- 49 - gạo và 18.000 tấn bắp (so với 1.450.000 tấn gạo và 125.000 tấn bắp năm 1942). Giá lúa gạo sụt xuống. Nam Kỳ và Sài Gòn ứ đọng lúa mà bến Sài Gòn thì thưa thớt tàu buôn. Người Pháp lấy lúa khô thay than đá để đun lò nhà máy điện Chợ Quán. Người Nhật thì mướn rẻ hàng vạn công nhân đóng tàu gỗ đi biển. Vải vóc của người Nhật hứa hẹn chẳng được bao nhiêu. Người Việt ở Nam Kỳ tuy không chết đói như ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ mà hết sức rách rưới, đi đồng ruộng mà mặc quần bao bố, bao bàng là sự thường(1). Đối với các ngành nghề thủ công, truyền thống như nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, lãnh, thực dân Pháp thẳng tay bóp nghẹt, cho hàng của Pháp nhập khẩu vào ồ ạt, xây dựng một số nhà máy dệt ở Sài Gòn(2). Các món hàng công nghệ, thứ gì cũng hiếm. Độc quyền lúa gạo và các độc quyền khác liên tiếp được đặt ra: độc quyền muối và phát muối theo “các” (tiếng Pháp: carte - thẻ), độc quyền chài lưới và kiểm soát thị trường cá, tôm, cua, sò, lươn; độc quyền và kiểm soát nghề trồng mía nấu đường, độc quyền và kiểm soát bông, độc quyền vỏ ruột xe… bao nhiêu của cải lọt vào tay các độc quyền tư bản Pháp, Nhật và Tàu(3). Quá trình khai thác cạn kiệt nông thôn song song với quá trình đô thị hóa đã thu hút dân cư tụ tập về Sài Gòn để kiếm sống với nhiều ngành nghề khác nhau. Sài Gòn hình thành các chợ trung tâm (chợ đầu mối), cảng sông (bến Bình Đông, 1. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1930 - 1954), tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 25. 3. Trần Văn Giàu, Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Sđd, tr. 404.
- 50 - kênh Tàu Hũ, kênh Đôi, kênh Tẻ)… hình thành tầng lớp công nhân, thợ thuyền, định hình tầng lớp Hoa kiều và mở ra cơ hội tiếp xúc với đời sống thương mại, học hỏi kinh nghiệm từ người giỏi buôn bán, trao đổi hàng hóa. Những biến chuyển kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, là một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các phong trào đấu tranh liên tục của nhân dân Sài Gòn, trong đó có phong trào phụ nữ, giai đoạn 1930 - 1945. b. Đặc điểm xã hội Sự chuyển biến rõ nhất trong xã hội chính là sự phân hóa giai cấp, diễn ra ngày một sâu sắc hơn. Trong nền kinh tế truyền thống, giai cấp nông dân vốn chiếm đại đa số trong xã hội Việt Nam (khoảng 90%), sau những cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp này bị bần cùng hóa, không lối thoát. Một bộ phận trong số họ di chuyển ra khu vực đô thị, trở thành tầng lớp làm thuê. Một bộ phận tham gia làm việc trong các đồn điền, các hãng, hình thành tầng lớp vô sản, từ đó định hình dần giai cấp công nhân. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp công nhân cả nước có số lượng khoảng 10 vạn, sau chiến tranh tăng lên 22 vạn (1929)(1). Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ gắn bó tự nhiên lâu đời, bền vững với nông dân, được kế thừa truyền thống yêu nước, bị thực dân và tư sản áp bức bóc lột, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản, nhanh chóng vươn lên thành động lực mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của thời đại. 1. Trần Văn Giàu (1981), Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp “tự mình” đến giai cấp “cho mình”, xuất bản lần thứ 3, có bổ sung và sửa chữa, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 193.
- 51 - Cùng với hệ thống đầu tư phát triển đô thị trong các cuộc khai thác thuộc địa, giai cấp tiểu tư sản hình thành, gồm chủ xưởng, những người buôn bán nhỏ, học sinh, sinh viên, trí thức… Giai cấp này tăng nhanh về số lượng, một bộ phận có ý thức dân tộc dân chủ, chống thực dân Pháp và tay sai. Đặc biệt bộ phận trí thức, học sinh, sinh viên rất hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Giai cấp tư sản cũng phân hóa thành hai bộ phận tư sản mại bản và tư sản dân tộc, trong đó tư sản dân tộc Việt Nam là lực lượng có khuynh hướng dân tộc và dân chủ. Sự biến đổi về kinh tế, nhất là sự biến đổi cơ cấu kinh tế dưới tác động của nhà cầm quyền nhằm mục tiêu vơ vét, khai thác, tận thu thuộc địa, đã ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi về xã hội, nhất là sự phân hóa giai cấp, làm cho đô thị Sài Gòn có bộ mặt của một xã hội hiện đại. Những giai cấp mới là nền tảng quan trọng để tiếp nhận tư tưởng mới, quan hệ xã hội mới. Khuynh hướng tư sản và vô sản lần lượt xuất hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp tiểu tư sản ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thời kỳ này đã tiến hành những hoạt động văn hóa tiến bộ, cổ vũ lòng yêu nước và tuyên truyền tư tưởng tự do dân chủ, trong đó có lưu ý đến ý thức nam nữ bình quyền. Sau này, giới tiểu tư sản đô thị bị phân hóa, có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng tư sản, có bộ phận chuyển dần sang khuynh hướng vô sản. Khủng hoảng kinh tế tác động đến đời sống của người nông dân, công nhân, thợ thuyền ở đô thị. Người phụ nữ rơi vào tình cảnh bị đẩy ra ngoài xã hội, rơi vào vòng xoáy đói nghèo, thất học, một bộ phận đi làm công nhân tại các nhà máy, đồn điền bị đối xử bất công, một bộ phận đi ở đợ thành
- 52 - tầng lớp dân nghèo thành thị, một bộ phận bị tha hóa. Phụ nữ là tầng lớp bị bóc lột nặng nề nhất trong xã hội thời kỳ này. Báo Công luận cho biết, ở nhà máy xay Sài Gòn, lương của một nữ công nhân là 0,2 franc cho một ca làm việc 6 tiếng. Ðể có thể nuôi sống gia đình, nữ công nhân thường phải làm việc 3 ca liên tục(1). Còn mỏ than Kế Bào, một ngày công của phụ nữ không quá 25 xu(2)… Nữ công nhân còn bị hà hiếp, xúc phạm phẩm giá, bị khinh rẻ và có thể bị sa thải bất cứ lúc nào. “Chúng tôi đã từng thấy nhiều xưởng công nghệ mướn đàn bà làm công nhân, mỗi ngày chỉ thí có 2 cắc rưỡi, mà ngày nào làm ít cũng 10 giờ. Họ còn mướn cả những trẻ nhỏ độ 10 tuổi và thí cho chúng 5,7 xu hay 1 cắc 1 ngày. Chúng tôi cũng thấy họ mộ cả đàn bà làm trong rừng cao su hay là sang Tân thế giới. Lương bổng cũng là thứ lương bổng chết đói, mà đem thân đào tơ liễu yếu, chịu sao thấu nắng dãi mưa dầu. Biết bao người mang bệnh tật trở về, mất cả thế làm ăn, mất sức sinh sản”(3). Điều kiện làm việc của chị em hết sức vất vả, nguy hiểm, không có phương tiện bảo hộ lao động, nhiều chị em đã bị tai nạn, tàn tật, chết. Đồng lương thấp, thời gian làm việc 12 - 15 giờ, nhưng công nhân nữ luôn nơm nớp lo sợ bị sa thải. Lúc đói, giở cơm nắm ra ăn lén bên cỗ máy, vừa ăn, vừa sợ vì nếu cai xếp thấy có thể bị đánh, bị sa thải. Nhiều nữ công nhân có thai, phải thắt chặt bụng để giấu bọn cai xếp, vì có thai là một cớ để nó vin vào đó sa thải thợ. Nhiều chị mới sinh đẻ, còn non ngày tình cảnh mới thật thảm thương: vẫn phải đứng máy để khỏi bị trừ lương, bị sa thải, mẹ thì căng sữa, con thì đứa lớn 1. Báo Công luận, ngày 25/5/1932. 2. Báo Phụ nữ Tân văn, ngày 26/6/1930. 3. Báo Phụ nữ Tân văn, ngày 9/5/1929.
- 53 - ẵm đứa bé khát sữa đứng ngoài hàng rào, chờ mẹ chìa vú qua hàng rào cho bú. Nhưng nếu bất chợt chủ hay su-ba-dăng (tên cai) đi tuần bắt gặp thì chị em bị đánh đập và bị đuổi khỏi nhà máy. Nhưng như thế vẫn chưa phải là khổ nhục nhất, đau đớn nhất với nữ công nhân là phải chịu đựng sự xúc phạm phẩm giá. Bọn chủ tư bản và tay chân của chúng đặt điều kiện để tuyển thợ vào làm là phải có “lễ” - đó chính là sự “hiến thân”(1). Ở nông thôn, phụ nữ nông dân bị đẩy vào cảnh ở đợ, làm thuê, biến thành tá điền bởi gánh nặng tô thuế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, do thiếu hàng trong nước, thêm việc nhập khẩu bị gián đoạn, tại thành phố và vùng ngoại ô hàng vạn người dân rách rưới. Nhiều nông dân phải mặc quần áo bố, báo chí ghi lại chuyện phụ nữ có người đã tự tử vì lõa lồ, không có quần áo mặc(2). Cùng đường, phụ nữ nông thôn bị đẩy ra thành phố, trở thành lớp người đi ở, bán hàng, làm điếm, trở thành thứ đồ chơi mua đi bán lại trong xã hội. Ở Bắc Bộ cũng xảy ra tình cảnh này, theo báo Trung Bắc chủ nhật ngày 27/9/1942, bài “Nạn hoa liễu do các nhà cô đầu gây ra” giới thiệu cuốn sách của Ðốc lý Hà Nội Virgitti và bác sĩ Joyeux về tình trạng mãi dâm và bệnh hoa liễu ở Hà Nội. Những số liệu từ cuốn sách cho biết năm 1938, ở Hà Nội ít nhất có khoảng 250 nhà hát cô đầu và số phụ nữ làm nghề mãi dâm lên tới hàng ngàn người. Nạn buôn người, buôn thuốc phiện được phản ánh trong “Mẹ mìn bố mìn” của Tô Hoài, “Lục xì” của Vũ Trọng Phụng phản ánh thân phận rẻ mạt của người phụ nữ trong thời kỳ loạn 1. Nguyễn Thị Thập chủ biên (1980), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, tập 1, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 28 - 29. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 25.
- 54 - lạc ấy. “Từ ba năm nay, nhứt là trong suốt 1933, đã thấy tiêu diệt nhiều công nghệ và hiệu buôn, mà lại sản xuất thêm nhà khiêu võ và nhà thổ chứa. Không những thế, các nghề bói tướng bói đồng cốt đều lại thạnh hành hơn xưa nhiều”(1). Những thay đổi trong đời sống kinh tế đã biến đổi xã hội một cách sâu sắc, ngoài tầng lớp phụ nữ lao động, bắt đầu xuất hiện tầng lớp phụ nữ tiểu tư sản thành thị gồm những người thợ thủ công, tiểu thương, vợ con các viên chức làm việc trong các công sở của Pháp và của tư nhân, các nữ công chức (giáo viên, thư ký, y tá, hộ sinh) và các nữ học sinh. Một số trường học dành cho nữ sinh đã xuất hiện ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Hà Nội. Trong các trường nữ sinh này, tiếng Pháp là bắt buộc, trong giờ học cũng như khi nói chuyện với nhau. Thực tế này làm xuất hiện một tầng lớp nữ sinh được gọi là nữ sinh tân học (“gái mới”). Một mặt các cô gái mới này chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, với một lối sống cởi mở, tự do, thách thức các quan niệm truyền thống và có ý thức bình quyền quyết liệt. Mặt khác, sự gia tăng của số lượng nữ sinh khiến đội ngũ nữ trí thức phát triển, bắt đầu làm việc có lương với các nghề nghiệp được đào tạo, trở thành lớp phụ nữ chức nghiệp trong xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội thuộc địa, lao động nữ dù là trí thức, không phải thuộc tầng lớp dưới, vẫn bị coi thường, khinh rẻ, có thể bị sa thải bất cứ lúc nào, vẫn bị đối xử bất bình đẳng so với nam giới. Theo quy định của năm 1918, lương của giáo viên nữ thường chỉ bằng 80% lương của giáo viên nam, đôi khi chỉ hơn 60% so với giáo viên nam(2). Thực tế này càng khiến cho sự phân hóa trong xã hội ngày càng thêm sâu sắc. Năm 1928, Ðặng Văn Bảy đã đặt 1. Báo Phụ nữ Tân văn, ngày 1/1/1934. 2. Nam Phong tạp chí, tháng 6/1918.
- 55 - vấn đề nam nữ bình quyền vì “thấy phần nhiều đàn bà con gái bị chê bỏ, hiếp đáp, còn đàn ông con trai lại quý, tự do. Phép công bình là đôi bên phải đồng, không khinh, không trọng, không thấp không cao. Ai biết rằng bị người đè ép mình là thiệt thòi, đau đớn cho mình, thời cũng nên biết rằng đè ép người là làm cho người phải thiệt thòi đau đớn”(1). Áp bức, nghèo đói đã tạo nên động lực đấu tranh. Cùng với tinh thần năng động, giỏi gánh vác việc buôn bán, nay được tăng thêm sức mạnh đấu tranh ấy, cùng với sự hỗ trợ phần nào của luồng gió Tây học, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã dần trở thành một lực lượng có vai trò trong gia đình cũng như ngoài xã hội, tạo đà cho việc tiếp nhận những tư tưởng về nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Song, nếu không có những hoạt động tranh đấu, không có sự lãnh đạo của Đảng và mục tiêu giải phóng dân tộc, thì sự xuất hiện của tầng lớp phụ nữ có học này không góp phần thay đổi ngay vai trò của phụ nữ trong xã hội, kể cả trong các giai đoạn sau này, khi trào lưu đấu tranh cho nữ quyền phát triển mạnh mẽ. Tư liệu còn ghi lại một trường hợp tiêu biểu: Cô Nguyễn Thị Châu, nữ Hiệu trưởng đầu tiên của Trường nữ sinh Áo tím ở Sài Gòn. “Cô là thiếu nữ Việt Nam đậu tú tài bên Pháp… Sức học của cô không thua giáo sư người Pháp… Cô dạy tận tâm, giảng bài dễ hiểu, luôn có bản đồ chỉ dẫn và chuyển cho chúng tôi xem nhiều hình ảnh có liên quan đến bài học. Cô vừa nghiêm, vừa gần gũi yêu thương học trò. Cô là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đậu cử nhân về lịch sử, địa lý tại Pháp, là tấm gương hiếu học để chúng tôi noi theo… Tôi rất bất bình khi biết lương của cô là giáo sư, không bằng 1. Ðặng Văn Bảy (1928), Nam nữ bình quyền, Đa Kao, tr. 4.
- 56 - lương của cô đánh trống giữ cổng trường là cô Odette chỉ vì cô là người Việt”(1). Đó là ví dụ cho thấy rõ ràng thân phận của phụ nữ Việt Nam thời kỳ đó, dù có học hành, năng lực, vẫn chỉ mang thân phận người dân của một nước nô lệ. Nỗi bất công này chỉ có thể thay đổi nếu chị em, cùng với đồng bào của mình đứng lên làm cách mạng thay đổi xã hội, giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc. c. Đặc điểm văn hóa Trước khi Pháp xâm chiếm, Sài Gòn đã tồn tại một nền văn hóa phong phú và đa sắc. Người Pháp đến đặt ách đô hộ, đã dần dần du nhập văn hóa phương Tây vào thành phố này, từ việc kiến tạo thành phố Sài Gòn giống như một thành phố Pháp, từ dinh thự, nhà cửa theo lối kiến trúc Pháp, đến đường sá, công sở, bến tàu, bến xe, nhà máy, cầu cảng; các công trình văn hóa như: Nhà thờ Đức Bà, Ngân hàng Đông Dương, Nhà hát Thành phố, Bưu điện… Lối sống Tây với sự xuất hiện của quán café, báo chí, bưu điện, ngân hàng, bệnh viện, rạp chiếu bóng, trang phục kiểu Tây, phương tiện đi lại, cách nói năng, lối ứng xử, việc học hành, cách thức tiêu xài tiền… tất cả đều có sự thay đổi. Nhưng mảnh đất này có một sức sống kỳ lạ, từ một vùng đất mới, đóng vai trò thứ yếu, qua nhiều lần thay đổi để cai trị, bị nhào nắn thay đổi diện mạo, thay vì bị đồng hóa theo chủ kiến của giới cầm quyền, thì nó lại thu hút nhân lực, vật lực các vùng đất lân cận, hấp dẫn các nguồn lực khác vào mình, tiếp biến các yếu tố văn hóa ngoại lai, dần dần khẳng định diện mạo riêng của mình, trở thành một Sài Gòn rộng lớn về sức người sức của, một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa. 1. Lê Tuyết Thanh, “Nhớ mãi một mái trường”, bài in trong sách: Nhiều tác giả (2004), Áo Tím trên các nẻo đường đất nước, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 251.
- 57 - Sức hút này thực sự có kết quả tích cực, kết tinh thành những hoa thơm, trái ngọt đầu tiên về văn hóa. Sài Gòn là nơi xuất hiện tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên, cuốn tiểu thuyết đầu tiên, bài “Thơ Mới” đầu tiên. Sài Gòn cũng là nơi mà mầm mống của tinh thần dân chủ, sự tranh đấu về quyền của con người được phát triển tối đa trong khuôn khổ một xã hội thuộc địa, trong đó đặc biệt là quyền của người phụ nữ. Ở Sài Gòn, và chỉ có ở Sài Gòn, lần đầu tiên có một tờ báo dành riêng cho nữ, lần đầu tiên có một phụ nữ trẻ dám đăng đàn diễn thuyết về nữ quyền, về Thơ Mới. Đặc điểm “tứ xứ” của dân cư có ảnh hưởng quyết định đến đặc điểm văn hóa của Sài Gòn. Kề bên khu trung tâm đô thị phát triển là những khu nhà lá. “Những năm 1936, cuộc khủng hoảng kinh tế qua đi, nền kinh tế có những dấu hiệu phục hồi trở lại, thì Sài Gòn lại là mảnh đất hứa hút dân từ các tỉnh về. Do đó, dân số Sài Gòn - Chợ Lớn đã tăng lên đáng kể (260.000 (1936) qua năm 1943 lên tới 600.000, đến năm 1952 lên 1.600.000). Trong những năm này, vùng Sài Gòn - Chợ Lớn thấy dân số ngày thêm đông đảo, những xóm bình dân đua chen nhau mà mọc lên. Những người tản cư đương nhiên ở những xóm nhà lá”(1). Những xóm nhà lá tập trung ở xóm Bàn Cờ, xóm Dixmude, xóm Cầu Muối, xóm Lách, xóm Vạn Chài, xóm Cầu Bông, xóm Vĩnh Hội, xóm Khánh Hội, xóm Chợ Đũi. Vị trí thường là những vùng nước đọng, với nhiều đống rác hôi hám, bẩn thỉu… Đời sống vật chất của người bình dân lao động nghèo nàn, cơ cực, việc làm quá độ, sức khỏe đổi lấy tiền công rẻ mạt, đời sống tinh thần tù túng. Nhưng điều thú vị là, ở xóm 1. Tủ sách pháp luật - kinh tế - xã hội phổ thông (1953), Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, quyển thứ ba, tr. 22.
- 58 - bình dân, người lao động bình dân đã bắt đầu võ vẽ biết chữ, mà đa phần do họ tự học và chỉ cho nhau. Điều này chứng tỏ rằng mặc dù cuộc sống bần hàn khốn khó, người dân lao động vẫn có thể học, chính sách ngu dân không thể bóp nghẹt họ hoàn toàn. Đa phần phụ nữ mù chữ. Thích đọc báo, họ nghĩ ra cách hùn nhau mua báo, đọc chung cho người không biết chữ cũng nghe được. Họ thích đọc truyện trong báo, và cũng thích đi coi hát. Nhưng việc đi coi hát cũng là một thứ xa xỉ, nên chỉ thỉnh thoảng mới đi. Sân khấu cũng là một phương tiện giáo dục có giá trị, có khả năng động viên, hướng dẫn khán giả, nhất là bình dân nhiều tình cảm chất phác, về một lối ăn ở đúng đắn(1). “Các rạp chiếu bóng đua nhau mọc lên như nấm, rải rác khắp Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhưng ảnh hưởng của màn ảnh đối với người lao động bình dân không nhiều vì không hiểu được ý nghĩa của lời lẽ trên phim. Có tiền họ sẽ đi coi cải lương giản tiện hơn. Đó chính là sở thích của người bình dân. Họ biết rõ các kép cải lương”(2). Sài Gòn, sau những “cú sốc” về văn hóa thuở ban đầu, và cả sau những thất bại lần lượt của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX, đã dần thích nghi và nhận ra những giá trị nào là tiến bộ thực sự của nền văn hóa phương Tây, tiếp nhận và dung hòa để cùng phát triển trong đời sống xã hội. Từ đối nghịch, người Sài Gòn đã điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh và tình hình mới trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội cho tới văn hóa. Từ sự tự nhận thức 1. Tủ sách pháp luật - kinh tế - xã hội phổ thông (1953), Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, quyển thứ ba, tr. 47. 2. Giang - Phu, “Giáo dục bình dân”, trong sách: Tủ sách pháp luật - kinh tế - xã hội phổ thông (1953), Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, quyển thứ ba, tr. 59.
- 59 - “gạn đục khơi trong”, chắt lọc, học hỏi lấy những điều tốt đẹp, người Sài Gòn đã tích cực hòa nhập vào thời cuộc. Sự chuyển biến về nhận thức này đã tạo nên một đô thị Sài Gòn phồn vinh với những con người chịu khó, thực tế, mạnh dạn, hào hiệp, phóng khoáng và quyết liệt. Sài Gòn không chỉ là miền đất hứa của người nghèo khổ tìm đến, mà đây cũng là nơi chốn để các trí thức, người yêu nước tìm về. Sài Gòn là nơi đầu tiên có trường học dành riêng cho giới nữ. Năm 1913, Trường Nữ sinh Áo Tím(1) được xây dựng, hai năm sau, 1915, đã tuyển sinh được khóa đầu tiên với 42 học sinh nữ, dạy bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. 5 năm sau, 1918, Sài Gòn có thêm trường nữ học là Trường Marie Curie, dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Sau đó có thêm nhiều trường khác. Đây là hai ngôi trường đã sinh ra nhiều nữ trí thức nổi tiếng, thành danh, và cũng là ngôi trường có nhiều nữ sinh tham gia cách mạng từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhiều hồi ký của cựu học sinh trường Áo Tím vẫn còn nhắc nhớ về hình ảnh các giáo sư của mình(2). “Cô Năm dạy môn Việt văn, mỗi tuần bốn giờ, ăn mặc giản dị, luôn mặc nguyên 1. Đồng phục của nữ sinh màu tím, nên trường mang tên gọi là Trường Nữ sinh Áo Tím. Lúc đầu chỉ có bậc tiểu học, đến tháng 9/1922, Trường thành lập ban trung học, đặt tên là Collège des Jeunes Filles Indigènes nhưng trường vẫn được gọi là Trường Nữ sinh Áo Tím. Đây là trường nữ công lập duy nhất trong hệ thống các trường Pháp - Việt của Nam Kỳ có bậc thành chung. Năm 1940, Nha Học chính Nam Kỳ đổi tên trường là Collège Gia Long - Trường Gia Long. Sau này, khi các lớp Trung học đệ nhị cấp (tương đương trung học phổ thông ngày nay) và bãi bỏ các lớp tiểu học, tên trường được đổi thành Lycée Gia Long. Năm 1951 - 1952, trường có hiệu trưởng người Việt đầu tiên là cô Nguyễn Thị Châu (cô Tư Châu), cũng được gọi là Trường Nữ Trung học Gia Long, và dùng tiếng Việt giảng dạy cho mọi cấp lớp. Sau năm 1975, trường được đổi tên là Trường Nguyễn Thị Minh Khai, có cả cấp 2 và cấp 3, tiếp nhận cả học sinh nam và nữ. Từ năm học 1978 - 1979 đến nay là trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai. 2. Theo hồi ức của bà Đặng Thị Bảy (1923), cựu học sinh Trường Áo Tím, khóa 1936 - 1940, trong sách: Nhiều tác giả (2004), Áo Tím trên các nẻo đường đất nước, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 23.
- 60 - bộ áo dài đen, đi dép đen, bới tóc cao, trang điểm như dáng vẻ một bà nội trợ bình thường, đi xe đạp lọc cọc đến trường. Có dịp là cô liên kết, khơi dậy nơi chúng tôi lòng yêu nước thương nòi, kính trọng các bậc tiền nhân tài giỏi, hãnh diện là người Việt Nam. Cô dạy chúng tôi lòng nhân ái, phẩm hạnh của người phụ nữ Việt Nam”(1). “Cô Tư dạy chúng tôi môn Toán. Cô Tư có bằng cao đẳng ở Hà Nội. Lúc ấy một phụ nữ có được bằng cấp như vậy rất khó tìm. Đi dạy, cô luôn mặc nguyên bộ áo dài hàng trắng muốt, bàn chân nhỏ nhắn thật xinh trong đôi dép trắng quai nhung đen, trang điểm nhẹ. Dáng đi khoan thai, tự tin”(2). Bà Bùi Thị Mè (được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng), từng là nữ sinh Trường Áo Tím, khóa 1936 - 1941, nhớ lại: “Bốn năm ở trường, bốn năm tôi học Việt văn với cô Năm. Những bài học cô Năm dạy như mật ngọt rót vào tim óc chúng tôi. Qua văn học, qua những bài thơ của các chí sĩ, các nhà yêu nước, cô truyền sang cho chúng tôi lòng yêu quê hương, trách nhiệm của người công dân… Chúng tôi thấm thía biết bao tấm lòng của những người yêu nước, lòng chung thủy của con người… chúng tôi thông cảm những khao khát tự do, oán ghét những bất công trong xã hội, ghét nhà giàu bắt nạt đọa đày người nghèo và chính những mầm mống này nảy nở âm thầm… Cách mạng tháng Tám đến với vợ chồng tôi như một luồng ánh sáng 1. Theo hồi ức của bà Tống Thị Huỳnh (1923), cựu học sinh Trường Áo Tím, in trong sách: Nhiều tác giả (2004), Áo Tím trên các nẻo đường đất nước, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 71 - 73. 2. Theo hồi ức của bà Bùi Thị Mè, “Một thời áo tím, một thời dấn thân”, in trong sách: Nhiều tác giả (2004), Áo Tím trên các nẻo đường đất nước, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 277.
- 61 - xua tan bóng tối, ánh sáng mà từ trước đến nay tôi hy vọng, mong chờ”(1). Từ hai ngôi trường này, nhiều phụ nữ đã chọn con đường học lên cao - du học Pháp. Chính hai ngôi trường này đã đào tạo những nữ trí thức mới, mang phong cách phương Tây khá rõ. Từ những điều đã học được, họ tích cực tham gia đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, tự do, bác ái… Đặc điểm này chỉ có ở phụ nữ Sài Gòn, cùng thời điểm, ở các vùng khác vẫn còn mờ nhạt, thụ động hơn. Không có một ghi chú nào cụ thể về độ tuổi lập gia đình, nhưng căn cứ năm sinh và năm ra trường của các nữ sinh Trường Áo Tím, độ tuổi kết hôn khoảng 20 tuổi là phổ biến. Đối với các tầng lớp bình dân, độ tuổi kết hôn sớm hơn. Sự xuất hiện của báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ góp phần hình thành một nếp mới trong sinh hoạt văn hóa của người Sài Gòn trước năm 1945. Hàng loạt các tờ báo xuất hiện ở vùng đất mới này, trước tiên là Gia Định báo (1865), sau đó là các tờ báo khác, tạo nên một không khí báo chí cực kỳ sôi động ở Sài Gòn những năm 1930 - 1945, với cả hai ngôn ngữ: Pháp - Việt. Người Sài Gòn đã quen với việc đọc báo mỗi ngày để biết tin tức, nghe ngóng tình hình, kiếm cơ hội làm ăn mới, bày tỏ ý kiến của mình trước những thay đổi của chính sách. Từ không khí trao đổi dân chủ này, báo chí trở thành một kênh truyền bá những tư tưởng mới, giác ngộ quần chúng, đấu tranh với thực dân Pháp. Ngay từ đầu thế kỷ XX, một tờ báo dành cho nữ giới ra đời trên đất Sài Gòn: Nữ giới chung (1918) do một người phụ nữ làm chủ bút. Tuy thời gian tồn tại không lâu, Nữ giới chung 1. Theo hồi ức của bà Bùi Thị Mè, “Một thời áo tím, một thời dấn thân”, in trong sách: Nhiều tác giả (2004), Áo Tím trên các nẻo đường đất nước, Sđd, tr. 27 - 28.
- 62 - đã ghi dấu được những giá trị, đặc biệt nói lên được tiếng nói của người phụ nữ. Trong số đầu tiên, tờ báo đã công bố quan điểm của mình là vì sự bình đẳng và sự học của phụ nữ(1). Từ khi mới xuất hiện, báo chí ý thức rõ về việc hỗ trợ chị em phụ nữ học chữ Quốc ngữ, đọc báo bằng chữ Quốc ngữ. Mỗi một từ ngữ mới, khó, trên tờ Nữ giới chung đều được tờ báo cắt nghĩa rõ ràng, cặn kẽ, còn khuyến khích chị em không hiểu thì phải đọc phần cắt nghĩa này, chứ đừng để từ ngữ thành rào cản đối với hiểu biết của mình(2). Rõ ràng, báo chí không chỉ nhắm việc đưa tin, còn nhắm việc dạy văn hóa, dạy chữ, và đã có một tác dụng giáo dục rộng lớn, thiết thực với phụ nữ nói riêng và xã hội nói chung. Đây là một trong những tiền đề để 10 năm sau đó, một tờ báo dành riêng cho giới nữ được phát hành rộng rãi ở cả ba kỳ, đạt được nhiều thành tựu về văn hóa: tuần báo Phụ nữ Tân văn - một hiện tượng trong lịch sử báo chí Việt Nam. Trước yêu cầu của quần chúng, Trung ương Đảng chấp thuận cho ra tờ Dân chúng - tờ báo tiếng Việt đầu tiên không cần xin phép thực dân (6/1938). Sau một tháng báo Dân chúng ra đời, Pháp đã phải ban hành nghị định tự do báo chí ở Nam Kỳ, nhưng tìm mọi cách để triệt hạ tờ báo: vu cáo tờ báo xúi giục dân gây rối, khám xét, tịch thu tài liệu, bắt nhân viên… Phụ nữ đã tham gia 28 cuộc mít tinh phản đối nhà cầm quyền bóp nghẹt tự do báo chí, tổ chức lạc quyên ủng hộ tờ báo. 1. Nữ giới chung, số 1, ngày 1 février năm 1918 viết: “Song trộm nghĩ: con tạo hóa đã nắn ra cái hình người, trai hay là gái, ai chẳng một đồng cân lương-tri lương-năng ấy? Vả đương cuộc đời cạnh-tranh trách hưng-vong còn đến thất phu. Huống chi đờn-bà rất có quan-hệ tới xã hội. Há lại chẳng nên mượn ngòi bút sắt, tả tấm lòng son, đặng thỏ thẻ với bà con trong ba xứ! Bởi thế, bổn-báo xuất hiện ngày nay, cái chủ-nghĩa cầm nhứt là đề-xướng việc nữ-học”. 2. Nữ giới chung, số 1, ngày 1 février năm 1918 viết: “Sau nữa, bổn-báo xin nhắc rằng: Phàm trong bài nào, hoặc có câu nào chữ nho, thì dưới lại xin chú-thích minh-bạch đặng bạn đọc báo khỏi phiền cũng một tiếng nói, mà thành như cái ranh hạn vô hình”.
- 63 - Sau báo chí là trào lưu hiện đại hóa văn học cũng phôi thai từ chính mảnh đất này. Văn học chữ Quốc ngữ ra đời và nhanh chóng thay thế văn học cổ viết bằng chữ Hán - Nôm. Các tiểu thuyết gia đã dấn thân vào cuộc sống thường ngày để phản ánh đời sống thường nhật, phản ánh ước mơ và cả những khát vọng về sự bình đẳng theo sự hình dung của con người thời ấy. Trong số những tác giả này, Hồ Biểu Chánh được độc giả ba miền biết đến khi đăng tiểu thuyết trên Phụ nữ Tân văn. Đây cũng là giai đoạn ông viết nhiều về các giai tầng trong xã hội, cả nông thôn và đô thành Sài Gòn, phản ánh được cuộc sống người dân ở đây, đặc biệt là người phụ nữ(1). Cùng với tiểu thuyết, Thơ Mới xuất hiện và ảnh hưởng của nó cũng là một dấu ấn trong đời sống văn hóa của Sài Gòn. Trong địa hạt này, dấu ấn của nữ giới đậm hơn, độc đáo, mang nhiều âm sắc. Nghệ thuật sân khấu là một điểm nhấn văn hóa của Sài Gòn. Bên cạnh các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, có sự xuất hiện của các loại hình mới, mà đáng kể nhất là kịch nói và cải lương. Kịch nói xuất hiện sớm ở Sài Gòn(2), gần như ngay từ khi Pháp xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Kịch nói được biết đến rộng hơn thông qua các sân khấu biểu diễn của các đoàn kịch từ chính quốc sang phục vụ cho quân đội viễn chinh Pháp tại Sài Gòn và hệ thống đào tạo của Pháp tại thuộc địa. 1. Các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: Chút phận linh đinh (1928), Tân Phong nữ sĩ (1937), Bỏ chồng (1938), Bỏ vợ (1938), Đoạn tình (1940), Ái tình miếu (1941), Cư kỉnh (1941)… 2. Võ Văn Nhơn (2007), Văn học Quốc ngữ trước 1945 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- 64 - Đối tượng tiếp nhận kịch nói tại Sài Gòn chỉ thu hẹp trong giới trí thức, công chức, học sinh, sinh viên Tây học. Kịch nói được tiếp nhận từ nguyên bản kịch Pháp, Việt hóa, rồi trở thành một thể loại của văn học và sân khấu ở Sài Gòn. Giai đoạn này, sự quan tâm của công chúng Sài Gòn đang dành cho cải lương - thể loại kịch hát ra đời và đứng vững trên nền tảng phát triển sân khấu, âm nhạc dân tộc, đồng thời tiếp thu nghệ thuật dàn dựng, trình diễn của kịch nói lẫn âm nhạc phương Tây. Hai chữ “cải lương” mang ý nghĩa “sửa đổi cho trở nên tốt hơn”(1). Đây cũng là tinh thần của các chí sĩ duy tân Nam Bộ hưởng ứng theo lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu. Phan Khôi hô hào “duy tân đi, cải lương đi” là được hiểu theo nghĩa này. Sài Gòn là nơi manh nha loại hình sân khấu cải lương từ những năm đầu thế kỷ XX, hình thành trên cơ sở dòng nhạc đờn ca tài tử và dân ca vùng đồng bằng sông Cửu Long(2). Sự đổi mới ở trong các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống, theo cố Giáo sư Trần Văn Khê, là thay đổi về “Sân khấu bài trí, dựng phông như kịch phương Tây; đề tài kịch bản đổi mới không bó buộc trong các tuồng tích Trung Hoa; và hơn nữa là nghệ thuật biểu diễn; dàn nhạc, cũng như bài bản”(3). 1. Trần Văn Khê (2007), “Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt Nam”, Website Hội Nhạc sĩ Việt Nam, ngày 14/6/2007, nguồn: http://vnmusic.com.vn/ p2131-cai-luong-nghe-thuat-san-khau-truyen-thong-nam-bo%C2%A0.html, truy cập ngày 30/12/2017. 2. Về nội dung “Cải lương ra đời khi nào”, trong Hồi ký 50 năm mê hát, nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển cho rằng: tuy “có người cho rằng Cải lương đã manh nha từ năm 1916, hoặc là 1918”, nhưng theo ông thì kể từ ngày 16 tháng 11 năm 1918, khi tuồng Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà hát Tây Sài Gòn, cách hát mới lạ này mới “bành trướng không thôi, mở đầu cho nghề mới, lấy đờn ca và ca ra bộ ra chỉnh đốn, thêm thắt mãi, vừa canh tân, vừa cải cách… nên cải lương hình thành lúc nào cũng không ai biết rõ”. 3. Trần Văn Khê (2007), “Cải lương, nghệ thuật sân khấu truyền thống Nam Bộ Việt Nam”, Bđd.
- 65 - Sự ra đời của cải lương là từ nhu cầu của xã hội, phục vụ lớp khán giả mới, cũng là một cách tiếp nhận, vận dụng cái mới theo tính cách người Sài Gòn. Trong số các soạn giả lúc bấy giờ, Trần Hữu Trang nổi lên như một soạn giả lớn, có uy tín trong giới, cũng là người sớm gắn bó với cách mạng. Sân khấu cải lương phản ánh một thực trạng văn hóa tư tưởng trong xã hội Sài Gòn lúc bấy giờ: sự xung khắc giữa các hệ tư tưởng cũ - mới, làm sao để bảo tồn được những tính cách phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trước làn sóng thuộc địa hóa, tân thời hóa, bảo tồn mà không ràng buộc con người trong những nghĩa vụ, quy tắc lỗi thời. Chủ nghĩa đại gia đình, chữ “hiếu”, chữ “hạnh”, tam tòng tứ đức… là những vấn đề được đặt ra trong những tuồng cải lương như Tô Ánh Nguyệt(1), lên án những tập tục bất công, vô lý, bất nhân của chế độ gia đình phong kiến(2): môn đăng hộ đối, chế độ đa thê, hôn nhân mua bán đổi chác, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, con cái phải vâng theo vô điều kiện. Sự xung khắc giữa các hệ tư tưởng cũng là sự xung đột giữa các thế hệ trong cộng đồng 1. Tô Ánh Nguyệt là nhân vật chính trong vở cải lương cùng tên. Nguyệt và Minh yêu nhau, nhưng cha mẹ Nguyệt không đồng ý vì đã chọn Bích - người có địa vị xã hội hơn Minh. Bị ép gả, Nguyệt bỏ nhà trốn đi để giữ trọn mối tình với Minh, vì lúc đó, Nguyệt đã mang thai. Nguyệt cam sống trong cảnh thiếu thốn, bị gia đình ghét bỏ, xã hội chê bai. Khy sinh đứa con đầu, Nguyệt nghĩ mình khó bảo đảm cho đứa trẻ, nên đành xa con, đem con trao cho Minh (lúc này đã Minh đã có vợ). Không muốn để Thu Dung (vợ Minh) biết chuyện, Nguyệt nói dối vì nghèo không thể nuôi con, nhờ vợ chồng Minh làm phúc nhận làm con nuôi. 18 năm sau, Tâm - con trai Nguyệt cưới vợ. Nguyệt âm thầm thêu một đôi mặt gối gửi mừng con nhưng giấu tên. Thấy cha thường lui tới nhà Nguyệt, Tâm đã tìm đến, dùng những lời lẽ thậm tệ vì cho rằng Nguyệt là kẻ thứ ba phá hoại sự yên ấm gia đình mình. Nguyệt cắn răng chịu đựng tất cả. Minh biết chuyện, thương Nguyệt, giận sự nhu nhược của mình, đã phát bệnh. Trước lúc chết, Minh nói cho Tâm biết sự thật. Đến lúc ấy, mọi người mới hiểu rõ sự hy sinh cao cả của Nguyệt. Hai mẹ con nhận lại nhau trong nước mắt. 2. Trong vở diễn, Nguyệt nói với Bích: “A, có lẽ theo ý thầy nghĩ, trong cuộc hôn nhân thì đôi bên, cửa nhà cho xứng, tiền bạc ngang nhau, hay ít ra cậu trai cũng được đôi ba cái cấp bằng, chừng ấy thì tha hồ mà lòe đời, tha hồ mà mua dâu bán rể, mà chiếm lòng yêu của một cô gái còn thơ, có phải chăng thưa thầy?”.
- 66 - dân cư Sài Gòn, vốn diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn so với các vùng miền khác. Do đó, sự xung đột mang tính văn hóa này cũng sâu sắc và quyết liệt hơn(1). Cách mạng tháng Tám năm 1945 huy động toàn dân vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, các xu thế này tạm thời lắng xuống nhưng chưa bao giờ gián đoạn trong đời sống văn hóa - xã hội Nam Bộ. Có thể nói, về mặt văn hóa, Sài Gòn luôn là một chiếc nôi của cái mới. Sự giao thoa giữa nhiều nền văn hóa đã tạo nên bản sắc riêng biệt cho Sài Gòn. Sự linh hoạt trong tiếp nhận và vận dụng những nét mới khiến Sài Gòn mang dáng vẻ một khu vực văn hóa sôi động và hàm chứa nhiều bất ngờ. Đặc điểm văn hóa ấy có liên quan đến cộng đồng dân cư của vùng đất này. Dân cư đa phần là lưu dân từ miền Trung, miền Bắc bất mãn với sự bóc lột thái quá của hệ thống phong kiến, là lưu dân người Hoa với tư tưởng “bài Mãn phục Minh”. Một số người Pháp đến Sài Gòn thời kỳ đầu vốn là nông dân, công chức nghèo từ chính quốc đến tìm vận hội(2). Thêm người Ấn Độ cũng chẳng khá giả gì hơn, rồi sau này nữa, người Hoa đến vì chạy trốn cuộc chiến tranh ở chính quốc… Dân cư cứ thế mà đông dần, văn hóa cứ thế mà bồi đắp thêm, dung hòa tạo nên những sắc thái mới, nhưng không làm mất đi bản sắc của mỗi nền văn hóa. 1. Ví dụ, lời thoại của nhân vật cha trong Tô Ánh Nguyệt: “Chớ toan lắm lời. Du chẳng ưng, tao cũng lo xong. Chỗ môn đương hộ đối mà mầy chê. Tao lẽ đâu thất hứa với người. Mầy không đành ưng cũng trối thây!” và mắng con: “Nguyệt! Tại sao con lớn gan làm vậy? Tao nghĩ, tao với mẹ mầy cho mầy đi học uổng lắm. Học nhiều chừng nào hư chừng ấy, chớ không ích gì”. 2. Xem “Người tình” (tiếng Pháp: L’Amant), tiểu thuyết tự truyện của Marguerite Duras, nhà văn nữ người Pháp. Tiểu thuyết này đã được dịch ra 43 thứ tiếng với khoảng 2,4 triệu bản in, đoạt giải Goncourt năm 1984, được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 1992.
- 67 - Họ tìm đến Sài Gòn để chạy trốn những áp bức, bất công, nên triết lý sống “giang hồ trượng nghĩa” rất được coi trọng. Bạn bè khó khăn thì giúp đỡ, thậm chí người dưng nước lã cũng giúp, nuôi nấng, thi ân bất cầu báo. Người giàu hay nghèo vẫn có thể hào phóng đến mức tối đa(1). Nơi đất mới, thấy chuyện gì chưa quen thì tìm cách thích ứng, gặp ai cũng sẵn sàng làm quen, chuyện lạ thì lắng tai nghe, để rồi lần hồi gạn lọc mà sống với tình huống cụ thể. Không quá khích, sẵn sàng đón nhận mọi phong cách mới của người lân cận. Lúc túng thiếu, hay bị phản bội cũng chẳng nao núng vì thiên nhiên thuận hòa, đất trời khoáng đạt, cuộc sống chưa hẳn bế tắc. “Sài Gòn dân tứ xứ” - theo Sơn Nam, cũng là một đặc điểm văn hóa. Người ta đến với Sài Gòn tìm kế sinh nhai, vì tránh cuộc chiến tranh, chạy trốn khỏi những áp bức tinh thần, bóc lột vật chất. Xa khỏi những lề thói cũ, con người nhìn nhau bớt khắt khe hơn. Cùng một tâm thế, gặp nhau nơi vùng đất mới, con người dễ cảm thông hòa hợp và sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ, đối xử tốt với nhau hơn. II. PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Phong trào phụ nữ Sài Gòn được phôi thai từ trên mảnh đất này, thấm nhuần những đặc tính của con người, phong tục tập quán và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa đương thời. Tuy nhiên, không có một phong trào xuất hiện một cách đột ngột vào một thời điểm, với đầy đủ các yếu tố, phát triển mạnh mẽ. Phong trào phụ nữ Sài Gòn đã hình thành trong một quá trình, tùy thuộc vào vai trò của phụ nữ trong từng giai đoạn, trên từng mặt trận khác nhau: mặt trận tư tưởng, 1. Sơn Nam, “Tính cách người Sài Gòn”, file pdf từ Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- 68 - mặt trận văn hóa nghệ thuật, mặt trận giáo dục, mặt trận kinh tế, mặt trận đấu tranh chính trị, mặt trận đấu tranh vũ trang. Các mặt trận này có thể nối tiếp nhau, đan xen lẫn nhau, và khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, đều được tập trung dưới sự lãnh đạo của Đảng, với các đảng viên hoạt động linh hoạt và đa dạng trong nhiều lĩnh vực. Điểm lại các hoạt động trên từng mặt trận, có thể thấy được tính toàn diện và tính hệ thống của phong trào phụ nữ Sài Gòn. Đến cuối giai đoạn này, có thể thấy sự hình thành rõ rệt trong từng con người, sự hình thành lực lượng cũng như nhận thức tư tưởng, hoạt động tranh đấu và tinh thần tổ chức. Đây cũng là một giai đoạn mà các diễn biến có tính quyết định, phong trào đi từ không đến có, từ manh mún tự phát đến tập hợp thành đội ngũ, có hệ thống, có sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình đấu tranh khởi đầu từ tự phát rồi đến tự giác tham gia vào hoạt động cách mạng cũng là quá trình tự nhận thức, định hình và phát triển phong trào. 1. Sự chuyển biến tư tưởng Với lợi thế là trung tâm giao thương kinh tế - văn hóa của Việt Nam, với hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt, với những đặc điểm về tính cách, phụ nữ Sài Gòn có điều kiện hơn để tiếp nhận, trải nghiệm những tư tưởng mới. Khi có sự lãnh đạo của Đảng, ý thức chính trị, ý thức đấu tranh cách mạng được hình thành. Giai đoạn này, đường lối đấu tranh của Đảng thể hiện một tinh thần mới mẻ, phù hợp với nguyện vọng của người dân. Ngày 22/2/1931, một trong các khẩu hiệu chính của Luận cương tuyên truyền ngày 8 tháng 3 của Xứ ủy Nam Kỳ là: “Ngày mồng 8 tháng 3 là một ngày của phụ nữ lao động toàn
- 69 - thế giới vì lực lượng đấu tranh chống chế độ bóc lột giai cấp công nhân và quần chúng lao động bị áp bức”(1). Tinh thần quốc tế hóa trong đường lối đấu tranh đã được phụ nữ Sài Gòn đón nhận. Năm 1932, Trần Thiện Tỵ và Bùi Thế Phúc viết Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, ghi nhận thực tế: trong xã hội hiện nay mọi việc đã thay đổi. Phụ nữ không muốn bị đàn ông áp chế nữa, “chị em cần phải biết gió mát trời xanh. Luồng gió tự do đã thổi khắp đám phụ nữ tân thời… Thế thì trên mảnh đất Việt Nam này, phụ nữ đã thành một vấn đề rồi đó”(2). Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau, phụ nữ Sài Gòn, từ chỗ bị bó hẹp trong khuôn khổ gia đình truyền thống, đã bước ra xã hội và bước đầu khẳng định mình trên các mặt trận đấu tranh vì quyền lợi của giới nữ và vì lợi ích chung của dân tộc. Có thể nói sự trỗi dậy nhận thức về quyền bình đẳng của người phụ nữ, nhận thức về dân tộc, tinh thần yêu nước và ý thức đấu tranh chống áp bức là đặc điểm nổi bật của giai đoạn này. Ngay từ đầu thế kỷ XX, khái niệm quyền của phụ nữ - nữ quyền, đã sớm xuất hiện trên một số tờ báo, nhưng chỉ thật sự bùng phát ở giai đoạn khoảng 1925 - 1945, vì nhiều lý do, như việc mở trường học cho giới nữ, sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, ảnh hưởng của phong trào nữ quyền trên thế giới. Sài Gòn một lần nữa lại trở thành tâm điểm của hoạt động này. Nam Kỳ là vùng đất mới, ảnh hưởng của Nho giáo không mạnh như Bắc Bộ và Trung Bộ. Quan niệm của Khổng Tử “nữ nhi nan giáo” (phụ nữ khó dạy) đã bị phá vỡ dần dần khi thực 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 59 - 68. 2. Trần Thiện Tỵ, Bùi Thế Phúc (1932), Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, Sài Gòn, tr. 65.
- 70 - dân Pháp cho mở trường học công dành cho nữ. Việc được tự do đi học và đi thi thật sự là một bước chuyển quan trọng đối với đời sống của người phụ nữ. Phụ nữ Sài Gòn có cơ hội được tiếp cận với các tư tưởng mới, ý thức mới về quyền bình đẳng của phụ nữ. Họ đã đón nhận, cổ vũ và tận dụng các cơ hội để bày tỏ quan điểm của mình đối với các vấn đề xã hội, văn hóa và chính trị bằng nhiều hoạt động như làm báo, sáng tác văn học, tổ chức diễn thuyết, viết xã luận, thành lập các tổ chức hiệp hội của nữ giới, chủ trì và tham gia vào hoạt động báo chí, cất tiếng nói riêng của giới nữ… Phụ nữ Sài Gòn đã tạo nên sự thức tỉnh nhất định về ý thức hệ nữ giới. Hai từ “nữ quyền” được nhắc đến đầu tiên vào năm 1914 trong bài “Về thói trọng nam khinh nữ của ta” trên Đông Dương tạp chí (11/2/1914), đã phân tích thực trạng địa vị của người phụ nữ Việt Nam trong gia đình và xã hội nhằm kêu gọi phụ nữ đấu tranh không để cho đàn ông bắt nạt mình “sao cho nữ quyền của chúng ta ngày càng nhớn để cho các thầy nó đố dám lên mặt tu mi mà bắt nạt cân quắc”. Vấn đề này sau đó cũng được nhắc đến trong mục “Nhời đàn bà” trên Trung Bắc Tân văn (số 5, ngày 21/1/1915), Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí nhằm đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong sản xuất. Các tác giả, tuy cách diễn đạt có khác nhau, nhưng cái nhìn của họ đều giống nhau ở một điểm: suy cho cùng phụ nữ bị đánh giá thấp vì không có học thức. Họ vận động phụ nữ đến trường, mặt khác, họ gay gắt lên án cánh đàn ông ngăn cản việc đi học của phụ nữ “Những ông sợ vợ viết chữ hay viết thơ cho trai là những ông không có tài trí gì,… cứ nhốt vợ ở xó nhà… là người hèn”(1). 1. Lê Minh Quốc, “Vài thông tin về tờ Đăng cổ tùng báo - Nhời Đàn Bà”, nguồn: http:// leminhquoc.vn/hoi-hoa/tu-lieu-le-minh-quoc/2429-vai-thong-tin-ve-to-dang-co-tungbao.html?start=2\, truy cập ngày 3/2/2020.
- 71 - Sau màn khởi đầu ấy, tuy mờ nhạt, nhưng ít nhiều vấn đề nữ quyền đã được nêu ra. Bước sang những năm 1920, nhiều trí thức lớn của dân tộc tân hay cựu cũng đã lên tiếng ủng hộ như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Nguyễn Phan Long, Cao Văn Chánh, Diệp Văn Kỳ, Phan Khôi… đều bộc lộ quan điểm và tìm tòi về các vấn đề nữ quyền, nhằm trao đổi, tranh luận với nhau trên diễn đàn báo chí. Người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành cũng viết nhiều bài báo chỉ ra nỗi thống khổ của người phụ nữ Việt Nam trong hệ thống tội ác của thực dân. Như vậy ý thức về nữ quyền đã bắt đầu nhận được sự quan tâm, dù mới chỉ ở một bộ phận nhỏ, nhưng là những người có tầm ảnh hưởng lớn trong xã hội. Đây là một thuận lợi lớn để phụ nữ đứng lên, nói tiếng nói của mình, khát vọng sống và khát vọng hành động của mình. Một điều đáng chú ý trong việc nhận thức về nữ quyền là chỉ ra cái nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng nam nữ - phụ nữ không được tự lập về kinh tế: “Xưa nay chị em ta ở trong xã hội mà bị đàn ông khinh rẻ và áp bức là vì chị em ta không biết tự lập lấy thân, mà sanh ra như là một thứ dây leo, cả đời chỉ những ăn bám. Đàn ông, họ cho rằng cái thân chị em mình, miếng ăn, manh áo, phải nhờ họ làm ra, sống nhờ thác gởi, đều ở trong tay họ, thành ra họ mới có thể xem thường”(1). “Chị em ta đừng ăn bám chồng con nữa”(2). Muốn vậy phải có một nghề nghiệp trong tay và làm giỏi công việc của mình. “Muốn nâng cao nữ quyền không phải chỉ mấy tiếng kêu gào, mấy bài cáo luận mà thâu lấy hiệu quả. Cái cần nhất là nữ giới chúng ta phải biết tự mình nâng cao trí thức và năng lực của 1. Huỳnh Lan, “Chị em ta nên học những nghề nghiệp để mưu tự lập lấy thân”, Phụ nữ Tân văn, số 10, tr. 5. 2. Phụ nữ Tân văn, số 64, tr. 5.
- 72 - mình lên đã”(1). Đây là quan điểm tiến bộ vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến tận bây giờ. Viết là một dạng hành động để chứng tỏ năng lực, chứng tỏ sự chuyên nghiệp trong nghề nghiệp của mình. Cô Nguyễn Thị Kiêm và cô Phan Thị Nga là hai nữ phóng viên trẻ, năng động của tờ báo Phụ nữ Tân văn. Cô Nga ra tận đảo Yến để thực hiện phóng sự, cô Kiêm xông xáo đi phỏng vấn người nước ngoài để viết báo. Họ viết nhiều bài viết về nữ quyền, về thể thao, dịch thông tin, sách báo nước ngoài, phổ biến tinh thần và các gương nữ quyền trên thế giới để chị em trong nước cùng biết, sáng tác thơ, tiểu thuyết theo phong cách mới để cổ vũ cho chị em dần quen với việc bày tỏ “cái tôi” của mình… Quyền được bình đẳng trong thụ hưởng giáo dục là một nội dung quan trọng của nữ quyền. Chỉ có học mới có thể giải phóng mình khỏi những áp bức, xóa được thói nam tôn nữ ti. “Phụ nữ phải lo học, vì bổn phận của người phụ nữ gồm rất nhiều việc, nhất là việc khuyên chồng, nuôi con. Nếu người phụ nữ có học, có hiểu biết thì sẽ làm tốt bổn phận của mình và đem lại lợi ích cho đời hơn”… “Sự giáo dục lúc đầu là sự quan hệ hơn hết, mà sự giáo dục lúc đầu ấy lại tất phải ở tay người phụ nữ”(2). Phụ nữ Tân văn cũng đã vận động thành lập các trường nữ học dạy bằng chữ Quốc ngữ bên cạnh việc dạy tiếng Pháp; có nhà xuất bản riêng của phụ nữ để biên soạn, in sách học và phát miễn phí cho phụ nữ hoặc bán thật rẻ nhằm khuyến khích phụ nữ đọc sách; lập “Nữ lưu học hội” để giúp cho chị em có chỗ học thêm tri thức; kêu gọi bỏ các hủ tục trong sinh hoạt, bỏ lối học khoa cử, cha mẹ hãy biết dạy nghề cho con, 1. Phụ nữ Tân văn, số 226 (1933). 2. J. J. Rousseau, Phụ nữ Tân văn, số 4, tr. 5.
- 73 - tôn trọng nhân cách của con, đối xử công bằng với con gái cũng như con trai. Từ những hoạt động khởi đầu qua báo chí, phong trào nữ quyền ở Sài Gòn đã phát triển rầm rộ. Chính những hoạt động cách tân xã hội, cổ súy nữ quyền đã tác động trực tiếp đến nếp nghĩ lối sống của nhiều tầng lớp phụ nữ, đặc biệt là tầng lớp phụ nữ trí thức. Những khuôn phép cũ đã dần được cởi bỏ, người phụ nữ bước ra xã hội, tích cực tham gia vào những hoạt động thiết thực như mở Hội Dục Anh (7/11/1931), Nữ lưu học hội, Nữ công triển lãm (4 - 7/5/1932), Nữ lưu thơ quán. Sau này, trong số những phụ nữ tích cực đó nhiều người đã tham gia vào phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong trào lưu cổ súy cho nữ quyền trong giai đoạn này, đặc biệt có sự xuất hiện của các cuốn sách viết về nữ quyền, các bài báo đấu tranh cho nữ quyền mác-xít của những nữ chiến sĩ cộng sản. Đây là một quá trình đấu tranh tư tưởng lâu dài và không phải không có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi sự có mặt của những nữ lãnh tụ được đào tạo vững vàng trong môi trường cách mạng, và có sự nhạy bén nắm bắt, phân tích tư tưởng của toàn bộ hệ thống chính trị xã hội đương thời. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập tờ báo Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nhằm truyền bá tư tưởng mácxít về nước. Trong nhiều bài báo, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra nỗi khổ của người phụ nữ, khẳng định vị trí quan trọng của phụ nữ trong cuộc đấu tranh sống còn của dân tộc, và con đường giải phóng duy nhất: “Phụ nữ Việt Nam chiếm đa số trong nhân dân lao động, không những bị áp bức về dân tộc, về giai cấp mà còn bị giáo lý phong kiến kìm hãm trói buộc nên có tinh thần đấu tranh cách mạng mạnh mẽ. Có phụ nữ tham gia
- 74 - thì cách mạng mới thành công, và chỉ khi nào cách mạng thành công, dân tộc được độc lập, giai cấp được giải phóng thì phụ nữ mới được giải phóng”. Năm 1938, Nguyễn Thị Minh Khai, dưới các bút danh Kim Anh, Nguyễn Thị Kim Anh, đã viết cuốn Vấn đề phụ nữ và nhiều bài trên các báo Dân chúng, Đời nay… phổ biến quan niệm nữ quyền Mácxit, đấu tranh với những quan niệm sai lầm trong việc nhận thức các vấn đề về nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Qua các bài báo và cuốn sách này, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin được phổ biến rộng rãi, góp phần định hướng và thúc đẩy phong trào phụ nữ phát triển(1). 1. Hai bài báo đáng chú ý là “Thảo luận vấn đề phụ nữ với nữ sĩ Tuyết Dung” và “Vấn đề giải phóng phụ nữ”, đăng trên báo Dân chúng ngày 18/9/1938. Trong bài báo đăng trên tuần báo Đọc (phát hành ở Hà Nội), nữ sĩ Tuyết Dung ra sức thuyết phục phụ nữ nên quay về gia đình, lo việc nội trợ, chăm con cái, không nên tham gia vào việc vận động phụ nữ bình đẳng, phụ nữ giải phóng: “Các chị chạy xô vào việc giáo dục, việc chính trị, việc viết sách, viết báo, lại còn tổ chức công này việc kia, diễn thuyết vấn đề này nọ, bếp núc thiếu hẳn tay tề gia nội trợ… Ôi, người đàn bà con gái nếu giúp đấng ông chồng cho việc gia đình được ôn cố, gia đình lúc nào cũng đầy vẻ xuân phong, mỗi khi đức ông chồng làm được việc gì hay, lại khéo bề khuyến khích, khéo lời an ủi, làm cho chồng mình được vui lòng nức chí, phấn đấu việc đời, há chẳng phải là chị em đã cho quốc gia xã hội một người công dân đầy đủ bổn phận làm một người hiền phụ rồi. Lại đến khy sinh con, chị em thay chồng chăm sóc, dạy dỗ con vào khuôn phép giáo dục. Chị em thi hành cái nghĩa vụ tự nhiên nuôi dạy con khôn lớn, mạnh giỏi, khiến cho con đều trở nên bậc đại quốc dân cả”…“đàn bà không có râu, đàn bà không có sức khỏe và đã phải mang cái trống bụng lúc chửa con, lại có cái bầu sữa của trời cho để nuôi trẻ. Như thế là tạo hóa đã cho chị em một cái nghĩa vụ tự nhiên… gánh lấy mọi việc gia đình rồi”. Nguyễn Thị Kim Anh đã phổ biến bài báo trên cho chị em đọc, chỉ ra những luận điệu lừa phỉnh, và chỉ ra thực tế: sẽ có nhiều người nghe theo vì thấy có vẻ khá hợp lý. Kim Anh đã viết bài tranh luận thẳng thắn, sắc bén, vừa có chiều sâu vừa có tầm khái quát: “Nếu mỗi người đều lấy nghĩa vụ nuôi con làm trách nhiệm tột bực mà bỏ công việc xã hội, thì chuyện phụ nữ giải phóng không biết đến đời nào sẽ thực hiện được… Phụ nữ giải phóng là công việc của toàn thể phụ nữ, nhưng đồng thời cũng là nhiệm vụ chung của mỗi người. Cuộc vận động phụ nữ đã phát triển khắp thế giới và đã đưa tới cho phụ nữ Liên bang Xô Viết những thành tích vẻ vang… Những câu kết luận cám dỗ của nữ sĩ Tuyết Dung hết sức nguy hiểm, vì không nói theo lối phong kiến tam tòng tứ đức mà hoàn toàn học theo lối nói của Hitle, đầy những giọng lừa đảo khôn khéo, rằng phụ nữ nằm xó bếp mà gánh vác trách nhiệm công dân đầy đủ bổn phận cho quốc gia, nằm trong gia
- 75 - Trên báo Dân chúng, bài báo “Vấn đề giải phóng phụ nữ” của Nguyễn Thị Kim Anh chỉ ra đường lối đấu tranh cho phụ nữ: “Một dân tộc bị áp bức đến tột bực như xứ Đông Dương ta, trách chi địa vị phụ nữ không thấp kém hèn hạ… Bằng trí não hay chân tay, chị em đã từng bán sức lao động, bằng những đồng tiền lương, tiền công ít ỏi thua kém đàn ông, trong khi công việc của chị em vẫn nặng nề, khó, như đàn ông, mà chị em vẫn làm trọn như họ. Hết thảy, chưa có quyền bỏ phiếu, đầu phiếu và không được luật xã hội bảo hiểm khi tai nạn, ốm đau hay sinh đẻ… chị em tất nhiên phải đòi giải phóng để cứu thoát khỏi vòng tăm tối, khổ sở ấy. Nhưng hai tiếng giải phóng đối với phần đông chị em vẫn chưa nhận thức được rõ ràng, đích đáng và triệt để. Khi nào xã hội còn đóng khuôn trong chế độ áp bức bóc lột và bất công của chủ nghĩa tư bản, còn có giai cấp mâu thuẫn nhau, phụ nữ chưa thể hoàn toàn giải phóng được. Gây phong trào vận động để nam nữ bình quyền để thoát khỏi cái ách gia đình chuyên chế, chúng tôi vẫn tán thành cái nguyên tắc ấy, nhưng chủ trương cao hơn một bậc nữa: chúng tôi muốn sự bình đẳng giữa toàn thể nhân loại. Vậy muốn giải quyết vấn đề triệt để, chị em không thể đứng tách riêng, xét về phương diện giới, nam nữ phân biệt. Trái lại, điều cốt yếu của vấn đề là ở phương diện chung: phương diện giai cấp mà chúng ta cần phải giải quyết chung. Chị em phải tham dự một cách hăng hái trong các phong trào đấu tranh của quần chúng, phải đứng trong hàng ngũ với anh em bạn trai, chống phản động tấn công đàn áp bóc lột của đình mà đào tạo ra những bậc lương dân cho xã hội. Tại sao chúng lại lừa gạt khéo thế? Vì rằng ngày nay chị em đã hiểu sự cần thiết phải tham gia việc quốc gia xã hội, muốn giải phóng, muốn bình đẳng nên bọn phát xít mới tìm những câu ấy để dễ ru ngủ các chị em, khuyên chị em yên phận trong gia đình làm nô lệ cho chồng con…”.
- 76 - bọn phản động thuộc địa, giành lại quyền lợi kinh tế, chính trị. Chị em ở xứ xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết đã treo trước mắt một tấm gương chói lọi. Chị em trên một phần sáu địa cầu đã được hoàn toàn giải phóng, được bình đẳng với bạn trai và được tham dự các việc chính trị, kinh tế, văn hóa trên những địa vị cao quý”. Bài báo đã gây tiếng vang trong dư luận không chỉ ở Nam Kỳ mà cả ở Bắc Kỳ. Bài báo của chị Minh Khai đã vạch ra phương hướng rõ ràng cho cuộc vận động giải phóng phụ nữ theo quan điểm của giai cấp vô sản. Sự phát triển của phong trào phụ nữ trong giai đoạn này đã chuyển biến từ những vận động về ý thức nữ quyền ban đầu, từ các hoạt động xã hội dành cho phụ nữ nhằm tạo cơ hội cho tất cả chị em phụ nữ có thể tham gia trong nhiều vai trò khác nhau. Thông qua các tổ chức, phụ nữ được động viên, mở mang đầu óc, học hỏi, tiếp thu tư tưởng tiến bộ và giác ngộ cách mạng. Đây chính là quá trình hình thành phong trào đấu tranh. Trên thực tế, phụ nữ Sài Gòn đã có mặt trong cuộc vận động thành lập Đảng, một bộ phận nữ trí thức đã giác ngộ và gia nhập tổ chức Đảng, sau này trở thành những chiến sĩ cộng sản kiên trung: chị Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Minh Khai… Gần gũi với tầng lớp chị em phụ nữ bình dân, thấu hiểu và chia sẻ hoàn cảnh chung, một bộ phận nữ trí thức tiểu tư sản đã ngả về phía Đảng, tích cực đấu tranh trên nhiều mặt trận, thực hiện “vô sản hóa” theo tinh thần của Đảng. Bên cạnh những cá nhân nổi trội giữ vai trò tiền phong trong thời kỳ đầu là một lực lượng đông đảo chị em phụ nữ bình dân. Đây là những người hăng hái nhất tham gia nông hội, công hội đỏ, có mặt trong hàng trăm cuộc biểu tình, bãi
- 77 - công, anh dũng đương đầu với mọi đàn áp của thực dân, buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ và tiến hành những cải cách xã hội ở một số điểm có liên quan trực tiếp đến phụ nữ. Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng. Cao trào đấu tranh cách mạng 1930 - 1931 nổ ra với các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân. “Trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, có nhiều phong trào đấu tranh hoàn toàn do phụ nữ tổ chức”(1). Ngày 23/3/1931, nữ công nhân hãng dầu Phú Xuân - Nhà Bè biểu tình đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời đã nhanh chóng nắm bắt tình hình và kịp thời lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Cao trào đấu tranh 1930 - 1931 bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Một mặt, chúng thực hiện chính sách khủng bố những cơ sở Đảng, lùng sục bắt giam những người yêu nước để làm gương răn đe, trấn áp. Một mặt, chúng tung ra những chiêu bài cải lương, nhằm mua chuộc và dụ dỗ, thông qua hàng loạt những cải cách như: cải tổ giáo dục sơ học, cải tổ tư pháp bản xứ, nâng ngạch lương công chức Pháp cho công chức bản xứ, cho tư bản bản xứ tham gia đấu thầu và hưởng “quy chế lao động”, cấp học bổng cho người bản xứ, khuyến khích phát triển tôn giáo, xuất bản các sách báo lãng mạn, sách thần tiên, sách bói toán… Chính sách này đã dẫn đến sự phân hóa. Bằng những biện pháp đó, thực dân Pháp đã tranh thủ lôi kéo được một số người trong tầng lớp tiểu tư sản và tầng lớp thượng lưu; nhiều người hy vọng vào cái gọi là “cải cách” của chính quyền thực dân. Dù những hoạt động này có thể chỉ là chiêu bài “bịp bợm”, nhưng Đảng đã tranh thủ cơ 1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2009), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 57 - 58.
- 78 - hội này để đòi các quyền dân chủ dân sinh dưới hình thức tổ chức các phong trào đấu tranh công khai hợp pháp. Tuy gặp nhiều khó khăn hơn trước, nhưng nhờ sự linh hoạt của các chiến sĩ cộng sản hoạt động tích cực trong các xí nghiệp, nhà máy, các chợ, và đi sâu vào quần chúng, phong trào đấu tranh tiếp tục được tổ chức, củng cố. Ngày 21/4/1932, diễn ra cuộc bãi công của 500 nữ công nhân Hoa kiều làm ở 13 xưởng dệt tại Chợ Lớn(1) sau đó biến thành cuộc biểu tình phản đối các chủ xưởng hạ tiền công. Năm 1933, có hai cuộc bãi thị của tiểu thương chợ Bến Thành, và một cuộc biểu tình của hàng ngàn nông dân Tân Thới Thượng phản đối chủ tỉnh Gia Định cấu kết với bọn tề xã thu thuế thuốc lá. Năm 1934 - 1935, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân thành phố vẫn phát triển mạnh, chiếm 2/3 tổng số cuộc đấu tranh của toàn Đông Dương (40/60 cuộc), tập trung nổ ra ở những trung tâm quan trọng như: xưởng Ba Son, sân bay Tân Sơn Nhất, các nhà máy, xe điện, xe kéo, xe thổ mộ… Tiêu biểu là cuộc bãi công của toàn thể công nhân ở 12 nhà máy xay Chợ Lớn, 3 cuộc đấu tranh của anh chị em xe thổ mộ lôi kéo 5.000 người tham gia. Đến cuối tháng 12/1935, anh chị em xe thổ mộ tổ chức cuộc bãi công lần thứ 4, gây tiếng vang lớn sang tận Paris (Pháp), là một trong những sự kiện cụ thể để các nghị sĩ cộng sản đấu tranh tại Nghị viện đòi Chính phủ Pháp cử đại diện sang thanh tra Đông Dương(2). 1. Cổng thông tin điện tử Chính phủ - Thành phố Hồ Chí Minh (2011), “Sài Gòn đứng lên và kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi (1930 - 1954)”, nguồn: http:// tphcm.chinhphu.vn/sai-gon-dung-len-va-khang-chien-chong-thuc-dan-phap-thangloi-1930-1954, truy cập ngày 30/12/2017. 2. Cổng thông tin điện tử Chính phủ - Thành phố Hồ Chí Minh (2011), “Phong trào đấu tranh của nhân dân Quận 1 dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố từ 1930
- 79 - Năm 1936, cuộc đấu tranh của gần 500 công nhân nữ nhà máy thuốc lá Cotab với khẩu hiệu “Phải đấu tranh! Không đấu tranh không sống nổi”(1) đòi tăng lương giảm giờ làm, đình công không làm việc. Những người tham gia đấu tranh đều là những cô gái còn rất trẻ, tuổi từ 15 - 20, gồm cả người Việt và người Hoa. Họ đấu tranh một cách có tổ chức, bình tĩnh đưa yêu sách của mình(2). Những năm 1937 - 1938, phong trào ái hữu phát triển rầm rộ thu hút hàng vạn hội viên, trong đó có những hội ái hữu đông phụ nữ hoặc toàn phụ nữ: thợ may, thợ thêu, thợ dệt, nữ công gia chánh, chợ, sân khấu cải lương. Ái hữu không chỉ phát triển trong nội thành mà ở cả nông thôn. Ở Bà Điểm, Hóc Môn, ngoài những vạn cấy, vạn gặt, hội hiếu hỉ đã có sẵn, nay có thêm hội tương tế, ái hữu, hội âm công, nhà vàng. Chị em nông dân vốn không có vai trò trong xã hội, nay rất thiết tha với hội. Từ trước tới nay, chị em không chỗ nương tựa, không ai đoái hoài, tới nay có người thăm hỏi, trò chuyện, chị em tâm tình cởi mở. Khi chị em đau yếu, hội cử người đến thăm quà, làm cho chị em phấn khởi, vinh dự(3). “Trong năm 1939, thời kỳ đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, Hội Phụ nữ Nam Bộ đã lập ra nhiều loại hình tổ đến Cách mạng tháng Tám”, nguồn: http://www.quanuy1hcm.org.vn/cps/WebParts/ General/ContentDisplay/ContentFiles/ContentDocs/Lichsudangbo/tap1/C2.4.3.pdf, truy cập ngày 30/12/2017. 1. Ở bộ phận gói thuốc lá của nhà máy thuốc lá Cotab, hầu hết công nhân là nữ, là các cô gái khoảng 15 - 20 tuổi. Công việc làm ăn trong xưởng đã ngừng ba hôm. Chị em công nhân không thể chịu được cảnh ngày công kéo dài 13 - 14 tiếng liên tục trong cái phòng quấn thuốc nồng nặc mùi thuốc lá và nóng đến ngạt thở. (Dẫn theo Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 110). 2. Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 110. 3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 92.
- 80 - chức để thu hút, tập hợp phụ nữ tham gia đấu tranh trên nhiều địa bàn/ khu vực, trong nhiều ngành nghề. Cụ thể là: Phụ nữ Tân tiến, Phụ nữ Thể dục, Hội Những người mẹ chống chiến tranh, Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Hội Ca hát, Hội Vệ sinh trẻ em, Hội Trường nữ công… Nhưng hình thức tổ chức phổ biến nhất là Hội Ái hữu”(1). Từ phong trào Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, dưới chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp, phụ nữ đã hứng chịu sự trả thù dã man, tàn bạo của bọn thực dân. Sự man rợ ấy làm cho phụ nữ Nam Kỳ và phụ nữ Sài Gòn càng bừng lên ngọn lửa căm hờn, giữ vững ý chí chiến đấu đến cùng dù ở trong tù ngục lẫn ở ngoài song sắt, tận dụng mọi cơ hội để có thể tổ chức các hoạt động đấu tranh trên mặt trận chính trị như: đấu tranh rầm rộ đòi dân sinh, dân chủ, đòi những quyền lợi thiết thân hằng ngày, như cuộc bãi công của toàn thể phụ nữ may quần áo cho Nhật ở đường Chaigneau(2); đòi bồi thường cho những gia đình chết vì bom đạn (15/4/1944); cuộc bãi công của 5.000 phụ nữ làm việc tại các trại lính Nhật ở Chí Hòa và nữ công nhân xưởng giày Đại Nam bãi công đòi tăng lương (8/1944). Các tổ chức dù ở hình thức sơ khai, khởi đầu, nhưng đã tập hợp được lực lượng phụ nữ Sài Gòn, họ được đứng cùng nhau trong hàng ngũ và từng bước nhận thức được sức mạnh của mình. Có cuộc đấu tranh giành thắng lợi, và có cả những cuộc bị đàn áp đầy thương đau, nhưng trải qua những thử thách, ý chí và tinh thần của họ đều được rèn luyện. Từ các hình thức tổ chức này, phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 50 - 51. 2. Nay là đường Tôn Thất Đạm.
- 81 - Gòn từng bước phát triển, từ đó xác lập vị trí của người phụ nữ trong các lĩnh vực và trong cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc. Thực tế chứng minh đây là phương pháp tổ chức hoạt động phong trào phù hợp với tính cách của con người và vùng đất Sài Gòn. Các tổ chức phụ nữ hoạt động trên tinh thần tự nguyện, vô vụ lợi, phương thức hoạt động gần gũi, linh hoạt, mang lại những kết quả thiết thực và có sức lan tỏa mạnh mẽ. Khả năng tổ chức, đoàn kết được tập luyện cho các hoạt động đấu tranh sau này, nhất là trong số các chị em phụ nữ làm việc tập trung ở các hãng, xưởng. Trải qua nhiều cuộc vận động lịch sử trong suốt giai đoạn, người phụ nữ Sài Gòn đã có được nhận thức chính trị, thông suốt về tư tưởng và phương hướng hoạt động rõ ràng hơn: Cách mạng giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ(1). Từ nhận thức này, các hoạt động chuyển sang hình thức tích cực hơn: vận động, tổ chức chị em phụ nữ, động viên tinh thần tiến bộ và yêu nước trong chị em phụ nữ. Tập hợp phụ nữ trong các tổ chức, vì một mục tiêu chung, là một trong những hình thức xây dựng phong trào phụ nữ, được vận dụng liên tục trong suốt quá trình đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn. 2. Báo chí, văn hóa nghệ thuật a. Báo chí Sài Gòn chính là cái nôi của báo chí. Gia Định báo - tờ báo Quốc ngữ đầu tiên, ra đời ngày 15/4/1865, đánh dấu sự mở đầu của lịch sử báo chí Việt Nam. Từ cái nôi này, một không khí báo chí đặc biệt đã được tạo dựng. Sài Gòn trở thành nơi thu hút các hoạt động học tập, làm việc của nhiều trí thức từ miền Bắc, miền Trung vào. 1. Nguyễn Thị Thập chủ biên (1980), Lịch sử phong trào Phụ nữ Việt Nam, tập 1, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội.
- 82 - Báo chí là một mặt trận đấu tranh đặc biệt của phụ nữ Sài Gòn. Ngay từ trước những năm 1930, tờ Nữ giới chung(1) xuất hiện, bà Sương Nguyệt Anh (1864 - 1921) làm chủ bút, mở ra một thời kỳ phụ nữ làm báo, quản lý báo - việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử, và chỉ có thể khởi phát ở vùng đất mới này. Các đề mục của Nữ giới chung: Xã thuyết (luận đàm về các vấn đề có liên quan hay có lợi cho phụ nữ, thuần phong mỹ tục hay cổ động việc công thương); Gia chánh (hướng dẫn những việc cần thiết cho phụ nữ: may vá, nấu nướng, cách nuôi dạy con, đối xử với người giúp việc), Văn uyển (viết về văn chương chữ nghĩa để trau dồi học thức và chữ nghĩa), Thời đàm (luận về thời cuộc, tình hình thế giới hay trong nước có liên quan đến nữ giới), Học nghệ (những nghề nghiệp mới, bí quyết, kỹ năng), Truyện ký (nhắc về những gương liệt nữ, anh thư), Tiểu thuyết… thể hiện sự bao quát xã hội rộng rãi và mối quan tâm đến lợi ích hưng vong của dân tộc, giống nòi. Xuất bản được 22 số, Nữ giới chung bị đình bản ngày 19/7/1918, vì đã đánh động tinh thần nhân bản, khai phóng và dân tộc, có ảnh hưởng từ các phong trào yêu nước. Tôn chỉ của tờ báo chưa thực hiện được, nhưng đã đóng vai trò tiên phong khởi xướng đấu tranh, khơi mầm cho tinh thần tự do ngôn luận của phụ nữ. 10 năm sau Nữ giới chung, Sài Gòn xuất hiện tuần báo Phụ nữ Tân văn. Người điều hành tờ báo ấy cũng là một phụ nữ, bà Cao Thị Khanh. Trong thực tế hoạt động, tuần báo Phụ nữ Tân văn đã khẳng định vị trí, tài năng của người phụ nữ qua hoạt động báo chí, hoạt động văn chương, sức ảnh hưởng của tờ báo còn lan rộng, vượt ra khỏi khuôn khổ vùng đất Nam Kỳ. Phụ nữ Tân văn còn có thêm các chuyên mục: Ý kiến của 1. Nữ giới chung ra đời tháng 2 năm 1918, do ông Henri Blanquière, Giám đốc tờ báo tiếng Pháp Le Courrier Saigonnaise, được phép xuất bản một tờ báo tiếng Việt dành cho phụ nữ. Bà Sương Nguyệt Anh được mời làm chủ bút.
- 83 - chúng tôi với thời sự, Thế giới trong 5 tháng nay, Việc nhà việc nước trong 5 tháng nay… Đội ngũ viết, ngoài các cây bút nổi bật, Phụ nữ Tân văn có bà chủ bút viết giỏi, có những phóng viên trẻ, hăng hái, giỏi việc. Họ thực sự có tài, có tâm, có ý chí, có tinh thần dấn thân vì nghề báo. Phụ nữ Tân văn khẳng định “không bàn đến chính trị”, nhưng thực tế, trong các bài viết của mình, dưới hình thức tin tức khách quan, đã tố cáo trực tiếp tội ác của bọn thực dân “… Những chuyện chú sơn đã quên trả tiền xe kéo, ông cặp rằn đánh culi bằng roi da… đại khái như thế, thật nhiều người Annam tự hỏi cái số mạng mình (biết) sao mà nói”(1). Thái độ ủng hộ phong trào cách mạng được bày tỏ như một tinh thần đồng thuận với chọn lựa của lớp thanh niên, của người lao động bình dân: “Nhơn vì hồi nầy phong trào biến động nổi lên khắp nước, không biết sao mà có nhiều thanh niên nam nữ Việt Nam lăn vào cách mạng nhiều quá”(2). Sau khi tờ Phụ nữ Tân văn bị đình bản, một số tờ báo dành riêng cho phụ nữ tiếp tục xuất hiện. Trên mặt báo, các nữ nhà báo viết bài lên án cuộc sống vô bổ của giới thượng lưu trí thức, sống thờ ơ trên nỗi đau của đồng loại, của dân tộc. Các tờ báo tổ chức thực hiện những phóng sự điều tra về điều kiện sống, làm việc của tầng lớp phụ nữ lao động ở thôn quê, phản ảnh đời sống lao động vất vả, những thiệt thòi bất công của phần đông lao động nữ đang làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền dưới chế độ thuộc địa. Những bài viết một mặt mang tính giáo dục, thức tỉnh người phụ nữ đang an phận, chìm đắm trong sự u mê, thói tật không tốt: “Cái hại của phụ nữ đánh bài giờ” (24/3/1932), “Cái hại ăn dưng ngồi rồi của chị em ta” (5/11/1931); mặt khác, các bài viết có cảm 1. Phụ nữ Tân văn, số 48, tr. 8. 2. Phụ nữ Tân văn, số 58, tr. 5.
- 84 - quan hiện thực mạnh mẽ, tỏ bày cái khổ, cái thiệt thòi của phụ nữ trong một ý thức tố cáo, kêu gọi sự chia sẻ, đồng cảm của toàn thể những người phụ nữ khác trong xã hội: “Đàn bà An Nam dưới chế độ tư bổn đã trở nên như thế nào” (13/8/1931), “Phụ nữ lao công” (27/9/1934), “Phụ nữ chủ nghĩa hay nữ quyền là gì” (7/10/1933), “Tiếng Oanh kêu đàn” (6/12/1934), “Tình cảnh chị em thất nghiệp” (Đàn bà mới, 9/3/1935), “Đàn bà trong thôn quê với chị em thành thị” (Phụ nữ Thời đàm, 19/1/1931), “Cái cảnh khổ của một người bị bớt lương” (Phụ nữ Thời đàm, 26/1/1933), “Phụ nữ thôn quê” (Phụ nữ Tân tiến, 1/3/1933), “Trên sở cao su” (Đàn bà mới, 6/4/1935)… Năm 1934 - 1935, hai khuynh hướng tư tưởng xuất hiện trên báo chí: cuộc đấu tranh giữa tư tưởng nữ quyền tư sản và nữ quyền mác-xít. Đây là giai đoạn chị Nguyễn Thị Minh Khai về nước lãnh đạo quần chúng, tuyên truyền tư tưởng của Đảng, khơi dậy và truyền động lực cho nhiều chị em cùng tham gia viết báo, khẳng định giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng dân tộc và phụ nữ thực sự được giải phóng phải tham gia vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Trong hoạt động đấu tranh ở Chợ Lớn, báo chí có vai trò rất quan trọng(1). Quá trình nhận thức các vấn đề của phụ 1. Một tin báo về chuyện công nhân nữ bị đối xử không bình đẳng, đã kết hợp đưa lại tin trước đó chị công nhân Phan Thị Phụng bị đánh đập đến chết: “Cái án ấy vẫn còn trong trí não của giai cấp công nhân xứ này: một người làm công bị cai cập rằng đánh đến chết, nhà đương cuộc vẫn dung túng đứa sát nhân. Nay xảy ra vụ này nữa, 10 octobre 1938, hồi 4 giờ chiều hãng rượu lave Chợ Lớn, tên cập rằng chà và Palican đánh chị Nguyễn Thị Bé đến trọng bệnh. Chị thưa bót, bót xử huề. Về hãng, chị bị cúp 8 ngày lương. Người lao động xứ này, luật pháp không hề bảo hộ.” Ngày 23/11/1938, báo Dân chúng đưa về việc lạm quyền ở Hóc Môn: “Sau cuộc biểu tình ở Bình Lý, ngày 26/10/1938, nhiều người bị bắt giải biện lý: họ được thả lâu rồi, họ đi lại làng này đòi giấy thuế thân, nhưng làng không chịu trả lại. Hỏi ra mới biết thầy cai tổng Nhứt bảo đừng trả (giấy) thuế thân lại cho ai cả. Thật là một sự lạm quyền trái phép làm trở ngại sự làm ăn của dân chúng lương thiện”.
- 85 - nữ và giải phóng phụ nữ đi từ lĩnh vực văn hóa - nữ học, giáo dục phụ nữ đến lĩnh vực chính trị - xã hội, các vấn đề lao động nữ, phụ nữ và quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham chính. Bằng cách vẽ ra cuộc sống đối lập của những tầng lớp phụ nữ khác nhau, báo chí đã thực hiện hai mục tiêu: kêu gọi chị em từ bỏ lối sống cũ, không còn phù hợp nữa, hãy dành thời gian tiền bạc để giúp ích cho xã hội, cho những chị em cần lao, cực khổ; và gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân. Động cơ của những tờ báo là gì nếu không phải là lòng yêu nước, là sự đồng cảm với những người nghèo khổ. Muốn nói lên một cách chân thực những cảnh đời cơ cực ấy của người phụ nữ, có cách nào khác nếu không phải là đi vào cuộc sống của người phụ nữ nông dân, công nhân tại các đồn điền, xí nghiệp, cùng ăn, cùng ở, cùng trải nghiệm cảm giác của người dân mất nước, mất chủ quyền cơ cực như thế nào. Ngòi bút được chân thật hơn, sát hơn với thời cuộc, thì tiếng nói lên án càng mạnh mẽ, sức tố cáo sẽ lan tỏa rộng hơn. Đó cũng là sự giác ngộ chân thực sâu sắc, từng bước theo con đường thực hiện chủ trương của Đảng. Một số tờ báo đã bị đình bản vì những hoạt động này. Rời tờ báo cũ, các nữ phóng viên đầu quân cho các tờ báo khác, tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút của mình. Báo chí và các hoạt động xã hội đã dấy lên phong trào phụ nữ vận động ở Đông Dương. Hoạt động báo chí sôi nổi của phụ nữ Sài Gòn góp phần tích cực vào phong trào Đông Dương Đại hội. Trong phong trào này, phụ nữ đã ghi những dấu ấn, đấu tranh trên mặt trận báo chí theo đúng hướng Đảng đề ra: đòi quyền lợi dân chủ, dân sinh cụ thể cho giới nữ: Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Thu, Mai Huỳnh Hoa viết bài “Phụ nữ với Đông Dương Đại hội”; Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Thu,
- 86 - Nguyễn Thị Kiêm và Mai Huỳnh Hoa viết “Phụ nữ Đông Dương có những nguyện vọng gì”. Hai bài này đăng trên Hồn trẻ (tập mới), số ra ngày 20/8/1936, có sau có đăng lại trên tuần báo Nữ lưu (21/8/1936). Các bài báo hướng dẫn và kêu gọi “chị em thượng lưu, trung lưu, chị em lao động hãy đoàn kết lại, lo lập từng Ủy ban hành động, cử đại biểu liên lạc trực tiếp với nhau, thảo luận bản yêu cầu của mình và hiệp với anh em nam giới vận động để thành lập Đại hội Đông Dương”. Ngay sau hai bài báo trên, tuần báo Nữ lưu, số ra ngày 14/9/1936 đăng Lời thiết tha kêu gọi phụ nữ Đông Dương, hướng dẫn khẩu hiệu của phụ nữ phải gắn với 7 yêu cầu thiết thực như: Tự do và cơm áo; Thực hiện quyền phụ nữ phổ thông đầu phiếu; Giáo dục nhân dân; Thành lập các trường dạy nghề; Tuyển dụng phụ nữ vào các công sở; Làm việc ngang nhau, tiền lương ngang nhau; Mở trường và các nhà dạy thể dục thể thao cho chị em phụ nữ; Xóa bỏ việc quy định chỗ ngồi bán ở Sài Gòn”… Trong giai đoạn này, báo chí là một trong những mặt trận đấu tranh quan trọng, là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội một cách công khai. Các chính sách của nhà cầm quyền, các điều kiện về chữ viết, về khả năng lan truyền thông tin, trình bày, tranh luận quan điểm… được phản ánh trên trang báo khiến mặt trận báo chí có vai trò đặc biệt. Đến các giai đoạn sau, những phương tiện truyền thông khác góp thêm phần ảnh hưởng, đồng thời, các phong trào đấu tranh mạnh dần lên, các kênh tuyên truyền cũng phong phú hơn, báo chí có thêm nhiều bạn đồng hành trong cuộc đấu tranh chung của toàn xã hội. Tận dụng thắng lợi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đội ngũ nhà báo tiếp tục đấu tranh đòi tự do báo chí. Thời
- 87 - kỳ 1936 - 1939, ở Sài Gòn có những nới lỏng nhất định từ phía nhà cầm quyền, tờ báo Dân chúng đã tranh thủ cơ hội để tự do thể hiện quan điểm của mình, tư tưởng yêu nước, lên án tội ác của thực dân. Báo chí đã góp phần tác động, tạo ra những chuyển biến về mặt tư tưởng của đông đảo các tầng lớp phụ nữ, là một nền tảng sâu rộng để phát triển phong trào phụ nữ một cách bền vững. Trong làng báo Sài Gòn, có một đội ngũ viết báo là các chiến sĩ cách mạng tiên phong như: Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Thu, Mai Huỳnh Hoa (cháu gái của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh), Nguyễn Thị Kim Anh (bút danh của chị Minh Khai). Đội ngũ nhà báo này tích cực đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, tuyên truyền tư tưởng cách mạng, tổ chức, vận động và hướng dẫn phong trào đấu tranh của phụ nữ. Báo chí đã trở thành mặt trận đấu tranh và là vũ khí đấu tranh. Đây chính là sự khác biệt lớn trong phong trào đấu tranh giai đoạn này, chứng tỏ sự tiến bộ của lực lượng phụ nữ về nhận thức và hành động, tạo tiền đề, và là động lực để phụ nữ tiếp tục đóng góp công sức của mình trong các phong trào đấu tranh tiếp theo của dân tộc. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều và thường xuyên các tên tuổi nữ trên các báo dành cho phụ nữ, cũng như các trang phụ nữ trên các báo hằng ngày, vấn đề phụ nữ trên báo chí đã thực sự trở thành nhận thức của xã hội nói chung và nữ giới nói riêng, về quyền lợi chung và sức mạnh của nữ giới. Một đặc điểm chung của các tờ báo nữ cũng như hoạt động xuất bản nữ, đó là: hòa trong tinh thần tranh đấu chung, những tờ báo đều có tôn chỉ rõ ràng, ủng hộ cuộc đấu tranh vì nam nữ bình quyền, vì nâng cao dân trí và khả năng đóng góp của nữ giới cho dân tộc. Hoạt động của phụ nữ trên mặt trận báo chí đã có sức mạnh riêng, khi
- 88 - được định hướng, lãnh đạo, đã trở thành một mũi nhọn trong đấu tranh công khai, hình thành lực lượng rộng rãi của phong trào phụ nữ Sài Gòn. b. Văn hóa nghệ thuật Mặt trận văn hóa nghệ thuật cũng là một trong những bình diện có sự góp mặt của đội ngũ chị em nữ giới. Bởi, như một phong trào mang tính canh tân trong bối cảnh nhiều thay đổi của xã hội Việt Nam thời kỳ này, những loại hình văn hóa nghệ thuật như Thơ Mới, tiểu thuyết đã vượt ra ngoài phạm vi đơn thuần văn học để tham gia đặt lại các vấn đề về tự do, hạnh phúc cá nhân trong tình yêu và hôn nhân, về gia đình, về địa vị, vai trò của người phụ nữ. Trước năm 1930, số lượng phụ nữ sáng tác văn chương còn ít. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Bằng Giang, “tính đến năm 1930, văn học Quốc ngữ Nam Kỳ có non 20 tác giả nữ còn để lại tác phẩm in thành sách”. Đô thị phát triển nhanh, kéo theo sự phát triển của tầng lớp thị dân, đòi hỏi phải có một loại hình văn học phù hợp với thị hiếu mới. Bên cạnh báo chí, văn học phát triển mạnh. Có một đặc điểm khá rõ ở giai đoạn này, đội ngũ tác giả viết tiểu thuyết hầu hết đều là những tay làm báo thiện nghệ. Làm báo là một lợi thế khi họ chuyển sang viết văn hoặc làm đồng thời cả hai việc, vì họ nắm bắt được thị hiếu của độc giả. Các cây bút nữ xuất hiện muộn, nhưng với nhiều dáng vẻ, giọng điệu, góp mặt trong cả lĩnh vực sáng tác thơ ca lẫn tiểu thuyết. Người phụ nữ biết chữ và người phụ nữ viết văn vốn rất hiếm hoi trong thời kỳ văn học trung đại đã trở nên quen thuộc và để lại dấu ấn trong đời sống văn hóa, văn nghệ đương thời. Văn chương của các tác giả nữ, viết về số phận,
- 89 - đặc điểm, tương lai, quyền lợi của người phụ nữ cũng là một mảng trong tư tưởng nữ quyền. Như một hệ quả tất yếu, phong trào nữ quyền đã mở ra những điều kiện phôi thai và trở thành bà đỡ mát tay cho nhiều tác giả, tác phẩm nữ. Về lĩnh vực tiểu thuyết, văn học Nam Bộ ghi nhận sự góp mặt của các cây bút nữ xông xáo tham gia vào buổi đầu của tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc như: Phan Thị Bạch Vân, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Trần Thị Như Mân, Huỳnh Anh Thị, Ái Lan… Phần lớn những tác giả sinh sống ở nhiều vùng khác, gửi bài về đăng trên các báo ở Sài Gòn. Nữ viết cho nữ đã là tốt, nhưng nam viết cho nữ, bênh vực phụ nữ bằng cả sự thấu hiểu, cũng thật đáng trân trọng. Hồ Biểu Chánh là một tác giả vốn thuộc thế hệ các nhà nho, đã cho ra đời nhiều tác phẩm(1) mà sự phổ biến nhanh chóng và rộng rãi của chúng có phần bởi chúng mang tiếng lòng của những nhân vật nữ. Hầu như các nét tính cách của người phụ nữ Nam Bộ đều có thể thấy trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh: đảm đang tháo vát, giàu lòng vị tha, thương người, chịu đựng trắc trở khó khăn với tấm lòng nhẫn nại… Sự phong phú của các mẫu nhân vật nữ trong tác phẩm văn học biểu hiện cho sự đa dạng của cuộc sống, trong đó nổi lên sự dung hợp giữa tính cách truyền thống của phụ nữ phương Đông với những tính cách, tinh thần mới trong xã hội hiện tại: “Trước khi nhận ra nhiệm vụ của mình trong xã hội… cần phải hiểu mình có sống. Đó là bổn phận trọng yếu nhất: bổn phận làm người. Người “đàn bà mới” thật sự cũng không thua các chị em xưa về sự quán xuyến trong gia đình. Hơn nữa người 1. Một số tác phẩm giai đoạn này: Ai làm được, Chúa Tàu kim qui, Cay đắng mùi đời, Ngọn cỏ gió đùa… Có nhiều tiểu thuyết lấy bối cảnh Nam Bộ, đặc biệt là ở đô thị Sài Gòn, đăng báo nhiều kỳ, như: Chút phận linh đinh, Bỏ chồng, Vì nghĩa vì tình, Đoạn tình, Ái tình miếu, Cô Đào Cô Lý, Cha con nghĩa nặng…
- 90 - “đàn bà mới” biết trông xa, hiểu rộng, rõ địa vị trách nhiệm mình trong xã hội”(1). So sánh trong tương quan, nhóm Tự lực Văn đoàn ở phía Bắc với hai ngòi bút chủ soái là Nhất Linh và Khái Hưng, mà tiểu thuyết Đoạn tuyệt là tác phẩm gây tiếng vang lớn, đã đi tiên phong trong việc cất lên tiếng nói bênh vực và đấu tranh vì quyền bình đẳng cho phụ nữ trong xã hội. Tác phẩm mang tính luận đề, bút pháp lãng mạn, thể hiện hình tượng người phụ nữ tân thời và cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt giữa hệ tư tưởng mới mẻ, chống đối lễ giáo phong kiến thủ cựu nặng nề và chế độ đại gia đình Nho giáo hà khắc. Sự phản kháng đi liền với khao khát và ước mơ cho một con đường giải phóng phụ nữ, “đoạn tuyệt” với quá khứ và hướng đến tương lai. Sâu hơn, có thể thấy gánh nặng lễ giáo phong kiến, cái dằn vặt giải phóng cuộc đời, ở hình tượng nhân vật nữ trong văn chương Tự lực Văn đoàn, vẫn còn là sự dùng dằng, co kéo, trong ý thức, tư tưởng, dự định. Trong khi đó, tinh thần trong văn chương Nam Bộ, dân dã, mộc mạc nhưng quyết liệt hơn, rành rọt hơn, thực tế hơn. Dấu ấn của nữ giới trong Thơ Mới có đậm hơn, nhiều âm sắc, để lại các đường nét độc đáo. Đó là một nữ sĩ Manh Manh táo bạo, quyết liệt ở giai đoạn đầu. Những giai đoạn sau, là Đạm Phương, Mộng Tuyết, Trần Kim Phụng (Đinh Hương Đặng Thị Hồi), Trần Ngọc Lầu, Anh Thơ, Ngân Giang, Vân Đài, Hằng Phương… Các nữ sĩ hòa cái nhẹ nhàng, nữ tính của mình với tinh thần tự do của vần điệu, tìm cách dung hòa giữa cái cũ và cái mới. Khi đứng cạnh nhau, họ cùng nhau nhuận sắc nền văn học Nam Bộ. Khi đứng tách riêng, mỗi gương mặt lại có một nét vẻ riêng, một sắc màu riêng. 1. Báo Đàn Bà Mới, ngày 24/8/1936.
- 91 - Nguyễn Thị Manh Manh (Nguyễn Thị Kiêm) là người có công với Thơ Mới, đã được ghi nhận. Trong hầu hết các công trình nghiên cứu về Thơ Mới, cái tên Manh Manh luôn có một vị trí rất đặc biệt. Hoài Thanh khen cô là người “có tài và có gan”. Nguyễn Thị Kiêm đã sáng tác Thơ Mới, từng có một câu thơ dài tới 29 chữ “Các anh ơi, đó là nhà thám hiểm, lại là giống đàn bà, đem cái trí, cái tài, cái gan của mình để phục vụ cho sự khoa học”(1), cố tình đưa văn xuôi ồ ạt vào thơ để phá hết mọi luật lệ, phép tắc, vần điệu của thơ cũ. Sáng tác ấy là biểu hiện cho sự dứt khoát, không thỏa hiệp với thơ cũ, đối lập quyết liệt với quá khứ. “Sự ủng hộ của Manh Manh rất cần thiết trong mấy năm đầu ra đời của một phong trào thơ còn bị khuất lấp trong cả một biển mênh mông của thơ cũ… Đó là điều Manh Manh đã đóng góp cho phong trào Thơ Mới với tư cách là người đi tiên phong”(2). Các làn sóng văn hóa nghệ thuật phương Tây tràn vào Sài Gòn. Rạp hát bóng (chiếu phim) khá thịnh hành thời kỳ đó. Qua phim ảnh, văn hóa phương Tây đã có những tác động mạnh đến xã hội. “Đi xem, hiểu được lời lẽ trong phim. Nhưng vấn đề ở chỗ, các chủ rạp lại đưa ra những phim có thể làm tổn hại đến luân lý xã hội, nhất là các loạt phim khiêu dâm, lõa thể rất thịnh hành và những cái quảng cáo được đưa ra vô cùng bá đạo”(3). 1. Câu thơ trích trong bài thơ “Bà Lafugie, nhà thám hiểm và họa sĩ” của nữ sĩ Manh Manh đăng trên Phụ nữ Tân văn, số 239, ngày 26/4/1934. 2. Đoàn Lê Giang, “Thơ mới Nam Bộ 1932 - 1945”, trong sách Trần Hữu Tá, Nguyễn Thành Thi, Đoàn Lê Giang chủ biên (2013), Nhìn lại Thơ Mới và Văn xuôi Tự lực Văn đoàn, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, tr. 95 - 105. 3. Giang - Phú, “Giáo dục bình dân”, trong Tủ sách pháp luật - kinh tế - xã hội phổ thông (1953), Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, quyển thứ ba, tr. 59 - 60.
- 92 - Nghệ thuật kịch nói được du nhập, nghệ thuật cải lương phát triển và những đóng góp từ lao động nghệ thuật của các nghệ sĩ đã góp phần thay đổi quan niệm về nghệ thuật, quan niệm về người nghệ sĩ trong xã hội. Thời gian này, hoạt động biểu diễn dần bước vào con đường chuyên nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Kịch nghệ sân khấu thu hút giới bình dân hơn. Có tiền, họ sẽ đi coi cải lương. Họ biết rõ các đào kép cải lương”(1). Nghệ sĩ cải lương nổi bật thời kỳ này là Năm Phỉ. Được phát hiện tài năng năm lên 13 tuổi, sau đó trở thành đào chính của gánh hát Nam Đồng Ban, cô đào cải lương trẻ đã bị cha phản đối kịch liệt. Thân sinh đào Năm Phỉ là cụ Lê Tấn Công, có 11 người con lần lượt tên là Thành, Danh, Toại, Phỉ, Chí, Nam, Nhi, Bia, Truyền, Tạc, Để. Là một trí thức Tây học nhưng chịu ảnh hưởng khá rõ nét tư tưởng Nho giáo, cụ Lê Tấn Công rất ghét “xướng ca vô loài”. Cũng vì theo nghề hát mà Năm Phỉ bị cha tuyên bố từ mặt, không nhận là con. Qua nhiều vở diễn, với tài năng của mình, nghệ sĩ cải lương Năm Phỉ được người bình dân yêu mến hết lòng. Cô là một tấm gương lớn của sân khấu cải lương, có sức ảnh hưởng lớn đến công chúng. Năm Phỉ cũng như các nghệ sĩ khác đã chọn đứng về phía nhân dân, đứng về phía người lao khổ, cùng với họ tham gia vào cuộc đấu tranh sống còn của dân tộc. Ngày 1/5/1938, ở Sài Gòn, Ban Công đoàn tổ chức mít tinh công khai ở rạp Đội Có (Tân Định), hàng ngàn người tham gia, trong đó có nhiều phụ nữ, thanh niên. Trong chương trình, nghệ sĩ Năm Phỉ lộng lẫy trong chiếc áo dài màu hoàng anh, oai phong trong vai Trưng Trắc, Trưng Nhị đã phát biểu: “Thay mặt cho nghệ sĩ và ái hữu cải lương, xin chào đồng bào và anh em, thầy thợ. 1. Giang - Phú, “Giáo dục bình dân”, trong Tủ sách pháp luật - kinh tế - xã hội phổ thông (1953), Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, quyển thứ ba, 1953, tr. 59 - 60.
- 93 - Ngày 1/5 là ngày đấu tranh của thợ thuyền. 1/5 là ngày đấu tranh của các giới đồng bào, ở đây chúng ta đang họp để đòi tự do nghiệp đoàn thì ngoài kia khắp ruộng đồng, đồng bào ta cũng biểu tình đòi dân chủ”(1). Cuộc đấu tranh đã hòa vào tâm trạng, tình cảm của đông đảo các tầng lớp. Một tiếng nói công khai từ sân khấu không chỉ là tiếng đơn lẻ của một người, đó là tiếng đồng tâm của đông đảo mọi người, có sức động viên mạnh mẽ. Sự thành danh của Năm Phỉ là một nguyên do khiến trong gia đình cô có thêm những người con khác theo nghề. Tổng cộng gia đình có năm người theo nghệ thuật và rất thành danh là: Ba Danh, Năm Phỉ, Bảy Nam (mẹ của NSND. Kim Cương), Chín Bia, Mười Truyền. Quan niệm về người nghệ sĩ đã được từng bước thay đổi. Những thế hệ nghệ sĩ tiếp bước về sau cũng chia sẻ tình cảm này, hình thành tại Sài Gòn một phong trào văn nghệ yêu nước, trở thành một nhân tố tích cực cho phong trào đấu tranh cách mạng. 3. Kinh tế, giáo dục a. Kinh tế Từ năm 1932 - 1935, Đảng chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ, cũng là để khôi phục lại tổ chức Đảng sau khi bị Pháp khủng bố trắng. Các hội tương tế, ái hữu lần lượt ra đời, các nghiệp đoàn cũng hình thành. Đấu tranh công khai, hợp pháp đòi dân sinh, dân chủ trong các tầng lớp nhân dân từ đó cũng dần dần phát triển. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 95.
- 94 - Năm 1935, Đảng Cộng sản Đông Dương và các lực lượng yêu nước trở lại hoạt động mạnh mẽ, phong trào dân tộc sẵn sàng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới. Các tiểu thương, những người buôn bán nhỏ tham gia vào các tổ chức ái hữu, cùng giúp đỡ nhau làm ăn. Một bộ phận phụ nữ ở nông thôn đi làm công nhân, học nghề, trở thành lớp người đi làm có lương, tự chủ về kinh tế. Đây là tiền thân cho sự xuất hiện lớp phụ nữ chức nghiệp tại các đô thị sau này. Một trong những đặc điểm tác động tới sự hình thành và phát triển phong trào của phụ nữ là hoạt động công khai của những nữ trí thức: họ thành công trong kinh doanh, quản lý, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa: báo chí và xuất bản. Làm báo cần đến nghệ thuật quản lý và sự vững vàng về học vấn, vì ngoài số ký giả, nhà văn có một tầm hiểu biết thức thời, có khả năng viết, đọc rộng rãi, tòa soạn cơ bản cũng giống như một xí nghiệp, nuôi sống công nhân, người bán báo… Người chủ báo lãnh trách nhiệm nặng nề, vừa quản lý vốn liếng, thu chi và cũng là người quản lý nội dung tờ báo. Có thể kể đến một số nhân vật tiêu biểu: bà Cao Thị Khanh (1900 - 1962), quản lý tuần báo Phụ nữ Tân văn, tờ báo tư nhân. Phụ nữ Tân văn là tờ báo tiên phong trong việc ra báo Xuân, mở đầu cho báo giới hằng năm có báo Xuân. Kết quả, tờ báo phát triển ở cả ba kỳ, bán chạy, thời gian tồn tại dài, có nhiều đóng góp(1). Bà Thụy An (Lưu Thị Yến) làm chủ nhiệm báo Đàn bà mới (ra đời ở Sài Gòn năm 1934), vừa viết bài, vừa trông nom công việc quản lý, vừa xoay xở tiền mua giấy, tiền trả nhà in. Bà Trần Thiện Quý quản lý tờ báo Trung lập, từ vài ngàn bản nhảy vọt lên mười ngàn bản, từng mời Nguyễn Văn 1. Khi Phụ nữ Tân văn bị đình chỉ, rồi được mở lại, cụ Phan Bội Châu gửi thư chúc mừng, độc giả ngoài Hà Nội cũng bày tỏ tình cảm.
- 95 - Tạo, Nguyễn An Ninh cộng tác. Bà Phan Văn Thiết quản lý báo Việt dân, Tân văn và Thế giới Tân văn, tổ chức vén khéo, tờ nào cũng tăng lượng phát hành. Bà Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận (tên thật là Tô Thị Thân), chủ bút kiêm quản lý báo Saigon Mới(1), từ năm 1931 cho đến năm 1972, bà năng nổ, xốc vác quán xuyến gần hết công việc ở tòa soạn, là người làm báo gần như lâu nhất ở Sài Gòn so với một số chị em chủ bút và quản lý tài hoa cùng thời. Xà bông cô Ba là một thương hiệu Việt Nam lấy biểu tượng in trên bánh xà bông là hình ảnh một người phụ nữ Nam Bộ tóc bới, dáng vẻ ôn nhu thuần hậu. Câu chuyện về Xà bông Cô Ba của hãng Trương Văn Bền có một điều đáng lưu ý: giữa thời điểm năm 1932, định kiến về phụ nữ còn khá nặng, nhưng Trương Văn Bền đã chọn biểu tượng này. Trong nhiều lý do, có ý nguyện muốn bày tỏ một cách kín đáo lòng tự hào dân tộc, ít nhiều có ý nghĩa tích cực khơi dậy trong quần chúng tinh thần dân tộc, dù là phận nữ nhi chân yếu tay mềm. Phụ nữ Sài Gòn giỏi buôn bán, kinh doanh. Dù không thành doanh nghiệp tên tuổi, nhưng chị em đóng vai trò quan trọng trong chăm lo kinh tế gia đình. Vai trò của phụ nữ trên mặt trận kinh tế được nhìn nhận qua các cuộc đấu tranh, mà chị em tiểu thương ở các chợ là lực lượng nòng cốt. “Từ tháng 9 - 12/1930, trên vành đai đỏ của thành phố, nhiều cuộc mít tinh đã nổ ra. Nổi bật nhất thời gian này là cuộc mít tinh tổ chức tại chợ Hạnh Thông Tây lúc chợ đang họp, được quận ủy quận Gò Vấp tổ chức. Tên hương quản Dắt bị tự vệ chặn bắt ở ngã tư chợ, đưa đến địa điểm mít tinh để nghe nữ đồng chí 1. “Nữ chủ bút tài ba chưa từng viết báo”, báo điện tử Phụ nữ Việt Nam cơ quan Trung ương của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, ngày 21/6/2017, nguồn: http://phunuvietnam.vn/ nu-chu-but-tai-ba-chua-tung-viet-bao-28978.htm, truy cập ngày 30/12/2017.
- 96 - My quận ủy viên Gò Vấp diễn thuyết trước 1000 chị em bạn hàng chợ, hô hào đoàn kết, đòi giảm thuế môn bài, giảm tiền chỗ…”(1). Năm 1933, phụ nữ buôn bán ở chợ Bến Thành tổ chức bãi thị hai lần chống tăng tiền chỗ. Ngay sau đó các chợ Đa Kao, Bà Chiểu, Chợ Lớn cũng tổ chức bãi thị(2). Bên cạnh phụ nữ thành thị, chị em phụ nữ nông thôn được tổ chức vào những nhóm, hội phù hợp để giúp đỡ nhau làm kinh tế và để đấu tranh đòi các quyền lợi kinh tế với giai cấp địa chủ. Số đông phụ nữ nông dân ở nông thôn cần có được sự đoàn kết, tương trợ, từ đó tiếp nhận các ảnh hưởng tiến bộ. “Đến cuối năm 1930, trong số 25.100 hội viên Nông hội ở Nam Bộ thì có đến 1/3 là phụ nữ (hơn 8.000 hội viên nữ). Đây là chưa kể đến số phụ nữ trong Hội Phản đế và Hội Học sinh ở các trường nữ học. Như vậy tổ chức Nông hội phụ nữ ở Nam Bộ phát triển rất mạnh”(3). Từ trong hoạt động thiết thực của Nông hội, phụ nữ nông thôn dần dần được giáo dục, cởi mở, mạnh dạn hơn. Như sau này sẽ thấy trong sự phát triển các phong trào, phụ nữ nông thôn đã trở thành một lá chắn, một hậu phương, tiếp sức, đùm bọc, chở che và chuyển hóa với phụ nữ đô thị, trong sự gắn bó thân thiết, gần gũi. b. Giáo dục Ngay sau khi nắm chính quyền ở Nam Kỳ, bên cạnh các hoạt động về kinh tế, thực dân Pháp đặc biệt chú ý đến việc truyền bá văn hóa Pháp, hạn chế ảnh hưởng của văn hóa 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 57. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 66. 3. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, xuất bản lần thứ ba, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 36.
- 97 - Trung Hoa trong đời sống người Việt. Giáo dục là một việc được người Pháp quan tâm khá sớm. Năm 1905, Toàn quyền Đông Dương Paul Beau (1902 - 1907) đã tiến hành một đợt cải cách giáo dục. Bảy năm sau, Toàn quyền Albert Sarraut (1912 - 1919) tiến hành cải cách giáo dục lần thứ hai, văn bản ban hành ngày 12/12/1917. Sau hai đợt cải cách này, hệ thống giáo dục Việt Nam đã có bộ khung khá hoàn chỉnh gồm ba bậc: tiểu học, trung học và cao đẳng, đại học. Vì vậy, năm 1919, các trường thi chữ Hán và các kỳ thi hương, thi hội của triều đình Huế bị bãi bỏ. Chúng thực hiện chính sách độc quyền trong giáo dục, áp dụng ở cả ba miền, nhằm gạt dần ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, khiến dân tộc Việt lệ thuộc dần vào văn hóa Pháp. Thực hiện mưu đồ, dã tâm trên, thực dân Pháp đã có những biện pháp từ dụ dỗ mua chuộc đến cưỡng bức bỏ chữ Hán để học chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Mục tiêu giáo dục Pháp mở ra ở Đông Dương không nhằm để “khai hóa” cho người dân, thực chất là để đào tạo một số người biết tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ, có chút kiến thức về văn minh phương Tây để làm công chức bậc thấp phục vụ cho chính quyền thuộc địa, và sâu xa hơn, theo thời gian sẽ biến người bản xứ thành những người Pháp về mặt văn hóa. Nhưng kết quả không như chúng mong đợi. Nam Kỳ, cụ thể là Sài Gòn chính là nơi thí điểm thực hiện những cải cách giáo dục, khởi đầu bằng việc đồng ý cho thành lập Trường Nữ sinh Áo Tím(1) từ năm 1913. Khóa đầu tiên tuyển được 42 nữ. Đây là một trong những nơi đào tạo tầng lớp nữ trí thức mà một bộ phận trong số họ đã trở thành 1. Trường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay, tên gọi khác: Trường Gia Long. Năm 1922 còn có tên Collège Des Jeunes Filles Indigènes (Trường của những thiếu nữ bản xứ).
- 98 - người có tinh thần yêu nước và có ý thức về bình đẳng. Trong hồi ức của các cựu học sinh, ngôi trường này đã nhiều lần chứng kiến cảnh các nữ học sinh bị bắt vì tham gia cách mạng. Trong đám tang cụ Phan Chu Trinh, nhiều học sinh đã nghỉ học tham gia, cuối cùng bị đuổi học. Theo lời hiệu triệu của Đảng, trong Cách mạng tháng Tám, hàng loạt nữ sinh Áo Tím cùng các cô giáo, giám thị người Việt đã từ giã nhà trường, thoát ly để tham gia kháng chiến. Cộng hưởng từ hoàn cảnh xã hội và tính cách của người Sài Gòn - nhanh nhạy, thoáng, cởi mở, dễ chấp nhận cái mới, người Sài Gòn đã hình thành tư tưởng trọng sự học (tân học), cho sự học là một việc quan trọng. Một bộ phận nhỏ các bậc cha mẹ đã nhận thức được ý nghĩa của việc học, nên không chỉ có những người làm cha, mà ngay cả các bà mẹ dù ít học đều rất tha thiết với việc học và tương lai nghề nghiệp của con gái, họ thấy việc học là một bệ phóng cho con gái có một nghề nghiệp sau này. Bằng chứng là số học sinh nữ đến trường ngày một tăng, mặc dù ở các cấp học cao hơn, thì học phí càng lớn. Theo thống kê, với ba trường trung học công lập ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, số nữ sinh bậc cao đẳng tiểu học (bậc thành chung) đã tăng gấp 3 lần, từ 105 nữ sinh năm 1921 tăng lên thành 343 nữ sinh vào năm 1931. So sánh con số 343 nữ sinh với 4.496 nam sinh, tỷ lệ nữ chỉ chiếm 7,6%. Về số lượng thì không nhiều, nhưng đây là lực lượng khá sôi nổi, tích cực, bắt đầu theo đuổi việc học hành mở mang hiểu biết. “Vượt qua muôn vàn trở lực, một tầng lớp nữ trí thức đã xuất hiện”(1). Khi phụ nữ 1. Bùi Trân Phượng (2008), Việt Nam 1918 - 1945, giới và hiện đại: sự trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm mới, Luận án Tiến sĩ. Nguồn: http://www.tapchithoidai.org/ ThoiDai18/201018_BuiTranPhuong.htm, truy cập ngày 30/12/2017.