The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search

TẬP 1 || PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH (1930 - 1975)

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- 149 - tiền phong ấy đã chọn một cái chết oanh liệt, khi mới bước vào tuổi 31 (28/8/1941). Chị Nguyễn Thị Bảy, “Hoàng hậu đỏ” là Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Chợ Lớn, Bí thư Quận ủy, Trưởng ban khởi nghĩa Cần Giuộc(1). Chị bị bắt trong một chuyến đi công tác. Do có bọn tề nhận mặt, địch biết rõ thân phận của chị, chúng đánh chị vô cùng tàn nhẫn, lấy súng đánh vào đầu, máu tuôn ướt đẫm. Chị lấy máu bôi vào bọn chúng, nói: tôi muốn cho các người thấy, tôi cũng như các người, cũng đầu đen máu đỏ, là người Việt Nam, da vàng như nhau. Tôi chỉ là một người đàn bà yêu nước, các người đánh tôi như thế này không thấy nhục sao? Chúng giải chị về bót Pô Lô sau nhà thương Chợ Rẫy - một chi nhánh của Khám Lớn và nhà tù Catinat. Đây chính là nơi địch đã thủ tiêu nhiều tù nhân cộng sản. Chúng dùng nhiều cực hình dã man tra tấn. Mỗi lần bị nhục hình, chị trừng trừng mắt nhìn quân thù và nói: Chúng bây là bọn người cướp nước, vì vậy chúng tao phải đánh đổ bọn bây, giành lại nền độc lập cho đất nước. Trước sự bất khuất của chị Bảy, bọn lính bót Pô Lô đành bó tay. Chúng đặt biệt danh cho chị là “Hoàng hậu đỏ”, chuyển qua khám Phú Mỹ (Gia Định) - nơi biệt giam những nữ tù nhân để chờ ngày đưa ra tòa đại hình kết án. Chị Minh Khai cũng bị giam ở đây. Gặp chị Minh Khai, chị Bảy cùng với các chị em cùng nhau tổ chức đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực, buộc địch phải mở một số cửa để tù nhân bớt ngột. Chị quan tâm đến chị em bạn tù, nên được mọi người yêu thương. Chị Bảy dặn mọi 1. Trầm Hương (2015), “Khủng bố trắng Khởi nghĩa Nam Kỳ và chuyện chưa kể về Hoàng hậu đỏ”, báo Công an nhân dân điện tử, ngày 20/11/2015, nguồn: http://antgct. cand.com.vn/So-tay/Khung-bo-trang-Khoi-nghia-Nam-Ky-va-chuyen-chua-ke-veHoang-hau-do-373495/, truy cập ngày 30/12/2017.


- 150 - người: Sớm muộn gì tôi cũng bị xử tử. Chị em cứ mạnh dạn đấu tranh, có gì tôi nhận hết tội. 4 tháng sau, chúng đưa chị ra kết án tử hình. Chị Minh Khai và chị Bảy là hai nữ tù nhân lãnh án tử hình trong danh sách 100 nữ tù chính trị bị kết án. Hôm ra tòa, chị Bảy vẫn lạc quan, bình tĩnh, ôm chặt các bạn tù lần cuối và dặn: các đồng chí ở lại, ráng đoàn kết đấu tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên(1). Chúng đem chị Bảy xử bắn ở sân banh Cần Giuộc. Theo lời kể của Đốc Phủ Chương - lúc ấy là Quận trưởng Cần Giuộc, sau làm Đô trưởng Sài Gòn: “Chị Nguyễn Thị Bảy mặc bộ đồ lãnh đen, đội khăn lông trắng, bình tĩnh xuống xe. Hai tên lính sen đầm đưa chị đến cột bắn chính giữa. Linh mục đến xin rửa tội, chị Bảy lắc đầu không đồng ý. Chị nói lời cuối cùng: “Đồng bào hãy tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Kỳ khởi nghĩa này thất bại, kỳ sau nhất định thành công”. Chị không bịt mắt, ngó thẳng vào họng súng của quân thù”. Sự hy sinh oanh liệt của chị đã cảm hóa nhiều người, trong đó có cả những người ở hàng ngũ quân giặc. Sau này, khi Pháp quay trở lại tái chiếm Sài Gòn, ông Chương đang giữ chức Đô trưởng Sài Gòn, đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để vào chiến khu. Ông nói “Một trong những điều thôi thúc tôi chọn con đường kháng chiến là cái chết anh hùng của chị Nguyễn Thị Bảy”(2). 1. Trầm Hương (2010), “Khủng bố trắng ở Nam Kỳ và khí phách những người phụ nữ ven đô”, Tạp chí điện tử Hồn Việt, ngày 15/11/2010, nguồn: http://www.honvietquochoc. com.vn/bai-viet/884-khung-bo-trang-khoi-nghia-nam-ky-va-khi-phach-nhung-nguoiphu-nu-ven-do.aspx. 2. Trầm Hương (2010), “Khủng bố trắng ở Nam Kỳ và khí phách những người phụ nữ ven đô”, Bđd.


- 151 - Trong đội du kích Hóc Môn đã xuất hiện nhiều gương anh dũng, tiêu biểu là chị Lê Thị Thử(1), người làng Tân Phú Trung. Hồi cao trào cách mạng 1930 - 1931, chị Thử phất cờ đỏ dẫn đầu nhiều cuộc biểu tình. Hồi năm 1936 - 1939, chị nhiều lần đánh nhau với lính, cò trong các cuộc mít tinh. Năm 1940, bị trúng đạn, chị tự lấy dao ăn trầu rạch thịt lấy đạn ra. Chị bị bắt ở Gò Mây, địch đem chị về Bà Điểm tra khảo, chị chửi địch cho đến ngày cuối cùng(2). Khi bị bắn, chị còn nói “Thử này chết, sẽ còn trăm ngàn Thử khác”. Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Hóc Môn, Đức Hòa vốn bị địch coi là vành đai đỏ, nên bị chúng nhận chìm trong máu, nhằm tiêu diệt sạch “nòi cộng sản” (giết cán bộ và cả gia đình họ). Điển hình là vụ tàn sát dã man cả gia đình, gồm vợ con anh em dòng họ đồng chí Võ Văn Tần - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ và gia đình đồng chí Huỳnh Văn Một - Phó Ban Quân sự liên tỉnh miền Đông lúc bấy giờ. Theo lời kể của cô Võ Thị Huệ, con gái thứ Bảy của đồng chí Võ Văn Tần: “Sau vụ khởi nghĩa, lính Tây vô cướp hết đồ đạc, đốt hết 4 căn nhà: nhà thờ của ông nội tôi, nhà ba tôi, nhà chú Tây, nhà chú Út Ngân. Chúng bắt hết đàn bà con nít (vì đàn ông trong nhà đâu còn ai). Chị Năm Cảnh, bác Nguyễn Thị Hột và tôi còn nhỏ bị đưa về nhốt ở bót Đức Hòa. Anh hai Võ Văn Siêng bị chúng nhốt, tra tấn cho đến chết dưới xà lan. Chúng bắn chết các anh Võ Văn Phùng, Võ Văn Nghiêm, Võ Văn Tây và con gái, cô Võ Thị Thung, rồi quẳng xác xuống giếng. Bác dâu Nguyễn Thị Hột bị 1. Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. Theo tài liệu này, thì nhân vật tên là Nguyễn Thị Thử. 2. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên(1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1: Lịch sử, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 401.


- 152 - chúng bắn chết. Anh Võ Công Luận (con chú Võ Văn Ngân) bị đâm chết rồi còn thẻo lỗ tai và rạch chữ thập sau lưng. Cô út Võ Thị Phái bị chúng bắt đưa về Giồng Cám, bị bắn cùng nhiều người khác (người dân kể lại là tới 14 người)”(1). Theo hồi ký Chuyện chưa quên của Huỳnh Văn Một(2): “Mấy ngày khởi nghĩa nổ ra, bọn thực dân Pháp tập trung đến Đức Hòa, đến xóm nào, chúng cũng đốt sạch nhà cửa, cướp hết tài sản và bắt dân, chúng giết người dã man, rùng rợn bằng nhiều cách: người lớn thì bắn, trẻ con 5 - 7 tuổi chúng nắm cẳng chân giật xuống đất, giày đinh leo lên đạp không còn sống một em nào, trẻ em 2 - 3 tuổi chúng bỏ vào cối quết… Gia đình tôi là một trong những gia đình chịu cảnh tàn sát ghê gớm nhất. Bọn chúng đến bao vây bắt tất cả người trong nhà từ cha tôi (69 tuổi), đến con tôi (mới 1 tuổi), tất cả 13 người. Chúng bắt hết đem đến Rừng Thơm làng Mỹ Hạnh, gom lại xịt xăng đốt, đồng thời xả súng bắn. Chúng bắn người chết rồi khiêng vào lửa… Cháu Phiên, cháu Quyên, và con tôi, mới một, hai tuổi, giặc Pháp nắm cẳng chân giật xuống đất ngất ngư, giày đinh chúng leo lên dậm bể đầu nát thịt không kịp khóc được tiếng nào. Cháu An đến nhà cha tôi chưa kịp về bị chúng bắt, chế xăng vào người đốt cháy như đuốc…”. 1. Theo Nguyễn Thanh Bền (2001), “Cuộc tàn sát điển hình gia đình Võ Văn Tần, Huỳnh Văn Một ở Đức Hòa hồi Nam Kỳ khởi nghĩa”, trong sách Sở Văn hóa Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 555. 2. Đồng chí Huỳnh Văn Một: nguyên Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, Trưởng ban căn cứ Xứ ủy Nam Kỳ, cùng quê với đồng chí Võ Văn Tần. Theo tư liệu, đồng chí còn giữ các nhiệm vụ: Bí thư Huyện ủy Đức Hòa, Chi đội trưởng Chi đội 15, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 308, 311, Phó tư lệnh Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Tây Ninh, Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên… (Theo Sự kiện và nhân chứng số ngày 17/11/2016, Nguyệt san của báo Quân đội nhân dân, nguồn: http://sknc.qdnd.vn/con-nguoi-cuoc-song/hao-khi-nam-ky-khoinghia-cua-mot-gia-toc-500363).


- 153 - Khủng bố trắng diễn ra khắp nơi, thực dân Pháp dùng mọi biện pháp làm cho nhân dân ta khiếp sợ, không còn dám đứng lên chống lại chúng nữa. Cùng với điện, chỉ thị, thông tri mật gửi các cấp dưới, tên trùm phát xít Toàn quyền Đông Dương J. Decoux công khai tuyên bố trên báo chí: “Cuộc bạo động Khởi nghĩa Nam Kỳ, các ngươi vẫn biết là của cộng sản gây ra, nó đã bị đàn áp thẳng tay tức thì, vì cần phải như vậy”(1). Tại 18 tỉnh thành, nơi cuộc khởi nghĩa nổ ra, thực dân Pháp đều đàn áp dã man. Pháp sử dụng chính sách giết sạch, phá sạch, đốt sạch, dùng các thủ đoạn đê hèn thời trung cổ như chặt đầu, mổ bụng, moi gan, hãm hiếp phụ nữ. Đặc biệt ở xã Mỹ Lộc, chúng hãm hiếp tập thể chị Yên, chị Bảy Thơm, cô nữ sinh Ngọc Anh…(2) Ở Gia Định, Chợ Lớn, mỗi lần càn quét, chúng dùng hai, ba đại đội đủ loại quân, hung hăng nhất là lính lê dương, rất tàn ác, thả cửa bắn giết, hãm hiếp dân lành; rồi đến lính tập người Miên, lính người thiểu số… dùng đủ xe tăng, tàu chiến, máy bay, cơ giới. Mỗi lượt đi càn quét, chúng huy động hàng chục máy bay ném bom xuống các làng xóm thuộc Gia Định, Chợ Lớn… ném bom cả vào lúc dân đang họp chợ, như ở chợ Giữa (làng Vĩnh Kim, tổng Thuận Bình, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho), làm hàng trăm người chết. Quân đội Pháp, hay cả những tên cò, cẩm, lính nào cũng có quyền giết người mà không cần phải xin phép, bắt người, tra tấn người đến chết không tội vạ gì. Quan lại, tề tổng làng, bọn coi đồn thừa 1. Báo Dân Hiệp, số ra ngày 28/12/1940. Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Hồ Sơn Diệp, “Tội ác của thực dân Pháp đối với nhân sĩ trí thức Nam Kỳ lục tỉnh (1859 - 1954)”, trong sách Sở Văn hóa Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 239.


- 154 - cơ tha hồ ăn hối lộ, cướp bóc, ức hiếp nhân dân. Không có cuộc càn quét nào chúng không giết người, phá nhà cửa dân chúng. Chúng còn ra lệnh đốt hết các tiệm buôn, tiệm thuốc của người Hoa vì cho rằng họ đã ủng hộ cộng sản. Chúng còn dùng xe bọc thép đi phá ruộng thuốc, hoa màu, bắn giết cả súc vật, gia cầm, đốt rừng để cho cộng sản không còn chỗ ẩn tránh. Những cảnh này diễn ra không chỉ ở Sài Gòn, mà diễn ra trên tất cả các tỉnh Nam Kỳ. Toàn quyền Đông Dương J. Decoux đã tự mình đi xem những nơi nhân dân nổi dậy đấu tranh mạnh nhất, trong đó có Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Hắn nghe đích thân bọn tay chân cấp báo, rồi cho ý kiến thẳng tay trấn áp, tặng mề đay, tiền thưởng, nâng ngạch cho bọn tề, quan lại sĩ quan có công triệt phá cách mạng, càng bắt nhiều, giết nhiều công càng lớn. Tính đến ngày 31/12/1940, tức 10 ngày sau khi Xứ ủy ra lệnh khởi nghĩa, chúng đã bắt 5.848 người(1), trong đó Sài Gòn có tới gần 1.000 người, trong đó có nhiều đồng chí lãnh đạo, đảng viên, cán bộ, quần chúng cách mạng cốt cán và nhiều người vô tội. Đến ngày 31/1/1941, con số đã lên đến 7.048 người. Những con số này chỉ ước tính đến năm 1941, chưa kể các năm tiếp theo chúng tiếp tục lùng bắt những người tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa Nam Kỳ là một cuộc đấu tranh vũ trang quy mô lớn, dù chưa thành công, nhưng đã để lại những bài học vô giá cho dân tộc, cho cách mạng, cho phong trào phụ nữ Sài Gòn. Lúc bấy giờ, thực dân Pháp vẫn chưa thực sự suy yếu, thời cơ chưa chín muồi, lực lượng và phong trào khởi nghĩa đều đã bị nhấn chìm trong biển máu và khủng bố trắng tàn 1. Báo cáo của Sở Mật thám Nam Kỳ tháng 11, 12/1940, hồ sơ 94 Sở Mật thám, Lưu trữ tại Cục hồ sơ nghiệp vụ An ninh - Bộ Công an (năm 2018 là Cục Hồ sơ nghiệp vụ (V06)).


- 155 - bạo, nhưng cuộc khởi nghĩa đã nêu một tấm gương chói lọi về tinh thần quật khởi, kiên trung của người dân Nam Kỳ. Khởi nghĩa Nam Kỳ cũng được coi là bài học quý báu về vấn đề chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị cho Đảng Cộng sản Đông Dương những kinh nghiệm để thực hiện cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. b. Cách mạng tháng Tám năm 1945 Cách mạng tháng Tám là cuộc tổng khởi nghĩa do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo; trong đó, lực lượng chính trị quần chúng giữ vai trò chủ yếu, quyết định; lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vai trò quan trọng và nòng cốt. Theo đánh giá của Đảng: “… nếu Đảng ta trước đó không xây dựng lực lượng vũ trang và thành lập những khu căn cứ rộng lớn để làm chỗ dựa cho lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, và khi điều kiện đã chín muồi không mau lẹ phát động cuộc khởi nghĩa vũ trang, thì cách mạng cũng không thể mau chóng giành được thắng lợi”. Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 thất bại, lực lượng Đảng Cộng sản và cơ sở cách mạng ở Nam Kỳ bị thực dân Pháp đàn áp dã man, tổn thất vô cùng to lớn. Chính trong những ngày thoái trào, bị đàn áp đẫm máu này, chị em phụ nữ là nhân tố nhận lấy sứ mạng bám lại địa bàn, duy trì hoạt động và tiếp tục nhen nhóm lên ngọn lửa cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ, các tổ chức lần lượt được khôi phục, trong đó có sự ra đời và phát triển các đội du kích ở nhiều địa phương như Hóc Môn (Gia Định), đội du kích Cần Giuộc (Chợ Lớn)… để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Để tích cực chuẩn bị, Đảng đã tổ chức huấn luyện quân sự cho thanh niên. Khắp


- 156 - nơi, thanh niên nô nức học tập quân sự, mua sắm hoặc tự chế tạo vũ khí. Các tổ chức phụ nữ đã có đóng góp lớn trong việc hình thành lực lượng quần chúng đông đảo thời kỳ này. Ngày 16/6/1941, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc ra đời, đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Năm 1945, Hội Phụ nữ Tiền phong là tổ chức kế tiếp, nắm bắt đặc điểm tình hình, lập lực lượng nhằm chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, góp phần đắc lực vào những công việc như đi quyên gạo, quyên tiền bằng những cuộc diễn thuyết, những đêm biểu diễn văn nghệ lấy tiền giúp đồng bào miền Bắc đang lâm vào nạn đói và tổ chức các đoàn xe chở gạo ra miền Bắc cứu đói; chống dịch tả đang hoành hành; phối hợp cùng các đoàn thể nhân dân tổ chức cứu trợ đồng bào bị máy bay Mỹ ném bom, đào bới lấy xác, cứu người còn sống, băng bó cho người bị thương… Đến tháng 7/1945, phần lớn giới phụ nữ ở nội thành gia nhập tổ chức Phụ nữ Tiền phong. Ở Chợ Lớn, Phụ nữ Tiền phong hoạt động sôi nổi ở Chợ Đệm rồi lan ra các xã ở Trung Quận. Có thể hình dung ra không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang qua hồi ký của Nữ kiệt miền Đông - Hồ Thị Bi: “Công việc cứ tới tấp cả ngày, cả đêm, nhưng ai nấy đều thấy lòng tràn đầy phấn khởi. Người lớn, trẻ con đêm đêm tập hợp lại hát những bài ca cách mạng và tập tự vệ. Các trạm canh phòng được bố trí khắp các ngã đường với những người gác trên tay chỉ cầm cây gậy tầm vông vạt nhọn và mỗi trạm gác chỉ có một dao găm hoặc một mã tấu mà cũng được coi là oai lắm rồi. Ngày đêm các lò rèn hì hục rèn gươm, dao găm, mã tấu. Những bà mẹ chuyên lo việc nấu cơm tại các điểm tập trung là đình,


- 157 - là miếu, là những nhà lớn… Ầm ầm, ì ì cả ngày lẫn đêm. Các đoàn tự vệ, các đội võ trang cứ hết tốp này tốp khác ghé vô, bụng no lại đi… Không ai nhớ nổi đơn vị nào là đơn vị nào, do ai chỉ huy, cứ thấy bộ đội cách mạng thì cho ăn cơm. Cơm hết nồi này đến nồi khác, cả mắm, thịt, rau cải bà con tới tấp gánh đến chỗ tập trung. Và nghiễm nhiên, Hội Phụ nữ trở thành Ban Tiếp tế của quận…”(1). Trong khoảng 5 năm, lực lượng cách mạng ở Nam Kỳ phục hồi dần, thực lực vũ trang có mạnh dần lên, nhưng lực lượng của đối phương vẫn đông và mạnh hơn nhiều lần. Phong trào đấu tranh vẫn được duy trì trên nhiều mặt trận. “Cuối năm 1944,các cuộc đấu tranh của anh chị em công nhân lại dồn dập nổ ra ở các đồn điền Tân Thuận, Chợ Lớn, Bình Chánh (Sài Gòn) đòi tăng lương, đòi phát lương sớm”(2). Thời cơ lịch sử đến: Nhật đảo chính Pháp tháng 3/1945. Trên cơ sở phân tích tình hình trên thế giới và trong nước, trước sự thất trận của quân Đức ở châu Âu và quân Nhật ở châu Á, Xứ ủy Nam Kỳ nhận định thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi cả nước đã chín muồi. Ở Nam Kỳ nói chung và ở Sài Gòn nói riêng, phải khẩn trương làm thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, gây dựng phong trào quần chúng rộng rãi hướng tới tổng khởi nghĩa. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, gần 100 chị em đã vượt ngục trở về tăng cường cho sự lãnh đạo của địa phương. Thực hiện chủ trương mới, Phụ nữ Tiền phong và Phụ nữ 1. Theo hồi ký của bà Hồ Thị Bi “Bà Đại tá”, in trong sách Nhiều tác giả (2016), Nữ kiệt Miền Đông, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 34 - 55. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 103.


- 158 - Giải phóng hợp nhất vào Phụ nữ Cứu quốc. Chỉ trong thời gian ngắn, Phụ nữ Cứu quốc đã được tổ chức ở 40 xã rải rác khắp 5 huyện của tỉnh Gia Định… “Tháng 3/1945, Đảng tổ chức cho nhiều anh chị em tù vượt ngục. Những chị vừa ra khỏi tù ngục đã nhanh chóng tham gia hoạt động, lãnh đạo phong trào như nhóm chị Nguyễn Thị Hồng vượt khám Chí Hòa (Sài Gòn), nhóm chị Hai Súc Vượng ở Căng Cà Rá (Biên Hòa)…”(1). Chỉ trong vòng 3 - 4 tháng, hàng triệu người dân cả thành thị và thôn quê được Đảng tuyên truyền vào tổ chức. Riêng nội thành Sài Gòn có 324 công đoàn cơ sở với 120 ngàn đoàn viên; Thanh niên Tiền phong có 80 ngàn đoàn viên, hoạt động công khai và hợp pháp. Ngày 15/8, Xứ ủy Nam Kỳ họp, xác định thời cơ khởi nghĩa tới rồi, Nam Kỳ phải kịp thời hòa vào dòng thác Tổng khởi nghĩa của cả nước. Cần thành lập ngay một Ủy ban khởi nghĩa và bắt tay vào hành động ngay. Nhưng khi bàn về thời điểm phát lệnh khởi nghĩa, dự kiến là đêm 17/8 hoặc 18/8/1945, có một số ý kiến tuy thuộc phe thiểu số nhưng rất gay gắt phản bác. Đó là ý kiến sợ “khởi nghĩa non” như 5 năm trước, là ý kiến không cần khởi nghĩa, không cần bạo động mà đấu tranh chính trị cũng có thể đi đến độc lập dân chủ. Ngày 19/8, cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng lợi rực rỡ ở Hà Nội. “Cũng trong thời gian này, Xứ ủy Nam Kỳ họp hội nghị ở Chợ Đệm, đồng bào thành phố, phụ nữ thành phố nô nức chờ lệnh tổng khởi nghĩa. Thanh niên nam nữ rải truyền đơn kêu gọi tham gia mít tinh ở rạp hát Nguyễn Văn Hảo. Nhiều xe hơi cắm cờ đỏ sao vàng trương băng chữ lớn “Đồng bào hãy tham 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I, Sđd, tr.108.


- 159 - gia cuộc mít tinh khổng lồ của Việt Minh”. Ngày 20/8, mít tinh khắp nơi, rạp Nguyễn Văn Có, rạp Gò Vấp”(1). Trong vòng 7 ngày, Hội nghị Xứ ủy phải họp tới ba lần (tại chợ Đệm, Trung Quận). Sáng 21/8, đồng chí Trần Văn Giàu, người chủ trì cả ba cuộc hội nghị trên, đưa ra đề nghị cuối cùng được tất cả đại biểu tán thành: giao cho Đảng bộ tỉnh Tân An làm khởi nghĩa thí điểm, sáng 23/8 trở lại báo cáo kết quả với Xứ ủy. Tân An là cửa ngõ quan trọng phía Tây Nam Sài Gòn, có phong trào quần chúng sôi nổi và được chuẩn bị khá chu đáo. Ngay trong đêm 21/8, Tỉnh ủy khẩn trương họp, ra “Nghị quyết đỏ”, tổ chức may cờ búa liềm, cờ đỏ sao vàng, tập trung các đội cận vệ đỏ từ các địa phương về thị xã. Trong ngày 22/8, Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Văn Trọng và Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Lê Minh Xuân trực tiếp chỉ huy lực lượng đến tước vũ khí của lính bảo an tỉnh, thu hơn 140 súng. Thanh niên Tiền phong thiết lập trật tự chung toàn thị xã; tên Tỉnh trưởng Thạch trên đường từ Sài Gòn về bị ta đón lõng và bắt giam. Tảng sáng ngày 23/8, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh ra mắt đồng bào. Cùng lúc, một xe ô tô chở đoàn cán bộ của tỉnh lên Chợ Đệm báo cáo thắng lợi với Xứ ủy. Xứ ủy quyết định: Sài Gòn, trọng điểm của toàn Nam Kỳ, sẽ khởi nghĩa ngày 25/8. Thời cơ đã đến, đêm 21/8/1945, đội tự vệ xung phong, công đoàn xung phong đã chiếm lĩnh xong các cơ sở yết hầu của địch ở thành phố. Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được kéo lên trước cửa tiệm ăn Ánh Long (góc đường Đề Thám - Trần Hưng Đạo ngày nay). Quân Nhật không dám phản ứng gì. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 138.


- 160 - Từ chập choạng tối ngày 24/8 đến 0 giờ ngày 25/8, các đội xung phong công nhân và thanh niên đã hoàn tất việc chiếm tất cả các cơ quan trong nội ô thành phố, không gặp trở ngại gì: từ Nhà đèn chợ Quán, Sở Mật thám, bót cảnh sát, đến Đài Phát thanh, dinh Đốc lý… Khâm sai Nam Kỳ Nguyễn Văn Sâm và Đổng lý văn phòng Phủ Khâm sai Hồ Văn Ngà bị giữ tại buồng ngủ của họ tại dinh Khâm sai. Riêng ngân hàng Đông Dương ta không chiếm được, có quá nhiều quân Nhật còn ở đó. Do Đảng có chủ trương không xung đột với chúng lúc này, nên anh em được lệnh rút lui. Cờ đỏ sao vàng tràn ngập đường phố, phấp phới hiên ngang trên các công sở. Quần chúng như một biển người kéo về dự mít tinh, hoan nghênh Ủy ban nhân dân Nam Kỳ. Đoàn người xếp thành hàng ngũ suốt từ đại lộ Nô-rô-đôm đến Sở thú, từ sau Nhà thờ Đức Bà đến bót Giếng nước(1). Lễ đài trung tâm đã được dựng xong từ đêm 24/8. Ủy ban khởi nghĩa đứng trước một vấn đề không đơn giản là số người tham gia khởi nghĩa có thể lên tới một triệu và nhiều hơn thế (bà con ở các tỉnh lân cận xa 30 - 40km cũng đi xe đò, xe ngựa đến). Vì vậy phải có kế hoạch giữ trật tự thật chu đáo, không cho địch lợi dụng để phá phách, khiêu khích. Từ nửa đêm đến tờ mờ sáng, công nhân, viên chức, nhân dân nội thành và ngoại ô bắt đầu tập hợp theo đoàn, theo giới, trương cờ, băng khẩu hiệu, trang bị vũ khí thô sơ, tiến dần vào trung tâm thành phố. Rạng sáng ngày 25/8, cả triệu quần chúng Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh lân cận, trong đó có rất đông phụ nữ, ào ạt kéo vào thành phố, quyết tâm khởi nghĩa giành chính quyền. 1. Đại lộ Nô-rô-đôm nay là đường Lê Duẩn, bót Giếng nước nay là Văn phòng phía Nam của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nằm cạnh công viên Hồ Con Rùa.


- 161 - Trong hồi ký của chị Hồ Thị Bi còn ghi lại: “Hàng ngàn người nón lá, khăn rằn, nón da, đặc biệt là thanh niên nam nữ ăn mặc gọn gàng, áo bỏ trong quần, khăn rằn thắt ngang lưng… tay cầm gậy tầm vông, hoặc mã tấu, dao găm, đi chân không từ các huyện Thủ Đức, Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Chánh, Nhà Bè… đội ngũ chỉnh tề với tầm vông vạt nhọn, giáo mác, gậy gộc trong tay, xếp hàng trật tự, đi giữa 2 đội tự vệ súng trên vai, rầm rập tiến vào Sài Gòn nhịp bước theo bài ca “Lên đàng”, hô to khẩu hiệu “Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”, “Nguyễn Văn Tâm phải từ chức”, “Chính quyền về tay Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”(1). Ngày 25/8, toàn bộ chính quyền về tay Việt Minh. Các cửa hiệu đóng cửa, chợ nghỉ bán, nơi nào cũng treo cờ đỏ sao vàng. Cả thành phố rung chuyển bởi bước chân của hàng triệu người. Cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn kết thúc thắng lợi(2). Lịch sử đã ghi lại đóng góp của lực lượng phụ nữ trong thắng lợi chung của toàn dân tộc. “Vai trò tham gia của Đoàn Phụ nữ Cứu quốc và của phụ nữ khắp nơi là vô cùng to lớn… Thắng lợi của khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị, các tỉnh đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng trong phạm vi cả nước”(3). Lễ đài trang hoàng bằng các khẩu hiệu cách mạng. Đồng chí Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa báo cáo việc chiếm lĩnh xong 1. Theo lời kể của Hồ Thị Bi “Bà Đại tá”, trích trong Nhiều tác giả (2016), Nữ kiệt Miền Đông, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52 - 53. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 139. 3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 116.


- 162 - các cơ quan chính quyền địch trong đêm vừa qua, nói về ý nghĩa quan trọng của cuộc biểu tình tuần hành vũ trang ngày hôm nay và ý nghĩa của cách mạng đã nổ ra thắng lợi chẳng những ở Sài Gòn mà cả ở Hà Nội, Huế và khắp nước Việt Nam. Đồng chí cũng không quên nhắc lại những hy sinh to lớn, anh dũng của các thế hệ cha anh đi trước để có được ngày hôm nay. Sau đó, cuộc biểu tình vũ trang bắt đầu, đi đầu là lá cờ Mặt trận và cờ Đảng, đoàn biểu tình đi theo đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi) về trước dinh Đốc lý. Tại đây, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đã tuyên đọc danh sách của Ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ. Đồng chí Nguyễn Lưu, Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Nam Bộ đọc bản hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh. Đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn đọc lời hiệu triệu của Xứ ủy Nam Bộ, kêu gọi đồng bào hết lòng ủng hộ chính quyền cách mạng, dân chủ của mình, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. Cuộc biểu tình chấm dứt trong tiếng nhạc Lên đàng và Thanh niên hành khúc. Cuộc khởi nghĩa đã thành công nhanh chóng, trọn vẹn và không đổ máu. Báo chí tại Sài Gòn nhất loạt đăng bài tường thuật và bình luận sự kiện lịch sử này với tất cả niềm hân hoan tự hào của một dân tộc đứng lên làm cuộc cách mạng đổi đời. Đây là một cuộc thay đổi hết sức to lớn trong lịch sử của thành phố. Trong hoàn cảnh chưa liên lạc được với Trung ương, lực lượng địch và các phe phái phản động còn đông, Xứ ủy Nam Kỳ đã có sự nhận định tình hình đúng đắn, nhạy bén, nêu cao tinh thần dám nghĩ và quyết đoán, vận dụng sáng tạo nghệ thuật nắm thời cơ cách mạng và tiến hành khởi nghĩa thắng


- 163 - lợi. Khởi nghĩa ở Sài Gòn và Nam Bộ tháng 8/1945 đã kịp thời hòa vào làn sóng Tổng khởi nghĩa của cả nước. Ngày 2/9/1945, tại Hà Nội, hàng triệu người xuống đường chào mừng ngày tuyên bố độc lập và nghe bản tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại vườn hoa Ba Đình. Nhìn lại, ngay từ những ngày đầu 1920 - 1930, phụ nữ thành phố đã đứng dưới ngọn cờ của Đảng. Trải qua những cao trào 1930 - 1931, 1936 - 1939, Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, Cách mạng tháng Tám năm 1945, phụ nữ đã vượt qua muôn trùng gian khổ hy sinh dưới ách thống trị của bọn thực dân, bất chấp nhà tù, lưỡi lê, họng súng của kẻ thù, son sắt một lòng đi theo con đường Đảng đã vạch ra và không ngừng lớn lên cùng những phong trào của thành phố. Thời kỳ 1930 - 1931, khi những nữ đảng viên cộng sản còn ít ỏi, hiếm hoi “như sao buổi sớm”, họ đã cho thấy khả năng hoạt động, đấu tranh của mình: tuyên truyền vận động quần chúng, gây dựng cơ sở, xây dựng căn cứ nhân dân, che giấu bảo vệ cán bộ, cơ quan, đảm bảo cho giao thông liên lạc, tạo điều kiện thuận lợi để Đảng lãnh đạo phong trào. Thời kỳ 1936 - 1939, tận dụng các hình thức công khai hợp pháp do tình hình mới để tập hợp và phát triển lực lượng cách mạng, khả năng đấu tranh của phụ nữ ngày càng phong phú và có bước tiến triển. Tập hợp dân nguyện, đòi mở Đông Dương Đại hội, đón phái đoàn điều tra, hoạt động báo chí, truyền bá chữ Quốc ngữ, vận động bầu cử, xây dựng hội ái hữu. Các hình thức hoạt động, tổ chức đấu tranh phát triển rộng rãi chưa bao giờ có trong lịch sử. Ở lĩnh vực nào, lực lượng phụ nữ thành thị và nông thôn ngoại thành đều tham gia đông đảo, tích cực, trở thành một bộ phận hợp thành rất tích cực, làm tăng sức chiến đấu của đội quân chính trị quần chúng rộng lớn của Đảng ở thành phố.


- 164 - Những năm 1939 - 1945 là thời kỳ trên thế giới tư tưởng phát xít như một bệnh dịch đang lan tràn, cũng là lúc Sài Gòn và miền Nam bước vào thời kỳ cực kỳ sôi sục cách mạng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Đợt thử lửa Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 cho thấy khả năng mới của phụ nữ trong đấu tranh vũ trang, ngoài việc tiếp tế hậu cần kịp thời, rất đắc lực, phụ nữ còn là những chiến sĩ chiến đấu kiên cường, những chỉ huy gan dạ. Mặc dầu tổn thất nhiều, nhưng với quyết tâm sắt đá “sẽ khởi nghĩa lần thứ hai”, lực lượng phụ nữ đã cùng với các tầng lớp đồng bào, tập hợp lực lượng theo phong trào chung cùng tổng khởi nghĩa giành chính quyền. “Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám còn là thắng lợi của đường lối kết hợp chặt chẽ mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ”(1). Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Phụ nữ thoát khỏi cuộc đời nô lệ, dứt bỏ những ràng buộc của hủ tục phong kiến ngàn đời kìm hãm họ. Phụ nữ Sài Gòn mạnh dạn bước ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, tham gia vào mọi hoạt động của xã hội. Phong trào phụ nữ thành phố phát triển và trưởng thành, đội ngũ cán bộ nữ qua 15 năm phấn đấu và thử thách đã được tôi luyện. Từ tổ chức Hội Phụ nữ còn nhỏ lẻ, còn bị hạn chế những năm đầu, đã dần dần mở rộng, sau Cách mạng tháng Tám đã hình thành một tổ chức có hệ thống, từ thành phố đến cơ sở(2). Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến bước vào kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I, Sđd, tr. 118. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 139 - 141.


- 165 - Phụ nữ từ vị trí là người dân mất nước đã trở thành những người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Hiến pháp năm 1946 - hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam đã xác nhận quyền bình đẳng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa. Kể từ đây, người phụ nữ Việt Nam bước vào cuộc sống, tham gia vào lịch sử đấu tranh của dân tộc với một tâm thế mới. Niềm vui chưa được bao lâu, ba tuần sau đó, ngày 23/9/1945, núp dưới bóng liên quân, quân Pháp đã đánh úp các cơ quan chính quyền Sài Gòn. Nhân dân Sài Gòn đã đứng lên nổ những phát súng đầu tiên mở màn cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do. Lịch sử phong trào phụ nữ Sài Gòn mở sang trang mới. III. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 1. Vai trò và tính cách Tính cách của một mẫu dân cư thuộc một vùng đất thường gắn bó chặt chẽ với các yếu tố địa lý, nghề nghiệp và nguồn gốc xuất thân của mẫu dân cư đang sinh sống trên vùng đất đó. Do đặc điểm xã hội, địa lý, người phụ nữ Sài Gòn vốn có vai trò quan trọng trong các gia đình. Trước những năm 30 của thế kỷ XX, nhận xét về phụ nữ Sài Gòn, nhiều nhà nghiên cứu, ký giả, du khách phương Tây đã có chung những nhận xét tốt đẹp. “Ở đây, phái đẹp không kém gì châu Âu, cả về hình dáng bề ngoài lẫn phẩm chất trí não, kể cả trong cách nói chuyện nữa (…). Họ rất khéo trong việc dệt vải bông và lụa. Họ nhuộm những thứ này thành nhiều màu sắc khác nhau. Họ cũng rất


- 166 - khéo trong việc làm bánh trái và mứt kẹo (…). Phụ nữ trồng thuốc lá, trồng bông. Phụ nữ buôn bán ở chợ hay ở cửa hiệu của người ngoại quốc. Họ có tính tiết kiệm, quản lý tài sản rất khéo, nên sự nghèo khó ít xâm nhập được vào nhà họ”(1). “Người phụ nữ ở đây rất hoạt động. Họ trông coi việc làm nhà, chỉ đạo lò gốm, chèo thuyền mang hàng ra chợ bán, bật bông, kéo sợi, dệt vải, may vá quần áo… Phụ nữ ở đây bao giờ cũng vui vẻ, và luôn miệng nói cười. Họ cũng như đàn ông, vui vẻ và có duyên”(2). “Gia Định ở Việt Nam đất rộng, thực vật nhiều không lo sợ đói rét, nên nhân dân ít súc tích(3), tập tục xa hoa, sĩ khí hiên ngang. Có người khách đến nhà, đầu tiên gia chủ dùng trầu cau, dâng tiếp cơm, bánh đãi trọng hậu, không kể người thân, sơ, quen lạ (…). Những người phụ nữ, chủ gia đình tỏ ra rộng rãi phóng khoáng, mến khách”(4). Borri, cố đạo người Ý sống ở Việt Nam những năm 1918 - 1921 ca ngợi: “Phụ nữ ở đây tính khí êm dịu hơn bất cứ dân tộc nào khác ở phương Đông… đón tiếp khách khứa rất nồng hậu, mời ăn cơm và coi như bạn bè, tâm tình khoáng đạt, thoải mái, dáng đi thong thả, uy nghi, quần áo của họ có lẽ là kín đáo nhất phương vùng Đông Nam Á”(5). 1. Jean Kopfler, giáo sĩ Tiệp Khắc, đã viết trong sách Cương yếu lịch sử Đàng Trong, 1766 (trong sách: Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd). 2. John Barrow, Hội viên Hoàng gia Anh ghi trong báo cáo “Chuyến đi Đàng Trong, thế kỷ XVIII” (tham khảo: Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 20). 3. Từ dùng theo văn phong thời kỳ đó, có lẽ hàm ý người dân không chú trọng tích lũy của cải. 4. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí (dẫn theo Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 22). 5. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 20.


- 167 - Phụ nữ Sài Gòn thời kỳ đó, qua ngòi bút của nhà văn Sơn Nam: “Dân cư tập trung ở cảng rất nhiều. Đàn bà khá tháo vát, để lại dấu ấn trong tên chợ, tên kênh rạch, rạch Bà Thuông (Thông), Bà Tiệm, còn chợ Bà Quẹo, Bà Điểm, Bà Hoa, rạch Bà Nghè. Bà Nghè hay còn gọi Thị Nghè, là con ông Nguyễn Cửu Vân. Bà đã trưng khu đất và bắc cầu làm hạ tầng cơ sở cho dân đi lại mua bán, nên đã đặt tên bà cho con rạch. Người ta chỉ nhớ tên bà chứ không ai nhớ tên thật của nó là Bình Trị Giang cả. Thời Minh Mạng, phụ nữ đứng tên bộ điền tỉ lệ cao hơn so với miền Bắc, miền Trung. Các bà có tài kinh doanh đất đai, nhiều khi còn đứng thay tên cho chồng. Trịnh Hoài Đức ghi rằng đàn bà ở đây thời xưa lắm khi dám đánh với cọp, khi bất trắc thì dùng đòn gánh, liềm hái. Thời chúa Nguyễn, phụ nữ gần như nắm độc quyền về mua bán sỉ, lẻ rau cải, vải bô. Phụ nữ Hóc Môn cứ khuya là rủ nhau gánh rau xuống Chợ Rẫy (Chợ Lớn). Đi bộ, đề phòng cọp, đoàn người này phải nói cười vang rân, có người cầm đuốc đi trước, đi sau”(1). Thời kỳ thuộc địa, Sài Gòn là vùng đất không chỉ để phát triển kinh tế, mà cũng là vùng đất thu hút nhân lực, tài nguyên, vật lực, thu hút các yếu tố văn hóa du nhập và phát triển tại đây. Sài Gòn trở thành mảnh đất của sự hội tụ con người và tư tưởng, dần dần tác động hình thành kiểu tính cách “dám chấp nhận nhiều sáng kiến đột phá”(2). Trên nền tảng vùng đất mới, cộng với những phẩm chất truyền thống tốt đẹp được lưu giữ, phụ nữ Sài Gòn vừa giữ 1. Sơn Nam, “Phụ nữ Sài Gòn”, file pdf: Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Sơn Nam, “Tính cách người Sài Gòn”, file pdf: Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.


- 168 - được sự chăm chỉ, siêng năng vốn có, vừa có được sự năng động, giỏi làm kinh tế, phóng khoáng, hào hiệp, sự lạc quan và cả sự quyết liệt trong lời nói, việc làm do đặc điểm của vùng đất mới mang lại. Về đời sống xã hội, phụ nữ Sài Gòn sớm bị phân hóa thành nhiều tầng lớp. Có thể hình dung chung qua nhiều tài liệu, gần gũi hơn cả là các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Đó là cuộc sống khốn khó của những người phụ nữ bình dân, thất học, ở nhiều tỉnh thành dạt về Sài Gòn, phải vật lộn với cuộc mưu sinh, phải sống khổ sở, ở những khu xóm nhà lá, cảnh khốn ngặt đôi khi phủ lấp đi cả tình người. Đó là bộ phận phụ nữ làm vợ các thầy thông, thầy lục, có cuộc sống khá giả hơn một chút, chịu ảnh hưởng của lối sống phương Tây, bị cám dỗ bởi dục vọng, sa ngã, hối hận, khổ đau. Một bộ phận phụ nữ bị Tây hóa, từ bỏ gia đình để chạy theo nhu cầu vật chất, dục vọng(1). Một bộ phận khác vẫn đang chìm trong những hủ tục của xã hội cũ, bị giam hãm trong bổn phận tam tòng, tứ đức, chịu nhiều thiệt thòi, bất công. Đời sống xã hội phong phú, phân hóa sâu, đã có ảnh hưởng đến hình thức, phong cách của phụ nữ Sài Gòn. Về mặt hình thức, phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1930 - 1945 đã nổi tiếng là ăn mặc đẹp, năng động, phù hợp với công việc, giới chức; phong cách thanh nhã, không kém phần hiện đại tân thời. Đặc điểm nổi bật là các phong cách thời trang, phục sức đều được chấp nhận, được phát triển đến tinh tế và có tính chất xã hội hóa cao. Trường phái cựu trào có thể lấy biểu 1. Tác phẩm Dây oan (Sài Gòn, 1935), nguồn: http://www.hobieuchanh.com/pages/ truyendai/DayOan/DayOan01.html, truy cập ngày 30/12/2017; tác phẩm Bỏ chồng (Vinh Hội, Sài Gòn, 1938), nguồn: http://www.hobieuchanh.com/pages/truyendai/ BoChong/BoChong01.html, truy cập ngày 30/12/2017.


- 169 - trưng là “xà bông cô Ba”(1). Sự thành công của xà bông cô Ba với hình ảnh người phụ nữ Việt có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp duyên dáng, có thể nguyên nhân là đánh trúng tâm lý người dùng, cũng một phần là sự thừa nhận chuẩn mực cái đẹp của phụ nữ Sài Gòn thời bấy giờ. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên là “người mẫu”, cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam, cũng là mẫu mực cho một trong những vẻ đẹp phụ nữ Sài Gòn. Về phục sức, phong cách của phụ nữ Sài Gòn, có thể thông qua văn học, báo chí mà hình dung được. Ở nông thôn, chiếc áo bà ba khá phổ biến, tuy nhiên, lối ăn mặc của phụ nữ Sài Gòn đa dạng hơn, do chịu ảnh hưởng từ các vùng miền khác, do tính chất “mở”, tính chất trung tâm giao thương văn hóa của đô thị này(2). Khi xã hội bị Tây hóa, các giá trị đảo lộn, thân phận 1. Cần lưu ý là xà bông của hãng Trương Văn Bền không hề có chữ nào ghi là Cô Ba. Lý do người ta gọi xà bông Cô Ba là vì trên hộp giấy có in hình một người phụ nữ búi tóc đặc trưng Nam Bộ, và trên cục xà bông in nổi hình một người phụ nữ nhìn nghiêng. Một trong những tin đồn dân gian thì “Cô Ba “chính là con gái thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhất Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ XX. Nguồn tin khác cho rằng thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông Trương Văn Bền. Trong phòng làm việc của ông tại Công ty Xà bông Trương Văn Bền và các con - Dầu và Việt Nam có tượng bằng đồng đen hình vợ ông mà ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông. Theo lời ông Philippe Trương, hai người phụ nữ này là một: ông Trương Văn Bền có vợ là cô Ba, con gái thầy Thông Chánh ở Trà Vinh. Hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền trong bức ảnh chụp chung cả gia đình là một. Theo tâm lý người miền Nam lúc đó ít có thói quen gọi sản phẩm theo tên, có thể do khó đọc, khó nhớ, cũng vì nhiều người vốn không biết chữ, họ gọi theo hình trên sản phẩm. Theo Vương Hồng Sển trong tác phẩm Sài Gòn tạp pín lù: “Trong giới huê khôi, nghe nhắc lại, trước kia hồi Tây mới đến, có cô Ba con thầy Thông Chánh là đẹp không ai bì, không răng giả, không ngực keo cao su nhân tạo, tóc dài chấm gót, bới ba vòng một ngọn, mướt ướt và thơm phức dầu dừa mới thắng, đẹp vì không son phấn giả tạo, đẹp đến nỗi nhà nước in hình vào con tem Nhà Dây thép, và một hiệu xà bông xin phép làm mẫu rao hàng xà bông Cô Ba”. 2. Theo Vương Hồng Sển: “Các ỷ, các ý trong Chợ Lớn thì đầu bới tóc thả bánh lái “ba vòng một ngọn”, ăn trầu tích toát, để móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vảnh ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu “cửu khúc liên hườn”. Trên vai mấy ỷ thường giắt vào một khăn vằn (nguyên văn) Nam


- 170 - người phụ nữ cũng chao đảo ngả nghiêng, một bộ phận chị em bị đẩy vào đường cùng, chịu thân phận làm gái ăn sương ở Sài Gòn, trở thành một sản phẩm của xã hội thực dân đồi trụy. Âu phục theo kiểu Pháp xuất hiện trong tầng lớp phụ nữ trí thức, nhưng âu phục không biến họ thành kẻ mất gốc. Trong Sài Gòn hát ca cách mạng, nhạc sĩ Huỳnh Văn Tiểng kể lại: “Trường Nữ học Gia Long có cô Tư Châu, giáo viên môn Sử Địa, thường vận âu phục đi dạy, nhưng khi đến xem sinh viên diễn về lịch sử dân tộc, cô biểu thị thái độ trân trọng, mặc áo dài cổ truyền. Do đó, ngày hôm sau, viên giám đốc Nha Học chính của thực dân Pháp là Tabulé đã đòi cô Châu lên để khiển trách. Đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, đơn độc, mà chính là một hiện tượng điển hình cho sự chuyển biến trong tâm hồn của tầng lớp trí thức đương thời về các vấn đề trọng đại của dân tộc”(1). Y phục được phụ nữ Sài Gòn ý thức coi như một phương tiện biểu đạt vị trí xã hội và tư tưởng của con người. Các trường nữ học do Pháp mở ra đã đào tạo một lớp thiếu nữ tân kỳ, đương thời gọi là các “cô gái mới”. Những “cô gái mới” của Sài Gòn luôn chú trọng về mặt hình thức. Mặc quần áo kiểu tân thời, theo mẫu của nhà thiết kế Lemur, biết cách trang điểm, có một cơ thể khỏe mạnh nhờ luyện tập thể thao, tác phong nhanh nhẹn, mạnh dạn trong giao tiếp và hăng hái Vang dùng để lau trầu, khác với mấy cô vợ Tây thì quấn chuỗi hột vàng gần gãy cổ, tay đeo kiềng vàng chạm kiểu “nhứt thi nhứt họa” thêm mặc áo mớ ba mớ bảy, tóc xức dầu thơm chánh hiệu “Cô Ba”. Thú phong lưu thời ấy là chiều chiều ngồi xe song mã đánh một vòng “Lăng Tô” (Láng Thọ nói giọng Tây), hoặc ngồi xe kéo bánh cao su đặc, ra bến tàu hóng mát. Nếu không bài bạc thì xem hát bội”. Trích Vương Hồng Sển (2013), Sài Gòn năm xưa, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 227. Tiếng Triều Châu: Ỷ, ý (tức “di”) nghĩa là dì. Ỷ (dì) vợ chệch (khách, người Hoa). 1. Sài Gòn hát ca cách mạng, Sđd.


- 171 - cổ động phụ nữ vượt qua các trở ngại từ dư luận xã hội và sự ngăn cấm của gia đình. Phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1930 - 1945 có nhiều nét mới, sự đổi mới trong tình cảm, tư tưởng, hành động còn rộng hơn, nhanh hơn sự thay đổi về mặt hình thức. Những nhân vật của sân khấu cải lương cho thấy: có thể vẻ bên ngoài họ vẫn là những người phụ nữ truyền thống, ăn vận theo lối cũ, cư xử theo phong thái cũ, nhưng sự phản kháng những lề thói cũ trong lòng họ đã mãnh liệt hơn nhiều. Điều này có thể lý giải khi căn cứ vào thời đại, hoàn cảnh lịch sử: “Nam Kỳ là đất thuộc địa đã lâu được hưởng một chế độ tương đối rộng rãi hơn Trung Kỳ và Bắc Kỳ, những tư tưởng dân chủ tư sản đã có đủ thời gian thấm vào mảnh đất này”(1). Vì thế, khi cái cũ, lỗi thời, lạc hậu thì họ dám bỏ một cách dứt khoát, không lo lắng chần chừ, phù hợp với tính cách căn cốt của người Sài Gòn từ xưa, như Giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: “đã tròn thì rất tròn, đã vuông thì rất vuông, dứt khoát rõ ràng, như rựa chém đất, không lắt léo, khó hiểu”(2). Hiểu nguyên nhân trên, sẽ giải thích được vì sao Sài Gòn có hàng loạt chủ bút các tờ báo là phụ nữ, giỏi quán xuyến, năng động, nhạy cảm thích nghi với cái mới, có tinh thần tiến bộ với mong muốn “Phấn son tô điểm sơn hà. Làm cho rõ mặt đàn bà nước Nam”, làm thay đổi quan niệm suy nghĩ của người phụ nữ đã bao đời quen với việc nội trợ, phục tùng. Những nhân vật của báo chí, văn học thời kỳ 1930 - 1945 1. Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Hiệp (1988), Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Lê Minh Quốc (2015), “Lời tỏ tình trước “nhan sắc” Sài Gòn”, báo điện tử Thể thao và Văn hóa, ngày 23/2/2015, nguồn: http://thethaovanhoa.vn/buixuanphai/details/ c133n20150210112507824/loi-to-tinh-truoc-nhan-sac-sai-gon.htm, truy cập ngày 30/ 12/2017.


- 172 - cũng phản ánh một ý thức tôn trọng và động viên nữ giới, xây dựng hình tượng người phụ nữ lý tưởng: có học thức, có lý tưởng sống, khẳng định mình có đủ năng lực bảo vệ phong hóa, bảo vệ quyền lợi của mình, ít phục tùng và luôn sẵn sàng nhận lãnh vai trò của mình với ý thức và trách nhiệm. Người phụ nữ Sài Gòn đã có diễn đàn, có điều kiện và họ đã quyết tâm nói tiếng nói của mình về quyền được sống theo đúng tính cách, được thể hiện tình cảm yêu ghét theo đúng con người mình, và hơn hết là hành động, thông qua việc làm để chứng minh năng lực, rằng có thể làm được nhiều việc cao cả và ích lợi cho xã hội, chứ không chỉ giỏi việc bếp núc, con cái, và giỏi phục tùng chồng. Đây là những yếu tố nền tảng quan trọng, ăn sâu thành gốc rễ trong mỗi con người, khi có đủ điều kiện, nó chuyển hóa thành hành động tranh đấu cụ thể. Khi áp bức càng nặng nề, dã man, tàn bạo, thì ngọn lửa đấu tranh trong người phụ nữ Sài Gòn càng bùng lên mãnh liệt. Ngọn lửa đấu tranh đó được tổng hợp từ tính cách, tư tưởng, nhận thức, tình cảm trong một môi trường xã hội đặc thù, vừa có tính phổ biến của phong trào phụ nữ Việt Nam, vừa mang bản sắc riêng phụ nữ Sài Gòn. 2. Nhận thức về quyền bình đẳng nam nữ Có thể nói sự trỗi dậy nhận thức về bình đẳng giữa nam nữ song song với nhận thức về dân tộc, tinh thần yêu nước và ý thức đấu tranh chống áp bức là đặc điểm nổi bật của phong trào phụ nữ Sài Gòn giai đoạn này. Sài Gòn, như một đô thị kiểu phương Tây, được xây dựng ở Việt Nam từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, được phát triển trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Các trường lớn và bậc học cao đều đặt ở đô thị, vì vậy khi bắt đầu


- 173 - con đường học vấn, học sinh sinh viên đều phải di chuyển ra các đô thị, và khi đỗ đạt, có bằng cấp họ tìm được việc làm tại các đô thị. Do đó, tầng lớp trí thức thường tập trung tại các đô thị - nơi có sự giao lưu và phát triển cũng như chịu ảnh hưởng của văn minh văn hóa phương Tây sớm hơn cả. Tính chất thị dân là một đặc điểm của trí thức Tây học. Các phong trào dân chủ yêu nước tiêu biểu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đều do trí thức có yếu tố tiếp thu tư tưởng Tây học lãnh đạo, xảy ra ở đô thị: Phong trào đòi thả Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh, phong trào nữ quyền và vận động văn hóa mới… Một đặc điểm nổi bật là dù thất bại, nhưng các phong trào đều hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tìm con đường canh tân, hiện đại hóa để hòa nhịp cùng những xu hướng phát triển tiên tiến của thời đại. Tại các đô thị, phụ nữ bắt đầu có những người học cao, đỗ đạt, làm các nghề chuyên môn và có uy tín trong xã hội. Theo báo Ðàn bà số đặc biệt năm 1941, một số tên tuổi nổi bật có thể kể đến là: bà Henriette Bùi, tốt nghiệp Đại học Y khoa Paris năm 1934, làm Phó Giám đốc Nhà Bảo sanh Chợ Lớn, bà Phan Thị Liệu làm ở Sở Nghiên cứu Nông nghiệp Sài Gòn, bà Phạm Thị Mỹ và Nguyễn Thị Châu làm giáo sư ở Trường Nữ sinh Áo Tím… Là những trí thức, họ có điều kiện tiếp thu những tư tưởng mới từ bên ngoài, chịu ảnh hưởng của truyền thống yêu nước của dân tộc. Đồng thời, trong quá trình phong trào phát triển, nhiều phụ nữ đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức rõ muốn giải phóng phụ nữ thực sự trước hết phải giải phóng dân tộc, và mang lại quyền lợi cho phần đông phụ nữ Việt Nam, đó là phụ nữ lao động ở thôn quê cũng như thành thị. Lý thuyết nữ quyền khởi phát từ các nước phương Tây, từ sự thay đổi nhanh chóng của tình hình kinh tế, chính trị - xã


- 174 - hội dẫn đến thay đổi vai trò của phụ nữ, nhận thức về sự bất bình đẳng trong kinh tế của phụ nữ do phụ thuộc vào đàn ông, việc phụ nữ bị loại ra khỏi môi trường xã hội, vị trí thấp kém của phụ nữ về mặt pháp luật so với nam giới. Tư tưởng này nhanh chóng lan rộng ở các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, xuất hiện các lý thuyết về nữ quyền tư sản (vận động, đấu tranh cho quyền được học tập, quyền được làm việc và quyền được bình đẳng về chính trị của phụ nữ) và nữ quyền mácxít (gắn việc giải phóng phụ nữ với cuộc đấu tranh giai cấp và cuộc cách mạng để xây dựng một xã hội mới). Những tư tưởng này thâm nhập vào Sài Gòn thông qua báo chí và đội ngũ trí thức Tây học thời bấy giờ. Đây chính là hai đối tượng hậu thuẫn và cổ vũ mạnh mẽ nhất, đấu tranh hăng hái nhất cho nữ quyền. Trên thực tế, những năm 1936 - 1939, ở Sài Gòn đã diễn ra hai luồng đấu tranh giữa hai tư tưởng nữ quyền tư sản và nữ quyền mácxít. Báo chí, ví dụ như tuần báo Phụ nữ Tân văn và một số tờ báo tiến bộ bắt đầu cuộc đấu tranh cho nữ quyền từ xác định một mục tiêu cụ thể: chứng minh phụ nữ có đủ khả năng và trình độ để gánh vác trách nhiệm xã hội như nam giới. Nhận thức về nữ quyền chỉ ra cái nguyên nhân cơ bản của sự bất bình đẳng nam nữ, đó là do phụ nữ không được tự chủ về kinh tế. Từ đó, động viên phụ nữ học chữ, học nghề, tham gia lao động, làm chủ cuộc đời mình. Quyền được bình đẳng trong thụ hưởng giáo dục là một nội dung quan trọng của nữ quyền. Cùng với cuộc cách mạng trong lĩnh vực văn chương của Thơ Mới, cùng với sự phát triển của văn học viết bằng chữ Quốc ngữ, cùng với tầm nhìn và quá trình lãnh đạo sâu sát, khéo léo và kịp thời của Đảng, phong trào nữ quyền nhuốm màu sắc riêng của Sài Gòn: đó là đấu tranh đòi sự bình đẳng


- 175 - giữa nam và nữ trong hình thức lao động, giá trị ngày công lao động, trong phúc lợi xã hội, từ đó xác lập sự tôn trọng xã hội và khẳng định vai trò của người phụ nữ. Phụ nữ đã vận dụng sức mạnh riêng của mình để tổ chức các hình thức đấu tranh phù hợp, linh hoạt và sáng tạo. Có thể nói, phong trào nữ quyền được khơi nguồn từ tầng lớp phụ nữ trí thức, nhưng thực sự được cung cấp sức sống, trở thành sức mạnh đấu tranh từ sự đồng cảm và vận dụng của đông đảo chị em phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Nó phản ứng lại sự áp bức muôn đời vẫn đè nặng trên đầu người phụ nữ nói chung, nhưng cụ thể, nó hướng mũi đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược, bè lũ tay sai thực dân phong kiến và những hủ tục giam hãm người phụ nữ. Trào lưu nữ quyền trong giai đoạn này đặc biệt có sự xuất hiện của các cuốn sách viết về nữ quyền, các bài báo đấu tranh cho nữ quyền mácxít của những nữ chiến sĩ cộng sản. Tư tưởng nữ quyền mácxít không phải ngay từ đầu đã được tiếp nhận, khi ở đô thị Sài Gòn chế độ tư bản đang phát triển, tư tưởng nữ quyền tư sản đang được cổ súy mạnh mẽ, và bản thân người phụ nữ cũng không quá bị giáo lý phong kiến kìm hãm, nên có thể vẫn còn những vọng tưởng rơi rớt trong tư tưởng nữ quyền theo hướng tư sản chủ nghĩa. Nhưng qua thời gian, qua trải nghiệm thực tế, khi thực dân Pháp lộ rõ bộ mặt dã man, tàn ác, và dưới sự lãnh đạo kịp thời, nhạy bén của các nữ đảng viên cộng sản, tư tưởng nữ quyền mácxít đã thấm sâu hơn vào các giai tầng trong xã hội, thể hiện trong các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, trở thành động lực cổ vũ phụ nữ mạnh mẽ tiến lên. Các bài báo của Nguyễn Thị Minh Khai, dưới các bút danh Kim Anh, Nguyễn Thị Kim Anh đăng trên báo Dân chúng ngày 18/9/1938, thể hiện quan điểm tranh đấu vẫn


- 176 - còn giá trị đến hôm nay: “Những người phụ nữ tán thành giải phóng đều hiểu rằng: vợ chồng là tuyệt đối bình đẳng, song muốn bình đẳng thì mình không nên ăn bám vào đàn ông và ai cũng nhận ra rằng: đẻ con là trách nhiệm đặc biệt của đàn bà, nhưng nuôi con không phải là bổn phận riêng của phụ nữ. Muốn hoàn toàn giải phóng và bình đẳng thì cần phải thay đổi chế độ xã hội hiện thời mới được. Khuyên chị em an phận trong gia đình thì chẳng những giam hãm chị em vào cảnh nô lệ mà còn làm giảm mất đi một nửa lực lượng đấu tranh giải phóng cho dân tộc của xã hội, nói chung là cuộc giải phóng loài người. Các chị em Việt Nam đứng trước tình hình thế giới ngày nay và địa vị dân tộc hiện tại, muốn làm một người quốc dân có đầy đủ trách nhiệm, muốn làm một phần tử trong xã hội nên họ cần đấu tranh chống những đạo đức phong kiến, chống lý luận phát xít, đòi tham gia việc xã hội, đòi quản lý việc quốc gia. Lênin thường nói “Mỗi người đàn bà nấu ăn phải tham gia việc quản lý việc nhà nước. Giải phóng đàn bà ra khỏi bếp núc để kiến thiết xã hội”. Một dân tộc mà bọn tu mi còn nằm khoanh trong xó bếp, chưa biết quan tâm tới tiền đồ quốc gia xã hội, phụ nữ đang bị giam hãm nơi gia đình, xó bếp, mà nữ sĩ Tuyết Dung lại xướng to lên cái lý thuyết “phụ nữ hồi gia”, đó thật là trái ngược với trào lưu thế giới và trình độ tiến hóa của dân tộc. Nên chi, tôi và chị em Sài Thành phải tuyên chiến với học thuyết phản động của phong kiến tư bổn, của phát xít vậy”. Sự phát triển của lực lượng phụ nữ và sự phân hóa sâu sắc của xã hội thời kỳ 1930 - 1945 đã tạo nên những thay đổi lớn trong đời sống xã hội, trong đó, phụ nữ trở thành lớp người bị bóc lột, hà hiếp nặng nề nhất. Áp bức, bất công, bần cùng, bị


- 177 - xúc phạm phẩm giá… đã thổi bùng ngọn lửa tranh đấu trong các tầng lớp phụ nữ. Tháng 2/1930, Nguyễn Ái Quốc, trong Văn kiện thành lập Đảng, đã nêu chủ trương “thực hiện nam nữ bình quyền” và vạch rõ: “Phụ nữ muốn được bình quyền, muốn được tự do và hạnh phúc trước hết phải làm cách mạng giải phóng dân tộc… Nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt mục đích giải phóng được”(1). Đây là một tư tưởng lãnh đạo vô cùng quan trọng, đặt phong trào phụ nữ chung trong phong trào đấu tranh của dân tộc, tổ chức lực lượng phụ nữ, khiến cho chị em phụ nữ được đoàn kết lại trong một mặt trận lớn. Ngay từ thời kỳ đầu tiên ấy, trong những năm tháng hoạt động khó khăn của các tổ chức tiền thân của Đảng và khi Đảng ra đời, phụ nữ Sài Gòn đã mạnh dạn, dứt khoát đi theo ngọn cờ của Đảng. Phụ nữ thành phố thuộc mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo, có điều kiện tiếp xúc và cơ hội được giác ngộ cách mạng, có sự trưởng thành vượt bậc, và có vai trò ngày càng nổi bật trong các cuộc đấu tranh trên mọi lĩnh vực. Bước trưởng thành trên mặt trận tư tưởng - chính trị của phong trào diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời mang tinh thần dám nghĩ dám làm, thẳng thắn, táo bạo của phụ nữ Sài Gòn. Chọn lựa cùng chia sẻ tiếng nói với phụ nữ, cùng hưởng ứng trào lưu tư tưởng tiến bộ, những chiến sĩ cách mạng đã gần gũi với phong trào phụ nữ, dần dần trở thành những lãnh tụ tinh thần và lãnh tụ đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn. Nền tảng tư tưởng này là một nhân tố tích cực ảnh hưởng đến phong trào phụ nữ ở các giai đoạn tiếp theo. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 189.


- 178 - 3. Đường lối đấu tranh đúng đắn, lực lượng đa dạng và tinh thần linh hoạt, sáng tạo Trong phong trào phụ nữ, việc tổ chức, vận động đấu tranh phải luôn đi liền với việc đề cao tinh thần đoàn kết, gắn bó, tạo nên tổ chức và ý thức về tổ chức của mình. Do đặc điểm giới, phụ nữ nếu không được đoàn kết lại trong một tập thể, một đội ngũ, sẽ chỉ là những cá nhân dễ dàng bị chi phối bởi những thói quen cũ, những hủ tục xã hội đã hằn sâu trong mỗi gia đình, từ bao đời trước. Một trong những đặc điểm của giai đoạn này là sự hình thành lực lượng của phong trào phụ nữ Sài Gòn mang tính tổng hợp, đa dạng: nguồn cán bộ không phải chỉ là các chị em lớn lên ở Sài Gòn nhưng đã trưởng thành trong thực tế tranh đấu ở vùng đất này; các tổ chức phụ nữ được thành lập trên nhu cầu và đặc điểm của nhiều giai tầng trong xã hội, dần dần giác ngộ tư tưởng cách mạng, đi vào định hướng đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng; từ tính tổng hợp này, một hệ quả tất yếu là các tổ chức, phong trào phụ nữ Sài Gòn rất đa dạng, linh hoạt, hình thức tổ chức đấu tranh rất sáng tạo. Tất cả được đặt dưới sự lãnh đạo và đường lối đấu tranh đúng đắn, mềm dẻo, sâu sát của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phụ nữ Sài Gòn đã có mặt rất sớm trong cuộc vận động thành lập Đảng, một bộ phận nữ trí thức đã giác ngộ và gia nhập tổ chức Đảng, sau này trở thành những chiến sĩ cộng sản kiên trung như chị Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Minh Khai… Các chị đã đóng góp cả tuổi xuân tranh đấu và cuộc đời hoạt động cho vùng đất Sài Gòn. Một bộ phận nữ trí thức tiểu tư sản thấu hiểu và chia sẻ hoàn cảnh chung, gần gũi với tầng lớp chị em phụ nữ bình dân, được giác ngộ lý tưởng, đã đứng vào hàng ngũ, tích cực đấu


- 179 - tranh trên nhiều mặt trận. Nhiều nữ trí thức đã thực hiện “vô sản hóa” theo tinh thần của Đảng. Có một điều diễn ra gần như thành quy luật riêng của phong trào phụ nữ Sài Gòn: không phải chỉ có những chị em sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này, mà nhiều nhà hoạt động, nhiều nữ chiến sĩ, nhiều phụ nữ tiên tiến từ nhiều địa phương với những hoàn cảnh khác nhau, sau khi giác ngộ, thoát ly theo yêu cầu của cách mạng, đều được điều động lên công tác ở Sài Gòn - nơi có cơ quan Xứ ủy, của Tổng Công hội, của Trung ương Đảng. Ngay từ buổi sơ khai, Đảng đã đánh giá vị trí của thành phố Sài Gòn là trung tâm chính trị của khu vực, cũng là môi trường tranh đấu, đào tạo rèn luyện đội ngũ, bồi dưỡng cán bộ. Từ lực lượng nòng cốt này, tổ chức, phong trào, lực lượng phụ nữ Sài Gòn được gầy dựng ngày càng lớn mạnh, xâu chuỗi chặt chẽ, hình thành mạng lưới vững chắc và rộng khắp trong lòng đô thị. Chỉ trong một thời gian ngắn, các chị em đã trưởng thành nhanh chóng và trở thành những cán bộ lãnh đạo phong trào, được giao trọng trách quan trọng trong tổ chức Đảng. Tính tổng hợp của phong trào phụ nữ Sài Gòn bắt nguồn từ những nhân tố con người như trên, phát triển mạnh thành một đường lối đấu tranh linh hoạt, sáng tạo, kết hợp sự lãnh đạo của Đảng và năng lực, tinh thần tích cực của cán bộ. Phụ nữ Sài Gòn đã có nhiều sáng tạo trong đấu tranh mà ở những vùng miền khác khó có thể có. Từ các hình thức hoạt động thời kỳ những năm 30 như tổ chức đấu xảo nữ công, tổ chức giải tranh vô địch cho nữ về môn quần vợt, gây quỹ học bổng cho học sinh nghèo được đi học…, các hội đoàn lớn nhỏ về sau này: các hội ái hữu, thợ may, thợ thêu, thợ dệt, nữ công gia chánh, nghiệp đoàn các chợ, sân khấu cải lương, những


- 180 - vạn cấy, vạn gặt, hội hiếu hỉ ở nông thôn, hội tương tế, hội âm công, nhà vàng cho đến các tổ chức như nông hội, công hội đỏ. Các tổ chức phụ nữ vừa mang tính xã hội, giai cấp, vừa khéo léo lồng ghép các hình thức sinh hoạt nâng cao nhận thức chính trị, động viên lẫn nhau, truyền sức mạnh đấu tranh cho các chị em chung hàng ngũ. Những năm 1934 - 1935, cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị - tư tưởng giữa hai khuynh hướng: tư tưởng nữ quyền tư sản và nữ quyền mácxít đã chứng tỏ bản lĩnh cách mạng của các nữ chiến sĩ cộng sản. Đồng thời từ góc độ phong trào, có thể thấy thực tế tranh đấu và trưởng thành của phong trào đã trở thành nền tảng, thành tư liệu thực tế vững chắc chứng minh cho lẽ phải trong cuộc đấu tranh này. Chủ động sử dụng báo chí để tuyên truyền tư tưởng của Đảng, khơi dậy và truyền động lực cho nhiều chị em cùng tham gia tranh đấu - đây cũng là một trong những nét sáng tạo của phong trào phụ nữ Sài Gòn, mà bản chất của nó chính là từ sự tổng hợp của cán bộ, của lực lượng, sự đa dạng của hình thức tổ chức trong suốt quá trình đấu tranh. Từ sự bùng nổ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh, Đông Dương Đại hội 1936 - 1939, đến khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và đỉnh cao là cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, các hoạt động đấu tranh chuyển dần từ đấu tranh chính trị thành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang và sau cùng là đấu tranh vũ trang, trong một tiến trình hết sức đa dạng, linh hoạt, sáng tạo và đã giành những chiến thắng vẻ vang, góp phần vào chiến thắng chung của dân tộc.


- 181 - - CHƯƠNG II - PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chuyển sang một thời kỳ hoạt động mới. Ranh giới các khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tiếp tục có thay đổi, nhưng vai trò trung tâm vẫn là thành phố Sài Gòn. Các hoạt động của phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định diễn ra đa dạng, phong phú trong bối cảnh thường xuyên biến động, có nhiều thay đổi của toàn giai đoạn này. Các phong trào, hoạt động đấu tranh đã hình thành nên tinh thần, tính cách của người phụ nữ Nam Bộ nói chung và phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng trong cuộc đấu tranh của dân tộc: kiên cường, bất khuất, bản lĩnh mà vẫn mềm mại khéo léo, kiên định ý chí cho đến mục tiêu cuối cùng. Chương này cũng tập trung khắc họa sự chuyển biến phẩm chất của người phụ nữ Sài Gòn để thích ứng với sự thay đổi của


- 182 - xã hội đô thị, thích ứng với yêu cầu cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Từ chỗ nhận thức được lý tưởng, thống nhất mục tiêu đấu tranh chung, họ đã đạt đến tinh thần hy sinh, chủ động tham gia vào những hoạt động ở tầm dân tộc, quốc gia. Cuối giai đoạn này, các tổ chức phụ nữ cũng đã thành hình, trong định hướng chung hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Như một sự kế tục truyền thống, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định giai đoạn này có sự góp mặt ngày càng đông đảo của những người phụ nữ không sinh ra trên đất này, nhưng đã chiến đấu, đóng góp tâm trí, máu xương, trưởng thành cùng sự trưởng thành của phong trào phụ nữ thành phố. Họ mãi mãi là niềm tự hào của lực lượng phụ nữ Sài Gòn. I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 1. Địa giới hành chính Đến thời điểm Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, địa giới hành chính của khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã khá ổn định, không còn những cuộc phân tách/ sát nhập lớn, mà chủ yếu chỉ mở rộng ranh giới của thành phố Sài Gòn. Từ năm 1941 đến năm 1947, thành phố Sài Gòn/ đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn được chia thành 5 quận (từ Quận 1 đến Quận 5, tương ứng với địa bàn các Quận 1, 3, 5, 6, 8 hiện nay). Sau khi tái chiếm được Đông Dương, năm 1948, chính quyền Pháp chia thành phố thành 6 quận hành chính (Quận 6 được thành lập từ một phần huyện Nhà Bè của tỉnh Gia Định, tương ứng Quận 4 hiện nay). Đến năm 1952, Pháp tiếp tục mở rộng và chia khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành 7 quận.


- 183 - Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là địa bàn gồm thành phố Sài Gòn (đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn), tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Chợ Lớn. Trong giai đoạn 1945 - 1954, tỉnh Gia Định vẫn gồm 4 huyện Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức và Nhà Bè, bao bọc thành phố Sài Gòn. Tỉnh Chợ Lớn nằm ở phía Tây Nam thành phố Sài Gòn, gồm các quận Cần Giuộc, Rạch Kiến, Đức Hòa, Trung Huyện. Sau này, phần đất đai tỉnh Chợ Lớn gồm các huyện Cần Giuộc, Rạch Kiến, Đức Hòa và một phần của Trung Huyện (Gò Đen) nhập vào tỉnh Long An khi tỉnh này thành lập năm 1956, phần còn lại của Trung Huyện nhập vào tỉnh Gia Định, sau này là huyện Bình Chánh của Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Theo thống kê còn lưu giữ được của Chính phủ Pháp tại Đông Dương (thống kê trên những vùng địch tạm chiếm, nơi chính quyền Pháp kiểm soát), thì diện tích và dân số của từng vùng từ năm 1943 đến năm 1955 như sau(1): Tỉnh Diện tích (km2 ) Dân số 1943 1953 1955 Sài Gòn - Chợ Lớn 51 498.100 1.603.831 1.900.800 Gia Định 1.228 363.400 297.037 550.700 Chợ Lớn 1.235 279.300 263.970 263.000 Miền Đông Nam Bộ 29.600 1.951.800 2.536.866 3.641.590 1. Hồ Sơn Đài (1996), Chiến khu ở miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 35.


- 184 - Với diện tích nhỏ bé nhất vùng Đông Nam Bộ, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn lại có sự phát triển dân số nhanh chóng hơn cả. Đến năm 1955, dân số của thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đã chiếm hơn một nửa dân số toàn miền Đông Nam Bộ (tính trên số dân thuộc kiểm soát của chính quyền thực dân). Nằm ở vị trí trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của khu vực và là điểm nút giao tranh quân sự, đây là địa bàn sôi nổi các hoạt động đấu tranh chính trị, quân sự, trí vận, địch vận… của nhân dân nói chung và các phong trào phụ nữ nói riêng. Trong khi đó, ở các vùng ven Sài Gòn, phong trào phụ nữ phát triển với nhiều đặc điểm riêng ở cả khu vực địch tạm chiếm và khu vực giải phóng. Nghiên cứu hoạt động của phụ nữ ở từng khu vực góp phần định hình sự phát triển đa dạng của phong trào phụ nữ trong giai đoạn 1945 - 1954. Từ phía nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau khi giành chính quyền năm 1945, Chính phủ cũng từng bước phân chia địa giới quân sự ở khu vực Nam Bộ. Cuối năm 1945, cả nước chia làm 9 chiến khu, trong đó Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thuộc Chiến khu 7, cùng với các tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Tây Ninh, Bà Rịa. Đến tháng 11/1946, cả nước chia làm 12 khu hành chính và quân sự, nhưng Khu 7 vẫn giữ nguyên địa giới như trên. Tháng 12/1948, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tây Ninh tách ra thành lập Khu Sài Gòn - Chợ Lớn; Khu 7 còn lại các tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Tháng 7/1950, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn nhập trở lại Khu 7. Tháng 8/1950, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một số huyện vùng ven tách ra thành lập Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn trực thuộc Bộ Tư lệnh Nam Bộ; Khu 7 còn lại tỉnh Gia Định, Bà Rịa, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh. Tổ chức chiến trường này tồn tại đến


- 185 - hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, có những ảnh hưởng nhất định đối với các phong trào đấu tranh. 2. Đặc điểm đời sống chính trị Trong không khí tổng khởi nghĩa, quân và dân Nam Bộ vùng lên giành chính quyền. Một bối cảnh mới, một tâm thế mới của dân tộc được mở ra: lần đầu tiên trong lịch sử, một chính quyền dân chủ của nhân dân được thiết lập. Ngày 25/8/1945, toàn bộ chính quyền đã thuộc về cách mạng. Sự thay đổi chính trị kỳ vĩ ở tầm toàn đất nước, toàn dân tộc dẫn đến những đổi thay lớn lao trong lòng người. Đời sống chính trị của thời kỳ này có những đặc điểm riêng, phản ánh tâm thế của người dân một đất nước lần đầu giành được tự do, độc lập. Sáng 2/9/1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, hơn 1 triệu người đã tham gia mít tinh, tổ chức đoàn diễu hành khắp các đường lớn trong thành phố, biểu dương lực lượng. Trong đoàn người ấy, đông đảo phụ nữ thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và phụ nữ các vùng Nam Bộ tham gia. “Trong những lớp sóng người trùng điệp, hàng chục vạn phụ nữ: Phụ nữ Tiền phong bận đồng phục áo trắng, quần xanh, đội nón bành, Phụ nữ Cứu quốc, áo bà ba đen, khăn rằn quần cỏ, nhiều bà mẹ 60 - 70 tuổi cũng đội mũ chỉnh tề, hăng hái nhịp bước, mạnh mẽ đưa cao nắm tay, hô vang các khẩu hiệu: Việt Nam hoàn toàn độc lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vạn tuế...”(1). Như một dự báo lịch sử, xung đột đã nổ ra ngay sau khi giành được chính quyền. Ngày hôm đó, lực lượng tàn dư 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 145.


- 186 - của quân Pháp đã nổ súng vào đoàn biểu tình làm chết và bị thương 47 người; các đội Công nhân Xung phong, Thanh niên Xung phong xông vào bắt giam gần 1.000 quân Pháp. Trong đêm 2/9, để giữ hòa khí, quân đội cách mạng trả tự do cho tất cả số quân này. Từ chiều đến hết đêm, lực lượng phụ nữ tham gia túc trực, phụ trách hậu cần, chăm lo tiếp tế ăn uống cho những người bị thương, cả cho tù binh Pháp bị bắt giữ. Vị thế của người phụ nữ chưa thể thay đổi mạnh mẽ ngay khi chính quyền cách mạng ra đời, nhưng phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã có mặt từ những giờ phút đầu tiên để cùng cả nước ủng hộ sự kiện chính trị lớn lao của đất nước. Quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ được chính thức công nhận trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9/11/1946, Quốc hội thông qua Hiến pháp, xác định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Điều 9 của Hiến pháp quy định quyền bình đẳng của phụ nữ: “Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo… Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là cột mốc quan trọng trên con đường giải phóng phụ nữ Việt Nam: mỗi phụ nữ được công nhận như một công dân tự do và bình đẳng. Cùng với phụ nữ cả nước, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lần đầu được sống trong không khí độc lập, tự do, với tư cách là người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc và làm chủ cá nhân. Đây là cơ sở chính trị - tư tưởng quan trọng để phụ nữ đóng góp thiết thực và mạnh mẽ vào công cuộc đấu tranh vẫn còn trường kỳ gian khổ của dân tộc. Tuy nhiên, khác với không khí miền Bắc được “lột xác” sau Cách mạng tháng Tám, ở Nam Bộ nói chung và Sài Gòn -


- 187 - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng, dấu ấn Cách mạng tháng Tám và những thay đổi về mặt chính trị chưa kịp định hình rõ nét sau những chuyển biến quá nhanh chóng của thời cuộc. Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ được hưởng tự do trong 29 ngày. Thực dân Pháp nhanh chóng quay lại xâm lược miền Nam. Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gần như trở lại với hoàn cảnh chính trị trước năm 1945. Cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp bắt đầu ngay trong năm 1945. Cũng như lần xâm lược đầu tiên năm 1859, Pháp đã chọn Nam Bộ là tâm điểm khởi đầu cuộc chiến. Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet gửi Cao ủy D’Argenlieu năm 1946 ghi rõ “Nam Kỳ là cái trục thực sự của chính sách chúng ta ở Đông Dương”, vì vậy, trong kế hoạch tái chiếm Đông Dương, thực dân Pháp coi Nam Bộ là cái cầu phải chiếm trước, trong đó Sài Gòn là điểm nút hành động khởi hấn(1). Trước đó, ngày 24/3/1945, tướng De Gaulle cũng từng tuyên bố chính sách của “nước Pháp tự do” đối với Đông Dương một khi phát xít Nhật thất bại, đại ý: Đông Dương sẽ được thành lập theo kiểu liên bang, gồm 5 xứ, sẽ cùng với nước Pháp xây dựng thành khối Liên hiệp Pháp mà quyền đối ngoại sẽ do nước Pháp đại diện, sẽ có một chính phủ liên bang, đứng đầu là một viên Toàn quyền (tất nhiên là người Pháp), có một hội đồng nhà nước mà người Đông Dương chiếm nhiều nhất 50% số ghế, một quốc hội được bầu ra phản ánh quyền lợi của nước Pháp(2). Với ý đồ đó, ngày 23/9/1945, Pháp nổ súng tái chiếm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Từ đó 1. Theo Ban Tổng kết chiến tranh Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 25. 2. Theo Dương Trung Quốc (2005), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 - 1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 390.


- 188 - đến khi thất bại tại chiến trường Việt Nam, thực dân Pháp đã từng bước thực hiện âm mưu tách Nam Bộ thành một xứ tự trị, bằng cách lập “Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng (tháng 3/1946) và lập “Chính phủ trung ương” do Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng (tháng 6/1948). Những chính phủ bù nhìn tồn tại trong thời gian ngắn, không được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận(1), và vấp phải sự tẩy chay của nhân dân Nam Bộ. 0 giờ ngày 23/9/1945, thực dân Pháp với sự giúp đỡ của quân Anh - Ấn đã nổ súng đánh chiếm hàng loạt mục tiêu quan trọng trong thành phố Sài Gòn, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược lại Đông Dương, với hy vọng nhanh chóng bình định Nam Bộ để tiến chiếm miền Trung và Bắc Việt Nam. Rạng sáng 23/9, Hội nghị Liên tịch giữa Xứ ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban kháng chiến và đại diện của Tổng bộ Việt Minh họp cấp tốc tại nhà số 107 đường Cây Mai (Chợ Lớn) hạ quyết tâm chiến đấu, thông qua bản Hiệu triệu của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, kêu gọi: “… Tất cả đồng bào, già, trẻ, trai, gái, hãy cầm vũ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược… Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tay sai của chúng”. Ủy ban nhân dân Nam Bộ sau đó ra Tuyên cáo quốc dân về những biện pháp cấp bách đối phó với thực dân Pháp: tổng đình công, triệt để không hợp tác, phá hoại đường giao thông tiếp tế, bao vây, đánh du kích, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. 1. Ngày 7/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam không thừa nhận bất kỳ thứ giấy tờ nào do bọn bù nhìn ký kết với bất kỳ nước nào và sẽ chiếu theo pháp luật để trừng trị bọn phản quốc” (Theo Trần Tường Vân, Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954: những sự kiện, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 167).


- 189 - Nhất loạt theo lời hiệu triệu, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Chợ Lớn ngay từ sớm ngày 23/9 đã phá Nhà Đèn, Nhà máy Nước, thực hiện tổng bãi công, bãi chợ, bãi họp, không hợp tác với giặc Pháp. Mọi sinh hoạt trong thành phố bị ngừng trệ. “Ở nội thành, 16 khu tác chiến được thành lập. Tổng Công đoàn Nam Bộ tổ chức 360 đội xung phong công đoàn (lực lượng vũ trang của công nhân các hãng xưởng) cùng với các đội tự vệ nhanh chóng triển khai chiến đấu. Ở ngoại thành, các lực lượng vũ trang hình thành 3 mặt trận đông, tây, nam thành thế bao vây quân thù. Chỉ trong vòng một tuần, 138 xí nghiệp và công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 17 đầu máy xe lửa, 51 tàu nhỏ, 200 xe hơi và một số cầu bị đốt phá, tiêu diệt gần 300 lính Pháp”(1). Đến cuối tháng 10/1945, lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gộp chung đã đông đến nhiều vạn người(2). Tình thế chính trị và quân sự cấp bách thôi thúc phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cùng đồng bào đứng dậy tham gia kháng chiến: phụ nữ ở đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn hưởng ứng triệt để lệnh tản cư, rời bỏ nhà cửa và tiện nghy sinh hoạt để ra bưng biền kháng chiến; phụ nữ vùng ngoại thành làm tiếp tế, cứu thương, giao thông liên lạc cho cơ quan kháng chiến; các bà má ủng hộ, chăm sóc thương binh; nhiều chị em động viên chồng con, anh em lên đường gia nhập lực lượng… Cuộc kháng chiến vừa mới bắt đầu, phụ nữ đã nhanh chóng đứng trong hàng ngũ chiến đấu và ủng hộ chiến đấu. Bà Nguyễn Thị Thập, người phụ nữ anh hùng của Nam Bộ, trong những ngày mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, 1. Trần Tường Vân, Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954: những sự kiện, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 10. 2. Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945 - 1975: nhìn từ Nam Bộ, Sđd, tr. 100.


- 190 - đã động viên bà con nông dân: “Bây giờ đế quốc Pháp đã trở lại chiếm Sài Gòn, khủng bố cách mạng, bắt đồng bào làm nô lệ một lần nữa! Đồng minh Anh - Ấn cấu kết với đế quốc Pháp tấn công ta… Thanh niên là rường cột của nước nhà, phải ra cứu nước! Trận này là trận cuối cùng, đánh thắng được giặc thì ta sẽ vĩnh viễn làm chủ đất nước…”. Lời kêu gọi của bà thôi thúc nhân dân Nam Bộ, bà con nông dân hưởng ứng nhiệt liệt, ai cũng đòi ra mặt trận chiến đấu, các mẹ phải động viên mọi người ở lại bám ruộng vườn, sản xuất, nuôi quân(1), cũng là một mặt trận chiến đấu tích cực. Sự vùng lên chống trả quyết liệt của quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các huyện vùng ven thành phố đã khiến kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp không thể thực hiện được. Ngày 5/10/1945, tướng Lerclec - tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tới Sài Gòn, thì đến ngày 27/3/1946, trong tờ trình gửi Chính phủ Pháp, Lerclec thú nhận về thiệt hại: “Một vài con số chứng minh cho nỗ lực quân sự của quân viễn chinh Pháp trong 5 tháng nay: 600 chết và 1.000 bị thương. Bên Pháp không còn để dành một lực lượng trù bị nào”(2). Pháp phải tăng cường lực lượng ở Nam Bộ: năm 1945, lực lượng của Pháp ở Nam Bộ (chủ yếu tập trung ở Sài Gòn - Chợ Lớn) có 6.000 quân, thì đến năm 1949, riêng ở khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định - Tây Ninh, tổng số quân Pháp lên tới 46.000 quân, trong đó quân viễn chinh chiếm 58% (toàn Nam Bộ là 114.000 quân), số đồn bốt tháp canh ở khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lên tới con số 707(3). 1. Nguyễn Thanh Hằng, “Nguyễn Thị Thập - Mẹ Việt Nam anh hùng”, in trong sách Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Nguyễn Thị Thập - Người con ưu tú của Nam Bộ thành đồng, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 91. 2. Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945 - 1975: nhìn từ Nam Bộ, Sđd, tr. 84. 3. Ban Tổng kết chiến tranh Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 198.


- 191 - Tuy vậy, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng càng lúc càng sa lầy, và kết thúc thất bại sau 9 năm (1945 - 1954). Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và Nam Bộ có vai trò lớn trong bối cảnh toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp. Là nơi đầu sóng ngọn gió, Nam Bộ mà trung tâm là Sài Gòn - Chợ Lớn đón nhận những trận giao tranh đầu tiên. Cả nước hướng về mặt trận miền Nam. Ngày 26/9/1945, qua đài phát thanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi: “Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ… Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và toàn quốc sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà”(1). Đồng thời, Chính phủ ra lời hiệu triệu kêu gọi đồng bào toàn quốc ủng hộ phong trào đấu tranh oanh liệt của đồng bào Nam Bộ. Ngày 29/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ra Lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ cho nền độc lập của Việt Nam. Ngày 5/11/1945, để biểu thị sự ủng hộ cuộc chiến đấu oanh liệt của đồng bào Nam Bộ, cả nước thống nhất tổ chức Ngày toàn quốc kháng chiến. Ngày 23/11/1945, toàn quốc tổ chức Ngày Nam Bộ kháng chiến: khắp thôn xóm dựng đài kháng chiến, các đền chùa làm lễ cầu siêu, hàng triệu người đứng nghiêm một phút hướng về miền Nam… Chỉ vài ngày sau khi thực dân Pháp nổ súng tại Sài Gòn, đoàn quân Nam tiến đầu tiên xuất phát từ Hà Nội, gồm 3 đại đội Bắc Sơn, Bắc Cạn và Hà Nội được tổ chức thành một đội hợp nhất, ít ngày sau đã có mặt chiến đấu ở mặt trận Sài 1. Trần Tường Vân, Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954: những sự kiện, Sđd, tr. 10.


- 192 - Gòn. Từ đó, suốt 2 tháng hầu như không ngày nào không có quân Nam tiến, hầu như không có chuyến tàu hỏa nào không chở quân Nam tiến. Bối cảnh này dẫn đến một thực tế lịch sử ở miền Nam giai đoạn 1945 - 1954: lực lượng cách mạng không chỉ có nhân dân Nam Bộ mà còn có rất đông chiến sĩ, cán bộ miền Bắc, miền Trung. Người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tham gia cách mạng không những được thử thách gan vàng dạ sắt sớm hơn, mà còn được gặp gỡ, sinh hoạt và công tác chung với phụ nữ từ nhiều vùng miền, cũng như hình thành mối quan hệ đồng chí, quan hệ tình cảm - đời tư với các cán bộ, chiến sĩ từ nhiều vùng miền chi viện cho miền Nam. Hơn 1 năm sau ngày Nam Bộ kháng chiến chống Pháp, toàn quốc mới bước vào cuộc chiến. Ngày 19/12/1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho lực lượng vũ trang “Giờ chiến đấu đã đến”, mở đầu một giai đoạn mới: giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước. Sáng 20/12/1946, khi đài phát thanh truyền đi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tại Sài Gòn, 13 đội tự vệ thành và các đội cảm tử đồng loạt nổ súng, gây tiếng vang trong thành phố. Là “Thành đồng Tổ quốc” (danh hiệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ tháng 2/1946), Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp, không ngừng đứng trước nguy cơ bị chia tách khỏi nước Việt Nam thống nhất. Tại Hội nghị Việt - Pháp ở Đà Lạt tháng 5/1946, đại tướng Võ Nguyên Giáp từng khẳng khái nói với phía Pháp: “Các chiến sĩ Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn trong cuộc chiến đấu giành tự do cho Tổ quốc, chỉ có thể chấp nhận hòa bình trong công bằng


- 193 - và danh dự… Nhân danh một dân tộc đã có hàng ngàn năm tôi luyện trong lao động và đấu tranh, tôi khẳng định với các ông rằng ngày nào Nam Bộ còn bị tách khỏi Việt Nam thì ngày ấy mỗi người dân Việt Nam còn không ngừng dốc hết nghị lực của mình vào cuộc đấu tranh để đưa Nam Bộ trở về trong lòng Tổ quốc”(1). Một trong những sinh hoạt chính trị quan trọng nổi bật trong giai đoạn 1945 - 1954 là cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 6/1/1946. Thực dân Pháp đã kiên quyết ngăn cản, phá hoại cuộc tổng tuyển cử đầu tiên này. Trong tình hình tái chiếm, tản cư, chiến tranh, trong thực tế xã hội thiếu ổn định, manh mún, cát cứ, người dân còn thất học… thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử là một bằng chứng hùng hồn cho tinh thần đấu tranh sáng tạo, bất khuất của toàn dân tộc nói chung và phụ nữ Nam Bộ, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng. Ý thức về chính quyền do chính mình bầu ra, các hình thức vận động và tiến hành bỏ phiếu linh hoạt, triệt để, đã đưa đến kết quả thành công của cuộc tổng tuyển cử lịch sử này. Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc kết thúc bằng chiến thắng vang dội của chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ năm 1946 đến năm 1954, “chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng” (Tố Hữu); đối với Nam Bộ, 9 năm này có một ý nghĩa đặc biệt: “Trước chiến thắng Điện Biên Phủ, phản ứng nhạy cảm nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn”(2). Ngay sau ngày 7/5/1954, các báo tiếng Việt, tiếng Pháp phát hành ở Sài Gòn đưa tin trên trang nhất thất bại thảm hại của Pháp ở 1. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, tr. 522. Nxb??, năm??? (nhiều tập) 2. Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945 - 1975: nhìn từ Nam Bộ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 228.


- 194 - Điện Biên Phủ và diễn tiến cuộc đàm phán ở Genève. Công nhân, học sinh, tiểu thương bãi công, bãi khóa, bãi chợ đồng loạt. Hơn 500 trí thức, văn nghệ sĩ Sài Gòn ký vào bản yêu sách đòi Pháp ngừng cuộc chiến tranh xâm lược. Cơ sở cách mạng và lực lượng kháng chiến nội thành được phục hồi, phát triển và hoạt động rộng khắp. Các đội công tác, biệt động tổ chức nhiều trận tập kích vào cứ điểm đồn bốt địch, diệt nhiều tên đầu sỏ, ác ôn… Ở vùng ngoại ô, phong trào chiến tranh du kích phát triển rầm rộ. Nhiều vùng nông thôn ở Hóc Môn, Trung Huyện, Liên Huyện được giải phóng. Các lõm du kích hình thành và lấn sâu vào sát ven thành phố. Dưới tác động của thắng lợi Điện Biên Phủ, trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân Nam Bộ tiếp tục cuộc kháng chiến trong một tâm thế mới, mạnh mẽ, khẩn trương, toàn diện, thừa thắng, chủ động chiến đấu. Tuy vậy, khi cuộc kháng chiến của dân tộc kết thúc thắng lợi năm 1954, Nam Bộ vẫn chưa được hưởng quả ngọt chiến thắng. Ngày 8/5/1954, đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, vấn đề chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương chính thức được Hội nghị Genève thảo luận. Tuyên bố chung của Hội nghị được ký kết ngày 21/7/1954. Các nước tham gia Hội nghị đã cam kết thừa nhận tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia, quy định quân Pháp phải rút khỏi Đông Dương và mỗi nước Đông Dương sẽ tuyển cử tự do để thống nhất đất nước; tuy nhiên Việt Nam phải lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời chia hai miền Nam - Bắc. Miền Nam tiếp tục phải chờ 2 năm sau để tiến hành tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước (dự kiến vào tháng 7/1956).


- 195 - Cuộc hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất hai miền không bao giờ diễn ra. Nam Bộ tiếp tục bước vào 21 năm trường kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Miền Nam “đi trước về sau”, nhân dân Nam Bộ can trường bền bỉ trong sóng gió chiến tranh là vậy. Ở thời điểm tháng 7/1954, bối cảnh chính trị ở Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng xoay quanh giới tuyến quân sự vĩ tuyến 17, quanh những lựa chọn “đi tập kết miền Bắc hay ở lại miền Nam” và những câu chuyện chia ly ngày tập kết. Người phụ nữ Nam Bộ được đặt trước thử thách lớn lao của lịch sử và những quyết định mang tính bước ngoặt trong từng cuộc đời. 3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội Đây là thời kỳ các nỗ lực đấu tranh được tập trung nhằm mục tiêu củng cố đời sống nhân dân, đương đầu với thách thức của những yếu tố ngoại lai, giữ vững tinh thần dân tộc kiên trung, bất khuất. a. Kinh tế Khi thực dân Pháp quay trở lại tái chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, Pháp muốn tiếp tục khai thác một thành phố đã được chúng đầu tư hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật và áp đặt chính sách văn hóa thuộc địa trước đó. Với quá trình khai thác thuộc địa của Pháp và tác động hai chiều của nó, Sài Gòn - Chợ Lớn đã sớm phát triển sản xuất hàng hóa, là một đô thị thương cảng hàng đầu trong các thuộc địa của Pháp, được quy hoạch theo kiểu thành phố của Pháp. Từ năm 1945 đến năm 1950, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng nhiều công trình hạ tầng phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa, nên tiến trình đô thị hóa ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn diễn ra mau chóng (so với Hà Nội và Hải Phòng). Những công trình to đẹp được


- 196 - Pháp xây dựng chủ yếu ở khu trung tâm, đến năm 1950 thì hầu như Pháp không đầu tư hạ tầng cho thành phố nữa, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành “một ổ chuột khổng lồ”(1). Khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực Sài Gòn khi đó (tức khoảng 1,2 triệu người) phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế, vệ sinh rất kém(2). Đồng thời, nửa cuối thập niên 1950, Chính phủ Mỹ bắt đầu viện trợ cho thực dân Pháp để biến Sài Gòn thành trung tâm văn hóa giải trí ở Nam Bộ, nên những màu sắc văn hóa ngoại lai và tệ nạn lại càng tràn ngập phố phường. Nếu thực dân Pháp đem đến Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định các xưởng chế biến thuốc phiện thì đế quốc Mỹ làm cho tệ nạn sòng bạc và ổ điếm trở nên trầm trọng hơn. Hà Việt Phương (nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh) - một cây bút xứ Bắc vào Nam sinh sống đã nhận định trong phóng sự hai kỳ “Sài Gòn xây dựng” (báo Mới, 1953) rằng: “thì đã bảo mình (người Sài Gòn) là kẻ ngụ cư ở trong nhà mình mà lị”(3). Rất nhiều phóng sự, ký trên báo chí Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thời đó cũng đã phản ánh một bức tranh Sài Gòn qua thế giới những người lao động nghèo. Phóng sự “Dân cu li” của Ngụy Văn Thông (báo Mới, 1953) viết về đời sống người lao động ở sở tư bị trả lương rẻ mạt, bị ngược đãi vì không biết tiếng Pháp, bất lực trước những luật lao động bất công. Phóng sự “Tấn công tài xỉu” (1949) của Vũ Xuân Tự kể những chuyện mắt thấy tai nghe về sức cám dỗ của tệ cờ bạc và cảnh tán gia bại sản của các “thánh tài xỉu”. Cũng Vũ Xuân Tự, 4 năm sau tiếp tục viết một phóng sự ngắn 1. James E. Bogle, Dialextics of Urban Proposals for the Saigon Metropolitan Area, 1972. Nguồn: http://pdf.usaid.gov/pdf_docs/PNAAK857.pdf. 2. James E. Bogle, Dialextics of Urban Proposals for the Saigon Metropolitan Area, Sđd. 3. Nguyễn Thị Phương Thúy, “Tác phẩm ký ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, tập 16, số X2 - 2013, tr. 82 - 93.


- 197 - “Cuộc săn voi Sài Gòn B” trên báo Mới (1953) chỉ ra sự “phân tầng” trong xã hội Sài Gòn: Sài Gòn A gồm những kẻ làm ăn lương thiện, chăm chỉ hạt bột, có tài năng và sáng kiến, đổ mồ hôi lấy đồng tiền; còn Sài Gòn B gồm những tay bịp bợm đủ vành đủ ngón để kiếm tiền phi pháp, vào tù ra khám, thế mà Sài Gòn B càng lúc càng đầy rẫy. Chiến tranh cũng tác động khiến lượng di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh. Chỉ trong 10 năm (1943 - 1953), dân số Sài Gòn - Chợ Lớn đã tăng lên 3 lần, từ 498.100 người (chiếm 25% dân số Đông Nam Bộ) lên 1.603.831 người (chiếm 63% dân số Đông Nam Bộ)(1). Quy mô dân số đã vượt quá xa so với dự kiến của đồ án Coffyn - đồ án phát triển thành phố Sài Gòn của chính quyền thực dân Pháp những năm đầu đến Sài Gòn (lúc đó, Đại tá Coffyn dự kiến quy hoạch thành phố Sài Gòn khoảng 500.000 - 600.000 dân nhưng chính quyền Pháp đã cho rằng đồ án hết sức viển vông, vì Nam Bộ không thể có đủ chừng đó dân cư!). Đến cuối năm 1954, với khoảng gần một triệu dân di cư mới từ phía bắc vĩ tuyến 17 tiếp tục đến Nam Bộ, mà chủ yếu là đến Sài Gòn - Chợ Lớn, trong đó phần đông là người Công giáo (còn được gọi là Bắc Kỳ Công giáo), thì dân số Sài Gòn - Chợ Lớn đã lên tới khoảng 2.000.000 người. Thành phần dân cư - xã hội tại Sài Gòn - Chợ Lớn rất đa dạng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, đây là thành phố “có tính cách quốc gia và quốc tế hơn đâu hết”(2), vì tiếp nhận các luồng di dân từ miền Bắc, miền Trung đến làm ăn, định cư, lập hội đồng hương, hội tương tế của riêng mình; lại có người từ các quốc gia khác đến giao lưu, sinh sống (Hoa, 1. Xem lại bảng số liệu đầu Chương 2. 2. Nguyễn Đình Đầu (2014), “Bến Nghé - Sài Gòn” (Sài Gòn xưa và nay), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 29.


- 198 - Pháp, Nhật, Miên, Chăm, Ấn, người châu Phi, Anh, Mỹ…) Mặt khác, hạ tầng kinh tế - kỹ thuật tác động đến cảnh quan đô thị, cấu trúc kinh tế, làm cho sinh hoạt và đời sống đô thị thay đổi, hình thành tầng lớp thị dân. So với cả nước, tỷ lệ dân cư đô thị ở Nam Bộ cao hơn. Năm 1930, tỷ lệ dân đô thị ở Việt Nam chiếm 7,4% tổng dân số cả nước, tỷ lệ này ở Nam Bộ khoảng trên 10%. Nhưng chỉ đến năm 1960, 20% dân miền Nam đã sống trong các vùng đô thị, trong đó mật độ dân số tập trung đông đảo nhất là đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định(1). Đây là cơ sở để những tư tưởng dân chủ, thoáng đạt kèm theo lối sống sinh hoạt đô thị thâm nhập và phát triển. Trong bối cảnh đó, với bản tính cởi mở, năng động, hiếu khách của con người ở đây; phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có cơ hội giao tiếp rộng mở, hình thành các quan hệ xã hội đa dạng. Khác với phụ nữ các vùng miền khác, phụ nữ đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nổi bật về tính năng động, dễ tiếp nhận cái mới và cả ưa chuộng thời trang. Trong giai đoạn 1945 - 1954, cùng với sự phát triển nhanh chóng của quy mô dân số, cơ cấu dân số tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cũng tiếp tục mở rộng. Người Việt ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định không chỉ có tầng lớp công nhân, dân lao động, mà còn có các nhà tư sản và tiểu tư sản, với số lượng tăng nhanh. Tầng lớp tư sản người Việt hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực kinh tế, như: xay xát, nhuộm, dệt, in ấn, vận tải, sản xuất nước mắm, đường, xà phòng… Bị cản trở bởi những chế tài trong chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nên một bộ phận tư sản dân tộc đã có mầm mống tinh thần dân tộc dân 1. Nguyễn Đức Hòa (2008), “Quá trình đô thị hóa ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1860 đến năm 2008 và những kết quả tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố”, trích trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 310 - 327.


Click to View FlipBook Version