- 399 - quyền sống” vào ngày 7/4/1971. Cuộc đấu tranh đòi trả tự do cho bà Ngô Bá Thành - Chủ tịch phong trào Phụ nữ đòi quyền sống - vào ngày 6/9/1971. Cuộc biểu tình chống quân sự hóa học đường vào ngày 18/9/1971 cùng với sinh viên - học sinh Sài Gòn. Cuộc biểu tình chống bóc lột và sa thải công nhân vào ngày 18/11/1971 cùng với công nhân hãng pin Con Ó. Hoạt động phản đối chính quyền dùng nhân viên công lực gác chùa, giám sát hoạt động tín ngưỡng trước trụ sở Hạ nghị viện vào ngày 30/9/1974. Tham gia ngày “Ký giả ăn mày” 10/10/1974. Tham gia biểu tình trên đường Chi Lăng vào ngày 7/11/1974. Ni trưởng Huỳnh Liên đã làm thơ lưu lại một trong những hoạt động đấu tranh công khai chống chính quyền Sài Gòn và Mỹ; đó là cuộc biểu tình cả vạn người và xung đột với cảnh sát trên đường Chi Lăng, gần ngã tư Phú Nhuận vào ngày 7/11/1974: “Đánh túi bụi, đổ máu đào, Ni cô ngã xuống, đồng bào dấy lên Người coi chật ních như nêm Viện binh tức tối từ bên xóm Gà Ngọc Phương ni chúng ào qua Tay cầm biểu ngữ, miệng la dân quyền Hòa bình, hòa giải hai bên Hòa hợp dân tộc, các quyền tự do Thực hiện Hiệp định ra trò: Thả tù ngưng bắn, tự do dân quyền Bà Thành huy động trận tiền Báo chí nội ngoại tới liền săn tin
- 400 - Mặt đường chữ trắng vẽ lên Đả đảo đàn áp, đê hèn tiểu nhân Tay cầm cọ, tay cầm sơn Vừa vẽ, vừa khóc, lom khom áo vàng Võ Di Nguy xe chạy ngang Kìa hai xác chết, nọ hàng chữ to Áo lam mấy vị ni cô Đi lui đi tới, phân bua hô hào Ghép tay loa miệng hô hào Đả đảo đàn áp, đồng bào tiếp hơi…”. Tịnh xá Ngọc Phương chính là địa điểm hội họp và cung cấp các nhu yếu phẩm cho Ban Kinh tài, Ban Văn nghệ Tây Nam Bộ, Ban An ninh Liên quận 4, mật khu Long An và chiến khu D. Đây cũng là nơi diễn ra đại hội bất thường của Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống ngày 18/10/1970, quyết định đổi tên Ủy ban thành Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống. Tại đại hội, ni trưởng Huỳnh Liên của tịnh xá Ngọc Phương, đại diện Giáo hội khất sĩ ni giới Việt Nam được bầu làm thành viên Hội đồng cố vấn của phong trào. Đứng trên cùng chiến tuyến cách mạng, đấu tranh chống Mỹ, nên từ ngày 27/10/1974 cho đến ngày 30/4/1975, tịnh xá Ngọc Phương bị phong tỏa. Chính quyền Sài Gòn dựng hàng rào kẽm gai quanh tịnh xá. Dù trong thế bị vây hãm, các ni sư của tịnh xá vẫn giữ vững lập trường, quan điểm, đấu tranh đến cùng bằng cách lập nên lò thiêu dã chiến ngay trước cổng tịnh xá với ý nghĩa sẵn sàng tự thiêu tập thể để chống đối sự đàn áp của chính quyền Sài Gòn. Họ đã kiên định lý tưởng cho đến ngày đất nước thống nhất.
- 401 - Cùng tham gia vào các hoạt động đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1954 - 1975 còn có đội hình chư ni sư, phật tử của chùa Từ Nghiêm (đường Bà Hạt, Quận 10) do cố ni trưởng Thích Nữ Như Thanh lãnh đạo. Ngày 11/6/1963, các ni sư đã cùng với tăng đoàn đưa hòa thượng Thích Quảng Đức từ Phật Bửu Tự (trên đường Cao Thắng) đến trước tòa đại sứ Cambodge, ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng để tự thiêu. Sự kiện gây chấn động không chỉ trong nước mà còn trên trường quốc tế. Hình ảnh tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức năm 1963, ngọn đuốc sống của sinh viên Mỹ Norman Morisson năm 1966, đã trở thành những ngọn lửa có sức lan tỏa mãnh liệt, trở thành biểu tượng sống động, cổ vũ và lan tỏa tinh thần bất khuất đòi tự do cho dân tộc, kiên trì vì mục tiêu hòa bình của nhân dân Việt Nam. Ngày 20/8/1963, 100 ni sư chùa Từ Nghiêm tham gia biểu tình, chống kỳ thị tôn giáo của chính quyền Sài Gòn. Trong sự kiện này, một số ni sư của chùa đã bị bắt (trong đó có ni sư Tịnh Mẫn), đưa về giam giữ tại Rạch Giá; sau đó, vì không có chứng cứ, các ni sư được thả ra. Ngày 29/9/1967, các ni sư cùng với đồng đạo đã tập hợp thành đoàn biểu tình 3.000 người, di chuyển từ chùa Ấn Quang đến trước Dinh Độc lập, đòi Nguyễn Văn Thiệu hủy bỏ “Huân chương Phật giáo” do chính quyền Sài Gòn đặt ra. Không chỉ có các ni cô tu tập tại chùa tham gia vào phong trào chống Mỹ, các phật tử cũng được lan tỏa tinh thần đấu tranh vì quyền sống, vì hòa bình của tôn giáo. Chùa Từ Nghiêm là địa điểm lưu giữ dấu tích về một sự kiện đấu tranh chính trị tiêu biểu của giới phật tử, trí thức Sài Gòn. Lúc 7
- 402 - giờ 20 phút ngày 16/5/1967, trước cửa chánh điện chùa Từ Nghiêm, phật tử Nhất Chi Mai, pháp danh Thích Nữ Diệu Huỳnh đã tự thiêu bằng 10 lít xăng, thể hiện thái độ phản đối cuộc chiến mà Mỹ đang tiến hành tại Việt Nam. Sự hy sinh của chị đã thắp lên “ngọn lửa Nhất Chi Mai”, cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân Sài Gòn - Gia Định. Nhất Chi Mai là một nữ phật tử - trí thức trẻ, có gia thế khá giả, chị lựa chọn cái chết bi hùng như một hành động đấu tranh có nhận thức sâu sắc. Nghe những người đồng đạo kể lại câu chuyện của chị mới thấy việc chị tự thiêu không phải là hành động bột phát. Đó là cả một quá trình nhận thức: tại sao phải chống Mỹ? Từ một người sống sung túc trong xã hội lúc bấy giờ, từ sự chuẩn bị nhiều mặt để tạo được sức ảnh hưởng đến cộng đồng, từ vỗ về người thân trước khi chọn hy sinh cho lý tưởng, đến chọn địa điểm, chọn thời gian, lưu lại lá thư thể hiện tâm nguyện… Cái chết của chị là tiếng nói mạnh mẽ cho những mất mát, đau thương mà người dân phải gánh chịu vì cuộc chiến, thể hiện khát vọng được sống tự do, an vui của con người. Ngọn lửa mà Nhất Chi Mai thắp lên đã viết tiếp trang sử đấu tranh công khai chống Mỹ của nữ giới Sài Gòn; đồng thời, tạo hiệu ứng lan tỏa, khởi phát những hoạt động tranh đấu khác ở nhiều vùng miền trên cả nước. Những cuộc tự thiêu tiếp tục diễn ra ở các địa phương khác như Huế, Quảng Trị. Sinh viên Văn khoa Sài Gòn tổ chức cuộc thi thơ “Một bông hồng cho quê hương” như sự tưởng niệm dành cho chị và cũng là tiếng nói đấu tranh cho hòa bình. Dịp lễ Phật Đản những năm sau đó, đúng ngày chị tự thiêu, sinh viên Vạn Hạnh tổ chức biểu tình với tên gọi “Chiến dịch Nhất Chi Mai”, vạch trần tội ác chiến tranh của Mỹ. Và cũng từ đây, phong trào đấu tranh của nữ giới Sài
- 403 - Gòn được cổ vũ với khẩu hiệu “mỗi phụ nữ là một chiến sĩ hòa bình”. Ngọn lửa Nhất Chi Mai nhắc nhớ, tập hợp những người Việt Nam yêu nước và khát khao hòa bình tham gia vào các phong trào đấu tranh chống Mỹ. Chùa Tam Bảo trên đường Trần Quốc Toản cũng là một cơ sở cách mạng. Tại đây, ni cô Diệu Thông (sinh ở Huế) và các đồng đạo của mình đã hết lòng hỗ trợ chiến sĩ biệt động thuộc Đội 5. Năm 1960, ni cô Diệu Thông đã hỗ trợ biệt động Sài Gòn trinh sát Thượng viện: nắm quy luật hội họp, giờ ra vào của các quan chức, cách bố trí canh gác,…; từ đó, đội biệt động lên phương án tấn công Thượng viện thành công. Năm 1968, chùa Tam Bảo là nơi cất trữ vũ khí và nơi xuất phát của đội biệt động tấn công vào cư xá Hải quân Mỹ ở đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt); riêng ni cô Diệu Thông giấu thuốc nổ trong người, chạy xe Honda yểm trợ cho đội biệt động tập kích cư xá thành công. Sau trận đánh này, chùa Tam Bảo bị bao vây, lục soát và phát mãi. Ngày 30/9/1974, đông đảo ni sư, khất sĩ cùng với chị em phụ nữ Sài Gòn - Gia Định tuần hành qua các đường phố trong nội thành Sài Gòn, tiến đến Hạ nghị viện để biểu tình ngồi. Ni sư Ngoạt Liên - tịnh xá Ngọc Phương - đã đại diện cho đoàn biểu tình đối chất với cảnh sát, với đại biểu của Hạ nghị viện. Trong các cuộc đấu tranh công khai bán hợp pháp trên mặt trận đấu tranh chính trị, lực lượng ni sư được nhân dân yêu mến gọi tên “đội quân đầu tròn”, xuất hiện trong nhiều phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn, khẳng định sự đồng tâm hiệp lực của các thành phần khác nhau trong xã hội trong cuộc đấu tranh chống Mỹ.
- 404 - Một trong những dấu ấn khó phai trong lịch sử đấu tranh công khai, bán hợp pháp của nhân dân miền Nam chống Mỹ là các cuộc tuần hành, biểu tình của học sinh - sinh viên. Vào ngày 25/8/1963, hưởng ứng lời kêu gọi của Ủy ban chỉ đạo Học sinh liên trường, hơn 5.000 sinh viên, học sinh tham gia biểu tình chống quy định thiết quân luật của chính quyền Sài Gòn tại công trường Diên Hồng. Công trường nằm ở trước cổng chính của chợ Bến Thành; địa thế rộng rãi, dễ tập trung đám đông; nơi giao nhau của nhiều con đường, dễ phân tán lực lượng. Do đó, đây là địa điểm lý tưởng để tổ chức các cuộc biểu tình, xuống đường chống chính quyền Sài Gòn một cách công khai, với quy mô lớn. Công trường Diên Hồng nằm gần tòa nhà Quốc hội (nay là Nhà hát Thành phố); sát cạnh Trung tâm Thông tin báo chí (góc đường Lê Lợi - Đồng Khởi); cũng kề cận với các tòa soạn báo ở đường Phạm Ngũ Lão và càng gần gũi với đoạn đường có nhiều phóng viên quốc tế trú đóng và tác nghiệp ở đường Bùi Viện, Đề Thám. Vì vậy, nơi đây như là tâm bão; mỗi hành động đấu tranh của người dân sẽ nhanh chóng được dư luận, truyền thông trong nước và ngoài nước nắm bắt, lan tỏa. Đó cũng là một trong những mục đích của phong trào đấu tranh công khai, bán hợp pháp: thể hiện và định hướng dư luận theo quan điểm, tư tưởng của mình. Trong số những thanh niên biểu tình xuống đường ngày hôm đó có nữ sinh 15 tuổi Quách Thị Trang. Chị đã hy sinh khi cảnh sát dã chiến nổ súng đàn áp đoàn biểu tình. Đây là một trong những phong trào đấu tranh công khai nổi bật và gây tiếng vang lớn của nữ sinh Sài Gòn nói riêng và của giới sinh viên, học sinh Sài Gòn nói chung trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hình ảnh chị Quách Thị Trang bị đàn áp
- 405 - và hy sinh trong cuộc biểu tình là minh chứng tố cáo mạnh mẽ sự hung ác của chính quyền Sài Gòn đối với người dân, trở thành biểu tượng cho tinh thần tranh đấu vì quyền tự do, dân chủ của người Việt Nam. Đám tang của chị có hàng ngàn người Sài Gòn đưa tang, nơi chị ngã xuống được người dân gọi là bùng binh Quách Thị Trang thay cho tên gọi chính thức lúc bấy giờ là công viên Diên Hồng. Chị được tạc tượng và dựng vọng ngay tại bùng binh. Hội Thanh niên thế giới viết thư phản đối chính quyền Sài Gòn kỳ thị tôn giáo và đàn áp thanh niên Việt Nam sau khi biết tin về sự hy sinh của chị - chuỗi phản ứng và đấu tranh ấy cho thấy tiếng vang từ phong trào. Diễn ra công khai, hình ảnh của cuộc đấu tranh soi sáng trước mắt những người dân yêu nước và cả những người trung lập tính chất cuộc chiến nhìn từ hai phía; từ đó, tác động đến nhận thức, tư tưởng và hành động của họ. Ngày nay, di tích này tuy không còn nữa nhưng tên gọi và câu chuyện về người liệt nữ Quách Thị Trang cùng với phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn thì vẫn còn lưu truyền mãi sau này. Chị tuy không phải là người con sinh ra trên mảnh đất miền Nam này nhưng chị là người con anh dũng, đáng tự hào mà Sài Gòn đã nuôi dưỡng. Năm 1964, nhằm phản đối cuộc bầu cử tổng thống chính quyền Sài Gòn nhiệm kỳ II, Hội Liên hiệp học sinh sinh viên giải phóng Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức rải truyền đơn ở nhà dân, thả cờ và kẻ khẩu hiệu ở các khu dân cư. Tham gia phong trào này có không ít nữ sinh như các chị Trương Mỹ Lệ, Trương Mỹ Hoa, Nguyễn Thị Hải,… Những cuộc đấu tranh của sinh viên học sinh đã liên tục nổ ra. Ngày 23/8/1964, sinh viên tổ chức hội thảo tại trường
- 406 - Đại học Y khoa, sau đó tổ chức mít tinh ở Đài Phát thanh, buộc tội Nguyễn Ngọc Linh - Giám đốc nhà đài - đưa tin xuyên tạc về phong trào sinh viên, học sinh. Ngày 25/8/1964, đoàn nữ sinh cùng với bạn bè đồng môn di chuyển từ số 4 Duy Tân, trụ sở của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn lúc bấy giờ(1), đến dinh Nguyễn Khánh, đòi gỡ bỏ lệnh giới nghiêm. Ngày 13/11/1964, nữ sinh trường Gia Long cùng tham gia với sinh viên Đại học Vạn Hạnh, Đại học Luật,… biểu tình đòi giải tán chính phủ Trần Văn Hương. Ngày 5/8/1967, Tổng hội Sinh viên Sài Gòn tổ chức hội thảo “Phụ nữ, xã hội và chiến tranh” tố cáo các ấn phẩm đồi trụy do chính quyền Sài Gòn khuyến khích phổ biến trong xã hội đã đầu độc thanh thiếu niên, lên án những kẻ gây chiến. Sau năm 1968, các tổ chức hợp pháp của sinh viên, học sinh, thanh niên Sài Gòn tiếp tục tổ chức, tham gia các hoạt động đấu tranh công khai, đòi dân sinh dân chủ, đòi hòa bình. Ngày 7/10/1968, hội thảo “Tìm một nền hòa bình vĩnh cửu cho Việt Nam” được tổ chức tại chùa Ấn Quang. Chị Trần Thị Ngọc Hảo - đại diện Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - tham gia và phát biểu trong hội thảo. Cuối tháng 12/1968, Tổng hội Sinh viên Sài Gòn và Liên đoàn Sinh viên Công giáo, Ban Đại diện các trường đại học và trung học phối hợp tổ chức đêm văn nghệ mừng Giáng sinh và rước đuốc hòa bình ở số 229 Hiền Vương (nay nằm trên đường Võ Thị Sáu, Quận 3), thu hút 1.000 sinh viên, học sinh tham gia. 1. Hiện nay là Nhà Văn hóa Thanh niên, số 4 Phạm Ngọc Thạch.
- 407 - Ngày 20/4/1970, sinh viên, học sinh Sài Gòn tổ chức lễ truy điệu cho các Việt kiều bị sát hại bởi quân Lon Nol ở Campuchia - thế lực chính trị được chính quyền Sài Gòn ủng hộ - tại Trường Đại học Khoa học (nằm trên đường Nguyễn Văn Cừ ngày nay); tiếp đó, 126 sinh viên, học sinh đã biểu tình bằng xe máy rồi chiếm tòa đại sứ của quân Lon Nol trên đường Cách mạng tháng Tám suốt 12 ngày đêm (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân Quận 3), yêu cầu chính quyền Sài Gòn chấm dứt khủng bố Việt kiều và đưa Việt kiều từ Campuchia trở về. Năm 1970, chị Nguyễn Thị Yên - thủ quỹ Tổng hội Sinh viên Sài Gòn - cắt tay lấy máu, viết huyết thư yêu cầu nhà cầm quyền thả học sinh, sinh viên bị bắt giam. Tháng 2/1971, sinh viên, học sinh phát động chiến dịch “Nói cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi nói”; tuyên truyền chống thuế, đòi hòa bình, hưởng ứng tuyên bố 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Paris; kêu gọi chống văn hóa đồi trụy; phổ biến các bài hát cách mạng. Ngày 8/8/1971, sinh viên Đại học Vạn Hạnh xuống đường, đốt 2 chốt gác, cầu siêu cho sinh viên Phạm Hạnh đã chết vì nhiễm bệnh khi tham gia huấn luyện quân sự trên quân trường của chính quyền Sài Gòn. Ngày 16/3/1974, sinh viên, học sinh Sài Gòn biểu tình ở khu vực chợ Bến Thành, đòi trả tự do cho Huỳnh Tấn Mẫm và tù chính trị; dùng cả bom xăng và lựu đạn khói. Ngày 25/8/1974, kỷ niệm ngày mất của chị Quách Thị Trang, học sinh, sinh viên Sài Gòn tổ chức tuần hành trên đường phố Sài Gòn.
- 408 - Tháng 9/1974, phong trào học sinh, sinh viên “Hát cho đồng bào tôi nghe” được khởi động lại. Ngày 22/9/1974, hàng trăm học sinh sinh viên tổ chức mít tinh, hát những bài hát cách mạng, phát quà cho những gia đình nghèo. Đêm Noel năm 1974, sinh viên các tôn giáo mít tinh chống đối việc bắt lính ở nhà thờ dòng Chúa Cứu thế, nhà thờ Vườn Xoài. Ngoài ra, phong trào đấu tranh công khai của chị em phụ nữ công nhân, nông dân và tiểu thương cũng góp thêm tiếng nói phản đối mạnh mẽ chính quyền Sài Gòn cùng với những chính sách, đàn áp, bất công trong quản lý và tổ chức xã hội. Cuối năm 1960, hơn 40.000 nông dân Gia Định tổ chức biểu tình tại Sài Gòn, phản đối Mỹ - Diệm tàn sát nhân dân, công nhân và tiểu thương Sài Gòn hưởng ứng bằng hình thức bãi công, bãi thị,…. Phong trào “Chống vụ án 24/5/1962” có sự tham gia của 8.000 học sinh, đồng bào Tân An - Chợ Lớn, đòi công lý cho 4 sinh viên, giáo sư, quân nhân bị tuyên án tử hình sau khi ám sát đại sứ Mỹ. Phong trào Phật giáo năm 1963 lan rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân. Nhiều khoa trưởng, giáo sư đại học từ chức; sinh viên, học sinh bãi khóa, biểu tình…(1). Số lượng công nhân ở Sài Gòn - Gia Định không ngừng tăng (năm 1957 có khoảng 191.000 người, con số này đến năm 1961 là hơn 225.000 người); trong đó, tỉ lệ công nhân nữ không hề nhỏ (năm 1957, nữ chiếm tỉ lệ 17% tổng số công nhân; năm 1960, tỉ lệ này là 19%), tỉ lệ công nhân nữ trong các xí nghiệp dân dụng là 70% - 80%, trong các xí nghiệp dệt 1. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 55.
- 409 - là trên 90%, trong hãng thầu RMK-BRJ là 70%(1). Đây là điều kiện để đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị công khai của nữ công nhân Sài Gòn - Gia Định chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Từ năm 1954 đến năm 1968, phong trào đấu tranh của nữ công nhân Sài Gòn - Gia Định tập trung vào ba vấn đề: chống chiến tranh xâm lược, đòi quyền lợi kinh tế, đòi quyền dân chủ và tự do nghiệp đoàn. Năm 1965, Nghị quyết của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định nêu rõ sáu mục tiêu trước mắt, trong đó có mục tiêu “phát động công nhân lao động sẵn sàng làm nhiệm vụ tiền phong; mở rộng và nâng cao hơn nữa phong trào đấu tranh”(2). Nhiều cuộc đấu tranh chính trị của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1954 - 1975 tập hợp được phụ nữ ở nhiều giai tầng, ngành nghề khác nhau cùng tham gia. Tháng 7 năm 1954, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức phong trào Bảo vệ hòa bình; thành lập các ủy ban ở cơ sở, xí nghiệp, trường học, khu phố và ở cấp nào cũng có đại diện của phụ nữ. Các chị em tham gia phong trào bằng cách ký tên phản đối chính quyền Sài Gòn đàn áp phong trào, vi phạm hiệp định. Sau khi phong trào bị đàn áp, các cán bộ hội như chị Nguyễn Thị Lựu, chị Thái Thị Nhạn, chị Phạm Thị Yến,… thuyết phục người dân, thu thập được hàng vạn chữ ký gửi Ban Liên hiệp đình chiến và Ủy ban quốc tế đòi thả Giáo sư Phạm Huy Thông, Từ Bá Được, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Dưỡng. Tháng 4 năm 1955, quân đội Cộng hòa đánh phá căn cứ chính của bộ đội Bình Xuyên tại khu vực cầu Chữ Y khiến nhiều nhà 1. Cao Văn Lượng (1977), Công nhân miền Nam Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 28 - 29. 2. Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh (1993), Công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr. 341.
- 410 - dân ở địa phận này bị phá hủy. Trên 300.000 người, trong đó có đông đảo chị em phụ nữ thuộc giới trí thức, tiểu thương, học sinh - sinh viên, nghiệp đoàn ký giả, đã tham gia “Ngày lao động cứu trợ đồng bào”, diễn ra hơn 2 tháng để hỗ trợ nạn dân ổn định cuộc sống và giữ lại nền nhà, tránh không cho tư sản cướp đất xây phố. Chi hội Phụ nữ Bàn Cờ thành lập Ban Y tế, sử dụng trường Phan Đình Phùng để làm nơi chăm sóc sức khỏe cho người bị nạn, lưu trữ các vật phẩm cứu trợ. Tháng 7 năm 1955, cán bộ và chị em phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn cùng tham gia đình công, bãi thị, đòi chính quyền Ngô Đình Diệm mở hội nghị hiệp thương. Bắt đầu từ 1 giờ chiều cho đến 12 giờ đêm 10 tháng 7 năm 1955, người dân miền Nam không một ai ra đường, không mua bán, đi lại, làm ăn, chợ không họp, tiệm không mở cửa, xe cộ không chạy. Năm 1959, Hội Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Liên đoàn Kỹ nghệ và tiểu công nghệ Việt Nam tổ chức mít tinh tại rạp Long Phụng trên đường Gia Long (nay là đường Lý Tự Trọng), vận động nhân dân dùng hàng nội địa. Chị em đi mít tinh mặc áo dài trắng. Sau mít tinh, chị em đoàn văn nghệ chợ Bàn Cờ biểu diễn múa hát và diễn kịch. Năm 1961, phụ nữ Gia Định mít tinh chào mừng thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và tổ chức mặt trận ở địa phương. Cũng trong năm này, nhân dân Hóc Môn, Gò Vấp tổ chức mít tinh với ý nghĩa tương tự và ký tên phản đối chính quyền Sài Gòn mở rộng trung tâm huấn luyện quân sự Quang Trung. Sau năm 1968, Hội Phụ nữ Việt Nam cho ra đời các tờ báo như Hồn Việt, Nữ Lưu, Việt Nữ, để làm phương tiện đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp. Ngày 8 tháng 9 năm 1969, trên 300 hội viên Hội Phụ nữ, Liên đoàn Nữ phật tử và nhân dân đã tổ chức lễ truy điệu Bác Hồ tại chùa Khánh Hưng (nay là số 390/6 đường Cách Mạng Tháng Tám).
- 411 - Suốt thời gian từ sau khi ký kết Hiệp định Paris, các hoạt động đấu tranh của nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris diễn ra sôi nổi, với sự tham gia của các tầng lớp: trí thức, nhà báo, văn nghệ sĩ, thương gia, công nhân, nông dân, tiểu thương, cựu sĩ quan và binh lính chính quyền Sài Gòn,… Để đối phó với tình hình trên, chính quyền Sài Gòn ra Sắc luật 007 ngăn cấm tự do ngôn luận báo chí và nhân dân. Ngày 10 tháng 10 năm 1974, ngày “Ký giả ăn mày” diễn ra. Hàng trăm người xuống đường với trang phục rách rưới, đầu đội nón lá, tay mang bị cói hoặc chống gậy; di chuyển từ công trường Quách Thị Trang đến đại lộ Lê Lợi, quảng trường trụ sở Hạ nghị viện; mít tinh và đốt bảng trưng Luật 007. Luật sư Ngô Bá Thành và ni trưởng Huỳnh Liên cùng đông đảo chị em phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đã có mặt trong đoàn người biểu tình(1). Lực lượng phụ nữ đã chứng tỏ sức mạnh của mình qua các cuộc đấu tranh, giai đoạn này, gắn liền với đấu tranh phản đối các chính sách thuế, phí là lực lượng phụ nữ tiểu thương ở các chợ. Ngày Quốc tế lao động 1/5/1956, tại Sài Gòn, 500.000 người, trong đó có đông đảo chị em, đã tham gia cuộc biểu tình tuần hành với khẩu hiệu: “Thống nhất đất nước bằng phương pháp hòa bình! Nước Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!”. Ngày 29/7/1956, 160 đại biểu đại diện cho 30.000 chị em tiểu thương các chợ ở Sài Gòn - Chợ Lớn đã họp, cử phái đoàn đến Tòa Đô chánh gửi yêu sách, yêu cầu bình ổn giá sinh hoạt, giảm thuế, bỏ phạt vạ. 1. Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, Lưu Văn Quyết, Hà Kim Phương (2007), Lịch sử Sài Gòn thời kỳ 1945 - 1975, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr. 265.
- 412 - Ngày 1/5/1958, 350 đại biểu của 50 chợ thuộc Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định họp, lập yêu sách 14 điểm, đòi bãi bỏ trung gian bóc lột, bỏ thuế khoán bạn hàng rong, sửa chợ cũ, giải quyết nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống của công nhân và nông dân để tăng sức mua. Chị em tiểu thương đã tập trung trước sảnh Hội đồng đô thành, yêu cầu hội đồng từ chức vì đi ngược với ý nguyện của người dân. Ngày 15/1/1959, chị em tiểu thương của 50 chợ Sài Gòn đã họp, yêu cầu chính phủ Diệm phải bãi bỏ các quyết định về thuế khóa, phạt vạ, phản đối đạo dụ số 23(1)… Ngày 1/5/1959, hơn 200.000 công nhân và nhân dân Sài Gòn xuống đường biểu tình, tổ chức mít tinh với khẩu hiệu “Tăng lương tối thiểu 100%, cấm nhập cảng các mặt hàng trong nước sản xuất được, bỏ thuế 6% với hàng nội hóa, bảo đảm an ninh cho lao động, dân cày được yên ổn làm ăn, sớm thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”. Trong những cuộc đấu tranh này, các giai tầng lao động luôn nghĩ đến quyền lợi của nhau; tập hợp cùng nhau và đấu tranh cho người lao động nói chung, trong đó phụ nữ là tầng lớp ý thức rõ vai trò, tiếng nói của mình trong những vấn đề quyền lợi dân sinh, liên quan đến kinh tế của gia đình mình, của chợ búa nơi mình buôn bán mưu sinh hằng ngày. Ý nghĩa của các phong trào cho thấy lý tưởng của cách mạng phù hợp với số đông, và dần tập hợp, đoàn kết, thống nhất được đông đảo quần chúng dưới ngọn cờ tranh đấu. Tháng 9/1964, nữ công nhân hãng dệt Vinatexco và Vinatefinco đình công phản đối giới chủ. 1. Dụ số 23 của chính quyền Ngô Đình Diệm quy định: việc thành lập Nghiệp đoàn bắt buộc phải nộp điều lệ để chính quyền cứu xét và quyết định, nhưng Dụ này lại không định ra một giới hạn nào cả về thời gian cứu xét.
- 413 - Ngày 1/5/1966, hàng vạn nhân dân lao động cả nữ lẫn nam đã biểu tình trước sứ quán Mỹ, giăng biểu ngữ đòi dân sinh, dân chủ, hòa bình, chủ quyền, đòi Thiệu - Kỳ từ chức, đòi Mỹ rút quân, phản đối oanh tạc bừa bãi và rải chất độc hóa học. Cũng trong tháng 5/1966, chị em công nhân nhà máy dệt Nam Hòa bãi công. Hiệu ứng lan tỏa, ngày 16/5/1966, 50.000 công nhân thuộc 117 nghiệp đoàn ở Sài Gòn thuộc nhiều ngành nghề: dệt, xe buýt, cảng tàu, nhà máy xay gạo, hãng xăng dầu,… tổ chức bãi công ủng hộ chị em Nam Hòa. Ngày 22/12/1966, chị em khuân vác cảng Sài Gòn tham gia bãi công, nhiều khu vực ở thương cảng Quận 4 bị cắt điện, tàu Mỹ không rời cảng được. Ngày 25/6/1970, gần 100.000 công nhân, trong đó có cả các nữ công nhân, thuộc các sở hậu cần quân đội Mỹ như hãng thầu RMR, Usaid, Juspao,… đã tổ chức bãi công. Ngày 1/7/1970, 70.000 công nhân, cả nam lẫn nữ, thuộc 118 nghiệp đoàn ở Sài Gòn đã bãi công, phản đối chính quyền Sài Gòn giải thể công nhân xe buýt. Tháng 4/1971, 100.000 công nhân thuộc 21 nghiệp đoàn (như hãng Etsso, nhà in Kim Lai, nhà đèn Chợ Quán, nhà đèn Thủ Đức, xi măng Hà Tiên, hỏa xa Việt Nam,…) và 27 ngân hàng ở Sài Gòn tiến hành bãi công phản đối “Bảy biện pháp kinh tế mới” của chính quyền Thiệu - Kỳ. Từ ngày 7/10/1971, 650 nữ công nhân hãng pin Con Ó đã tổ chức bãi công 2 tháng, chống sa thải 17 nữ công nhân. Chính quyền Sài Gòn cho lính đàn áp, bắt 30 người; nhưng cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục suốt 2 tháng sau đó. Cuối cùng, chủ hãng đồng ý tăng lương 30% cho công nhân và nhận trở lại làm việc các công nhân bị sa thải.
- 414 - Năm 1973, 4000 chị em tiểu thương Sài Gòn đã bao vây giám đốc thuế vụ, đấu tranh chống thuế và chống thầu góp chợ. Hoạt động đấu tranh chính trị trong tù cũng diễn ra sôi nổi, với sự tham gia của các nữ tù chính trị. Từ năm 1954 đến năm 1975, riêng tại Sài Gòn, số lượng nhà tù, trại giam nhiều đến nỗi trở thành một ám ảnh tù ngục: 8 trại giam thẩm vấn cấp trung ương, 11 trại giam cấp quận, 144 trại giam cấp phường, 140 trại giam kiểm soát. Khám Chí Hòa (hiện thuộc Quận 10 - Thành phố Hồ Chí Minh) là địa chỉ tra tấn, giam cầm tù nhân chính trị tham gia phong trào cách mạng ở Sài Gòn - Gia Định nổi tiếng những năm 1954 - 1975. Đây là một công trình kiến trúc đặc biệt: chỉ có một cửa vào, gọi là “cửa tử” bởi không có sự hướng dẫn thì người qua cửa này có thể đi lạc, không tìm thấy đường ra; tường xây bịt bùng nên khó có khả năng vượt ngục. Trại giam có diện tích 7ha, gồm các dãy nhà 3 tầng lầu, 238 phòng; trong đó có 2 dãy dùng để giam giữ nữ tù. Qua lời kể của những người còn sống sót sau cuộc chiến, khám Chí Hòa thực sự là địa ngục trần gian. Những người nữ tù chịu đựng tra tấn, không khai báo thực sự là anh hùng. Câu chuyện về khám Chí Hòa và chị Lê Thị Riêng do nữ chiến sĩ Phùng Ngọc Anh kể lại là minh chứng cho thấy rằng ngục tù là một chiến trường quyết liệt thử thách lòng quả cảm của những người con cách mạng(1). Ngày 3/9/1969, chị em tù chính trị trong khám Chí Hòa được tin Bác mất, quyết định để tang Bác một tuần. Chị em dùng vải trắng do gia đình gửi vào để làm khăn tang, lập bàn thờ trước cửa phòng giam, mọi người nghe đọc điếu văn và 1. Xem Phụ lục số 14, Chuyện người nữ tù Lê Thị Riêng.
- 415 - tưởng niệm về Bác. Dù trong tay không có bất kỳ vũ khí nào, dù thân thể suy yếu tột cùng, nhưng nỗi mất mát, đau thương hóa thành tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của các chị em vẫn khiến cai ngục e ngại. Cũng trong năm 1969, chị em nữ tù ở khám Chí Hòa tổ chức đấu tranh chống đi tòa (ra tòa xét xử). Ngày 12/10/1969, chị Huỳnh Thị Đấu và chị Nguyễn Thị Xi bị đưa ra xử ở tòa án quân sự, bị đánh đập dã man. 10 giờ đêm, hai chị được trả về, đưa vào bệnh xá nhưng không được điều trị. Biết tin, chị em trong tù đã hô khẩu hiệu “Đả đảo tòa án phát xít đánh đập tù nhân đi tòa!”, “Ban Quản đốc phải bảo đảm sinh mạng tù nhân!”, đòi bác sĩ phải đến chứng thương và chữa trị cho hai chị. Đấu tranh từ 2 giờ chiều đến 12 giờ đêm hôm sau. Cuối cùng, hai chị đã được băng bó và điều trị. Sau đó, cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục diễn ra, không những đấu tranh không ra tòa mà chị em còn đấu tranh để cải thiện chế độ giam cầm, để được ra sân sinh hoạt và được gặp người thân thăm nuôi. Trại giam Thủ Đức dùng để giam các nữ tù nhân chính trị. Số lượng nữ tù ở trại giam này lên đến 4.000. Trong trại giam Thủ Đức, cai tù đã sử dụng nhiều biện pháp để gây tổn thương cả tinh thần lẫn thể chất của chị em tù chính trị. Phòng giam có diện tích nhỏ, giam giữ số lượng lớn nên vô cùng chật chội; chị em bị bỏ đói, bỏ khát, không được cấp thuốc hay chữa trị khi bị bệnh, bị tra tấn trước mặt người thân. Mỗi ngày, chị em bị bắt chào cờ Việt Nam Cộng hòa, buộc phải nói lời chống phá cách mạng. Nơi đây còn có các phòng biệt giam hoàn toàn không có ánh sáng. Chị em bị giam giữ ở đây không được ăn uống, tắm rửa. Tội ác của Mỹ - Thiệu đối với các tù nhân nữ ở trại giam Thủ Đức không thể nào xóa bỏ được: tháng 8/1969, chị Trần Thị Bình, 18 tuổi bị tra tấn,
- 416 - hãm hiếp đến chết. Ngày 21/8/1969, cai ngục đánh chết chị Nguyễn Thị Tần và chị Đặng Thị Rành trong ngục rồi phi tang xác. Nhiều chị em tù bị thương nặng, bị đưa đi biệt tích như chị Lý Quế Chi, chị Lâm Xuân Hảo, chị Trịnh Hồng Quân, chị Võ Thị Anh, chị Nguyễn Thị Châu, chị Trần Kim Cúc, chị Võ Thị Lan…; ngày 23/8/1969, chị Nguyễn Thị Xuân Lâu bị đánh đập đến chết; ngày 25/8/1969, cai ngục đàn áp, nhét vôi bột vào họng, làm bị thương 10 chị em ở phòng giam số 7. Trong cảnh địa ngục ấy, nhiều chị em vẫn kiên định lý tưởng, không ngừng đấu tranh. Các nữ tù chính trị ở trại giam Thủ Đức đã tổ chức lễ truy điệu cho các bạn tù đã hy sinh, hát quốc ca, tưởng niệm, đưa ra yêu sách. Cùng với sự đấu tranh của nhân dân, chính quyền Sài Gòn buộc phải nhượng bộ; chị em tù ở trại giam Thủ Đức giành được quyền đi lại trong trại, được sinh hoạt văn nghệ, học văn hóa, hội họp. “Địa ngục trần gian” nhà tù Côn Đảo, tuy không thuộc địa phận Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng vào giai đoạn 1954 - 1975, nhà tù này đã giam giữ không ít chị em phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn tham gia phong trào đấu tranh chống Mỹ. Từ tháng 3 đến tháng 5/1957, có khoảng 100 phụ nữ miền Nam bị đày ra Côn Đảo; ngày 7/7/1957, có thêm 250 chị em bị đưa ra giam giữ tại nơi này. Theo lời kể của những chị em tù Côn Đảo, xà lim nhốt chị em chỉ có diện tích 80cm chiều ngang, 20m chiều dài, chứa 41 người; cửa bịt kín; mỗi người chỉ được một lon sữa bò nước uống mỗi ngày; cơm ăn với khô mục hoặc mắm thối; không có nước tắm gội nên phải cắt tóc ngắn, mình đầy u nhọt. Tháng 11/1969, một bộ phận nữ tù chính trị chuyển từ trại giam Thủ Đức sang khám Chí Hòa, sau đó bị đưa đi Côn Đảo, nhốt vào chuồng cọp, 8 chị bị nhốt vào một phòng. Chuyến
- 417 - đi này có cả những đứa bé sinh ra trong tù bị bắt theo cùng với mẹ. Dù vô tội, những đứa trẻ này cũng phải chịu chung hoàn cảnh khắc nghiệt của chế độ ngục tù và lớn lên trong tù. Khi các nhà báo Mỹ và các tổ chức sinh viên, học sinh, phụ nữ ở Sài Gòn lên tiếng chống đối chế độ giam giữ tù nhân ở chuồng cọp của nhà tù Côn Đảo, chính quyền Mỹ - Thiệu buộc phải xóa bỏ hình thức giam giữ này. Ngày 20/7/1970, chị em được đưa về đất liền và tiếp tục bị giam cầm ở nhà lao Tân Hiệp (Biên Hòa). Chị Nguyễn Thị Tú - Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam lâm thời (1961 - 1965)(1) - là một trong những nữ tù bị đày ra Côn Đảo, nhất quyết không chịu thỏa hiệp, về sau được thả ra và tiếp tục hoạt động cách mạng. Chị hy sinh trong trận càn Junction City của Mỹ năm 1967. Chứng kiến cảnh người thân, đồng đội, đồng bào chịu khốn khổ trong cảnh lao tù, chị em phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đã tập hợp trong các tổ chức công khai, đấu tranh đòi thả tù chính trị, như: Hội Các bà mẹ tù nhân, Hội Những người bạn tù, Hội Liên lạc thân nhân tù, Ủy ban đòi cải thiện chế độ lao tù. Những người mẹ như chị Ngọc Sương - Ủy viên Trung ương phong trào dân tộc tự quyết và Ủy ban vận động hòa bình - bằng chính hoàn cảnh và những điều trông thấy, nói với mọi người về những điều phi lý, phi nhân của ngục tù: “Tôi đã đi thăm nuôi con gái tôi là Thuận, sinh viên Luật tại trại giam Tân Hiệp. Tại đó, tôi đã gặp những bà già đầu bạc răng long, những em bé 14, 15 tuổi, những học sinh, sinh viên, 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị Quốc gia, phụ lục “Phụ nữ Nam Bộ đấu tranh chống Mỹ - ngụy 1954 - 1975” từ trang 480.
- 418 - những chị em trí thức, nông dân, công nhân lao động. Từ khi cái tin ngừng bắn loan ra trong nhà tù, chị em nơm nớp chờ đợi ngày hòa bình. Nhưng đã gần 2 năm trôi qua, họ nào thấy cái gì thay đổi cho số phận hẩm hiu của họ đâu? Cửa ngục vẫn đóng kín bịt bùng, bốn bức tường cao vẫn giam hãm họ ngăn cách với thế giới. Và dù cho những người đang sống “tự do” bên ngoài các trại, trong một cái chế độ gọi là “dân chủ pháp trị”, “thượng tôn pháp luật”, nếu không có một vài điều đặc miễn, không ở vào một trường hợp ưu đãi, cũng cứ bị lọt vào cái lưới của Hội đồng an ninh quốc gia đã được dành cho quyền bắt bớ mà không cần xét xử. Một ví dụ điển hình nhất là trường hợp bà Ngô Bá Thành, Chủ tịch sáng lập Phong trào Phụ nữ Việt Nam đòi quyền sống, có chân trong các tổ chức đòi hòa bình trong nước cũng như trên quốc tế”(1). Ngày 7/10/1974, các mẹ, các chị đã cùng tham gia vào cuộc biểu tình ở ngã tư Phú Nhuận, đòi thả tù chính trị với các khẩu hiệu: Thả tự do tức khắc cho tù nhân chính trị; bắt giam tu sĩ không chịu đi lính là phi nhân;… Nhà tù đế quốc đã trở thành mặt trận đấu tranh cách mạng, nơi tập hợp lực lượng, xây dựng tổ chức và đào tạo con người về cả văn hóa, tư tưởng, ý chí, lòng kiên trung với cách mạng. Một mặt, cuộc đấu tranh trong tù thể hiện ý chí bất khuất của những người phụ nữ chân yếu tay mềm nhưng quyết dấn thân đi làm cách mạng. Mặt khác, cuộc sống tù đày khắc nghiệt và cuộc đấu tranh trong tù trở thành vũ khí tố cáo, trở thành điểm quy tụ lực lượng, tổ chức những cuộc đấu tranh bên ngoài nhà tù. Dụng ý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức hệ thống nhà tù, ngục tối, biến tù đày thành nỗi ám ảnh, khiếp hãi, làm nhụt ý chí đấu tranh đã thất bại; 1. Theo thống kê trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ.
- 419 - bởi càng thêm nhiều nhà tù, càng đàn áp khắc nghiệt, ngọn lửa đấu tranh càng bùng lên dữ dội. b. Đấu tranh vũ trang Phong trào đấu tranh vũ trang của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định giai đoạn 1954 - 1975 đã tạo nên nhiều chiến công vẻ vang. Hình ảnh người phụ nữ cầm súng thể hiện phần nào sự tàn khốc của chiến tranh, đồng thời xây dựng quan điểm khác về phẩm chất người phụ nữ: dịu dàng, mềm dẻo và cũng có thể bản lĩnh, kiên cường trước hoàn cảnh thử thách. “Đội quân tóc dài” là tên gọi dành cho lực lượng nữ chiến sĩ tham gia đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến vì sự thống nhất của dân tộc; khẳng định vai trò xã hội của phụ nữ ở thời điểm lịch sử quan trọng. Khi cuộc chiến tranh chống Mỹ diễn ra, quan điểm của người Việt Nam vẫn xem trọng vị trí “nội tướng” của phụ nữ. Vì vậy, bước chân xông pha chiến trường của các nữ chiến sĩ Sài Gòn - Gia Định phần nào cho thấy tính chất ác liệt của cuộc chiến. Qua đó, phụ nữ Việt Nam càng chứng minh được năng lực và tinh thần bất khuất. Cùng với anh em bạn hữu, cùng với chồng con, vai sánh vai, họ bước vào cuộc chiến chống Mỹ - cuộc chiến luôn luôn có bóng dáng mềm mại mà can trường bất khuất của phụ nữ miền Nam Việt Nam. Trong nội thành Sài Gòn, nữ đặc công, nữ giao liên đã phối hợp tác chiến, thực hiện nhiều cuộc tấn công vào lực lượng, cơ quan của chính quyền Sài Gòn và lính Mỹ. Đặc biệt, các nữ chiến sĩ đã cho thấy sức mạnh vũ trang đáng kể khi góp phần chiếm cứ những điểm quan trọng trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và cuộc tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
- 420 - Hầu hết địa chỉ các cuộc tấn công trong nội thành Sài Gòn của phong trào đấu tranh vũ trang do các nữ chiến sĩ thực hiện vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Từ năm 1954 đến năm 1959, theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam nói chung, của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định nói riêng tập trung vào đấu tranh chính trị. Tuy nhiên, Mỹ - Diệm ngày càng đàn áp đẫm máu các phong trào đấu tranh của quần chúng, cơ sở cách mạng ở Nam Bộ cũng bị tàn phá nghiêm trọng. Năm 1960, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng đưa ra phương châm đấu tranh mới: đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, dùng lực lượng vũ trang để đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng để khôi phục tổ chức quần chúng, để bảo vệ cơ sở Đảng, để yểm trợ cho đấu tranh chính trị của nhân dân. Khi nói đến cuộc chiến tranh chống Mỹ tại miền Nam, đặc biệt tại Sài Gòn, truyền thông trong nước và quốc tế lúc bấy giờ và về sau vẫn nhắc đến biệt động Sài Gòn - “đội quân không quân phục” tinh nhuệ, dũng cảm và lập được nhiều chiến công xuất sắc khi tấn công vũ trang trực diện vào các cơ quan, địa điểm trọng yếu của chính quyền Sài Gòn và quân lính Mỹ tại Sài Gòn. Trong câu chuyện do các chiến sĩ biệt động Sài Gòn kể lại, có thể thấy thấp thoáng bóng dáng của những gương mặt nữ. Họ không trực tiếp gài bom, cho nổ hay bắn thẳng vào mục tiêu; nhưng nhờ họ vận chuyển, cất giấu vũ khí, trinh sát, đưa tin, phối hợp cải trang, hậu thuẫn, các trận đánh của biệt động Sài Gòn mới đạt mức độ xuất quỷ nhập thần, thêm phần thành công chắc chắn. Chị Trần Thị Minh Nguyệt là nữ chiến sĩ đã sát cánh cùng những chiến sĩ biệt động Sài Gòn khác như Bảy Bê, Năm Bắc, Tư Việt,… tham gia cuộc tấn công khách sạn Caravelle năm
- 421 - 1964, làm hư hại 43 phòng khách sạn với vai trò cải trang thành nhân tình của đại tá cố vấn, phân tán sự chú ý cảnh giác của địch để Bảy Bê thuận lợi vào khách sạn cài thuốc nổ. Chị cũng là người hỗ trợ cho Bảy Bê rút lui sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Vụ cho nổ cư xá Brink vào ngày 21/12/1964, phá hủy cư xá năm lầu một trệt, làm chết và bị thương 137 sĩ quan Mỹ với vai trò hỗ trợ đón đồng đội rút lui sau khi hoàn thành nhiệm vụ; tấn công đại sứ quán Mỹ trên đường Hàm Nghi vào ngày 30/3/1965, phá hủy tòa đại sứ 3 tầng lầu, làm chết và bị thương 195 quan chức Mỹ, chư hầu và nhân viên đại sứ quán với vai trò chuyển vũ khí từ cơ sở ngoại thành vào thành phố và hỗ trợ đón đồng đội rút lui sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài ra, còn một số gương mặt nữ khác cũng góp sức vào sự thành công của các trận đánh lớn do biệt động Sài Gòn thực hiện: hai nữ giao liên Nguyễn Thị Hoài và Kiều Nương vận chuyển vũ khí từ Thuận An xuống, vượt sông Sài Gòn đến bến đò Long Kiểng, Quận 4 để chuẩn bị cho trận đánh nhà hàng Mỹ Cảnh vào ngày 23/6/1965; chị Chín Nghĩa (Võ Thị Chín hay Vũ Minh Nghĩa) - nữ chiến sĩ giao liên Đội 5, được mệnh danh là “chiến sĩ tên lửa” - cải trang để xe hỏa lực thuận lợi nhận vũ khí từ vùng ngoại thành vào nội thành, tiến hành đánh Tổng nha Cảnh sát vào ngày 16/8/1965, giúp vận chuyển vũ khí và đưa tin trong trận đánh khách sạn Victoria vào ngày 31/3/1966 (trong chiến dịch Mậu Thân 1968, chị là nữ chiến sĩ duy nhất trong đội gồm 15 chiến sĩ được giao nhiệm vụ đánh vào Dinh Độc Lập(1)); nữ chiến sĩ Thanh Tùng đã dùng lựu đạn tự tạo diệt một quan chức chính quyền Sài Gòn ở Hưng Long, vận chuyển 16 lượt vũ khí và hàng trăm kilôgam thuốc nổ phục vụ các trận đánh của biệt 1. Gặp gỡ những nhân chứng lịch sử, báo Văn hóa, Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch. Website: http://www.baovanhoa.com.vn.
- 422 - động Sài Gòn. Đặc biệt, các đội biệt động thành của cánh Hoa vận có sự tham gia của các nữ biệt động. Tháng 8/1969, bảy nữ biệt động dưới sự chỉ đạo của chị Giang Lệ Hữu (tức Mỹ Hoa) đã đánh tập kích trường sinh ngữ không quân của quân đội Mỹ tại đường Đồng Khánh, Quận 5 khiến 200 sĩ quan không quân và 30 cố vấn Mỹ chết và bị thương. Một dấu ấn khó phai trong phong trào đấu tranh vũ trang nhân dân chống Mỹ của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định là phong trào đồng khởi. Ngày 23/1/1960, Củ Chi đồng khởi. Dân quân tự vệ xóm Cây Bài, ấp Vĩnh Cư, xã Phước Vĩnh An tổ chức một đám cưới đi qua bốt đóng của binh lính chính quyền Sài Gòn; cô dâu, chú rể cùng những người rước đám bỗng nhảy xuống xe, xông vào tấn công bốt. Các chị em phụ nữ cùng nhân dân phá bốt, cướp vũ khí. Ngày 23/2/1960, nhân dân Củ Chi xuống đường với khẩu hiệu “Diệt ác, phá kềm, rạc tề, giải phóng nông thôn”. Chị em các xã Phước Vĩnh An, Tân Phú Trung, Tân An Hội, Phú Mỹ Hưng, An Nhơn Tây, Phú Hòa Đông,… cùng với quần chúng lao động xông vào các trụ sở chính quyền Mỹ - Diệm ở địa phương chiếm cứ, giành quyền làm chủ, trừng trị ác ôn. Ở các huyện khác của Gia Định như Tân Mỹ (Hóc Môn ngày nay), An Phú (Gò Vấp), Long Bình (Thủ Đức), Đồng Hòa (Nhà Bè),… cũng nổi dậy nhanh chóng; tiếng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la vang lên khắp nơi; binh sĩ đóng chốt tại đây bị uy hiếp, Sài Gòn bỗng chốc bị bao vây bởi hỗn loạn. Đáng ghi nhận trong các cuộc đấu tranh vũ trang dưới hình thức đồng khởi này là lực lượng nhân dân, trong đó có phụ nữ, tham gia đông đảo; hình thức tổ chức độc đáo, sáng tạo; cách đánh bất ngờ, nhanh chóng, hiệu quả. Cuối tháng 9/1960, các vùng nông thôn Gia Định lại tiếp tục đồng khởi thêm một đợt. Tại Củ Chi, Bình Tân,
- 423 - Tân Bình, Nhà Bè, các mẹ, các chị cùng với du kích, tự vệ và người dân địa phương chặn đánh lính đi tuần, phục kích, đốt đồn bốt,… khiến chính quyền Sài Gòn chịu nhiều thiệt hại. Ngày 4/4/1961, Huyện ủy Củ Chi chỉ đạo đấu tranh chống ác ôn. Chị Hai Bằng dẫn dắt 2.000 chị em các xã An Nhơn Tây, Nhuận Đức, Phú Mỹ Hưng, Phú Hòa Đông tuần hành đến nhà làng xã Phú Hòa Đông, nơi tập trung bọn tề ngụy của 4 xã, đấu tranh chống tên ác ôn biệt danh “Đội Chó”. 5 thanh niên trong đoàn bị bắt. Chị em đưa lực lượng dự bị lên tiếp tục đấu tranh, buộc địch phải băng bó cho những người bị thương, thả 5 người bị bắt. Tháng 6/1961, 13.000 phụ nữ huyện Củ Chi chia làm 5 mũi, mũi chính diện ở Tân An Hội và Phước Hiệp, đi đấu tranh với khẩu hiệu đòi chấm dứt khủng bố, đòi bồi thường nhân mạng. Địch cho quân đàn áp, đoàn người tạm dạt đi nhưng rồi được tăng cường thêm từ lực lượng tiếp viện 2.000 người ở phía sau, lại tiến lên. Cuối tháng 7/1961, địch trả đũa bằng đợt càn quét vào xã An Nhơn Tây và Phú Mỹ Hưng, sát hại 23 người, bắt một số người khác. Huyện ủy đề ra mục tiêu cho cuộc đấu tranh: phát động căm thù trong nhân dân và răn đe kẻ thù. Chi bộ phân công chị Năm Lệ - chị họ của anh Đực Nhỏ là 1 trong 23 người bị sát hại - vận động bà con khiêng quan tài đi đòi trừng trị kẻ giết người. Chị Năm Lệ cũng là chủ tang, dẫn các gia đình có người thiệt mạng và 1.000 bà con tới quận. Dọc đường đi, quần chúng nhập vào ngày càng đông, khi đến dinh quận đã có 10.000 người. Trước khí thế của đoàn, tên quận Bình phải hứa thực hiện yêu sách(1). Hình thức “đấu tranh khiêng xác” cũng được chị em huyện Thủ Đức sử dụng để đấu tranh 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 83 - 84.
- 424 - chống mở sân tập bắn số 8, tránh thương vong cho đồng bào, mà em Lê Văn Lý là một nạn nhân đã chết vì đạn lạc(1). Năm 1968, các nữ chiến sĩ nằm trong lực lượng vũ trang khắp các quận nội thành và vùng ven Sài Gòn - Gia Định đã cùng tham gia vào cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Đội nữ du kích Củ Chi đã tham gia đánh bốt Mỹ Khánh, Trung đội trưởng Võ Thị Mô (tức Bảy Mô) được giao nhiệm vụ Chỉ huy phó. Đội hình chiến đấu đã vượt qua 8 hàng rào kẽm gai, chiếm được lô cốt, diệt 30 lính chính quyền Sài Gòn, phá hủy nhiều công sự và trung tâm phóng thanh. Đội nữ tự vệ Bình Tiên - Minh Phụng đã phối hợp với bộ đội diệt 1 xe tăng. Ba đội nữ tự vệ ở khu vực Trường Đua (Quận 2) do các chị Giang Lê Hữu, Đinh Nữ, Trần Thị Trinh phụ trách đã chiến đấu dũng cảm. Bên cạnh đó, các nữ biệt động cũng đứng trong hàng ngũ chiến đấu; cùng sát cánh với đồng đội trong thực hiện nhiệm vụ tấn công 9 mục tiêu đầu não của chính quyền Sài Gòn: chị Vũ Minh Nghĩa, chị Nguyễn Thị Hảo tham gia trận đánh vào dinh Độc Lập; chị Trần Thị Út, chị Thảo tham gia tấn công vào Đài Phát thanh; chị Đặng Thị Hai, chị Hai Minh, chị Đoàn Thị Nhỏ tham gia đánh vào Bộ Tư lệnh Hải quân; chị Đặng Thị Huệ (Hai Phê) tham gia tấn công Sứ quán Mỹ; các chị Nguyễn Thị Mỹ, Phạm Thị Mỹ, Trần Thị Bi, Bùi Thị Lý, Phan Thị Thúy cùng tham gia trận đánh vào Bộ Tổng Tham mưu; chị Nga tấn công Đài Truyền hình. Trong đợt 2 của cuộc Tổng tiến công, chị Lê Thị Sang được phân công trực liên lạc ở Sở Chỉ huy; chị Hồ Thị Ba, Nguyễn Thị Chi giữ cơ 1. Đỗ Duy Liên, Trần Ngọc Dung, Phan Thị Thanh, Trần Thị Lan (5/2014), Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1975) (Sơ thảo), tr. 27.
- 425 - sở cho chỉ huy sở dự bị. Trong những nữ biệt động, chị Phạm Thị Mỹ đã để lại ấn tượng sâu sắc về tinh thần chiến đấu cho đồng đội, đồng bào. Chị tham gia đội hình 27 chiến sĩ tấn công Bộ Tổng Tham mưu của chính quyền Sài Gòn vào sáng mồng 2 Tết. Suốt 12 tiếng đồng hồ, hai bên vẫn ở thế giằng co, nhiều dãy nhà của Bộ Tổng Tham mưu bị đổ nát. Khi đạn dược của quân cách mạng sắp cạn, chị đã dũng cảm vượt qua trận địa đạn pháo, băng ra xe đạn bên ngoài để chuyển các thùng đạn và chất nổ vào bên trong trận địa để anh em có thể tiếp tục trận đánh. Riêng chị đã phá hủy được 2 khẩu đại liên và diệt nhiều lính Mỹ trực chiến trên sân thượng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tấn công Bộ Tổng Tham mưu, chị tiếp tục hành trình bảy ngày đêm bám trụ cùng đồng đội, đánh chiếm Quận 5 và Quận 6. Trải qua những trận đạn pháo ác liệt của năm 1968, gương mặt của cô gái 18 tuổi bị bom xăng gây bỏng, làm biến dạng. Đối với phụ nữ, đó là nỗi đau không hề nhỏ. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, chị được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Sau chiến dịch Mậu Thân, phong trào vũ trang nội thành với sự tham gia của các nữ chiến sĩ vẫn tiếp tục diễn ra, có ảnh hưởng quan trọng đến thế cục của cuộc chiến. Lúc này, các nữ biệt động Sài Gòn vẫn tham gia chiến đấu hiệu quả, tấn công trực tiếp và tiêu hao không ít sinh lực của đối phương ở các địa điểm đầu não, quan trọng tại Sài Gòn. Có thể điểm qua một số tấm gương nữ biệt động và những chiến tích của họ. Đó là chị Trần Thị Mai với ba trận đánh oanh liệt: Năm 1970, chị ngụy trang 4kg thuốc nổ, tấn công rạp Đại Nam trên đường Trần Hưng Đạo, khiến 70 lính Mỹ
- 426 - chết và bị thương; ngày 7/2/1970, chị Mai tiếp tục dùng lựu đạn tấn công trực tiếp trụ sở chính quyền ở đường Cô Bắc, khiến 12 quan chức và binh lính chính quyền Mỹ - Thiệu chết; ngày 17/3/1970, chị dùng 3kg thuốc nổ tấn công khách sạn nằm cạnh rạp Eden trên đường Nguyễn Huệ, tiêu diệt không ít lính Mỹ. Chị Đoàn Thị Ánh Tuyết, thuộc đội N13, đã nhận nhiệm vụ tham gia tấn công một số địa điểm trọng yếu: tháng 1/1970, chị đưa 2kg thuốc nổ vào tòa hành chính Quận 3, cho nổ và làm hư hại hầu hết hồ sơ quan trọng tại đây, diệt 15 quan chức và binh lính chính quyền Sài Gòn; tháng 2/1970, chị vượt qua lính canh, đột nhập thành công Trung tâm Báo chí Quốc gia, đặt mìn, làm sập tầng trên tòa nhà, diệt 10 phóng viên của trung tâm này. Chị Nguyễn Thị Thu Trang với thành tích diệt 15 lính Mỹ và sĩ quan chính quyền Sài Gòn, tham gia 8 trận đánh lớn của biệt động Sài Gòn, nổi bật là: nhận nhiệm vụ cài mìn, cho nổ khách sạn Mỹ Phụng trên đường Bạch Đằng, diệt 40 lính Mỹ vào ngày 8/4/1971; đặt mìn tại Nha Cảnh sát Sài Gòn, diệt 11 sĩ quan vào ngày 18/8/1971; xâm nhập khách sạn Tự Do, diệt 90 lính Mỹ vào ngày 15/9/1971. Tháng 6/1971, phong trào đốt xe Mỹ bắt đầu diễn ra, cao điểm là từ tháng 10 đến tháng 12. Lực lượng tham gia gần phân nửa là nữ, do chị Võ Thị Bạch Tuyết làm chỉ huy. Sau 3 tháng, 138 xe Mỹ đã bị đốt ngay trong nội thành Sài Gòn - số liệu này là từ thống kê của chính quyền Sài Gòn khi bắt giam chị Bạch Tuyết. Các cư xá sĩ quan Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo, khách sạn Kỳ Sơn, tòa hành chính Gia Định, khách sạn Tự Do, nhà hàng Mỹ Phụng trở thành mục tiêu tấn công của các nữ chiến sĩ Sài thành. Không ít sinh lực địch bị tiêu hao, và quan trọng hơn, những cuộc tấn công liên tục này thể hiện
- 427 - ý chí chiến đấu kiên cường của nhân dân đồng thời khiến tinh thần của lính Mỹ thêm hoang mang. Lực lượng biệt động thành đã lập nhiều chiến công vang dội, gây ra nỗi ám ảnh sợ hãi đối với quân địch ngay khi chúng đang ở giữa đô thành. Từ năm 1970 đến năm 1975, các nữ biệt động thành, cánh Hoa vận, đã cùng đồng đội của mình lập nhiều chiến công oanh liệt: đánh sập một phần trụ sở phường Bình Tây, Quận 6 vào tháng 4/1970; đánh sập toàn bộ trụ sở Tổng nha Thuế vụ vào tháng 7/1972; đánh sập Chi cục Cảnh sát Cầu Kho vào tháng 8/1974; tấn công Ty Thuế vụ Quận 5 vào tháng 9/1974; đánh vào Chi cục Cảnh sát Quận 10 vào tháng 11/1974. Lực lượng vũ trang được xây dựng và phát triển từ quần chúng tập hợp trong các căn cứ kháng chiến, trong đó có cả các nữ chiến sĩ cũng tham gia vào hoạt động đấu tranh vũ trang chống Mỹ của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn này. Các đội quân du kích nữ được thành lập, góp sức vào các trận đánh lớn nhỏ của lực lượng vũ trang địa phương; chống càn quét, gom dân. Tiêu biểu cho hoạt động du kích ở Sài Gòn - Gia Định là thành tích của Trung đội nữ du kích Củ Chi. Theo bà Lê Thị Sương (tức Năm Sương), cựu du kích Củ Chi, cho biết: đội nữ du kích Củ Chi được thành lập vào ngày 10/11/1965, do chị Nguyễn Thị Nê (tức Bảy Nê) - nữ đảng viên, Xã đội phó xã Phú Hòa Đông - là Đội trưởng, chị Trần Thị Nhở (tức Út Nhở) - nữ đảng viên, Xã đội phó xã Nhuận Đức là chính trị viên. Lúc đầu đội chỉ có 3 nữ du kích. Trong thư báo cáo với Bác Hồ vào năm 1967, chị Nguyễn Thị Nê đã kể về sự trưởng thành của đội nữ du kích Củ Chi như sau: “Từ ngày thành lập đến nay, toàn đội đã đánh trên 100 trận, diệt trên 400 tên Mỹ,
- 428 - phá hủy 70 xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi 15 máy bay, ai cũng diệt được ít nhất ba tên Mỹ và đạt danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ”(1). c. Đấu tranh ngoại giao Trên mặt trận ngoại giao, Hội Phụ nữ tiến hành hoạt động đấu tranh chính trị. Trên phương diện này, lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam đã phát huy được vai trò hạt nhân, nòng cốt của mình, điển hình như: bà Nguyễn Thị Định - Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam, Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam; bà Nguyễn Thị Lựu - Phó Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Á - Phi; bà Phạm Thị Yên, bà Lê Thị Thủy, bà Mã Thị Chu, bà Lê Thị Chi, bà Lê Thị Cao, bà Trần Thị Hạnh,… Hội đã gia nhập Liên đoàn Phụ nữ dân chủ quốc tế; mời các đoàn khách quốc tế đến thăm vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam; cử đại biểu tham dự các hội nghị và thăm hữu nghị ở nước ngoài. Thông qua các câu chuyện do các chị em kể lại, qua tranh ảnh, qua tài liệu,… nhân dân các nước trên thế giới nhìn thấy được những góc khuất, những đau thương, mất mát của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến. Năm 1963, Burchett - nhà báo người Úc, sau khi có chuyến thăm vùng giải phóng ở miền Nam; gặp gỡ các nữ chiến sĩ du kích ở Củ Chi; phỏng vấn hàng trăm tù chính trị bị giam giữ ở khắp các nhà tù miền Nam, trong đó có không ít phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, đã viết những phóng sự đăng trên các tờ báo nước ngoài: “Tôi không tin rằng trong lịch sử có một dân tộc nào khác phải chịu đựng những nhục hình trên một quy mô rộng lớn bằng nhân dân Việt Nam trong mấy năm gần đây. Tôi 1. Thư báo công chị Nguyễn Thị Nê gửi Bác năm 1967. Nguồn: Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 313.
- 429 - tin rằng những phương pháp và quy mô tra tấn hiện nay ở Nam Việt Nam vượt qua cả những nhục hình của thời trung cổ, dù cho chỉ là cộng thêm vào những kiểu dùng kìm nung đỏ, cưa đứt tay chân của thời trung cổ”. Những phản ánh về cuộc chiến từ giới quan sát như các nhà báo quốc tế đã giúp thế giới nhìn nhận chiến trường miền Nam đầy đủ, khách quan hơn. Năm 1965, chị Nguyễn Thị Ngọc Dung - Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam - đã làm việc với Ủy ban bảo vệ hòa bình Áo tại Vienna. Cũng trong năm 1965, đoàn phụ nữ Việt Nam (miền Bắc và miền Nam) tổ chức gặp mặt với phụ nữ Mỹ tại Jakarta, Indonesia. Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam; trong đó xác định các nhiệm vụ và công tác cụ thể. Bên cạnh quân sự, chính trị, binh vận, Bộ Chính trị coi trọng hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao. Chỉ đạo của Bộ Chính trị là: “Trên mặt trận ngoại giao, cần có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công địch trong lúc chúng đang lúng túng, bị động, phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta”(1). Theo đó, đội ngũ cán bộ phụ nữ trong các tổ chức, tầng lớp đã đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới. Năm 1967, đoàn đại biểu phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam thăm Tiệp Khắc. Năm 1968, đoàn đại biểu phụ nữ Việt Nam sang thăm Pakistan và được Hội Phụ nữ Dân chủ Pakistan chào đón nồng nhiệt và thể hiện sự cảm kích: “Là 1. Nhiều tác giả (2015), Tuổi trẻ Sài Gòn - Mậu Thân 1968, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 20.
- 430 - một tổ chức phụ nữ, chúng tôi đặc biệt tự hào về những thành tựu vẻ vang của các chị em phụ nữ Việt Nam” (lời bà Tahira Mazhar - Tổng Thư ký Hội Phụ nữ Dân chủ Pakistan). Năm 1973, đoàn đại diện cho phụ nữ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tham gia Hội nghị cấp cao lần thứ tư Phong trào các nước không liên kết; thuyết phục được ban tổ chức ghi vào văn kiện hội nghị một nội dung vô cùng quan trọng: “Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam”. Cuối năm 1968, bà Nguyễn Thị Bình - Ủy viên Trung ương Mặt trận Giải phóng, Phó Tổng thư ký Hội Phụ nữ Giải phóng - làm Trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận Giải phóng, tham dự Hội nghị Paris về Việt Nam. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập (vào ngày 6 tháng 6 năm 1969), bà giữ chức vụ Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ lâm thời. Từ đó đến năm 1972, trong bàn đàm phán của hội nghị bốn bên tại Paris, “Madame Bình” luôn giữ vững lập trường. Đến năm 1973, Hiệp định Paris đạt thành; bà là người đại diện Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký tên vào bản hiệp định. Ở Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, chị Vũ Thị Dung là gương mặt nữ nổi bật. Chị giỏi ngoại ngữ, được cử vào Ủy ban Liên lạc hải ngoại của Tổng hội. Chị vừa liên lạc với các tổ chức nước ngoài, vừa làm thông dịch viên chính thức khi có các phái đoàn quốc tế đến thăm và làm việc với Tổng hội. Chị đã đóng góp công sức rất lớn vào thành công của Đại hội sinh viên thế giới chưa từng có tiền lệ tại Sài Gòn vào ngày 11/7/1970. Sáng sớm ngày 10/7/1970, biết đại biểu quốc tế gồm các Chủ
- 431 - tịch Tổng hội Sinh viên Mỹ, Úc, New Zealand, Hà Lan và các linh mục đại diện phái đoàn Liên tôn thế giới đang ở khách sạn Continental, chị Vũ Thị Dung báo tin về Tổng hội. Rất nhanh sau đó, chị Nguyễn Thị Yến - Thủ quỹ - và các thành viên cốt cán khác của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (Huỳnh Tấn Mẫm - Chủ tịch, Nguyễn Hoàng Trúc - Phó Chủ tịch, Phan Công Trinh,…) đến khách sạn họp bàn với phái đoàn bạn về chương trình làm việc. Hai bên thống nhất sẽ tổ chức hội thảo chủ đề “Sinh viên thế giới và hòa bình Việt Nam”, mở Đại hội Sinh viên thế giới kỳ I, tuần hành đến tòa đại sứ Mỹ để trao tuyên bố chung của đại hội. Chị Vũ Thị Dung chịu trách nhiệm cùng đại diện phái đoàn bạn soạn thảo Tuyên bố chung này bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Chị Nguyễn Thị Yến và anh Huỳnh Tấn Mẫm xin Thượng tọa Thích Thiện Hoa, trụ trì chùa Ấn Quang, cho mượn hội trường của chùa để tổ chức hội thảo, và mời Thượng tọa làm chủ trì. Hội thảo diễn ra ngay đêm hôm ấy. Dù thông tin về sự kiện chỉ được phổ biến giới hạn trong các nhóm nòng cốt, hội thảo đã diễn ra sôi nổi, nội dung chính là phản đối chiến tranh, đòi hòa bình, đả đảo Tổng thống Mỹ Nixon, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức… Cụ bà Diệu Nhàn, đại diện cho các Bà mẹ Việt Nam, lúc ấy đã ngoài 80 tuổi, lên diễn đàn phát biểu đòi Mỹ rút quân khỏi miền Nam. Sáng 11/7/1970, Đại hội Sinh viên thế giới kỳ I chính thức diễn ra tại Đại học Nông Lâm Súc. Chị Vũ Thị Dung đã đọc Tuyên bố chung của Đại hội. Toàn thể đại biểu hô vang khẩu hiệu đòi hòa bình rồi chia theo hai hướng. Một nhóm đi về phía ngã tư Cường Để - Thống Nhất (nay là đường Đinh Tiên Hoàng và Lê Duẩn), dẫn đầu là hai sinh viên Úc và New Zealand khiêng chiếc hòm đỏ, tượng trưng cho quan tài của người Việt thương vong do chiến tranh, có
- 432 - ghi: “Căm hờn lại giục căm hờn/ Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu”. Vừa đi, đoàn vừa dùng sơn trắng viết khẩu hiệu. Chủ tịch sinh viên Mỹ và Việt Nam cầm bản Tuyên bố chung dự định sẽ trao đến Đại sứ Mỹ. Nhóm thứ hai tiến sang ngã tư Cường Để - Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai). Cả hai nhóm chưa đến được điểm dừng theo kế hoạch thì bị cảnh sát tập kích, trấn áp bằng lựu đạn cay, lựu đạn gây ói, lựu đạn lửa và vòi rồng nước bẩn. Chủ tịch sinh viên Mỹ và Việt Nam cùng nhiều bạn bè ngất xỉu, được đưa vào trường Dược và cư xá Nông Lâm Súc trú tạm. Cảnh sát tiếp tục truy quét vào hai trường. Ngay chiều hôm đó, toàn bộ phái đoàn bạn bị trục xuất về nước. Mặc dù mọi hoạt động chỉ diễn ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ, cuộc gặp gỡ giữa Tổng hội Sinh viên Sài Gòn và phái đoàn sinh viên quốc tế vào tháng 7/1970 đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn bè tham dự. Sau Đại hội sinh viên thế giới có một không hai này, các đại diện quốc tế đã có những phản hồi rất mạnh mẽ. Ngay trong tháng 7/1970, Tổng hội Sinh viên Mỹ và Tổng hội Sinh viên Úc gửi thư đến Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, thể hiện lập trường chống chiến tranh, khẳng định đứng về phía người Việt yêu nước đang đấu tranh đòi hòa bình. Cuối tháng 11/1970, Tổng hội Sinh viên Mỹ cử Charles Douglas Hostetter làm đặc phái viên, bí mật đến Sài Gòn, chuyển bản Hiệp ước hòa bình do Tổng hội Sinh viên Mỹ soạn thảo. Sau khi có được chữ ký của các Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Tổng hội Vạn Hạnh, Tổng đoàn Học sinh, Douglas Hostetter lại vào vùng giải phóng rồi ra Hà Nội. Bản Hiệp ước có thêm chữ ký của chị Nguyễn Thị Châu - Chủ tịch Hội Sinh viên Giải phóng, và anh Bồ Văn Hiền - Chủ tịch Hội Sinh viên
- 433 - Việt Nam. Tháng 8/1971, phái đoàn sinh viên Mỹ lại bí mật đến Sài Gòn, ký với Tổng hội Sinh viên Sài Gòn Tuyên cáo chung về chấm dứt chiến tranh; đồng thời cùng ra Tuyên cáo về vụ án sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm và 21 sinh viên, học sinh khác, trong đó tố cáo quá trình điều tra bằng tra tấn, đòi hủy bỏ kết quả xét xử, đòi phục hồi danh dự cho các sinh viên, học sinh bị bắt… Trong những diễn tiến đó, chị Vũ Thị Dung đã làm tốt vai trò cầu nối của mình, duy trì thông tin liên tục, chính xác giữa hai bên, tăng cường sức chiến đấu cho tổ chức Tổng hội. Năm 1971, Ủy ban Phụ nữ đòi quyền sống đã ký hiệp ước với đoàn đại biểu phụ nữ đấu tranh cho hòa bình và tự do (WTLPF). Nhiều nhà báo nữ tiến bộ trên thế giới thuộc tổ chức này đã đến thăm vùng giải phóng, trò chuyện cùng chị em, tìm hiểu quá trình đấu tranh của nhân dân miền Nam và lên tiếng ủng hộ cách mạng như: chị Madeleine Riffaud (Pháp), chị Monica Vacnenxca (Ba Lan), chị Macta Hecnangde (Cuba),… Ngày 5 tháng 1 năm 1971, Đại hội phụ nữ quốc tế được tổ chức tại trụ sở tạm thời của Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, với sự tham gia của đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ quốc tế đấu tranh cho hòa bình và tự do (gồm đại diện phụ nữ của 5 nước Mỹ, Pháp, Canada, Tân Tây Lan, Úc) và 17 đoàn thể phụ nữ ở Sài Gòn. Tại đây, phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mỹ ký bản giao ước duy trì quan hệ bang giao hòa bình; các đại diện yêu cầu Tổng thống Mỹ công bố lịch trình rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và chấm dứt viện trợ cho chiến tranh tại Việt Nam; đại hội kêu gọi phụ nữ toàn thế giới đoàn kết, ủng hộ phụ nữ Việt Nam đấu tranh vì quyền dân tộc tự quyết.
- 434 - Kết quả của hoạt động đấu tranh ngoại giao của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định có thể nhận thấy rõ nét qua phong trào phản chiến trên thế giới và sự ủng hộ dành cho cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ từ các nước trên thế giới như: Tiệp Khắc: ủng hộ số tiền 2.617.500 cuaron cho Việt Nam, tổ chức hội nghị lên án cuộc chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, đăng bài viết về phụ nữ Việt Nam chống Mỹ trên báo phụ nữ Tiệp Khắc; Rumani: gửi 2.000 bức thư và điện tín ủng hộ Việt Nam, gửi tặng phẩm trị giá 2.000.000 lei (tiền Rumani); Nhật Bản: tổ chức phong trào quyên góp “200 triệu Yen ủng hộ Việt Nam”, ủng hộ 10.870.000 yên và 11.389 USD cho Việt Nam, thành lập Ủy ban phụ nữ Nhật vì chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam; Pháp: gửi tặng 2.000 áo len, tổ chức phong trào “100 triệu franc ủng hộ Việt Nam”, trao tặng 25.065.000 franc và các tặng phẩm khác cho nhân dân Việt Nam; Canada: ủng hộ 20.500 USD và 700 đô la Canada; Tây Đức: ủng hộ 165.000 mac và tặng phẩm cho nhân dân Việt Nam; Đông Đức: ủng hộ 647.000 mac và tặng phẩm cho nhân dân Việt Nam, 500.000 người hiến máu cho Việt Nam; Ý: sinh viên biểu tình đòi trả tự do cho tù chính trị nữ và trẻ em ở miền Nam Việt Nam vào năm 1969;… d. Xây dựng căn cứ, hoạt động binh vận Trên mặt trận binh vận, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đóng góp tâm sức ở hai khía cạnh chính: xây dựng căn cứ cách mạng và vận động thuyết phục binh lính thuộc quân đội Sài Gòn buông súng đầu hàng, trở về với cách mạng. Trong những năm chống Mỹ, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định đã góp phần xây dựng các căn cứ kháng chiến ở nội thành và vùng ven. Các căn cứ kháng chiến này có sự đóng góp rất lớn của chị em phụ nữ. Trong cuộc đấu tranh chung, căn cứ giữ
- 435 - vai trò quan trọng đối với mặt trận chính trị, quân sự và binh vận; thể hiện được tinh thần toàn dân đánh giặc; phát huy được phương thức tổ chức tác chiến của cách mạng. Căn cứ kháng chiến ở Sài Gòn - Gia Định do chị em phụ nữ xây dựng có tính chất là căn cứ địa phương, nghĩa là hậu phương tại chỗ, có quan hệ trực tiếp với địa phương, phục vụ nhu cầu tác chiến tại địa phương đồng thời hỗ trợ tác chiến cho chiến trường. Đối với các căn cứ kháng chiến ở nội thành, sự nhạy bén và can trường của chị em phụ nữ thể hiện ở việc ngụy trang và giữ bí mật cho căn cứ. Đối với các căn cứ kháng chiến ở ngoại thành, công sức của chị em phụ nữ được nhìn nhận ở việc biến khó khăn của địa hình thành ưu thế cho phòng ngự và tấn công trong tác chiến. Có thể kể đến một số căn cứ kháng chiến nổi bật như sau: Địa đạo Phú Thọ Hòa (hiện nay ở cạnh đường Địa Đạo, phường Phú Thọ Hòa, quận Tân Phú) là địa đạo được hình thành từ những năm kháng chiến chống Pháp; đến những năm chống Mỹ, địa đạo vẫn tiếp tục được sử dụng làm nơi ém quân, trú quân để xuất kích đánh địch, che giấu cán bộ. Địa đạo Phú Thọ Hòa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử vào ngày 28 tháng 6 năm 1996. Địa đạo có chiều dài khoảng 600m, nối từ ấp Lộc Hòa đến ấp Bình Long; nắp hầm bằng gỗ, trên đắp đất trồng cỏ; lỗ thông hơi có hình hoa loa kèn dưới rộng trên nhỏ; miệng hầm dẫn xuống địa đạo được đặt trong các bụi rậm; địa đạo có những đoạn hai tầng chồng lên nhau; đường dẫn đến hầm ngầm được ngụy trang thành đường cụt, dưới đường cụt là địa đạo và hầm ngầm; địa đạo có ba hầm ngầm, mỗi hầm có thể chứa 5 đến 7 người. Trong những năm chống Mỹ, địa đạo từng nhiều lần trở thành mục tiêu tấn công của địch.
- 436 - Địa đạo Củ Chi được hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp những năm 1947 - 1948. Sau đó, hệ thống địa đạo được tiếp tục mở rộng trong thời kỳ chống Mỹ; gồm địa đạo ở Tân Phú Trung, địa đạo ở Phú Mỹ Hòa và địa đạo Bến Đình. Từ năm 1961, những đường hầm đã được hình thành trong lòng đất xã Phú Mỹ Hòa. Năm 1962, căn cứ Phú Hiệp được khởi công xây dựng, các hầm ngầm và địa đạo được tiếp tục phát triển. Từ chiều dài được tính bằng mét, địa đạo được mở rộng hơn 200km. Từ cấu trúc đơn giản là đường hầm, địa đạo dần trở thành căn cứ vững chắc trong lòng đất với hệ thống hầm ngầm, giao thông hào, ụ chiến đấu, hầm chông, bãi mìn và cấu trúc hai tầng độc đáo. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, địa đạo Bến Đình trở thành căn cứ của Huyện ủy Củ Chi, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định và Trung ương Cục. Mỹ đã huy động lực lượng, mở nhiều cuộc càn quét quy mô lớn ở địa đạo Củ Chi: trận càn Crimp vào tháng 1/1966 với 3.000 quân lính cùng xe tăng, pháo binh, máy bay; trận càn Cedar Falls vào tháng 1/1967 với hơn 12.000 quân lính với máy bay B52, bom xăng; trận càn vào tháng 3/1967 dùng máy bay B52 rải bom. Nhờ hệ thống địa đạo, quân dân Củ Chi đã lập được nhiều chiến công bằng cách đánh du kích: bao vây bức rút đồn ngụy ở An Nhơn Tây năm 1964; diệt 400 lính, thu 270 súng trong trận chống càn của Mỹ vào ngày 9/5/1965; đánh bại Sư đoàn “Anh cả đỏ” của Mỹ trong trận chống càn tháng 1/1966; diệt 300 lính thuộc Lữ đoàn 199 của Mỹ và bắn rơi 20 máy bay trong trận đánh ngày 26/1/1966; bắn cháy 21 xe tăng thiết giáp, diệt 117 lính Mỹ tại ấp Gò Đình vào tháng 6/1967; tập kích Lữ đoàn 2 và Sư đoàn 25 của Mỹ vào Xuân Mậu Thân 1968; đánh tan cuộc càn quét của Trung đoàn 46 Sư đoàn 25 của Mỹ vào tháng 11/1968; đẩy lui
- 437 - trận càn quét của địch năm 1973 ở Trung Lập Hạ; đẩy lui trận càn quét của địch vào Bến Đình của Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 50 vào năm 1974; giết và làm bị thương 47 lính, bắt sống 347 lính, thu giữ 579 súng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Dù có chịu tổn thất và hư hại nhưng địa đạo vẫn vững vàng tồn tại, trở thành căn cứ địa quan trọng của quân dân miền Nam cho đến ngày thống nhất đất nước. Lực lượng thường xuyên của địa đạo là các chị, các má lo việc củng cố địa đạo, chăm lo cho thương bệnh binh, duy trì nguồn lương thực thực phẩm, thuốc men cho lực lượng vũ trang. Củ Chi được mệnh danh là “Đất thép”, một phần lớn nhờ vào lực lượng giữ vững địa đạo, giữ vững căn cứ cho lực lượng vũ trang. Căn cứ Rừng Sác (thời chống Mỹ thuộc tỉnh Biên Hòa, hiện thuộc huyện Cần Giờ) được hình thành từ thời kháng chiến chống Pháp, sau Cách mạng tháng Tám. Các lực lượng vũ trang, các tổ chức quan trọng đã trụ ở Rừng Sác trong giai đoạn này. Đặc biệt, biệt động Rừng Sác đã đánh bại không ít quân địch, chặn đường vận chuyển lương thực và vũ khí của địch ở khu vực này. Chính vì vậy, trong những năm 1954 - 1975, Mỹ và chính quyền Sài Gòn xác định Rừng Sác là vị trí quan trọng, tập trung lực lượng mạnh và đông. Phía cách mạng cũng xác định Rừng Sác là căn cứ quan trọng, thành lập ở đây Đoàn 10 Đặc công Rừng Sác, biến nơi đây thành đặc khu quân sự với quân số hơn 600 người, 3 cơ quan, 6 đơn vị cấp đại đội, có đặc công thủy, đội súng cối 82mm, DKZ57, trinh sát, vận chuyển hàng chiến lược. Căn cứ Hố Bần vốn là căn cứ cách mạng từ thời kháng chiến chống Pháp, giặc đã nhiều lần càn quét nhưng không phá được. Với vị trí là khu căn cứ kháng chiến ở vùng ven
- 438 - Tây Nam thành phố, căn cứ Hố Bần đã có những đóng góp không nhỏ vào hai cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trong kháng chiến chống Mỹ, căn cứ Hố Bần được sử dụng vào khoảng năm 1960, lúc này khu căn cứ không chỉ là nơi xuất phát của lực lượng vũ trang Quận 6 trong tiến công vào các đồn bốt của địch ngay tại địa bàn Quận 6, mà Hố Bần còn cùng với Phong Đước, rạch Bà Tàng, khu Cầu Sập, vàm Nước Lên, rạch Lồng Đèn… tạo thành vùng căn cứ các quận vùng ven (Quận 6, Quận 7, Quận 8), đóng vai trò bàn đạp phía Nam và Tây Nam thành phố để lực lượng vũ trang của ta thọc sâu vào nội đô, thể hiện rõ nhất trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng thành phố Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4/1975. Ở nội thành, vùng Bốn - Bàn Cờ (thuộc Quận 3 ngày nay) là nơi đặt nhiều cơ sở cách mạng. Bên cạnh Quận 1, đây là khu vực quan trọng vì tập trung nhiều cơ quan quân sự, hành chính của chính quyền Sài Gòn (13 cơ quan quân sự, 18 đại sứ quán và lãnh sự quán, 7 bộ và cơ quan trung ương của chính quyền Sài Gòn); có không ít địa điểm hoạt động tôn giáo. Đặc biệt, nơi đây còn tồn tại nhiều xóm lao động nghèo - chính là điều kiện để cách mạng dựa vào, xây dựng cơ sở trong lòng chính quyền Sài Gòn. Tại đây, nhiều gia đình đã trở thành địa điểm nuôi giấu an toàn, cứu chữa kịp thời cho các chiến sĩ cách mạng như gia đình bà Nguyễn Thị Tốt, gia đình bà Trần Thị Chúc,… Những xóm lao động như Tân Định, Phú Nhuận, Thạnh Mỹ Tây, An Đông,… là nơi đặt cơ sở chỉ huy khởi nghĩa và che chở cho lực lượng cách mạng bám trụ nội thành trong các trận đánh lớn.
- 439 - Cùng với đó, các mẹ, các chị ở địa phương là lực lượng chủ yếu tham gia đấu tranh chính trị chống lại chính quyền Sài Gòn với tinh thần dũng cảm, đấu sức không lại thì đấu trí. Má Năm ở xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi là một tấm gương đấu tranh tiêu biểu, chống lại chính sách tố cộng của Mỹ - Diệm. Má không chịu dời nhà vào ấp chiến lược; không chịu đốt tiền Cụ Hồ, lồng khung kính tờ tiền treo trong gian giữa nhà. Khi đồn trưởng đập vỡ khung kính, má xô ngã đồn trưởng. Má bị bắt, bị đánh, nhà má bị đốt. Dù vậy, má vẫn một lòng trung thành với cách mạng. Chị Hai Muôn, chị Diệu ở đường Hậu Giang, Quận 6 sẵn sàng cho mượn nhà để tổ chức các lớp học chữ Quốc ngữ của Hội Truyền bá Quốc ngữ vào năm 1954. Chống đôn quân, phụ nữ ở Bà Hom, Bình Triệu xô ra bao vây, kéo bám xe GMC không cho địch chở thanh niên đi; chị em tập hợp thành nhóm vài chục người đến đơn vị địch hoặc đến tận Bộ Tổng Tham mưu đưa đơn đòi chồng con giải ngũ; phụ nữ ở An Nhơn Tây, Cần Giuộc đâm xuồng cặp hai bên hông tàu kêu khóc không cho bắt lính. Che giấu cán bộ, má Phạm Thị Quới ở ấp Gò Nổi, xã An Nhơn Tây, lấy cháo heo trộn tro rải khắp nhà, lấy chiếu đắp lên mình đồng chí Trọng Tuyển - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, hô hoán nhà có người chết vì dịch tả, lính tráng nghe vậy sợ hãi bỏ về hết; má Hai Mai ở xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, tự tay châm lửa đốt từng cây rơm mà địch cho là giấu nắp hầm bí mật, thấy lửa cháy phừng phừng, địch bỏ đi, riêng cây rơm cuối cùng chưa bị đốt là nơi đồng chí Mười Tú đang trú nấp(1). 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 46 - 47.
- 440 - Ngoài ra, phụ nữ còn tham gia thực hiện nhiệm vụ tình báo, giao liên. Nhờ chị em, tài liệu và tin tức được truyền đạt từ Trung ương Cục đến các cơ sở trong nội thành, từ nội thành đến các tỉnh lân cận. Chị Hồ Thị Bời (tức Tư A) là cán bộ tình báo xuất sắc, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Trong hơn 20 năm chống Mỹ, chị đã thực hiện hơn 600 chuyến liên lạc bí mật, an toàn. Sau năm 1968, khi nhiều cơ sở bị lộ, chị đã nỗ lực và xây dựng được 22 cơ sở cách mạng, thu nhận và cung cấp nhiều thông tin tình báo quan trọng trong nội thành Sài Gòn. Chị Lê Thị Sáu cũng là một cán bộ tình báo, giao liên tiêu biểu trong nội thành Sài Gòn thời chống Mỹ. Chị vừa gánh cháo bán ở khắp ngõ hẻm Sài Gòn để kiếm tiền nuôi gia đình chồng và sáu đứa con; vừa đảm nhận nhiệm vụ giao liên, nghe ngóng tin tức cho cách mạng. Các căn cứ kháng chiến nằm ngay trong lòng chính quyền Sài Gòn hay nằm ở vùng đệm ven Sài thành cũng phần nào mang tính chất của hậu phương. Sài Gòn - Gia Định những năm 1954 - 1975 mang dáng dấp một nửa chiến trường, không hoàn toàn là nơi giao tranh súng đạn giữa hai bên tham chiến, nhưng cũng không hoàn toàn là vùng không có chiến sự. Nơi này vẫn là đô thành có nền kinh tế phát triển bậc nhất của miền Nam Việt Nam, với vùng ven là khu vực nông nghiệp. Vì vậy, chị em phụ nữ cùng với năng lực sản xuất, bán buôn có điều kiện để đóng góp vật lực, cung cấp cho tiền tuyến. Lương thực, thực phẩm, thuốc men, may cờ, chuyển truyền đơn - tất cả đều có bàn tay của các mẹ, các chị chăm nom. Khu vực Nhà Bè liền kề căn cứ Rừng Sác, là hậu phương quan trọng. Nhiều gia đình ở Nhà Bè trở thành cơ sở bí mật của cách mạng, tiếp tế lương thực, che giấu cán
- 441 - bộ, như gia đình bà Lê Thị Tâm ở Phú Mỹ. Từ năm 1961, má Hồng Hương ở Quận 6 đã vận động chị em tham gia Ban Phụ nữ Cứu quốc, quyên góp tiền cho các cán bộ, chiến sĩ hoạt động trên địa bàn quận; mỗi tháng, số tiền quyên góp được khoảng 1.800 đến 2.100 đồng. Ngôi nhà của má cũng là địa điểm in ấn tài liệu, nơi đặt văn phòng Quận ủy trong nhiều năm. Một trong những căn cứ kháng chiến nằm ngay trung tâm Sài Gòn, trợ giúp lớn cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là khu dân cư Bàn Cờ, Quận 3 - những “lõm chính trị” ở ngay trong lòng giặc. Chị Nguyễn Thị Thiên Bình (Ba Bình) kể lại, khi cùng chị Đỗ Ngọc Trinh và anh Đào Văn Đức nhận nhiệm vụ phát truyền đơn ở khu vực Bàn Cờ, chị đã ở qua đêm ngay trong ngôi nhà của một nữ quân nhân quân đội Sài Gòn. Một trong những cơ sở ở Bàn Cờ, nay trở thành di tích lịch sử ở Thành phố Hồ Chí Minh, là căn nhà số 51/10/14 Cao Thắng, Quận 3, nơi ở của mẹ Trần Thị Ngọc Sương - một trong những “người mẹ Bàn Cờ” từng che giấu cán bộ, cất giữ vũ khí, lưu trữ tài liệu, may quần áo, may cờ,… cho cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ. Căn nhà này cũng là nơi liên lạc của Chi bộ đảng Ban Phụ vận nội thành. Trong phong trào đấu tranh của Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam, Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, khu nhà xung quanh địa chỉ trên được thiết lập đường dây liên hoàn với nhau, trở thành “Địa chỉ đỏ Cao Thắng”. Mẹ Ngọc Sương dùng vỏ bọc là nhân viên gửi bưu phẩm của bưu điện và bán bánh phồng tôm để vận chuyển tài liệu, vũ khí, truyền đơn,… Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, trước một tháng, mỗi ngày mẹ đào một lon đất, để cuối cùng tạo thành một hầm rộng khoảng 1m3 để cất giữ súng, băng rôn, cờ hiệu,… Mẹ
- 442 - từng nhiều lần bị cảnh sát bắt, tra hỏi; từng bị giam giữ suốt một năm trời, để lại bốn đứa con thơ phải tự lo đùm bọc chăm sóc nhau, với sự trợ giúp của xóm giềng và tổ chức. Nguyễn Thị Anh Thư - con gái lớn của mẹ Sương - khi bắt đầu có nhận thức, đã tham gia vào phong trào học sinh, sinh viên chống chính quyền Sài Gòn. Tháng 4/1975, khi 19 tuổi, chị đã bị bắt khi cảnh sát phát hiện cờ, con dấu và tài liệu của Đoàn Công tác xã hội sinh viên học sinh Sài Gòn - Gia Định trên giá sách trong nhà chị. “Không chỉ khu lõm hẻm 51/10 Cao Thắng, Bàn Cờ, chuyên nuôi giấu cán bộ, chuyển thư từ, tài liệu, báo chí đi khắp nơi, vùng Bàn Cờ còn nhiều khu lõm khác như: khu nhà đối diện dãy 51/10 Cao Thắng của cánh trí vận; khu 115 Cao Thắng là cánh Thành đoàn của chị Tư Liêm; khu đường Nguyễn Đình Chiểu của cánh ông Lai quân sự, có nhà chứa cả kho vũ khí”(1)… Cùng với khoảng 200 bà mẹ Bàn Cờ khác, căn cứ kháng chiến ngay trong nội thành đã được xây dựng và hoạt động bí mật mà địch không hề hay biết dù chúng đã nhiều lần vây ráp. Phụ nữ Sài Gòn làm tốt việc xây dựng cơ sở, cất giấu vũ khí, tài liệu quan trọng trong nội thành; đóng góp quan trọng cho cuộc nổi dậy Mậu Thân 1968. Có hàng trăm “địa chỉ đỏ” là kho vũ khí đặt trong nhà của các chị em ở các quận nội thành lẫn vùng ven. Từ năm 1965, chị Nguyễn Thị Hảo đã tự tay đào hầm, đổ đất nền, tráng xi măng cho căn nhà trong hẻm 346 đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng Tám) để bảo quản vũ khí, phục vụ các trận đánh của chiến sĩ cách mạng. Đây cũng là kho vũ khí lớn, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong căn nhà 1. Hoài Nam,“Vùng lõm chính trị Bàn Cờ”, báo Sài Gòn giải phóng online, ngày 25/7/2015, nguồn: https://www.sggp.org.vn/vung-lom-chinh-tri-ban-co-273269.html.
- 443 - nhỏ của vợ chồng chị Nguyễn Thị Út (tức Năm Mộc) ở Cầu Bông và ở số 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã xây một căn hầm bí mật giữa nhà để làm kho vũ khí, phục vụ cho trận đánh Đài Phát thanh Sài Gòn đêm 30 Tết Mậu Thân. Nhà chị Huỳnh Thị Lai trên đường Phạm Đình Hổ cũng trở thành điểm giấu vũ khí tập trung, từ đó vận chuyển đi các nơi khác. Theo chỉ đạo của Ban Chỉ huy quân sự Thành đoàn, từ năm 1965, chị Nguyễn Thị Tư (tức má Sáu Hòa) và dì Út Khê được phân công vận chuyển vũ khí vào thành phố để chuẩn bị cho các cuộc tiến công Mậu Thân. Ban đầu, dì Út Khê chọn ngôi nhà số 231 Bạch Đằng, gần nhà thờ An Lạc làm nơi ở và nơi cất giữ vũ khí. Má Sáu Hòa và dì Út Khê đi buôn dừa từ Bến Tre lên thành phố, mỗi chuyến vận chuyển 500 trái dừa, ruột dừa là chất nổ TNT. Sau này, dì Út dời nhà về khu Chợ Lớn; mở tiệm tạp hóa, bán than, gạo, mắm, muối, trái cây,… Với những khách lấy sỉ, mỗi bao than có 5 khẩu AK, mỗi bao gạo có 10kg thuốc nổ, các giỏ cóc ổi thì lẫn lộn lựu đạn. Tiếp đó, má Sáu và dì Út Khê còn nhận nấu đám cưới, dưới mỗi thùng đồ đựng chén dĩa ly tách là lựu đạn, súng lục, súng K54. Khi số vũ khí nhiều lên, má Sáu Hòa xây dựng kho vũ khí mới ở căn nhà trên đường Minh Phụng, gần cầu Cây Gõ, Quận 6. Dì Năm và cô Sáu Dung đóng giả là hai mẹ con, làm nghề buôn bán trái cây, ở lại ngôi nhà này để nhận và chất vũ khí vào căn hầm dưới sàn nhà. Ngoài ra, má Sáu Hòa còn lập các kho cất giữ vũ khí khác ở Sài Gòn như kho vũ khí ở nhà số 330 Cao Đạt, Quận 5 do sư cô Nguyễn Thị Nhạn và chị Hai Thương đóng giả mẹ chồng và nàng dâu quản lý; kho vũ khí ở số 452/122 bis đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2). Má Sáu Hòa cùng với chị Nguyễn Thị Nam (tức Chín Trung) cũng đóng giả hai mẹ con, thuê nhà ở Tân Định, thỉnh thoảng lái
- 444 - xe Honda chở nhau về thăm bà con ở Cần Giuộc, rồi chở súng ngắn, lựu đạn, đạn về nội thành. Với ranh giới mong manh giữa chiến trường và hậu phương, cùng sự tiếp xúc thường xuyên với binh lính Mỹ và chính quyền Sài Gòn, công tác binh vận được các mẹ, các chị thực hiện hiệu quả. Những năm 1960 - 1968, chị Phan Thị Nu ở Phú Lâm (thuộc Quận 6 ngày nay) đã kết nối, thuyết phục được nhiều binh sĩ của quân đội Sài Gòn như: Trương Văn Nghĩa, Bảy Tràm ở kho đạn lục quân, công xưởng Gò Vấp; Tư Bá, Năm Bi, Hai Thanh là những thợ mộc, khám Chí Hòa;… giải ngũ và hỗ trợ cho chiến sĩ biệt động tiến hành các trận đánh. Chị cũng vận động được Hai Giao - Khóm trưởng phường Phú Lâm - không gây khó dễ, không dọa nạt đối với những gia đình có người thân thoát ly. Chị đã thuyết phục tổng cộng 100 thanh niên trốn lính ra căn cứ hoặc giả làm người tu hành trong chùa. Năm 1962, nhân dân Củ Chi, trong đó có các mẹ, các chị, đã tiến hành “tản cư ngược” đến Hóc Môn; tiếp cận và tìm cách vận động để binh lính chính quyền Sài Gòn thấy rằng Mỹ - Diệm đã càn quét xóm làng, thả bom, bắn pháo, đốt nhà, giết người,… khiến dân chúng chịu cảnh màn trời, chiếu đất; khuyên anh em binh sĩ ra lính, trở về với nhân dân. Từ năm 1963 đến năm 1969, chị em phụ nữ ở Quận 6 đã chủ động thực hiện công tác binh vận, giúp cách mạng nắm được tình hình và hành động an toàn, hiệu quả hơn. Chị Nguyễn Thị Chánh vận động binh sĩ và vợ giới chức chính quyền Sài Gòn (như Nguyễn Văn Bu - binh sĩ ở xã Tân Quý
- 445 - Tây, Nguyễn Văn Be - cảnh sát bốt Cầu Tre, Nguyễn Hằng - Thiếu tá hậu cần, Lại Văn Bon - binh sĩ xã Tân Tạo,…) lấy được thông tin về hoạt động của công an chìm, cảnh sát mật, các tuyến đường an toàn,… phục vụ công tác giao liên, chuyển vũ khí trong nội thành. Chị Ngô Thị Tùng (Hai Đồng Hương) vận động được Đại úy Xuân - phụ trách vùng Phú Lâm - để binh sĩ không lùng sục, làm khó dễ bà con trong vùng. Chị Lê Thị Huệ (Chín Trang) làm quen với gia đình cảnh sát Trần Lợi, nắm được thông tin về bọn chỉ điểm do thám và mật vụ trong vùng. Chị Ca Thị On thuyết phục được Tăng Văn Chiểu - Tiểu đội trưởng, Khóm 3, phường Phú Lâm, sau đó đã nhờ hỗ trợ đánh trụ sở phòng vệ dân sự, làm hư 10 khẩu súng vào ngày 1 tháng 5 năm 1967. Tổ phụ nữ gồm chị Tư Nguyên, Chín Xích, Tư Nu,… ở cư xá Phú Lâm A động viên thanh niên trốn lính. Chị Nguyễn Thị Bạch thuyết phục ông Hai - Trưởng khóm ở khu vực Cây Da Sà - cung cấp tin tức cho cách mạng, để con trai trốn quân dịch, vận động lính phòng vệ dân sự tại chỗ không tham gia lùng sục khu xóm để bắt lính. Chị Nguyễn Ngọc Vân vận động thành công gia đình binh sĩ, sĩ quan ở khu vực phường Bình Tiên trở thành cơ sở cách mạng trong nội thành như gia đình ông Trịnh Tống Chương - Thiếu tá truyền tin, nhà ở hẻm 145 Hậu Giang, gia đình ông Trịnh Tống Lan, gia đình bà Nguyễn Thị Hởi - Khóm phó, nhà ở khu Xóm Giếng. Chị Lê Thị Huê thuyết phục được Nguyễn Văn Tư - cảnh sát đô thành - cung cấp các thông tin về thủ đoạn của quan chức địa phương để cảnh giác; vận động được mật vụ Ba Xuất ở bến Lê Quang Sung chỉ điểm những mật vụ chìm vùng Lò Gốm, thánh thất Cao Đài, đường An Dương Vương, đường Lê Quang Sung; động viên
- 446 - Lý Y Hương - Trung úy quân nhu - ủng hộ 74 bao gạo nuôi quân(1)… Ngoài việc thuyết phục binh sĩ, sĩ quan, quan chức của chính quyền Sài Gòn bỏ ngũ, cung cấp thông tin cho cách mạng, công tác binh vận của chị em phụ nữ Sài Gòn - Gia Định còn hướng đến mục tiêu vận động thanh niên trốn lính. Không chỉ bằng lời nói, các mẹ, các chị sẵn sàng che giấu thanh niên trốn lính trong nhà của mình hoặc góp tiền dựng chùa để thanh niên trốn lính giả làm sư sãi; ví dụ như: nhà bà Võ Thị Kim Ty ở số 893 Hậu Giang, nhà bà Nguyễn Thị Lợi ở số 993/6 Lò Gốm, nhà bà Nguyễn Thị Hai ở số 135/109 Hùng Vương,… Tính riêng trong năm 1964, thành tích binh vận của phụ nữ miền Nam, trong đó có phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, thật đáng tự hào: 388.445 chị em đã trực tiếp tham gia công tác binh vận, kêu gọi được 42.870 binh sĩ rã ngũ, 31.335 binh sĩ thay đổi quan điểm và chuyển sang ủng hộ cách mạng, 24.546 gia đình binh sĩ lên tiếng đòi chồng con trở về, thu 358 súng các loại, và chiếm được 18 đồn bốt. đ. Đấu tranh trên mặt trận văn hóa - văn nghệ Trên mặt trận văn hóa - văn nghệ, phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975 ghi lại dấu ấn sâu sắc ở ba lĩnh vực: báo chí, sân khấu và ca nhạc. Trong cuộc đấu tranh của báo chí vì quyền nghề nghiệp, quyền tự do ngôn luận công dân và vì nền độc lập dân tộc, phụ nữ tiếp tục thể hiện mình là thành phần không thể thiếu. 1. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (2000), Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quận 6 (1930 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 232.
- 447 - Họ là những người mẹ, người vợ của các ký giả, những mạnh thường quân, hoặc có thể là người trực tiếp cầm bút, hoặc có thể là người thuộc tầng lớp xã hội khác, đã ủng hộ cuộc đấu tranh bằng nhiều cách khác nhau. Khi tờ Điện tín bị đình bản liên tục, phải phát hành “chui” bằng cách chuyền báo qua nóc tòa soạn ra ngoài mà bán, tài chính kiệt quệ đến mức không thể chi lương cho anh em ký giả, chính bà Nguyễn Thị Quỳnh Nga - vợ của chủ bút Lí Quí Chung - đã nghĩ ra cách “trả chậm”: ai khó khăn thì nhận trước, ai còn cầm cự được thì chờ thêm nửa tháng(1). Sau khi tự đình bản do bị phóng hỏa khủng bố trong đêm, tháng 2/1972, tờ báo phát hành trở lại và có sự góp mặt của nữ dân biểu Kiều Mộng Thu với vai trò là đại diện cho tiếng nói đối lập với chính quyền. Trong sự kiện “Ký giả ăn mày”, ngày 10/10/1974, đoàn sư nữ đã cùng đông đảo học sinh, sinh viên, nghệ sĩ theo sau 400 nhà báo biểu tình đòi tự do báo chí, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức(2). Ngày 8/3/1975, bà Ngọc Thu - vợ ký giả Trần Kim Uẩn, mẹ ký giả Phương Thảo - dẫn đầu các gia đình ký giả bị chính quyền bắt trước đó 1 tháng, kéo đến Tòa Đô chính đòi chồng con. Tòa Đô chính phải cử đại diện cam kết giải quyết kiến nghị của đoàn(3). Không đợi đến khi tình hình văn hóa - xã hội dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa có nhiều xáo trộn, ngay từ sau Hiệp định Genève, lực lượng cách mạng đã bố trí một bộ phận 1. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Sđd, tr. 200. 2. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước (1954 - 1975)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 73. 3. Nguyễn Công Khanh, “Đấu tranh của giới báo chí Sài Gòn, thời kỳ sau Hiệp định Paris 1973”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc - Kỷ yếu truyền thống Ban Trí vận - Mặt trận Sài Gòn - Gia Định, giai đoạn 1954 - 1975, tập I, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 139.
- 448 - chuyên trách về vận động trí thức, trong đó có lực lượng ký giả hoạt động tại các tòa báo, các học sinh - sinh viên và giáo chức. Ban Trí vận Sài Gòn - Gia Định được giữ nguyên lực lượng, tất cả các thành viên ở lại miền Nam chứ không tập kết ra Bắc. Năm 1956, Ban Trí vận Sài Gòn - Gia Định chính thức hình thành. Chính tại tổ chức này, ưu thế của phụ nữ được phát huy khi họ nắm giữ vị trí “đầu tàu”: dược sĩ Phạm Thị Yên(1) làm Trưởng ban, nhà giáo Bùi Thị Nga phụ trách phong trào(2). Ở ban chỉ huy cấp Thành, đồng chí Nguyễn Thị Thanh - một gương mặt nữ khác - cũng chịu trách nhiệm Trưởng Ban Dân vận Thành ủy. Mặc dù bị tổn thất nặng nề sau cuộc vây ráp năm 1959, Ban Trí vận Sài Gòn - Gia Định đã gây dựng lại tổ chức, tiếp tục nắm phong trào trong khối trí thức, học sinh - sinh viên, văn nghệ sĩ, ký giả Sài Gòn, với những nữ cán bộ năng nổ: Trần Thị Mỹ (Mười Lê), Nguyễn Thị Thanh Quyên (chị Mười Hai), Phan Ngọc Dung (Tám Liên), Nguyễn Thị Thanh Vân (bà Tư già), Đặng Thị Mai (Bảy Hoàng), bà Mười Châu, bà Năm Tú, Ngô Thị Hoa, bác sĩ Ủ Thị Anh, Nguyễn Thị Mận (Ba Liên), Mai Thị Mến (Mười Mến), cô Bảy Bình, Nguyễn Thị Ngọc Lựu (Tư Lựu), Lê Thị Thanh (Hai Hương)…(3). Cùng với quá trình sáng tạo nghệ thuật, các văn nghệ sĩ Sài Gòn đã lồng ghép vào tác phẩm của mình những tư tưởng cổ vũ văn hóa truyền thống, phản đối lại những chính sách văn hóa đồi trụy của chính quyền. 1. Về nhân thân dược sĩ Phạm Thị Yên, xin xem Phụ lục. 2. Hồ Hữu Nhựt (chủ biên) (2001), Trí thức Sài Gòn - Gia Định, 1945 - 1975, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 209. 3. Hồ Hữu Nhựt (chủ biên) (2001), Trí thức Sài Gòn - Gia Định, 1945-1975, Sđd, tr. 213.