chức họp báo tại chùa Xá Lợi, công bố ý nguyện tự thiêu bảo vệ Phật giáo. Ngày 30/7/1963, đông đảo quần chúng tập trung tại chùa Xá Lợi, hưởng ứng ngày lễ Chung thất Hòa thượng Thích Quảng Đức. Jerrold Scheter ghi nhận trong cuốn sách The New Face of Buddha, nhà xuất bản John Weatherhill xuất bản tại Tokyo năm 1967: “…hầu hết những người đến dự lễ đều là đàn bà. Họ đều trẻ, khá hấp dẫn và duyên dáng trong bộ áo dài và quần trắng, hoặc cả bà già nhăn nheo, răng bị nhuộm đen vì ăn trầu. Tất cả đều có đính băng nhỏ màu vàng ở trước ngực, một biểu hiện thương tiếc Hòa thượng Thích Quảng Đức”(2). Chính sách bất bình đẳng dành cho Phật giáo tiếp tục được Việt Nam Cộng hòa duy trì sau khi gia đình Ngô Đình Diệm sụp đổ. Đồng bào Phật giáo lại đấu tranh phản đối chính phủ Trần Văn Hương trong những năm 1964 - 1965, tiêu biểu là cuộc mít tinh với 4.000 người tham dự tại Việt Nam Quốc Tự ngày 3/1/1965(3). 1. Dẫn theo Lê Văn Quang, “Sức mạnh quần chúng nhân dân trong phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 222. 2. Dẫn theo Lê Chính Tâm, Từ Ánh Nguyệt, “Phong trào Phật giáo Sài Gòn năm 1963”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 177. 3. Trần Thanh Thủy, “Phong trào đô thị miền Nam chống chính quyền Trần Văn Hương cuối năm 1964, đầu năm 1965”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 273.


- 367 - Về xã hội, những đặc điểm trong cấu trúc giai tầng xã hội (được quy định bởi tình hình kinh tế và thể chế chính trị) đã chi phối đến tâm lý xã hội và phong trào đấu tranh cách mạng của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975. Một số lượng lớn dân nhập cư từ nông thôn trở thành công nhân, bị vắt kiệt sức lao động trong điều kiện làm việc hạn chế, điều kiện sống tạm bợ. Số lượng công nhân ở Sài Gòn - Gia Định không ngừng tăng: năm 1957 có khoảng 191.000 người, con số này đến năm 1961 là hơn 225.000 người, sang năm 1962 đã tăng lên gấp 3 lần. Trong đó, tỉ lệ công nhân nữ ở mức cao, đặc biệt là những cơ sở sản xuất ngành hàng may mặc, chế biến. Công nhân có thể bị sa thải bất kỳ lúc nào, hoặc bị bắt quân dịch, hoặc tiếp tục được làm việc nhưng lương không đủ trang trải cuộc sống, nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp cao. Năm 1962, toàn miền Nam có 618.000 công nhân, nhưng chỉ 200.000 người có công việc, còn lại thất nghiệp hoặc nửa thất nghiệp(1). Năm 1965, tại nhà đèn Chợ Quán và Xí nghiệp công quản điện nước, có đến 138 trong tổng số 780 công nhân bị bệnh lao phổi, 29 ca trong đó đã đến mức trầm trọng(2). Công nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong các phong trào đấu tranh cách mạng tại đô thị Sài Gòn, đặc biệt là những phong trào đòi cải thiện đời sống, có hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, phi vũ trang. 1. Nguyễn Thị Thanh Huyền, “Phong trào công nhân Sài Gòn - Gia Định (1961 - 1964), in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr.127. 2. Báo cáo của Ban Công vận R, ngày 7/1/1966, dẫn theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, “Phong trào công nhân Sài Gòn - Gia Định (1961 - 1964), in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr.128.


- 368 - Cuối năm 1954, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ tại Sài Gòn. Từ ngày 7 đến ngày 17/12/1954, công nhân thuộc 51 xưởng các hãng nhà binh Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, Thủ Dầu Một, Biên Hòa bãi công, đòi tăng lương, giảm giá sinh hoạt, đòi thi hành Hiệp định Genève(1). Phong trào công nhân Sài Gòn có sự kết hợp, tương hỗ với phong trào đấu tranh của anh em thợ thuyền khắp miền Nam: cuộc bãi công của 3.000 công nhân xưởng đóng tàu Ba Son, tháng 10/1955; hai ngày đình công của 5.000 thợ bốc vác ở các bến tàu, tháng 4/1956. Ngày 26/3/1956, 35 công nhân Thủy điện Chợ Quán đình công phản đối việc sa thải vô cớ. Gần 200.000 công nhân và các tầng lớp lao động khác đã hưởng ứng, cuộc đình công kéo dài 2 ngày khiến Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Biên Hòa mất điện nước; rạp phim và sân khấu tạm đóng cửa; 6 nhật báo và đài phát thanh ngưng hoạt động(2). Ngày 28/2/1958, công nhân hãng dầu Caltex (Nhà Bè) bãi công đòi tăng lương và phản đối giới chủ đánh đập, sa thải công nhân. Toàn thể công nhân các nhà máy điện, nước Sài Gòn, Gia Định, Chợ Quán lên tiếng ủng hộ. Công nhân các hãng dầu S.V.O.C và Shell từ chối không chở hàng cho hãng Caltex. Do vậy, mỗi ngày có đến hàng chục vạn lít xăng bị ứ đọng tại hãng Caltex, 30 trạm xăng ở Sài Gòn hết xăng, cơ giới quân sự của chính quyền thiếu nhiên liệu trầm trọng, riêng chủ hãng thiệt hại hơn 1.000.000 đồng Việt Nam Cộng hòa mỗi ngày(3). 1. Viện Mác - Lênin, Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập III, Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, tr. 22 - 23. 2. Lê Cung, “Phong trào công nhân vì mục tiêu dân sinh ở các đô thị miền Nam Việt Nam (1954 - 1959), in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 107. 3. Lê Cung, “Phong trào công nhân vì mục tiêu dân sinh ở các đô thị miền Nam Việt Nam (1954 - 1959)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 110.


- 369 - Nhân ngày Quốc tế Lao động 1/5/1958, Tổng Liên đoàn Lao động đã ra yêu sách và bản hiệu triệu các tầng lớp nhân dân. Mỗi giai tầng đều có yêu sách riêng, đòi hỏi quyền lợi cho mình song song với nguyện vọng thống nhất đất nước. Để hưởng ứng, nghiệp đoàn mua bán của 50 chợ ở Sài Gòn và vùng phụ cận họp ngày 17/4/1958, 350 đại biểu đã có mặt(1). Từ đại hội riêng của người lao động từng ngành, 500.000 người gồm công nhân 144 nhà máy, xí nghiệp và các tầng lớp khác đã biểu tình tại Sài Gòn vào đúng ngày Quốc tế Lao động(2). Cho đến cuối thập niên 1950, các cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra đều khắp các ngành: khuân vác, bán báo, thủy điện, ga tàu hỏa, dầu, nước, vải lụa…; nhận được sự hưởng ứng của đông đảo tầng lớp nhân dân. Nhiều biện pháp hòa bình được áp dụng: nêu yêu sách, tổ chức diễn đàn, lấy chữ ký, đình công,… Nhiều cuộc đấu tranh làm tê liệt hoạt động kinh tế - quân sự của chính quyền Sài Gòn trong thời gian ngắn. Cùng nhân dân hành động, quân cách mạng chọn Sài Gòn - với tư cách “thủ đô” Việt Nam Cộng hòa - là mũi tiến công chiến lược trong cả hai hình thức: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Truyền đơn vận chuyển từ ngoại thành, kêu gọi binh sĩ biểu tình đòi tổng thống từ chức và thành lập chính phủ dân chủ(3). Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực 1. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 50. 2. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 51. 3. Phiếu đệ trình (kín) số 015224/QAV/4/2/3/7, ngày 4-12-1960, của Đại tá Đỗ Mậu - An ninh Quân đội, Nha Giám đốc, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa, hồ sơ 6283, phông Đệ nhất Cộng hòa, tờ số 41, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.


- 370 - sự lo lắng. Tính đến năm 1959(1), theo báo cáo và nhận định của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lúc này, lực lượng nằm vùng của cách mạng tại phía Bắc và Đông Sài Gòn có khoảng 7.000 - 10.000 người. Tốc độ tăng dân số nhanh cùng với các điều kiện hạ tầng cơ bản và sinh kế không được đảm bảo đã khiến xã hội phân hóa sâu sắc. Trong đó, tầng lớp bình dân đói khổ, chịu nhiều tệ nạn, thường xuyên bị đe dọa bởi chính quyền, hoàn toàn trái ngược với cảnh sống thượng lưu của giới cầm quyền và sĩ quan. Năm 1962, lính quân dịch có lương sau 4 tháng huấn luyện; từ năm 1964 thì cứ vào lính là có lương ngay. Lương và các khoản phụ cấp, hàng hóa tiếp vụ, đất ruộng cho quân nhân ngày càng khấm khá. Hàng vạn căn nhà được xây cấp cho gia đình binh sĩ. Từ năm 1970, cả gia đình binh sĩ được chu cấp nhu yếu phẩm. Đến năm 1972, có tới 1,3 triệu cô nhi, quả phụ lính, thương binh, phế binh được cấp sổ mua hàng rẻ bằng 1/3 giá thị trường(2). Năm 1975, theo thống kê của Cục Địch vận, miền Nam có tới 42.300 tư sản, 1,1 triệu lính. Chất lượng đời sống quá chênh lệch khiến tâm lý người dân bất mãn, đòi hỏi cải thiện điều kiện sống, bản chất sâu xa là đòi quyền dân sinh dân chủ. Ngay tại trung tâm thành phố, khu vực ngoài bán kính 5km tính từ Tòa thị chính - nơi tập trung những cơ quan đầu não của chính quyền - là khu dân cư với nhà cửa chật chội, ngõ hẻm quanh co tối tăm, ẩm thấp. Đây vốn là những địa chỉ quen thuộc của giới lao động bình dân, là những xóm nhà lá đã hình thành từ thời kỳ 1930 - 1945, nay càng mở 1. Hồ sơ 3345, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 2. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu khoa học thị trường - giá cả, Hà Nội, tr. 26 - 51.


- 371 - rộng và thêm nhiều thành phần dân cư đa đạng. Người lao động quần tụ tại đây, hình thành nên những địa danh quen thuộc của Sài Gòn: Đa Kao, Thị Nghè, Bàn Cờ, Bà Chiểu,… Những khu vực này nối kết cả về mặt địa lý lẫn về mặt con người với vùng ngoại ô: Thủ Đức, Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi… là địa điểm thuận lợi để cách mạng gây dựng cơ sở nội thành(1). Nhà dân chính là nơi sinh sống, làm ăn, hoạt động của chiến sĩ dưới nhân thân giả để che mắt đối phương, cũng là nơi lập kho cất giấu vũ khí, tài liệu. Từ cơ sở nội thành, quân giải phóng tiến tới mục tiêu, đánh chiếm; rồi lại trở về trà trộn, ẩn nấp, được dân che chở nuôi giấu sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài nông dân, công nhân, trí thức, tăng lữ - là những thành phần xã hội hăng hái với cách mạng, Sài Gòn còn có tầng lớp tư sản, bình dân trung lưu - những người quan tâm đến mục tiêu dân tộc dân chủ, dù tư tưởng chưa quyết liệt nhưng có thể vận động tham gia phong trào. Một trong những thành phần tư sản Sài Gòn nhiệt tình với cách mạng là Hoa kiều. Hoa kiều chiếm khoảng 1/6 dân cư tại Sài Gòn, thống kê năm 1955 của chính quyền Ngô Đình Diệm là 570.000 người, trong số khoảng 800.000 người trên toàn miền Nam. Hoa kiều, và sau này là người Việt gốc Hoa, nhờ óc tổ chức và tính chịu khó, đã nhanh chóng chiếm độc quyền nhiều mặt hàng kinh tế quan trọng, thao túng ngành hàng sản xuất, vận tải, nông phẩm, khách sạn; rất ít bị chi phối bởi chính quyền. Theo kết quả kiểm kê năm 1973, 80% trong số 10.000 xí nghiệp kiểm kê được là tài sản của người Việt gốc Hoa. Họ có tờ báo tiếng 1. Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm giải phóng (1945 - 1975), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 94.


- 372 - Hoa riêng. Khu vực Chợ Lớn - “thủ phủ” của người Hoa tại Sài Gòn - theo nhiều tài liệu, chính là “vương quốc” thuốc phiện. Năm 1963, chỉ tại Chợ Lớn và Sài Gòn đã có tới 2.500 tiệm buôn thuốc phiện lậu, phần lớn trong số đó thuộc quyền quản lý của Hoa kiều(1). Công tác Hoa vận được khởi đầu từ Chỉ thị số 40/CT-TƯ của Ban Bí thư khóa II về việc thành lập Tiểu ban Hoa vận Trung ương và các tổ chức Hoa vận ở các địa phương. Từ chỉ thị ban hành tại miền Bắc, Trung ương Cục và Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã chú ý gây dựng cán bộ cho mảng Hoa vận. Ban Cán sự Công vận người Hoa được thành lập năm 1959, với một bộ phận đảm nhận công tác Hoa vận. Đến năm 1961, Ban Cán sự Hoa vận Khu ủy (Ban Cán sự Hoa vận T4) chính thức ra mắt, chủ yếu hoạt động ở đô thị, bám sát đời sống đồng bào người Hoa, đặc biệt là các quận 5, 6, 11(2). Ban Hoa vận nương theo những hoạt động của các bang hội người Hoa tại Sài Gòn, như quyên góp cứu trợ người nghèo, để vừa tiếp tế cho căn cứ và cơ sở của ta, vừa lồng ghép tuyên truyền cách mạng(3). Bằng phương châm “ba cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng lao động với đồng bào người Hoa, và coi quyền lợi của đồng bào cũng như quyền lợi của mình để đấu tranh, Ban Hoa vận đã gây dựng được lòng tin 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 368. 2. Nghị Đoàn, Tôn Mạnh Cường (kể), Trúc Giang (ghi), “Các căn cứ của Ban Hoa vận Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”, in trong sách: Nhiều tác giả (2015), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 93. 3. Nghị Đoàn, Tôn Mạnh Cường (kể), Trúc Giang (ghi), “Các căn cứ của Ban Hoa vận Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”, trong sách: Nhiều tác giả (2015), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 216.


- 373 - ở đồng bào. Đến ngày đất nước thống nhất, cộng đồng người Hoa ở nội thành đã đóng góp lớn vào thắng lợi chung: 576 gia đình có công với cách mạng, 8 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 4 Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, 115 thương binh(1). Có những đồng bào người Hoa ủng hộ quân giải phóng một cách bền bỉ, mưu trí và cận kề nguy hiểm không kém gì các chiến sĩ thực thụ. Tiêu biểu là căn cứ nội thành 91 Phạm Văn Chí, cơ sở của Ban Hoa vận Thành ủy từ năm 1968 - 1975, nay là Nhà Truyền thống Cách mạng người Hoa của Thành phố. Ở đó, ông Lưu Vinh Phong, người Quảng Đông sang Việt Nam từ năm 1940, cùng với mẹ, vợ, 6 người con, đã đồng lòng che chở và trực tiếp đưa đón nhiều cán bộ, trong đó có đồng chí Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng, ngay trước mắt Ty Cảnh sát Quận 6 và sát bên hông Tòa Hành chính Quận 6 của chính quyền Sài Gòn(2). Hay bà Phan Thị Liên, người gốc Hải Nam, không biết chữ, làm thuê vất vả để nuôi 3 người con. Bà giác ngộ cách mạng từ trước năm 1940, hết lòng trong công tác, có khi phải mang con đi gửi để đảm bảo việc giao thông liên lạc cho tổ chức Hoa vận của Liên khu 5. Bà chuyên vận chuyển thư mật, đưa cán bộ bí mật di chuyển địa bàn. Sau này bà làm giao liên giữa Sài Gòn và Phnôm Pênh đến ngày đất nước thống nhất(3). 1. Nghị Đoàn, Tôn Mạnh Cường (kể), Trúc Giang (ghi), “Các căn cứ của Ban Hoa vận Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”, in trong sách: Nhiều tác giả (2015), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 221. 2. Nghị Đoàn, Tôn Mạnh Cường (kể), Trúc Giang (ghi), “Các căn cứ của Ban Hoa vận Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”, in trong sách: Nhiều tác giả (2015), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 219. 3. Thăng Long (1997), Đồng đô la trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 154.


- 374 - Dưới tác động của thực tế đời sống chính trị - xã hội, các tầng lớp xã hội tại Sài Gòn đã tham gia đấu tranh như một tất yếu, không chỉ đòi hỏi quyền lợi của tầng lớp mình, mà còn cất tiếng nói chung cho nhiều đồng bào khác. Nội dung đấu tranh từ văn hóa, dân sinh chuyển thành đấu tranh chính trị, nhiều lực lượng cùng tham gia: Cuộc biểu tình của nông dân ngày 1/5/1958 đòi giải quyết nạn thất nghiệp, cải cách điền địa, giảm tô giảm tức đúng mức. Cuối năm 1960, hơn 40.000 nông dân Gia Định tổ chức biểu tình tại Sài Gòn, phản đối Mỹ - Diệm tàn sát nhân dân, công nhân và tiểu thương Sài Gòn hưởng ứng bằng hình thức bãi công, bãi thị… Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960) thể hiện tập trung ý chí của nhiều tầng lớp xã hội, đảng phái, tôn giáo tại miền Nam: lật đổ chế độ thuộc địa trá hình Mỹ - Diệm; xây dựng công - nông liên minh. Dưới sự đàn áp vũ trang của các lực lượng thuộc chính quyền, cuộc đấu tranh đã bắt đầu vận dụng những hình thức vũ trang sơ khai để chống trả. Theo một báo cáo của chính quyền thời kỳ đó, trong Phong trào Phật giáo 1963 lan rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân, phật tử đã ném trả lựu đạn hơi cay vào lực lượng an ninh quốc gia khi bị đàn áp(1). Ngày 29/5/1966, phật tử Sài Gòn tổ chức cầu siêu và tuần hành vì các nạn nhân bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ đàn áp ở Đà Nẵng; ngay hôm sau, ngày 30/5/1966, một ni cô 19 tuổi tự thiêu gần Việt Nam Quốc tự, thi thể được đưa vào chùa, bên dưới đặt câu khẩu hiệu tiếng Anh đại ý: “Hy sinh và hy sinh nhiều hơn nữa để cảnh cáo những kẻ 1. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 61.


- 375 - vô trách nhiệm trước tội ác của Mỹ và bọn tay sai Thiệu Kỳ”(1). Cuộc tuần hành phản đối chính quyền bắt giữ Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn Huỳnh Tấn Mẫm và 40 sinh viên học sinh khác, ngày 26/3/1970, khoảng 600.000 thanh niên, học sinh, sinh viên bãi khóa, xuống đường, trong đó có nữ sinh trường Gia Long, sinh viên chống trả cảnh sát bằng vũ khí tự chế. Tình hình kinh tế - chính trị - xã hội giai đoạn này biến động theo các phong trào tranh đấu của đông đảo các tầng lớp xã hội, từ học sinh sinh viên, tiểu thương, công nhân, nông dân, và tiếp theo đó là sự đàn áp, bắt bớ trả thù của nhà cầm quyền. Trong tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam, các tổ chức Hội Phụ nữ ra đời lãnh đạo phong trào, hòa nhập và tranh thủ khí thế chung của các tầng lớp xã hội để động viên chị em tham gia, lãnh đạo phụ nữ tham gia hoạt động đấu tranh trong tổ chức, đoàn hội của mình. II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ SÀI GÒN - GIA ĐỊNH CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC 1. Ban Phụ vận Khu ủy Sài Gòn - Gia Định (T4) Năm 1955, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập Ban Phụ vận; đảm trách việc gây dựng và tổ chức phong trào phụ nữ; là tổ chức nằm trong hệ thống mô hình “vận” (hoạt động vận động) của Khu ủy, cùng với các ban Trí vận, Hoa vận, Thanh vận,… Trưởng ban là bà Ngô Thị Huệ (Bảy Huệ) - đại biểu 1. Jerrold Schecter, dẫn theo Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, trong sách: Lê Cung (chủ biên), Phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2015, tr. 61.


- 376 - đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngoài ra còn có chị Nguyễn Thị Ráo (tức Ba Thi), chị Nguyễn Thị Thanh. Ban Phụ vận có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của phụ nữ khu Sài Gòn - Gia Định, đòi thi hành Hiệp định Genève, bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ cho phụ nữ các giới(1). Nhân sự Ban Phụ vận có sự thay đổi qua từng giai đoạn, do sự bắt bớ của chính quyền Sài Gòn và sự điều chỉnh của Trung ương nhằm thích ứng với diễn biến trên chiến trường cũng như tình hình nhân sự chung. Năm 1957, chị Ngô Thị Huệ được Xứ ủy Nam Bộ rút về, đưa chị Đoàn Kim Định (nguyên Đoàn phó Phụ nữ Cứu quốc) vào. Chị Nguyễn Thị Thanh bị bắt. Ban Phụ vận được bổ sung chị Phạm Thị Sứ (Năm Bắc). Sau đó đến lượt chị Đoàn Kim Định bị bắt. Từ năm 1957 - 1960, Ban Phụ vận Gia Định gồm 3 đồng chí: chị Nguyễn Thị Dung (Sáu Kẹo), chị Huỳnh Thị Tuyết (Ba Khanh), chị Nguyễn Thị Xà (Chín Xà). Năm 1960, chị Nguyễn Thị Xà bị bắt, Ban Phụ vận được bổ sung 2 đồng chí: chị Trần Thị Tốt (Năm Đang), chị Nguyễn Thị Én. Năm 1965, chị Lê Thị Riêng (Khu ủy viên Sài Gòn - Gia Định) làm Trưởng Ban Phụ vận, phụ trách cánh đô thị và nông thôn. Chị Nguyễn Thị Tấn (Ba Hồng) làm Phó ban. Chị Nguyễn Thị Chơn phụ trách các tổ chức công khai, chị Đỗ Hữu Bích phụ trách các xóm lao động và phật tử, chị Đỗ Duy Liên phụ trách Đảng ủy 36 chợ. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 2 (1954 - 1985), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 19.


- 377 - Năm 1966, Ban Phụ vận được tăng cường thêm chị Phan Ngọc Dung và chị Lê Thị Vĩnh Cửu (Sáu Bình) làm Chánh văn phòng. Đầu năm 1967, chị Đỗ Duy Liên bị bắt, chị Nguyễn Thị Tấn phụ trách thay mảng 36 chợ và tiếp tục công việc này đến ngày thống nhất (cuối năm 1967, chị Đỗ Duy Liên ra tù, sau đó tham gia vào đoàn đàm phán Hiệp định Paris). Ban Phụ vận được củng cố thêm với 11 đồng chí mới, trong đó có chị Nguyễn Thị Minh (Ba Hà), chị Phạm Thị Cẩm (Sáu Vân); 2 chị Nguyễn Thị Dung và Huỳnh Thị Tuyết là những cán bộ đã từng công tác trong Ban. Năm 1968, chị Lê Thị Riêng hy sinh, chị Nguyễn Thị Tấn làm Trưởng ban(1). Cán bộ phụ vận đã lan tỏa, bám rễ trong các tổ chức công khai, lãnh đạo phong trào quần chúng. Trong cuộc bãi công của nghiệp đoàn bệnh viện Grall, hơn 400 công nhân viên chức, lao công (chủ yếu là phụ nữ) của bệnh viện Đồn Đất (Grall) (nay là bệnh viện Nhi Đồng II) đã gây tiếng vang lớn khiến chính quyền Sài Gòn khiếp sợ. Nghiệp đoàn bệnh viện Đồn Đất đã tổ chức, lãnh đạo lực lượng công nhân viên chức bệnh viện đấu tranh, kéo dài từ ngày 1/1 đến ngày 14/1/1969, từ lãn công, đình công rồi đến chiếm bệnh viện. Khẩu hiệu đưa ra của nghiệp đoàn là “chống phân biệt đối xử công nhân viên Việt quốc tịch Việt và công nhân Việt có quốc tịch Pháp”, với các yêu sách như: tăng lương, điều chỉnh trợ cấp, phụ cấp, phụ nữ sau khy sinh được hưởng lương, con nhỏ dưới 12 1. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập thể Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định (T4) - tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, số 318/BC-HPN, ngày 07/8/2017, tr.8.


- 378 - tháng được nghỉ 1 giờ/ngày… Lo sợ cuộc đấu tranh lan rộng, Bộ Nội vụ chính quyền Sài Gòn ra lệnh cho cảnh sát quốc gia và cảnh sát đô thành theo dõi, bóp nghẹt tìm biện pháp ngăn chặn cuộc đấu tranh. Cuối cùng Ban Giám đốc bệnh viện đã chấp thuận toàn bộ yêu sách của nghiệp đoàn đưa ra. Cuộc đấu tranh thắng lợi hoàn toàn. Bà Nguyễn Thị Mười (Mười Điệp) Chủ tịch Nghiệp đoàn 36 chợ, huy động tiếp tế, hỗ trợ công nhân trong cuộc đấu tranh ngày 21/9/1964. Lực lượng tiểu thương buôn bán nhỏ ở Sài Gòn vô cùng đông đảo, đoàn kết được chị em để cùng có tiếng nói chung, cuộc đấu tranh tuy không kịch liệt như những cuộc đấu tranh khác nhưng đã có một ảnh hưởng rất sâu rộng, bao gồm 36 chợ Sài Gòn và ngoại thành, rồi lan xa đến các chợ thị xã miền Tây. Chị em tiểu thương của nghiệp đoàn đấu tranh chống thuế TVA, chống thầu góp chợ, tổ chức đại hội đại biểu của nghiệp đoàn 36 chợ, đề ra yêu sách của mình. Trong Ban Chấp hành Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, có nhóm 6 cán bộ phụ vận cài cắm, tham gia thuyết trình về văn hóa truyền thống và giữ gìn nhân phẩm giới nữ, đưa ra sáng kiến hành động, đẩy mạnh phong trào chống Mỹ ở nội thành. Sang thập niên 1970, Ban Phụ vận tiếp tục tranh thủ những hội đoàn công khai mới, tập hợp quần chúng phụ nữ thành những trung tâm đấu tranh: Ủy ban cứu đói, Ủy ban chống thuế trị giá gia tăng, Ủy ban chống sa thải, Ủy ban đòi thả tù chính trị, Ủy ban đòi cải thiện chế độ lao tù,…(1) 1. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập thể Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định (T4) - tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, số 318/BC-HPN, ngày 7/8/2017, tr. 14 - 19.


- 379 - Ngày 8/3/1961, giữa lúc cách mạng miền Nam chuyển sang thế tiến công, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập(1). Hội có đại diện của đều khắp các tầng lớp phụ nữ. Báo Phụ nữ giải phóng thành lập năm 1963, là cơ quan ngôn luận của hội. Ở nông thôn, vùng ven, hội viên tham gia công tác hậu cần, vận động nhập ngũ, chống dồn quân lập ấp chiến lược, binh vận, tổ chức đội nữ dân công, đội nữ tự vệ. Nhiều cán bộ hội hy sinh anh dũng khi làm nhiệm vụ, như chị Nguyễn Thị Tú - Hội trưởng Hội Phụ nữ giải phóng Sài Gòn - Gia Định trong trận chống chiến dịch “Bóc vỏ Trái đất” của Mỹ (Cedar Falls, tháng 1/1967)(2). Hội Liên hiệp Phụ nữ và Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định đã xúc tiến tổ chức nhiều hội đoàn đặc trưng cho từng giai tầng phụ nữ tại Sài Gòn để hoạt động. Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ (6/1966), do bà Phan Thị Của làm Chủ tịch. Những năm 1961 - 1965, sau phong trào Đồng khởi của đồng bào miền Nam, thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ thực thi chiến lược “chiến tranh cục bộ”, mong muốn kết thúc nhanh cuộc chiến. Mặc cho cố gắng của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, “quốc sách” ấp chiến lược thất bại, quân đội Việt Nam Cộng hòa bị quân giải phóng phản kích tả tơi từ trận Ấp Bắc (tháng 1/1963) đến trận Bình Giã (tháng 12/1964). Nội bộ lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa rơi vào hỗn loạn: Ngô Đình Diệm bị ám sát, các tướng lĩnh quân đội liên tục tổ chức đảo chính. Tổng thống Mỹ L.B. Johnson quyết định 1. Sự ra đời Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Theo website: http://hoilhpn. org.vn/NewsDetail.asp?Catid=249&NewsId=25427&lang=VN 2. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập thể Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định (T4), số 318/BC-HPN, ngày 7/8/2017, tr. 22.


- 380 - chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, tăng cường quân đội Mỹ và đồng minh vào miền Nam, hy vọng đảo ngược thế trận. Miền Nam chìm trong khói lửa với hàng loạt cuộc hành quân tìm diệt của đội quân viễn chinh. Căn cứ giải phóng ở miền Đông Nam Bộ và ngoại vi Sài Gòn bị đánh phá ác liệt. Dù vậy, nội đô Sài Gòn vẫn là nơi đồn trú của binh lính Mỹ và đồng minh. Cư xá sĩ quan Mỹ tập trung ở khu vực trung tâm, kéo theo những tụ điểm phục vụ nhu cầu giải trí của binh lính. Đặc biệt, không chỉ vũ trường, quán bar mà cả phòng trà, phòng tắm hơi xoa bóp… cũng trở thành nơi lính Mỹ đến “xả hơi” sau những giờ cầm súng gây nợ máu. Nhà chứa hoạt động công khai hợp pháp mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều phụ nữ vì cảnh đói khổ hoặc đua đòi hưởng thụ đã tự nguyện hoặc bị người thân áp bức vào con đường mại dâm. Thực trạng này được cả người miền Nam và người Mỹ ghi nhận. Dân gian thời đó có câu: “thứ nhất sở Mỹ, thứ nhì gái đĩ, thứ ba ma cô, thứ tư tướng tá” mỉa mai chỉ những tầng lớp xa hoa, có “đặc quyền” trong xã hội. Về phía người Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright phát biểu trước các quan chức tại Mỹ sau khi trở về từ Việt Nam: “Nhiều người Việt thấy phải để vợ hoặc con gái họ đi làm gái bar hoặc bán cho lính Mỹ cặp bồ. Thật không bình thường khi có báo cáo rằng một người lính Việt Nam đã tự tử vì xấu hổ: vợ anh ta đi phục vụ trong quán bar (…) Hệ quả của cuộc đổ bộ ồ ạt của người Mỹ là gái phục vụ, đĩ điếm, ma cô, chủ bar, tài xế taxi ngoi lên những thứ bậc cao hơn trong phân tầng thu nhập. Theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Sài Gòn đã trở thành “một ổ điếm của Mỹ”“(1). Phát biểu 1. Washington (AP), “Fulbright calls Saigon U.S “brothel”“, The Bridgeport Post from Bridgeport, Connecticut, Friday, May 6th, 1966, p.73, https://www.newspapers.com/ newspage/60256433/, truy cập ngày 30/12/2017. Nguyên văn: “That many Vietnamese find it necessary to put their wives or daughters


- 381 - này của Fulbright như giọt nước làm tràn ly. Nỗi bất bình trong lòng nhân dân Sài Gòn về sự xuống cấp của văn hóa xã hội nay không thể ngăn cản kìm nén được nữa. Phụ nữ càng thêm phẫn nộ vì phẩm chất giới bị xúc phạm trực tiếp. Dưới sự chỉ đạo của Khu ủy khu Sài Gòn - Gia Định, phong trào đấu tranh mang khẩu hiệu “Bảo vệ văn hóa dân tộc, bài trừ văn hóa ngoại lai đồi trụy” được phát động trong các giới. Ban Phụ vận phân công chị Nguyễn Thị Chơn phối hợp với chị Nguyễn Thị Tú - Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng Sài Gòn - tổ chức phụ nữ, vận động thành lập diễn đàn công khai cho giới nữ tại Sài Gòn, chống Mỹ thông qua mặt trận văn hóa, chuẩn bị lực lượng chính trị để huy động khi thời cơ cách mạng chín muồi. Qua vận động, một số chị em nòng cốt từ cơ sở các ban Trí vận, Phụ vận được tập hợp lại. Sau nhiều cuộc họp, Ban Sáng lập (của Hội) hình thành, gồm có: nữ sĩ Song Thu, nữ họa sĩ Thu Nga, nhà văn Vân Trang, chị Thái Lai, chị Tấn Phát, bà Hội đồng Nhuận, bà Nguyên Huy… Biệt thự ở góc đường Ngô Tùng Châu và Chi Lăng (nay là ngã tư Nguyễn Văn Đậu và Phan Đăng Lưu) chính là nơi Ban Sáng lập họp buổi đầu tiên. Sau đó mỗi tuần một lần, các chị gặp gỡ trao đổi tại nhà chị Tấn Phát, đường Trần Quang Khải hoặc nhà chị Thu Nga, số 375 đường Trần Quý Cáp (nay là đường Võ Văn Tần). Một số chị được bổ sung vào Ban Sáng lập: chị Đức Anh, chị Tư Sương, chị Đặng to work as bar girls or to peddle them to American soldiers as mistresses; -- “That it is not unusual to hear a report that a Vietnamese soldier has committed suicide out of shame because his wife has been working as a bar girl. -- “That as a result of the American influx, bar girls, prostitutes, pimps, bar owners and taxi drivers have risen to the higher levels of the economic pyramid; “Both literally and figuratively, Saigon has become an American brothel.” Ngày 9/5/1966, báo Saigon Post tại Sài Gòn cũng dẫn lại phát biểu này của William Fulbright trong bài báo “Fulbright Calls Saigon “An American Brothel””.


- 382 - Thị Ngọc, bà luật sư Ngô Bá Thành, cụ Phan Đình Đàn, chị Kiều Thị Thịnh. Sau khi thống nhất về tên gọi, điều lệ của tổ chức sắp thành lập, Ban Sáng lập Hội mời nhà giáo Phan Thị Của - cựu giáo sư Việt văn trường nữ trung học Gia Long, nữ trí thức có uy tín trong giới tiểu tư sản Sài Gòn - làm Hội trưởng Ban Chấp hành lâm thời(1). Bà vừa là người có cảm tình cách mạng - anh trai bà là cụ Phan Văn Chương, Đốc phủ sứ, Đô trưởng Sài Gòn đã thoát ly theo kháng chiến năm 1947, vừa là tấm gương của phụ nữ bấy giờ: chồng mất sớm, bà ở vậy nuôi dạy 5 con ăn học(2). Ban Sáng lập Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ cũng đồng thuận rằng tổ chức phải được ra mắt nhân dân trong một sự kiện lớn, tạo được tiếng vang trong quần chúng. Trường nữ trung học Đức Trí của nữ Hiệu trưởng Bình Minh, nằm ở số 273 đường Nguyễn Trãi, được chọn làm nơi diễn ra sự kiện quan trọng này. Ngày 26/6/1966, hơn 300 đại biểu đã có mặt tại trường Đức Trí để tham dự Hội thảo “Truyền thống của phụ nữ Việt Nam” do Ban Sáng lập Hội tổ chức, Hội Đức trí thể dục thể thao bảo trợ. Nhà giáo Phan Thị Của thuyết trình đề tài “Nhân phẩm và giá trị của phụ nữ Việt Nam hiện nay như thế nào?”, nhắc lại tình hình xã hội đang bị tệ nạn hoành hành, hạ thấp giá trị văn hóa truyền thống, hủy hoại nhân phẩm phụ nữ. Đông đảo cử tọa đã phát biểu, chia sẻ nỗi bức xúc với nữ giáo sư. Hội thảo chuyển thành Đại hội thành lập Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ. Ban Chấp hành lâm thời gồm: bà Phan Thị Của - Hội trưởng; 1. Đỗ Duy Liên, Phan Ngọc Dung, Trần Thị Lan, Lê Thị Thanh, chuyên đề “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định (1945 - 1975) (Sơ thảo), tháng 5/2014, tr. 02-03. 2. Vân Trang, “Một vài mẩu chuyện về Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc (1954 - 1975), tập 1, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 149.


- 383 - cụ Phan Đình Đàn - Hội phó; chị Vân Trang (Nguyễn Thị Trang) - Tổng Thư ký; chị Đặng Thị Ngọc - Phó Tổng thư ký; chị Thu Nga - Thủ quỹ; chị Kiều Thị Thịnh - Ủy viên thường trực tổ chức; chị Tấn Phát - Ủy viên kinh tài; chị Văn Thị Dư - Ủy viên văn hóa; chị Trần Thúc Linh (Phạm Thị Thẻm) - Ủy viên giao tế; chị Đỗ Khánh Tồn - Ủy viên xã hội. Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam là tổ chức công khai hợp pháp, được chính quyền Sài Gòn cấp giấy phép hoạt động. Trụ sở Hội đặt tại số 367/1 Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Ban Chấp hành chính thức được bầu tại trường mẫu giáo Tuổi Xanh, số 19 Đỗ Quang Đẩu, Quận 1, có tăng cường thêm một số nhân sự: Giáo sư Huỳnh Thị Nhạn - Ủy viên văn hóa; kỹ sư Từ Kim Huê; chị Lê Minh Nguyệt; chị Công Dung; chị Đặng Thị Ba Nhẫn (Hội trưởng Quận 2) - Ủy viên; chị Phú Hữu (Hội trưởng tỉnh Gia Định) - Ủy viên; chị Nguyễn Hữu Thiện (Hội trưởng Quận 3) - Ủy viên; chị Đặng Thị Được - Bảy Sỹ (Hội trưởng Quận 6) - Ủy viên. Ban Phụ vận đưa đảng viên vào các ban chuyên môn của hội, đồng thời chỉ đạo cán bộ cơ sở vận động quần chúng tham gia hội. Một số chị được Ban Phụ vận phân công về hội là: chị Trịnh Thu Nga (đảng viên) - Thư ký văn phòng; chị Phan Ngọc Dung (đảng viên) - Thành viên Ban Sáng lập và Thư ký của Ban Tổ chức; chị Trần Thị Ngọc Sương (đảng viên), chị Nguyễn Thị Nhàn - Ban Xã hội; chị Lê Thị Ngoan và vợ chồng anh Chín Tình. Chị em trong hội đã tận dụng ưu thế hợp pháp của tổ chức và của từng cá nhân để triển khai các hoạt động, gây thanh thế trong nhân dân. Chị Văn Thị Dư - Ủy viên Ban Chấp hành - là em gái Đô trưởng Văn Văn Của, đã thuyết phục mượn sảnh đường Tòa Đô chính Sài Gòn làm nơi tổ chức Hội thảo “Làm thế nào để bảo vệ nhân phẩm Việt Nam” ngày 31/7/1966. Tại đây, Giáo sư Phan Thị Của đanh


- 384 - thép tố cáo chiến tranh là tác nhân tàn hại văn hóa: “Chính nền văn minh quá thiên về vật chất đã theo chân chiến tranh vào Việt Nam làm băng hoại nếp sống truyền thống của phụ nữ và giới trẻ”(1). Hội quy tụ phụ nữ viên chức trung và cao cấp, vợ của các sĩ quan cao cấp trong chính quyền Sài Gòn lẫn giới trí thức, công nhân và tiểu thương. Hội đề cao những phẩm chất đáng trân trọng của phụ nữ Việt Nam “bên ngoài thì can đảm chống giặc ngoại xâm, trong gia đình thì đảm đang, trung trinh, tiết liệt”. Hội mạnh mẽ đấu tranh chống mại dâm, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Ba tháng sau khi thành lập, hội đã tập hợp 2.000 hội viên, tiếp tục mở rộng phạm vi ra các tỉnh thành khác ở miền Nam. Tại Sài Gòn, hội đã tổ chức 4 hội thảo lớn, thu hút đông đảo hội viên và báo chí trong - ngoài nước, đóng góp nhiều ý kiến. Tại hội thảo “Phụ nữ Việt Nam đối với nạn mãi dâm” vào ngày 13 tháng 11 năm 1966 tại trường Quốc gia Âm nhạc, từ những phát biểu nêu lên thực tế tệ nạn xã hội, các đại biểu đã chỉ ra nguyên nhân của nạn mại dâm là sự hiện diện của quân Mỹ. Kỹ sư Lâm Văn Tết phát biểu: “Tôi thấy chỉ có một con đường là phải chấm dứt chiến tranh, vãn hồi hòa bình thì mới giải quyết được các vấn đề nêu trên”(2). Đáng chú ý, hội thảo này có sự hiện diện của nhiều nhân vật tai to mặt lớn của chính quyền Sài Gòn, như vợ chồng Bùi Lượng - nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phu nhân Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Bửu - Chủ tịch Hội Thương phế binh; nhiều cơ quan báo chí như nhà báo Nam Đình - chủ bút báo Thần chung, Ngô Công Minh - chủ 1. Đỗ Duy Liên, Phan Ngọc Dung, Trần Thị Lan, Lê Thị Thanh, chuyên đề “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định (1945 - 1975) (Sơ thảo), tháng 5/2014, tr. 03 - 05. 2. Đỗ Duy Liên, Phan Ngọc Dung, Trần Thị Lan, Lê Thị Thanh, chuyên đề “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định (1945 - 1975) (Sơ thảo), tháng 5/2014, tr. 06.


- 385 - báo Lẽ sống, Nguyễn Văn Đính - chủ bút tuần báo Chân trời mới,… và cũng “được” chính quyền để ý, điều công an chìm theo dõi. Sau cuộc hội thảo, nhiều chị giữ vị trí cốt cán của hội bị khủng bố, đe dọa(1), nhưng những cuộc nói chuyện với các trường học, các tỉnh vẫn diễn ra. Hội gây dựng mạng lưới chi hội (Bàn Cờ, Vườn Chuối, Hòa Hưng, Phú Thọ, chợ Bến Thành, chợ Bình Tây, chợ Trương Minh Giảng,…), quận hội (Quận 2, Quận 3, Quận 6,…), tỉnh hội (Mỹ Tho, An Giang, Gia Định,…). Trước sức ép của quần chúng, Hội đồng quân nhân của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ phải rút lại đề nghị mở các “trung tâm giải trí” - thực chất là các điểm mại dâm trá hình phục vụ cho binh lính(2). Hội thảo “Giá trị xác thực của nữ sinh hiện tại” vào ngày 7 tháng 3 năm 1967 tại trường nữ trung học Lê Văn Duyệt cũng tạo nên tiếng vang lớn. Không chỉ đấu tranh bằng hình thức phê bình công khai, hội còn có các hoạt động hỗ trợ thiết thực cho chị em nhằm giúp đỡ phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, giúp họ tránh con đường sai trái, bảo vệ nhân phẩm và hạnh phúc của bản thân, gia đình. Hội mở các lớp dạy nghề cắt may, làm bánh mứt, mở nhà nuôi dạy trẻ mồ côi,… Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ tổ chức đấu tranh ngoại giao, góp phần gây sức ép buộc chính quyền Sài Gòn phải ngồi vào bàn đàm phán tại Paris, từ năm 1967 - 1969. Khi bị rút giấy phép, cán bộ nòng cốt bị bắt, mất liên lạc với Ban Phụ vận, các chị em còn lại của hội vẫn kiên trì công 1. Vân Trang, “Một vài mẩu chuyện về Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc (1954 - 1975), tập 1, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 152 - 154. 2. Đỗ Duy Liên, Phan Ngọc Dung, Trần Thị Lan, Lê Thị Thanh, chuyên đề “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định (1945 - 1975) (Sơ thảo), tháng 5/2014, tr. 04 - 07.


- 386 - tác, dũng cảm đấu tranh cho đến lúc nối lại được đường dây với tổ chức qua chị Trần Thị Mỹ vào năm 1973(1). Sau thất bại Tết Mậu Thân 1968, Mỹ không từ bỏ dã tâm biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn thực dân mới tại Đông Nam Á. Tuy nhiên, những thiệt hại trong nửa đầu năm 1968 thúc giục các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ tìm kiếm một giải pháp khác cho chiến tranh Việt Nam, sao cho nhân lực và tài chính Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam ít tốn kém hơn, nhưng mục đích thực dân hóa thì vẫn đạt được. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird đồng ý triển khai tại miền Nam Việt Nam từ năm 1969. Nội dung cơ bản của chiến lược này là tăng cường hỗ trợ Việt Nam Cộng hòa xây dựng quân lực, song song với việc rút dần quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền Nam; tập trung bình định, mở rộng địa bàn phản kích quân giải phóng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam (tức sang Lào và Campuchia); xúc tiến hoạt động ngoại giao để tập hợp liên minh chống cộng quốc tế mà Việt Nam Cộng hòa giữ vai trò nòng cốt, từ đó cô lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đẩy lùi cuộc đấu tranh thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Bản chất chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” là dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; vừa trấn an dư luận Mỹ, vừa duy trì ảnh hưởng của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, nhưng vẫn chừa con đường giữ thể diện cho Mỹ trước quốc tế nếu chiến lược không may thất bại. Hiện thực hóa chiến lược, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tăng cường 1. Đỗ Duy Liên, Phan Ngọc Dung, Trần Thị Lan, Lê Thị Thanh, chuyên đề “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định (1945 - 1975) (Sơ thảo), tháng 5/2014, tr. 10.


- 387 - đôn quân bắt lính nhằm mở rộng quân đội, đẩy mạnh hành quân càn quét và dồn dân vào ấp chiến lược nhằm đánh bật cán bộ cách mạng ra khỏi cơ sở nhân dân, riêng Mỹ gây sức ép về mặt ngoại giao để Trung Quốc và Liên Xô cắt giảm viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm làm suy yếu sức chiến đấu của quân giải phóng. Tại Sài Gòn, không khí chiến tranh ngày càng ngột ngạt. Phụ nữ chứng kiến chồng, con, anh em mình bị săn đuổi bắt lính; chị em công nhân trong các hãng thầu lớn của Mỹ bị sa thải hàng loạt; chị em tiểu thương oằn mình gánh sưu cao thuế nặng để chính quyền tăng chi phí chiến tranh; nữ sinh cùng với bạn bè bị cảnh sát đàn áp khi tranh đấu. Phong trào chống chính quyền, đòi hòa bình nổ ra ở khắp các giới, cũng là lúc quyền sống - nhân quyền cơ bản - bị đe dọa cấp thiết nhất ngay tại đô thành hoa lệ(1). Để thống nhất các đoàn thể, đưa phong trào phụ nữ Sài Gòn đến bước phát triển mới, Ban Phụ vận phối hợp với Ban Trí vận và Thành đoàn chỉ đạo tổ chức Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống. Chiều ngày 26/7/1970, đồng bào và các đoàn thể phụ nữ đã tập hợp tại trụ sở tạm của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (số 207, đường Hồng Bàng), dự Đại hội phụ nữ và hội thảo “Nỗi đau khổ của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống”(2). Kết thúc hội thảo, Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống ra Tuyên ngôn thành lập gồm 4 điểm: Hòa bình là nguyện vọng nhất thiết và cấp thiết của toàn dân Việt Nam; Chỉ có hòa bình mới phục hồi và phát huy Quyền sống và giá trị người Phụ nữ; Phụ nữ kết hợp 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 239. 2. Trần Thị Lan, “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bản lĩnh đấu tranh hiệp đồng”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (sơ thảo), 5/2004, tr. 3.


- 388 - thành một khối sát cánh cùng đồng bào mọi giới đứng lên giành HÒA BÌNH và QUYỀN SỐNG; Để thực hiện nguyện vọng của Đại hội muốn thể hiện bằng hành động cụ thể ý nguyện chung của Phụ nữ, nay thành lập một ỦY BAN PHỤ NỮ ĐÒI QUYỀN SỐNG(1). Phát biểu trong hội thảo, bà luật sư Ngô Bá Thành đã chỉ ra tình cảnh cũng như trách nhiệm của phụ nữ với thực tế đất nước: “Hơn ai hết, trên cương vị là người mẹ, người vợ, người chị hay người em gái, phụ nữ đã đau khổ, họ lãnh tất cả ảnh hưởng của bất công phi nghĩa, của bạo tàn phi lý trong cái lò sát sinh vĩ đại của một cuộc chiến tranh tàn nhẫn đã cướp đoạt hết thảy từ quyền sống đến lẽ sống, từ chén cơm manh áo đến giá trị con người”. Nhiều đại biểu đã đứng lên bày tỏ ủng hộ quan điểm của bà. Sự ra đời của Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống đã khuấy động và tiếp thêm lòng tin ở đông đảo phụ nữ về tư thế và sức mạnh của chính mình trong cuộc đấu tranh chung. Một chị ở Cầu Tre sau khi dự hội thảo đã viết thư: “Buổi hội thảo hôm đó đã cho tôi một sức mạnh vô cùng to lớn của những người đàn bà khốn khổ vì chiến tranh, vì bất công thối nát. Những khuôn mặt đầy khổ đau nhưng cương quyết, những giọng nói đầy nghẹn ngào nhưng cũng đầy uất ức. Tất cả trở thành vũ bão khiến tôi tin rằng không có đàn áp, giết chóc nào có thể làm khiếp sợ chúng tôi. Tôi sung sướng vì đã sống trong phút giây xúc cảm vô cùng trước cái khí thế vô địch ấy. Tôi không còn sợ đàn áp nữa, chung quanh tôi đang có hàng triệu người đứng lên đòi hỏi Độc Lập, Hòa Bình. Tôi tin rằng lẽ phải sẽ thành công”(2). 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 239. 2. Trần Thị Lan, “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bản lĩnh đấu tranh hiệp đồng”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (sơ thảo), 5/2004, tr. 3 - 9.


- 389 - Ngày 2/8/1970, Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống chính thức ra mắt tại chùa Ấn Quang trước sự chứng kiến của đồng bào các giới và báo chí. Trong danh sách Ban Chấp hành Trung ương có đại diện của nhiều đoàn thể tại Sài Gòn như: Ni giới khất sĩ, Giáo hội Hồng Môn, Hội Đạo đồng cứu thế, Liên đoàn Nữ phật tử, Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Đoàn Phụ nữ phật tử Long Hoa, Liên đoàn Nữ giáo chức phật tử, Hội Phụ nữ phật tử Sài Gòn, Nghiệp đoàn nữ công nhân các khách sạn Mỹ, Nghiệp đoàn công nhân bệnh viện Grall, Phong trào Cô nhi đòi quyền sống, Phong trào nông dân đòi quyền sống, Hội các bà mẹ có con ở tù, Nghiệp đoàn tiểu thương 36 chợ, Nghiệp đoàn giáo chức trung học tư thục, Đoàn Sinh viên phật tử Sài Gòn. Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống tổ chức mặt trận giới gồm các tổ chức công khai hợp pháp, các tổ chức bán hợp pháp và các tổ chức bất hợp pháp. Hệ thống bao gồm cấp trung ương tại Sài Gòn, các phân bộ tại các tỉnh (Vĩnh Long, Cần Thơ, Huế, Đà Nẵng, Vĩnh Bình (tức Trà Vinh), Đà Lạt) và các phân khu trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương (Sài Gòn, Chợ Lớn, Phú Nhuận, Bà Chiểu - Thị Nghè, Quận 3 - Quận 10, Gò Vấp - Cây Thị). Ngày 18/10/1970, Ủy ban tổ chức Đại hội bất thường tại tịnh xá Ngọc Phương, đổi tên thành “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống”. Phong trào nhanh chóng lớn mạnh, có mạng lưới hội viên rộng khắp nội thành và các tỉnh lân cận, gây dựng được uy tín trong nhân dân: ở một số địa phương như Trà Vinh, thẻ hội viên của phong trào là “giấy thông hành” để ra vào vùng giải phóng. Tại nội đô, phong trào có trụ sở chính tại nhà luật sư Ngô Bá Thành, số 2 đường Cao Bá Quát và nhiều trụ sở phụ: chùa Ấn Quang, tịnh xá Ngọc Phương, Hội Phụ nữ Việt Nam ở số 106 đường Lý Thái Tổ, thượng - hạ viện


- 390 - của các nghị sĩ Nguyễn Phước Đại, Kiều Mộng Thu… Trước công luận quốc tế, phong trào là thành viên chính thức của Tổ chức Liên hiệp Quốc tế Phụ nữ vì hòa bình và tự do (WILPF - Women’s International League for Peace and Freedom). Tính lan tỏa, linh hoạt của phong trào đã tạo thành một tiếng nói chính trị công khai hợp pháp tại Sài Gòn, gây lúng túng cho chính quyền(1). Trong năm 1971, chính quyền Sài Gòn tiến hành bầu cử dân biểu hạ viện. Nguyễn Văn Thiệu muốn nhân cơ hội này để sắp xếp phe cánh, làm lợi thế cho cuộc bầu cử tổng thống sẽ diễn ra cùng năm. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống và các tổ chức khác đưa người ra ứng cử, kêu gọi bà con dồn phiếu cho những ứng viên có khuynh hướng tiến bộ, lợi dụng diễn đàn đấu tranh chống dân chủ giả hiệu. 4 đại diện ứng cử của phong trào là: luật sư Hà Thị Chánh và nữ sinh Trần Thị Lan (Ủy viên Đoàn Chủ tịch và Tổng thư ký phân khu Sài Gòn), bà Nguyễn Thị Chợ (Chủ tịch phân bộ Vĩnh Bình), chị Lê Thị Thu Trang (Chủ tịch phân bộ Cần Thơ). Phong trào phát truyền đơn tiểu sử các chị, mở hội thảo lấy cớ vận động tranh cử để tố cáo chế độ, phản đối chiến tranh, đòi hòa bình. Chính quyền đưa cảnh sát trấn áp, gạch tên cả 4 người ra khỏi danh sách ứng cử viên chính thức. Phong trào tiếp tục vận động đồng bào bỏ phiếu cho các ứng cử viên tiến bộ. Trong cuộc bầu cử tổng thống sau đó, Nguyễn Văn Thiệu liên danh với Trần Văn Hương ra tái tranh cử, lợi dụng hội đồng bầu cử cấm phó tổng thống đương nhiệm là Nguyễn Cao Kỳ ứng cử. Liên danh của Dương Văn Minh 1. Trần Thị Lan, “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bản lĩnh đấu tranh hiệp đồng”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (sơ thảo), 5/2004, tr. 5.


- 391 - lường trước Nguyễn Văn Thiệu sẽ bày trò gian lận nên tự rút lui. Các cuộc biểu tình, hội thảo chống Nguyễn Văn Thiệu độc diễn bầu cử nổ ra trên khắp Sài Gòn. Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống lập liên doanh gồm luật sư Ngô Bá Thành và Ông Đạo Dừa ra tranh cử. Chính quyền dĩ nhiên không chấp nhận, tạo thêm cơ sở để phát động đấu tranh tố cáo dân chủ giả hiệu. Phong trào đã tham gia hội thảo chống độc diễn của Lực lượng quốc gia tiến bộ tại chùa Ấn Quang, vận động nhân dân tẩy chay bầu cử, đốt thẻ cử tri tại ngã tư Sư Vạn Hạnh và Bà Hạt. Trong Quốc dân đại hội, ngày 1/10/1971, tại Dinh Quốc khánh, cụ bà Diệu Nhàn (Cố vấn của Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống) kêu gọi tẩy chay bầu cử tổng thống, đòi Mỹ rút quân. Luật sư Ngô Bá Thành và nữ sinh Trần Thị Lan bị bắt, luân chuyển qua nhiều nhà tù, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu bằng nhiều hình thức sáng tạo, quyết liệt. Tại nhà tù Thủ Đức, hai chị tổ chức biểu tình ngồi phản đối chào cờ buổi sáng, hỗ trợ chị em tù chính trị đấu tranh chống nữ giám thị ác ôn Bùi Thị Tân. Tại nhà tù Chí Hòa, hai chị phối hợp với chị em cầm cờ hòa bình (có hình bồ câu trắng trên nền xanh) biểu tình tuần hành đến cổng nhà tù. Hai chị còn tự tạo loa phát thanh từ bình tưới cây, đọc mỗi đêm một bản tin thời sự bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp trong thời lượng 30 phút, gây hoang mang cho địch và nâng cao tinh thần trong anh chị em bạn tù(1). Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống là tổ chức công khai do Ban Phụ vận thành lập theo chỉ đạo của Đảng, vững vàng trên mặt trận chính trị giai đoạn 1970 - 1975. Phong trào phối hợp chặt chẽ với các tổ chức 1. Trần Thị Lan, “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bản lĩnh đấu tranh hiệp đồng”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (sơ thảo), 5/2004, tr. 12 - 14.


- 392 - cách mạng khác, cũng như các hội đoàn tiến bộ tại Sài Gòn. Bên cạnh những hoạt động trong nước, phong trào còn được tổ chức quốc tế ủng hộ, và xây dựng được chi nhánh ở nước ngoài, nâng cao sức chiến đấu của phụ nữ Sài Gòn: nhân tuần lễ Phụ nữ thế giới, 2 - 8/3/1971, phong trào vận động chị em viết bưu thiếp đòi Tổng thống Mỹ Richard Nixon công bố lịch trình rút quân khỏi Việt Nam trước tháng 6/1971, chuyển cho bộ phận đại diện của phong trào tại Mỹ trực tiếp đem 2.000 tấm bưu thiếp đến Lầu Năm Góc gửi cố vấn Kissinger chuyển cho Nixon(1). Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống đã tập hợp đông đảo chị em phụ nữ, tổ chức đấu tranh dưới nhiều hình thức, tại nhiều địa bàn để đòi quyền sống, chống chiến tranh, tố cáo chế độ. Phong trào đã 6 lần hỗ trợ cuộc đấu tranh của nữ công nhân hãng pin Con Ó, hãng bột giặt Viso; tổ chức bà con xã Phước Long, Thủ Đức đấu tranh trực diện chống cướp đất xây dựng làng thương phế binh, đồng thời mở hội thảo, vận động báo chí ủng hộ; vận động chiến dịch báo chí và hỗ trợ làng cô nhi Long Thành, tỉnh Biên Hòa, chống dự án xóa bỏ làng cô nhi để lập trung tâm giải trí cho lính Mỹ và đồng minh; tuyên truyền cho chị em ủng hộ các cuộc đấu tranh của Nghiệp đoàn tiểu thương 36 chợ, cuộc hành hương vì hòa bình của Lực lượng quốc gia tiến bộ; huy động đồng bào tiếp tế hai bên đường trong ngày “Ký giả ăn mày”, ngày 10/10/1974(2),… Phân khu Chợ Lớn phối hợp với các ni sư tịnh xá Ngọc Phương tổ chức cướp xác chị Võ Thị Ngà, người 1. Trần Thị Lan, “Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bản lĩnh đấu tranh hiệp đồng”, trong sách Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (sơ thảo), 5/2004, tr. 15. 2. Trần Nhật Vy (2015), “Ký giả đi ăn mày”, báo Tuổi Trẻ Online, ngày 20/6/2015, nguồn: https://tuoitre.vn/Ky-gia-di-an-may-764097.htm, truy cập ngày 30/12/2017.


- 393 - bị tra tấn dã man và qua đời tại bệnh viện Chợ Quán, đưa về tịnh xá và làm lễ truy điệu. Ngày 20 tháng 10 năm 1974, Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống kỷ niệm 4 năm thành lập, gửi bản hiệu triệu công khai đến chị em phụ nữ và đông đảo nhân dân Sài Gòn - Gia Định; kêu gọi rằng: “Đã đến lúc nhân dân ta không còn lý do nào để tiếp tục làm vật hy sinh cho một chế độ tham nhũng, bạo tàn, khát máu… Đã đến lúc hờn căm tủi nhục phải biến thành hành động cách mạng!” Nghiệp đoàn tiểu thương 36 chợ, tập hợp chị em phụ nữ buôn bán nhỏ tại 36 chợ ở Sài Gòn. Ngay từ giai đoạn đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã đánh giá chị em tiểu thương là một trong những thành phần quan trọng, có truyền thống đấu tranh, có điều kiện phát động phong trào. Do vậy, trong suốt những năm chiến đấu cho đến ngày thống nhất nước nhà, tổ chức Đảng luôn bố trí lực lượng gắn bó với chị em tiểu thương, nhằm nắm vững tình hình, tập hợp lực lượng chị em vào cuộc đấu tranh chung. Để hợp thức hóa hoạt động và tập hợp đông đảo chị em, Nghiệp đoàn 36 chợ ra đời. Ban đầu, Nghiệp đoàn nằm trong Tổng Liên đoàn Lao động của chính quyền Sài Gòn, nhằm lợi dụng thế công khai hợp pháp. Năm 1965, Ban Quản trị được bầu lại gồm 5 người, trong đó có 4 nữ đồng chí của ta, chị Tư Kiều và chị Mười Điệp cùng giữ chức Phó Chủ tịch nghiệp đoàn. Năm 1970, Nghiệp đoàn tách khỏi Tổng Liên đoàn lao động, lấy tên là Nghiệp đoàn mua bán lẻ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đặt trụ sở tại số 9 đường Trịnh Minh Thế, Ban Quản trị mới gồm 6 người: chị Nguyễn Thị Cẩm làm Chủ tịch, chị Mười Điệp và chị Sáu Vân là Phó Chủ tịch.


- 394 - Cuộc đấu tranh của chị em tiểu thương có sự lãnh đạo của Đảng, khởi nguồn từ nguyên nhân trực tiếp là bởi đời sống kinh tế bất ổn, chính sách kinh tế o ép từ nhà cầm quyền đã ảnh hưởng lớn đến việc mua bán, kiếm sống hàng ngày của các chị. Thân gái chân yếu tay mềm, giỏi nhường nhịn nhưng tức nước ắt vỡ bờ. Chị em tiểu thương đã đấu tranh liên tục, bền bỉ trong từng giai đoạn để đòi quyền lợi kinh tế cho mình. Năm 1956, Ngô Đình Diệm ra lệnh giải tỏa chợ Lý Thái Tổ - Ngã Bảy. Chị em tổ chức mít tinh, căng băng rôn, thu thập chữ ký và cử đại diện gặp Đô trưởng Sài Gòn để kiến nghị. Sau 2 ngày đấu tranh, chính quyền phải hoãn lệnh giải tỏa đến khi xây xong chợ Trần Quốc Toản cho chị em tiếp tục buôn bán. Ngày 5/5/1956, nghiệp đoàn chợ Bàn Cờ căng khẩu hiệu phản đối thu hẹp các sạp hàng để có chỗ xây thêm sạp mới, mà chị em gọi là “sạp ma”. Cảnh sát bắt chị Nguyễn Thị Phương, Chủ tịch nghiệp đoàn. Tiểu thương đấu tranh tố cáo đàn áp, vận động cảnh sát có vợ con buôn bán trong chợ, đưa ý kiến đến Tổng Liên đoàn Lao động. Đích thân Lê Đình Cư, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động phải can thiệp để chị Phương được thả. Năm 1957, Nghiệp đoàn 36 chợ tổ chức họp 300 đại biểu đại diện cho 20.000 tiểu thương, phản đối đuổi chợ, phản đối tăng tiền điện nước. Năm 1958, Nghiệp đoàn mở hội thảo chống tăng thuế. Tháng 5/1959, tiểu thương chợ Vườn Chuối đấu tranh chống thuế môn bài và thuế hoa chi. Một số chị em bị bắt; tiểu thương 3 chợ Bàn Cờ, Vườn Chuối và chợ Đũi nghỉ bán, đến tòa án để bảo vệ. Cùng năm đó, Nghiệp đoàn 36 chợ tổ chức 2 cuộc họp lớn phát động đấu tranh chống phạt vạ, bãi bỏ chế độ thầu hoa chi. Năm 1963, chị Bảy Đồng lãnh đạo tiểu thương chợ An Đông giằng co với cảnh sát, giữ sạp hàng, không cho chính quyền đuổi chợ. Cuộc đấu tranh của


- 395 - chị em tiểu thương chợ An Đông đã tiếp sức cho chị em các chợ từ Quận 4, Quận 8 đến các chợ ngoại thành trong việc đòi giữ chỗ buôn bán, đòi giảm/bãi bỏ thuế phí vô lý. Từ quyền lợi kinh tế gắn liền với mục tiêu dân sinh dân chủ, cuộc đấu tranh của chị em tiểu thương nói riêng và phụ nữ Sài Gòn nói chung đã biến chuyển và song hành cùng những phong trào đòi hòa bình, tiến tới thống nhất hai miền Nam Bắc. Với thế công khai hợp pháp, Nghiệp đoàn 36 chợ đã tập hợp chị em tiểu thương tham gia các cuộc biểu tình chính trị: chống Nguyễn Khánh (1964), phản đối Mỹ ném bom miền Bắc (1966), chống quân sự hóa học đường (1970), đòi thi hành Hiệp định Paris (1974),… Các chợ, các má, các chị buôn thúng bán bưng cũng là “sân sau” của lực lượng biệt động, của học sinh - sinh viên, của mạng lưới giao liên nội thành; lúc là hòm thư bí mật, lúc là điểm hẹn, lúc là “hầu bao” dự phòng. Chị em dần trở thành những người sẵn sàng đóng góp âm thầm cho cách mạng, dù nhiều khi họ phải chịu tổn thất lớn lao về vật chất và cả tinh thần. Ngoài ra, một số tổ chức đấu tranh khác do Ban Phụ vận thành lập cũng góp phần làm cho hoạt động đấu tranh chống Mỹ của phụ nữ Sài Gòn sôi nổi hơn như Hội Mẹ chiến sĩ (chuẩn bị lương thực, thuốc men,… cho các chiến sĩ ra tiền tuyến và đào hầm, nuôi giấu chiến sĩ, cất giữ vũ khí sau khi các chiến sĩ đánh trận); Hội các bà mẹ có con bị bắt vào tù;… Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam có đóng góp thầm lặng nhưng vô cùng quan trọng của phụ nữ Sài Gòn. Tháng 4/1975, thời khắc giờ G của cuộc tổng tiến công, nhiều cán bộ phụ vận, cán bộ hội nhận nhiệm vụ Trưởng ban khởi nghĩa, tham


- 396 - gia và góp phần thiết thực vào chiến thắng chung của toàn dân tộc. Những hoạt động của Ban Phụ vận giữ vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và tổ chức các phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975; trở thành dấu ấn đặc biệt trong trang sử dân tộc, là nơi đào tạo, xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh sau này. 2. Hoạt động đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định giai đoạn 1954 - 1975 a. Đấu tranh chính trị Các hoạt động đấu tranh chính trị của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1954 - 1975 được tổ chức dưới nhiều hình thức: biểu tình; bãi thị; bãi công; chống chế độ lao tù. Hoạt động biểu tình của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định giai đoạn này thu hút sự tham gia của phụ nữ nhiều giai tầng trong xã hội: ni sư, phật tử, công nhân, tiểu thương, học sinh - sinh viên,… Tháng 9/1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam; trong đó nêu rõ chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, tranh thủ hoạt động công khai hợp pháp và bán hợp pháp, đòi thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất, chống khủng bố và đảm bảo quyền lợi của quần chúng. Phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ Sài Gòn - Gia Định cũng được tổ chức theo định hướng này, chủ yếu là trong giai đoạn 1954 - 1959. Tháng 1/1959, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II đã phân tích xã hội miền


- 397 - Nam sau năm 1954. Dựa trên sự phân tích các giai cấp ở miền Nam, nghị quyết xác định động lực cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản; lực lượng cách mạng gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Từ đó, Đảng tập trung xây dựng cơ sở và nhân lực trong các giai tầng xã hội; tổ chức cho các giai tầng trong xã hội đấu tranh chống Mỹ và chính quyền Mỹ - Diệm dựa trên các mâu thuẫn giữa các tầng lớp này với chính quyền Mỹ - Diệm. Ngày 31/1/1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng, trong đó nêu rõ phương châm đấu tranh của vùng đô thị là: “đấu tranh chính trị là chủ yếu, có vũ trang hỗ trợ; trong đấu tranh phải hợp pháp với địch, nhưng từng lúc cũng có thể đấu tranh không hợp pháp”. Những năm 1954 - 1975, Sài Gòn là đô thị phát triển bậc nhất ở miền Nam Việt Nam. Vốn sớm tiếp xúc với văn minh phương Tây, nữ giới Sài Gòn thuộc các giai tầng trong xã hội như công nhân, tiểu thương, sinh viên - học sinh, trí thức, ni sư,… đều ít nhiều có thể tự do thể hiện tư tưởng, tình cảm. Do đó, nữ giới Sài Gòn đã xuất hiện trong nhiều cuộc biểu tình, mít tinh. Sự góp mặt của họ cho thấy sự đồng lòng, cộng chí của nhân dân; sự tập hợp của nhiều tầng lớp; sự đông đảo của lực lượng đấu tranh. Tiếng nói đấu tranh rộng khắp trong nhiều giai tầng, kiên trì qua nhiều phong trào đấu tranh công khai, bán hợp pháp, bền bỉ suốt 20 năm là minh chứng cho tinh thần đấu tranh quật khởi của phụ nữ Sài Gòn trong cuộc đấu tranh chống Mỹ của dân tộc. Sự tham gia của các ni cô, phật tử Sài Gòn trong phong trào đấu tranh công khai, bán hợp pháp chống lại chính quyền Sài


- 398 - Gòn đã để lại những dấu ấn khó phai trong lịch sử đấu tranh chống Mỹ của dân tộc. Từ những ngôi chùa, am tu, các ni cô, phật tử đã bước chân xuống đường, đồng hành cùng nhân dân miền Nam thể hiện chính kiến của mình. Một số phật đường cũng trở thành cơ sở cách mạng giữa lòng Sài Gòn, che giấu cán bộ, tiếp tế lương thực, thuốc men, địa điểm hội họp, tập trung lực lượng. Trong cuộc đấu tranh này, đạo và đời cùng một nhân duyên, đồng cất lên tiếng nói vì nhân quyền, vì tự do của con người. Một trong những cái tên gắn liền với phong trào đấu tranh công khai, bán hợp pháp của nữ tu Sài Gòn lúc bấy giờ là ni trưởng Huỳnh Liên của tịnh xá Ngọc Phương (nay nằm ở số 498/1 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp). Cùng với ni trưởng, các sư nữ, phật tử của tịnh xá đã bước vào con đường cách mạng khi tham gia vào các phong trào đấu tranh công khai ở Sài Gòn như: phong trào Phụ nữ đòi quyền sống (năm 1970), Mặt trận nhân dân tranh thủ đòi hòa bình (năm 1970), Ủy ban cải thiện chế độ lao tù (năm 1970), phong trào Dân tộc tự quyết (năm 1972). Bên cạnh đó, các hoạt động đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn cũng không thiếu sắc áo vàng cà sa của các ni sư: đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và các quyền dân sinh, dân chủ vào năm 1960. Cuộc diễu hành “Xuống tóc vì hòa bình” vào ngày 18/10/1970. Cuộc mít tinh chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn vào ngày 25/10/1970. Cuộc mít tinh tuyên bố tuyên ngôn 10 điểm về hòa bình do Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình tổ chức vào ngày 7/11/1970. Cuộc biểu tình đòi thả tù nhân chính trị vào ngày 1/1/1971. Tổ chức họp báo “nhân dân đòi cơm áo, Phật giáo đòi hòa bình, nông dân đòi


Click to View FlipBook Version