The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search

TẬP 1 || PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH (1930 - 1975)

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- 549 - Mẹ ngã bệnh, tôi lại đi ở mướn, một năm tám đồng, tại chợ Bà Chiểu, nhà cô Út, con gái bà Phủ Thành, cô là vợ thầy giáo Thái. Cậu Hòa, con thầy giáo Thái là một đứa bé to, nặng, khỏe khóc, khỏe giãy, khỏe chòi đạp, lại vô cùng khó tánh, chỉ chịu ngủ trên tay, đặt xuống lại ré lên. Sức vóc của tôi thì ốm yếu, khẳng khiu, vì vậy, nhiều phen tôi đã không kềm giữ nổi để tuột cậu khỏi tay, bị chủ mắng, chịu đòn. Mỗi lần dỗ cậu ngủ, tôi bế cậu đi tới đi lui, nhún lên nhún xuống, chân muốn mỏi muốn rụng, tay tê rã rời. Khi đặt cậu xuống, cậu lại ré lên, tôi lại bị chửi, bị mắng, thậm chí bị quật túi bụi. Khi cậu ngủ say, tôi phải quạt, mà phải quỳ xuống quạt vì giường thấp, mà đứng quạt thì cao, ngồi lên giường thì cô không cho vì sợ cậu thức giấc, đứng quạt mạnh sợ cậu ngộp, động, cậu cũng thức giấc… Cậu ngủ rồi, tôi còn phải bóp chân cho cô dễ ngủ. Bóp chân là việc nặng nề nhứt. Đầu là bóp xuông, phải vắt chân cô lên vai cho chân cô đỡ mỏi, rồi mới từ từ bóp - bóp bằng hai tay, nhẹ nhẹ, êm êm. Đôi khi buồn ngủ quá không gượng nổi, tôi gục đầu lên chân cô. Cô chưa ngủ, tống cho một đạp, tôi té nhào xuống giường. Mặc dầu đầu u đau, nhưng cũng phải lật đật ngồi dậy leo lên ôm chân cô bóp lia lịa. Ba năm làm nô lệ cho nhà người, thức ăn của tôi là cơm thừa canh cặn, chẳng có lấy một bữa cơm nguyên vẹn. Tới bữa, tôi phải dỗ cho con cô ăn xong rồi mới được phép ăn. Bụng đói meo, dỗ ngọt lạt cho cậu ăn được rồi, trở lại nhà sau cơm thừa canh cặn đã nguội lạnh. Có bữa cậu quạy cọ, cậu bảo phải làm chó sủa cậu nghe, cậu mới chịu ăn, cũng phải làm. Làm ngựa cậu cưỡi, cũng phải làm. Thời ấy, những đứa trẻ mồ côi nghèo thường bị khinh rẻ, phải sống cuộc sống của kẻ nô lệ. Nhứt là làm thân ở đợ, rất khổ sở


- 550 - thiếu thốn mà chẳng dám than. Không có được tình thương tối thiểu của bà con thân tộc chứ đừng nói chi người dưng nước lã. Nói ra thì xấu hổ, đã nghèo thì đói. Tôi thấy nồi thịt kho tàu của chủ, tôi rất thèm, ước gì mình được ăn một miếng, chắc là ngon lắm. Nhưng thức ăn, không bao giờ cô chủ để dưới bếp. Sợ con ở lén ăn, mỗi bữa chỉ múc ra vừa đủ cho vợ chồng ăn, rồi bưng lên gạt-măng-giê khóa cất. Bởi vậy, khi dọn mâm xuống, còn những cái vụn vặt, tôi gom trút vào một cái ơ con con, kho lại cho đỡ tanh để ăn… Bị đối xử tồi tệ, nhiều lần tôi muốn nói mẹ xuống thối tiền để tôi về. Nhưng mẹ bị lao nặng, tiền thuốc thang vốn đã không đủ, lấy đâu mà thối lại cho chủ, tôi đành cắn răng chịu… Thân má cũng chỉ có chiếc áo vá quàng rách nát. Tôi nai nưng ở đợ 3 năm - cái giá của 24 đồng má lãnh được với biết bao đau xót thương con. Có một điều, tôi thấy rất lạ: dòng dõi ông Phủ giàu sang vậy mà vợ chồng thầy giáo Thái cũng phải đi vay nợ. Nhưng có lẽ để giữ sĩ diện, nhà chủ không tự đi vay ban ngày, nên cứ ít hôm, chờ đến mười giờ đêm, thầy cô lại sai tôi đi rước Chà xã Tri người Ấn Độ chuyên nghề cho vay lấy lãi (đường Cây Thị, Bà Chiểu) về để thương lượng vay mượn sao đó. Đến khi chịu không nổi, tôi nói má đem tôi về. Vợ chồng giáo Thái nói một câu tôi nhớ suốt đời “Mầy đừng thấy con tao mến mày mà mày nung nẩy. Bỏ chỗ này rồi thì suốt đời mày cũng chỉ đi ở đợ chứ thứ mầy bao giờ làm gì nên người đâu”. Cũng từ đây, từ bỏ cuộc đời bần cùng này, tôi tự đặt cho mình quan niệm tạo dựng gia đình: chọn người nghèo khổ như mình mà ưng thì mới mong có sự thông cảm giữa đôi bên, mới có hạnh phúc.


- 551 - Nhưng trong gia đình tôi có nhiều ý kiến trái chiều. Mẹ, biết tôi khổ nhiều, nên mẹ tôi muốn tôi có một người chồng khá giả để tôi được sung sướng, có điều kiện đỡ đần cảnh nhà mẹ góa con côi. Tôi thương mẹ, nhưng không chiều theo ý của mẹ được. Tôi giữ quan điểm về hôn nhân của mình: người làm chồng tôi phải là người đồng cảnh ngộ với tôi, hiểu nỗi khổ của tôi, từng chịu đựng như tôi. Có vậy mới hiểu được nguyện vọng của nhau, tôn trọng lẫn nhau. Tôi tiếp tục cuộc đời mua gánh bán bưng. Thường tôi gánh chè xôi nước đi bán. Cứ gánh và rao. Tôi hay bán cho anh chị em công nhân nhà máy xay, họ thích món chè của tôi. Tôi không khó để nhận ra người thích tôi, là anh Năm Ngài. Thế là tôi dò xét, biết anh đã qua một đời vợ, nhưng anh có những quan điểm giống tôi, tôi thương anh. Chúng tôi đi đến quyết định xây dựng với nhau. Cả gia đình, nhất là mẹ tôi phản đối kịch liệt. Nỗi trái ngang đời con gái của tôi được đặt trước tình huống hết sức khó xử: một bên là ý muốn của gia đình, một bên là nguyện vọng của tôi. Tôi đã chọn đi theo anh Năm Ngài. Một cô bé côi cút, hẩm hiu trong cuộc sống, đơn độc trong thân tộc, cay đắng trong gia đình, vì thế khi có gia đình, tôi đã đặt hết tình yêu vào chồng, vào gia đình chồng. Tôi lại tiếp tục công việc buôn bán. Nhưng miệng đời đâu có đơn giản. Những lời đàm tiếu kiểu như “đã có một đời vợ”, “nào có son giá gì”, từ bà con thân tộc cho tới người dưng, ngay cả mẹ tôi, vẫn thường hoặc nói bóng gió, hoặc nói thẳng ra chuyện ấy để phàn nàn… Tôi đã phải bấm bụng trong cái hạnh phúc của người con gái lẳng lặng đi làm vợ, làm dâu, rồi chẳng bao lâu làm mẹ.


- 552 - (…) Cuộc đời làm dâu đâu phải dễ dàng. Chỉ có điều đó là cái do mình lựa chọn nên dẫu khó mấy cũng ráng vượt qua. Công việc nhà chồng từ chợ búa đến công việc trong nhà gần như một tay tôi lo liệu, bởi em chồng còn nhỏ, cha mẹ chồng lại già yếu. Chồng đi làm công nhân, tiền lương tháng mười lăm đồng, biết vợ con thiếu thốn, vất vả, nhưng anh đưa hết lương cho mẹ. Tôi không phàn nàn gì, vì anh hiếu thảo với cha mẹ già, đó là trường hợp hiếm trong làng ở lứa tuổi của anh”. Đến tuổi trưởng thành, lập gia đình, chịu ảnh hưởng từ người chồng vốn là một thành viên tích cực của Hội Ái hữu tương tế, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản Đông Dương, bà sớm tham gia hoạt động của hội với ý thức đơn giản là đoàn kết tương trợ, bênh vực giới nữ tiểu thương nghèo khổ bị áp bức, đấu tranh bãi thị, đòi giảm thuế chợ. Tháng 6 năm 1936, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1939, phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương bị chính quyền thực dân đàn áp. Chồng bà bị giặc bắt. Bà vẫn bí mật hoạt động liên lạc cho các cán bộ cách mạng. Năm 1941, bà tham gia Hội Phụ nữ Cứu quốc Hóc Môn. Để chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám, bà được giao nhiệm vụ Trưởng Ban Tiếp tế và chỉ huy đại đội nữ binh thị trấn Hóc Môn, Phó Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc. Ngày 25/8/1945, bà cùng đoàn biểu tình từ Hóc Môn kéo về Sài Gòn, cùng tham gia giành chính quyền tại Sài Gòn. Khi quân Pháp nổ súng tái chiếm Nam Bộ, nhiều mặt trận bị vỡ. Các lực lượng chống Pháp đều phải rút ra ngoại vi để hoạt động kháng chiến. Do hoàn cảnh, bà được khuyên trở về nhà làm ăn, nuôi con. Không cam tâm đứng ngoài, bà tập hợp những người cùng có hoàn cảnh muốn tham gia kháng chiến


- 553 - nhưng bị buộc phải giải ngũ, thành lập một đội tuyên truyền vũ trang, vừa sản xuất tự túc nuôi thân, vừa đánh giặc, gọi là đội công tác xã Thới Tứ - tiền thân của Ban Công tác Thành số 12 và Đại đội 2804. Những trận đánh của đội thắng lợi, ngày càng nhiều người gia nhập. Tên tuổi Năm Bi cũng bắt đầu được nhiều người biết đến. Bà xây dựng đội quân chiến đấu, thành lập căn cứ tại Rỗng Ông Hồ (Hóc Môn). Đội công tác của bà được Tư lệnh Nguyễn Bình công nhận là một đơn vị chính thức gọi là Ban Công tác Thành số 12 và đơn vị chiến đấu mang phiên hiệu Đại đội 2804, thuộc Chi đội 12, do bà làm Chỉ huy trưởng. Bà tổ chức nhiều trận tập kích, khủng bố trong vùng quân Pháp kiểm soát, làm ngay cả đối phương cũng phải nể phục. Năm 1948, bà được cử làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 935, Trung đoàn 312. Hai năm sau, bà được giao nhiệm vụ xây dựng căn cứ Dương Minh Châu. Năm 1953, bà được cử tham gia đoàn công tác ra Việt Bắc. Tại đây, lần đầu tiên bà được gặp mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và được ông đặt biệt danh “Nữ kiệt miền Đông”. Trong dịp này, bà cũng được trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất. Sau năm 1975, bà được phân công giữ chức Phó Chủ nhiệm Chính trị, Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi nghỉ hưu, bà vẫn tiếp tục hoạt động xã hội, là một trong những sáng lập viên của Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. 10. NGHỆ SĨ CẢI LƯƠNG NĂM PHỈ Nghệ sĩ Năm Phỉ được mệnh danh là “nghệ sĩ số 1” miền Nam, bên cạnh đó là danh hiệu đẹp nhất của đời nghệ sĩ trình diễn - con chim đầu đàn của sân khấu cải lương. Tên thật của bà là Lê Thị Phỉ, là con một gia đình khá giả ở Mỹ Tho, Tiền Giang. Bà có năng khiếu cải lương từ lúc còn nhỏ, nhưng ít


- 554 - ai biết bà không biết chữ. Bà đã thổ lộ “chỉ biết viết tên mình qua điểm chỉ”, tức là in dấu vân tay, vì thuở nhỏ bà không đi học, mà khi đi làm nghệ thuật cải lương thì không có thì giờ, điều kiện cắp sách đến trường nữa. Nhưng bà là người thông minh, có trí nhớ tốt, nên việc học kịch bản chỉ bằng cách truyền miệng. Khi học tuồng, bà nghe người khác đọc, nghe đến đâu, nhớ đến đó. Từ bỏ gia đình là một quyết định thật sự rất khó khăn với một cô gái chưa đến tuổi vị thành niên. Nhưng có lẽ đây cũng là một trong những động lực để Năm Phỉ mạnh mẽ, quyết tâm đi đến cùng của sự nghiệp, tạo nên những đỉnh cao, và để chứng minh với xã hội - mà trước hết là đối với người cha của mình - nghề nghiệp nào cũng vinh quang và có ích cho xã hội. Năm Phỉ đã dấn thân trên con đường đã chọn, nhiều đớn đau, và cũng nhiều vinh quang. Năm Phỉ yêu kép chính là Hai Giỏi. Thế nhưng sau đó Hai Giỏi ngã bệnh bất ngờ rồi ra đi mãi mãi. Năm Phỉ đau buồn tuyệt vọng vì lần đầu tiên yêu và được yêu lại bị gãy đổ. Nhưng đó chưa phải là mất mát lớn nhất mà Năm Phỉ phải chịu đựng bởi vì vài tuần sau đến lượt cha ruột bà cũng từ giã cõi đời. Điều an ủi duy nhất của Năm Phỉ khi trở về nhà thọ tang cha là được mẹ thông tin lại: “Trước khi chết ba đã tha thứ cho con. Ba đã gọi tên con…”. Hai cái tang ập đến cùng lúc, Năm Phỉ bỏ hát, đoàn Nam Đồng Ban cũng tan rã. Đó là năm 1921. Được một thời gian thì bà Tư Sự đến mời Năm Phỉ đi hát lại và lập đoàn hát lấy tên là Tái Đồng Ban. Nghe cô đào chính Năm Phỉ tái xuất trên sân khấu, khán giả lại ùn ùn kéo đi xem. Ở thời điểm đó và cả mãi tận sau này, mỗi lần xuất hiện trên sâu khấu, Năm Phỉ đều nhận được sự tán thưởng đó. Năm Phỉ ý thức rất rõ về nghề nghiệp của mình: “Hễ bước ra sân khấu thì


- 555 - phải hát hết mình, sống trọn vẹn với vai tuồng các nhân vật đó, phải hát thật hay chớ không phải làm điệu bộ huê dạng để làm đẹp, để mua tiếng vỗ tay của khán giả”. Năm Phỉ qua đời ở tuổi 48 (2/6/1954), để lại sự tiếc thương vô hạn trong lòng công chúng và đồng nghiệp. Soạn giả Nguyễn Ngọc Minh nói về nghệ sĩ Năm Phỉ với sự kính trọng: “Xưa nay tôi chỉ mới nghe có một người hát cải lương hay đến mức khán giả tưởng những gì đang diễn ra trên sân khấu là ở đời thật, nên leo lên hành hung nhân vật phản diện, hoặc đồng thanh xin tha chết cho nhân vật mà nghệ sĩ Năm Phỉ đóng. Bà không có danh hiệu do Nhà nước phong tặng nhưng lại có vô số danh hiệu trong lòng nhân dân…”. 11. ĐỜI SỐNG SINH HOẠT CỦA GIỚI LAO ĐỘNG BÌNH DÂN SÀI GÒN(1) 11.1. Những xóm bình dân ở Sài Gòn - Chợ Lớn(2) Ai cũng biết rằng đa số dân chứng Sài Gòn - Chợ Lớn là dân lao động. Đô thị phát triển, tầng lớp dân nghèo thành thị tập trung về làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Hạng bình dân có thời điểm lên đến hàng triệu người, vì thời cuộc phải chen chúc mưu sinh. “Nhà cầm quyền đã cố gắng giải quyết vấn đề chỗ ở cho bình dân lao động, nhưng hiện nay số người được hưởng sự cải thiện ấy lên đến 1 vạn người, nghĩa là 1% đối với tổng số. Cho nên, người bình dân chỉ còn biết dung thân ở những xóm bình dân, trong những túp nhà lá. 1. Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, tủ sách pháp luật - kinh tế, xã hội phổ thông, quyển thứ ba, 1953. 2. Trần Văn, Minh Ký (1953), “Vị trí và hình thể những xóm bình dân ở Sài Gòn, Chợ Lớn”, trong sách Những xóm bình dân trong vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, tr. 8 - 17.


- 556 - Người dân Sài Gòn, chưa chắc có ai đã biết rõ về vị trí những xóm nhà lá. Mà thật, ngoài những xóm cũ, có những xóm mới mọc lên như nấm, nhất là sau những cuộc hỏa hoạn. Có chỗ, ngày trước còn là vũng nước đọng, với nhiều đống rác hôi hám, ngay sau đó, đã có thể biến thành một xóm nhà lá đông đúc. Về số lượng, những nhà lá bình dân tập trung ở trong vùng Sài Gòn (không có ở Chợ Lớn) và các vùng ngoại ô: Xóm Bàn Cờ: trong khoảng Gl Lizê, Audouit, Richayd và ranh giới Sài Gòn - Chợ Lớn. Xóm đường 20 (chợ nhỏ) phía sau đường Gl Lizê. Xóm Vườn Chuối: trong khung Gl Lizê, Audouit, đường xe lửa. Xóm Chợ Đũi và xóm đình Phú Thạnh, từ đường xe lửa đến Verdub. Xóm Duxmude: giữa Duxmude, Galliéni, Cl Grlmaud. Xóm đường hẻm số 4: trong khung Galliéni (Trần Hưng Đạo ngày nay), Nguyễn Tấn Nghiệm, Nancy, đường bờ sông. Xóm Cầu Muối: trong khung Douaumont, Dumortier, Louvain, Kitchener. Xóm sở chữa lửa: sau lưng sở chữa lửa. Xóm Khánh Hội: từ chợ Xóm Chiếu đi gần tới cầu Tân Thuận. Xóm Vĩnh Hội: phía sau hãng thuốc Bao xanh lên tới đình Lý Nhơn. Xóm Eryaud des Vergnes: bên kia cầu E. des Vergnes. Xóm Lách: giữa P. Blanchy, Champagne, Gl. de Gaulle, Rạch Avalauche. Xóm Chài: giữa P. Bert và rạch Avalauche. Xóm Cầu Bông: bên kia cầu Bông, hai bên đường Lê Văn Duyệt.


- 557 - Ở Phú Nhuận: sau “rạp hát lầu” đi tới chùa đầm và từ Đình tới Lò đúc. Ở Chí Hòa: xóm nhà lá ở khôi thành kên tới đường Nguyễn Đình Chiểu”. Hầu hết các xóm bình dân đều ở xa trung tâm. Ở xa trung tâm nên đường sá chạy đến xóm nhà lá rất ít. Thường chỉ có một con đường độc đạo nối liền xóm bình dân với trung tâm. Tình trạng này có ảnh hưởng lớn đến những điều kiện vệ sinh của đô thị. Xa trung tâm, tức là xa nơi làm việc, xa các chợ, xa trường học, xa những chỗ tiêu khiển. Muốn đến những nơi đó, thì phải đi xe, tốn tiền lại tốn thời gian vì phương tiện di chuyển dành cho người mua gánh bán bưng chỉ là xe thổ mộ (xe ngựa). Ô tô buýt không chở hàng hóa. Quang cảnh sống của những xóm bình dân ở Sài Gòn thời đó không có tổ chức, điều kiện vệ sinh lại kém. Đường sá của thành phố không vô sâu trong xóm, nên xóm nhà lá cũng không được hưởng những điều kiện của đô thị như: đèn điện, nước, cống, nhà vệ sinh công cộng… Nhân dân lao động không có điều kiện xài đèn điện, chỉ dùng đèn dầu lửa như ở quê. Nước, người bình dân dùng ba nguồn: nước máy, nước giếng, nước đổi. Không có cầu tiêu công cộng. Nhà cửa thường chỉ là căn lều, túp lều, thiếu vách, thiếu cửa… Xóm bình dân là nơi tập trung dân chúng cần lao, nghĩa là những lực lượng sản xuất và tiêu thụ quan trọng nhất mà cũng là nơi gồm đa số dân chúng ở thành phố. Số dân ấy lại ở trong một phạm vi đất đai tương đối nhỏ hẹp nên mật độ dân số rất cao (trung bình 60.000 người/km2 ). Vì thế đời sống của họ thấp kém về mọi mặt.


- 558 - 11.2. Gia đình lao động(1) “Thành phố Sài Gòn đẹp thiệt, hoa lệ thiệt nhưng nếu du khách chịu ra khỏi những phố buôn sầm uất, tấp nập, ra khỏi những khu biệt thự nguy nga tráng lệ, những khu nhà lầu năm bảy tầng, du khách sẽ giật mình hiện ra trước mắt những xóm nhà lá, đông đúc, tối tăm và hỗn loạn như: Bàn Cờ, Xóm Chiếu, Hòa Hưng, Cầu Bông… Đó là những xóm bình dân và là nơi cư ngụ của anh em lao động như thầy ký, anh tống thơ văn đến bác tài xế taxi, anh đạp xích lô, ta có thể nói đó là nơi tập trung những sức sống của “Hòn ngọc Viễn Đông” như vậy”. Nghề nghiệp của những người sống trong xóm bình dân, chia làm hai loại: lao động tự do (những người làm một nghề gì không phụ thuộc vào ai hết, tùy theo ý muốn về thì giờ, chỗ làm và tiền công, chiếm 76%) và lao động tổ chức (gồm công nhân xí nghiệp, các công tư chức, chiếm 24%). Đời sống vất vả, nên phụ nữ đi làm để giúp chồng đỡ gánh nặng gia đình cũng chỉ chiếm một thiểu số thôi, 25% có nghề nghiệp như nấu bếp, giữ em, đánh máy hay buôn bán. Số còn lại, 75% không đi làm, ở nhà trông nom việc bếp núc, chăm sóc con cái. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình trạng bất an ở chốn thôn quê đã khiến cho một số lớn người kéo về tập trung ở mấy đô thị lớn. Riêng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, dân số tăng từ 260.000 (1936) lên 1.800.000 (1951) nghĩa là dân số Sài Gòn - Chợ Lớn tăng gấp 6 lần trong khoảng 15 năm. Trong khi đó, số nhà được cất dựng lên không đáng kể. Cầu nhiều, cung ít, nên giá nhà tăng lên gấp bội, vì vậy anh 1. Trích, theo tác giả Trần Ngọc Giụ.


- 559 - em lao động ít tiền dần dần bị loại ra khỏi vòng cạnh tranh, chiếm lấy một ngôi nhà và tập trung lại thành những xóm bình dân. Những nhà lá mọc lên như nấm. Trong những xóm nhà lá, Xóm Bàn Cờ là tương đối khá, Xóm Chiếu thì tang thương hơn tất thảy. Xóm Bàn Cờ nằm trên một khoảng đất gần trung tâm Sài Gòn. Ven đường có vài căn nhà bằng ngói hay gỗ, nhưng trong xóm thì toàn là nhà lá cất song song với nhau từng chặng. Phần đông các nhà đều giống nhau: bề cao cũng như bề mặt, hai căn và một cái bếp. Đằng trước có vẻ sạch sẽ, nhưng đằng sau nhà là những đống rác cao nghệu chồng chất lâu ngày biến thành những tổ ruồi nhặng rất có hại cho sức khỏe. Tuy vậy, Xóm Bàn Cờ đã là xóm nhà lá tốt nhất, nên anh em lao động trí thức, như các công hay tư chức ít lương cũng chiếm một phần khá quan trọng. Xóm Chiếu trước đây là những thửa ruộng, ao hồ. Nhà lá được cất lên để giải quyết cấp bách về vấn đề nhà ở. Muốn vào xóm, người ta phải vất vả qua những cây cầu hoặc men theo các bờ đê nhỏ. Người ta phải xếp hàng nối đuôi nhau mà đi vì đụng nhau là té xuống ao. Hai bên, hoàn toàn là nhà lá, cái nào cũng nhỏ, ngắn cũn. Tại một tiệm hớt tóc bình dân, bề dài chừng bước rưỡi, bề ngang chừng 3 bước. Trong nhà chỉ có hai tấm kiếng nhỏ treo trên vách, hai cái kệ nhỏ dùng để đồ hớt tóc, hai cái ghế cho khách hàng. Ngoài ra còn có cái ghế bố dựng ở vách tường. Ban ngày nhà đó dùng để hớt tóc, ban đêm dùng để ngủ. Đi sâu vào chút nữa thì lối đi càng hẹp, có nhiều đường xé ngang, xé dọc. Nhà trong xóm có rộng hơn một chút. Những khóm nhà thường có ao hồ bao bọc xung quanh. Nước trong ao hồ dùng để tắm giặt, rửa đĩa chén, thả gà vịt. Nước uống thì mua ở các ghe, cung cấp nước ngọt với giá 2 đồng/ 1 đôi nước, hoặc dùng nước mưa. Ít nhà có cầu tiêu. Họ thường đi bậy ở các bờ ruộng, hay chỉnh


- 560 - ngay sau nhà họ. Tiền nhà cũng không rẻ. Mỗi nhà, tùy lớn hay nhỏ, cũng phải trả từ 100 đến 150 đồng/ tháng. Họ không đào cống rãnh, cho ăn thông với hồ, ao, nên mỗi khi trời mưa lớn thì ngập lụt cả xóm làm cho sự đi lại rất cực khổ(1). Về phụ nữ xóm bình dân(2): Ở xóm lao động nhà bảo sanh hầu hết như không có. Sản phụ phải đi xa, tốn kém nhiều, nên nằm nhà sanh tư. Số đông đi nằm ở nhà sanh tư, thì sự chăm sóc không được chu đáo cho lắm vì số sản phụ quá đông. Phần nhiều bà mẹ sinh con nhỏ nhắn, yếu ốm và ít bổ dưỡng. Phải làm việc luôn ngày mới đủ ăn, họ đâu có thời giờ chăm nom sức khỏe và thuốc thang nuôi dưỡng bào thai. Đến lúc sanh đẻ, họ cũng phải trỗi dậy, không kịp nghĩ đến việc nghỉ dưỡng sức. Người sản phụ không rảnh trí để nghĩ ngợi, vì còn bao nhiêu công việc: trông nom con nhỏ khi nằm chỗ, nào chỉ vẽ cho người nhà, hoặc con gái nấu ăn dọn dẹp(3). 12. CHUYỆN “BA CÁI BÌNH” Nổi tiếng trong giới học sinh sinh viên Sài Gòn những năm 1945 - 1954 có ba chị em Nguyễn Bình Minh, Nguyễn Bình Trang, Nguyễn Bình Thanh - học sinh trường Marie Curie. Bạn bè thời đó gọi họ là “ba cái Bình”, cùng học một trường, cùng tham gia hoạt động cách mạng, cùng lãnh đạo phong trào học sinh trường nữ học. Cả ba tham gia hoạt động biểu tình ngày 9/1/1950 và tổ chức nữ sinh tham dự lễ tang Trần Văn Ơn. Sau sự kiện đó, ba chị em bị kỷ luật, đuổi học; bà Bình Trang và Bình Thanh sau đó ra chiến khu tiếp tục hoạt động; còn bà Bình Minh chuyển sang học trường Chasseloup Laubat. Bà Bình Minh sau đó theo học luật, dạy học ở trường 1. Trần Ngọc Giụ, Xóm bình dân, tr. 20 - 23. 2. Nguyễn Văn Diệp, tr. 28 - 30. 3. Thang và Minh, đời sống trẻ em bình dân, tr. 62 - 70.


- 561 - Gia Long, giúp cha vận động xây dựng trường nữ học Đức Trí và làm Hiệu trưởng trường năm 1963. Năm 1968, bà Bình Minh cùng bạn bè mở công ty tư nhân kinh doanh bảo hiểm và trở thành người phụ nữ làm bảo hiểm tư nhân đầu tiên ở Sài Gòn. Trong ký ức của bà Nguyễn Bình Minh - cựu nữ sinh Marie Curie và Chasseloup Laubat, những ngày tháng hoạt động phong trào học sinh ở Sài Gòn vẫn còn đầy xúc cảm. Có thể trích một đoạn trong hồi ký Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975) của nhiều tác giả, để thấy được không khí của thời kỳ này: Vào những năm 1943 - 1944, trong khí thế sôi động của phong trào sinh viên khơi dậy lòng yêu nước trong thanh niên qua các bài “Lên đàng”, “Nam tiến”, cha chúng tôi (ông Nguyễn Văn Đức - một kỹ sư công chánh) thường mời các chú Trần Văn Khê, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Nguyễn Mỹ Ca trong nhóm Hoàng Mai Lưu về nhà số 89 bis đường Verdun (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) dạy chúng tôi hát các ca khúc mới và tập dợt kịch “Tục lụy” để ra mắt đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn nhằm gây quỹ ủng hộ đồng bào miền Bắc đang lâm nạn đói khủng khiếp. Các anh chị đến tập dượt tại nhà với dàn nhạc tí hon của chị em chúng tôi; lúc đó tôi 12 tuổi và các em Bình Thanh 11 tuổi và Bình Trang 10 tuổi gồm có: Piano, Accordeon, Banjo và trống, có bài dễ hát nhưng cũng có bài viết trong cung thứ như “Người xưa đâu tá”, “Hồn tử sĩ” khó hát hơn, anh chị phải cố gắng và bỏ công sức nhiều… Mỗi lần tập đều có sự theo dõi, điều khiển của chú Trần Văn Khê.


- 562 - Đêm trình diễn đầu tiên tại Nhà hát lớn thành phố, các nhạc công trong dàn nhạc phải vào cửa phía sau nhà hát, đi qua tầng hầm dưới lầu để xuất hiện trước sân khấu. Lúc này tôi mang Accordeon qua đường ấy đến ngồi ở vị trí. Tất cả mọi người đều có mặt sẵn sàng để khai mạc và chú Khê đứng trên bục điều khiển. Màn từ từ mở, nhạc trưởng Trần Văn Khê quay mặt ra khán giả, vừa chào vừa mời tất cả hội trường đứng lên để nghe hát bài “Sinh viên hành khúc” (Marche des Etudiants) của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước với lời ca bằng tiếng Pháp. Một cách tài tình, chú Trần Văn Khê đã lôi cuốn tôi theo tiếng nhạc hào hùng tràn đầy sức sống của tuổi thơ… “Nầy thanh niên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng đi đi đi mở đường khai lối…”. Tất cả khán giả đều đứng dậy chào một thế hệ mới đang lên… Tôi ngây ngất vì sung sướng; và tôi thấy bọn quan chức Pháp được mời đến dự buổi trình diễn cũng phải đứng ngay, chào nghiêm chỉnh! Một ý tưởng hóm hỉnh thoáng qua trí tôi, tràn đầy lòng thỏa mãn vì tôi xem đó là một dạng trả thù đích đáng những buổi sáng mà tôi bị buộc phải chào cờ tam sắc tại sân trường(1). 13. CUỘC VƯỢT NGỤC THỦ ĐỨC NĂM 1950 Ở trại giam Thủ Đức, giữa năm 1950, nữ tù nhân phối hợp với Tự vệ thành tổ chức một cuộc vượt ngục quy mô lớn. Hai nữ liên lạc viên của Ban Chỉ huy Thành bộ tự vệ là Quảng Thị Nguyệt và Võ Thị Nga bị bắt vào tháng 6/1949 và bị đưa về giam tại Thành Kèn (Biên Hòa). Tại đây, hai chị đã liên lạc với bên ngoài và vận động được hai lính ngụy giúp 1. Nhiều tác giả (2002), Nữ sinh Sài Gòn - một thời để nhớ: Ký sự truyền thống của nữ sinh 5 trường nữ trung học Gia Long, Marie Curie, Đức Trí, Trưng Vương, Lê Văn Duyệt (1945 - 1975), Sđd, tr. 134 - 137.


- 563 - mình làm chìa khóa mở cửa phòng giam (phòng này đang có 29 nữ tù). Đêm 15/3/1950, cuộc vượt ngục ở Biên Hòa diễn ra, nhưng chưa kịp tháo chạy thì bị phát hiện. Ít lâu sau, thực dân Pháp chuyển số nữ tù này về trại giam Thủ Đức. Tại trại giam Thủ Đức, hai chị Nguyệt và Nga lại nghiên cứu kế hoạch vượt ngục và dự tính phương án mới là dùng thuốc mê làm tê liệt lính gác, phá các phòng giam, tự giải thoát. Kế hoạch chưa kịp hoàn thành thì nhân dịp Quốc khánh Pháp (14/7/1950), địch trả tự do cho một số tù nhân, trong đó có hai chị Nguyệt và Nga. Ra tù, nhưng chị Nguyệt vẫn ý thức trách nhiệm giải thoát các đồng chí của mình. Được sự thống nhất của Bộ Tư lệnh Khu 7, Ban Chỉ huy Trung đoàn 310 bàn kế hoạch cụ thể: bên trong trại giam, các tù nam tổ chức một trung đội xung kích khỏe mạnh có nhiệm vụ phá tường để tù nhân vượt ra ngoài; bên ngoài, chị Nguyệt trực tiếp về Thủ Đức phổ biến kế hoạch vượt ngục và mang thuốc mê để tù nhân thực hiện kế hoạch. Chị đến thẳng trại giam, mang theo quà tặng cảm ơn giám thị trưởng đã cho ân xá và xin thăm một số tù nhân. Nhờ đó, chị đưa được thuốc mê vào tù. Ngày 23/7/1950, kế hoạch vượt trại giam Thủ Đức được thực hiện. Sau khi các giám quản Pháp và lính gác ngấm thuốc mê, hơn 300 tù nhân phá nhà ngục, vượt thoát về Chiến khu D. Bộ Tư lệnh Quân khu 7 đã tặng bằng khen cho những đồng chí có công lớn trong cuộc vượt ngục này(1). 14. CHUYỆN NGƯỜI NỮ TÙ LÊ THỊ RIÊNG Chị Lê Thị Riêng - Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam, Trưởng Ban Phụ vận Khu ủy Sài 1. Theo Trần Hải Phụng (chủ biên), Tự vệ thành Sài Gòn - Chợ Lớn những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 100 - 111.


- 564 - Gòn - Gia Định từ năm 1965 - bị chính quyền Sài Gòn bắt và giam ở khám Chí Hòa từ năm 1967; vào đêm mồng 2 Tết Mậu Thân (nhằm ngày 1 tháng 2 năm 1968), chị bị cảnh sát đô thành Sài Gòn bí mật chở xe đến đường Hồng Bàng và dùng súng xả vào xe, bắn chết. Cô Phùng Ngọc Anh - nguyên là cán bộ biệt động cánh Hoa vận T4, bị bắt ngày 19 tháng 9 năm 1967 và cùng bị giam ở khám Chí Hòa - đã kể lại những ngày tháng ở tù như sau: một phòng giam chật hẹp sơn toàn màu đen, các cửa phòng giam đóng kín mít, người tù cả ngày chỉ được ăn một chén cơm; chị Lê Thị Riêng bị tra tấn, năm đầu ngón tay bị đốt bằng đèn cầy, đứt một lóng tay, hai bàn chân bị đánh toét, mấy tháng mới đi lại được. Cho đến những giờ phút cuối, bị còng trên xe cùng với Ngọc Anh và anh Chín K, chị vẫn cổ vũ tinh thần cho Ngọc Anh rằng “trong tình huống này, ta phải xứng đáng là những người cộng sản”, vẫn cùng hòa giọng với anh Chín K “vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian, vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn…”; khi bị súng bắn trọng thương, chị vẫn hô to “Đả đảo khủng bố, đả đảo tàn sát. Hồ Chí Minh muôn năm!”; khi hy sinh, chị vẫn nằm đè lên Ngọc Anh, che chở cho cô khỏi đạn. Sự ra đi của chị Lê Thị Riêng có ý nghĩa, làm xúc động lòng người bởi chị đã đấu tranh, vì đồng đội ngay cả khi đã ngã xuống; bởi chị đã hy sinh hạnh phúc cá nhân mình cho đất nước; bởi chị là phụ nữ, là người vợ, người mẹ. Chị đã xa chồng, xa con trong những năm tháng chiến tranh. Để rồi, khi chồng chị (một chiến sĩ cách mạng) hy sinh vào năm 1960, chị không được nhìn mặt lần cuối. Để rồi, khi chị mất, hai đứa con vẫn còn gửi đồng bào nuôi dưỡng ở miền Bắc, xa cách mãi mãi. Chị đã tìm thấy trong lý tưởng đấu tranh chung của dân tộc con đường tìm kiếm hạnh phúc của cá nhân mình và của nhân dân: “Tôi sẽ chiến đấu cho hạnh phúc không tan, cho con sớm gần mẹ, cho người người không


- 565 - còn tang tóc chia ly”. Ước nguyện chung của chị đã được đồng đội hoàn thành. Duy ước mơ riêng tư của chị hãy còn dở dang: “Tôi ước mơ, một ngày nào đâu Hà Nội ơi! Cho tôi đến Thủ đô Gặp hai con, tôi ôm cả vào lòng Tôi siết mãi, không bao giờ buông ra nữa Nhớ lắm rồi, bao năm trời chất chứa Bóng hình con cứ lãng đãng đêm ngày Bữa tiệc đời sao lắm vị chua cay Mẹ đã chịu trong những ngày xa cách. Tôi ước mơ một ngày xuân thống nhất Được gặp con, được ôm ấp vỗ về Thèm thuồng nhìn đôi mắt trẻ ngây thơ Bao hạnh phúc mẹ dồn về con cả. Nhưng con hỡi! Nước non còn chia cắt Bởi kẻ thù tàn bạo gây nên Bao gia đình tan nát điêu linh Bao em bé phải đoạn tình mẫu tử. Màn đen tối sẽ lùi về dĩ vãng Vì toàn dân đã vùng dậy đứng lên Mẹ nguyện làm một chiến đấu viên Mẹ chiến đấu cho ngày mai tươi sáng Cho Bắc Nam thống nhất Cho đất nước hòa bình Cho mọi người no ấm quang vinh Cho con được hưởng trọn tình thương của mẹ.”


- 566 - 15. DƯỢC SĨ PHẠM THỊ YÊN Dược sĩ Phạm Thị Yên là nữ trí thức gốc Chợ Lớn. Bà sinh ngày 8/3/1919 tại Xóm Củi (nay thuộc Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh). Hoàn thành bậc trung học tại Sài Gòn, đỗ đầu tú tài toàn phần ban Toán, bà quyết định ra Hà Nội thi vào trường Đại học Y Dược. Tại trường đại học, bà tiếp tục là một trong những sinh viên giỏi, được bạn bè kính nể. Bà tốt nghiệp hạng ưu tại đây vào năm 1944. Tân dược sĩ Phạm Thị Yên trở lại lập nghiệp ở Sài Gòn. Bà mở tiệm thuốc tây và sớm có cảm tình với cách mạng. Bà tham gia tìm kiếm thuốc quý cho anh chị em tù Khám Lớn. Trong những bước chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn, bà vận động nhiều quần chúng và đồng nghiệp tham gia vào Mặt trận Liên Việt, tiêu biểu là: dược sĩ Hồ Thu, dược sĩ Hồ Huê, dược sĩ Hồ Đắc Ân, dược sĩ Hồ Kim Quan, dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều. Ngày 25/8/1945, Tổng khởi nghĩa tháng Tám nổ ra tại Sài Gòn, bà đã tham gia vào đội ngũ giành chính quyền từ tay thực dân Pháp. Sau thắng lợi của cách mạng, dược sĩ Phạm Thị Yên được bầu làm Bí thư Chi bộ trí thức đầu tiên tại Sài Gòn. Đồng chí yêu thương gọi bà bằng biệt danh “Bảy Yên”. Dưới sự dẫn dắt của bà, Chi bộ trí thức được tín nhiệm và đóng góp công sức vào cuộc kháng chiến lần thứ hai chống thực dân Pháp của chính quyền kháng chiến Nam Bộ và Sài Gòn - Gia Định khi địch gây hấn ngày 23/9/1945. Năm 1950, trong cao trào đấu tranh của học sinh - sinh viên và trí thức Sài Gòn, bà là cán bộ nòng cốt. Dược sĩ Phạm Thị Yên được bố trí dự lớp bồi dưỡng chính trị của Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định tại chiến khu Đ. Bà tham gia lãnh đạo bệnh viện Đa khoa Đặc khu, vận dụng chuyên môn để nghiên cứu và bào chế thuốc chống sốt rét.


- 567 - Hiệp định Genève ký kết năm 1954, dược sĩ Phạm Thị Yên trở lại nội thành Sài Gòn hoạt động, tiếp tục là một phần của cuộc kháng chiến toàn dân, lần này là chống lại đế quốc Mỹ. Năm 1956, cách mạng bố trí bà làm Trưởng Ban Trí vận Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Bà đồng thời thực hiện nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ chuyên môn: vừa bí mật tổ chức phong trào, vừa sản xuất thuốc phục vụ quần chúng và chiến sĩ. Chồng của bà, ông Trần Bửu Kiếm, cũng là một cán bộ nòng cốt của cách mạng: ông là Ủy viên Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ. Trong một lần bắt liên lạc với khu giải phóng, dược sĩ Phạm Thị Yên bị bắt. Kẻ địch tra tấn bà, nhằm khai thác thông tin nơi ở của chồng bà và những thông tin cách mạng khác. Không thể khuất phục bà, tòa án binh kết án chung thân và đày bà ra Côn Đảo. Năm 1967, địch đưa dược sĩ Phạm Thị Yên đến một hòn đảo, phục vụ chu đáo hòng mua chuộc người nữ trí thức này. Khi mọi cố gắng đều vô hiệu, địch đưa bà về lại Sài Gòn. Tuy bệnh tật, dược sĩ Phạm Thị Yên vẫn là một mối nguy hại cho chính quyền miền Nam. Khi địch chở bà đến biên giới Campuchia hòng trục xuất thẳng sang Pnom-Penh, Trung ương đã bố trí đón bà ra Hà Nội. Bà tiếp tục góp công vào sự nghiệp đấu tranh của dân tộc bằng cách tố cáo tội ác chiến tranh tại nhiều quốc gia trên thế giới. Cuối năm 1968, dược sĩ Phạm Thị Yên đề đạt nguyện vọng được quay lại miền Nam tham gia chiến đấu và được Trung ương chấp thuận. Năm 1971, bà qua đời sau một cơn sốt rét ác tính, khi vẫn chưa được chứng kiến ngày non sông thống nhất.


- 568 - 16. NỮ DU KÍCH CỦ CHI VÕ THỊ TRONG(1) Chị sinh năm 1950 trong một gia đình nông dân nghèo ở ấp Phú Hòa, xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, tỉnh Gia Định (nay là xã Phú Mỹ Hưng, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh). Từng trực tiếp chứng kiến cảnh khủng bố, bắt bớ, tra tấn của chế độ Mỹ - ngụy và tay sai đối với nhân dân, từng thấy quân Mỹ bắt, đánh đập mẹ mình vì có chồng là cán bộ nằm vùng và nuôi giấu cán bộ, nên năm 13 tuổi, chị xin gia nhập du kích. 16 tuổi, chị tham gia trận đánh Mỹ đầu tiên ở Củ Chi. Lần đầu tiên cầm súng, đối diện với lính Mỹ, nhìn thấy sự không cân sức giữa hai bên, nhưng chị đã thấy được thắng lợi của quân mình, ngăn được trận càn, chị nghĩ đánh giặc thật gian khổ nhưng dù có khó khăn hơn nữa thì mình vẫn tiếp tục kiên định. Tháng 5/1968, chị bị Mỹ bắt, chúng tìm cách khai thác thông tin, dụ dỗ, đánh đập, đưa về căn cứ Đồng Dù tra tấn đến sống đi chết lại bằng đủ mọi hình thức như châm kim đầu ngón tay, tra điện, đánh dùi cui, đứng bóng đèn,… nhưng chị vẫn không khai báo. Chị bị giam 13 tháng rồi được thả. Chị lại trở về, bám dân, đánh giặc. Năm 1970, lần đầu tiên chị đánh giặc bằng trái nổ hẹn giờ. Chị dùng xe trâu của chị Ba chở trái nổ vào ấp chiến lược, giấu tại nhà mẹ, rủ em gái 13 tuổi cùng đi đặt trái. Trận đánh diễn ra đúng kế hoạch vào lúc 9 giờ sáng, ngay giữa khu dân cư, Mỹ ngụy chết la liệt vì trận tập kích bất ngờ. Năm 1972, lần đầu tiên chị đánh Mỹ theo kiểu biệt động. Lúc đó, miền Đông bước vào “mùa hè đỏ lửa”, khi Chiến dịch Nguyễn Huệ diễn ra, chị được giao nhiệm vụ diệt tên ác ôn Sử - kẻ chuyên rình rập, cản trở và kìm kẹp nhân dân. Lúc này, chị đã xây dựng được nhiều cơ sở, đặc biệt là cơ sở nội tuyến. 1. Ghi theo lời kể của cô Sáu Trong (Võ Thị Trong), ngày 20/12/2017.


- 569 - Dự định, sau khi diệt ác, ta sẽ vận động toàn bộ đội phòng vệ xung kích nơi đây quay về với nhân dân. Kế hoạch tác chiến diễn ra thuận lợi, tên Sử bị bắn chết, 4 lính phòng vệ được thuyết phục về với cách mạng. Tuy nhiên, khi rời đi, cả khu vực bị bắn trái, sáng như ban ngày, cả đội bị bao vây. Cánh tay bị thương từ trước của chị trở nên vướng víu, tay còn lại phải khó khăn cầm lựu đạn và di chuyển. Cả đội quyết tâm xé đường máu để ra ngoài, mạo hiểm, nhưng là con đường duy nhất để bảo toàn một phần lực lượng trước khi mất cơ hội hoàn toàn nếu trời sáng. Cả đội bò sát bót bảo an, sau đó vượt qua đồng ruộng, men theo bờ suối để về căn cứ của Ban Chỉ huy Huyện đội. Sau trận này, đồng chí Bảy Ga - Huyện đội trưởng - vừa khuyên nhủ vừa ra lệnh cho chị cắt bỏ cánh tay bị thương. Từ trước, chị cũng có suy nghĩ về việc này, nhưng với một cô gái 22 tuổi, khó khăn lắm khi quyết định bỏ đi một cánh tay. Cuối cùng, chị chấp hành lệnh, một mình đón xe đi thẳng đến Bệnh viện Bình Dân Sài Gòn, tự ký vào hồ sơ để cắt cánh tay, khai rằng mình mồ côi, không còn người thân nào. Cắt xong cánh tay, xuất viện về nhà, chờ tái khám cắt chỉ; nhưng mới 5 ngày sau, chị lại bị bắt… Tháng 2/1975, lần đầu tiên chị giết giặc bằng súng giảm thanh. Mục tiêu là tên Thiên ở xã Trung An - một tên ác ôn, chuyên chỉ điểm cách mạng, mổ bụng moi gan cán bộ cách mạng để làm mồi nhậu; dù đã cố gắng nhiều lần, quân ta vẫn chưa thể hạ được. Chị đã yêu cầu xã Trung An phải viết một bản án cụ thể đối với tên Thiên; có như vậy, người dân mới cảm thấy cái chết của hắn là đích đáng. 8 giờ sáng, đội xuất phát từ bờ rạch đến ấp Hậu Thạnh, lội bộ khoảng 3 cây số, vào nhà một cơ sở, gần nhà riêng của tên Thiên, chờ hắn về sẽ diệt ngay tại nhà. Khi ở nhà cơ sở, không may, bé con trong nhà phát hiện súng, đòi lấy súng chơi nên cả đội buộc phải rời nhà cơ sở, lang


- 570 - thang ở ngoài từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều. Khi tên Thiên về nhà, chị vào thẳng nhà, hắn hỏi đi đâu, chị bảo đi mua tro dừa về làm ruộng (vì vợ hắn bán tro), hắn bảo vợ đi Bình Dương, hắn vừa nói xong chị liền rút súng đã lên nòng sẵn rồi bóp cò hai phát. Nhiệm vụ hoàn thành, đội rút quân an toàn. Phụ nữ đánh giặc thì dễ ngụy trang, dễ nói chuyện để lung lay ý chí kẻ địch nhưng cũng dễ xúc động. Chị kể, đã nhiều lần khóc; nhưng khóc xong lại đứng lên bước tiếp chứ không yếu đuối, gục ngã. Nhớ lần em Tô Thị Ngọc Hà - cô gái tóc dài, da trắng, xinh đẹp hy sinh. Lần đó, em nhận nhiệm vụ đi diệt một tên ác ôn. Trước khi em đi, chị lấy áo của mình cho em mặc, em dặn rằng nếu em không về thì hãy xem như em đã hoàn thành nhiệm vụ. Tên ác ôn bị em bắn bị thương, hắn bắn trả nên em đã anh dũng hy sinh. Đêm đó, chị khóc và tự trách mình, có phải mình, là người chỉ huy, đã sai sót ở điểm nào không. Một lần khác, là cái chết của em Phượng, không hy sinh trên trận địa mà mất trên nông trường. Chiều hôm đó, trời sắp tối, chị lại nhớ đến ruộng mì nên đi trồng. Phượng cuốc đất, chị cắm gốc mì. Chẳng may, Phượng cuốc trúng mìn, chết tại chỗ; chị cách đó không xa chỉ bị rách quần áo và mấy mảnh văng trúng đầu. Chị ôm Phượng khóc nức nở, nghĩ Phượng mất là tại mình. Chị là đại biểu Đại hội Anh hùng - Chiến sĩ thi đua toàn miền Nam lần thứ II, năm 1967, được Nhà nước trao tặng nhiều Huy hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt cơ giới và Huân chương Chiến công hạng Ba cùng với nhiều huân chương cao quý khác. Tham gia cách mạng, chị đã góp sức vào công cuộc thống nhất đất nước. Nhưng trong cái được lớn lao ấy có cả những mất mát không nhỏ. Đơn vị chị có 24 liệt sĩ, nhiều người thân yêu trong gia đình chị - chị ruột, anh rể, chị họ, em họ đều đã


- 571 - hy sinh… Chị nói khi còn trong cuộc chiến, mọi người hay trò chuyện và bảo nhau rằng, nếu hy sinh trên trận địa thì mình đã hoàn thành nhiệm vụ, còn nếu sống sót đến thời bình thì phải sống cho xứng đáng với tâm nguyện mà người nằm xuống đã gửi lại. Tâm nguyện ấy trong chị hôm nay là mong có được tấm bia tưởng niệm 24 liệt sĩ trong đội của mình. 17. BÀ NGUYỄN THỊ BÌNH - CHIẾN SĨ NGOẠI GIAO TÀI BA Bà Nguyễn Thị Bình(1) trước hết là một nữ trí thức Nam Bộ. Bà sinh ngày 26/5/1927 tại làng Tân Hiệp, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Thời niên thiếu bà sống cùng gia đình tại Campuchia, học tại trường Lycée Sisovath, Phnôm Pênh, tiếp xúc với nền giáo dục Pháp, nghe nhạc Schubert, xem cải lương, chơi bóng rổ, đọc tiểu thuyết, “tân thời” không kém những thiếu nữ Sài Gòn thập niên 1960 sau này. Nhưng bà cũng rất chú ý tập tành may vá, nấu nướng để trở thành người phụ nữ vẹn toàn đúng truyền thống “công, dung, ngôn, hạnh”. Cái tên Nguyễn Thị Bình chính thức xuất hiện trên nghị trường quốc tế từ năm 1962, khi Trung ương cử bà vào vị trí Ủy viên Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phụ trách mảng đối ngoại. Năm 1968, bà là Phó Trưởng đoàn phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tham dự Hội nghị Paris. Ngay lập tức, truyền thông quốc tế ấn tượng trước người phụ nữ bé nhỏ, lịch thiệp, lúc nào cũng điềm tĩnh, thong dong trong khi miền đất mình đại diện đang chìm trong khói lửa, đường hoàng đĩnh đạc thương thảo cùng những tên tuổi lớn như: 1. Thông tin về bà Nguyễn Thị Bình được viết dựa trên các tài liệu: Trí thức Sài Gòn - Gia Định, 1954 - 1975, Hồ Hữu Nhựt (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 444 - 446; bài viết “Nguyễn Thị Bình - Nhà ngoại giao nhân dân” của Lê Năng Đông, bản đăng trên website Tạp chí Cộng sản, ngày 23/1/2013, nguồn: http://www. tapchicongsan.org.vn/Home/truyenthong-hientai/2013/19895/Nguyen-Thi-Binh-nhangoai-giao-nhan-dan.aspx, truy cập ngày 12/11/2017.


- 572 - Henry Kissinger - đại diện phái đoàn Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Lê Đức Thọ - đại diện phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 4/11/1968, khi vừa đến Paris, bà Nguyễn Thị Bình tuyên bố “Giải pháp 5 điểm” của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam: 1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam phấn đấu thực hiện, độc lập, dân chủ hòa bình tiến tới thống nhất Tổ quốc; 2. Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam; 3. Công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam do nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết; 4. Việc thống nhất Việt Nam do nhân dân Việt Nam tiến hành; 5. Miền Nam Việt Nam thực hiện chính sách ngoại giao, hòa bình, trung lập,… Tuyên bố “5 điểm” này gây tiếng vang trong dư luận quốc tế và trong giới quan sát chính trị thế giới. Bà Nguyễn Thị Bình được báo chí nước ngoài gọi là “madame Bình”, với những bình luận tích cực mà nữ ký giả Madeleine Riffaud đã ghi lại: “Bà Bình như một bà hoàng, được đón như một quốc trưởng với đủ nghi thức chính quy, lại được hoan nghênh nhiệt liệt”, “Bà Bình đã làm chấn động dư luận Paris và thế giới”. Trong suốt thời gian diễn ra Hội nghị Paris, bà Nguyễn Thị Bình đều đặn tổ chức họp báo vào thứ Năm hàng tuần tại Nhà Hội nghị Quốc tế, phố Klebe, Paris. Bà luôn xuất hiện trước công chúng và truyền thông thế giới trong bộ áo dài truyền thống, cổ cao, chiết eo, không cách tân, hết sức nhuần nhị mà vẫn sang trọng. Trước câu hỏi của báo chí phương Tây: “Bà có thuộc Đảng Cộng sản không?”, bà trả lời khéo léo và thuyết phục: “Tôi thuộc Đảng yêu nước”.


- 573 - Với những diễn biến trên chiến trường, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa buộc phải chùn bước trong vòng đàm phán. Hiệp định Paris chính thức được ký kết ngày 27/1/1973. Vào giây phút bà Nguyễn Thị Bình đặt bút ký vào bản Hiệp định, hình ảnh bà - nữ chính khách mới ngoài 40 tuổi đã góp phần tác động vào một chương quan trọng của lịch sử thế giới hiện đại - chính là biểu tượng cho thắng lợi của một nhà nước non trẻ, hiền lành mềm mại, nhưng nhất định không chịu khuất phục trước sức mạnh phi nhân. Sự lựa chọn của Trung ương, đưa bà Nguyễn Thị Bình làm Phó Trưởng phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhằm chủ ý gây ấn tượng trước chính trường quốc tế: một người phụ nữ trẻ, thông thạo tiếng Pháp - ngôn ngữ của đất nước nơi diễn ra Hội nghị, biết nói tiếng Anh, đã từng thay mặt Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong các hoạt động ngoại giao, gốc trí thức miền Nam nhưng đã từng học tập tại miền Bắc,… có ý nghĩa đại diện ở nhiều phương diện. Và để dẫn đến sự lựa chọn ấy của Trung ương, bản thân bà Nguyễn Thị Bình nhiều năm trước đã lựa chọn con đường cho chính mình. Là cháu ngoại của nhà yêu nước Phan Chu Trinh, cháu nội của một nghĩa binh phong trào Cần vương, bà Nguyễn Thị Bình tuy trải qua thời trẻ ở nước ngoài, nhưng vẫn tiếp tục được hun đúc tinh thần yêu nước truyền thống của gia đình. Cha bà, cụ Nguyễn Đồng Hợi, là viên chức trong công sở Pháp, nhưng khi Hội Việt kiều yêu nước và phong trào cứu tế đồng bào miền Bắc xuất hiện tại Campuchia vào đầu thập niên 1940, đã cùng gia đình hăng hái tham gia. Từ đây, bà Nguyễn Thị Bình bắt đầu biết đến và tìm hiểu về tổ chức Việt Minh. Tháng 9/1945, gia đình bà quyết định về nước để tham gia đấu tranh chống Pháp. Phải tạm dừng chương trình thi Tú tài, nhưng phẩm chất


- 574 - trí thức khiến bà sắc sảo hơn: bà chú ý học tập lý luận, nâng cao trình độ chính trị. Năm 20 tuổi, bà Nguyễn Thị Bình đã là Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ Cứu quốc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, sau đó giữ vị trí Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ. Bị bắt bớ, giam cầm, được thả rồi tiếp tục hoạt động ở miền Nam, sau đó lại ra Bắc theo chỉ thị của tổ chức, bà Nguyễn Thị Bình trước sau vẫn là một nhà hoạt động cách mạng gắn bó sâu sắc với vùng đất Sài Gòn. Từ năm 1960, bà Nguyễn Thị Bình là thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sát cánh cùng quân dân Sài Gòn trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, và ít lâu sau xuất hiện đĩnh đạc trên chính trường quốc tế. Càng đáng trân trọng hơn khi suốt 4 năm tại Paris, bà Nguyễn Thị Bình đã làm tròn trách nhiệm với đất nước, trong khi phải xa hai con nhỏ, cha ốm nặng, nhưng điều kiện chỉ cho phép bà về nước một vài lần để nhận chỉ thị từ Trung ương. Câu chuyện và hình ảnh ngoại giao của bà Nguyễn Thị Bình đã cho thấy sức mạnh của giới nữ nằm ở những điều quen thuộc: sự mềm mỏng, dịu dàng; trong thời chiến, đó là chân dung “trong nhu có cương”. 18. PHIÊN TÒA XỬ BÁO ĐIỆN TÍN, NGÀY 22/9/1972, THEO TƯỜNG THUẬT CỦA BÁO CHÍ ĐƯƠNG THỜI(1) Phiên xử báo chí đầu tiên trước tòa theo Sắc luật 007/72 diễn ra lúc 9 giờ sáng ngày thứ Sáu 22/9/1972. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Điện tín là nghị sĩ Hồng Sơn Đông do có tư cách nghị sĩ nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm, vì vậy bà quản lý của tờ báo phải thay mặt chủ nhiệm, bị coi là “chánh phạm”. Câu hỏi đầu tiên của tòa là: “Quản lý nhật báo Điện tín, bà có kiểm soát bài vở trước khi cho in không?”. Bà quản lý 1. Trích Hồi ký không tên của Lí Quí Chung, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2004, tr. 158.


- 575 - trả lời: “Tôi chỉ biết lo về tiền bạc cho tờ báo, không có thẩm quyền kiểm soát bài vở của tòa soạn”. Tòa mời đại diện Bộ Nội vụ ra xác nhận có yêu cầu truy tố nhật báo Điện tín hay không. Vì đại diện Bộ Nội vụ cho rằng số lượng bom phi cơ Mỹ dội xuống Việt Nam là con số quá lớn, nhật báo Điện tín phổ biến con số đó gây hoang mang cho dư luận, làm phương hại cho an ninh quốc gia. Tòa hỏi Bộ Nội vụ có con số nào để so sánh hoặc làm mức đo lường sự quá đáng, Bộ Nội vụ trả lời không có. Tòa hỏi xuất xứ tài liệu được đăng tải. Trái với dự đoán của những người có mặt, báo Điện tín không dựa vào Điều 22 quy chế báo chí (được Sắc luật 007 thừa nhận) để từ chối trả lời câu hỏi này mà luật sư thay mặt tờ báo xuất trình bản chính tài liệu xuất xứ từ Viện Đại học Cornell (Hòa Kỳ). Tòa hỏi ủy viên chính phủ có ý kiến gì. Vị này trả lời: “Tài liệu có thật nhưng phổ biến có hại cho an ninh quốc gia”. Tranh luận trước tòa và biện hộ cho nhật báo Điện tín, luật sư Bùi Chánh Thời nêu lên ba phản biện quan trọng: a) Tranh luận vai trò của người quản lý: Ai cũng biết, trong một nhật báo, chịu trách nhiệm về bài vở là chủ nhiệm hay chủ bút. Đó là bàn về phương diện lý thuyết. Trong thực tế, thư ký tòa soạn đảm nhận công việc ấy. Không một nhật báo nào trên thế giới để người quản lý kiểm soát bài vở. Vai trò thuần túy của quản lý là điều hành tờ báo về mặt hành chánh. Bắt người quản lý chịu trách nhiệm về bài vở là một điều vô lý. b) Nguyên tắc cá biệt của hình phạt: Theo nguyên tắc tổng quát của luật hình thì chỉ có hành vi là bị trừng phạt. Cá nhân không có hành vi phạm tội thì không thể bị trừng phạt. Từ điểm này ta đi tới một nguyên tắc lớn hơn nữa là sự cá biệt của hình phạt. Viên quản lý nhật báo Điện tín không có hành động phạm tội lại bị coi là chánh phạm.


- 576 - c) Yếu tố phổ biến. Biên bản của Bộ Nội vụ có ghi rõ là tịch thu báo Điện tín trên máy in. Số báo đề ngày 16 tháng 8 năm 1972 nhưng bị tịch thu tất cả trong buổi chiều ngày 15 tháng 8 năm 1972. Như vậy không hề có yếu tố phổ biến để buộc tội nhật báo Điện tín theo Điều 28 đoạn a Sắc luật 007/72 ghi lại (dùng báo chí phổ biến). Cần phải nhắc nhở ở đây là Luật Báo chí 1881 của người Pháp đã sửa đổi vào năm 1945 có ghi rõ: “Muốn viết gì thì viết nhưng nếu chưa phổ biến thì vẫn còn nằm trong tư tưởng, do đó chưa thành tội phạm và không thể bị trừng phạt”. Người làm báo mong muốn được nghe giải thích thế nào là gây hoang mang, thế nào là phá hoại an ninh quốc gia, nhưng sự giải thích đó không bao giờ có được. Điều này có thể làm nhà báo nghĩ rằng đây là trường hợp, người ta tịch thu trước rồi tìm lý do truy tố sau”. Để kết luận, luật sư Bùi Chánh Thời xin tòa tha bổng cho nhật báo Điện tín và chiếu Điều 20 Sắc luật 007/72, luật sư Thời xin phản tố trước tòa để đòi bồi thường 1.000.000 đồng thiệt hại. Về điểm này ủy viên chính phủ trả lời: “Theo văn bản tổ chức của Tòa án Quân sự Mặt trận thì tòa này không có thẩm quyền bồi thường”. Sau khi nghe ủy viên chính phủ buộc tội gắt gao, tòa nghị án và trở ra tuyên án: phạt quản lý tờ nhật báo Điện tín 1 năm tù ở và 1.000.000 đồng tiền vạ.


THÔNG CÁO CHUNG GIỮA CHÍNH QUYỀN VÀ PHÁI ĐOÀN PHẬT GIÁO THÁNG 6/1963


Click to View FlipBook Version