- 99 - được độc lập, có nghề nghiệp, tự lập về kinh tế, có sự tự chủ về tư tưởng, tính cách; sự giải phóng con người cá nhân và tham gia vào các hoạt động đấu tranh mạnh mẽ hơn chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau một thời gian áp dụng chính sách giáo dục cho nữ, Sài Gòn đã có nhiều phụ nữ hoàn thành chương trình đại học, ra trường hành nghề tự do và cũng có người mở trường dạy nghề cho nữ, viết báo cổ động nữ quyền. Một số nữ sinh đã đi du học nước ngoài và đã trở lại về nước để hoạt động(1). Một phần trong lực lượng nữ trí thức này đi theo sự lãnh đạo của Đảng, để lại dấu ấn của mình trong hành trình tìm tự do, độc lập của dân tộc. Từ năm 1929 trở đi, nhiều đợt thanh niên từ Sài Gòn được tổ chức bí mật xuất dương dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở ở Quảng Châu. Người nữ thanh niên duy nhất được đi lúc đó là chị Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, đã giả trai xuống tàu từ Sài Gòn đi Hồng Kông, sang Quảng Châu học tập chính trị, được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, rồi đưa về nước hoạt động. “Tâm lý tôi lúc đó rất phức tạp, nói hy sinh cho cách mạng, cho đại cuộc thì dễ mà chỉ mới bắt đầu bằng việc thoát ly gia đình đã thấy trăm ngàn khó khăn và vương vấn tình cảm trong tim. Hai năm dai dẳng tranh luận với thành kiến gia đình, bỏ đi những thành trì lễ giáo chặt chẽ với bốn chữ “bất xuất khuê môn” của nếp sống người con gái bền lâu hơn bất cứ loại sắt đá hữu hình nào, tôi bạo phổi “xuất môn”. Cắt phăng mái tóc dài, là tôi đã chiến thắng chính tôi. Ngồi xuống, mái tóc bị hớt trơ trụi. Phải trút bỏ áo dài, áo túi mới 1. Bùi Trân Phượng (2008), Việt Nam 1918 - 1945, giới và hiện đại: sự trỗi dậy những nhận thức và trải nghiệm mới, Luận án Tiến sĩ. Nguồn: http://www.tapchithoidai.org/ ThoiDai18/201018_BuiTranPhuong.htm, truy cập ngày 30/12/2017.
- 100 - thẹn thùng làm sao. Tôi nghe lỗ tai bừng nóng. Thôi đã trót hóa trang thì phải đứng được, khi cài áo thụng cổ rộng, lật hở ra một khoảng rộng ở ngực, cố ý cho thấy “ta đây quả thật nam nhi”. Sài Gòn về đêm càng hoa lệ, tôi có cảm tưởng như được dắt đi biểu diễn cho quen với đôi giày cứng nhắc và bộ đồ xa lạ, với những cái bắt tay của bạn bè đang đứng rải rác khắp các lối ra. Tại sao phải bắt tay hoài vậy? Em đừng e lệ, theo phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” đừng quên em đang là con trai. Tôi bước đi giữa Sài Gòn giữa đám người xa lạ, cái lớp nam trang nhắc nhở tôi: đã nam nhi thì hồ thỉ, bước đi phải mạnh dạn thì mới được thực hành nổi ý chí kiếm cung”(1). Cô Nguyễn Thị Châu, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Nữ sinh Áo Tím, là người Gò Công lên Sài Gòn học, học rất giỏi, được sự hỗ trợ của bạn bè và gia đình, cô sang Pháp để tiếp tục việc học của mình, đậu bằng cử nhân, trở về làm giáo viên. Với bản tính trầm lắng, sâu sắc, cách thể hiện tinh thần dân tộc của cô cũng theo một cách riêng. Khi nhớ về cô giáo dạy lịch sử của mình, các cựu học sinh nói bằng một niềm kính trọng, khâm phục: “Cô có phương pháp giảng dạy hiệu quả. Cô rất thương học trò”. Chị Nguyễn Thị Lựu xuất thân từ gia đình địa chủ ở Sa Đéc. Sau khi tốt nghiệp sơ học, chị lên Sài Gòn học Trường Nữ sinh Áo Tím. Tiếp xúc qua sách vở, báo Tiếng chuông rè (La Cloche fêlée) của Nguyễn An Ninh, chị biết về cách mạng Nga, cách mạng Trung Quốc, tiếng bom của Phạm Hồng Thái, và Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu. Chị tham gia phong trào ủng hộ Nguyễn An Ninh và truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Gia đình biết, lập tức gọi chị về quê. Chị xin gia đình tiếp tục đi 1. Hồi ký của Bà Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt. Nguồn: Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 92.
- 101 - học, để sau này mở trường học, với ý định quy tụ chị em cùng chí hướng. Thuyết phục gia đình chưa thành thì đồng chí Lưu Kim Phong giới thiệu chị vào Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Chị thoát ly gia đình từ đó. Chị Lựu và đồng chí Trực đóng giả làm vợ chồng, mở quán cơm tại Khánh Hội để phụ trách cơ quan liên lạc với nước ngoài, đồng chí Lý Tự Trọng đi liên lạc thư từ. Chị tự nguyện đi theo sự phân công của Đảng: đi Cần Thơ, Mỹ Tho, đi diễn thuyết tại các cuộc mít tinh, tổ chức nông dân biểu tình bãi thuế đòi giảm tô… Chị cùng với chị Năm Lượng, Mai Huỳnh Hoa thành lập tổ Phụ nữ Giải phóng, ra tờ báo Phụ nữ Giải phóng phát hành trong tỉnh Mỹ Tho. Chị là người phụ nữ Nam Kỳ đầu tiên được Đảng chỉ định làm Xứ ủy viên năm 1931. Chị Nguyễn Thị Minh Khai, không phải là người sinh ra ở Sài Gòn, nhưng đã sống, gắn bó cuộc đời chiến đấu và hy sinh của mình với vùng đất này. Với ý chí, tinh thần để phục vụ tốt hơn cho công việc, chị đã tự trau dồi ngoại ngữ, tham dự các lớp tập huấn của Đảng đào tạo, rồi tham dự học tập tại Nga, trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đứng trước Hội nghị Quốc tế để tố cáo tội ác của thực dân đối với người dân Việt và phụ nữ Việt. Chị Minh Khai thông thạo ba ngoại ngữ: Hoa, Anh, Pháp. Chị viết báo, tuyên truyền và hoạt động trong nhiều lĩnh vực, là nữ Bí thư đầu tiên của Thành ủy Sài Gòn. Những bài báo của chị có sức mạnh giáo dục sâu sắc đối với chị em phụ nữ. Đội ngũ những người phụ nữ trên mặt trận giáo dục đông dần lên và được biết đến nhiều hơn cùng với sự phát triển của cuộc đấu tranh chống áp bức xã hội, chống chủ nghĩa thực dân. Đội ngũ nữ trí thức này đã tập hợp dưới ngọn cờ đấu tranh của Đảng, tham gia kháng chiến chống Pháp. Một số
- 102 - chị sau đó tập kết ra Bắc, làm công việc chuyên môn của mình trên đất Bắc và tiếp tục trở về công tác ở miền Nam sau năm 1975. Việc học đã tạo điều kiện, động viên tinh thần dấn thân của các nữ sinh, và cổ vũ những người phụ nữ khác đi theo phong trào, đi theo cách mạng. Tuy nhiên, trên mặt bằng chung, đông đảo phụ nữ vẫn đang trong tình trạng thất học, mù chữ. Các tư liệu lịch sử xã hội giai đoạn này cho biết với chính sách giáo dục nhỏ giọt của thực dân Pháp, khoảng 90% dân số Việt Nam mù chữ(1). Cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, tình trạng mù chữ vẫn là một tình trạng rất phổ biến, mà tác hại của nó không lường hết được. Tại các thành phố lớn, cơ hội học tập chỉ mở ra cho những phụ nữ thuộc gia đình có điều kiện kinh tế, có ý thức về việc học hoặc có mong muốn làm ăn trong thương trường. Đa phần phụ nữ bình dân hoặc ở nông thôn là mù chữ, không có trường học, không có người chỉ dạy. Ngọn lửa tri thức hầu như không tỏa ánh sáng đến những phận đời phụ nữ bình dân. Khoảng cách giữa phụ nữ bình dân, của người nghèo với việc học chữ và các hoạt động giáo dục là xa vời, các cơ hội để được học tập hầu như không có. Cuộc sống của đa số phụ nữ bình dân vẫn bị gói gọn trong những nghĩa vụ lao động cực nhọc, làm nông, nội trợ, chăm sóc con cái, chăm sóc cha mẹ già, cam chịu thân phận phụ thuộc về kinh tế và nhận thức. Việc duy trì tình trạng mù chữ của đại bộ phận dân chúng là một phần trong chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp. Riêng với phụ nữ, tình trạng này còn nặng nề hà khắc hơn vì họ chịu tác động của nhiều tầng áp bức, từ trong gia đình đến ngoài xã hội. 1. Lê Văn Phong (2014), Hội Truyền bá Quốc ngữ và tác động của nó đến xã hội Việt Nam (1938 - 1945), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- 103 - 4. Đấu tranh chính trị Từ những năm 1925 - 1929 trở đi, Sài Gòn - Chợ Lớn bùng lên phong trào yêu nước mang sắc thái mới, đó là sự xuất hiện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập tháng 6/1925 tại Quảng Châu. Đây là tổ chức tiền thân, chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng mácxít - lêninnít. Thời kỳ này, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới lan tràn khắp Nam Kỳ, đánh mạnh vào hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng đất này là lúa gạo và cao su, gây ra cuộc khủng hoảng toàn diện từ đô thành Sài Gòn cho tới Lục tỉnh. Hậu quả của cuộc khủng hoảng ngay trong năm đầu tiên đã phản ánh rõ nét nhất tại đô thị Sài Gòn. Nhiều tầng lớp ở nông thôn và thành thị bị bần cùng hóa, đói rách. “Tình trạng cùng cực của người dân trong cuộc sống là chất men làm nổi dậy những cuộc đấu tranh đòi quyền sống, tự phát hay có tổ chức. Các cuộc đấu tranh nổi dậy ở các địa phương trong khắp ba kỳ nhiều lắm. Dân biểu tình nói chung không có một tấc sắt trong tay thường bị giải tán bằng súng đạn. Hôm nay ở nơi này đổ máu, người chết, người bị thương, bị bắt, nhưng sau đó những nơi khác, cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn”(1). Bối cảnh xã hội đen tối đó là một yếu tố khách quan giúp cho các tổ chức cách mạng hoạt động trui rèn và phát triển(2). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, như một tất yếu của lịch sử. Đảng đã kịp thời lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước vùng lên trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống đế quốc và phong kiến. Nhiều cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang, sử dụng lực lượng quần 1. Bằng Giang (1999), Sài Côn cố sự, Sđd, tr. 86. 2. Bằng Giang (1999), Sài Côn cố sự, Sđd, tr. 89.
- 104 - chúng đông đảo tại chỗ, đấu tranh kết hợp tuyên truyền chính trị, nâng cao nhận thức giác ngộ cách mạng, biến nhận thức thành hành động cách mạng cụ thể. a. Cao trào 1930 - 1931 Cao trào đấu tranh 1930 - 1931 tại Sài Gòn được truyền lửa đấu tranh từ các địa phương phụ cận, nơi có các đồn điền cao su, các hãng kỹ nghệ. Do đặc điểm tình hình, các phong trào đấu tranh thời kỳ này tập trung vào quyền lợi dân sinh, điều kiện làm việc, nhằm tố cáo các hình thức bóc lột, đòi quyền bình đẳng trong lao động, việc làm cho công nhân nữ, vì vậy đã lôi kéo một lực lượng đông đảo phụ nữ và công nhân tham gia đấu tranh. Ngày 3/2/1930, cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, với 300 phụ nữ đi đầu đòi yêu sách, trong đó có những quyền lợi liên quan trực tiếp đến phụ nữ: “Trả lương cho nữ công nhân nghỉ đẻ”. Cuộc bãi công này đã gây tiếng vang lớn. Tại Sài Gòn, công nhân cao su Cây Quéo (Bình Hòa) tổ chức đấu tranh đòi cải thiện đời sống; công nhân hãng dầu Thị Nghè đấu tranh đòi tăng lương, chống sa thải phụ nữ có thai(1), tên chủ hãng phải chấp nhận yêu sách. Các chi bộ Đảng được thành lập ở nhiều cơ sở, đặc biệt là ở các nhà máy, theo chủ trương “vô sản hóa”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân diễn ra sôi nổi. Tại Chợ Lớn, các chi bộ Đảng Cộng sản lần lượt ra đời ở Trung Quận. Được sự lãnh đạo nòng cốt của các chi bộ, phong trào đấu tranh đã nhanh chóng bùng lên. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 51.
- 105 - Chiều ngày 30/4/1930, các chi bộ địa phương đã huy động được hàng ngàn quần chúng tham gia đấu tranh, có trống giục, truyền đơn, biểu ngữ, đặc biệt có lá cờ đỏ búa liềm. Nữ đồng chí Việt Hoa tay giương cao ngọn cờ đỏ búa liềm dẫn đầu đoàn biểu tình. Đoàn vừa đi vừa đồng thanh hô cao khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm”, “Chống sưu cao thuế nặng”, “Lính không được vào làng”, “Phản đối đánh đập”. Hàng loạt cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra. Ngày 16/3/1930, 500 nam nữ công nhân hãng dầu Nhà Bè tổ chức bãi công. Ngày 14/4/1930, nam nữ công nhân làm đường ở đường Catinat (Đồng Khởi ngày nay) và đường d’Espagne (đường Lê Thánh Tôn ngày nay) tổ chức biểu tình. Ngày 21/4/1930, nổ ra cuộc bãi công của nam nữ công nhân Ba Son, và nam nữ công nhân hãng rượu Bình Tây. Ngày 23/3/1931, Chi bộ Nhà Bè phát động cuộc đấu tranh khi tên cai xếp hãng dầu Xô-Cô-Ny đánh bị thương chị Ngõa, một nữ công nhân đang mang thai. Dấu ấn của phụ nữ thể hiện rõ rệt. Khi nổ ra cuộc bãi công, cán bộ phụ nữ ở đây đóng vai trò lãnh đạo một cách xuất sắc. Chị Trần Thị Đầy - một nữ cán bộ được cử đi vô sản hóa tại hãng dầu ghi lại: “Gà gáy tan canh, 500 công nhân tập trung trước cửa hãng. 6 giờ sáng, chị Trần Thị Hân, một nữ giáo viên được cử đi vô sản hóa đưa yêu sách đòi tăng tiền lương, bớt giờ làm, chống đánh đập, cúp phạt. Yêu sách không được chấp nhận, chị đã đứng lên diễn thuyết hô hào anh chị em đoàn kết đấu tranh. Thực dân Pháp cho lính khố xanh đến đàn áp, dẫn đến sự xô xát giữa lính và thợ, tên Phán lên cò định dọa bắn thì bị tự vệ cặp cổ giật súng bắn chết tại chỗ”. Toàn thể anh chị em công nhân tổ chức biểu
- 106 - tình kéo ra chợ Phú Xuân, vừa đi vừa hô khẩu hiệu, chị Hân, chị Đầy, chị Ngõa, anh Khương cầm đầu. Lính kéo tới đàn áp bắt anh Khương, ba chị đã xông tới định giải thoát cho anh. Bọn lính bắt thêm nhiều công nhân khác, anh chị em công nhân đánh trả quyết liệt. Đoàn biểu tình tiếp tục tuần hành. Cuộc đấu tranh kết thúc. Chị Hân thay anh Khương làm Bí thư Chi bộ hãng dầu Phú Xuân - Nhà Bè. Sau này, chị Hân cũng bị bắt, bị xử tù 5 năm(1). Bên cạnh công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân, tiểu thương tiểu chủ cũng diễn ra sôi nổi. Ngày 1/5/1930, quần chúng chợ Thị Nghè, ấp Trung, Bình Hòa, chị em bán cá chợ Bà Chiểu tham gia cuộc mít tinh. Phụ nữ tham gia rải truyền đơn từ Hàng Xanh lên Tòa bố Gia Định đến Cầu Muối. Các cụ ông, cụ bà ở Nhà dưỡng lão đấu tranh phản đối tên chủ thầu cho ăn gạo xấu, cá thối, đòi cải thiện bữa ăn, cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi(2). Ngày 4/5/1930, cuộc biểu tình lớn của nông dân nổ ra tại quận Đức Hòa, đi đầu là các má, các chị xã Mỹ Hạnh, Lương Hòa, Tân Phú, Hòa Khánh… đội ngũ chỉnh tề kéo về quận lỵ. Trời sáng, đoàn biểu tình đông hàng vạn người tràn ngập những thành phố chính. Truyền đơn được tung ra, băng đỏ được trương lên với các khẩu hiệu đòi giảm xâu, giảm thuế, chống đánh đập, chống khủng bố, đoàn biểu tình tập trung tại dinh quận. Mặc trời mưa như trút nước, đoàn biểu tình quần áo ướt sũng vẫn giữ vững hàng ngũ. Bà con chợ Đức 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, xuất bản lần thứ ba, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 39. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 52.
- 107 - Hòa, anh chị em công nhân lao động tổ chức tiếp tế bánh mì, nước uống cho đoàn biểu tình. Đêm khuya, 100 lính mã tà do cò Tây Rắc Cô chỉ huy từ Chợ Lớn kéo lên, xả súng vào đoàn biểu tình làm 10 người chết. Đồng chí Châu Văn Liêm - Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn - chỉ huy cuộc đấu tranh phản đối, đã bị tên cò bắn thẳng vào ngực. Quần chúng căm phẫn vùng lên như nước vỡ bờ, tên cò xin gặp đại diện đoàn biểu tình, chấp nhận đơn của quần chúng. Đồng chí Nguyễn Thị Nhỏ - Phó Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn lên thay đồng chí Châu Văn Liêm để ổn định tình hình và lãnh đạo quần chúng nhân dân chống khủng bố(1). Một tháng sau, ngày 4/6/1930, cuộc biểu tình ở liên quận Gò Vấp - Hóc Môn với 5.000 người tập trung tại khu Gò Mây - Tân Hưng Thuận, với băng cờ, khẩu hiệu tuần hành bước thẳng về phía dinh quận. Nhiều chị em sung vào đội tự vệ, được phân công đi hai bên đoàn biểu tình giữ trật tự và bảo vệ các đồng chí lãnh đạo. Chị Nguyễn Thị My trong Quận ủy Gò Vấp cầm cờ đi đầu, theo sau là nhiều chị em, trương cao tấm băng đỏ, với các khẩu hiệu: bãi bỏ thuế thân, giảm thuế môn bài, giảm thuế chợ, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, ủng hộ Liên bang Xô Viết, “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm”, “Công nông binh đoàn kết đánh đổ đế quốc Pháp, địa chủ, quan làng”. Đồng bào hai bên đường rất đông phụ nữ đã gia nhập đoàn biểu tình, tất cả rầm rộ kéo về dinh quận Hóc Môn. Tên Trà cho lính mã tà ra cản, nhưng anh chị em tự vệ giơ cao nắm tay hô “Tiến tới! Tiến tới! Có chúng tôi bảo vệ”. Đoàn biểu tình rầm rập tiến 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 53.
- 108 - lên. Trước khí thế áp đảo, bọn lính phải điều quân tiếp viện tới, lấy báng súng đánh tới tấp đoàn biểu tình. Anh chị em tự vệ, dù tay không vẫn chống trả quyết liệt. Song song với phong trào đấu tranh của công nhân, phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra mạnh mẽ. Ngày 4/6/1930, nông dân các làng An Lạc, Bình Trị Đông, Tân Nhựt, Tân Kiên, Chợ Đệm, Bình Hưng Hòa kéo về chợ Bà Hom với các khẩu hiệu đấu tranh đòi giảm thuế thân, tăng giá công cấy, công cắt lúa, công đập lúa, giảm tô, giảm tức, giảm giờ làm cồn, chống bắt phu, đưa yêu sách đòi giảm thuế. Cũng trong ngày 4/6/1930, có nhiều cuộc biểu tình của nông dân các vùng ven Sài Gòn, trong đó phụ nữ có vai trò nổi bật. Đó là cuộc biểu tình của 300 nông dân làng Hựu Thạnh kéo nhau về hướng Đức Hòa (Chợ Lớn) từ 3 giờ sáng. Một đoàn khác, khoảng 300 người từ làng Mỹ Hạnh kéo về đây một tiếng sau đó. Đoàn thứ ba, 500 người kéo đến vào khoảng 5 giờ. Đến 7 giờ sáng, đoàn biểu tình đã lên tới hơn 1.500 người (có tài liệu ghi chép là 6.000 người). Mỗi đoàn biểu tình đều có hàng ngũ chỉnh tề, trật tự, phụ nữ đi đầu, tự vệ đi hai bên, có cờ băng, khẩu hiệu giương cao. Sen đầm và mã tà từ Chợ Lớn kéo lên, ngăn cản đoàn biểu tình, dọa bắn. Đoàn biểu tình vẫn siết chặt hàng ngũ, tiến lên theo hiệu lệnh. Trước dinh chủ quận, sen đầm và mã tà chong súng, còn dân biểu tình thì tay không, đại biểu của các đoàn ra khỏi hàng ngũ, đem bản yêu sách đưa lên chủ quận. Bọn cò nổ súng, bắn chết một phụ nữ, nhiều người bị thương, nhưng đoàn biểu tình vẫn giữ nguyên đội hình, chờ câu trả lời của chủ quận. Tên cò Tây ra lệnh bắn tiếp, nhiều người chết, hơn 100 người bị bắt. Người
- 109 - cầm đầu cuộc đấu tranh đó là bà Năm Cát ở Mỹ Hạnh(1). Mấy ngày sau, lại có thêm cuộc biểu tình của nông dân làng Tân Nhựt, Tân Túc, Tân Bửu (11/6/1930). Tất cả các cuộc biểu tình đều bị giải tán bằng việc thực dân Pháp cho xả súng vào đám đông. Theo sách Lịch sử huyện Bình Chánh, ông Ba Khải, ông Vạn hy sinh tại chỗ, bà Cẩm bị thương, bà Tổ và nhiều người khác bị bắt đi.”(2) Báo chí công khai đã mô tả thời gian này ở Sài Gòn như sau: “Kể từ 1er Maicho tới 6 Juin có cả thảy mười đám biểu tình. Có một điều ta nên nhận kỹ là trong đám biểu tình nào cũng có người đàn bà dự vào và đi tiên phong luôn luôn. Có nhiều người hăng hái mạnh bạo, coi cái chết như không”(3). Tháng 10/1930, nghị quyết của Trung ương toàn thể đại hội về Công nhân vận động và Phụ nữ vận động hướng dẫn đấu tranh bằng những biện pháp cụ thể, hướng vào quyền lợi thiết thân của phụ nữ: “Các cơ quan công hội phải đặt ra phụ nữ ủy viên hội để làm cho việc vận động phụ nữ được phát triển. Nhiệm vụ của hội ủy viên ấy là phải kéo công nhân phụ nữ tham gia vào việc công nhân vận động. Điều tra sự sanh hoạt (sinh hoạt) của đám công nhân phụ nữ để giúp cho công hội định kế hoạch vận động cho đúng, đem những vấn đề thiết yếu của phụ nữ đăng vào bao chương của Tổng công hội và phải làm cho phụ nữ xem báo của công hội. Khi công hội sắp cử 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, xuất bản lần thứ ba, Sđd, tr. 40. 2. TS. Nguyễn Duy Bính, “Những chứng tích tội ác chiến tranh của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến của nhân dân Bình Chánh thời kỳ 1858 - 1945”. Trích trong sách: Sở Văn hóa Thông tin - Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 518 - 523. 3. Phụ nữ Tân văn, số 57, ngày 19/6/1930, tr. 25.
- 110 - ban chấp hành, thì phụ nữ ủy viên phải giới thiệu cho công hội những người công nhân phụ nữ nên cử vào ban ấy. Phải tổ chức ra những hội nghị phụ nữ, do phụ nữ tới để bàn định công việc làm trong đám phụ nữ và trao đổi kinh nghiệm.” “Về kinh tế, đàn bà, đàn ông, thanh niên làm việc ngang nhau thì tiền công cũng phải ngang nhau. Công nhân đàn bà trước và sau khi sanh đẻ phải nghỉ tám tuần lễ có lương. Không được bắt đàn bà và trẻ con làm những việc nặng nề và nguy hiểm”(1). Tháng 11/1930, cuộc biểu tình của 200 đồng bào ở Phước Hưng (Chợ Lớn) tập hợp trên đường nghe cán bộ Đảng diễn thuyết. Cờ đỏ búa liềm do chị em bí mật cắt may xuất hiện ở nhiều nơi. Tại các trường sư phạm Huỳnh Công Phát, Huỳnh Khương Ninh “truyền đơn rải như mưa”, nữ học sinh tự ý nghỉ học để kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, và tỏ sự đoàn kết với công nông Nghệ Tĩnh(2). Từ tháng 9 - 12/1930, tại vùng ven Sài Gòn, được mệnh danh là “vành đai đỏ” của thành phố, nhiều cuộc mít tinh biểu tình nổ ra ở các ấp Bình Trị Thượng, Bình Trị Hạ (xã Tân Đông Trung, nay là Đông Hưng Thuận), ở Bà Điểm, Thuận Kiều, Tân Hưng, Tân Phúc, chợ Cầu, Tân Thới Tây, gần 1.000 người mít tinh tại vườn làng. Giặc tới, mọi người xô xát với lính cò trước khi giải tán. Ở Vĩnh Lộc, Xuân Thới thượng đều có mít tinh trên 1.000 người. Chị em phụ nữ tham gia đông đảo cùng nông dân hô to khẩu hiệu: “Công 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 130 - 143. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd.
- 111 - nông binh liên hiệp lại, rắn chắc tay cày, tay súng theo Đảng đánh đế quốc Pháp”. Run sợ trước phong trào quần chúng, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, đàn áp dã man. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định hầu hết các cuộc đấu tranh đều có người bị thương, bị bắt, một số đồng chí bị giết hại, nhưng phần lớn vẫn đạt được thắng lợi, thực dân Pháp phải giảm thuế, miễn xâu(1). Đầu năm 1931, các cuộc đấu tranh của nông dân ngoại thành tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Nổi bật nhất là cuộc đấu tranh của 600 nông dân xã Trung Chánh do chị Huyền, chị Ngọc dẫn đầu, trương cờ búa liềm, kéo vào nhà việc đòi thả 4 người dân bị tề xã bắt giữ(2). Phong trào đấu tranh tiếp tục lên cao. Thực dân Pháp lại tiếp tục khủng bố đẫm máu. Trong các cuộc khủng bố lớn đợt này, đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản bị bắt tại Sài Gòn đầu năm 1931, và hy sinh tại bệnh viện Chợ Quán. Đến giữa năm 1931, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng, phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân xuống thấp do những tổn thất về tổ chức Đảng Cộng sản và các Công hội, Nông hội; đánh dấu thời kỳ thoái trào của cách mạng cả nước nói chung, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn nói riêng. Đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư bị bắt, bị tra tấn dã man và hy sinh tại bệnh viện Chợ Quán. Nhiều chiến sĩ bị bắt, bị kết án tù chung thân, bị đày 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 57. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 58.
- 112 - đi Côn Đảo(1), nhiều cơ sở đảng bị tan rã, nhiều đảng viên ưu tú của Đảng bị tàn sát. Trong giai đoạn này, hệ thống các nhà tù được Pháp lập nên ở Nam Kỳ đông nghẹt. Nhiều nữ đảng viên bị bắt giam chật cả Khám Lớn, trong đó có các chị: Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Thị Toại, Trần Ngọc Thơ, Bình Thủy, Nguyễn Thị Thủy, Trần Thị Đầy, Trần Thị Hân, Thái Thị Nhàn, Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Nhỏ, Lê Thị Thử, chị Võ Thị Thu,… Cuộc đấu tranh trong tù được tiếp tục tổ chức, chiến đấu chống lại chế độ ngục tù vô cùng khắc nghiệt, tàn bạo. Cao trào 1930 - 1931 có thể coi là thời kỳ Đảng thức tỉnh lòng yêu nước của phụ nữ thành phố, xây dựng ý thức trách nhiệm, phát huy khả năng cách mạng của phụ nữ trong sự nghiệp đánh đuổi đế quốc, phong kiến, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. b. Phong trào đấu tranh dân chủ 1936 - 1939 Phong trào đấu tranh dân chủ 1936 - 1939 là cuộc vận động dân chủ để giải phóng dân tộc. Đây là một phong trào quần chúng rộng lớn, có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, như một cuộc diễn tập chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này. Phong trào dân chủ 1936 - 1939, bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị, đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất, trở 1. TS. Nguyễn Duy Bính, “Những chứng tích tội ác chiến tranh của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến của nhân dân Bình Chánh thời kỳ 1858 - 1945”, trích trong sách: Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- 113 - thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; cán bộ được tập hợp thành đội ngũ đông đảo và trưởng thành, trong đó lực lượng và phong trào phụ nữ đều có bước trưởng thành quan trọng. Từ sau cao trào 1930 - 1931, những năm 1932 - 1935, Đảng chủ trương lãnh đạo quần chúng nhân dân đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ, cũng là để khôi phục lại tổ chức Đảng sau khi bị Pháp khủng bố. Đảng đã giữ mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, những cơ sở còn lại vẫn dựa vào dân, giữ gìn lực lượng, đổi phương thức hoạt động để giữ vững phong trào. Chợ Lớn, nơi tập trung nhiều hãng xưởng, nhiều công nhân nữ: hãng La-ve, hãng thuốc lá Cotab, hãng xà bông Trương Văn Bền, các lò gốm, các nhà máy xay xát, các xưởng dệt… Các chị đã len lỏi vào đây tổ chức các hội công khai: hội tương tế, hội xe đạp, hội may thêu. Dưới hình thức các tổ chức công khai, chị em đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh. Ngày 21/4/1932, diễn ra cuộc tổng bãi công của 500 nữ công nhân của 12 hãng dệt khăn bông thủ công Chợ Lớn. Chủ lấy lý do khủng hoảng kinh tế, hạ lương công nhân. Chị em đã kéo dài thành hàng trên đường phố, giương cao khẩu hiệu phản đối chủ bóc lột, đòi tăng tiền công. Trong năm 1932, ở trung tâm Sài Gòn nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân nhà máy in, công nhân lò sát sinh, công nhân xe kéo. Đặc biệt là cuộc đấu tranh của 500 anh em thợ và culi cạo bồn xăng, sơn dầu, sàng cát, gánh hồ, xây cất… tại hãng dầu Tếch-xa-cô ở Phú Xuân nổ ra quyết liệt. Người vận động cuộc đấu tranh này là chị Mười Thập, đã bí mật tuyên truyền, vận động, diễn thuyết hô hào, anh chị em thợ đã đồng loạt hưởng ứng kéo đến văn phòng của hãng đòi yêu sách “phải phát tích kê (thẻ)
- 114 - đúng tuần, chống cúp phạt đánh người vô cớ”(1). Bọn chủ cho người đến đàn áp, nhưng trước tinh thần đoàn kết, quyết liệt của anh em công nhân, chúng phải nhượng bộ. Ở ngoại thành, nông dân vẫn tiếp tục đấu tranh, tiêu biểu là cuộc biểu tình ngày 18/4/1932 của 1.400 nông dân kéo vào huyện lỵ Hóc Môn, bị đàn áp đẫm máu. Nhưng sau đó, khi tên tỉnh trưởng Gia Định về xã Tân Thới Nhất họp với bọn hội tề thu thuế thuốc lá, nông dân lại tổ chức đấu tranh, kéo về đòi gặp, tỉnh trưởng trốn thoát nhờ có binh lính đến giải cứu(2). Năm 1933 là mốc của một điểm mới mẻ trong hoạt động đấu tranh tại Sài Gòn: một số cán bộ Đảng bước đầu sử dụng hoạt động công khai hợp pháp để che giấu, hỗ trợ tổ chức bí mật. Lần đầu tiên trong cuộc vận động cách mạng nước ta, thông qua tổ chức Sổ lao động(3), một số đại diện cách mạng đã ra tranh cử vào Hội đồng nhân dân thành phố Sài Gòn, kỳ 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 65. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 65. 3. Theo Phạm Hồng Tung: Ngay từ khi ra đời cho tới trước năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương chưa bao giờ đặt vấn đề tiến hành đấu tranh trên địa hạt này. Trong bối cảnh của Nam Kỳ những năm 1933 - 1935, một số cán bộ cộng sản đứng đầu là Nguyễn Văn Tạo đã cùng liên danh với Nguyễn An Ninh và Tạ Thu Thâu tham gia các cuộc tranh cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ dưới danh nghĩa “Sổ lao động”, chủ yếu nhằm thông qua cuộc tranh cử đó mà công khai lên án chính sách của thực dân Pháp đồng thời tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Chính thông qua đấu tranh này mà các chiến sĩ cộng sản và yêu nước thu thập được những kinh nghiệm đầu tiên về đấu tranh nghị trường, công khai. (Phạm Hồng Tung (2006), “Các cuộc vận động bầu cử và tranh cử trong cuộc đấu tranh vì các quyền dân sinh, dân chủ (1936 - 1939)”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 9, số 10-2006. Nguồn: https://tailieu.vn/doc/bao-cao-nghien-cuu-khoa-hoc-cac-cuoc-van-dong-bau-cu-vatranh-cu-trong-cuoc-dau-tranh-vi-cac-quyen-785671.html), truy cập ngày 30/12/2017.
- 115 - bầu cử ngày 30/4/1933, người đứng đầu là Nguyễn Văn Tạo(1) (1908 - 1970), một nhà báo, nhà cách mạng, một đảng viên cộng sản Việt Nam hoạt động ở Pháp bị Chính phủ Pháp trục xuất về Sài Gòn. Năm 1933, Nguyễn Văn Tạo đạtsố phiếu cao, nhưng không đắc cử do gian lận từ phía chính quyền. Đến năm 1935, sau kỳ bầu cử tiếp theo, ông trở thành Ủy viên Hội đồng, tích cực dùng nghị trường đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng lao động. Phụ nữ Sài Gòn đã tham gia tích cực hoạt động này, vì cho đây là cơ hội tốt để dấy lên một phong trào sinh hoạt chính trị trong công nhân, nông dân, dân nghèo, học sinh, trí thức, viên chức. Chị em lãnh truyền đơn của Đảng, đi sâu vào các xí nghiệp, xóm lao động, chợ, trường học để phổ biến, giải thích tuyên ngôn của tổ chức Sổ lao động, vận động bà con đi dự mít tinh. Trong những cuộc mít tinh ước tính có đến 2.000 người dự, phụ nữ được động viên đi khá đông, gồm nữ công nhân, chị em buôn bán, nhất là nữ sinh - lần đầu tiên được làm quen với các hoạt động xã hội. Các ứng cử viên kêu gọi hãy sáng suốt bầu chọn những người thay mặt để bênh vực cho quyền lợi của anh chị em lao động. Nguyễn Văn Tạo - ứng viên của tổ chức Sổ lao động, được bà con ủng hộ, đã thắng cử. Thắng lợi này cho thấy khả năng rất to lớn của hoạt động đấu tranh chính trị hợp pháp, đã huy động được đông đảo lực lượng quần chúng tham gia. Đây là cuộc tập dượt đầu tiên cho các hoạt động dân chủ, công khai mở ra vào ba năm sau đó: phong trào 1936 - 1939. Thời kỳ này, dưới sự bóc lột dã man của bọn chủ, nhiều hãng xưởng tập trung đông công nhân nữ đã nổ ra những 1. Nguyễn Văn Tạo được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2001. Năm 2009, ông được truy tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta.
- 116 - cuộc đấu tranh quyết liệt. Công nhân lò gốm Phú Định (Chợ Lớn) gồm phần lớn là phụ nữ và thiếu nữ, bị chủ bóc lột rất tàn tệ. Một bé gái 10 tuổi làm nghề vẽ hoa trên đĩa. Một ngày em vẽ 80 chiếc, tiền công chỉ được trả 6 xu. Các chị giã đất sét bằng chày đạp, phải giã thật nhuyễn, nếu chỉ còn 1 hột sỏi thì không được trả công, vậy mà một ngày chỉ được trả 2 cắc. Chị em đã đình công đòi tăng lương mỗi ngày thêm 1 cắc. Chủ đã phải nhượng bộ trước uy thế đấu tranh quyết liệt của chị em. Ở ngoại thành, Hóc Môn, chị em phụ nữ đã có Ủy ban hành động, hội ái hữu, liên tục đấu tranh đòi giảm tô, giảm thuế, sôi nổi nhất là cuộc đấu tranh chống tên chà A-Ba-Lê ở chợ Hóc Môn và mụ Ba Thu chủ thầu chợ Bà Chiểu. Chị em đã sử dụng bạo lực quần chúng trừng trị những tên ngoan cố, hống hách. Những cán bộ năng nổ của các phong trào này là các chị Nguyễn Thị Nuôi, Hồ Thị Bi. Vợ các trí thức cũng tích cực tham gia hoạt động này. Ngay giữa thành phố, nhiều chị đã dùng nhà ở, nơi làm ăn sinh sống của mình để nuôi giấu cán bộ, làm điểm cho cán bộ cách mạng gặp gỡ trao đổi, bàn bạc. Ba địa điểm: nhà bảo sanh Hồng Phúc ở đường Phe-rơ-luy (Nguyễn Trãi bây giờ) do chị Hồng, là “cô mụ” (nữ hộ sinh) có bằng cấp, lập ra, chị là vợ anh Phúc vừa ở tù Côn Đảo về; nhà bảo sanh Hạnh Phúc ở đường Mạc Ma-hông (Nam Kỳ Khởi Nghĩa ngày nay) của chị Năm Trinh vợ anh Hiển đi Nga về, và trường Nữ công của bà Mỹ Ngọc ở đường Yersin; đều là nơi cán bộ phụ nữ gặp nhau bàn bạc công tác. Chị Trinh đã lãnh nuôi chị Minh Khai tại nhà khi chị sinh cháu Hồng Minh. Bà Dương Bạch Mai (thường gọi là bà Hai) có tiệm may lớn ở đường Bô-na (Lê Lợi), người ra vào rất đông, phần lớn là người sang trọng, lẫn vào đó là những cán bộ của ta cải
- 117 - trang như những nhà giàu có, tới lui liên lạc gặp gỡ nhau. Bà Hai có dinh cơ trên đường từ Sài Gòn đi Bà Điểm, người ra vào tấp nập. Địa điểm này cũng là một trạm liên lạc của Xứ ủy Nam Kỳ. “Bà Hai có xe hơi riêng, đi đâu bà thường tự lái lấy. Bà mang truyền đơn, tài liệu, đưa đón những đồng chí quan trọng cần đi ban ngày. Nhiều lần bà đã đưa đón chị Minh Khai. Bà đóng vai bà chủ lái xe, Minh Khai đóng vai chị vú ngồi kế bên”(1). Bà Nguyễn An Ninh là một trong những phụ nữ có sự thay đổi lớn trong tư tưởng, phong cách sống, đã tham gia tích cực vào công việc quốc sự của chồng: vận động tuyên truyền chống Pháp trong quần chúng cho tới lo tài chính cho chồng để đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền dân chủ hay thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Nguyễn An Ninh bị bắt, thực dân ra sức mua chuộc bà để khuyên chồng thôi làm quốc sự. Bà không nghe, mà còn trở thành thông tín viên đắc lực cho chồng và các đồng chí ở tù. Bà là người lo tài chính cho chồng, cùng Nguyễn Văn Tạo ra hai tờ báo La Lutte (Tranh đấu) và tờ Trung lập. Năm 1936, Nguyễn An Ninh tham gia tổ chức Đông Dương Đại hội, bà cũng tham gia vận động nhân dân thành lập các ủy ban hành động xã. Bà được cử làm Chủ tịch xã Mỹ Hòa (Hóc Môn), nhà bà là trụ sở hội họp của cán bộ. Tháng 3/1937, bà cùng một số chị em như Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa, Trần Thị Đầy lo kinh tế cho tờ Dân chúng (L’Avant Gard, tờ báo Đảng bằng tiếng Việt đầu tiên công khai) ra đời. Nguyễn An Ninh bị đày đi Côn Đảo và hy sinh, để lại bà với nỗi đau lớn. Bà thay 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 101.
- 118 - chồng chăm sóc các con, nuôi dạy ăn học, và chính thức tham gia vào cách mạng trong nhiều vai trò quan trọng(1). Bằng những hoạt động này, tính đến tháng 11/1936, Chợ Lớn đã thành lập được 24 ủy ban hành động với 220 thành viên, trong đó có nhiều đảng viên. Các nữ đảng viên Đảng Cộng sản hoạt động rất tích cực trong phong trào. Chị Trần Thị Đầy, chị Nguyễn Thị Lựu là đảng viên, Ủy viên Trung ương Ủy ban hành động, phụ trách phong trào phụ nữ vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Càng về sau, các cuộc đấu tranh càng thể hiện rõ tính chất tổ chức, tính liên kết chặt chẽ, có mục tiêu yêu sách cụ thể. Các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, nửa bất hợp pháp được vận dụng ngày càng linh hoạt, có hiệu quả. Báo chí đóng góp vai trò quan trọng trong giai đoạn này, nhất là sự có mặt của báo Dân chúng. Tham gia tòa soạn, bên cạnh các đảng viên nam là đảng viên nữ. Chị Nguyễn Thị Lựu cũng là thành viên của tòa soạn. Báo Dân chúng có nội dung gần gũi với nông dân, có nhiều bài cổ vũ tinh thần đấu tranh, có lời hiệu triệu của Hội Tương tế công nhân lò đường Bình Nhân được đăng trên báo: “Hỡi anh chị em, chúng ta đang sống trong một cuộc đời khắt khe, khốn đốn, trước nạn sinh hoạt mắc mỏ chúng ta không một ai khỏi phải đói rét liên miên, đến lúc trọng bệnh, chúng ta phải khoanh tay chờ chết. Với những nỗi thống khổ của chúng ta, chúng ta phải bồi hồi suy nghĩ, tìm một con đường giải thoát để đi đến một cuộc đời thong thả sung sướng hơn. Con đường duy nhất ấy đã có vẻ sẵn sàng: đoàn kết, chỉ có đoàn kết, chúng ta mới có đủ lực lượng để chống trả với mọi nỗi khắt khe trong kiếp sống của chúng ta”. 1. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 51.
- 119 - Ngày 13/8/1936, cuộc họp thành lập Ủy ban trù bị Đông Dương được tiến hành, có hơn 400 người tham dự. Nhiều chị em các chợ, các xóm lao động cũng được động viên đến dự họp. Trong cuộc họp, trước sự đồng tình ủng hộ của quần chúng, một đại biểu phụ nữ đứng lên mạnh dạn nói lên nguyện vọng của giới mình “Phụ nữ chúng tôi chiếm phân nửa dân số, mà lại là những người bị áp bức bóc lột nhất. Nào là thập nữ viết vô, nào là tam tòng tứ đức, nội trợ, tề gia, cử án ngang mày… Đã cùng chung số phận của người dân mất nước còn bị nam giới xem thường. Chị em ta nên noi gương Bà Trưng, Bà Triệu, phá xiềng xích nô lệ, đoàn kết đòi tự do, bình đẳng với nam giới, chung lưng chống phong kiến thực dân tiến theo phụ nữ thế giới”(1). Trước sự hưởng ứng đồng tình của đồng bào thành phố, Ủy ban trù bị Đông Dương Đại hội ra đời, trong đó có chị Nguyễn Thị Lựu, cô Nguyễn Thị Kiêm (Manh Manh nữ sĩ). Các chị Trần Thị Đầy, Nguyễn Thị Lượng, Mai Huỳnh Hoa tham gia tiểu ban tuyên truyền. Đại hội vận động ráo riết thành lập các ủy ban hành động ở các cơ sở, ở các hãng xưởng, lò gốm, lò nhuộm, các ngành dệt, may, các chợ là những nơi tập trung nữ. Hàng chục vạn tờ truyền đơn được phân phát khắp nơi. Hàng trăm cuộc mít tinh của quần chúng nổ ra, báo chí công khai hàng ngày cổ động cho đại hội. Chỉ trong một thời gian ngắn, miền Nam đã xuất hiện 600 ủy ban hành động, riêng thành phố Sài Gòn đã có 70 ủy ban. Các anh chị trong Ủy ban trù bị Đông Dương đi các tỉnh như Chợ Lớn, Bến Tre, Mỹ Tho… hỗ trợ các địa phương thành lập các ủy ban hành động. 1. Ghi theo lời kể của chị Mai Huỳnh Hoa (trong sách Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 78.
- 120 - Phong trào lên mạnh, thực dân Pháp lo sợ đã ra lệnh cấm Đông Dương Đại hội, cấm tất cả các hoạt động hội họp, biểu tình. Dưới sức ép của quần chúng, thực dân Pháp phải tuyên bố “không giải tán các ủy ban hành động, nhưng phải làm việc có trật tự và trong vòng pháp luật”. Chúng bắt những người cầm đầu phong trào như Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn An Ninh. Phong trào Đông Dương Đại hội bị cấm, nhưng phong trào dân chủ vẫn tiếp tục dâng cao, và đi sâu vào các tầng lớp nhân dân, nêu cao các khẩu hiệu đòi tự do hội họp, tự do lập hội, tự do đi lại, tự do báo chí, bỏ thuế thân, thả tù chính trị. Mỗi giới có yêu cầu riêng, công nhân đòi tự do nghiệp đoàn, ngày làm 8 giờ, tăng lương giảm giờ làm, phản đối đánh đập cúp phạt, nông dân đòi cứu tế nạn đói, nạn lụt, giảm tô, giảm tức. Tiểu thương tiểu chủ đòi giảm thuế chợ, thuế môn bài. Chị em phụ nữ còn đòi yêu sách riêng của giới: việc làm ngang nhau thì tiền lương ngang nhau, cấm bắt phụ nữ làm ca đêm, làm việc nặng có hại đến sinh đẻ; trợ cấp khy sinh đẻ(1). Một trong những hoạt động đấu tranh chính trị lớn, có chú trọng đến vai trò của lực lượng phụ nữ là phong trào “Đón Gôđa” (J. Godart), đặc sứ của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương. Ngày 1/1/1937, ông Godart tới Sài Gòn. Ngày hôm đó, dưới danh nghĩa đón Godart, 20.000 quần chúng lao động biểu tình tiến về Bến Nhà Rồng. Khắp Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, từng đoàn người, có nhiều đoàn do phụ nữ cầm đầu rầm rộ kéo về từ khuya, đội ngũ chỉnh tề. Bị cảnh sát chặn đường, bắt một số người cầm đầu, nhưng 5.000 người vẫn lọt được vào cảng. Godart đến, hàng ngàn cánh tay giơ lên chào 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd.
- 121 - mừng ông bà Godart, đồng thời giơ lên các khẩu hiệu: Hoan nghênh Mặt trận nhân dân, đòi tự do lập Hội, thi hành luật lao động, đại xá chính trị phạm. Cảnh sát nhảy vào giật băng, dân chúng lại tiếp tục hô vang các khẩu hiệu. Dịp này, nhiều đại biểu nữ trong các đoàn công nhân các hãng rượu La-ve, thuốc lá Cotab khi Godart đến thăm đã đưa các yêu sách được chuẩn bị sẵn. Và sau hoạt động này, những chị em đó bị đuổi khỏi hãng. Tiếp đó, ông đặc sứ đã tiến hành các cuộc tiếp xúc với đại diện các giới, các xí nghiệp, đồn điền ở Sài Gòn và một số địa phương ở Nam Kỳ. Sau hành trình ra Trung Kỳ, Bắc Kỳ, ngày 1/3/1937, ông Godart trở về Pháp sau cuộc mít tinh đưa tiễn của hàng ngàn người để trao cho phái đoàn một bản kiến nghị gồm 9 điểm, nhấn mạnh đến những yêu sách đòi quyền tự do dân chủ của nhân dân Đông Dương. Sự kiện này làm “dấy lên một cao trào đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ trên khắp cả nước”(1), và là nền tảng để những người chiến sĩ kiên trung giương cao ngọn cờ đấu tranh cách mạng. Hai tuần sau Brévié(2) đến Sài Gòn, một cuộc biểu tình lớn hơn nữa được tổ chức(3). Sau hai cuộc mít tinh, ngày 18/11/1937, Đảng ta tổ chức cuộc mít tinh lớn “thảo luận dân nguyện”. Cuộc mít tinh huy động anh chị em thợ thuyền Sài Gòn, nông dân vành đai đỏ ngoại thành và nhân dân Lục tỉnh họp tại rạp Thành Xương, vô cùng đông đảo. Trong cuộc mít tinh này, nhiều phụ nữ đã 1. Dương Trung Quốc (2000), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919 - 1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 261. 2. Joseph Jules Brévié - Toàn quyền Đông Dương từ tháng 1 năm 1937 đến tháng 5 năm 1940. 3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 81.
- 122 - đăng đàn diễn thuyết như chị Trần Thị Phụng, chị Mai Sóc. Chị Mai Sóc nói những lời mộc mạc, nhưng hiên ngang: “Bọn đế quốc là quân chó đẻ. Mấy chục năm trời, đã đàn áp đồng bào, bà con chúng ta. Nó đã khủng bố đồng bào, anh chị em ta một cách dã man. Nó bóc lột khoét đẽo đủ trăm bề, bề nào cũng làm cho chúng ta không cất đầu lên nổi”. Những lời phát biểu này chĩa thẳng mũi dùi vào chế độ thực dân, khiến cho cuộc mít tinh, không chỉ là cuộc họp đơn thuần bày tỏ dân nguyện, mà trở thành phiên tòa công khai kết tội thực dân Pháp. Chị Mai Sóc tiêu biểu cho người phụ nữ lao động Sài Gòn can trường, trực tính, dám ăn nói, không sợ bạo quyền(1). Những nữ đảng viên thế hệ tiền phong Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Nhỏ, Nguyễn Thị Lựu… là những phụ nữ trưởng thành trong phong trào tranh đấu tại Sài Gòn. Họ là những nhân vật lịch sử của phong trào phụ nữ trong giai đoạn này, đóng vai trò hạt nhân, có tác dụng phát động phong trào đấu tranh, là tấm gương đấu tranh và giáo dục, động viên chị em phụ nữ. Tinh thần cởi mở của mảnh đất đã thể hiện trong chính con người: hòa hợp, thân ái, vì mục tiêu chung. Sang đầu năm 1939, chính sách đối nội và đối ngoại của thực dân Pháp ngày càng đi sâu vào con đường phát xít hóa. Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa bắt đầu đàn áp phong trào quần chúng, tăng cường bóc lột nhân dân. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do dân chủ, một làn sóng biểu tình, bãi công nổ ra từ thành thị đến nông thôn, khẩu hiệu: chống chiến tranh, chống phát 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd.
- 123 - xít Nhật, ân xá tù chính trị, chống âm mưu chia rẽ phá hoại phong trào của bọn Tơ-rốt-kít, ủng hộ nhân dân Trung Hoa kháng Nhật. Nổi bật trong tháng 6/1939 là cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son với hơn 4.000 công nhân nam nữ tham gia. Thực hiện chủ trương của Thành ủy, các hãng xưởng khác đều nêu khẩu hiệu ủng hộ công nhân Ba Son. Phụ nữ là lực lượng nòng cốt trong các cuộc vận động quyên góp tiền, thuốc, lương thực, thực phẩm, hỏi thăm anh chị em công nhân đình công. Chị Hai Sóc và Ba Bầu (Nguyễn Thị Huỳnh) thường được nhắc đến trong công tác ủng hộ các cuộc đình công của công nhân Ba Son. Cũng trong năm này, ở Hóc Môn, Đảng bộ đã chủ trương ngăn chặn bàn tay khủng bố trắng của thực dân (cho giải tán hội ái hữu, hội âm công) bằng tổ chức một cuộc đấu tranh lớn đòi thực hiện tự do dân chủ như tự do họp hội, tự do nghiệp đoàn. Lực lượng đấu tranh gồm dân chúng ba huyện Hóc Môn, Bà Điểm, Đức Hòa. Chị Năm Nuôi lãnh đạo. Chị Thử và chị Sáu đi đầu, giương cờ, vừa đi vừa hô khẩu hiệu với khí thế sôi nổi. Trên đường đi, hàng ngũ được nối dài bởi anh chị em bạn chợ. Tên đại diện quận buộc phải nhận đơn hứa chuyển lên trên. Trên đường về, thấy 7 anh ở đoạn cuối đoàn bị lính bắt giữ, lập tức chị em quay lại đấu tranh. Hơn 100 chị xếp hàng tư câu chặt tay nhau kéo đến nhà việc, đòi phải thả 7 người bị bắt. Lính từ Gia Định xuống cũng không giải tán được các chị. Chúng lùa các chị nhốt vào khám. Tại đây, các chị đã đấu tranh quyết liệt, buộc chúng phải thả 7 người bị bắt. Năm 1939 kết thúc thời kỳ sôi nổi rầm rộ của phong trào vận động dân chủ Đông Dương. Các tầng lớp nhân dân, trong
- 124 - đó có lực lượng phụ nữ được huy động đông đảo. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, họ đã hăng hái tham gia với nhiều hoạt động đấu tranh phong phú. Đây là tiền đề, những đợt tập dượt bước đầu để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh mới - đấu tranh vũ trang thực sự trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ và Cách mạng tháng Tám năm 1945. Phong trào đấu tranh dân chủ 1936 - 1939 nói chung, trong đó nổi bật là Đông Dương Đại hội, là một trong những hoạt động chính trị lớn đã góp phần quyết định trong việc hình thành phong trào và lực lượng phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong hoàn cảnh công khai, lực lượng phụ nữ tham gia hoạt động xã hội phát triển mạnh với thành phần ngày càng mở rộng. Ngoài chị em nữ công nhân, nông dân là lực lượng cơ bản, chị em tiểu thương các chợ, chị em lao động nghèo, nữ hộ sinh các trường, nữ công chức, tư chức cũng sát cánh trong các cuộc mít tinh, biểu tình và đấu tranh đòi quyền lợi thiết thân. Trong điều kiện mới, chị em sinh hoạt chính trị, đọc sách báo, được tiếp xúc với nhiều người nhiều giới, trình độ hiểu biết được nâng cao, tầm nhìn được mở rộng. Nhìn lại giới của mình, chị em cũng tha thiết có một tổ chức riêng. Trong điều kiện đó, từ năm 1936 đến năm 1939 các tổ chức Hội Phụ nữ Dân chủ, Hội Phụ nữ Phản đế, Hội Phụ nữ Tân tiến nối tiếp nhau ra đời, trở thành các tổ chức đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của chị em, tập hợp họ lại thành một khối vững mạnh, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng phụ nữ trong giai đoạn 1936 - 1939(1). 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 104.
- 125 - b. Phong trào Học sinh và Thanh niên Tiền phong 1940 - 1945 Đi liền với khủng bố phong trào, bắt bớ giam cầm chiến sĩ cộng sản, đàn áp đấu tranh, thực dân Pháp ra sức mua chuộc tầng lớp trí thức, mà tiêu biểu là sinh viên, học sinh. Chúng xây dựng học xá, tổ chức các hoạt động, cung cấp đầy đủ tiện nghi nhằm lôi kéo giai cấp này trở thành tay sai cho chúng. Bên cạnh đó, chúng ra sức tuyên truyền văn hóa phương Tây, rẻ rúng, bôi nhọ văn hóa dân tộc. Phong trào học sinh 1939 - 1940 và sau đó là phong trào Hát ca cách mạng của học sinh sinh viên, thanh niên, trí thức, phụ nữ Việt Nam là một điển hình cho tinh thần sáng tạo trong tổ chức đấu tranh chính trị theo một cách thức mới mẻ, phù hợp với tính cách, đặc điểm con người, vùng đất và hoàn cảnh lịch sử thời kỳ này. Những hoạt động tranh đấu, hình thức tổ chức lực lượng từ phong trào học sinh cũng là những yếu tố tiền thân hình thành nên phong trào Thanh niên Tiền phong trong những năm 1943 - 1945, cho đến ngày Thanh niên Tiền phong tuyên bố gia nhập Mặt trận Việt Minh, trở thành một lực lượng chính thức của cách mạng. Phong trào học sinh 1939 - 1940 tại Trường Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký - trường trung học công lập duy nhất cho người bản xứ tại Sài Gòn, nơi tập trung nhiều học sinh có tinh thần yêu nước, đã từng có nhiều học sinh tham gia hưởng ứng phong trào Đông Dương Đại hội 1936 - 1937 do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, đã được đọc sách báo cách mạng, đã từng tham gia đấu tranh, kêu gọi nhà cầm quyền trả tự do cho các đại biểu Đảng Cộng sản trong Hội đồng thành phố Sài Gòn, có người từng bị chúng bắt giam trái phép. Đứng trước cơ hội lịch sử của tiền khởi nghĩa, anh
- 126 - chị em học sinh vô cùng háo hức. Tâm lý chung là muốn bằng mọi cách phải hoạt động gì đó để góp sức mình. Sáng kiến nhân dịp cúng ông Táo trước Tết Nguyên đán năm 1940, để đưa vào các tiết mục văn nghệ, nói lên tâm tư nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trong bài sớ Táo Quân, với nội dung nhắn gửi những thanh niên bị bắt sang Pháp đừng quên quê hương, rằng quê hương Việt Nam còn đang chịu lắm cực khổ, gian nan, sang bên kia phải mở mang trí óc, nhìn rõ thế giới để nhìn lại, giúp cho đất nước Việt Nam. Để biểu thị tinh thần dân tộc, học sinh đã tự phá luật, không mặc âu phục mà mặc áo bà ba, áo dài the đen. Phong trào này đã có những ảnh hưởng đến các trường học khác, nhiều nữ học sinh đã hăng hái tham gia. Tổ chức Tổng hội Sinh viên đã tập hợp sinh viên yêu nước của cả ba miền, không phân biệt nam nữ. Sinh viên Nam Bộ chiếm số đông trong lực lượng nòng cốt, có Nguyễn Thị Lợi, Tô Huệ Mỹ, Bùi Thị Lẫm, Nguyễn Thị Thương, Nguyễn Thị Thiều… Tháng 12/1942, Pháp tổ chức Hội chợ Đông Dương tại vườn Bờ rô Sài Gòn (nay là Công viên văn hóa Tao Đàn). Tổng hội Sinh viên đã thuê mấy toa xe lửa để chở sinh viên từ Hà Nội vào. Đông đảo học sinh Sài Gòn đã tập hợp trước ga xe lửa hát bài Tiếng gọi sinh viên, biểu thị tinh thần đoàn kết, phấn khởi chào mừng đoàn đại biểu sinh viên từ Hà Nội vào. Đoàn tổ chức cắm trại tại suối Lồ Ồ - trên đường Thủ Đức - Biên Hòa, nơi còn hoang vu, người dân quanh năm bị bệnh sốt rét hoành hành, hầu hết mù chữ. Đoàn đặt mục tiêu vận động thêm quần chúng vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Các trại sinh đã tiến hành khám chữa bệnh, cho thuốc, dạy chữ
- 127 - Quốc ngữ cho người dân, dạy hát cho thanh niên yêu nước tại địa phương. Năm 1943, chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn mới, cuộc phản công thắng lợi to lớn của Hồng quân Liên Xô đã đánh bại phát xít Đức ở mặt trận Stalingrad, tiếp tục tiến lên như vũ bão đánh đuổi bọn Đức Quốc xã. Ở Viễn Đông, phát xít Nhật mất hầu hết hạm đội trên biển. Tình thế này tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho phong trào đấu tranh ở trong nước. Sinh hoạt âm nhạc tại thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ mang nhiều tính chất lai tạp, do ảnh hưởng của sự du nhập từ nước ngoài, như nhạc khiêu vũ, nhạc phim ảnh Nhật. Phong trào diễn thuyết, triển lãm về hình ảnh nguồn gốc dân tộc, truyền thống lịch sử Việt Nam cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu nhận rõ nguồn gốc và sức mạnh của truyền thống lịch sử để tiến tới đoàn kết cứu nước. Tổng hội Sinh viên tổ chức ba đêm dạ hội tại Nhà hát lớn Sài Gòn, một đêm cho nam sinh, một đêm cho nữ sinh, một đêm cho cả nam và nữ, nêu cao tinh thần phản kháng, chống lại việc người Pháp đầu độc thanh thiếu niên, bôi xấu dân tộc. Trong những đêm dạ hội này, nhiều bài hát, vở kịch được đưa ra trình diễn như: Đêm Lam Sơn, Bóng người núi Lam, Người xưa đâu tá… Tất cả khán giả nhà hát đều đứng dậy rầm rập giẫm chân, đập bàn hưởng ứng theo giai điệu bài hát Tiếng gọi sinh viên, kéo dài đến hơn 1 giờ khuya. Sau đó, Sở Mật thám đã gọi người quản lý nhà hát để khiển trách. Trước đó, đêm 23/1/1943, dạ hội trường nữ học Đồng Khánh ở Hà Nội tổ chức. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà trường biểu diễn giới thiệu vở kịch Tục lụy, cũng là vở kịch mới đầu tiên của lịch sử ngành sân khấu Việt Nam, dưới sự phối hợp của nhà thơ Thế Lữ và nhạc sĩ sinh viên Lưu Hữu
- 128 - Phước. Vở kịch cùng với bài hát Buổi chiều đông đã gây sự xúc động đối với giới nữ. Tuy không trực tiếp vận động cách mạng nhưng nó có ý nghĩa giáo dục về quan niệm sống chính đáng của con người, có ý nghĩa đấu tranh giữa lương tri và lối sống ích kỷ cá nhân, đi tới quyết tâm từ bỏ đời nhàn cư phù phiếm để dấn thân gánh vác trách nhiệm xã hội. Lời đưa duyên kết thúc Tục lụy “Người nữ thanh niên sẵn sàng rời bỏ cuộc sống an toàn để chọn con đường nghĩa vụ”, chuyển sang vở Nợ Mê Linh nhắc nhở chị em truyền thống quật khởi của Hai Bà Trưng, nhắc phụ nữ ngày nay phải nhớ lấy, phải noi theo Hai Bà Trưng trả thù nhà nợ nước. Tại Nhà hát lớn Sài Gòn, nữ sinh đồng ca bài Thiếu nữ Việt Nam có sức mạnh hiệu triệu, đánh thức và thúc giục tinh thần dân tộc của nhiều học sinh các trường, giải tỏa nỗi lòng chất chứa bấy lâu nay khi các bài học lịch sử dân tộc bị xuyên tạc, khi hằng ngày mở sách phải học thuộc lòng “tổ tiên của người Việt là người Gaulois”, hay mỗi lần nhắc đến các danh nhân, nữ anh hùng Việt Nam đều bị giáo viên người Pháp mắng phạt. Bài hát này, sau đó một lần nữa, lại được hát lên ở khắp nẻo đường trong thành phố Sài Gòn trong cuộc tổng tiến công Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ nền tảng tính cách và tư chất, từ quá trình tiếp nhận cái mới và tự giải phóng khỏi tập tục cũ, từ tính cách Nam Bộ mạnh mẽ và hào hiệp, trên mặt trận chính trị, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn đã chứng minh sức mạnh đấu tranh kiên cường, bất khuất, sáng tạo của mình, trở thành một lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Năm 1943, Xứ ủy Nam Kỳ được thành lập lại. Khi ấy tình hình thế giới đã sáng sủa trở lại, Hồng quân đã đánh lui quân
- 129 - Đức. Ở Đông Á, Nhật bắt đầu thất bại. Ở Sài Gòn, và các tỉnh, lòng tin của quần chúng đã được nhen nhóm trở lại. Công hội, nông hội tái sinh. Một số cán bộ ẩn mình sau 4 năm đã trở lại hoạt động. Đầu năm 1945, Hồng quân tiến đánh Berlin, quân Mỹ đổ bộ lên Philippines, vậy mà ở Nam Bộ, ngay cả Sài Gòn, là nơi Xứ ủy chú trọng vào bậc nhất, cũng không đáp ứng kịp nhu cầu của tình hình. Non triệu đảng viên, 10 ngàn đoàn viên công đoàn ở trong thành phố vạn dân như Sài Gòn cũng không tới đâu, như muối bỏ bể. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Để tranh thủ lực lượng quần chúng đông đảo ở Nam Kỳ thực hiện chiêu bài “Châu Á của người châu Á”, Thống đốc Nam Kỳ Minoda cho phép thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được Xứ ủy Nam Kỳ bí mật giao nhiệm vụ tham gia tổ chức do Nhật thành lập, tập hợp lực lượng để thực hiện mục tiêu của Đảng, của Mặt trận Việt Minh. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được cử làm Chủ tịch phong trào Thanh niên Tiền phong, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Trưởng ban Tổ chức. Những người nắm vai trò thủ lĩnh trong phong trào Thanh niên Tiền phong còn có kỹ sư Kha Vạng Cân, luật sư Thái Văn Lung, nha sĩ Nguyễn Văn Thủ… Phong trào Thanh niên Tiền phong, Phụ nữ Tiền phong đang sôi nổi, không khí ấy càng được tiếp sức bởi một số sinh viên ở Hà Nội trở về, như các anh Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, dấy lên các hoạt động có ý nghĩa văn hóa sâu sắc. Những buổi diễn thuyết về những chiến thắng oanh liệt (Bạch Đằng Giang,…), những cuộc triển lãm về lịch sử hào hùng của dân tộc, những đêm diễn kịch (“Hội nghị Diên Hồng”, “Nợ Mê Linh”), những bài ca yêu nước (Bạch Đằng Giang, Hồn sĩ tử, Ải Chi Lăng) đã đi sâu vào lòng người, làm sống lại những chiến công chói lọi
- 130 - của tổ tiên, thức tỉnh lòng yêu nước, tự hào dân tộc của cả một thế hệ thanh niên nam nữ mà thực dân Pháp đang cố tình ru ngủ bằng phong trào thể thao, bằng lối sống tài hoa son trẻ(1)… Thanh niên Tiền phong nhanh chóng trở thành phong trào phát triển mạnh nhất Nam Bộ, với 2 triệu thành viên, riêng Sài Gòn đã có 200.000 đoàn viên/ 1 triệu dân, trong đó đông đảo là lực lượng phụ nữ. Thành phần phong trào được mở rộng ra các giới: Phụ nữ Tiền phong, Phụ lão Tiền phong, Thiếu niên Tiền phong, Thanh niên Tiền phong… Đến tháng 8/1945, Thanh niên Tiền phong thực sự trở thành một mặt trận dân tộc thống nhất tập hợp rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, các tôn giáo và cao trào cách mạng toàn dân. Đó là kết quả của hoạt động năng động, tích cực trong công tác tuyên truyền, vận động trí thức, đồng thời cho thấy ảnh hưởng của trí thức trong nhân dân ngày càng sâu rộng. Nhiều phụ nữ đã được rèn luyện, trưởng thành trong phong trào từ lúc là học sinh qua những bài ca yêu nước, nay gia nhập phong trào với tấm lòng hăng hái, tích cực nhất. Bài hát Lên đàng trở thành ca khúc chính thức của Thanh niên Tiền phong, vang dội khắp phố phường đến tận làng quê. Đội Phụ nữ Tiền phong thì tập hát bài Thiếu nữ Việt Nam(2), 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 138. 2. Lời bài hát: “Trông hoa xuân thắm tươi trên muôn cành Lòng niên thiếu chan chứa hương xuân Reo lên trong nắng mới, trong vui mới Vì chị em ấy hoa của đời Này chị em khắp nước Nam Dịu dàng như những đóa hoa Tô điểm thêm cho sơn hà…”
- 131 - Việt nữ gọi đàn(1), có nội dung cách mạng cụ thể hơn. Qua những bài hát lịch sử, phụ nữ Sài Gòn đã nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Việt Minh, quyết tái diễn một Hội nghị Diên Hồng mới đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập cho dân tộc. Đông đảo phụ nữ, thanh niên sinh viên, trí thức đội viên Thanh niên Tiền phong, lần đầu tiên trong cuộc đời mình từ bỏ cuộc sống bàng quan, thờ ơ để lao vào những hoạt động mới, đầy sáng tạo, sôi nổi. Các mẹ, các chị hỗ trợ Thanh niên Tiền phong, đi quyên gạo, quyên tiền và tổ chức những đoàn xe ra Hà Nội tiếp tế cho hàng triệu đồng bào miền Bắc đang bị nạn đói đe dọa. Chị em nữ thanh niên học sinh, công tư chức tham gia các lớp truyền bá chữ Quốc ngữ. Đến tháng 7/1945, chị em gia nhập Phụ nữ Tiền phong tham gia các lớp cứu thương do chị Nguyễn Thị Lợi - sinh viên y khoa phụ trách. Những hoạt động xã hội rầm rộ, sôi nổi của Thanh niên Tiền phong, Phụ nữ Tiền phong đã mang rõ nét tinh thần của dân tộc, nghĩa tình đồng bào, có tác dụng giáo dục cho giới trẻ ý thức sống vì đồng bào, sinh hoạt, lao động hăng say, không tính toán tư lợi. Không khí tươi vui, tưng bừng phấn khởi bao trùm khắp Sài Gòn, lôi cuốn cả lớp người lớn tuổi. Hằng ngày trên khắp các nẻo đường, vang lên tiếng ca hát “này thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi…” càng hun đúc tinh thần yêu nước, thôi thúc mọi người đứng lên hành động, giành lại độc lập cho dân tộc. 1. Lời bài hát: “Ta sánh vai cùng theo dấu nữ anh hùng Tiếng vang lừng cõi sơn hà Ai đem phấn son tô điểm màu sắc nước non… Sông núi đúc nên tâm hồn sắt son Quyết tâm nguyện đi giúp nước non…”.
- 132 - Ngày 16/8/1945, Thanh niên Tiền phong tuyên bố gia nhập Mặt trận Việt Minh, để sau đó 1 tuần hàng chục vạn đoàn viên Thanh niên Tiền phong trong tổ chức Mặt trận Việt Minh đã tổ chức thành công cuộc khởi nghĩa giành lấy chính quyền từ tay quân Nhật về cho nhân dân trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Và 29 ngày sau, miền Nam đứng lên chống Pháp, chính Thanh niên Tiền phong là đội quân chủ lực trong lực lượng kháng chiến chống Pháp buổi đầu, “đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến” với những trận đánh ở mặt trận Cầu Kiệu, Thị Nghè… nhằm bao vây cô lập quân thực dân Pháp, không cho chúng xông ra vùng ven, đủ thời gian để xây dựng căn cứ và đón lực lượng từ nội thành ra. Hơn một năm sau, năm 1946, để thống nhất tổ chức thanh niên cách mạng cả nước, Thanh niên Tiền phong được đổi tên thành “Thanh niên Cứu quốc”. c. Đấu tranh trong tù giai đoạn 1940 -1945 Từ những năm 1930 - 1931, Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier đã lo lắng về sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương, chủ trương chính sách chung của Pháp ở khu vực này là khủng bố, đàn áp. Đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Pháp đã chủ trương khủng bố nhằm đánh tan chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng, chỉ có phá tan Đảng Cộng sản, trừ diệt không còn người cộng sản thì mới có thể đảm bảo duy trì sự cai trị của chúng ở Đông Dương(1). Sau cao trào đấu tranh của nhân dân năm 1931 - 1932, bọn thực dân vừa tức giận vừa hốt hoảng, tiến hành khủng 1. Báo Dân Hiệp, số ra ngày 28/12/1940. Lưu tại Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
- 133 - bố trắng trên cả ba miền(1). Chúng lùng bắt giam cầm, tù đày, sát hại những người yêu nước. Chúng điều lính tráng, cho máy bay ném bom, triệt hạ những nơi mà chúng nghi là có cơ sở cách mạng. Chủ trương của chúng là “Thà giết oan một nghìn người còn hơn là để thoát một tên cộng sản”. Chỉ cần có kẻ nào đó “rơi thơ” tố giác người nào, nhà nào, tức thì “lính tráng tới bao vây, hiệp với hương quản làng sở tại để bắt”. Thực dân Pháp khủng bố trắng, lùng sục các tổ chức cách mạng, bắt chiến sĩ. Ở Sài Gòn, tính đến năm 1935, chúng đã giết chết 833 người. Nhiều đồng chí lãnh đạo Xứ ủy, Tỉnh ủy, các đồng chí đảng viên cốt cán bị bắt: đồng chí Châu Văn Liêm - Bí thư Liên tỉnh ủy Chợ Lớn - Gia Định, đồng chí Lê Quang Sung - Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn. Ở Khám Lớn Sài Gòn, năm 1929 mới chỉ có vài ba tù chính trị nữ, nhưng đến năm 1931, Pháp đã cho làm thêm khám số 16 để giam riêng số chị em gọi là cộng sản, bị bắt vì tổ chức và tham gia biểu tình(2). Cuộc đấu tranh trong tù trở thành một mặt trận quan trọng và ngày càng được mở rộng, tính chất ngày càng quyết liệt hơn, theo mức độ bắt bớ đàn áp của thực dân Pháp. Ngày 21/11/1931, sau khi nghe tin Lý Tự Trọng bị xử tử hình, anh chị em tù đã nổi dậy đấu tranh. Khi Lý Tự Trọng bước lên máy chém, hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Pháp, Đảng 1. TS. Nguyễn Duy Bính (2001), “Những chứng tích tội ác chiến tranh của thực dân Pháp và cuộc kháng chiến của nhân dân Bình Chánh thời kỳ 1858 - 1945”, trích trong: Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 225. 2. Túy Vân, “Khám Lớn Sài Gòn”, trích trong sách Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 450.
- 134 - Cộng sản Đông Dương muôn năm”, lập tức anh chị em trong ngục hưởng ứng hô theo làm rung cả Khám Lớn. Từ 6 - 9 giờ sáng, chị em phụ nữ hô rất lớn. Địch đàn áp anh chị em tù dã man, lấy dùi cui đánh túi bụi, dùng vòi rồng nước xịt vào mặt đến ngộp thở. Sức nước quá mạnh khiến nhiều chị bị té xuống gạch, có chị bị gãy răng, bể cằm. Sau đó chúng phạt còng tay, còng chân. Những nữ chiến sĩ cộng sản đầu tiên của thành phố không chỉ vững vàng kiên trung trước tòa án, mà trong tù ngục, các chị vẫn giữ tinh thần lạc quan, tin tưởng tuyệt đối vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa: “… Dầu trải bao phen cơn sóng gió Tấm lòng thiết thạch há lung lay Còn trời, còn đất, còn cơ hội Ngang dọc rồi ra cũng có ngày”(1). Sự dã man của thực dân đối với tù chính trị, đặc biệt tù chính trị nữ, là không kể xiết. Theo tư liệu, chúng cho điều một lực lượng lính săng đá(2) đông chưa từng thấy vây quanh các phòng giam, đồng thời xe chữa lửa với vòi phun nước cực mạnh đến đậu trước cửa khám. Chúng kéo dây chuyền nước vào tận cửa các phòng giam, vừa mở toang cửa ra là vòi nước chữa lửa nhắm thẳng vào người tù quật tới. Sức nước vô cùng mạnh, những chị em tù đứng ngoài bị bất ngờ nên đã ngã lăn trào máu. Một trận chiến đấu bắt đầu giữa một bên là roi mây ngâm nước cầm sẵn trên tay xông vào đánh đập, vòi xịt nước 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 62. 2. Lính săng đá (soldat): từ chỉ lính Pháp hoặc lính lê dương đánh thuê, không phải là binh lính người Việt.
- 135 - cực mạnh quét tới tấp, một bên là những tấm thân người tù yếu ớt, ốm đau vì sự đói khổ, bị tra tấn, bị cực hình đang câu tay nhau chịu sự đàn áp vô cùng tàn bạo. Trong giây phút ấy cả phòng giam ngập nước, đồ đạc trôi lềnh bềnh. Đồ đạc của chị em bị nước cuốn, những tấm thân yếu đuối của chị em phụ nữ tan tác trước sức mạnh đàn áp vô cùng dã man tàn bạo của chúng. Chị em tù ngất xỉu ngã lăn. Chúng tràn vào đánh tới tấp. Đôi khi, chúng còn trừng phạt nữ tù nhân bằng cách bắt mặc đồ ướt, nằm trên nền xi măng lạnh lẽo, cho ăn cơm vắt, mỗi người một vắt không cho thức ăn(1). Tại nhà tù, thực dân Pháp đã dùng những cực hình tra tấn vô cùng dã man theo kiểu thời trung cổ với những phụ nữ chân yếu tay mềm. Chúng dùng củ mây đánh vào gan bàn chân tù chính trị cho đến khi nứt nẻ như trái dưa gang chín, các ngón chân đều bị sứt móng. Chúng dùng các kiểu tra tấn hết sức dã man như “tàu bay”, “tàu lặn”, “lộn mề gà”, làm cho tù chính trị hộc cả máu họng ra cho đến khi bị chết giấc. Chưa hết, chúng còn hạ nhục chị em bằng cách lột hết quần áo cho bọn bán nước và cướp nước nhìn rồi cười sằng sặc. Độc ác hơn là chúng dùng điện châm vào hai đầu vú nữ tù chính trị rồi quay ma nhê tô bao giờ chết giấc mới gỡ ra… Nhưng những hình thức tra tấn dã man này không làm lay chuyển ý chí của những nữ chiến sĩ cách mạng tiền phong ấy. Dù thân thể đau đớn, nhưng họ vẫn không ngừng phấn đấu, đùm bọc nhau, dạy chữ, học tập lý luận Mác - Lênin, và tìm cách liên lạc với bên ngoài. Nhà tù đã trở thành trường học cách mạng. 1. Túy Vân, “Khám Lớn Sài Gòn”, in trong sách Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 454.
- 136 - Sau cao trào 1930 - 1931, địch tăng cường khủng bố, đàn áp nên phong trào tạm lắng xuống, địa bàn hoạt động di chuyển và phương thức hoạt động thay đổi. Nhưng sau đó, ngọn lửa tranh đấu lại bùng lên. Từ ngày 2 đến ngày 9/5/1933, dư luận tập trung theo dõi cuộc đấu tranh ở phiên tòa đại hình Sài Gòn. Thực dân Pháp giải 121 tù chính trị ra tòa. Sau khi tên chưởng lý đọc bản án buộc tội: làm náo loạn, trộm cướp, giết người, phân biệt màu da, bài ngoại…, ngay lập tức các đồng chí đứng lên phản đối gay gắt. Phiên tòa đã được mệnh danh là “Vụ án Đảng Cộng sản Đông Dương”. Các đồng chí ở Chợ Lớn có mặt ở phiên tòa này là Lê Quang Sung, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Thị Nhỏ… Chị Nguyễn Thị Nhỏ đã dũng cảm đứng lên tố cáo đanh thép chế độ tàn bạo của thực dân Pháp đối với phụ nữ và kiên quyết bảo vệ danh dự của Đảng. Chị nói: “Chế độ các ông vô cùng tàn bạo đối với phụ nữ, chính vì vậy, chị em chúng tôi phải đứng lên làm cách mạng chống lại chính sách dã man đó. Thực dân Pháp và địa chủ phong kiến áp bức bóc lột nhân dân thậm tệ, không làm cách mạng, không thể phá vỡ được chế độ bóc lột, xóa bỏ xã hội bất công này, đòi lại quyền làm người, quyền bình đẳng cho phụ nữ chúng tôi”(1). Thực dân Pháp tuyên 12 án tử hình, trong đó có những đồng chí trên. Nhưng dưới sức ép của dư luận, các đồng chí được giảm án, bị đày khổ sai ở Côn Đảo. Trong 6 nữ tù, chị Nhỏ bị án nặng nhất: 15 năm khổ sai; các đồng chí Nguyễn Thị Lựu, Nguyễn Thị Lôi, Nguyễn Thị Mai, Trần Thị Hân, Trần Thị Đầy: 5 năm tù. Sau khi tuyên án, chúng đưa các chị 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 61.
- 137 - về trại giam. Bị mất tự do, ăn uống kham khổ, thiếu thốn, các chị vẫn tranh thủ học văn hóa, chính trị, tìm cách liên lạc với bên ngoài, phối hợp đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc. Trong hai năm 1934 - 1935, trong tổng số 60 cuộc đấu tranh của nhân dân lao động toàn Đông Dương thì đã có 40 cuộc nổ ra tại Sài Gòn(1). Cuộc đấu tranh quyết liệt bên ngoài nhà tù, khi bị bắt bớ giam cầm đã chuyển thành cuộc đấu tranh mới diễn ra ngay bên trong nhà tù. Ngoài phương tiện báo chí, các buổi mít tinh, diễn thuyết lần lượt được phục hồi trong các hình thức đấu tranh chính trị công khai hợp pháp. Ở Đức Hòa, các chị Võ Thị Phái, Nguyễn Thị Thiên, Võ Thị Thung, Huỳnh Thị Sưa luôn là những người đi đầu trong đấu tranh, liên lạc, đồng thời còn tiếp tế, thăm nuôi những đồng chí trong tù. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940, sau các cuộc bắt bớ tràn lan, tại các nhà tù, tình trạng tra tấn tù nhân mới thực sự khủng khiếp. Nhiều tư liệu đã cho thấy “tình trạng man rợ trong các nhà tù”(2). Nhà tù được chúng dùng để khống chế về mặt tinh thần và hành hạ về mặt thể xác đối với những người nổi dậy chống lại sự thống trị của chúng để giành lại quyền sống, quyền độc lập và tự do của đất nước và của bản thân mình. Một nhân chứng người Pháp kể lại những gì họ đã thấy sau khi rời Sài Gòn năm 1941: “Hàng dãy người tù, đàn ông và đàn bà ngồi, chân đút trong thanh sắt ngang có ổ còng. Họ bị buộc phải sống như thế trong cảnh thường xuyên bị đánh đập và chửi rủa của 1. Bằng Giang (1999), Sài Côn cố sự, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr. 91. 2. Trần Giang (2001), “Sự tàn bạo của đế quốc Pháp đối với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ”, in trong sách Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 359.
- 138 - bọn cai ngục để chờ đợi ngày ra tòa”, “những biện pháp dùng để buộc người tình nghi phải khai báo: dùng bình điện dòng dây nối vào bộ phận sinh dục, cho kiến bò vào chỗ kín của phụ nữ…”(1). Bọn đế quốc bắt người vô tội vạ, cho nên tất cả các nhà tù Sài Gòn cũng như các tỉnh đều chật ních. Các trường học như trường Gia Long phải dời sang địa điểm khác để cho quân Nhật, Anh dùng làm mục đích quân sự. Tù nhân bị giam ở khắp mọi nơi, sà lan, kho cảng được trưng dụng làm chỗ chứa tù nhân nhưng cũng không đủ, phải xây thêm 2 kho giam ở nhà tù Chí Hòa. Đối với các tù nhân bị nhốt ở sà lan, hằng ngày vào buổi chiều chúng xịt nước cho tắm rửa, rồi lại xua xuống như xúc vật. Sà lan bằng sắt, trôi nổi trên sông, dưới thời tiết nóng, ánh nắng mặt trời gay gắt mùa khô lại thêm thiếu nước uống không làm vệ sinh, thiếu ăn, bệnh tật ghẻ lở, sâu quảng, hoại thư, mùi hôi thối nồng nặc tỏa ra xa 2 - 3km. Tại Khám Lớn, mỗi người chỉ được khoảng không gian bằng 0,68m2 . Người tù bị mắc ghẻ, sâu quảng, kiết lỵ, hoại thư, chết trong tù. Ở các kho cảng, mỗi người tù chỉ được một khoảng diện tích 0,31m2 . Chúng dùng tòa án để trấn áp những người nổi dậy. Năm 1941, chúng đưa ra xét xử những người tham gia khởi nghĩa nhiều nhất (3.000 người), gồm tử hình, chung thân, 20 năm khổ sai và 20 năm quản thúc. Có thể nói, từ khi sang thống trị nước ta, chưa có cuộc nổi dậy nào đế quốc Pháp xử tử hình, chung thân và các loại tù khác nhau nhiều như cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Ngoài chị Minh Khai, chị Bảy, có không ít nữ cán bộ, đảng viên và quần chúng ở Đức Hòa hy sinh và bị bắt vào tù sau cuộc khởi nghĩa. 1. J. M. Hentrich, Độc lập 1, Paris, 1946, tr. 22.
- 139 - Khám Phú Mỹ(1) là một khám giam nữ tù nhân, chỉ tồn tại có 3 năm (1940 - 1943) nhưng là lại là nỗi kinh hoàng của những người phụ nữ bị giam cầm. Chị Phan Thị Tốt kể lại: “Khám chỉ có một cửa duy nhất, trên thì lợp tôn, tường được bít từ trên xuống dưới, không một lỗ hổng thông hơi hoặc cửa sổ. Mùa nắng hơi nóng tỏa xuống vô cùng ngột ngạt, phòng giam nhỏ, nhốt đông người, cộng thêm sự o ép của bọn cặp rằn, dưới sự chỉ huy của tên sếp lớn người Pháp Ca-tơ-le càng làm cho cuộc sống của những người tù vốn đã ngột ngạt lại càng khổ nhục hơn. Khám nằm bên kia bờ Thị Nghè - đối diện với Sở thú, tiền thân của khám là một chuồng nuôi ngựa. Cuối năm 1940, ở đây giam 240 người - là những phụ nữ đã tham gia chống đối lại chính sách cai trị của thực dân Pháp trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Hình thức tra tấn: đánh đập liên tục vào hai bàn chân, lấy củ mài chà vào chân cho đến khi da nứt, đổ nước vôi vào mũi, treo ngược hai tay lên, cả thân người lơ lửng hổng trên mặt đất. Những người phụ nữ bị tra tấn kiểu này thường bị tróc móng chân hoặc đái ra máu, thậm chí bỏ mạng trong tù, như chị Nguyễn Thị Bông bị tra khảo như thế cho đến chết. Có người còn bị tra tấn bằng cách cột túm ống quần rồi bỏ kiến vào trong cho kiến cắn như bà Ngô Thị Huệ. Chúng không cấp quần áo tù, mà chủ trương lấy quần dài của nữ tù cắt thành hai quần ngắn rồi đem phát lại cho họ. Độc ác hơn, những người tù có con nhỏ, khoảng 21 cháu (năm 1940), là những đứa trẻ nhỏ theo mẹ vào tù hoặc được sinh ra trong tù, 1. TS. Nguyễn Thị Hiển Linh (2001), “Nỗi thống khổ của người phụ nữ dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp”, in trong sách Sở Văn hóa - Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 313 - 317.
- 140 - chúng dùng những đứa trẻ để khủng bố tinh thần nữ tù. Sự vô nhân tính lên đến đỉnh điểm khi bọn chúng dùng gậy gộc đánh vào người tù để giằng lấy những đứa trẻ mang sang cô nhi viện ở gần đó. Sau một thời gian dưới sự gặng hỏi của các nữ tù, một nữ giám thị người Pháp, Rót-gy, thú nhận: những đứa trẻ lớn đã bị bỏ đói, những đứa trẻ nhỏ hơn đem liệng vào tổ kiến lửa cho kiến cắn đến chết. Chỉ có 3/21 đứa trẻ còn sống. Bọn cai tù bắt chị em đi làm khổ sai hoặc thuê gia công cho các hãng buôn lớn ở Sài Gòn với giá rẻ mạt. Các chị bị tước quyền thừa kế gia đình sau khi mãn hạn tù trở về. Về nhà, hầu hết họ không còn lành lặn, những vết thương trên da thịt từ những trận đòn tra tấn và nỗi đau mất con là sự mất mát quá lớn kéo dài mãi cho đến nhiều năm sau đó(1). 5. Đấu tranh vũ trang Từ kinh nghiệm của phong trào cách mạng quần chúng đang diễn ra, Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương Đảng (10/1930), đề ra việc tổ chức các đội tự vệ của công nhân, nông dân, chỉ rõ phải thành lập ra bộ phận chuyên trách quân sự trong Đảng để giúp cho các công hội, nông hội tổ chức lực lượng tự vệ của công nông, chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang của quần chúng sau này. Theo tinh thần đó, ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang gồm các đội tự vệ, đội du kích ở khắp các địa phương, trong nội thành và ngoại thành Sài Gòn, với sự tham gia của đông đảo phụ nữ. Bên cạnh đó, có loại hình hoạt động đặc trưng, cũng là thế mạnh của giới nữ: hoạt động vận động trong nhiều giới, 1. TS. Nguyễn Thị Hiển Linh (2001), “Nỗi thống khổ của người phụ nữ dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp”, in trong sách Sở Văn hóa Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Sđd, tr. 313 - 317.
- 141 - đặc biệt là binh vận - vận động binh lính người Việt, làm tan rã hàng ngũ địch, tiêu hao lực lượng vũ trang của địch. a. Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 Hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939 được tổ chức tại Bà Điểm (Hóc Môn - Gia Định) đánh dấu sự chuyển hướng cơ bản về chỉ đạo chiến lược cách mạng. Hội nghị đã nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, mở ra thời kỳ đấu tranh mới - thời kỳ chuẩn bị lực lượng đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị quyết định lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương, một trong những chủ trương quan trọng là “vận động phụ nữ tổ chức các Hội Phụ nữ phản chiến, phản đế, các Hội Cứu tế, bảo an để giúp đỡ nhau, nhất là giúp đỡ những nạn nhân do chiến tranh gây ra, đòi trợ cấp đầy đủ cho vợ con lính, đòi trả chồng con, chống đế quốc chiến tranh, đòi hòa bình… Theo chủ trương của Đảng, Hội Phụ nữ Phản đế được thành lập”(1). Tháng 3/1940, Xứ ủy Nam Kỳ vạch rõ: Để chuẩn bị bạo động, trước mắt là tổ chức đội tự vệ và du kích ở các địa phương. Cho đến cuối năm 1940, công tác xây dựng lực lượng vũ trang đã phát triển ở khắp các tỉnh Nam Kỳ. Ở Sài Gòn, các đội tự vệ, du kích dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, được gầy dựng và phát triển ngay trong những xí nghiệp lớn ở Sài Gòn như: Ba Son, F.A.C.I, bến tàu, nhà đèn Chợ Quán, trường Bách Nghệ… Ở các vùng ven Sài Gòn đều có từ một tiểu đội đến một trung đội du kích. Ở vùng nông thôn, nhiều xã tổ chức được từ một tiểu đội đến một trung đội du kích. Biên chế ba người thành một tổ, ba tổ 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Lịch sử Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tập I, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 93.
- 142 - thành một tiểu đội, ba tiểu đội thành một trung đội, trang bị thô sơ, tiến hành huấn luyện quân sự, chuẩn bị khởi nghĩa. Phong trào chống chiến tranh, chống bắt lính với khẩu hiệu “không một người lính, không một đồng xu cho chiến tranh đế quốc” diễn ra sôi nổi trong nhân dân và binh lính. Công tác binh vận được thực hiện ráo riết, phần lớn trong số 15.000 binh lính người Việt đóng ở Sài Gòn sẵn sàng phối hợp nổi dậy(1). Trước tình hình quần chúng sôi sục và chiến tranh Pháp - Thái(2) sắp nổ ra, tháng 7/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng đã thông qua đề cương chuẩn bị khởi nghĩa do Thường vụ Xứ ủy khởi thảo. Đồng chí Phan Đăng Lưu, đại diện Trung ương Đảng, sau khi dự hội nghị này được cử ra Bắc họp Hội nghị Trung ương lần thứ VII để báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương. Chị Nguyễn Thị Một (Một Nho) được Thường vụ phân khu Chợ Lớn chỉ đạo sát sao việc thành lập đội tự vệ trong các nhà máy như Nhà đèn Chợ Quán, Bến Tàu, và gây dựng cơ sở tại các đơn vị lính tập trung trong vùng. Những anh em hăng hái được lọc ra, tập hợp thành đội du kích từ 3 - 9 người. Toàn Sài Gòn đã có 34 đơn vị, đa số là công nhân, kế đó là học sinh. 1. “23/11/1940: Ngày Nam Kỳ Khởi nghĩa”, http://www.lichsuvietnam.vn/home.php? option=com_content&task=view&id=1028&Itemid=33 2. Chiến tranh Pháp - Thái (1940 - 1941) là cuộc chiến giữa Thái Lan và chính phủ Vichy của Pháp trong các vùng đất của Đông Dương thuộc Pháp mà từng thuộc về Thái Lan. Sau khi nước Pháp thất thủ năm 1940, việc quân Đức xâm chiếm Pháp khiến cho việc cai trị của Pháp ở những thuộc địa hải ngoại, bao gồm Đông Dương, trở nên vô nghĩa. Thiếu tướng Plaek Pibulsonggram (thường được biết đến là “Phibun”), THủ tướng Thái Lan, quyết định rằng việc thua trận của nước Pháp đem đến cho người Thái một cơ hội chưa từng có để giành lại những vùng đất đai mà họ đã mất dưới triều vua Chulalongkorn. Đối với người Pháp ở Đông Dương, cuộc chiến này là một lời nhắc nhở cay đắng về tình trạng bị cô lập của họ sau khi nước Pháp thất thủ (Nguồn: wikipedia).
- 143 - Các đơn vị đều được học tài liệu huấn luyện du kích, còn vũ khí thô sơ thì anh em tự trang bị. Các cơ sở tại nhà máy Ba Son, F.A.C.I. được phân công làm lựu đạn, ngoài số cung cấp cho Pháp, số vũ khí làm thêm được bí mật chuyển cho quân khởi nghĩa. Không khí khởi nghĩa ở nông thôn diễn ra sôi nổi. Mỗi xã ít nhất đều tổ chức một đội du kích. Tối đến, thanh niên kéo ra đồng tập võ nghệ. Ở nhiều làng, Nông hội dựng lò rèn chế tạo vũ khí thô sơ, chủ yếu là dao găm. Các mẹ, các chị quyên góp, vận chuyển đồ thau để đúc đạn. Ở căn cứ sâu, như Móp Xanh, có xưởng sản xuất lựu đạn và sửa súng. Đông đảo phụ nữ, ngoài việc sinh hoạt tình hình, tập võ nghệ, còn đảm nhận công tác hậu cần. Ngay từ tháng 8/1940, các chị đã vận động quyên tiền mua vải đỏ, vải vàng may cờ đỏ búa liềm và cờ đỏ sao vàng năm cánh, mua giấy in hàng vạn truyền đơn, phân phối đi các xã. Các chị cũng chuẩn bị nếp, đậu, phân công gói bánh tét, bánh ít, nấu xôi tiếp tế cho các đơn vị khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương nhận định điều kiện khởi nghĩa ở Nam Kỳ và trong cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa phát động khởi nghĩa. Trung ương cũng phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở lại để hoãn cuộc khởi nghĩa. Nhưng ngày 22/10/1940, vừa về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu đã bị bắt. Tinh thần chuẩn bị khởi nghĩa lúc ấy đã lên cao, lệnh khởi nghĩa đã truyền đi khắp nơi không thể thu hồi được. Giữa lúc công việc đang chuẩn bị khẩn trương, chị em làm công tác binh vận đưa tin cấp báo về Xứ ủy: tháng 11/1940, Pháp sẽ điều lính Việt đi đánh quân Xiêm ở biên giới Xiêm - Cao Miên. Trước thông tin này, 15.000 lính Việt ở Sài Gòn quyết tâm chống lệnh chỉ huy. Những điều kiện này thúc
- 144 - đẩy mạnh thêm tinh thần khởi nghĩa. Đêm 22/11/1940, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra như dự định. Tuy nhiên, kế hoạch của cuộc khởi nghĩa đã phần nào bị địch đánh hơi thấy trước ít ngày. Đế quốc ra lệnh cấm trại binh lính người Việt và tước vũ khí của số phản chiến. Kế hoạch định lấy tiếng súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn vào lúc 24 giờ ngày 22/11/1940 làm hiệu lệnh không thành, nhưng cuộc đấu tranh đã trở thành một đợt tập dượt đấu tranh vũ trang với quy mô chưa từng có trước đó(1). Hóc Môn, Bà Điểm, Bà Hom, Nhà Bè, Chợ Đệm, Cần Giuộc là những khâu chính của “vành đai đỏ” quanh Sài Gòn. Từ Hóc Môn tỏa đi các địa phương Đức Hòa, Gò Vấp, Sài Gòn - Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Trảng Bàng, là từng chuỗi “xã pháo đài” cộng sản, nơi nào cũng có chi bộ, có nông hội, có du kích, chí ít cũng có thanh niên, phụ nữ phản đế(2). Tại Sài Gòn, đêm 22/11/1940, trước cửa và trong rạp hát, trong các tiệm ăn, tại bùng binh chợ Cầu Muối, chợ Bến Thành, những bãi cỏ quanh Ngã sáu, Ngã bảy người đi lại, tụ tập đông hơn ngày thường. Trên tay mỗi người đều cột khăn mu-soa, đó là mật hiệu của các chiến sĩ du kích từ Gia Định, Chợ Lớn, Tân An đã vô Sài Gòn bằng nhiều phương tiện: xe lửa, xe đò, ghe thuyền, xe đạp, số lượng lên đến cả ngàn người. Họ được lệnh đến Sài Gòn để phối hợp với những đơn vị binh lính, toán công nhân đánh chiếm phủ Nam Kỳ; nhận lấy súng đạn từ binh lính trong kho của địch, đem về địa phương ngay trong đêm để phát triển cuộc khởi nghĩa; 1. Xem: Đại tá, PGS.TS. Hồ Sơn Đài chủ biên (2010), Khởi nghĩa Nam Kỳ - Bản tráng ca sống mãi, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1930 - 1954), tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 115 - 117.
- 145 - phá Khám Lớn Sài Gòn để giải phóng các anh em tù chính trị lãnh đạo phong trào như Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai. Quá giờ đã định mà không thấy pháo hiệu, biết cơ mưu đại sự đã bị lộ, nhưng đêm 22 rạng sáng 23/11/1940 cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vẫn bùng nổ với khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Ngòi nổ khởi nghĩa là tỉnh Gia Định và Chợ Lớn, vùng tiếp giáp bao bọc đầu não địch ở Sài Gòn, đặc biệt là hai quận Hóc Môn, quê hương Nam Kỳ khởi nghĩa và quận Đức Hòa (Chợ Lớn). Quân khởi nghĩa đánh địch ở Lăng Cha Cả, Vườn Tiêu, Ngã năm, Vĩnh Lộc, Phú Tâm… Trước sức tấn công của quần chúng, binh lính bỏ đồn, nghĩa quân thu được nhiều đạn dược, súng ống. Ở Hóc Môn, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen - Xứ ủy viên, các đội du kích xung phong cướp đồn, cướp quận, vừa ra quân đã có hàng ngàn đồng bào hưởng ứng đi theo. Cuộc đánh chiếm đồn quận diễn ra theo kế hoạch. Một nữ đồng chí xã Tân Phú chạy tới đồn Hóc Môn kêu bị kẻ cướp đánh xin lính đồn tiếp sức. Hai tên lính vội nai nịt, xách súng đi theo, bị du kích mai phục, giật lấy súng tấn công vào đồn. Hóc Môn là một đồn lớn, có một trung đội lính khố xanh đóng giữ, tường gạch, nhà lầu. Tình thế vô cùng cấp bách, nếu chờ tiếng pháo lệnh từ trung tâm thành phố thì sẽ lỡ dịp. Hai đội xung kích của ta, trang bị chủ yếu bằng dao găm, đột nhập vào sào huyệt địch, diệt gọn bọn lính giữ đồn, bí mật không gây chút náo động nào. Cuộc chiếm đồn diễn ra trong nháy mắt, trước 12 giờ đêm 22/11/1940, Ban Chỉ huy khởi nghĩa đã cho loa khắp khu phố, chợ “Cách mạng đã làm chủ hoàn toàn đồn và thị trấn Hóc Môn”. Lá cờ đỏ búa liềm được
- 146 - trương cao trên nóc dinh quận. Lực lượng du kích các xã ven đường đào đường, cưa cây, dựng chướng ngại vật, ngả các cột điện, cắt đứt đường dây liên lạc nối đi các tỉnh, nhưng chưa cắt được đường dây liên lạc nối từ Hóc Môn và Gia Định. Tên Thọ - Quận trưởng đã kêu quân cứu viện tới đàn áp nghĩa quân, khủng bố phong trào. Cuộc khởi nghĩa diễn ra ở Chợ Lớn, tại Đức Hòa, đêm 22/11, khoảng 400 du kích tập trung, chờ súng lệnh để đánh quận lỵ. Chờ đến 1 giờ khuya vẫn không thấy hiệu lệnh. Anh chị em kéo đến Giồng Da gặp toán lính của Quản Nên - một tên gian ác khét tiếng trong vùng. Quản Nên bị quân du kích bắn chết(1). Ở Cần Giuộc, Cần Đước, du kích tập trung chờ gần tới sáng không thấy động tĩnh, nên giải tán. Chỉ có ở Phước Lại, mặc dù không nghe thấy súng lệnh, quân du kích do chị Nguyễn Thị Bảy chỉ huy đã đánh chiếm đồn, diệt tề, trừ gian(2). Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa không thành. Ở một số khu vực khác thuộc Hóc Môn, Bà Điểm, Bà Quẹo, Đức Hòa… chờ đến sáng không thấy hiệu lệnh, quân khởi nghĩa rút vào các rừng tràm. Do chưa có kinh nghiệm, nên công tác phá hoại đường giao thông chưa triệt để, hàng loạt xe chở lính Pháp, lính Lê Dương kéo vào chiếm đóng thị trấn Hóc Môn, tái chiếm các nơi có khởi nghĩa. Ngay sáng 23/11/1940, chúng đã lập lại trật tự không khó khăn gì. Ngay 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1930-1954), tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.120. 2. Chị Nguyễn Thị Bảy, là con một nông dân nghèo đốn củi ở Rừng Sác. Được anh Hai Út giác ngộ cách mạng, dìu dắt, chị công tác đắc lực, trở thành Tỉnh ủy viên tỉnh Chợ Lớn, nổi tiếng với biệt danh “Hoàng hậu đỏ”.
- 147 - sau đó, cuộc đàn áp đẫm máu khủng khiếp của thực dân Pháp diễn ra trên khắp Nam Kỳ(1). Giai đoạn này, tổ chức Hội Phụ nữ Phản đế đã vận động chị em tham gia mít tinh, biểu tình, lập các hội cứu tế, bảo an, tham gia chống bắt lính với khẩu hiệu chống đế quốc chiến tranh, đòi hòa bình, đòi bồi thường chiến tranh. Suốt trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, các chị em của Hội Phụ nữ Phản đế đều có mặt trong các “xã pháo đài cộng sản”: Hóc Môn, Bà Điểm, Bà Hom, Đức Hòa, Nhà Bè, Chợ Đệm, Cần Giuộc làm thành “vành đai đỏ” bao quanh Sài Gòn, nơi khí thế khởi nghĩa bùng lên mãnh liệt. Sau khởi nghĩa, sự đàn đáp dã man của kẻ thù đã không loại trừ được lực lượng phụ nữ. Trong Khởi nghĩa Nam Kỳ, nổi lên hình tượng ba nữ chiến sĩ cộng sản kiên trung: Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Bảy, Lê Thị Thử. Chị Nguyễn Thị Minh Khai, nữ Bí thư Thành ủy đầu tiên của Sài Gòn - Chợ Lớn, hoạt động lãnh đạo cao trào cách mạng 1936 - 1939. Năm 1939, khi thực dân Pháp tiến hành khủng bố gắt gao các cơ sở cách mạng, chị về công tác tại cơ quan Trung ương, đóng tại Hóc Môn - Bà Điểm. Chị bị bắt ở Chợ Lớn ngày 30/4/1940 trong một cuộc họp của Đông Dương Cộng sản Đảng, bị tòa án quân sự tuyên án ngày 15/10/1940, kêu án 4 năm tù giam, phạt 7.000 franc bồi thường và 11 năm cầm cố vì tội “làm tổn thương đến nền quốc phòng đất nước”(2). Trong tù, chị vẫn không ngừng tranh đấu. Chánh mật thám Đông Dương P. Arnoux ngày 7/12/1940 đã có công văn mật số 7709-8 gửi Thống đốc Nam Kỳ và các sở Mật thám Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Phnôm Pênh, Viêng Chăn về “Những hoạt động 1. Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1930 - 1945), tập 1, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 120. 2. Tư liệu về Nguyễn Thị Minh Khai, Tạp chí Xưa & Nay, số 246, 10/2005, Thủy Trường lược dịch.
- 148 - của cộng sản, đường dây liên lạc giữa tù nhân chính trị với các tổ chức bên ngoài, Nguyễn Thị Khai, tức cô Duy”. Nội dung công văn như sau: Ngày 4/12/1940, tôi đã thông báo về việc nữ tù nhân cộng sản Nguyễn Thị Khai tức cô Duy, bị giam ở nhà tù Phú Mỹ (Gia Định) đã tuyên truyền trong đám tù nhân nữ rằng tất cả cần tin tưởng vì chúng ta sẽ được tự do. Để xác minh những hoạt động này tôi đã yêu cầu giám đốc nhà tù chuyển Nguyễn Thị Khai về nhà giam ở phố Lagrandière… Khám xét trong người Nguyễn Thị Khai trong khi chuyển trại, đã tìm được trong quần áo của nữ tù nhân này hai tài liệu viết tay: tài liệu thứ nhất là lời kêu gọi binh lính, công nhân, nông dân Đông Dương đoàn kết đấu tranh cách mạng, chiến đấu giành độc lập với sự giúp đỡ của Liên Xô. Tài liệu thứ hai là một bức thư gửi “Các đồng chí” do Hồ Thị Đức ký tên, kêu gọi tăng cường tuyên truyền cộng sản. Thư này tìm thấy trong tay Nguyễn Thị Khai, cho biết nữ đảng viên này chắc chắn có nhiệm vụ liên lạc với bên ngoài”(1). Chị và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần bị kết án tử hình. Ngày ra trường bắn, nhân dân đến rất đông. Coi đây là một cuộc đấu tranh, để nói cho đồng bào biết tội ác của thực dân Pháp, chị hét to, biểu lộ sự căm thù “Đả đảo đế quốc dã man giết người”. Chị vừa dứt lời, mọi người đều đồng thanh hô theo chị. Trước họng súng của giặc, chị ngẩng cao đầu hô khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm. Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm”. Hoảng sợ trước thái độ phản ứng của những tử tù và lo những người tù khác bị kích động, tên chỉ huy Pháp đã lấy lê đâm vào ngực chị máu chảy lênh láng, rồi lấy giẻ nhét vào miệng chị để không thể hô khẩu hiệu được. Người nữ cộng sản kiên trung thuộc thế hệ 1. Tư liệu về Nguyễn Thị Minh Khai, Tạp chí Xưa & Nay, số 246, 10/2005, Thủy Trường lược dịch.