The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search

TẬP 1 || PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH (1930 - 1975)

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- 249 - Năm 1947, nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn ra bản Tuyên ngôn trí thức gửi thực dân Pháp, ghi rõ “Các trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn có tên dưới đây, không phân biệt tôn giáo và màu sắc chánh trị, nhận định rằng: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc lâu đời, có quyền đòi và hưởng tự do độc lập. Cuộc chiến đấu hiện nay đang tàn phá đất nước, càng kéo dài càng làm phương hại đến tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt và Pháp. Do đó, kêu gọi Chánh phủ Pháp thương thuyết trở lại với Chánh phủ Kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo để chấm dứt chiến tranh”(1). Ngày 22/6/1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nếu các bạn ngoại quốc muốn biết không khí của người tri thức Việt Nam thì vừa đây có một sự thật rõ rệt: Sài Gòn - Chợ Lớn là nơi quân Pháp đang chiếm đóng. Tỏ lòng ái quốc là một sự nguy hiểm cho người Việt Nam. Thế mà hơn 700 người tri thức và tư sản Việt Nam ở vùng đó vừa bạo dạn ký giấy đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ Việt Nam…”(2). Tháng 4/1949, giới trí thức thành phố ra bản tuyên ngôn Trí thức Nam Bộ phản đối thực dân Pháp xâm lược, chống chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Chỉ trong vòng ba tuần lễ, bản Tuyên ngôn đã thu được trên 1.000 chữ ký. Sau đó, phái đoàn do luật sư Nguyễn Hữu Thọ dẫn đầu lên gặp Pignon - Cao ủy Pháp tại Sài Gòn - đòi giải quyết các yêu sách. Tháng 5/1954, 352 trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn ra bản Tuyên ngôn hòa bình nêu rõ: “Yêu cầu Quốc hội, Chính phủ Pháp ra lệnh cho quân đội viễn chinh ngừng chiến ở Đông 1. Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Sđd, tr. 118. 2. Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Sđd, tr. 120.


- 250 - Dương để có thể tiến tới một giải pháp hòa bình có lợi cho hai dân tộc Pháp - Việt”. Trong hàng ngũ trí thức ký tên vào các bản tuyên ngôn, có các nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… có tiếng thời đó, như kỹ sư Lưu Văn Lang, luật sư Trịnh Đình Thảo, nha sĩ Nguyễn Xuân Bái, Giáo sư Dương Minh Thới… Nhà giáo Bùi Thị Nga (vợ kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát) là người nhiều lần thay mặt đem bản Tuyên ngôn đến xin chữ ký của từng người trong giới nhân sĩ, trí thức Sài Gòn. Nhiều nữ trí thức khác cũng ký tên, như dược sĩ Phạm Thị Yên, luật sư Bùi Thị Cẩm, bác sĩ Dương Thị Hạnh, bà Nguyễn Thị Bình, kỹ sư Huỳnh Ngọc Anh… Nhiều hoạt động dạng trao đổi hội thảo nhỏ được giới trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn mở trong giai đoạn này, nội dung bàn về các tư tưởng dân chủ tiến bộ. Bà Bùi Thị Nga - thời gian đó là phụ trách quỹ của Hội Phụ nữ Dân chủ - chủ trì mời một số nhà trí thức lớn làm diễn giả, mỗi buổi hội thảo chỉ mươi người, nhưng quy tụ được giới nhân sĩ của thành phố, như các buổi trao đổi về sách Que faire? (Làm gì?) của Lênin, tổ chức tại nhà Trưởng Ban Giám hiệu Trường Huỳnh Khương Ninh; hay hội thảo đề tài “Dân chủ mới” do Giáo sư Cổ Tấn Văn Luông làm diễn giả… Được sự chỉ đạo của Đảng Dân chủ, bà Bùi Thị Nga cũng đứng ra tổ chức buổi hòa nhạc và triển lãm thơ, văn, tranh ký họa do anh em tù nhân Khám Lớn Sài Gòn sáng tác. Số ấn phẩm này do bà sưu tầm được qua những lần thăm chồng là kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát bị giam trong Khám Lớn Sài Gòn năm 1947. Cùng tham gia tổ chức sự kiện này còn có bà Thái Thị Liên (mẹ nhạc sĩ Đặng Thái Sơn, em luật sư Thái Văn Lung), bà Phạm Thị Lạng (mẹ nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu)… Sau buổi hòa nhạc, nhiều tiền bạc, lương thực, thực phẩm được quyên góp nhằm ủng hộ tù nhân Khám Lớn và cho các tổ chức


- 251 - kháng chiến. Một chuỗi “hội thảo” khác khá đặc biệt thời kỳ này diễn ra vào năm 1949, khi Giáo sư luật Lyon Caen đến Sài Gòn để chấm thi. Là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông đã thực hiện công trình nghiên cứu về công nhân Việt Nam. Bà Bùi Thị Nga cùng một số thành viên trong Hội Liên Việt liền đến nhờ Giáo sư Caen mở lớp trao đổi về chủ nghĩa Mác cho nữ trí thức Sài Gòn. Những người theo học có bà Bùi Thị Nga, Nguyễn Thị Diệu, Lê Thị Cao, Trần Thị Trinh, Huỳnh Ngọc Anh, Huỳnh Thị Lẫm và nhiều chị em khác. Lớp học kéo dài 20 ngày, được tổ chức cách bốt Catinat không xa. Các chị đã qua lớp học này đều là những cán bộ cốt cán của Đảng. Về mặt tổ chức Đảng của giới trí thức yêu nước, ngày 19/5/1948, nhà giáo Bùi Thị Nga được kết nạp Đảng, hình thành Chi bộ trí thức đầu tiên ở Sài Gòn gồm 3 đồng chí: dược sĩ Phạm Thị Yên (Bí thư), dược sĩ Hồ Thu, nhà giáo Bùi Thị Nga. Sau đó, cùng với sự phát triển của phong trào cách mạng, Chi bộ trí thức được bổ sung nhiều đảng viên mới: nhà báo Nguyễn Văn Hiếu, nghệ sĩ Trần Hữu Trang… Sau đó, các tổ chức cách mạng bán công khai lần lượt ra đời và hoạt động ở nội thành. Ngoài ra, rất đông đảo trí thức hoạt động trong các phân hội của Thành hội Liên Việt (được thành lập từ tháng 2/1948 theo tinh thần chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn), như: Phân hội Nông gia do Võ Hà Trị phụ trách, Phân hội Dược sĩ do dược sĩ Hồ Thu phụ trách, Phân hội Giáo chức do Giáo sư Đặng Minh Trứ phụ trách, Phân hội Phụ nữ, Phân hội Học sinh Sinh viên… Đoàn thể Phụ nữ Dân chủ Sài Gòn thành lập năm 1946 cũng là nơi tập hợp các nữ trí thức yêu nước, như các bà Trần Thị Trinh, Bùi Thị Nga, Lê Thị Cao… Địa điểm gặp gỡ của số trí thức và học giả Sài Gòn thời đó thích nghiên cứu các sách tiến bộ và chủ nghĩa Mác - Lênin là nhà sách Văn Đàn


- 252 - của kỹ sư canh nông Huỳnh Thị Lẫm. Trên mặt trận trí vận, tầng lớp trí thức hoạt động khá sôi nổi. Năm 1949, nếu chỉ tính riêng khu Sài Gòn, nam nữ nhân sĩ trí thức “đã tổ chức 390 lần tuyên truyền xung phong diễn thuyết, 123 lần phát thanh, 779 cuộc mít tinh, 12 buổi kịch, một cuộc tuần hành thị uy, làm và đốt cháy 37 hình nộm, thả 15 con vật ra đường phố mang theo khẩu hiệu, in và rải được 149.406 truyền đơn, biểu ngữ, thông báo, hiệu triệu, chuyển vào thành 5.000 tờ báo kháng chiến”(1)… Bằng bình phong trí thức, nhiều nữ trí thức tích cực tham gia vận động, quyên góp, tiếp tế cho cách mạng. Dược sĩ Phạm Thị Yên là sinh viên xuất sắc của Trường Đại học Dược Hà Nội. Trở về Sài Gòn, bà mở tiệm thuốc tây trên đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm). Những ngày đầu lập nghiệp vất vả, nhưng bà liên hệ chặt chẽ với các cơ sở kháng chiến, vừa ủng hộ lực lượng kháng chiến tiền bạc do chính bà kiếm được qua tiệm thuốc tây, vừa cung cấp cho anh em kháng chiến ở chiến khu, anh em tù chính trị ở Khám Lớn Sài Gòn nhiều loại thuốc tân dược quý hiếm. Là một dược sĩ có tiếng, bà đã vận động nhiều nhà trí thức tham gia các tổ chức cách mạng và ủng hộ cách mạng. Năm 1950, bà bị địch truy bắt nên phải bỏ thành phố ra chiến khu miền Đông, về bệnh viện đa khoa của Đặc khu, chuyên sâu nghiên cứu và sản xuất thuốc kháng sinh, thuốc chống sốt rét… Bà Bùi Thị Nga, với vai trò là thủ quỹ của Hội Phụ nữ Dân chủ, tích cực gây quỹ cho đoàn thể, tiếp tế quần áo cho bộ đội từ vải do đồng bào ủng hộ.“Công việc tuy được bà con tận tình giúp đỡ, nhưng đôi khi khẩn cấp, quỹ của Đoàn thể phải xuất ít tiền. Do đó, Tết năm 1947, tôi vận động má tôi làm bánh bán. Má của 1. Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Sđd, tr. 164.


- 253 - anh Huỳnh Tấn Phát trước đây dạy môn nữ công Trường Đa Kao, là Trường Đinh Tiên Hoàng bây giờ… Tôi nhờ má tôi làm trên chục ổ bánh hình cuốn sách lớn như từ điển rồi rê bằng bơ chữ “Xuân thống nhất” nổi bật, thêm chiếc nơ hồng lộng lẫy. Người đầu tiên tôi đem đến mời là bà Bút Trà, Chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân văn lúc bấy giờ. Bà cũng là người có thế lực trong làng báo chí, bà nằm trên võng tiếp tôi. Nhìn cái bánh bà khen “khéo quá” và quay sang hỏi móc tôi: “Chị chắc có Xuân thống nhất không?” Tôi trả lời: “Cái đó cũng có phần tùy bà đấy”. Bà cười ha hả và trao cho tôi mấy trăm bạc. Đó là món tiền khá lớn thời đó… Tôi đề nghị mua quà Tết cho các anh chị em trong Khám Lớn - Sài Gòn, vận động mỗi chị đi thăm chồng xách thêm một giỏ để chuyển hết số quà vào khám. Mùa xuân năm 1947 là mùa xuân ấm tình đồng bào, đồng chí, giúp các anh chị em tù nhân hưởng ba ngày Tết đầy đủ như ở gia đình, chỉ thiếu cành mai vàng rực rỡ!”(1). Bằng lợi thế nghề nghiệp của mình, giới luật sư tham gia ủng hộ cách mạng bằng cách tổ chức tiếp xúc với tù nhân chính trị, nghiên cứu hồ sơ rồi tìm cách bào chữa, thuyết phục nhà cầm quyền xét xử giảm án. Cuối năm 1953, lần lượt các nhân sĩ, trí thức như Nguyễn Thị Bình, Đỗ Duy Liên, Thu Trang, Công Thị Nghĩa, Lý Hải Châu, Trương Công Phòng, Hoàng Xuân Bình… và nhiều trí thức khác được giới luật sư yêu nước bào chữa cho ra khỏi nhà tù đế quốc vì lý do “sức khỏe”, hoặc được giảm án. Đặc biệt, Hoàng Xuân Bình bị thực dân Pháp ghép tội “phản quốc” với mức án tử hình, song được sự giúp đỡ của Tiến sĩ Bùi Thị Cẩm và tài bào chữa của luật sư Nguyễn Hữu Thọ nên Hoàng Xuân Bình được giảm án chỉ còn lại 3 năm tù. 1. Bùi Thị Nga, “Những kỷ niệm về công tác trí vận ở Sài Gòn (1946 - 1950)”, in trong sách: Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 233 - 234.


- 254 - Giới văn nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo tiến bộ tập hợp lập Nghiệp đoàn Báo chí Nam Bộ vào đầu năm 1946 và chủ trương thành lập văn đàn Báo chí thống nhất định hướng tự do ngôn luận, chống thực dân Pháp (đối lập với Báo chí thống nhất là Báo chí phân ly, theo khuynh hướng thân Pháp). Các tờ báo của nhóm Báo chí thống nhất (tờ Công lý, Kiến thiết, Việt bút, Tân Việt, Tin mới, Dư luận, Việt Thanh, Sài Gòn, Công chúng, Tin điển, Nam Kỳ, Trung lập, Lên đàng, Dân quyền, Dân thanh, Ánh sáng, Thời báo, Tân sanh, Sài Gòn mới…) đã in đăng và phát hành công khai những bài báo yêu nước của nhiều cây “bút chiến” xuất sắc như Trần Bạch Đằng, Phạm Thiều, Huỳnh Tấn Phát, Lý Vĩnh Khuông, Nguyễn Văn Hiếu, Triệu Công Minh, Vũ Tùng, Bách Việt, Thiếu Sơn, Dương Tử Giang, Bùi Đức Tịnh, Nam Quốc Cang, Quốc Ấn, Trần Văn Nguyên, Vĩnh Sanh, Trần Tấn Quốc, Nguyễn Kỳ Nam, Thiên Giang, Tam Ích, Thê Húc, Nguyễn Bảo Hóa, Hoàng Tấn, Hoàng Tố Nguyên, Trúc Khanh, Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Lê Thọ Xuân, Thuần Phong, Phi Bằng… Cây bút nữ thời kỳ này nổi bật nhất là Ái Lan. Bà là vợ của nhà trí thức yêu nước Triệu Công Minh, hai vợ chồng cùng chung chí hướng và khát vọng. Hai ông bà đều viết bài cho các báo Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đông Pháp thời báo… và còn phát hành tờ báo riêng tên là Phóng sự và Cười xuân. Tờ Phóng sự đã gây tiếng vang lớn bởi những phóng sự điều tra về đề tài ức hiếp dân chúng của bọn quan chức thực dân và tay sai. Bà cùng chồng tham gia tích cực vào phong trào Báo chí thống nhất, đấu tranh cho tự do báo chí, tự do dân chủ, chống Pháp xâm lược, chống chính phủ bù nhìn Sài Gòn bán nước và ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Khi thực dân Pháp đàn áp phong trào Báo chí thống nhất, nữ sĩ Ái Lan cùng chồng


- 255 - và các nhà báo khác như Vũ Tùng, Thiếu Sơn… phải bỏ đô thị vào chiến khu tham gia kháng chiến. Nữ sĩ Ái Lan cũng là một tên tuổi trên văn đàn. Bà có các tác phẩm thấm đậm tinh thần yêu nước như: tập thơ Trên đường (1949), Xuân tha hương (1953). Ngoài Ái Lan, một số nữ nhà văn, nhà báo khác cùng hoạt động thời kỳ này có Huyền Tân Tôn Nữ (Mơ xuân), Đặng Thị Thanh Phương (Những tia nắng mới, Trên đường nhiệm vụ)… Ở lĩnh vực sân khấu, năm 1948, Nguyễn Thành Châu đứng ra thành lập Hội Nghệ sĩ thành phố. Hội quy tụ nhiều nghệ sĩ trên khắp các tỉnh Nam Bộ, động viên, khuyến khích nghệ sĩ biểu diễn các nội dung yêu nước. Cuối năm 1948, Hội Ái hữu Nghệ sĩ lại ra mắt công chúng do Nguyễn Thành Châu, Trần Hữu Trang chủ trương và do nữ nghệ sĩ Phùng Há làm Hội trưởng. Khi gánh hát Con Tằm tan rã, gánh hát Phụng Hảo ra đời đã tập trung nhiều nữ nghệ sĩ danh tiếng về Sài Gòn như: Phùng Há, Tư Út, Ba Vân… Cũng trong thời gian này, được sự chỉ đạo của Thành hội Liên Việt, gánh hát Năm Châu trở thành cơ sở cách mạng đầu tiên của ngành sân khấu Nam Bộ. Gánh hát Năm Châu với những vở kịch nổi tiếng như: Gió ngược chiều, Người với người, Hận chiến trường, Đời cô Lựu, Khi người điên biết yêu, Ông huyện Hàm, Ngày về, Bạn và tình, Tìm hạnh phúc, Hận Kinh Nha, Máu nhuộm Phụng hoàng cung… đã được công diễn nhiều lần, chinh phục được nhân dân bằng tài năng diễn xuất của các nghệ sĩ và nội dung yêu nước, tiến bộ. Cùng với phong trào báo chí, các nghệ sĩ sân khấu yêu nước lần lượt bỏ thành thị vào chiến khu gia nhập Vệ quốc đoàn hoặc liên hệ chặt chẽ với lực lượng kháng chiến. Nhiều nghệ sĩ như Tám Danh, Năm Châu, Ba Du, Tư Chơi, Tư Út, Ngọc Thạch, Năm Phỉ, Ba Vân, Bảy Nhiêu, Phùng Há,


- 256 - Bảy Nam, Kim Cúc, Kim Thoa… dần dần trở thành những chiến sĩ xung kích trên mặt trận sân khấu. Phong trào đấu tranh của nữ sinh Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định góp phần làm sinh động bức tranh đấu tranh cách mạng những năm 1945 - 1954. Trong giai đoạn này, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có 4 trường nữ trung học: Gia Long, Marie Curie, Trưng Vương, Đức Trí, trong đó hai trường Trưng Vương và Đức Trí thành lập từ năm 1954, chủ yếu dành cho con em theo cha mẹ từ Bắc vào Sài Gòn sau Hiệp định Genève. Trường nữ trung học Gia Long là một trong số rất ít trường công lập lâu đời ở Sài Gòn, học sinh phải thi tuyển đầu vào, phải chấp hành nghiêm kỷ luật trường. Nữ sinh trong trường nếu hoạt động chống chính quyền, tham gia cách mạng, cầm chắc sẽ bị đuổi học, nhưng Gia Long lại là môi trường nuôi dưỡng các hoạt động phong trào sôi nổi nhất của nữ sinh Sài Gòn. Nhiều nữ sinh của trường đã trở thành những trí thức tiến bộ hoạt động tích cực trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong khi đó, Marie Curie là trường dành cho con Tây và một số người Việt, theo chương trình của Bộ Giáo dục Pháp, được thực dân Pháp ưu ái. Học sinh ở đây phải nói tiếng Pháp, tuy nhiên phần lớn học sinh Việt Nam khi ra khỏi lớp đều nói tiếng Việt. Nữ sinh Marie Curie tham gia rất tích cực phong trào đấu tranh cách mạng chống Pháp. Ngoài ra, nữ sinh của một số trường khác cũng góp phần vào phong trào đấu tranh như trường Pétrus Ký, trường Chasseloup Laubat, trường tư thục Lê Bá Cang, trường tư thục Huỳnh Khương Ninh… Từ sau Cách mạng tháng Tám, tinh thần của học sinh các trường ở Sài Gòn ít nhiều khác trước. Ngay trong những năm đầu của cuộc kháng chiến 9 năm, nhiều học sinh đã hô hào


- 257 - hưởng ứng bãi thi, tẩy chay không lấy bằng cấp của Pháp. Tại các trường, học sinh tự tổ chức kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh 19/5, ngày tuyên bố độc lập 2/9 và ngày 23/11 kỷ niệm Nam Kỳ Khởi nghĩa… Ngoài ra, học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức nhiều hình thức đấu tranh hợp pháp nhẹ nhàng như đi du ngoạn, văn nghệ, làm công tác từ thiện (cứu trợ đồng bào nhà cháy, thăm các em cô nhi)… Phương tiện tuyên truyền được sử dụng phổ biến là sách báo, phim ảnh, các bài hát tiến bộ, thơ ca cách mạng từ chiến khu gửi về. Tuy vậy cho đến năm 1947, các hoạt động chủ yếu vẫn là tự phát. Đến cuối năm 1947, trường Gia Long mới có cơ sở cách mạng. Tháng 9/1947, theo chỉ đạo của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, ông Phùng Lượng và bà Hồ Thị Chí (cựu học sinh trường Gia Long) chủ trì một buổi họp đại diện học sinh tại nhà Giáo sư Trương Công Mùi, phụ thân bà Trương Quốc Hoa, ở lầu 2 số nhà 108 - 110 đường Lagrandière (đường Lý Tự Trọng ngày nay) để thành lập Hội Học sinh Việt Nam - Nam Bộ. Hội lấy bài hát Học sinh Việt Nam làm đoàn ca và phát hành tờ báo Cứu nước. Đến năm 1948, Hội chính thức hình thành Ban Chấp hành gồm ông Tạ Trung Quốc (trường Chasseloup Laubat) làm Tổng thư ký và các ủy viên là ông Đỗ Ngọc Thạnh, bà Đỗ Thị Kim Chi (trường Gia Long), bà Võ Kim Lang (trường Lê Bá Cang) và bà Nguyễn Bình Thanh (trường Marie Curie)(1). Sự kiện này đánh dấu một bước phát triển to lớn trong phong trào học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn thời kỳ kháng chiến chống Pháp. 1. Nhiều tác giả (2004), Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 16.


- 258 - Từ năm 1948, dưới sự lãnh đạo của các nữ sinh nòng cốt, phong trào đấu tranh của các trường đồng loạt phát triển. Đội ngũ lãnh đạo ở trường Gia Long có bà Đỗ Thị Kim Chi (đảng viên đầu tiên của trường, kết nạp năm 17 tuổi), bà Huỳnh Ngọc Thanh, bà Huỳnh Ngọc Thu, bà Nguyễn Thị Bạch Yến…; ở trường Marie Curie có ba chị em Nguyễn Bình Minh, Nguyễn Bình Thanh, Nguyễn Bình Trang (xem phụ lục 1 “Chuyện ba cái Bình”)…; ở trường Chasseloup Laubat có bà Kim Hoa… Từ những nhân sự nòng cốt, phong trào đấu tranh lôi kéo đông đảo nữ sinh tham gia. Ở trường, một số giáo viên có cảm tình với cách mạng tuy không tham gia đấu tranh công khai nhưng cũng góp phần truyền tình yêu nước qua các bài giảng cho học sinh, như cô Phan Thị Của (dạy Việt văn), cô Phạm Thị Mỹ (dạy toán), cô Ba Viện (dạy nữ công), cô Nguyễn Thị Châu (dạy sử - địa) ở trường Gia Long; nữ giáo sư người Pháp Bouderel ở trường Pétrus Ký; cô Trần Thị Lành (dạy Việt văn) trường Marie Curie… Ngoài hoạt động đấu tranh trong nội thành, nhiều nữ sinh Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã thoát ly gia đình ra bưng biền tham gia kháng chiến. Có người ra đi từ những ngày đầu kháng chiến theo gương các nhân sĩ, trí thức (trong đó có nhiều giáo sư: Phạm Thiều, Hồ Văn Lái, Nguyễn Văn Chì, Đặng Minh Trứ, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Lê Văn Cẩm)…, có người trốn đi sau cao trào hoạt động năm 1950 như các bà Bình Thanh, Bình Trang, Lê An (Lý Thu Hà), Nguyễn Kim Sen… Vào dịp nghỉ hè, đông đảo nữ sinh nhiều trường còn bí mật ra chiến khu dự các lớp học chính trị do Thành ủy tổ chức. Từ đây, các bà các chị nhận được nhiều bài học lý luận chính trị khác xa kiến thức học ở trường.


- 259 - Trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, ngoài các hoạt động tuyên truyền như tổ chức in chép và phát tán sách báo kháng chiến, tài liệu học tập, điều lệ Hội Học sinh; xuất bản tờ báo riêng của nữ sinh Gia Long - tờ Nữ sinh, rải truyền đơn trong trường vào các dịp kỷ niệm, nổ lựu đạn rải rác trong trường, dán ảnh Bác trên bảng danh dự trường, bí mật viết các khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp - ủng hộ kháng chiến” lên tường, lên bảng…, thì có thể điểm một số hoạt động đấu tranh nổi bật của nữ sinh Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định giai đoạn 1945 - 1954 như: Tháng 7/1949, học sinh hai trường Pétrus Ký và Gia Long phối hợp phá vỡ cuộc viếng thăm của Bảo Đại tại trường Gia Long. Nữ sinh trường Gia Long từ các lớp ùa ra nhốt tổng giám đốc người Pháp, khiêng bàn ghế chặn cổng, xé cờ ba sọc đỏ, xé khẩu hiệu phản động, tung truyền đơn phản đối Bảo Đại. Bà Đỗ Thị Kim Chi - một trong những lãnh đạo cuộc biểu tình - kể lại: “Chị em chúng tôi phát động cuộc chống đối quyết liệt, viết khẩu hiệu “à bas Bảo Đại”, “đả đảo thực dân Pháp” ngay trên sân trường. Nữ sinh nội trú tuyệt thực, nữ sinh ngoại trú bãi khóa… Bảo Đại bị bẽ mặt, rút lui, bỏ cuộc không dám đến thăm trường con gái”(1). Tháng 9/1949, nữ sinh các trường bãi khóa chống chế độ thi cử bất công, chống khủng bố học sinh, đòi cải cách giáo dục. Cuộc bãi khóa kéo dài cả tháng. Chính phủ bù nhìn bắt 5 học sinh trong ban lãnh đạo, trong đó có 2 nữ sinh trường Gia Long. 1. Nhiều tác giả (2004), Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975), Sđd, tr. 106.


- 260 - Tháng 11/1949, học sinh các trường Pétrus Ký, Gia Long ở Sài Gòn và trường Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho đồng loạt bãi khóa để kỷ niệm ngày Nam Kỳ khởi nghĩa 23/11. Một tháng sau, nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa vô thời hạn ba trường này và bắt 12 học sinh lãnh đạo cuộc bãi khóa, trong đó có bà Đỗ Thị Kim Chi (trường Gia Long), bà Kim Khánh (trường Huỳnh Khương Ninh). Hoạt động đấu tranh công khai mạnh mẽ nhất của nữ giới học sinh sinh viên Sài Gòn trong giai đoạn 1945 - 1954 là chuỗi biểu tình diễn ra vào đầu tháng 1/1950. Ngày 9/1/1950, hơn 2.000 nữ sinh trường Gia Long và học sinh trường Pétrus Ký cùng đại biểu các giáo sư và gia đình học sinh tập trung tại Nha Học chính đòi chính quyền ngụy giải quyết triệt để 3 vấn đề: 1/ trả tự do cho 12 học sinh bị bắt trong cuộc bãi khóa trước đó, 2/ mở cửa trường học vô điều kiện, 3/ dạy tiếng Việt cho học sinh Việt Nam. Trong đoàn biểu tình có cả những nữ sinh trường Marie Curie - trường đang được nhà cầm quyền Pháp ưu ái - nhưng sẵn sàng tham gia đòi mở cửa trường cho các bạn Gia Long và Pétrus Ký. Cuộc tập họp chuyển thành đoàn biểu tình kéo đến đưa yêu sách cho Thủ hiến. Học sinh tập hợp trước dinh, căng biểu ngữ, hô khẩu hiệu, đòi gặp Thủ hiến. “Đồng bào Sài Gòn, Chợ Lớn ủng hộ cuộc biểu tình của học sinh đến dự mỗi lúc một đông, mua bánh mì và nước uống tiếp tế cho các em. Nhà cầm quyền hứa miệng là sẽ mở cửa trường và sẽ thả học sinh bị bắt. Học sinh đòi phải có văn bản và thả ngay cho mọi người thấy. Tình hình trở nên gay cấn. Viên Thủ hiến hỏi ý kiến Ủy viên cộng hòa Pháp. Viên này không chịu nhượng bộ. Học sinh biểu tình không chịu giải tán. Đến 3 giờ chiều, tình huống xấu nhất đã xẩy ra. Cảnh sát được


- 261 - lệnh đàn áp”(1). Trần Văn Ơn - học sinh lớp seconde (lớp 10 ngày nay) của trường Pétrus Ký bị bắn chết, 30 học sinh khác bị thương, 500 học sinh bị bắt. Hành động giết hại học sinh của ngụy quyền đã gây làn sóng phẫn nộ trong mọi tầng lớp nhân dân. Bà Vương Thị Minh - nữ sinh trường Gia Long kể lại: “Trước ngày 9/1/1950, anh Ơn đến nhà tôi để báo cho chị Thu Ba, chị Thiệt về mục đích tổ chức cuộc xuống đường của học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn… Những người nói trên cùng với anh rủ các bạn khác đến họp mặt trước Nha Học chính. Tại Nha Học chính, tôi chứng kiến các anh học sinh bị xe vòi rồng xịt nước vào ngực, ói ra máu. Từ Nha Học chính, đoàn biểu tình trở về Dinh Thủ hiến. Bọn cò tây, biện chà núp sau các hàng rào bắn vào đám học sinh chúng tôi. Lòng yêu nước và căm thù giặc sôi sục… lập tức đám nữ sinh chúng tôi lượm gạch đá chuyển cho các anh ném lại bọn chúng”(2). Sự kiện này đã châm ngòi cho loạt cao trào đấu tranh sau đó. Trong hai ngày 10 và 11 tháng 1/1950, lễ truy điệu Trần Văn Ơn được tổ chức tại trường Petrus Ký, các giới đồng bào ở Sài Gòn và các tỉnh đến viếng. Ngày 12/1/1950, toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn tổng bãi công, bãi thị để tổ chức một lễ đưa tang “kỷ luật, ôn hòa, bình tĩnh, nghiêm trang, im lặng” (yêu cầu của Ban Trật tự lễ tang). Báo Sài Gòn mới số 324 ngày 14/1/1950 viết: “Rạp hát, các tiệm buôn, tiệm may, tiệm uốn tóc, các học đường công và tư đều đóng cửa. Một số công chức nghỉ việc. Các chợ không có người mua bán…”. Theo ước tính của ông Lê Trung Nghĩa - một trong những nhân 1. Nguyễn Đình Tư (2016), Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kỳ 1859 - 1954, tập 1, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 216. 2. Nhiều tác giả (2004), Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975), Sđd, tr. 114.


- 262 - chứng - có hơn 2.000 anh em xích lô đã dành hẳn một ngày không mưu sinh và chở miễn phí khách từ tỉnh lên dự đám tang; một số khác tự nguyện nhận trách nhiệm chở vòng hoa, di ảnh và những người già đi dự lễ tang mà kiên quyết không lấy một xu(1). Dòng người tiễn đưa Trần Văn Ơn gồm các giới đồng bào, nhân sĩ trí thức, nhà báo, doanh nghiệp, học sinh trung học, tiểu học, trường chuyên nghiệp dạy nghề và đông nhất là các trường Pétrus Ký, Gia Long, Marie Curie, chật kín những ngả đường đám tang đi qua. Báo chí ước lượng lúc bấy giờ có đến 300.000 người xuống đường dự đám tang (trong khi đó, dân số Sài Gòn - Chợ Lớn chưa đến 2 triệu người, tức hơn 1/6 dân số xuống đường)(2). Dẫn đầu đoàn lễ tang là các nhà trí thức Lưu Văn Lang, Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Trần Văn Thoàn, Võ Hà Trị, Huỳnh Ngọc Thuận, Hoàng Tiến Giảng, Trần Ngọc Trinh, Bút Trà, Nguyễn Minh Mẫn, Phạm Xuân Ẩn, Huỳnh Thị Ngôn, Nguyễn Hữu Anh (đại diện học sinh tỉnh Gia Định), Huỳnh Quan Văn (đại diện học sinh tỉnh Mỹ Tho)… Đám tang còn có một số người Pháp, trong đó có 2 phụ nữ Pháp là vợ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch và vợ ông Hoàng Quốc Tân (đại diện của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Sài Gòn). Học sinh các trường đều mặc đồ trắng, đeo băng tang, hô vang “Tinh thần Trần Văn Ơn bất diệt”. Bà Huỳnh Thị Ngôn, nữ sinh Gia Long, đã thay mặt nữ sinh toàn thành phố đọc điếu văn trong buổi lễ truy điệu. Đám tang học sinh Trần Văn Ơn là cuộc đấu tranh chính trị, là cuộc biểu dương lực lượng lớn nhất từ sau Cách mạng 1. Theo Nguyễn Thế Truật (chủ biên) (2011), Lịch sử bằng ảnh 80 năm (1931 - 2011) Phong trào thanh niên và hoạt động Đoàn THanh niên Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh - Đáp lời sông núi, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 107. 2. Theo Nguyễn Thế Truật (chủ biên) (2011), Lịch sử bằng ảnh 80 năm (1931 - 2011) Phong trào thanh niên và hoạt động Đoàn THanh niên Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh - Đáp lời sông núi, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 105.


- 263 - tháng Tám ở Nam Bộ. Báo chí Sài Gòn đưa tin: “Trong Nam Bộ, sau đám tang cụ Phan Tây Hồ(1) ngày 24/3/1926 đến nay, đám tang cậu Trần Văn Ơn ngày 12/1/1950 là một đám tang vĩ đại. Một đám tang biểu lộ tinh thần đoàn kết của một dân tộc tuy tiềm tàng, ẩn nhẫn nhưng bất khuất… Một đám tang kêu gọi những người còn sống hãy sống cho xứng đáng hơn nữa…”(2). Sau đó 1 năm, ngày 9/1/1951, kỷ niệm ngày hy sinh của Trần Văn Ơn, hàng vạn học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn tiếp tục bãi khóa, biểu tình phản đối chính sách khủng bố, đàn áp của thực dân Pháp. Trong số lãnh đạo học sinh đấu tranh ngày 9/1/1950, có nữ sinh 18 tuổi người Hoa tên Trần Bội Cơ - học sinh trường Phước Kiến (nay là Trường THCS Trần Bội Cơ, Quận 5). Phong trào đấu tranh của học sinh trường Phước Kiến khiến cảnh sát ngụy quyền ra lệnh đóng cửa trường vào ngày 4/5/1950. Phản đối lệnh giải thể, Trần Bội Cơ đứng ra tập hợp học sinh và phụ huynh đấu tranh. Ngày 6/5/1950, Trần Bội Cơ bị bắt cùng hơn 100 học sinh khác khi đang tổ chức hội thảo đòi hủy bỏ lệnh đóng cửa trường. Tại bốt cảnh sát Quận 4 (nay là Quận 5), sau 5 ngày đêm dùng cực hình tra tấn nhưng không kết quả, ngày 12/5/1950, Trần Bội Cơ bị mổ bụng “để bắt Hồ Chí Minh trong đó”. Cái chết của Trần Bội Cơ và câu nói “Hồ Chí Minh ở ngay trong lòng tao” của bà đã gây chấn động dư luận trong đồng bào Hoa - Việt trên khắp Nam Bộ. Hàng chục ngàn người dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh trọng thể truy điệu nữ sinh Trần Bội Cơ, lên án 1. Tức cụ Phan Chu Trinh; cụ người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ Hy Mã, nên còn được gọi là Phan Tây Hồ. 2. Theo Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), Sđd, tr. 170.


- 264 - tội ác man rợ của thực dân Pháp và chính quyền bù nhìn tay sai Sài Gòn. Trong tấm ảnh còn lưu giữ chụp di ảnh của Trần Bội Cơ trong lễ truy điệu tại vùng giải phóng Kênh 1, Chắc Băng, Cà Mau (6/1950), người ta còn thấy hai bên là hai câu đối tiếng Hoa: Nhất cá nhân đảo hạ khứ/ Thập vạn nhân trạm khởi lai (Một người nằm xuống/ Muôn người đứng lên)(1). Quả là như vậy, sự hy sinh của một nữ sinh đã khiến cao trào cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn những năm cuối cùng của kháng chiến chống Pháp sục sôi hơn nữa. Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ sau đó đã ra Nghị định số 296/ Nam Bộ ngày 11/8/1950 tặng Huy hiệu Kháng chiến Nam Bộ cho Trần Văn Ơn và Trần Bội Cơ. Hai học sinh của thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn sau đó được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (28/5/2000). Miên man trong giới học sinh Sài Gòn thời đó là những giai điệu của bài hát “Tiếc thương Trần Bội Cơ” (nhạc Phương Minh, lời Hoa: Châu Ý Mẫn, lời Việt: Lưu Cầu). Trong năm 1950, nữ sinh Sài Gòn - Chợ Lớn còn tham gia ba hoạt động đấu tranh gây tiếng vang khác: (1) Tháng 3/1950, theo lời kêu gọi của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, học sinh các trường tham gia cứu trợ nạn nhân bị hỏa hoạn, cất nhà lại cho đồng bào tại Bàu Sen - Tân Kiểng. Vốn đây là xóm lao động nghèo thường bảo bọc cho cán bộ cách mạng. Chính quyền Sài Gòn biết được nên vào mùa khô thường đi đốt phá nhà dân. Trí thức và học sinh thành phố đã nhiệt tình đi cứu trợ, giúp bà con quần áo, mùng mền, gạo tiền và giúp người dân làm lại chỗ ở mới. (2) Ngày 19/3/1950, rất đông các đoàn nữ 1. Theo Nguyễn Thế Truật (chủ biên) (2011), Lịch sử bằng ảnh 80 năm (1931 - 2011) Phong trào thanh niên và hoạt động Đoàn THanh niên Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh - Đáp lời sông núi, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 110.


- 265 - sinh và các giới khác tập trung trước trường nữ học Tôn Thọ Tường, biểu tình thị uy, hô vang khẩu hiệu “Hoan hô Chính phủ Hồ Chí Minh, đả đảo thực dân Pháp xâm lược, đả đảo đế quốc Mỹ can thiệp…” để phản đối việc Mỹ đưa quân sang hỗ trợ thực dân Pháp. Bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước), lúc bấy giờ là cán bộ lãnh đạo phong trào học sinh - sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn, đã hô to “À bas l’imperialisme americain!” (đả đảo chủ nghĩa đế quốc Mỹ) giữa bùng binh lớn thành phố. (3) Ngày 18/4/1950, nữ sinh Gia Long và học sinh các trường cùng đồng bào các giới đến Tòa án Sài Gòn phản đối nhà cầm quyền xét xử luật sư Nguyễn Hữu Thọ - một trí thức yêu nước tiến bộ. Sau các đợt đấu tranh sôi nổi trong năm 1950, nhiều học sinh bị bắt, bị sát hại. Trước sự khủng bố của thực dân, các cán bộ phụ nữ là nữ sinh cốt cán phải tránh mặt, hoặc chuyển ra chiến khu hoặc ở lại tổ chức củng cố và phát triển lực lượng đấu tranh bí mật ở đều khắp các cơ sở trường học. Từ năm 1952 đến 1954, hoạt động chủ yếu ở hai trường Gia Long và Marie Curie là rải truyền đơn, tổ chức các ngày lễ cách mạng… Về mặt lãnh đạo, chỉ đạo phong trào học sinh sinh viên ở nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn lúc này là Ban Cán sự Trí Giáo và Học sinh, liên lạc thông suốt đến tất cả các trường. Năm 1954, lớp cán bộ cốt cán trong các trường học đa phần đã ra trường hoặc ra chiến khu, lớp học sinh mới lên tạm thời chưa có người hướng dẫn. Nhưng thực tế ở các trường, “trong số học sinh tưởng chỉ thuộc thành phần con nhà giàu vẫn có con em các gia đình cách mạng như các chị Minh Quyên, Minh Châu con ông Đặng Minh Trứ - Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Sài Gòn - Chợ Lớn, chị Châu con của bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, chị Thiều Hoa, chị Tú (em nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu),


- 266 - chị Tố Nga, chị Tuyết Nga (con của bà Nguyễn Thị Tú)…”(1). Đó là lớp nữ sinh sẽ đứng lên trong giai đoạn cam go tiếp theo của cách mạng: giai đoạn chống đế quốc Mỹ. b. Đấu tranh kinh tế Trong tuần lễ đầu tiên sau ngày Pháp tái chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ nữ đã đứng lên cùng người dân thành phố phá nhiều cơ sở kinh tế và hạ tầng kỹ thuật, quyết biến Sài Gòn thành một thành phố không điện, không nước. Nhiều cơ sở kinh tế bị phá hỏng nặng như hãng vật liệu cao su Labblé, thuốc lá MIC, thuốc lá COTAB và Mélia, kho gạo C.C.I, dầu Cầu Kho, xưởng cưa Vĩnh Hội, xưởng cưa Phú Nhuận, xưởng sửa chữa xe lửa, kho hàng Khánh Hội, công ty heo, ban mễ cốc…, đẩy Pháp vào tình thế điêu đứng. Pháp phải huy động cả máy bay chở lương thực, thực phẩm từ Campuchia về tiếp tế. Cuộc “biểu tình thụ động” đầu tiên của Sài Gòn - Chợ Lớn do công nhân tiến hành. Ngày 4/8/1946, Tổng công đoàn Nam Bộ kêu gọi công nhân và nhân dân lao động thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn ở trong nhà từ 15 - 18 giờ để phản kháng sự khủng bố của thực dân Pháp. Cuộc đấu tranh được các giới ngoại giao ở Sài Gòn chú ý, coi là một hình thức sáng tạo trong đấu tranh của công nhân. Năm 1947, thi hành chỉ thị của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đẩy mạnh công tác phá hoại kinh tế địch, làm tê liệt giao thông, gây trở ngại tiếp tế, làm tê liệt bộ máy cai trị của địch, công nhân trong các xí nghiệp, đặc biệt là trong các cơ sở phục vụ chiến tranh liên tục phá hoại máy móc, dụng cụ và nguyên vật liệu. Công chức trong các sở lãn công, phá 1. Nhiều tác giả (2004), Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975), Sđd, tr. 61.


- 267 - dụng cụ văn phòng. Các ban công tác thành đốt nhiều kho lúa, nhiều nhà máy xay xát. Năm kho mủ cao su của hãng Labblé, xưởng đồ hộp Khánh Hội, kho L’UCIA bị đốt trụi, 100 cỗ máy của hãng FACI bị phá hỏng. Ngoài ra công nhân còn gỡ máy móc, lấy nguyên liệu hóa chất, thuốc men, dụng cụ y tế, dụng cụ văn phòng gửi ra chiến khu. Tại các tỉnh, dân chúng phá cầu, đường, xây dựng vật cản trên sông, rạch. Tại nông thôn thì tịch thu ruộng đất của địa chủ Pháp và Việt gian, tạm cấp cho nông dân. Ở các đồn điền thì chặt ngã hàng ngàn cây cao su(1). Trên mặt trận kinh tế, giai cấp đấu tranh mạnh mẽ nhất là công nhân. Việc lãnh đạo các đội vũ trang công nhân chống Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn phần lớn do Tổng công đoàn Nam Bộ phụ trách. Các nữ cán bộ cốt cán trong hàng ngũ công nhân đã phát huy “tài thu vén” để Tổng Công đoàn hoạt động hiệu quả trong những ngày đầu kháng chiến gian nan. “Với số tiền chính phủ giao và tiền hoạt động tài chính của mình, Tổng Công đoàn Nam Bộ tổ chức phát phụ cấp cho các gia đình công nhân tham gia tổng đình công kéo dài trên 3 tháng [120.000 công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn tổng bãi công kéo dài từ 23/9/1945 đến 1/1/1946]; tiếp tế lương thực cho các đơn vị vũ trang trên các mặt trận được 700 tấn lương thực và thức ăn trong 3 tháng liền; đồng thời cho in báo “Công đoàn” (sau đổi tên là báo Cảm tử), ra mỗi kỳ từ 4.000 đến 6.000 tờ, mỗi tháng tiền bán báo thu được khoảng 130.000 đồng và được chuyển ngay cho các đơn vị vũ trang cách mạng sử dụng”(2). 1. Nguyễn Đình Tư, Chế độ thực dân Pháp trên đất Nam kỳ 1859 - 1954, tập 1, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 219. 2. Theo Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Sđd, tr. 142 - 144.


- 268 - Ngoài ra, từ năm 1947, một số công đoàn ngành cấp thành phố được thành lập như Liên đoàn thợ nón, Liên đoàn thợ mộc, Liên đoàn nhân viên ngân hàng, Liên đoàn tài xế, Liên đoàn Công nhân nước đá, Liên đoàn công nhân thuốc lá…, số lượng đoàn viên năm 1947 lên đến 15.000 người. Ở Thị Nghè có Liên đoàn công giáo kháng chiến là tổ chức của những người công giáo yêu nước làm nhiệm vụ vận động bà con giáo dân quyên góp tiền bạc, thuốc men ủng hộ kháng chiến. Sang năm 1948, nhiều đồng bào tản cư về thành, các hãng xưởng hoạt động trở lại, lúc này nhiều cuộc đấu tranh của công nhân liên tục nổ ra. Trong các hãng xưởng, lực lượng nhân công nữ đông đảo và sát cánh trong mọi cuộc tranh đấu. Hình thức đấu tranh của công nhân là bãi công, nghỉ làm. Hoạt động đấu tranh của công nhân tập trung vào các mục tiêu: đòi tăng lương và cải thiện đời sống, giảm giờ làm, được tự do nghiệp đoàn, đòi quyền dân sinh dân chủ, đòi hưởng phụ cấp sinh hoạt. Nhiều cuộc đấu tranh thắng lợi. Cuối năm 1948, công nhân hãng thuốc lá MIC đấu tranh, kéo theo 3 hãng khác là MITAC, BASTOS, COTAB; công nhân hãng bia Thống Nhất đấu tranh đòi tăng lương và đòi tự do nghiệp đoàn, kéo theo công nhân các hãng ô tô SCAMA, CITROEN, FORD, EIFFEL, FACI, CARIC; công nhân ba nhà máy điện Chợ Quán, Sài Gòn, Chợ Lớn phối hợp bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, tự do nghiệp đoàn… Thực dân Pháp hoảng sợ buộc phải tăng lương cho công nhân 12%. Tháng 11/1950, công nhân hãng CARIC bãi công đòi tăng lương 25%, được công nhân các hãng FACI, MITAC, EIFFEL, SCAMA hưởng ứng; cuộc đình công kéo dài 25 ngày, cuối cùng chủ phải nhượng bộ tăng lương 25%. Ngày 29/9/1953, khối công nhân các nhà in Pháp là IDEO, ASPAR, IFOM gồm


- 269 - 600 người bãi công đòi tăng lương 30%; sau một tuần, yêu sách của công nhân được đáp ứng. Đặc biệt, một số cuộc đấu tranh của công nhân đã kết hợp mục tiêu kinh tế và mục tiêu chính trị, như cuộc tổng bãi công trong 2 giờ đồng hồ để phản đối Bảo Đại của công nhân và dân lao động Sài Gòn - Chợ Lớn ngày 24/4/1949; cuộc tổng bãi công phản đối hành động đàn áp của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và bù nhìn tay sai đối với phong trào học sinh, sinh viên của toàn thể công nhân các ngành ngày 14/1/1950; cuộc mít tinh tuần hành của công nhân và viên chức toàn thành phố ngày 1/5/1950 để kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động, đòi quyền lợi cho công nhân, đòi thả tù chính trị và thả luật sư Nguyễn Hữu Thọ (sau sự kiện này, Pháp phải công nhận các Tổng liên đoàn là các tổ chức công khai, hợp pháp tập hợp công nhân lao động, và ngày 1/5/1950 được coi như ngày lễ lao động đầu tiên được tổ chức công khai, hợp pháp tại Sài Gòn)… Ở quy mô nhỏ hơn, ngày 28/9/1953, công nhân viên hàng không tại Sài Gòn đình công một tuần chống lại Nghị định của Cao ủy Pháp De Jean trưng dụng nhân viên hàng không dân sự để phục vụ vận chuyển tiếp tế cứ điểm Điện Biên Phủ; 600 thợ giày hãng Etnet đình công không chịu làm khoán đóng giày cho quân viễn chinh Pháp; công nhân thuộc các hãng xây dựng không chịu lãnh khoán xây cất khám Chí Hòa; công nhân hãng FACI và SIMAC vì không chịu chế tạo lựu đạn và đạn cho Pháp nên bị đem bắn 25 người… Trong giới tiểu thương, phong trào đấu tranh của phụ nữ cũng phát triển rất mạnh. Nữ tiểu thương chợ Bến Thành và nhiều chợ khác tổ chức hàng trăm cuộc đấu tranh để phản đối tăng thuế, chống vơ vét cướp bóc. Hình thức đấu tranh


- 270 - của các bà các chị là bãi thị. Ngay từ ngày 23/9/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, chị em tiểu thương và thương gia Sài Gòn - Chợ Lớn đã đồng loạt bãi thị, đình chỉ mọi sinh hoạt chợ búa, không mở cửa hàng. Một số chuẩn bị tản cư ra khỏi thành phố, triệt phá các đường tiếp tế lương thực cho Pháp. Ngày 3/8/1946, chị em tiểu thương bãi chợ phản đối thực dân Pháp triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương ở Đà Lạt. Ngày 19/8/1946, kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, giới tiểu thương Sài Gòn và các tỉnh bãi thị, cùng với đồng bào các giới tham gia mít tinh chống phái đoàn Pháp phá hoại đàm phán ở Fontainebleau. Đầu năm 1949, phối hợp với các cuộc đình công của công nhân, phụ nữ tiểu thương 36 chợ trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định đấu tranh đòi giảm tiền chỗ, giảm thuế môn bài. Ngày 24/4/1949, chị em tiểu thương cũng bãi thị trong 2 giờ để phản đối chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Ngày 12/1/1950, chị em nghỉ một buổi chợ để cùng các giới đồng bào tham dự đám tang Trần Văn Ơn. Có thể nói, phụ nữ tiểu thương tuy buôn bán vất vả và bận bịu, nhưng đã được tập hợp rất nhanh chóng, tích cực hưởng ứng các cuộc đấu tranh chính trị lớn của thành phố để thể hiện quan điểm mạnh mẽ về các vấn đề của dân tộc. Để vận động phụ nữ tiểu thương, các cán bộ cách mạng được tổ chức phân công xâm nhập vào các xóm lao động, các khu chợ, tìm hiểu đời sống của chị em và giác ngộ những quần chúng yêu nước. Hồi ký của bà Nguyễn Thị Thanh viết: “… tôi chuyển sang bán dạo, xách túi đựng vài cây hàng Mỹ A đi chào hàng, để tiện việc tiếp xúc với các cơ sở. Ngày nào tôi cũng có mặt ở các chợ để kịp thời nắm tình hình, tìm ra những mâu thuẫn hằng ngày giữa địch và quần chúng để phát động đấu tranh. Nhờ vậy ở mỗi chợ đều diễn ra những cuộc đấu


- 271 - tranh lẻ tẻ nhưng thường xuyên liên tục. Hôm nay, chợ Bến Thành đấu tranh chống thuế hoa chi, chợ Cầu Ông Lãnh đòi điện, nước, chợ Thái Bình chống phạt vạ. Hôm khác, tất cả các chợ đồng loạt chống thuế môn bài quá nặng. Kêu nài tại chỗ không được, chị em tiểu thương làm đơn kiến nghị đưa lên tòa Đô chính, Tổng Liên đoàn Lao động và Tổng Liên đoàn Lao công nhờ can thiệp với Đô trưởng giải quyết. Tôi cùng đi với chị em để quan sát, dò xét thái độ của chính quyền và những người lãnh đạo của Tổng Liên đoàn, hướng dẫn chị em nâng cao thêm hoặc hạ bớt các yêu sách, khẩu hiệu đấu tranh để giành thắng lợi… Từ những cuộc đấu tranh lẻ tẻ ở từng chợ, phong trào lan rộng ra khắp các chợ, hình thành phong trào của 36 chợ trong đô thành”(1). Hồi ký của bà Thái Thị Nhạn hoạt động ở Sài Gòn trong giai đoạn 1945 - 1954 viết: “Được điều về Sài Gòn, tức là tôi được bố trí hoạt động hợp pháp ngay trong lòng địch… Từ đó, tôi sống bằng nghề buôn bán tại chợ Phú Nhuận. Vốn là người lao động nên tôi đã hòa nhập vào bà con lao động nghèo ở thành thị rất nhanh. Hằng ngày, tôi tận tình giúp đỡ chị em buôn bán gặp khó khăn, túng thiếu, nên dần dần tôi được chị em trong chợ cảm mến và tín nhiệm… Tôi đã phân tích cho chị em thấy được vì sao mình làm quần quật suốt ngày suốt tháng mà vẫn bị thiếu thốn, đói khổ, bị đối xử bất công… Chỉ có con đường đoàn kết lại đấu tranh để đòi quyền sống, quyền tự do của con người. Từng bước tôi nâng cao về lòng yêu nước, về ý thức cách mạng trong chị em và dần dần đưa chị em vào tổ chức của ta thông qua Hội Phụ nữ Cứu quốc”(2). 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 149 - 150. 2. Hàn Song Thanh (ghi), Một bài học một cuộc đời, tr. 83 - 84.


- 272 - Ở các vùng ven Sài Gòn, phụ nữ tham gia phá hoại đường giao thông, cắt đứt các tuyến đường hành quân của địch. Phụ nữ Gia Định phá con đường số 5 (xã Bình Lý - Tân Mỹ); phụ nữ ở vùng Rừng Sác đắp cản tàu giặc, để ngăn chặn việc thực dân Pháp lợi dụng điều kiện địa lý nhiều sông ngòi, kênh rạch tấn công ta bằng đường thủy… Nam giới nông thôn đa phần đã đi chiến trận, vì vậy rất nhiều công việc nặng nề do phụ nữ đảm nhận. Ban ngày các bà, các chị làm nông, ban đêm có tổ tăng gia sản xuất, có tổ bí mật phá đường, đắp vật cản. Các tổ thông tin tuyên truyền thời đó còn phát đi bài thơ ca ngợi cô du kích Củ Chi tham gia phá đường: Em là du kích Củ Chi Em xách ki cuốc, em đi phá đường. Phá cho lộ biến thành mương Phá cho cầu sập hết đường Tây đi. Hiên ngang xách cuốc ra về Em cười lũ giặc có xe mà hèn. (Bài ca phá đường - Lê Ngọc Huy, 1947) c. Đấu tranh trong tù Số lượng nhà tù tăng lên nhanh chóng theo tiến trình thực dân Pháp tiến hành mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược tại Việt Nam. Nhà tù là một chiến trường đặc biệt, nơi cuộc đấu tranh diễn ra từng ngày từng giờ, một cách vô cùng khốc liệt, dai dẳng. Trong sự tàn bạo của ngục tù, ý chí, phẩm giá của những chiến sĩ cách mạng, những nữ tù nhân cách mạng càng tỏa sáng, bất khuất, kiên cường. Từ năm 1941 - 1944, tại đảo Phú Quốc, Pháp đã lập 3 trại tù, giam cầm khoảng 1.000 tù nhân. Từ năm 1953, tại đây


- 273 - Pháp tái lập Trại giam tù binh Căng Cây Dừa (Trại giam Cây Dừa) lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, diện tích khoảng 40ha, giam giữ các chiến sĩ, cán bộ kháng chiến cả ba miền Bắc, Trung, Nam, lúc đông nhất lên đến 14.000 tù binh. Trại giam này được gọi là “Địa ngục trần gian”, nơi Pháp sử dụng mọi thủ đoạn thâm độc và tàn bạo với hàng chục kiểu tra tấn dã man hòng khuất phục ý chí chiến đấu của các chiến sĩ cách mạng. Trại giam này chấm dứt hoạt động năm 1957, nhưng năm 1967 lại được tiếp tục xây dựng lại, duy trì giam giữ, tra tấn tàn bạo với tên gọi Trại giam Tù binh Cộng sản Việt Nam/ Phú Quốc. “Địa ngục trần gian” còn là tên gọi của nhà tù Côn Đảo, do Thống đốc Nam Kỳ Bonard ký quyết định thành lập năm 1862. Đây là một hệ thống nhà tù với nhiều khu vực biệt giam, chuồng cọp, khám lớn (phòng giam lớn), hầm đá biệt giam, khám đặc biệt, hầm xay lúa và khu lao động khổ sai đập đá. Nơi đây, nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh… cho đến những nhà cách mạng nổi tiếng như Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng… từng bị giam giữ. Đặc biệt, nhà tù Côn Đảo có một khu biệt giam, giam giữ riêng và khắc nghiệt các nữ tù nhân cách mạng. Họ bị xiềng xích và tra tấn tàn bạo cho đến chết. Chị Võ Thị Sáu, người con gái miền đất đỏ sinh năm 1933, đã bị giam ở Côn Đảo. Ý chí chiến đấu kiên cường bất khuất trước kẻ thù và khí phách của chị Võ Thị Sáu đã gây xúc động cho nhiều người, nhiều tầng lớp, kể cả những người bên kia chiến tuyến. Chị bị xử bắn tại Côn Đảo năm 1952, cho đến nay, ngôi mộ của chị ở nghĩa trang Hàng Dương, Côn Đảo, vẫn là một địa chỉ đỏ rực rỡ truyền thống đấu tranh cách mạng, và cũng là một địa chỉ tâm linh cho hàng vạn đồng bào hành hương. Chế độ


- 274 - tù đày dã man tàn bạo tại các “địa ngục trần gian” đã giết dần mòn, đày đọa tra tấn thể xác nhưng đã không bóp nghẹt được tinh thần tranh đấu, chí khí, phẩm giá anh hùng của chị em phụ nữ. Sài Gòn trước năm 1945 đã có những nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt: Khám Lớn Sài Gòn, khám Thủ Đức, khám Hạnh Thông Tây. Khoảng năm 1950, Khám Lớn Sài Gòn ngày càng đông tù nhân, có tình trạng quá tải. “Ở Khám Lớn Sài Gòn, cuối năm 1945, mới có hơn chục người bị giam ở khám 4 - khám chuyên biệt cho nữ; nhưng từ năm 1946 trở đi, tù nữ đã tới mấy trăm người”(1). Hơn nữa, với vị trí nằm ngay trung tâm thành phố, nơi nhiều phong trào đấu tranh công khai trong cao trào năm 1950 thường xuyên tác động đến tâm lý tù nhân, thực dân Pháp lo sợ khó kiểm soát. Vì vậy, Pháp chủ trương dời phần lớn tù nhân về khám Chí Hòa - một nhà tù kiên cố do phát xít Nhật xây dựng trước đây. Pháp tu sửa và xây thêm để hoàn chỉnh khám Chí Hòa theo không gian hình bát giác. “Ngay trung tâm khám, một chòi canh cao ngất, có thể quan sát khắp các phòng giam. Mỗi cạnh của bát quái trận đồ là một khu, lưng xây bít đưa ra phía ngoài, bề mặt toàn là song sắt nhìn thẳng vào điểm trung tâm. Từ điểm trung tâm lính gác có thể kiểm soát tất cả cùng một lúc tám khu giam tù… Nếu tính từ cửa đầu tiên vào tới mỗi phòng, người tù phải đi qua 10 lần cửa sắt”(2). Trong khoảng từ năm 1951 - 1952, gần như tất cả tù nhân nữ từ Khám Lớn Sài Gòn bị dời qua khám Chí Hòa. Tại đây, thực dân Pháp sử dụng cai tù Paul Hiền (biệt danh Cọp Xám) đàn áp tù nhân. Ngoài các trận tra tấn, thì 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 165. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Nxb. Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 80, 81.


- 275 - trong sinh hoạt chung, để “đánh phủ đầu”, dập tắt khí thế đấu tranh từng có tại Khám Lớn Sài Gòn, Paul Hiền khủng bố tù nhân nữ bằng nhiều biện pháp: chỉ phát một lon nước mỗi ngày, kể cả lúc chị em hành kinh; hạn chế tắm rửa; tịch thu tất cả áo quần, đồ đạc sinh hoạt, chỉ chừa hai cái lược; vài ngày lại vừa lùa tù nhân nam trần truồng chạy ngang qua phòng giam nữ, vừa quất roi gân bò túi bụi để sỉ nhục tù nhân… Tuy vậy, trong các trại giam của thành phố, nổi tiếng dữ dằn nhất là trại Hạnh Thông Tây - nơi giam giữ tù nhân của cả nước. Vốn đây là kho hậu cần của Pháp, nằm giữa đồng không mông quạnh. Khám Hạnh Thông Tây gồm ba trại tù nam nằm cùng một dãy cách nhau bởi nhiều lớp rào kẽm gai, đối diện với một trại tù nữ cũng rào kẽm gai chằng chịt. Từ kho hậu cần quân đội cải biến thành nhà lao, do đó nhà tù Hạnh Thông Tây không đủ tiện nghi tối thiểu cho việc ăn ở. Gạo nước, củi đuốc, thức ăn đều phải đem từ nơi khác đến, chất lượng rất tệ. Xung quanh trại là cỏ dại um tùm, đầy rẫy muỗi mòng. Từ trại giam Thủ Đức, thực dân Pháp lần đầu đưa về đây 100 tù nhân nữ, rồi sau đó tiếp tục chuyển tù từ các nơi khác đến, tổng số tù nhân lên đến khoảng 1.000 người. “Năm 1953, tính chung cả tù nam và tù nữ tại Hạnh Thông Tây đã lên đến hơn 6.000 người”(1). Cùng với khám Chí Hòa, khám Hạnh Thông Tây, thực dân Pháp tiếp tục giam giữ tù nữ ở trại Thủ Đức, Khám Lớn Sài Gòn, tuy nhiên số lượng không nhiều. Đến tháng 9/1953, để chia tách phong trào đấu tranh của nữ tù nhân với tù nam các khám, ngụy quyền dùng biện pháp “chia để trị”, chuyển toàn bộ tù nhân nữ đến trại giam Cap Saint Jacques (Vũng 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 107.


- 276 - Tàu). “Tổng số tù nữ đi chuyến này hơn 800 người”(1). “Tháng 12/1953, Pháp đưa đến thêm khoảng 300 chị em từ miền Bắc vào, trong đó có 2 chị người Hoa”(2). Thực dân Pháp chọn Vũng Tàu thành nơi tập trung giam giữ nữ tù nhân cả nước vì vị trí địa lý rất thuận lợi và an toàn: chỉ có một con đường độc đạo, xung quanh là biển, tù nhân khó lòng vượt ngục. Ở đây, thực dân dùng tù nam án nhẹ để quản trị tù nữ, tung tin đồn thất thiệt để chia rẽ lực lượng tù nữ, chiêu dụ, khống chế, lấy tù trị tù, lấy tù nuôi tù… Sau nhiều năm hoạt động đấu tranh trong tù, đến giai đoạn này, dấu ấn phát triển quan trọng nhất trên mặt trận này là phụ nữ đã tập hợp thành lực lượng, hình thành mạng lưới liên lạc và có ban chỉ huy tổ chức tranh đấu. Chị em tù chính trị chủ động phối hợp với tù nam để đẩy mạnh phong trào đấu tranh. Ở Khám Lớn Sài Gòn, đại diện của tù nữ khoảng năm 1947 là bà Sáu Kim Nguyên, được tín nhiệm về tài tổ chức và khả năng viết tài liệu chính trị. Dưới ách tù ngục, trong điều kiện bị khủng bố, đàn áp, chia cách khó liên lạc với nhau, bà vẫn tổ chức sinh hoạt trong tù có trật tự: thể dục buổi sáng, chào cờ, hát quốc ca, sau khi ăn cơm sáng thì tất cả vào học. Chị em tổ chức 5 lớp học, từ lớp vỡ lòng đến lớp 4. Ở khám Chí Hòa, bà Sáu Kim Nguyên tiếp tục trở thành cán bộ cốt cán lãnh đạo đấu tranh, cùng với các nữ tù khác: Lan Mê Linh, Sáu Đắc, Cả Trâm, Châu Sa (tức bà Nguyễn Thị Bình), Ba Đài… Hệ thống ban chỉ huy Liên đoàn tù nhân 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 108. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 113.


- 277 - lãnh đạo toàn khám. Các phòng đều có đại diện tham gia ban trật tự, y tế, tuyên truyền, hòa giải… Trước năm 1952, ở khám Chí Hòa đã có Đảng ủy nhà lao, mỗi phòng có chi bộ, kết nạp đảng viên trong tù đúng theo như điều lệ. Đến giữa năm 1952, theo chỉ đạo của Thành ủy, Đảng ủy nhà lao và các chi bộ giải tán, thay vào đó là tổ chức “Nhóm tự học” mang tính quần chúng rộng rãi và sinh hoạt công khai, thoải mái hơn. “Nhóm tự học” sinh hoạt, học tập theo nội quy do tập thể thông qua, kỷ luật nội bộ chặt chẽ. Có thể nói, hệ thống tổ chức đấu tranh ở khám Chí Hòa những năm này đã phát triển bài bản. Trong thời gian từ năm 1952 đến năm 1954, để đảm bảo tổ chức này, các nữ tù phải đấu tranh bảo vệ và giữ vững đường dây liên lạc bất chấp bị đày ải, đánh đập. Đường dây liên lạc được tổ chức theo hai hướng: một là liên lạc giữa các phòng giam, hướng còn lại là liên lạc từ trại giam với tổ chức bên ngoài. Cai tù không ngừng rình mò, chỉ điểm phá liên lạc trong nội bộ trại, khám xét phòng, tịch thu dụng cụ và đồ cá nhân của tù nữ, tra tấn, cắt quyền lợi… Nhưng bể đường dây này chị em lập ra đường dây khác. Ở nhà tù Hạnh Thông Tây, chị em hình thành đội ngũ ngay từ lúc nhập trại. Tập thể nữ tù bầu ra Ban đại diện gồm bà Nguyễn Thị Thanh và một số chị em khác, vừa đối phó với cai tù, vừa lãnh đạo sinh hoạt và đấu tranh. Mỗi tỉnh cử một đồng chí chịu trách nhiệm trong ban đại diện. Toàn trại tổ chức thành các ban, các đội có nhiệm vụ rõ ràng, quan trọng nhất là nhà bếp, nhà bàn và đội làm cọt-vê (đội lượm củi, hái rau mang về nấu cải thiện, đồng thời liên lạc với bên ngoài). Ngoài ra, tù nhân nữ còn chủ động tổ chức thêm các ban trật tự, giáo dục, y tế, văn nghệ; tổ may, đan, thêu, vá…, buộc quản lý tù phải chấp nhận.


- 278 - Riêng ở tù Cap Saint Jacques, tù nhân nữ chủ động dựa vào công pháp quốc tế Genève về tù binh, đòi quyền bầu cử ban đại diện tù nữ để trực tiếp làm việc với nhà cầm quyền, đồng thời chuẩn bị danh sách phân công các đồng chí công khai trực diện đảm trách nhiệm vụ ở các ban: Ban đại diện, ban trật tự, ban vệ sinh, y tế, nhà bếp, đan, may, thêu, văn nghệ, lao động… Cuộc bầu cử toàn trại diễn ra chỉ hai ngày sau khi 800 tù nữ nhập trại. Ban đại diện được bầu gồm đồng chí Nhơn, Sáu Đây, Năm Tròn. Sau đó, khi có hiệp ước Trung Giã quy định vấn đề tù binh, liên đoàn tù nhân lấy đó làm cơ sở pháp lý để đưa ra những yêu sách mới phù hợp với tình hình. Được tập hợp lực lượng, được tổ chức đấu tranh bài bản, nên trong giai đoạn 1945 - 1954, ở tất cả các trại giam, phong trào đấu tranh của nữ tù nhân đều phát triển mạnh mẽ. Hoạt động thường xuyên nhất là đấu tranh chống đàn áp và đòi quyền lợi, từ những nhu cầu sinh hoạt nhỏ nhất như giọt nước, manh chiếu, hạt cơm, thậm chí là nắng trời, không khí. Hình thức đấu tranh thường xuyên nhất là tuyệt thực. Ở Khám Lớn Sài Gòn, ngày 12/3/1946, các tù chính trị nữ đấu tranh đòi bọn “chúa ngục” Pháp phải giam riêng tù thường phạm và tù chính trị. Cuộc đấu tranh diễn ra mạnh mẽ, không khoan nhượng, buộc quản lý tù phải chấp nhận. Từ đó, tù chính trị và tù thường phạm được giam trong các phòng khác nhau. Năm 1950, ở khám Chí Hòa, ngay khi từ Khám Lớn Sài Gòn vừa chuyển đến, các chị đã phát động đấu tranh tuyệt thực để đòi nhà tù phải trả lại toàn bộ quần áo, đồ đạc. Bọn cai tù nhượng bộ, khiến chị em tự tin với thắng lợi ban đầu. Sau đó, tiếp tục có hai cuộc đấu tranh tuyệt thực do liên đoàn


- 279 - tù nhân chủ trương. Đầu năm 1951, toàn khám Chí Hòa, trong đó có tù nhân nữ tuyệt thực dài ngày, đòi các quyền: tù nhân được đi tắm, được phơi nắng, gia đình được thăm nuôi và được nhận quần áo, sách vở. “Có chị ói mửa ra máu như chị Hai Ốm, địch chở đi bệnh viện chị không đi, quyết ở lại dự đấu tranh đến cùng với tập thể. Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 9 thì thắng lợi”(1). Cuộc tuyệt thực lớn nhất diễn ra vào đầu năm 1952, kéo dài 18 ngày, riêng tù nhân nữ tuyệt thực 12 ngày, tiếp tục đòi các quyền lợi hằng ngày đã bị cai tù tìm cách cắt xén. “Sau khi cai tù thông báo nhượng bộ, chị em buộc chúng phải đưa anh Tạ Bá Tòng đại diện cho tất cả tù nhân trông thấy, đi từng phòng thông báo quyết định kết thúc bãi thực thì chị em mới chịu ăn”(2). Ở khám Hạnh Thông Tây, tháng 3/1952, nhân vụ lính gác Âu - Phi hành hung bà mẹ một chị tù đang vẫy khăn gọi con ngoài sân trại (vì khám này không cho thân nhân gặp mặt, chỉ được gởi đồ), chị em liền phát động một cuộc đấu tranh, yêu cầu: không được hành hung thân nhân người tù; cho thân nhân tù đến gần để thấy mặt con; cất trạm che nắng che mưa cho thân nhân tù chờ đợi gửi gạo, muối; cung cấp đầy đủ lương thực, thực phẩm với chất lượng tốt, củi đuốc, nước nôi và dụng cụ cho nhà bếp, nhà bàn; tù đau yếu phải được chữa trị thuốc men đầy đủ; cấp chiếu cho tù, guốc, nón, quần áo cho chị em đi làm cọt-vê; cho tù nhân nhận vải, chỉ, len của gia đình gởi vào; chống bắt tù phụ nữ làm công việc khổ sai. Số chị em trẻ, khỏe tình nguyện nằm trong đội xung kích án ngữ các mặt ngoài để cản che, bảo vệ số chị em lớn tuổi, sức 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 83. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 167.


- 280 - khỏe yếu, bệnh tật và có con. Các chị câu chặt tay nhau án binh bất động, nhất quyết không để ai bị bứt ra. Cai tù không giải quyết, chị em tuyệt thực và liên hệ với trại tù nam để hỗ trợ. Địch huy động cả tiểu đoàn lính Âu - Phi đến đàn áp bằng chó béc-giê, lựu đạn cay, xe vòi rồng xịt nước, dùi cui, báng súng…, nhưng càng bị khủng bố, các chị càng gào thét dữ dội. Sau ba ngày đói lả và bị đánh đập tàn nhẫn, lần lượt lực lượng xung kích ngã gục bất tỉnh, nhưng đồng thời quản lý tù cũng phải giải quyết yêu sách. Từ đó, cuộc sống của tù nhân được cải thiện, nhất là về sinh hoạt tinh thần. Bằng đấu tranh kiên cường, liên đoàn tù nữ chủ động tổ chức kỷ niệm các ngày lễ 1/5, Cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2/9, Nam Bộ kháng chiến, lễ tang Staline… Hằng ngày, tập thể tù nữ chào cờ công khai ngoài sân trại. Mỗi ngày, khi nhà thầu đem đồ ăn vào, đại diện tù nhân kiểm tra chất lượng và số lượng, nếu đồ ôi thiu hay thiếu thì buộc đổi lại hoặc cấp thêm. Ở tù Cap Saint Jacques, tù nhân nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ở cùng tù nữ cả nước, là các chị em đã có kinh nghiệm đấu tranh ở các khám khác trước đây. Sau khi nhập trại, chị em đưa yêu sách buộc quản lý trại giải quyết các vấn đề: cung cấp chiếu và phát mỗi người 4 mét vải; khẩu phần gấp đôi cho ngày 1/5; những người già yếu, có con nhỏ hoặc đau bệnh được miễn lao động; có khẩu phần ăn riêng cho các cháu bé; được giải trí văn nghệ hàng tuần; được cung cấp báo chí hàng ngày. Trong thời gian ở đây, chị em tù nữ còn phát động một cuộc đấu tranh chống đàn áp đặc biệt: chống “cướp máu tù nhân”. Để có thêm máu cứu quan quân Pháp bị thương trên chiến trường, Pháp chủ trương cưỡng ép tù nhân hiến máu. Ban đầu một số tù nam đã bị khống chế. Nhưng khi vận động tù nữ, không ai hưởng ứng với lý do phụ nữ yếu


- 281 - đuối, bị giam giữ lâu ngày, làm lụng vất vả, thiếu ăn, không có máu thừa, “cướp máu tù nhân” là đi ngược công pháp quốc tế. Phong trào tác động tốt đến trại nam, các anh cũng không bị cưỡng ép hiến máu nữa. Sống trong tù, bị tra tấn, bị đàn áp, đời sống sinh hoạt tối thiểu, nhưng từ rất sớm các tù chính trị nữ đã biết tập hợp nhau học tập, nâng cao trình độ. Ở khám Chí Hòa, cũng như Khám Lớn Sài Gòn trước đây, chị em tổ chức các lớp học từ thấp lên cao: lớp khai tâm, lớp vỡ lòng A, lớp vỡ lòng B. Toàn khám học theo chương trình thống nhất do Ban Bình dân học vụ Trung ương gửi xuống. Đến giờ học, tất cả các lớp trải chiếu, học sinh nằm sấp viết bài. Nhờ học tập chăm chỉ, nhiều chị em từ mù chữ đến lúc ra tù đã có trình độ cấp một, cấp hai. Ngoài học văn hóa, chị em còn tổ chức những lớp học chính trị theo tài liệu Trung ương gửi xuống, như Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, Chủ nghĩa dân chủ mới, Chính trị thường thức, Năm bước công tác, Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; cùng các tài liệu thời sự trong và ngoài nước. Tài liệu chính trị như vậy phải được viết chữ rất nhỏ trên giấy mỏng đóng thành từng cuốn sổ bằng bàn tay để dễ cất giấu. Cùng hoạt động học tập, tù nhân nữ các khám cố gắng phát hành những tờ báo của mình: tờ Cố gắng là tiếng nói của tù nữ ở Khám Lớn Sài Gòn, tờ Tin tức, tờ Tung xiềng ở khám Chí Hòa. Báo chỉ chép tay nhưng được trình bày đẹp, màu sắc, có người phụ trách chủ bút, có họa sĩ trình bày, có đặt hàng bài vở… Ngay cả trong thời gian tuyệt thực dài nhất (18 ngày tuyệt thực ở khám Chí Hòa năm 1953), chị em vẫn ra báo Tin tức đều đặn. Ngoài ra, khám Chí Hòa còn tổ chức “đài phát thanh” ở mỗi phòng giam nữ. “Đài này được phát hằng ngày và


- 282 - sau hai lần mỗi tuần. Giờ phát thanh là sau buổi cơm chiều. Nội dung của buổi phát thanh thường là các tin tức thời sự, tin nội bộ các phòng giam, chủ trương của Trung ương và Liên căn, văn nghệ, đọc báo “Phá ngục”, “Tung xiềng” do Thu Hà làm xướng ngôn viên chính và sau đó, bổ sung thêm một số chị em nữa”(1). Để nâng cao chất lượng đời sống tinh thần, tù chính trị nữ các khám tích cực tổ chức các hoạt động văn nghệ, biểu diễn sân khấu, thi thơ ca… Ở khám Chí Hòa, phong trào tự biên tự diễn rất sôi nổi. “Những buổi biểu diễn được tổ chức hằng tuần. Phông màn bằng chiếu, ghế bằng thùng rác úp xuống và thùng cơm, quần áo dán giấy bạc, có khi lấy tấm đắp kết hoa làm jupe… Có khi, tranh thủ lúc xuống sân phơi nắng, chị em diễn kịch ngay tại sân cho các phòng nam xem (lúc chưa xây khám nữ riêng). Những buổi diễn như thế các phòng nam ra bám hết ngoài song sắt để xem, kể cả lúc đó là giờ học văn hóa”(2). Đôi khi tù nhân nữ tổ chức thêu may, đan, làm hoa giấy để bán lấy tiền cho quỹ chung; hoặc tổ chức cuộc thi sáng tác thơ nhân kỷ niệm ngày 2/9. Từ năm 1951, sau những thắng lợi đấu tranh, toàn khám ăn Tết long trọng, các khám luân phiên nhau ca, hát, cử đại diện đi chúc Tết anh chị em, tổ chức văn nghệ vui chơi. Ở nhà tù Cap Saint Jacques, tuy thời gian ở tù không bao lâu, nhưng chị em đã thành lập Ban Giáo khoa và mở lớp học văn hóa, tổ chức “chiếc chiếu vàng” liên hoan hằng tuần ở mỗi phòng cho các chị em không được thăm nuôi… Vừa củng cố đời sống trong tù, chị em tù chính trị vừa có ý thức tiếp tục cuộc tranh đấu chống thực dân Pháp. Bị giặc tra tấn, chị em không khai báo, tăng cường cảnh giác 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 94. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 95.


- 283 - trước những thủ đoạn cài cắm gián điệp; chị em nung nấu ý định vượt ngục trở về chiến đấu. Giữa năm 1953, ở khám Hạnh Thông Tây, tập thể nữ tù lập phiên xử tên Nguyễn Thị Sáu - gián điệp của phòng nhì Pháp cài vào Ban Tiếp tế Quân khu 9, đã gây nhiều thiệt hại cho cách mạng và bị tòa án nhân dân tỉnh Cần Thơ kết án tử hình, nay trốn thoát trở về thành, nhưng lại bị thực dân Pháp nghi ngờ, bắt cầm tù, đưa về khám Hạnh Thông Tây. Một cuộc họp toàn thể được triệu tập dưới quyền chủ tọa của đồng chí Tám Phương và đồng chí Phạm Thị Nhơn, nhất trí xử tử hình. Bản án vừa công bố là sáu chị Mỹ, Hoa, Dung, Thanh, Huê và Tao xung phong thi hành án. Sáu chị sau đó bị đưa về Chí Hòa giam giữ và trở thành thường phạm, bị buộc tội giết người. Cũng khoảng giữa năm 1953, tổ chức cách mạng lên kế hoạch vượt ngục cho các tù chính trị có án nặng bị giam tại Khám Lớn Sài Gòn, trong đó có hai bà Đỗ Duy Liên và Châu Sa. Kế hoạch vượt ngục được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng, luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhận trách nhiệm tự lái xe vào khám đón hai bà Đỗ Duy Liên và Châu Sa. Nhưng cuối cùng dự định không thể thực hiện do thực dân Pháp vô tình điều động số lính canh ngục được quân cách mạng “cài cắm” sang trại giam khác. Còn ở trại giam Thủ Đức, giữa năm 1950, với vai trò tổ chức của nữ liên lạc viên Ban Chỉ huy Thành bộ tự vệ Quảng Thị Nguyệt cùng Trung đoàn 310, các nữ tù nhân phối hợp với Tự vệ thành đã tổ chức một cuộc vượt ngục quy mô lớn, giải thoát hơn 300 tù nhân nam nữ(1). Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết. Bên trong các nhà tù, tinh thần tù nhân có sự chuyển biến lớn. Chị em trong các khám liên lạc với bên ngoài để có được văn bản Hiệp định, 1. Xem Phụ lục số 13, Cuộc vượt ngục Thủ Đức năm 1950.


- 284 - học tập, phổ biến chủ trương cho nhau nghe. Hiệp định Genève quy định việc trao trả tù binh giữa quân đội cách mạng và quân đội Pháp. Ở khám Chí Hòa, lập tức Liên đoàn tù nhân ra chủ trương: để tránh tình trạng địch gian dối, các phòng giam phải lập danh sách tù thật đầy đủ, phải gặp giám đốc nhà tù để đối chiếu; nhiều người không được đưa vào danh sách trao trả thì phải đấu tranh để bổ sung. Tháng 8/1954, Pháp đưa hết chị em từ khám Chí Hòa lên giam ở Thủ Đức, kéo dài không chịu trao trả tù; chị em lại đấu tranh tuyệt thực 2 ngày. Ngày 19/9/1954, thực dân Pháp nhượng bộ, trao trả các tù nhân nữ. Ở khám Hạnh Thông Tây và khám Cap Saint Jacques, chị em tù bí mật chuẩn bị cờ, băng, khẩu hiệu, mua sắm thuốc men và sữa dự phòng chuẩn bị cho ngày được trao trả. Cuối tháng 10/1954, từ khám Cap Saint Jacques, 1.000 tù nhân nữ lên tàu về Cần Thơ. “Vừa ra đến xe, theo sắp xếp trước, chị em đồng loạt giương cờ, băng, biểu ngữ rợp trời… Đồng bào hai bên đường túa ra xem, hoan hô vang dậy. Bà con lập tức tổ chức ngay cuộc quyên góp và gởi đến cho chị em tất cả những gì có thể gởi được lúc đó như quà bánh, đường, sữa, trái cây… Giặc bị bất ngờ, không thể nào cản ngăn lại kịp. Chúng trố mắt ngạc nhiên. Có thằng đã hỏi: Họ làm những thứ này lúc nào mà nhiều đến thế? Xe nào cũng có cờ đỏ sao vàng khổ 0m90 x 1m20 và băng đỏ với những hàng biểu ngữ khẩu hiệu dài 3m, tất cả toàn màu đỏ. Xe chuyển bánh. Cờ băng rực đỏ cả một góc trời…”(1). d. Đấu tranh vũ trang Ở khắp nơi trên vùng đất Nam Bộ, từ khi cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp bắt đầu, đâu đâu cũng có những phụ nữ can trường đứng vào hàng ngũ tiên phong đối mặt với quân 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ chủ biên, Hàn Song Thanh ghi (1986), Những ngày tù ngục, Sđd, tr. 116 - 117.


- 285 - thù, hăng hái chiến đấu. Họ được tập hợp trong các đơn vị vũ trang chính quy hoặc dân quân du kích, có người là chỉ huy lực lượng vũ trang; cũng bắt đầu có những đơn vị tác chiến mà toàn bộ thành viên là nữ. Từ năm 1946, trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, quân đội cách mạng có 6 ban công tác thành, 16 khu và đội tự vệ (lực lượng Tự vệ thành), hàng chục đội công an xung phong, ban công tác đặc biệt - một hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang khá mạnh và phát triển rộng khắp. Riêng ở vùng ven đô, do yêu cầu bảo vệ hành lang liên lạc từ thành phố ra vùng ven và ngược lại, yểm trợ cho hoạt động ở nội đô, các bộ phận vũ trang vùng ven đô của 6 ban công tác phối hợp với nhau lập “Liên tác chiến đấu quân”, hoạt động chủ yếu là trừ gian. Tháng 11/1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ đổi các Ban công tác thành, Tự vệ thành… thành các đại đội du kích (toàn Sài Gòn - Chợ Lớn có 10 đại đội du kích). “Tính đến 8/1950, lực lượng du kích tập trung ở đặc khu Sài Gòn là 1.000 đội viên dân quân, ở Gia Định là 236 đội viên du kích và 53.689 đội viên tự vệ, ở Chợ Lớn là 15.201 đội viên tự vệ, 500 đội viên dân quân”(1). Phụ nữ tham gia hầu hết các lực lượng vũ trang, từ dân quân, du kích, chiến sĩ tự vệ thành, chiến sĩ biệt động trong các ban công tác thành… Một trong những chiến công vang dội sớm nhất của nữ giới trên mặt trận vũ trang là trận đánh mở màn của lực lượng biệt động (Ban Công tác số 1) do chiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Lan (Lan Mê Linh) thực hiện, ám sát Hiền Sĩ - chủ bút tờ báo phản động Phục hưng. Sau một tuần theo dõi đối tượng, ngày 12/3/1946, nhân cơ hội Hiền Sĩ và cận vệ đi bộ từ nhà riêng đến tòa soạn, chị Lan quyết định ra tay. Thấy chị Lan ngồi ở 1. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954), Sđd, tr. 116.


- 286 - ghế đá đầu đường Bonnard (Lê Lợi ngày nay), vốn quen biết, Hiền Sĩ quay lại cười. Không ngờ, hắn vừa đi qua vài bước thì bị chị Lan bắn liên tiếp bốn phát súng vào lưng. Đến phát thứ 5, súng bị kẹt đạn, hai cận vệ của Hiền Sĩ và một xe hiến binh bên đường ập tới. Biết không kịp thoát thân, chị vén tà áo dài, bình tĩnh bước lên xe hiến binh. Tại bốt Catinat, sau 6 tháng tra tấn mà không khai thác được gì, Pháp xử chị ở Tòa án binh và kết án chung thân khổ sai. Năm đó chị Lan mới 17 tuổi, vừa học xong khóa học ở trường Quân chính Khu 7. Ở tù từ năm 1946 đến 1954, chị được trao trả tù binh, tập kết ra miền Bắc. Dù chỉ tiêu diệt được 1 tên Việt gian, nhưng chiến công của chị Lan Mê Linh gây tiếng vang rất lớn lúc đó, khiến giới bồi bút phản động rúng động, sợ hãi. Nỗi bàng hoàng vì một nữ sinh 17 tuổi trong tà áo dài lại chính là chiến sĩ biệt động, dám ám sát Việt gian giữa ban ngày, khiến bọn Việt gian hốt hoảng và thực dân Pháp phải lập tức tăng cường các biện pháp an ninh. Trong khi đó, hoạt động nội đô ban đêm, một nữ chiến sĩ khác trong Ban Công tác thành số 6 cũng làm giặc khiếp sợ không kém. Chị Nguyễn Thị Thăng hoạt động cách mạng ở vùng Hòa Hưng. Hằng đêm chị vận động các chị em khác trong nhóm của mình vờ giao du với lính Pháp, lính ngụy, rồi dụ chúng đi chơi, tìm cơ hội chém đầu. Có đêm, chị em chém chết 4 thằng, không kịp chôn, phải liệng xuống ống cống. Những tên các chị giết hầu hết là ác ôn, đồng bào gọi chúng là “lính mặt gạch(1)”(2). Hiện nay, con dao mà chị Thăng dùng để chém giặc vẫn đang trưng bày ở Khu truyền thống lực lượng 1. Có thể là “rạch” như cách phát âm r-g vùng Nam Bộ, do những vết sẹo đặc trưng trên mặt bọn lính đánh thuê này. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 169.


- 287 - vũ trang thành phố. Đó là cây dao phát lưỡi hẹp, dài, đã đen xỉn, cán cuốn dây đồng, vốn được chị sắm để làm việc trong nhà, thế mà chiến tranh đã đem đến cho nó một “số phận” thật khác biệt. Bằng con dao này, chị Thăng đã chém chết 13 lính Âu Phi ngay trong lòng thành phố. Năm 1946, khi mới thành lập, lực lượng Tự vệ thành của Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ có 8 khu tự vệ (lực lượng tự vệ tổ chức theo địa bàn dân cư, gồm khu Võ Nhai, Đình Cả, Bắc Sơn, Bạch Đằng, Lam Sơn, Tây Hồ, Hóc Môn và Lạc An) và 5 đội tự vệ (lực lượng tự vệ tổ chức theo đường phố và xí nghiệp lớn, gồm đội Lê Lợi, Trần Quốc Tuấn, Quang Trung, Ký Con, Thái Văn Lung). Vốn là đội quân vũ trang tại chỗ được xây dựng để chiến đấu trong lòng địch, lực lượng biệt động thu hút rộng rãi cả nam giới và phụ nữ, cả thiếu niên lẫn người cao tuổi trong các đô thị và vùng ven. Sau đó, để phát huy khả năng chiến đấu của phụ nữ và thiếu niên, tự vệ thành lập thêm 2 đội tự vệ nữ là Trung đội Mê Linh và Trung đội Minh Khai, lập thêm 1 đội tự vệ của thiếu niên là Trung đội Tiểu Quỷ. Trong hai trung đội tác chiến nữ của Sài Gòn - Chợ Lớn đó, Trung đội Mê Linh phụ trách chính về giao liên, Trung đội Minh Khai phụ trách chính về chiến đấu, trừ gian, do thám. Trên cơ sở nhiệm vụ được phân công, cả hai trung đội đều hoạt động ngoan cường, lập nhiều chiến công vang dội. Chị Dư Thị Lắm (tức Nguyễn Thị Hạnh) chỉ huy Trung đội Minh Khai ra quân trận đầu vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 23/3/1948. Trong trận này, chị Mạc Thị Lan cùng một nữ đội viên đã tấn công bằng lựu đạn vào rạp chiếu bóng ASAM ở Đa Kao gây thương vong cho một số lính Pháp. Ngày 30/4/1948, hai chị Bùi Thị Huệ và Nguyễn Thị Đào tiếp tục dùng lựu đạn tấn công quân Pháp ở rạp Cathay. Ngày 19/4/1951, chị Phạm


- 288 - Thị Biên đánh mìn kho dầu Xen, thiêu hủy hàng ngàn phuy xăng, diệt tiểu đội lính Âu - Phi bảo vệ. Trong nhiều trận đánh lớn nhỏ của Trung đội Minh Khai, chiến công vang dội nhất là trận đánh rạp chiếu bóng Majestic năm 1948. Majestic(1) là một trong những rạp chiếu bóng hiện đại nhất lúc bấy giờ ở Sài Gòn. Tin tình báo cho biết ngày “N” có một cuộc họp của sĩ quan hải quân Pháp tại Sài Gòn, sau cuộc họp chúng sẽ cùng đi xem phim ở rạp Majestic. Ban Chỉ huy Trung đội Minh Khai gồm chị Dư Thị Lắm và chị Nguyễn Thị Huê tức tốc báo cáo tình hình và chuẩn bị cho trận đánh. Các chị Nguyễn Thị Kim Dung, Bùi Thị Huệ, Hoàng Thị Thanh, Mạc Thị Lan (đều 15 - 16 tuổi) được phân công nghiên cứu thực địa và tập kích rạp theo kế hoạch. Tối 10/6/1948, sĩ quan hải quân Pháp xem phim Giã biệt em yêu tại rạp Majestic. Theo đúng kế hoạch, các chị Huệ, Dung, Thanh, Lan diện trang phục lộng lẫy vào rạp xem phim. Các chị giao tiếp mềm mỏng, khéo léo và vào rạp an toàn dù giặc kiểm soát gắt gao. Mỗi người thản nhiên ngồi đúng ghế đã mua sẵn… 20 giờ, đèn trong rạp tắt để chuyển từ phim phụ sang phim chính - cũng là giờ thống nhất hành động, trong nháy mắt, chị Kim Dung ngồi phía bên phải màn ảnh vung tay ném lựu đạn qua vai vào phía trong, nơi bọn sĩ quan ngồi. Cùng lúc, lựu đạn của chị Huệ và chị Thanh từ bên trái ném qua đồng loạt nổ. Ba tiếng nổ làm rung chuyển toàn bộ rạp. Thừa lúc lộn xộn, chị Thanh áo quần trắng dính máu vì bò lê dưới đất, đã thoát ra ngoài an toàn. Chị Kim Dung cũng lẫn vào đám đông chạy ra cửa, nhưng vừa ra ngoài thì cửa sắt đã đóng chặt. Cảnh sát đặc biệt miền Đông mở cuộc điều tra tại chỗ, xét hỏi từng người. Chị Kim Dung nhanh trí 1. Rạp Majestic nằm ở cuối đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi), cận kề với khách sạn Majestic, hoạt động một thời gian sau đó chuyển đổi thành nhà hàng. Hiện nay nơi đây là phòng trà Maxim’s.


- 289 - lượm được một vé khác cuối rạp, xa chỗ lựu đạn nổ. Qua vài câu xét hỏi, địch không nghi ngờ gì, cho chị ra về. Chị Lan bị một mảnh đạn nhỏ văng trúng mắt cá chân chảy máu, giả vờ khóc, ra khỏi rạp. Chị Huệ ngồi lại chỗ cũ, bị địch tình nghi và bắt đưa về bót Catinat xét hỏi cùng 50 người khác(1). Tuy thoát thân ngay lúc đó, nhưng sau khi thực dân Pháp tăng cường khủng bố ruồng bắt, đến tháng 6/1949, cả 4 chị bị bắt và bị đưa ra Tòa án binh xét xử, lãnh án chung thân hoặc khổ sai. Kết quả trận đánh này, các nữ tự vệ thành diệt 20 sĩ quan, trong đó có 2 quan năm hải quân, hơn 30 sĩ quan Pháp và sĩ quan ngụy bị thương nặng. Trận đánh đã làm chấn động dư luận Sài Gòn lẫn Paris. Tạp chí quân sự Guerilla (Du kích) của Pháp hồi đó từng mô tả về những nam nữ biệt động trong nội thành Sài Gòn: “Họ mặc thường phục, trang bị súng ngắn, dao găm, thoắt ẩn thoắt hiện, bất ngờ như chớp giật, tấn công vào câu lạc bộ sĩ quan không quân Pháp, đánh vào nơi hội họp, vui chơi giải trí, nơi làm việc của quân đội Pháp, rồi tan biến như sương mù và không dấu vết”(2). Cùng với trung đội nữ, phụ nữ cũng tham gia các trung đội khác của tự vệ thành và dự nhiều trận đánh lớn, để lại tiếng vang. Năm 1947, chị Võ Thị Nga và chị Hợp - 2 nữ chiến sĩ thuộc Trung đội Ký Con - tham gia chính trong trận đánh sòng bạc Đại THế Giới (Chợ Lớn). Đây là tụ điểm ăn chơi do Pháp xây dựng trong năm 1947 để mê hoặc dân chúng và rêu rao với thế giới rằng ở Sài Gòn, thời kỳ bình định đã qua, an ninh trật tự đã được vãn hồi. Tối 7/3/1947, Trung đội Ký 1. Lược thuật theo Câu lạc bộ Truyền thống các lực lượng vũ trang - Hội Cựu Chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh (1995), Tự vệ thành Sài Gòn - Chợ Lớn những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Quân đội nhân dân, tr. 89 - 92. 2. Nguyễn Đức Hùng (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr. 111.


- 290 - Con huy động một tiểu đội gồm 10 anh chị, mang theo 8 quả lựu đạn không sát thương. Chị Nga và chị Hợp (người Hoa mới từ Quảng Châu sang) mặc đồ xẩm (quần áo của phụ nữ Hoa), đem hai giỏ lựu đạn lọt vào trong khuôn viên sòng bạc và phân phối cho các anh trong tiểu đội. Đúng giờ quy ước, 7 quả lựu đạn gần như nổ cùng lúc, gây tiếng vang lớn. Một trái lép. Tiếng kêu cứu hoảng loạn, cả sòng bạc tan tác, các con bạc ôm đầu chạy thục mạng. Đại Thế Giới như ong vỡ tổ. Thực dân Pháp phải mất nhiều ngày để khôi phục, nhưng không nhiều người đến nữa. Trong trận thắng lớn cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp của Nam Bộ - trận đánh kho bom Phú Thọ Hòa (31/5/1954), phụ nữ cũng tham gia tác chiến. Đêm 31/5/1954, Đội đặc công 205 cử 13 chiến sĩ đặc công tiến hành trận đánh. Phối hợp với các chiến sĩ đặc công là hai chiến sĩ “nội gián” được cài sẵn trong kho bom làm cu-li và chị Nguyễn Thị Hoài - chiến sĩ đảm bảo liên lạc giữa lực lượng bên trong và bên ngoài cho đến phút chót trận đánh, nhằm kịp thời báo cáo cho đội nếu xảy ra tình huống đột biến. 3 giờ 45 phút đêm 31/5, những tiếng nổ phát ra từ kho bom Phú Thọ Hòa làm rung chuyển Sài Gòn. 9.345 tấn bom đạn các loại nổ tung, 10 triệu lít xăng dầu bị thiêu hủy, hàng trăm lính địch thiệt mạng. Ngoài các nữ chiến sĩ trong đơn vị chính quy, các binh chủng và các đơn vị kỹ thuật, thì lực lượng phụ nữ tham gia dân quân du kích rất đông, hầu hết các ban chỉ huy xã đội đều có phụ nữ tham gia chỉ huy. Từ năm 1950 - 1954, cả nước có gần 1 triệu phụ nữ tham gia dân quân du kích, thì trong đó Nam Bộ có 14 vạn(1). Người ta gọi những nữ dân quân du 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 136.


- 291 - kích của miền Nam bằng cụm từ gần gũi “tầm vông diệt giặc”, để chỉ “nôm na” rằng chị em tham gia chiến đấu bằng bất cứ thứ gì có trong tay như con dao, cái cuốc, như tầm vông, gậy gộc,… đều có thể dùng làm vũ khí tham gia chiến đấu và chiến đấu hiệu quả. Lực lượng du kích phát triển cả ở nội thành và vùng ven. Ở nội thành, ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến, phụ nữ là tiểu thương, công nhân hay học sinh sinh viên, công chức đều có thể trở thành các “nữ du kích” tham gia cản phá giặc, nhằm hạn chế phạm vi hoạt động của quân địch trong nội thành, không cho chúng mở rộng vùng chiếm đóng. Tháng 9/1945, ở phía Nam thành phố, chị em công nhân các hãng thuốc lá MIC, COTAB, Cây Điệp tập hợp thành lực lượng vũ trang có nhóm trinh sát, nhóm cứu thương, nhóm cấp dưỡng phục vụ đơn vị đóng quân tại chùa Hưng Long. Ngày 25/9/1945, chị em thành lập đoàn Phụ nữ Cứu quốc, tập quân sự, cưa cây chặn đường không cho địch tiến ra ngoài. Tháng 10/1945, ở cầu Kiệu, để cản xe chở lính của địch, khoảng hơn 500 chị em tiểu thương chợ Phú Nhuận vơ gậy gộc bao vây xe, đứng đầu gió tung cát vào quân lính. Đồng bào hai bên đường phối hợp quăng bàn ghế cản phá. Cuối cùng, địch phải quay đầu xe chạy về Tân Định. Cũng trong tháng 10/1945, tại mặt trận Tham Lương, phụ nữ tham gia tổ thám thính (chỉ huy là chị Phi Phượng) để hỗ trợ anh em du kích tấn công đồn giặc. Nhờ chị em chỉ điểm chính xác các vị trí hầm núp của địch mà anh em du kích bắn rất trúng đích, nên dù chỉ với vũ khí thô sơ (tầm vông, mã tấu, ná, tên tẩm độc, vài chục súng cũ và bộc phá) cùng lực lượng chỉ bằng nửa số quân địch, trận này anh em du kích đã làm địch hoảng sợ.


- 292 - Ở ngoại thành, lực lượng phụ nữ đóng vai trò rất tích cực, vừa xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ làm kinh tế tự túc nuôi quân, vừa trực tiếp đánh giặc. Đầu tháng 2/1946, Xứ ủy lâm thời Nam Bộ ra chỉ thị đẩy mạnh chiến tranh du kích, đánh địch ở khắp các mặt trận. Ngày 22/2/1946, một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời hiệu triệu, động viên quân dân miền Nam giữ vững và đẩy mạnh cuộc kháng chiến. Người chỉ rõ: “Kháng chiến của ta là phải toàn diện, toàn diện lâu dài, triệt để vận dụng cách đánh du kích, đánh địch khắp nơi”, “còn một tấc đất, còn một người dân thì còn chiến đấu”. Ở các huyện ngoại thành Sài Gòn, chỉ trong một thời gian ngắn, các xã đều đã tổ chức du kích, có nữ dân quân canh gác các ngả đường. Phụ nữ có gia đình gác ban ngày, phụ nữ chưa chồng con thì gác ban đêm. Khi có địch đến, chị em ra hiệu bằng tiếng mõ tre, tiếng tù và… Nhờ có phụ nữ làm tai mắt mà công tác an ninh phòng vệ ở các địa phương thời kỳ chống Pháp được đánh giá là rất tốt. Phụ nữ cũng trực tiếp tham gia đánh giặc. Tháng 3/1947, phụ nữ xã Tăng Nhơn Phú phối hợp với du kích địa phương phục kích đánh chìm 2 ghe chở lính Pháp, tổ chức vây bắt lính Pháp còn sống sót tìm đường chạy trốn. Theo tư liệu ghi lại, bà Tư Thưởng còn dùng đòn gánh đập chết một lính Pháp. Ngày 15/4/1948, quân dân Láng Le - Bàu Cò chặn đánh trận càn lớn của 3.000 quân địch (có xe cơ giới, tàu, xuồng phối hợp). Trung đội Nữ binh Chợ Lớn do bà Trương Thị Chín chỉ huy, tuy tuổi quân còn ít nhưng đã dũng cảm phối hợp với các đơn vị của Trung đoàn 308 và Trung đoàn Phạm Hồng Thái tham gia chống trận càn này, gây thiệt hại nặng nề cho địch (ước tính diệt 300 lính Pháp).


- 293 - Nổi tiếng nhất trong các nữ du kích vùng ven Sài Gòn thời kỳ này là nữ kiệt Hồ Thị Bi(1) (tên thật là Hồ Thị Hoa), người xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Bà mồ côi từ bé, thất học. Tham gia cách mạng từ năm 1936, đến năm 1945 là Đoàn phó Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Hóc Môn, rồi làm Trưởng ban tiếp tế, mà bà vẫn chưa biết chữ (mãi sau này, sau phong trào Bình dân học vụ, bà mới được “xóa mù”). Chồng đã thoát ly theo đơn vị, bà một mình nuôi 3 con nhỏ. Khi kháng chiến bắt đầu, bà tha thiết được gia nhập lực lượng trực tiếp cầm súng; nhưng cả hai lần dắt con xin rút theo đơn vị, đều bị chỉ huy từ chối. Thế là bà gửi con cho gia đình để rảnh tay làm công tác. Sữa căng nhức ngực, nước mắt đầm đìa, nhưng bà vẫn cương quyết tham gia chiến đấu. Trận đánh đầu tiên do bà chỉ huy vào ngày 12/12/1945, khi giặc đã chiếm đóng Hóc Môn, ngày ngày càn quét, giết người cướp của, bắt bớ, tra tấn. Bà tập hợp một số anh em, xin được 6 trái lựu đạn, tổ chức đánh Chợ Cà, Hóc Môn, địch chết trên một tiểu đội. Sau trận này, ông Trần Văn Trà, Tham mưu trưởng lực lượng giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm khen và thưởng bà một súng ngắn loại 7,65 ly với 24 viên đạn. Đơn vị của bà dựng căn cứ tại rỗng Ông Hồ(2), xã Thới Tứ, cách thị trấn Hóc Môn gần 3km, trong một nhà nổi ghép tạm giữa đồng. Bà con địa phương gọi đây là “động Bà Lê Sơn Thánh Mẫu”. Được bà làm gương, anh chị em du kích chịu cực rất giỏi, thường nhổ lá hẹ, rau cải, ăn cơm với mắm đồng mà chiến đấu. Bà còn vận động anh chị em làm kinh tế tự túc; ngoài việc tự nuôi quân, đơn vị mỗi tháng góp cho Trung đoàn chỉ huy từ 20.000 đến 30.000 đồng tiền Đông Dương, 1. Xem chương 1 và phụ lục Chương 1, nữ kiệt Hồ Thị Bi. 2. “Rỗng” có nghĩa là rạch. Rạch Ông Hồ thuộc Hóc Môn.


- 294 - mỗi mùa góp 1.000 giạ lúa(1). Đồng thời, bà thành lập Ban Trừ gian, hoạt động rất hiệu quả. Trước sức phát triển mạnh mẽ của đơn vị, ngày 24/4/1948, Trung tướng Nguyễn Bình ký quyết định phong bà Hồ Thị Bi là Trưởng Ban Công tác số 12, Đại đội trưởng Đại đội 2804, kiêm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 935, trực thuộc E312 Gia Định - Hóc Môn. Từ một lực lượng nhỏ bé, trừ gian diệt tề, tự lực chiến đấu, làm binh vận, cướp súng địch mà bà đã dần gầy dựng lên thành đại đội, rồi tiểu đoàn. Dù ở quy mô nào, các đơn vị vũ trang của bà cũng gây khiếp sợ cho quân thù, vừa tiến công quân địch vừa trừ gian diệt tề. Bà tập hợp đông đảo phụ nữ và thanh niên ở Hóc Môn vào trung đội biệt động làm nhiệm vụ nắm tình hình, đánh địch lấy súng, binh vận lấy súng cho cả liên quân. Đại đội của bà là lực lượng vũ trang chủ lực địa phương, chuyên đánh những trận lớn ở Hóc Môn và 6 xã xung quanh. Với những chiến công trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bà được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Ba, được phong hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Bà Hồ Thị Bi không chỉ là một nữ du kích tiêu biểu, mà còn là một trong số ít nữ tướng của Nam Bộ. Ở bà không chỉ có sự ngoan cường và tinh thần yêu nước, mà còn có cả kỷ luật thép và sự dứt khoát, sự kiên định cần có của người cầm quân. Từ góc nhìn của một nhà báo nước ngoài, Hilaire du Berrie đã viết trong cuốn sách Bối cảnh của sự phản bội, xuất bản ở Mỹ, như sau: “Lịch sử đầy rẫy những truyện về những người phụ nữ bất khuất, có người là huyền thoại, có người là có thật. Nếu muốn tìm những mẫu hổ tướng với tất cả nghị lực, 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 145.


- 295 - táo tợn và thô bạo thì Việt Nam là một xứ có mẫu người vừa tự nhiên, vừa hiện đại…”(1). Góc nhìn của một người Pháp cho thấy một phụ nữ Nam Bộ bất khuất, đáng nể sợ. Trong khi đó, hồi ký của nhiều cán bộ chiến sĩ cách mạng lại cho thấy hình ảnh một phụ nữ cũng hiền lành như ai sau khi trút bỏ vai trò nữ tướng. Có người kể, một lính Pháp sau khi bị bắt vào chiến khu, được gặp bà Hồ Thị Bi, đã bất ngờ về bà; sau đó, khi trở về hàng ngũ, được lệnh dẫn quân Pháp đến vị trí đóng quân để tấn công đơn vị của bà, người này đã kiên quyết từ chối, đến mức bị bắn chết. Con người của bà Hồ Thị Bi, có thể nói, đã không còn chỉ tiêu biểu cho một vài nét tính cách của bản thân bà, mà là một con người mang dấu ấn của một quá trình tôi luyện, trưởng thành cùng với lịch sử chiến đấu đầy thử thách khốc liệt. Bà bứt ra khỏi gia đình, chồng con để gắn mình vào cuộc chiến đấu chung. Danh xưng “nữ kiệt miền Đông” là từ góc nhìn đó. d. Hoạt động bí mật ủng hộ kháng chiến Không trực tiếp cầm súng, nhưng đa phần phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bí mật ủng hộ cuộc kháng chiến theo nhiều cách khác nhau, có người tham gia tiếp tế, làm giao liên, có người nuôi giấu chiến sĩ, lại có chị giỏi địch vận… Nhờ tất cả những hoạt động ấy mà cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ nhanh chóng hình thành một mặt trận toàn dân. Công tác giao liên, tiếp tế là một hoạt động quan trọng ghi dấu ấn của lực lượng phụ nữ Sài Gòn. Mạng lưới giao liên của các lực lượng vũ trang đa phần là phụ nữ và thiếu niên, vì đây là những đối tượng ít bị để ý. Ở nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 144.


- 296 - tổ chức giao liên của Tự vệ thành phát triển thành một mạng lưới dày, tổ chức khoa học, bí mật, hoạt động cả ngày lẫn đêm, có đường dây “hiện hành” và đường dây “dự bị”. Những giao liên đầu tiên trong Ban Chỉ huy Tự vệ thành Sài Gòn là các bà Huỳnh Thị Bông, Võ Thị Hồng Thắm, Nguyễn Thị Huệ, Bùi Thị Liễu, được đào tạo ở Trường Quân chính Khu 7. Sau đó, cùng sự phát triển của các đơn vị vũ trang, Tự vệ thành tổ chức riêng một trung đội nữ chuyên trách hoạt động giao liên là Trung đội Mê Linh, đội trưởng là bà Đoàn Thị Hoàng Mỹ, bí danh Nguyễn Thị Thuận (tức Mười Thuận). Bà Mười Thuận đã phát huy khả năng tổ chức đường dây liên lạc, tự mình đi nghiên cứu điểm đặt trạm, bố trí, động viên chị em giữ trạm. Khi làm nhiệm vụ truyền tin, chị em giao liên phần lớn đi bộ tự nhiên để chủ động tránh địch, như nông dân đi chợ về, người đi buôn, học sinh đi học… Đa phần trong số họ là những phụ nữ thành phố chân yếu tay mềm, nhưng nay có thể thường xuyên đi bộ liên tục hàng ngày, băng đồng, vượt trảng, bất chấp trời mưa hay nắng. Trong khi đó, thành tích của lực lượng nữ giao liên bao giờ cũng thầm lặng, ngay cả sự hy sinh cũng thầm lặng. Nhiệm vụ của giao liên không chỉ là truyền tin, chuyển công văn, mệnh lệnh, mà còn vận chuyển quân trang, lương thực, thực phẩm từ nội thành ra căn cứ; vận chuyển vũ khí từ ngoại thành về nội thành phục vụ chiến đấu. Chính lực lượng nữ giao liên của thành phố đã vận chuyển một khối lượng lớn đồng do đồng bào nội thành ủng hộ kháng chiến qua “Tuần lễ đồng” để chuyển ra căn cứ sản xuất vũ khí. Khi Tự vệ thành chủ trương rút ra căn cứ xây dựng lực lượng vũ trang tập trung (Tiểu đoàn Hoàng Văn Thụ), cũng chính các nữ giao liên như bà Dư Thị Lắm, Lã Thị Chuyên, Lê Thị Nghiêm, Lê Thị Ngọc Hoa, Nguyễn Thị Tâm (Tư Xung Phong), Lê Thị Sáu (Chín Biếc - Anh hùng Lực


- 297 - lượng Vũ trang Nhân dân), Nguyễn Thị Sự (Ma Thị Nhen), Trần Thị Hai (Năm Lộc)… đã chuyên chở nhiều chuyến vũ khí súng đạn ra căn cứ. Nhiệm vụ nguy hiểm, mỗi chuyến giao liên chỉ chuyển được từ 3 đến 5 khẩu súng, được ngụy trang kỹ càng giữa các lớp ván trên xe hoặc ngụy trang đạn dược trong các hũ mắm để an toàn qua các đồn bốt giặc. Trên tuyến đường ngược lại để chuyển vũ khí sản xuất được từ căn cứ phục vụ các trận đánh trong nội thành, có lần các chị Võ Thị Nga, Quảng Thị Mùi, Dư Thị Lắm thay nhau gánh 60 trái lựu đạn từ căn cứ của bộ đội Bình Xuyên (huyện Nhà Bè) về đường Nancy (Trần Hưng Đạo ngày nay). Nhờ số vũ khí này mà Tự vệ thành đủ điều kiện chuẩn bị trận đánh ngày 22/12/1946. Các đơn vị kháng chiến ở ngoại thành cũng phát triển lực lượng giao liên mà chủ đạo là phụ nữ. Ở Gò Vấp, có bà Nguyễn Thị Điệp là liên lạc viên của Chi đội 16 và báo Cảm tử. Bà có nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn dược về chiến khu và đưa báo chí, tài liệu cách mạng về phân phát ở nội thành. Vốn làm công tác địch vận giỏi, có vụ, bà sử dụng cả xe nhà binh Pháp ngụy trang để chở vũ khí, máy móc. Cuối năm 1947, giữa lúc đang giao súng, bà bị địch bắt. Chúng vừa tra tấn, vừa dụ dỗ, nếu khai báo ai là Việt Minh sẽ được thả và được thưởng nhiều tiền. Bà khẳng khái trả lời: Ở đây ai cũng là Việt Minh, đến con chó cũng làm Việt Minh! Chúng bắn bà ở cánh đồng Mỏ Quạ, phía sau sân bay Tân Sơn Nhất, khi mới 17 tuổi. Ở Ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Gia Định có một tổ liên lạc thành, mà những cán bộ nòng cốt đều là phụ nữ: chị Hai Già, chị Ba Già, chị Mai, chị Hoa, chị Huyền, chị Chắn, chị Nga… Nhờ các hoạt động mưu trí, dũng cảm để qua mặt lính


- 298 - địch và mật thám chỉ điểm ở các bót Hàng Keo (Bà Chiểu), An Thái (Hạnh Thông Tây), Tân Thới Hiệp (Gò Vấp), Quang Trung, Thạnh Mỹ Tây (Hóc Môn), cầu Bình Lợi, Bình Phước, Hiệp Bình (Thủ Đức)…, các nữ liên lạc viên chuyển hàng tấn máy móc, chữ chì, vật liệu thuốc men, văn phòng phẩm để Ty có nhà in, xưởng giấy, bàn đá in litho; đồng thời chuyển tải các ấn phẩm, truyền đơn, tài liệu, sách báo và phân phối, phát hành vào trong lòng địch, đưa đến các cơ sở cách mạng trong thành phố. Trong tổ này, bà Nguyễn Thị Mai cũng bị địch bắt và đem bắn ở cầu Chữ Y khi đang làm nhiệm vụ lúc bà chưa qua tuổi đôi mươi. Còn bà Hai Già (tên thật là Hồ Thị Lai) thì lúc gia nhập tổ giao liên mới có 24 tuổi, nhưng đã “già” nhất trong tập thể, nên được gọi là Hai Già. Suốt những năm từ 1946 đến khi có Hiệp định Genève tháng 7/1954, bà Hai Già chỉ có một chức vụ duy nhất là nhân viên liên lạc thành, mà khối lượng công việc lại rất lớn, rất nặng nề, bao nhiêu tài liệu phương tiện quan trọng của cách mạng phải được đưa đi đưa đến an toàn. Với sự quen thuộc tình hình, sự gan dạ và mưu trí của mình, bà đã hoàn thành nhiệm vụ. “Anh Hai Có, hồi năm 1950 là Phó trưởng Ty nay gặp anh em cũ vẫn hỏi “Không hiểu nổi hồi đó bằng kiểu cách gì, tổ chức thế nào mà chị Hai Già làm được khối lượng công việc khổng lồ như thế, thật là tài giỏi, thông minh, ly kỳ”…”(1). Các nữ giao liên của các ban tuyên truyền ngoại thành cũng chính là lực lượng đưa đón hàng trăm công nhân, viên chức, học sinh, trí thức, nhân sĩ yêu nước từ nội thành ra chiến khu An Phú Đông rồi Tân Thới Hiệp dự các ngày lễ 1/5, 2/9 trong mấy năm 1947 - 1950 rồi đưa trở về thành trót 1. Nguyễn Minh Xuân, “Chị Hai Già”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định - Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 1, tr. 170.


Click to View FlipBook Version