The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search

TẬP 1 || PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH (1930 - 1975)

Bộ sách Lịch sử 85 NĂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GIAI ĐOẠN 1930 - 2015

-Tập 1- PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐÌNH (1930 - 1975)

Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tự nguyện tập hợp và hòa mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi cùng các tầng lớp nhân dân, với ngọn lửa sục sôi của tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” cùng niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng của dân tộc.
Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, phong trào phụ nữ đã diễn ra liên tục trên tư thế tiến công với nhiều hình thức đấu tranh đa dạng, sáng tạo, linh hoạt, qua đó đã không ngừng xây dựng lực lượng và phong trào ngày càng lớn mạnh ngay trong lòng địch, trở thành chỗ dựa vững vàng, tin cậy của Đảng với những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Quá trình thành lập tổ chức Hội cùng với các hoạt động, phong trào cách mạng của các thế hệ phụ nữ đã được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh sưu tầm, tập hợp và ghi chép lại thông qua các tác phẩm lịch sử về phụ nữ Việt Nam, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định, bút ký, hồi ký của các nữ chiến sĩ cách mạng lão thành, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của các quận, huyện, qua đó đã biên soạn 03 quyển sách: “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1930 - 1954)” - xuất bản năm 1985; “Phong trào phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (giai đoạn 1954 - 1985)” - xuất bản năm 1987; “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - 30 năm xây dựng và phát triển (giai đoạn 1975 - 2005) - xuất bản năm 2006.
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và hệ thống hóa nội dung theo hướng phân kỳ giai đoạn lịch sử trước và sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975); trên cơ sở các dữ kiện lịch sử của 03 quyển sách đã xuất bản, các cuộc tọa đàm của các nhân chứng lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng bộ 24 quận, huyện, Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn quyển sách “Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (giai đoạn 1930 - 1975), qua đó thể hiện rõ hơn quá trình trưởng thành vượt bậc, vai trò ngày càng rõ nét của các tầng lớp phụ nữ trên mọi lĩnh vực hoạt động: chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội, những đóng góp xuất sắc trong từng thời kỳ cách mạng, vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của phụ nữ thành phố.
Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng trong tập hợp, sắp xếp các dữ kiện lịch sử trên cơ sở các tư liệu đã có, nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự thông cảm và xin được tiếp nhận những ý kiến góp ý của quý độc giả.

BAN CHẤP HÀNH HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

- 299 - lọt, để từ đó họ trở thành tuyên truyền viên cách mạng cho đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1947, khi có lời hiệu triệu của Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, hàng ngàn người thuộc các tầng lớp nhân dân thành thị đã rời bỏ cuộc sống đô thành thoát ly kháng chiến bằng cách móc nối ra chiến khu An Phú Đông, Tân Thới Hiệp, Trung Chánh, chợ Cầu…, tất cả được giao liên đưa vào chiến khu để rồi gia nhập Vệ quốc đoàn, Quốc vệ đội hoặc vào công tác trong các cơ quan dân chính các tỉnh, về các cơ quan cấp Nam Bộ. Để đường dây giao liên hoạt động hiệu quả, phụ nữ đã tổ chức cơ sở quần chúng cách mạng làm các trạm chuyển tiếp trên đường đi. Đây là nơi chị em liên lạc ở ngoại thành về nội thành tạm dừng chân để lưu trú, thay quần áo, nắm tình hình nơi cơ sở chính, đề phòng cơ sở đã bị vỡ, để cất giấu tài liệu, vũ khí, thậm chí để có kinh phí đi đường. Đó thường là nhà, là quán của các bà, các chị rải rác khắp nội thành và vùng ven. Còn ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, giao liên tự vệ thành thường ghé các trạm chuyển tiếp của bà Nguyễn Thị Phương (còn gọi là má Nguyệt) ở đường Monceau (đường Huỳnh Tịnh Của bây giờ); trạm của bà Vũ Thị Tiếu ở Bà Chiểu; trạm của bà Trần Thị Chữ ở Đa Kao; trạm của chị Phạm Thị Hiền ở đường Paul Blanchy - nay là đường Hai Bà Trưng, gần cầu Kiệu… Các trạm chuyển tiếp thường cũng là cơ sở quần chúng cách mạng, đảm nhiệm việc nuôi giấu chiến sĩ, hỗ trợ trinh sát nắm tình hình địch, đôi khi chủ nhà còn làm luôn công tác giao liên đưa đón. Điển hình như bà Tư Nhiễm có một tiệm cơm bình dân, các anh chị em liên lạc khi cần có thể đến ăn không phải trả tiền. Sau này, với những thành tích đóng góp to lớn cho cách mạng qua hai cuộc kháng chiến, bà Tư Nhiễm được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực


- 300 - lượng Vũ trang Nhân dân; hay bà Hoàng Thu Yến đã nhường toàn bộ nhà mình giữa lòng Sài Gòn để làm trụ sở bí mật của Trung đội Minh Khai; nhà bà Ký Vỹ lúc đầu ở gần cầu Chữ Y, sau chuyển về ngã ba cầu Cống - Quận 4 là nơi cất giấu tài liệu, lựu đạn, nuôi dưỡng, che giấu nhiều cán bộ, chiến sĩ; tiệm cầm đồ Vĩnh Hưng của bà Huỳnh Thị Thai, đường Armand Rousseau (nay là đường Nguyễn Chí Thanh) là nơi nuôi giấu cán bộ hoạt động nội thành, cũng là cơ quan tiếp liệu Khu 9 từ năm 1947 đến năm 1953, quản lý hơn 9 triệu đồng tiền Đông Dương từ Trung ương chuyển về; nhà sách Mạch Sống (số 156 đường Albert 1er - Đa Kao (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) của bà Nguyễn Thị Nga - vợ nhà báo tiến bộ Hoàng Trọng Việt - là một trong hai trụ sở chính của Tự vệ thành; nhà số 9 đường Gallimard (nay là đường Trần Quang Khải) ở Đa Kao là nhà anh Tư Lai và vợ (vợ anh trước là vợ liệt sĩ Hà Huy Tập) cùng con gái Hà Thúy Hồng (con đồng chí Hà Huy Tập), là nơi tập kết gần như tất cả hàng hóa, máy móc, phương tiện cung cấp cho ngành thông tin tuyên truyền Gia Định từ năm 1946 đến năm 1953, đồng thời tập trung thuốc men ủng hộ kháng chiến, gần như phần lớn lực lượng vũ trang Khu 7 nhận thuốc chiến thương ở cơ sở này. Gần gũi với đội ngũ giao liên là đội ngũ liên lạc tiếp tế phục vụ kháng chiến, mà phần đông cũng là nữ giới. Có nhiều chị làm cả hai công việc này một lúc. Mặt hàng tiếp tế có khi là lương thực thực phẩm, có khi là vũ khí đạn dược, khi là máy móc, thuốc men…, bất cứ thứ gì cần cho các chiến khu và cuộc kháng chiến. Hàng tiếp tế được chị em phụ nữ khắp các vùng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định quyên góp, sản xuất nhằm ủng hộ kháng chiến và chính quyền cách mạng. Đội ngũ tiếp tế có nhiệm vụ nhận hàng và chuyển ra mật khu hoặc


- 301 - cho các nơi đang xảy ra chiến trận. Công việc nguy hiểm và thầm lặng, phải vượt qua bao đồn bốt giặc, trong khi chị em tiếp tế sức vóc mảnh mai, lại còn phải gồng gánh, ngụy trang. Nhiều chị đã hy sinh hoặc bị bắt khi làm nhiệm vụ. Bà Bảy Sao (Bà Điểm - Hóc Môn) vừa làm giao thông liên lạc, vừa đi mua ngựa bán cho các chủ xe thổ mộ để lấy tiền tiếp tế cho bộ đội, bị địch bắt giữa đường, bà đã nhanh nhẹn nhảy lên ngựa, thúc ngựa chạy thoát. Bà Nguyễn Thị Chiểu (xã Tân Thới Nhất) thường xuyên tiếp tế lương thực cho bộ đội chiến đấu ở nội ngoại thành. Tháng 10/1945, khi quân đội cách mạng đang cố thủ giữ trận địa tại cầu Tham Lương, bà cùng các bà Hồ Thị Cân, Nguyễn Thị Su tiếp tế lương thực cho mặt trận ở đây. Một hôm, bà đánh xe bò chở cơm, giữa đường xe sa lầy, bị giặc bắt. Vì xinh đẹp, bà bị ép lấy tên quan Pháp làm chồng. Không muốn chịu cảnh ép uổng, cũng không chịu để địch khai thác gì ở mình, bà tìm cách nhảy xuống giếng tự tử. Giặc ngăn cản, tra tấn, cuối cùng xử bắn và đẩy bà xuống giếng. Năm đó bà 20 tuổi. Bà Lê Thị Thanh Quý, người gốc Huế, vào Sài Gòn kiếm sống và tham gia Ban Công tác nội thành trong một đơn vị thuộc Chi đội 1. Công việc của bà là chèo xuồng tam bản ở bến Thủ Thiêm, bán đồ nhậu cho các sà lan chở súng đạn của Tây để lân la mua tiếp tế súng đạn cho quân cách mạng. Có lần bà mua được 360 trái lựu đạn còn trong thùng, chở ngay đến điểm hẹn là nhà thờ Thủ Thiêm, nhờ vậy bà được Khu bộ Khu 7 tặng bằng khen và 200 đồng tiền thưởng. Cuối năm 1946, do có người khai, bà bị “bắt nguội”. Địch đưa bà ra tòa, đòi xử tử hình, nhưng nhờ luật sư Nguyễn Hữu Thọ và Ngô Sách Vinh biện hộ, rốt cuộc chúng chỉ kết án 10 năm khổ sai, 10 năm biệt xứ. Bà được trả tự do sau Hiệp định Genève, tiếp tục hoạt động.


- 302 - Công tác địch vận là một mặt trận đặc thù của lực lượng phụ nữ Sài Gòn. Bằng thế mạnh của mình, phụ nữ tuyên truyền, vận động, thuyết phục lính ngụy trở về với Tổ quốc. Người phụ nữ Nam Bộ dứt khoát thái độ không khoan nhượng với thực dân xâm lược, nhưng với lính ngụy, lính Âu - Phi chỉ là tay sai của thực dân, các bà các chị hiểu họ chỉ là những tấm bia đỡ đạn. Người lính châu Phi cũng đến từ các nước thuộc địa của Pháp, lính châu Âu từng trong quân đội Đức thì bị Pháp bắt làm tù binh, còn lính ngụy cũng chỉ là con dân đất Việt. Phụ nữ Nam Bộ nắm tâm lý này và vận dụng vào công tác địch vận, vận động những đối tượng trên đào ngũ, giao nộp súng đạn, gia nhập quân đội kháng chiến, hoặc làm nội gián cho cách mạng. Để làm công tác địch vận, cán bộ phụ nữ thường vờ lui tới các tụ điểm tập trung nhiều binh lính, tiếp cận, tranh thủ tình cảm và giác ngộ họ. Một số bà mẹ Nam Bộ thì mở các hàng nước, hàng quà rong gần trại giặc, cứ qua chuyện trò thủ thỉ mà vận động được nhiều binh lính quay đầu súng, trở về với cách mạng. Có chị làm địch vận thông qua những người thân của binh lính, như chị Trần Thị Nhâm (đường Nguyễn Tiểu La) giác ngộ một chị có chồng là lính Pháp, động viên anh lính lấy súng trường 2FM và 7 băng đạn giao nộp cho cách mạng. Sau khi bị lộ, cả hai vợ chồng xin ra ở chiến khu cho đến ngày đình chiến. Phụ nữ, dù là công nhân hay cán bộ trí thức, dù là nông dân hay cô gái trong vũ trường, đều có thể vận động binh lính địch, tuyên truyền cho họ về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Nam Bộ. Tuy vậy, để công tác địch vận đạt hiệu quả cao, tích cực hỗ trợ cách mạng, thì phụ nữ đã tiến hành nhiệm vụ này theo hệ thống tổ chức khá bài bản,


- 303 - trong đó phải liên hệ với chiến khu để giao nhận súng và cả người đã thu phục được. Năm 1948, khi vào chiến khu An Phú Đông, bà Mai Thị Lựu (Hội trưởng Phụ nữ Cứu quốc Sài Gòn - Gia Định) và bà Nguyễn Thị Lụa được Thành ủy giao nhiệm vụ phụ trách công tác địch vận. Cùng với bà Sáu Nhỏ (từng bị lừa bán cho nhà chứa, được hoàn lương, trở thành đội viên Phụ nữ Cứu quốc và đi theo cách mạng), hai bà vạch kế hoạch tiếp cận lính Anh - Ấn, lính Âu - Phi. Các bà thành lập tổ địch vận gồm bốn chị em có nhan sắc, dạn dĩ, dụ năm người lính ra khu Hàng Xanh chơi, trong đó có hai sĩ quan. Ở đó, du kích đã phục kích để bắt đem về cho Chi đội 6 giáo dục, giác ngộ. Sau một tuần lễ, cả năm người được trả tự do. Khi trở về, họ tích cực tuyên truyền cho hàng ngàn binh lính Anh - Ấn khác, làm nổ ra cuộc đấu tranh đòi về nước của lính “phản chiến”. Ở thành phố, các tổ công tác phụ nữ làm nhiệm vụ địch vận cũng hoạt động hiệu quả, những tụ điểm ăn chơi như quán bar, chợ, sòng bạc… trở thành địa điểm phụ nữ lui tới vận động binh lính. Những năm 1948 - 1949, vì tình hình binh lính trong hàng ngũ địch có chiều hướng sa sút tinh thần, không muốn đi càn quét, thực dân Pháp đã phải ra thông báo cấm không cho binh lính lân la đến các quán bar và một số điểm ăn chơi khác. Nhận thức của phụ nữ về công tác địch vận cũng trưởng thành nhiều sau thời gian dài trải qua chiến tranh. Bà Hồ Thị Bi - nữ kiệt miền Đông - từng kể lại câu chuyện về cô Tiểu đội trưởng Lê Kim Anh, 18 tuổi trở thành chỉ huy tiểu đội nữ ở vùng Hóc Môn. Kim Anh có hai nhiệm vụ: chiến đấu nội thành và binh vận. Cô nắm được anh lính Dậu, ở chợ Cầu. Anh Dậu thấy Kim Anh “hợp nhãn”, nên tỏ ý ra bưng với hai khẩu súng, một tiểu liên, với điều kiện được cưới Kim Anh


- 304 - làm vợ. Cô không ưng, nhưng nghe lời bà Hồ Thị Bi khuyên nên giúp đỡ một người lầm đường muốn trở về với kháng chiến, nên đã đưa anh Dậu với hai cây súng ra bưng. Đưa anh Dậu về tới khu, Kim Anh báo cáo với bà Bi: “Nhiệm vụ tôi đã xong. Xin giao anh Dậu cho dì”. Bà nghiêm nghị bảo: “Chưa đâu em! Nhiệm vụ của ta đâu phải là mấy cây súng. Mà là cứu giúp những con người lầm đường lạc lối. Em phải giúp anh Dậu trong khi anh còn bỡ ngỡ”. Nghe lời, Kim Anh luôn xem anh Dậu là người anh kết nghĩa. Nhiều lần nhắc tới chuyện cưới hỏi, Kim Anh đều cười nói: “Bây giờ đánh giặc đã. Còn chuyện đó xin hẹn ngày chiến thắng”. Cô bị phục kích và bắt sống tại bót Huỳnh Công Trí. Giặc Pháp đã đốt lửa thiêu sống người con gái Hóc Môn anh hùng. Tin dữ bay về làm anh Dậu buồn thảm khôn nguôi. Anh quyết tâm trả thù, đánh giặc hăng hái hơn, cho đến khi hy sinh trong trận ngã ba Thới Tứ…(1). Câu chuyện của bà Hồ Thị Bi phản ánh nhận thức về cốt lõi của công tác địch vận: giúp đỡ những người lầm đường lạc lối, không đơn giản là thu vũ khí hay bắt người. Chỉ khi thông suốt tinh thần nhân đạo như vậy thì phụ nữ làm công tác địch vận mới triệt để, mới thực sự hiệu quả. Nhận thức điều này giữa thực tế chiến tranh khốc liệt và gấp gáp cũng là một biểu hiện trưởng thành của người nữ cán bộ cách mạng miền Nam nói chung, Sài Gòn nói riêng. Phụ nữ Sài Gòn đã có đóng góp lớn cả về tinh thần và vật chất khi tham gia xây dựng các căn cứ địa cách mạng. Trong thời kỳ kháng chiến 9 năm chống Pháp, nhân dân Nam Bộ xây dựng các căn cứ kháng chiến (chiến khu) ngay sát trung tâm thành phố Sài Gòn. Đặc điểm này chỉ xuất hiện ở thời kỳ 1. Theo Đinh Thu Xuân (1993), Lịch sử ngành sản xuất vũ khí ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, luận án Phó tiến sĩ Khoa học lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 167.


- 305 - chống Pháp, trong điều kiện ta vừa xây dựng lực lượng vừa tiến hành kháng chiến, tương quan lực lượng giữa ta và địch, khả năng cơ động cũng như tầm hỏa lực của địch còn hạn chế trong thời kỳ đầu. Do đó, thực tiễn tiến trình hình thành và mở rộng mạng lưới căn cứ địa ở miền Đông Nam Bộ đã diễn ra theo chiều ngược lại với cả nước, bắt đầu từ các căn cứ địa áp sát Sài Gòn rồi mới mở rộng đến các căn cứ địa xa hơn (Dương Minh Châu, Xuyên Phước Cơ…). Các huyện xung quanh Sài Gòn như Hóc Môn, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện (Bình Chánh) dần biến thành vành đai đỏ của thành phố với các căn cứ kháng chiến: An Phú Đông (nay thuộc Quận 12), An Nhơn Tây (Củ Chi), An Lạc, Vườn Thơm (Bình Chánh), Rừng Sác (Cần Giờ), trong đó gần Sài Gòn nhất là An Phú Đông. Các chiến khu này có phạm vi nhỏ bé so với chiến khu ở Bắc Bộ, Trung Bộ, hay Tây Nam Bộ. Cùng với chiến khu là những căn cứ du kích, địa đạo, khu du kích, cơ sở cách mạng khá dày bao quanh thành phố, tạo thành một hậu phương chiến tranh nhân dân tại chỗ. Từ năm 1950, phụ nữ sôi nổi thực hiện chủ trương của Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ, đảm nhận công tác hậu phương thay cho nam giới ra tiền tuyến. Tuy vậy, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bị giặc chiếm đóng từ sớm, lại đất chật người đông, không có ranh giới rõ rệt giữa hậu phương và tiền tuyến. Do đó, để xây dựng và củng cố các căn cứ địa, căn cứ du kích, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tích cực tham gia xây dựng ấp và xã chiến đấu. Ở các xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An, Nhuận Đức (Củ Chi), Xuân Thới Thượng (Hóc Môn), Vĩnh Lộc (Gò Vấp), các xã khu 5 Hóc Môn (nay thuộc Củ Chi)…, chị em du kích và bà con rào làng, đào giao thông hào, làm hầm chông, hố chông kết hợp


- 306 - với mìn tự tạo và lựu đạn gài, tạo ra ở mỗi ấp, mỗi xã một trận địa nguy hiểm; quanh một bụi tre, quanh một bụi chuối, quanh một gốc cây trái, tại một ổ gà, ổ mối, chỗ nào cũng có thể gây ra cái chết bất ngờ cho giặc. Ngoài ra, để cất giấu thóc lúa, che giấu cán bộ, nhân dân Nam Bộ sáng tạo ra các hầm bí mật. Khi nam giới đa phần không có mặt ở nhà, chính phụ nữ là lực lượng đào hầm chủ đạo. “Bảo vệ hầm là chức năng, là truyền thống của các mẹ, các chị: Giấu cán bộ và bộ đội, thậm chí cả thương binh, tiếp tế thức ăn xong, chính phụ nữ là người cuối cùng đậy nắp hầm, xóa mọi dấu vết và cũng là người đầu tiên mở nắp đưa người ở dưới hầm lên”(1). Từ các hầm bí mật, Nam Bộ dần hình thành nên trận đồ địa đạo chiến đấu. Đoạn địa đạo có quy mô đầu tiên ở Củ Chi được đào ở liên xã Tân Phú Trung, Phước Vĩnh An vào đầu năm 1947. Đây là khu vực có nhiều hầm bí mật. Hầm bí mật lúc đầu được bố trí thuận tiện và ngụy trang để lẩn tránh địch; sau đó, xuất phát từ nhu cầu phải bám trụ tại chỗ để bảo tồn lực lượng và đánh địch, các hầm được đào nối thông với nhau trong lòng đất, nối một số gia đình với nhau trong một khu vực nhỏ. Dần dần, các chi nhánh địa đạo nối dài ra, được thiết kế thêm các ụ và hào chiến đấu, xung quanh bố trí cạm bẫy, hầm chông, lựu đạn gài. Bà già, em nhỏ cũng tham gia đào địa đạo ngày đêm. Dưới địa đạo có thể chứa cả tiểu đoàn và có thể sống nửa tháng dưới lòng đất, có nơi cất lúa gạo, có giếng nước… Vì địa đạo chia ra nhiều ngả, nhiều nhánh, nên giặc vào hướng này thì đồng bào chuyển sang hướng khác an toàn, còn du kích vòng sau lưng địch mà đánh. Có những ổ chiến đấu chỉ có một người mà giặc cũng không thể vượt qua. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 184.


- 307 - Khoảng tháng 7/1950, thực dân Pháp mở trận càn lớn vào xã Tân Phú Trung quyết phá địa đạo và gom dân ra đường số 1. Chúng huy động lực lượng 5 tiểu đoàn càn phá trong suốt nửa tháng trời mà không bắt được một người nào, còn bị du kích đánh đến nỗi phải kéo nhau rút chạy. Hệ thống này đã đặt bước khởi đầu quan trọng, làm nên “địa đạo Củ Chi” nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Trong những phụ nữ Củ Chi xung phong đào địa đạo, nổi tiếng có má Nguyễn Thị Rành (xã Phước Hiệp). Thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, má là Hội trưởng Hội Mẹ chiến sĩ, Chính trị viên Xã đội. Địch dùng thủ đoạn vừa dụ dỗ vừa dọa nạt bắt má phải dọn vào ấp chiến lược để thực hiện âm mưu “tát nước bắt cá” nhưng má cố gắng bám trụ đến cùng. Ở lại xã Phước Hiệp chịu đựng “bom bầy, pháo chụp”, má nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ, du kích địa phương, hướng dẫn động viên con cháu đánh giặc, xung phong đào địa đạo… Là người mẹ nông dân, má tham mưu cho dân quân xã Phước Hiệp phải “cướp súng địch để diệt địch”, từ đó bày kế hoạch cho đội du kích phục kích xe chở súng đạn của Pháp đi Tây Ninh, cướp được 10 khẩu súng, 4 thùng đạn. Lần khác, má cùng Hội Mẹ du kích đột nhập đồn lính Trảng Bàng, hạ lính gác, cướp gọn kho súng đạn, 40 khẩu súng, 40 thùng đạn; số chiến lợi phẩm này được lực lượng nữ thanh niên và phụ nữ đi chợ hôm ấy chuyển về Phước Hiệp an toàn. Má Tám Rành bị bắt và tra tấn nhiều lần, nhưng những trận đòn thấu xương trong nhà tù thực dân không đau đớn bằng việc 8 người con trai và 2 người cháu của má đều hy sinh trong hai cuộc kháng chiến. Từ năm 1947, ở cửa ngõ phía tây thành phố cũng có một số đoạn địa đạo ở xã Phú Thọ Hòa (Tân Bình). Chị em phụ


- 308 - nữ đào địa đạo từng khúc giống như từng toa xe lửa đứt đoạn. Từ hai điểm, hai tổ (mỗi tổ 2 người) đào dần, gặp nhau ở điểm giữa. Đất đào lên được mang đổ xuống ruộng thấp, vun thành vồng khoai, vồng sắn hoặc đổ lên bờ hào giao thông đào công khai hoặc rải đều trên mặt đất… Đoạn địa đạo dài 700m thường che giấu các đội biệt động đánh vào thành phố. Ngoài hệ thống địa đạo nổi tiếng, Phú Thọ Hòa còn có nhiều hầm bí mật, hầm cóc, hầm cá trê… để du kích, bộ đội bám trụ chiến đấu. Ở đây có má Sáu Vàng, má của anh Nguyễn Văn Lự - Thư ký Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Phú Thọ Hòa, đã 92 tuổi nhưng vẫn nhiệt tình ủng hộ cách mạng. Không còn đủ sức đào hầm, má thức thâu đêm theo con cháu, nấu chè cháo phục vụ, lo canh gác, nấu nước. Suốt 5, 6 năm, xuất phát từ địa đạo trong nhà má Sáu Vàng, lực lượng biệt động Sài Gòn nhiều lần tiến đánh đồn địch, diệt ác ôn. Cũng từ đây, anh em đặc công đi phá kho bom Phú Thọ Hòa hai lần vào tháng 8/1952 và tháng 6/1954. Bên cạnh hoạt động tại chỗ, Hội Mẹ chiến sĩ là một bước nối dài hoạt động của phong trào và lực lượng phụ nữ đến các vùng miền rộng hơn. Hội Mẹ chiến sĩ là một tổ chức tập hợp phụ nữ từ 50 tuổi trở lên có con tham gia hoạt động kháng chiến, ban đầu thành lập ở Nam Trung Bộ, Bình Trị Thiên, sau đó lan ra toàn quốc. Ở Nam Bộ, Hội được thành lập khắp các làng xã từ vùng tự do đến vùng du kích và tạm chiếm, cũng phát triển với nhiều tên gọi khác nhau như: Hội Lão mẫu, Hội các già đi chùa… Vai trò của Hội Mẹ chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp rất nổi bật, nhất là ở nông thôn và vùng ven. Trên khắp nẻo đường kháng chiến, đâu đâu cũng có “quán chiến sĩ”, “quán quân nhân” do Hội Mẹ chiến sĩ lập ra.


- 309 - Vẫn là tình thương của bà mẹ Nam Bộ dành cho chiến sĩ và tình yêu nước sắt son, nhưng được tập hợp trong Hội Mẹ chiến sĩ, các bà các mẹ có điều kiện ủng hộ cách mạng thiết thực và hiệu quả hơn. Các mẹ vận động nhau tăng gia sản xuất, tham gia tích cực phong trào “ủng hộ bộ đội”, “nuôi quân giết giặc”, vận động các gia đình tham gia phong trào “hũ gạo nuôi quân”, con gà, liếp rau, cây chuối cứu quốc… để tiếp tế cho bộ đội. Các mẹ còn vận động, tổ chức may quần áo cho chiến sĩ. Rất nhiều cán bộ, chiến sĩ, đặc biệt là lực lượng từ miền Trung và miền Bắc chi viện cho miền Nam được các mẹ nhận làm con nuôi, con đỡ đầu, được chăm lo sức khỏe và tinh thần như con đẻ. Sau mỗi trận đánh, các mẹ không quên tổ chức quyên góp, ủng hộ bộ đội quà bánh, thuốc men. Có mẹ gánh thức ăn đi bộ ban đêm hàng mấy cây số, khéo léo ngụy trang để qua các đồn bốt địch, mang đến cho từng đơn vị. Thương chiến sĩ, có nhiều bà mẹ Nam Bộ nghèo không ngại vất vả đi hái lá sâm, hái bông súng bán lấy tiền, nhịn trầu cau, nhịn cơm nước của gia đình để dành tiền cho bộ đội. Cán bộ chiến đấu mất liên lạc được các mẹ tìm cách móc nối với tổ chức để đưa ra căn cứ an toàn. Từ năm 1949, Hội Mẹ chiến sĩ tổ chức được nhiều gia đình cơ sở nhận cán bộ, chiến sĩ đau yếu về nằm điều trị dài ngày cho đến khi bình phục, hoặc nhận nuôi các cháu nhỏ để những người mẹ là cán bộ phụ nữ yên tâm lo hoạt động, chiến đấu. Hội Mẹ chiến sĩ Nam Bộ còn vận động cưới vợ cho các anh thương binh, vận động nữ thanh niên tình nguyện lấy thương binh. Có thương binh cụt cả hai tay đã lập được gia đình đầm ấm như đồng chí Vương Nhị Chi (sau này làm tới Thứ trưởng). Năm 1949, nhờ sự tích cực của các mẹ, Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Chợ Lớn tổ chức đám cưới tập thể cho 5 thương binh với 5 thiếu nữ tại Giồng Lớn, xã Mỹ Thạnh Tây, Đông Thành, tỉnh Long An.


- 310 - Một hoạt động đặc trưng của Hội Mẹ chiến sĩ là thăm nuôi tù chính trị. Việc thăm nuôi tù là một công việc phức tạp và nguy hiểm. Người đi thăm nuôi tù phải xin một giấy chứng nhận là thân nhân của người tù, vì thế, cũng bị liệt vào danh sách “thân Việt Minh”. Nhưng không vì thế mà các mẹ ngần ngại. Từ nguồn cung cấp của các đoàn thể quần chúng cách mạng (thanh niên, phụ nữ, công đoàn, các tổ chức có anh chị em bị tù), các mẹ chuyển vào cho tù nhân lương thực, thực phẩm, quà bánh và các nhu yếu phẩm khác như: xà phòng, bàn chải, thuốc đánh răng, thuốc uống… Nhưng đi thăm nuôi tù không chỉ đem thực phẩm, vật dụng cho tù nhân, mà quan trọng hơn là cung cấp tin tức hoạt động của đồng chí, đồng đội bên ngoài cho đồng đội trong tù và cung cấp thông tin giúp tổ chức nắm tình hình các đồng chí đang bị địch giam giữ. Có hoạt động thăm nuôi tù nên số anh chị em bị bắt giam thường nhận được thông tin gia đình, đơn vị, được động viên, cổ vũ đấu tranh. Việc thăm nuôi tù đã trở thành một phong trào từ tự phát của quần chúng đến có tổ chức của đoàn thể, đơn vị cách mạng ở nội thành. Các bà Tư Nhiễm, Nguyễn Thị Phương, Trần Thị Chữ, Vũ Thị Tiếu là những người mẹ, người chị nhiệt tình trong việc chăm sóc tù nhân. Biết được anh chị em nào bị địch bắt, nhất là các liên lạc viên, các bà theo anh chị em từ nhà tù này sang nhà tù khác, thậm chí lên tận Thủ Đức, Biên Hòa để chăm sóc như chính những thành viên máu thịt, người thân trong gia đình. Các bà mẹ tham gia Hội Mẹ chiến sĩ đa phần cũng có con tham gia kháng chiến, rất nhiều mẹ trong số đó là Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các bà mẹ đã hòa tình mẫu tử vào tình thương dành cho chiến sĩ khắp mọi miền. Bà Nguyễn Thị Đồng (mẹ Năm Đồng), gốc người Sài Gòn - Chợ Lớn, hoạt


- 311 - động xuất sắc trong Hội Mẹ chiến sĩ ở làng An Ninh (Đức Hòa, Long An). Chồng hy sinh để lại bốn người con, bà đưa cả ba người con trai tham gia lực lượng vũ trang. Hai người con hy sinh, một người là thương binh nặng. Bà vượt qua mất mát, hoạt động trong Hội Mẹ chiến sĩ và nhân dân, công tác cho đến ngày độc lập. Bà Phạm Thị Thâu ở Thái Mỹ, Củ Chi tham gia Hội Mẹ chiến sĩ sau Cách mạng tháng Tám. Bà tuyên truyền, vận động nam nữ thanh niên vào đội ngũ cầm súng diệt giặc, vào các đoàn thể cứu quốc. Bà đào hai hầm bí mật để che giấu cán bộ ngay dưới nền nhà mình. Bà tổ chức hũ gạo tiết kiệm, hàng tháng có người nhận mang ra chiến khu nuôi quân. Nghe quân giới cần nguyên liệu đúc, bà không ngần ngại hiến mâm thau, nồi đồng, thậm chí cả hai bộ lư thờ cúng ông bà. Bà vận động các con của mình tham gia kháng chiến, rồi lần lượt nhận tin các con hy sinh. Cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu những bà mẹ Nam Bộ như thế, đau khổ đi tìm xác chồng con sau mỗi trận chiến. Bà Lê Thị Lộc - con gái Bà mẹ Việt Nam anh hùng Võ Thị Hồi (Hóc Môn), người từng nuôi giấu nhiều chiến sĩ cách mạng giai đoạn chống thực dân Pháp - nói rằng: “Mấy đứa biết tại sao mấy bà, mấy cô vùng này uống được nhiều rượu hông? Thời chống Pháp, giặc tới vây làng, đốt nhà. Đàn ông, con trai trong làng tham gia du kích kéo lên miệt đồng bưng chiến đấu. Rồi Việt gian chỉ điểm, giặc nã súng lên đó chết biết bao nhiêu mà kể. Đàn ông hy sinh hết, chỉ còn đàn bà, con gái chân yếu tay mềm. Ban đêm, mấy bả phải đem rượu ra uống cho nóng người đặng còn có sức, có gan lần mò lên đó ôm xác cha, chồng, con, anh, em về chôn cất. Có nhà trong một đêm kéo về hai xác, nhà thì ba bốn xác…”(1). Bởi vậy, nên các mẹ càng thương các chiến sĩ hy sinh không được 1. Mai Hương (2016), “Nghe bà Tám Trầu kể chuyện”, báo Tuổi trẻ Online, ngày 24/11/2016, nguồn: http://tuoitre.vn/nghe-ba-tam-trau-ke-chuyen-1224397.htm.


- 312 - gia đình chôn cất. Sau mỗi trận càn, có chiến sĩ hy sinh, các mẹ trực tiếp đi tìm xác về vận động chôn cất; có khi các mẹ đấu tranh với địch buộc chúng phải để nhân dân được chôn cất anh em. Trong chuyện về các bà mẹ chiến sĩ, có câu chuyện cảm động về bà Nguyễn Bạch Tuyết Hương (má Giáo, ở Phú Nhuận) kiên cường nuôi anh Nguyễn Đình Chính - Trưởng Ban Công tác số 1 nội thành ngay tại xà lim án tử hình của anh. Sau khi Sài Gòn bị giặc Pháp tái chiếm, má đưa anh Mai - người con trai lớn, lên đường chiến đấu, rồi má tiếp tục buôn bán ở chợ Tân Định nuôi 2 đứa con nhỏ. Má thường đón tiếp anh chị em trong Ban Công tác thành số 1 về tá túc để gây dựng cơ sở, điều tra tình hình địch và tiến hành trừ gian diệt ác. Anh Nguyễn Đình Chính là một cán bộ trong số đó, được má rất quý. Anh bị giặc bắt năm 1948, bị xử hai án tử hình (một của tòa án quân sự, một của tòa đại hình). Má thường xuyên đi hết nhà tù này đến nhà tù khác để thăm nuôi anh và số anh em bị bắt giam chung. Má làm thân với bọn lính gác và bọn cai ngục để liên lạc bằng được với anh trong khám tử hình. Anh em viết “mật tự” trên giấy vệ sinh, má nhúng nước là lộ chữ. Má giấu chìa khóa trong miếng thịt bò chiên (má nói với lính vì anh Chính ốm yếu, cần bồi dưỡng). Má còn giấu lưỡi cưa trong hộp thuốc hai đáy đưa vào khám để anh em mở cổng vượt ngục. Má vận động bác sĩ khám chứng nhận anh Chính bị lao phổi để được ở lại bệnh viện nhưng thực dân không tin. Cuối năm 1948, má chuyển thư mật của tổ chức vào khu giải phóng cho Trung tướng Nguyễn Bình đề nghị phân công đơn vị Hoàng Thọ bắn máy bay bắt phi công để đổi lấy anh Chính. Thực hiện yêu cầu của thành phố, đơn vị Hoàng Thọ bắn rơi một chiếc


- 313 - máy bay của Pháp, nhưng viên phi công trúng đạn chết nên kế hoạch trao đổi không thực hiện được. Má đã nhận và cất giữ kỹ nhiều bức thư của anh Chính gửi ra trong đó có bức thư viết bằng máu gởi lên Bác Hồ. Qua con đường của tổ chức, má đã chuyển bức huyết thư của anh tới tay Bác. Tổ chức Đảng muốn ghi lại hình ảnh người chiến sĩ cách mạng kiên cường, dũng cảm trong khám tử hình khi anh còn sống để lưu lại tấm gương cho các thế hệ mai sau. Má Giáo đã tốn nhiều công phu vận động, tổ chức đưa máy ảnh vào khám để chụp ảnh anh Chính. Từ trong khám tử hình, anh Chính đã chụp tấm ảnh cuối cùng và gửi ra ngoài. Anh nằm nghiêng chống tay lên đầu, trong tư thế ung dung, thoải mái, mặt mày tươi tỉnh lạc quan. Trong lúc đó, dưới chân anh, chiếc còng sắt vẫn còn khóa chặt(1). Tấm lòng của một bà mẹ Nam Bộ như thế với người chiến sĩ cách mạng không khác gì với người thân yêu ruột thịt máu mủ của mình. Tình thương ấy không chỉ xuất phát từ lòng nhân đạo, mà còn từ sự đồng cảm với lý tưởng chiến đấu của các chiến sĩ, từ sự mong mỏi ngày chiến thắng và căm thù quân xâm lược, căm thù chiến tranh phi nghĩa. Năm 1952, trong bức thư gửi các Hội Mẹ chiến sĩ nhân ngày 8/3, Hồ Chủ tịch viết: “Các chiến sĩ thì sẵn sàng hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh đi giết giặc cứu nước, bảo vệ đồng bào. Các cụ các bà thì thương yêu săn sóc các chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến… Chẳng những các chiến sĩ ta, tôi và Chính phủ cũng biết ơn các cụ, các bà”(2). Những hoạt động sôi nổi của Hội Mẹ chiến sĩ đã tạo nếp, tạo ý thức thấm sâu trong các mẹ, 1. Lược thuật theo Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 180 - 182. 2. Dương Thoa, Hồ Chủ tịch với phong trào giải phóng phụ nữ, tr. 26.


- 314 - các chị, để rồi phát huy mạnh mẽ trong giai đoạn Nam Bộ chống Mỹ. đ. Hiệp định Genève, tập kết và phân chia giới tuyến Năm 1954, kháng chiến 9 năm chống Pháp của Nam Bộ kết thúc bằng Hiệp định Genève. Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève được ký kết giữa đại diện Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và đại diện Tổng Tư lệnh Quân đội Liên hiệp Pháp ở Đông Dương sau nhiều tháng đấu tranh gay gắt: 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp. Hiệp định có 6 chương, 47 điều và một phụ bản với các nội dung chủ yếu: thực hiện ngừng bắn; xác định vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời; hai bên tiến hành tập kết lực lượng theo giới tuyến quân sự; ngăn cấm phá hoại tài sản công cộng, phân biệt đối xử, trả thù và bảo đảm quyền tự do lựa chọn vùng cư trú của công dân; hai bên không tham gia liên minh quân sự, không lập thêm căn cứ quân sự mới và không đưa thêm quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí vào Việt Nam; trao trả tù binh và dân thường trong chiến tranh. Hiệp định Genève là một nội dung được công nhận trong Tuyên bố chung ngày 21/7/1954 của Hội nghị quốc tế tại Genève về lập lại hòa bình ở Đông Dương với sự tham gia của đại diện các chính phủ: Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Anh, Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Lào, Campuchia và ngụy quyền Bảo Đại. Tuyên bố chung gồm 13 điều, thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia; chứng nhận bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam và tổ chức giám sát quốc tế việc thi hành Hiệp định; Pháp sẽ rút quân khỏi Việt Nam và xác định việc tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7/1956 có sự kiểm soát quốc tế để thống nhất toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.


- 315 - Theo quy định của Hiệp định Genève, từ tháng 9/1954 đến tháng 7/1955 là thời kỳ chuyển quân tập kết của hai bên tham chiến. Trong 300 ngày tập kết đó, có khoảng 1.200.000 người di cư từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc, tạo nên hai luồng dịch chuyển: tập kết xuôi và tập kết ngược. Luồng tập kết thứ nhất từ Nam ra Bắc, gồm khoảng 150.000 cán bộ chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang, cán bộ chính quyền, cán bộ Đảng các cấp, các nhân sĩ, con em cách mạng… từng chiến đấu ở các chiến trường phía Nam, nay được lệnh rút về miền Bắc(1). Từ các chiến khu, vùng giải phóng, anh chị em chiến sĩ, cán bộ cách mạng miền Nam về với thủ đô; vừa bước ra từ cuộc kháng chiến, họ ra đi gần như tay trắng. Trong khi đó, luồng tập kết thứ hai ngược lại: từ Bắc vào Nam đông hơn gấp bội, gồm hơn 1 triệu người là lực lượng trong hệ thống chính quyền và quân sự của Pháp ở miền Bắc, hàng chục vạn giáo dân Thiên Chúa, một số nhà kinh doanh, công chức, kỹ sư, bác sĩ… Dòng người này cố gắng mang theo những gì là tài sản quý giá nhất của họ, đi theo diện gia đình, họ tìm đến đóng trú ở vùng đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn hoặc vùng nông thôn trù phú của Gia Định và một số tỉnh Nam Bộ khác. Đến nay, giới sử học nhận định rằng đây là một cuộc di dân có một không hai trong lịch sử dân tộc Việt Nam, và cũng là một sự kiện hiếm có trong lịch sử thế giới hiện đại. Chỉ xét trong tiến trình lịch sử Việt Nam, hầu hết các cuộc di dân đều theo chiều hướng xuôi về phía Nam, gắn với nhu cầu mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế, hoặc bị cưỡng chế phục vụ thực dân. Chưa bao giờ có một cuộc chuyển giao dân số đặc biệt như giai đoạn tập kết năm 1954, vô cùng nhanh chóng (diễn 1. PGS.TS. Nguyễn Đình Lê, “Sự kiện di cư 1954 - 1955 trong lịch sử Việt Nam và thế giới”, Nguồn: https://nghiencuulichsu.com/2014/05/10/su-kien-di-cu-1954-1955-tronglich-su-viet-nam-va-the-gioi/, 10/2014.


- 316 - ra chỉ trong 10 tháng) nhưng hết sức đồng bộ, có tổ chức, và định hình một sự phân vùng chính trị hoàn toàn mới: miền Bắc hoàn toàn tự do xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tạm thời do lực lượng ngoại bang mà chủ yếu là thực dân và đế quốc kiểm soát, chờ ngày tổng tuyển cử để thống nhất đất nước sau 2 năm. Đón nhận Hiệp định Genève, từ tháng 8/1954, hoạt động tác chiến trên chiến trường Nam Bộ giảm hẳn. Lệnh ngừng bắn được thực hiện đúng vào sáng 11/8/1954. Các cơ quan kháng chiến, các đơn vị vũ trang và đồng bào các vùng tổ chức hội nghị mừng công, mít tinh mừng thắng lợi và học tập nội dung Hiệp định Genève. Công tác của Hội Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lúc này tập trung vào việc tuyên truyền giải thích Hiệp định, chuẩn bị lực lượng cho giai đoạn đấu tranh chính trị sắp tới, sắp xếp lại tổ chức, chuyển phương châm, phương hướng hoạt động từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, đòi thực dân Pháp thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Genève, tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Một số lớn cán bộ phụ nữ được phân công xuống các địa phương, triển khai tình hình theo nhiệm vụ mới. Những cán bộ phụ nữ cốt cán trong các tổ chức chính trị có vai trò quan trọng trong việc ổn định tổ chức và hướng dẫn đồng bào vào giai đoạn này, vì không phải không có sự hoang mang xáo động trong tinh thần người phụ nữ Nam Bộ. Có những chị em vui mừng quá mức, chủ quan khinh địch, nghĩ rằng chiến thắng đã trong tầm tay nên vội vã lộ diện, tuyên truyền, tổ chức hội nghị công khai trong vùng gần địch…; nhưng cũng có bộ phận chị em tiếc nuối thành quả kháng chiến đã giành được (vùng giải phóng của Nam Bộ lúc đó đã mở rộng rất


- 317 - nhiều) nên chủ trương không muốn tuân thủ lệnh ngừng bắn, không muốn giao nộp vũ khí, tiếp tục tấn công địch…; có người hoài nghi về Hiệp định, lo lắng cho gia đình hậu phương sau khi tập kết. Vì vậy, trong thời gian này, nhiều lớp tập huấn, học tập nội dung Hiệp định Genève được tổ chức, nhằm giúp chị em phụ nữ nói riêng và đồng bào nói chung hiểu rõ ý nghĩa của thắng lợi, sẵn sàng ngừng bắn, chuẩn bị tập kết chuyển giao. Đối với tổ chức phụ nữ, sau các lớp học, Trung ương Cục tiến hành sắp xếp, phân công lại đội ngũ cán bộ. Vấn đề lớn chi phối chị em lúc này là việc đi - ở, tức đi tập kết hoặc ở lại công tác. Bà Nguyễn Thị Thanh kể lại: “Tư tưởng nhiều người diễn biến khá phức tạp xung quanh vấn đề này. Đi tập kết ra miền Bắc được sống, công tác và học tập trong cảnh thanh bình. Ở lại miền Nam phải công tác trong vùng địch tạm chiếm, chịu đựng sự khủng bố đàn áp của kẻ thù, rất có thể bị bắt bớ tù đày, bị tra tấn dã man, thậm chí có thể hy sinh tính mạng. Tuy nhiên, nhiều đồng chí vẫn sẵn sàng tình nguyện ở lại, một số người cũng muốn đi và cá biệt có người thú thật với Đảng không tin ở sức mình có thể chịu đựng nổi gian khổ ác liệt, sợ lúc sa vào tay địch không giữ vững khí tiết cách mạng để bảo vệ Đảng và xin được đi tập kết”(1). Nhiều lớp tập huấn được mở ra liên tục để bồi dưỡng chính trị cho những cán bộ được bố trí ở lại công tác. Đối với chị em được tổ chức tập kết ra Bắc, các chị cũng được giáo dục tư tưởng, coi việc đi - ở đều vinh quang, đi hay ở cũng nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng; đồng thời động viên tinh thần để chị em yên tâm, chấp nhận sự chia cách tạm thời… Hầu hết cán bộ phụ nữ Nam Bộ lúc 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 133.


- 318 - đó đều chấp hành sự phân công của Đảng, người đi cũng vui vẻ, người ở lại cũng yên lòng. Tuy vậy, phải khẳng định, người phụ nữ Nam Bộ và nhân dân Nam Bộ, vì sự nghiệp chung, đã chấp nhận sự thiệt thòi lớn về mình sau Hiệp định Genève. Đến thời điểm năm 1954, tại Nam Bộ, vùng giải phóng hầu như đã mở rộng, bao trùm khắp nơi, vùng kiểm soát của thực dân Pháp bị thu hẹp tối đa. Khí thế cách mạng lúc đó lên rất cao. Cùng với việc tập kết quân ra Bắc, lực lượng cách mạng ở Nam Bộ cũng đồng thời bàn giao toàn bộ các vùng đã giải phóng cho thực dân kiểm soát trở lại. Chính quyền kháng chiến các cấp ở Nam Bộ giải thể sau tháng 7/1954. Cuối tháng 9/1954, các cơ quan phụ nữ giải tán. Chính quyền cách mạng của nhân dân Nam Bộ được xây dựng và có những phát triển vượt bậc trong 9 năm kháng chiến, nay phải tạm thời bị xóa bỏ. Lực lượng phụ nữ Nam Bộ một lần nữa chứng kiến thành quả tranh đấu của mình vuột khỏi tầm tay. Thực tế, Nam Bộ còn phải chờ hơn 20 năm nữa mới giải phóng, và người phụ nữ Nam Bộ còn phải đấu tranh ngoan cường hơn nữa mới thực sự được hưởng độc lập, tự do. Sau tập kết, hơn 10 vạn cán bộ, chiến sĩ từng là lực lượng trụ cột cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đã ra Bắc, đồng thời gần như tất cả những lực lượng thù địch với công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc đang trú đóng ở miền Bắc đi vào Nam, tạo nên một tình thế khó khăn hơn cho Nam Bộ. Các cán bộ phụ nữ ở lại miền Nam sau tháng 7/1954 đã không còn có đủ những ưu thế của mình khi đối mặt với kẻ thù như trong thời kỳ kháng chiến 9 năm. Họ vừa phải đối mặt với khoảng trống mới về lực lượng chiến đấu, vừa phải gầy dựng lại sức mạnh đấu tranh và tổ chức chính quyền các cấp, lại vừa phải đối diện với một cuộc xung đột mới về ý thức


- 319 - hệ đã nảy mầm từ năm 1954. Sự cách biệt về hình thái kinh tế chính trị giữa hai miền Nam - Bắc bắt đầu từ giai đoạn này rồi sẽ dẫn đến sự cách biệt nhất định, không thể tránh khỏi, về tư tưởng, về lối sống giữa phụ nữ miền Nam và miền Bắc, dù mục tiêu tranh đấu của hai miền vẫn là thống nhất đất nước. Vượt qua những xáo động tinh thần, nhận thức được tình hình, chấp nhận phần thiệt thòi của Nam Bộ, người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tham gia vào phong trào tập kết ra Bắc của các cán bộ, chiến sĩ miền Nam, đồng thời đón những đoàn người từ Bắc di cư vào. Nam Bộ quy định 3 khu tập kết: 80 ngày tập kết ở Hàm Tân (Bình Thuận) - Xuyên Mộc (Vũng Tàu), 100 ngày tập kết ở Cao Lãnh - Đồng Tháp và 200 ngày tập kết ở Chắc Băng - Cà Mau. Từ ngày 21/7 đến ngày 26/8/1954, lực lượng chuyển quân tập kết xong tại ba địa điểm trên. “Toàn Phân liên khu miền Đông (bao gồm cả đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn), lực lượng tập kết có tổng cộng 14.635 người, trong đó có 11.292 cán bộ, chiến sĩ, 247 người thuộc bộ phận đặc khu bộ và các cơ quan đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn”(1). Từ ngày 26/8/1954, tàu vận tải của Liên Xô và Ba Lan bắt đầu đưa những đoàn cán bộ chiến sĩ tập kết của Nam Bộ ra miền Bắc. Ngày 8/2/1955, chuyến tàu cuối cùng rời bến. Những con tàu lịch sử này thẳng tiến đến Thanh Hóa (thị xã Sầm Sơn, huyện Quảng Xương, Hoằng Hóa…), Nghệ An, Hải Phòng - những điểm đón tiếp đồng bào miền Nam trên đất Bắc. Từ đây, họ tiếp tục được đón, chuyển đến các địa phương khác ở miền Bắc để tiếp tục học hành, công tác, tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Công tác phụ nữ cũng được triển khai khẩn trương theo tình hình chung. Các bà, các chị chấp hành danh sách phân 1. Hồ Sơn Đài (2008), Cuộc kháng chiến 1945 - 1975: nhìn từ Nam Bộ, Sđd, tr. 241.


- 320 - công của Trung ương Cục: các cán bộ tập kết miền Bắc mau chóng chuẩn bị hành trang đến điểm tập kết, cán bộ về nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn chuẩn bị vỏ bọc hợp pháp mới để nhanh chóng ổn định cơ sở cách mạng ở đây, cán bộ về các địa phương cũng nhận nhiệm vụ, chuẩn bị di chuyển. Tình hình Sài Gòn lúc đó rất sôi động. Phong trào Bảo vệ hòa bình do luật sư Nguyễn Hữu Thọ khởi xướng phát triển, lan rộng đến các thành phố, thị xã toàn miền Nam. Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn đòi hỏi nhiều cán bộ để phát triển và giữ vững phong trào, xây dựng cơ sở đều khắp trong nội thành. Trung ương Cục điều động một số lớn cán bộ phụ nữ các tỉnh về Sài Gòn. Tất cả đều được tập huấn về công tác đô thị trước khi nhận nhiệm vụ mới. Một số chị em hoạt động bí mật tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định phải bám lại, cố giữ thế hợp pháp của mình, âm thầm tập hợp, xây dựng và củng cố lực lượng. Các chị em làm công tác chính trị trước đây được nhanh chóng cử đi học các lớp chuyên môn để “hợp pháp hóa” vỏ bọc sau này, như lớp y tế, hộ sinh cấp tốc, học đứng máy trong các xí nghiệp… Số chị em này sau đó được đưa vào hoạt động ở nội thành, như bà Nguyễn Thị Thanh về Sài Gòn làm công nhân nhà máy, nữ hộ sinh Nguyễn Kim Âu về Chợ Lớn làm việc trong nhà hộ sinh Hòa Bình ở Ngã Sáu (chủ là nữ hộ sinh quốc gia Huỳnh Xuân Hương), một số chị em vào làm việc ở các nhà thương tư, biến những nơi này thành cơ sở cách mạng. Các chị em giáo chức trong nội thành giữ thế hợp pháp, là đoàn viên Nghiệp đoàn Giáo học tư thục Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Sau Hiệp định Genève, một số nhà trí thức yêu nước, tiến bộ tại Sài Gòn mở trường Đức Trí - trường nữ trung học tư thục đầu tiên ở Sài Gòn, cũng là một cơ sở cách mạng trong giai đoạn kháng chiến sau này.


- 321 - Cuộc tập kết năm 1954 làm thay đổi đời sống của rất nhiều phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Cho dù bản thân ở lại miền Nam, các bà, các chị vẫn phải tiễn đưa chồng, anh, em, đồng chí của mình ra Bắc. Nhiều chị còn ngậm ngùi xa các con nhỏ của mình, bởi theo chủ trương lúc đó của Đảng, một số lượng không nhỏ con em cán bộ, chiến sĩ, đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc để tiếp tục học tập, nhằm đào tạo lực lượng cán bộ cho sự nghiệp cách mạng lâu dài. Chỉ trong 2 tháng cuối năm 1954, hơn 5.000 học sinh miền Nam đã ra Bắc học tập, hình thành một thế hệ “hạt giống đỏ” trưởng thành và trở về miền Nam sau năm 1975(1). Ngày tiễn đưa tập kết mang không khí của ngày hội lớn. Trong ký ức của nhiều người, đó là một ngày “Bến tập kết vui như hội. Trên một bãi rộng, kẻ đi người tiễn, đông nghẹt, mà không sợ máy bay đến bắn phá nữa. Vào khoảng trưa, ba chiếc xà lan đổ bộ của hải quân Pháp trườn lên bãi. Chúng tôi nhập vào đoàn tập kết, hàng ngũ chỉnh tề, cờ đỏ sao vàng giương cao, hùng dũng bước xuống xà lan như người chiến thắng. Trên tàu có lính Pháp và lính ngụy trố mắt đứng xem lính Việt Minh, dưới bến là đồng bào ra tiễn, giơ cao hai ngón tay là hẹn hai năm phải trở về. Hình ảnh đó đã trở thành lịch sử”(2). Người phụ nữ Nam Bộ sau 9 năm kháng chiến gian khổ, hy sinh mất mát, nay bồng con, tiễn chồng lên tàu ra Bắc tập kết, chờ ngày thống nhất đất nước với tâm trạng bịn rịn và niềm tin vào ngày toàn thắng, đoàn tụ. Đó là một cuộc chia ly vì nghĩa lớn. Cảnh mẹ tiễn con, vợ tiễn chồng, con tiễn cha 1. Hoàng Phương (2014), “Cuộc dịch chuyển lịch sử của hơn 32.000 học sinh miền nam”, báo điện tử VnEpress, ngày 14/12/2014, nguồn: https://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/ cuoc-dich-chuyen-lich-su-cua-hon-32-000-hoc-sinh-mien-nam-3120192.html. 2. Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 386.


- 322 - trong những ngày ấy đã hằn sâu trong tiềm thức của cả một thế hệ chấp nhận hy sinh hạnh phúc riêng vì lý tưởng chung. Việc sẵn sàng đi theo sự sắp đặt của lịch sử lúc ấy, để chồng, cha, con lên đường tập kết, cho thấy họ đã đặt lợi ích dân tộc lên trên hạnh phúc cá nhân. Cuộc kháng chiến trường kỳ của Nam Bộ đã góp phần làm cho người phụ nữ trưởng thành. Họ vượt qua cuộc đấu tranh trong mỗi gia đình, mỗi con người, chấp nhận chia ly, chờ ngày toàn thắng. Lúc đó, người người hẹn nhau 2 năm sau, khi cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước diễn ra, họ sẽ đoàn tụ. Dù trong mỗi người, niềm tin vào mốc thời gian hai năm có lẽ không giống nhau, nỗi hồ nghi là có thực, nhưng các giới đồng bào Nam Bộ đã chân thành, nghiêm túc thực hiện tập kết theo tinh thần Hiệp định Genève. Cuộc chờ đợi 2 năm đã biến thành 20 năm, khi thực dân Pháp bội ước và đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp, xâm chiếm Nam Bộ. Những câu chuyện tập kết 1954 không chỉ là chuyện chia ly mà còn là câu chuyện về lòng thủy chung bị thử thách, về nỗi đau chia cách gia đình, bặt tin nhau hơn hai thập kỷ. Người cựu chiến binh là chồng nữ anh hùng Đoàn Thị Nghiệp (Mỹ Tho) kể rằng: “Đó là năm 1954 - tôi được tập kết ra Bắc. Kẻ ở người đi lòng đầy bịn rịn lưu luyến. Trên bến đông nghẹt người đưa tiễn. Dưới tàu, tôi cố tìm một góc trên boong để nhìn rõ được em. Em đứng đó, đôi mắt mở to tròn sâu thẳm ngấn nước… con tàu rời bến, bóng em và con thật nhỏ nhoi rồi mất hút. Làng xóm thân yêu cũng khuất dần… Những ngày sống nơi đất Bắc, lòng tôi da diết nhớ về em. Tôi không biết em sẽ chống đỡ cuộc sống thế nào với một nách hai con, làm dâu và làm mẹ. Mãi sau này tôi mới được nghe các bạn em kể lại rằng sau ngày tiễn tôi đi, em đã sống những ngày đầy giằng


- 323 - xé và bão táp. Tham gia hoạt động cách mạng, em đã phải đi ngang về tắt trong tiếng chì tiếng bấc của mẹ chồng, trong sự dị nghị của hàng xóm. Chấp nhận một cuộc sống đóng khung và yên phận giữa lúc cách mạng đang trong những ngày đầy khó khăn đen tối? Em đã chọn con đường của người lính thầm lặng trong cuộc chiến đấu ác liệt này. Có người hỏi em “Gia đình cô đầy khó khăn, cô hoạt động cách mạng để làm gì?” Em nói “Tôi muốn góp phần chiến đấu để đất nước thống nhất, anh ấy sớm trở về…”. Lớp trẻ bây giờ sẽ không hiểu hết được đâu. Cái giá của hạnh phúc đã đổi bằng xương máu. Tôi trở vào miền Nam nhưng đâu đã gặp được em. Chiến trường miền Tây, miền Đông chia cắt. Chúng tôi như hai cái bóng đuổi nhau, khoảng giữa là đạn bom chết chóc. Hơn 4 năm sau tôi mới được gặp em ở chiến khu. Em gục đầu vào vai tôi, òa khóc. Cưới nhau từ trước ngày tập kết, thời gian chúng tôi sống bên nhau có được là bao. Em báo tin hai đứa con trai học trường trung học Nguyễn Đình Chiểu đã vào bộ đội. Tôi chưa kịp hôn em thì có mật hiệu báo động, máy bay của địch quần trên đầu. Không có một hầm bí mật nào có thể nấp được, em vội vã xô tôi ra, vụt chạy đi, mất hút…”(1). Những chuyện như vậy chắc không hiếm trong chiến tranh, nhưng nếu người trong cuộc không kể, thế hệ hôm nay khó lòng hình dung những thử thách mà thế hệ trước phải đối mặt. Năm 2009, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức sản xuất bộ phim tài liệu Tập kết 1954 - Những câu chuyện bây giờ mới kể (đạo diễn Thạch Ngọc Phúc). Bộ phim kể lại nhiều câu chuyện diễn ra trong giai đoạn lịch sử này. Chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc có người vừa cưới vợ được vài 1. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (1996), Những bà mẹ Việt Nam anh hùng: các tỉnh thành phía Nam, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 204, 205.


- 324 - ngày, người được vài tháng, cũng có người chưa kịp cưới đã vội đi. 20 năm xa cách có biết bao thử thách mà những người ra đi và những người ở lại phải đối mặt. Có những người ra Bắc không chịu nổi cuộc sống cô đơn, chờ đợi, đã kết hôn lần nữa, để lại người vợ mòn mỏi đợi chờ; có những người ở lại cũng đã lập gia đình với người khác. Vậy nhưng không trách được. Ngay khi trở về, có người đã tìm gặp chồng sau của vợ, như Thiếu tướng Phan Văn Xoàn. Ông chân thành cảm ơn người chồng sau của vợ đã cưu mang vợ và con gái mình. Họ trở thành bạn thân của nhau không một lời oán trách. Bộ phim kể lại câu chuyện của má Sáu Hòa, khi người chồng tập kết, bà một mình nuôi sáu người con nên người và dẫn dắt cả sáu con tham gia hoạt động cách mạng. Hai vợ chồng xa nhau nhưng trong ông bà vẫn giữ niềm tin son sắt. Với ông bà Nguyễn Xuân Đỗ và Đỗ Thị Kiểu, khi đã cùng chí hướng, sự xa cách chỉ vun đắp niềm tin vào nhau, cuộc hôn nhân của họ được gìn giữ bền vững. Với bà, sự thủy chung không chỉ là chờ đợi, bà đã tham gia hoạt động cách mạng tại địa phương. Khi ông ra đi, bà mang thai con gái đầu lòng được 7 tháng, năm 1972, ông vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu; ngày miền Nam giải phóng, ông mới gặp lại vợ và con gái từ Côn Đảo trở về… Tập kết không chỉ có chia ly, sự kiện này còn đem lại đoàn tụ, tuy là niềm vui xen lẫn đắng cay. Người phụ nữ Nam Bộ tiêu biểu - bà Nguyễn Thị Thập, cũng có con trai tập kết ra Bắc vào tháng 10/1954. Bà gửi con để đi hoạt động cách mạng từ khi con chưa tròn tuổi, đến ngày gặp lại con trên đất Bắc là 15 năm. “Trước ngày Quốc khánh đầu tiên sau hòa bình lập lại (2/9/1955), mừng Thủ đô giải phóng, một số thiếu nhi ngoan, con cán bộ tập kết đang ở Thanh Hóa được đưa ra


- 325 - Hà Nội dự lễ, trong đó có cháu Quang. Mười bốn tuổi mà nó chưa cao lớn mấy, người vẫn gầy, nước da đen mờ vì dãi dầu mưa nắng và quá lao lực từ bé. Nó mặc áo sơ mi trắng, quần dài xanh công nhân, chân đi dép cao su và được quàng khăn đỏ. Tóc cắt cao, một chỏm dựng đứng trên đỉnh đầu giống như lá củ su hào, trông chất phác dễ thương lắm. Chị (Nguyễn Thị Thập) phải hết sức kìm giữ mới chưa lao tới ôm lấy con trai. Vậy là sau 15 năm xa cách, bây giờ thằng Quang mới biết, thực sự má nó là ai!”(1). Tưởng như người phụ nữ đã trải qua đủ nghèo túng và đói khổ, áp bức và khinh rẻ, tra tấn và tù đày, căm thù và đấu tranh, nay đã trở nên khô khan cứng rắn; nhưng thiên chức vẫn có tiếng gọi muôn đời của nó, tấm lòng người mẹ vẫn rưng rưng trước nỗi chia ly và đoàn tụ với con, với gia đình. Cuộc chiến tranh của dân tộc, đến thời điểm này, đã chuyển sâu vào trong mỗi một cuộc đời, mỗi một con người. Từ lúc này trở đi, đặc điểm lớn nhất của những cuộc đấu tranh là những đặc điểm bên trong: trong mỗi con người, trong mỗi gia đình, trong mỗi mối quan hệ. Cũng từ đây trở đi, mối dây thiêng liêng gắn bó những con người trong cùng một hàng ngũ trở thành mối dây gắn bó ruột thịt giữa hai miền Bắc - Nam. Những người con của Nam Bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng, phải mất 20 năm trời mới có thể trở về dưới một mái nhà, chung một gia đình. Phong trào phụ nữ Sài Gòn bước vào một thời kỳ mới, hòa trong cuộc đấu tranh giành lại tự do, độc lập, thống nhất dân tộc có cuộc đấu tranh để những người thân yêu được trở về, để cha mẹ, vợ chồng, con cái được đoàn tụ. 1. PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh, “Nguyễn Thị Thập - Người con ưu tú của thành đồng tổ quốc”, in trong sách: Nguyễn Thị Thập - Người con ưu tú của Nam Bộ thành đồng, Sđd, tr. 185.


- 326 - III. ĐẶC ĐIỂM PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 1. Tinh thần đấu tranh, hy sinh quên mình Giai đoạn 9 năm kháng chiến chống Pháp, phụ nữ đã có mặt ở tất cả các cơ quan chính quyền cách mạng của Nam Bộ. Họ thực hiện bình đẳng nam nữ trong thực tế chiến đấu bằng cách chia sẻ trách nhiệm, đảm trách sự phân công của cách mạng, không đòi hỏi sự ngang bằng với nam giới mà sẵn sàng thay người đàn ông đảm đương những công việc trước đây mình chưa từng làm. Người phụ nữ nông dân Nam Bộ tăng gia sản xuất, làm thay cả phần việc của đàn ông mà không đòi hỏi hay oán trách. Họ đã không coi đó là sự hy sinh hay bình đẳng/ bất bình đẳng, mà đơn giản là ủng hộ chính quyền cách mạng để giải phóng đất nước. Vẫn là người phụ nữ quanh luống rau bụi chuối, luẩn quẩn với đám ruộng, đàn gà, nhưng tư tưởng của họ đã rộng mở, tinh thần đấu tranh, chấp nhận hy sinh tất cả vì cách mạng đã hình thành rõ nét trong từng con người. Có những phụ nữ đô thành sẵn sàng thoát ly đi kháng chiến, ăn ở kham khổ tận sâu những bưng biền Nam Bộ; hay dễ dàng trút bỏ cuộc sống thoải mái vốn có của mình để giả trang làm công nhân, nông dân, người buôn bán…, từ đó hoạt động theo sự phân công của tổ chức. Số lượng này đã đông hơn gấp bội so với trước Cách mạng tháng Tám. Lúc đó, có lẽ người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, với bản tính khoáng đạt của người miền Nam, đã không suy tính chuyện khôn dại trong quyết định của mình. Ông Nguyễn Tiến Luôn, người phụ trách tờ Tin tức (bản tin của Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) phát hành ở nội thành Sài


- 327 - Gòn từ năm 1952 - 1953, kể rằng: trong những cán bộ bí mật biên soạn, phát hành báo, có cô Ba Phương lo việc nấu ăn, phụ in và bán thuốc lá lẻ ở đầu hẻm để canh chừng công an cho xưởng in. Cô khoảng 15 tuổi, nhà ở Củ Chi, gia đình khá giả, có trình độ văn hóa khá, nhưng đã bỏ lại hết để thoát ly gia đình, bỏ lối ăn bận tân thời lúc trước để ăn mặc, lao động như cô gái quê lam lũ, ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường. Ban đêm, cô nghe đài, viết lại để lo bài vở cho bản in, trình bày, đánh máy giấy sáp, in ấn, rất vất vả. Vậy mà cô vui vẻ hăng hái với đời sống cách mạng. Cùng chung lý tưởng, sống gần nhau lâu ngày, nên sau này cô kết hôn với anh Tám Khuê - nhân viên in ấn bản tin(1). Lại còn có chuyện chị Năm Thanh Hương, em của chị Ba Thanh Loan (hai chị em đều là nghệ sĩ cải lương, được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú) rời đô thành Sài Gòn để vào chiến khu công tác trong đoàn văn nghệ của Văn phòng Trung ương Cục - Ủy ban Nam Bộ. Là con gái Sài Gòn, lại là nghệ sĩ được mến mộ, vậy mà ít ai biết những ngày trong chiến khu, chị từng được công nhận là Chiến sĩ thi đua nuôi heo của Văn phòng Trung ương Cục! Mình chị phụ trách cả một trại nuôi heo giữa đồng không mông quạnh, quần quật bất chấp mưa nắng để có thịt góp vào bữa ăn cho đồng chí, đồng đội. Và còn bao nhiêu người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định như vậy, từ chị bếp, cô văn thư, chị nhân viên giải mật mã, cô phát thanh viên, đến người cán bộ lãnh đạo cốt cán…, họ tham gia phong trào cách mạng mà gần như không lo gì cho bản thân, cho tương lai của mình trong những ngày chiến tranh nóng bỏng. 1. Nguyễn Tiến Luôn, “Năm 1952, đã có cả “bản tin” tại nội ô Sài Gòn Chợ Lớn”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định - Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 2, tr. 136 - 140.


- 328 - Không những vậy, họ chấp nhận hy sinh sự trọn vẹn của bản thân, của gia đình để hoạt động cách mạng. Khi Tổ quốc cần những người con Nam Bộ đứng lên kháng chiến, hàng triệu người mẹ, người vợ, người con gái đến tuổi yêu đương đã hy sinh hạnh phúc riêng của mình, khuyến khích chồng con, người yêu ra đi cứu nước. Quan trọng hơn, đó không chỉ là hành động của một vài phụ nữ mà đã trở thành phong trào mạnh mẽ khắp các vùng miền, phản ánh trình độ giác ngộ chính trị của các bà các chị. Có hiểu được tình yêu chồng, quý con sâu sắc thiết tha của những người vợ, người mẹ mới thấy sự hy sinh ấy có ý nghĩa thế nào. Người phụ nữ chỉ có thể đánh đổi những thứ quý giá nhất của mình cho một điều quý giá hơn thế, đó là Tổ quốc, là tự do. Đồng chí Lê Duẩn từng nhắn nhủ trong một lớp bồi dưỡng giáo viên bình dân học vụ (khóa 1) của Trường Trung học Bình dân Nguyễn Công Mỹ: “Một trong những hy sinh to lớn của thanh niên khi đi theo con đường cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hy sinh tình yêu đôi lứa để nhường cho tình yêu Tổ quốc!”(1). Trong một lần khác, ông nói với bà Nguyễn Thị Loan (nguyên thành viên đội cận vệ Văn phòng Xứ ủy Nam Bộ): “Người phụ nữ khi còn thảnh thơi mang ba lô đi chiến đấu thì dễ thôi, nhưng khi có chồng, có gia đình, có con mà vẫn chịu đựng được, vẫn giữ vững được ý chí chiến đấu mới rõ ràng là trung thành với cách mạng”(2). Bà Nguyễn Thị Loan từng tiễn chồng đi tập kết năm 1954, một mình vừa ở lại Sài Gòn nuôi con vừa làm cận vệ bảo vệ đồng chí Lê Duẩn ở số nhà 29 Huỳnh Khương 1. Trần Hữu Phước, “Những năm tháng dưới mái trường cách mạng”, in trong sách: Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 103. 2. Nguyễn Thị Loan, “Về Sài Gòn với Văn phòng Xứ ủy Nam Bộ”, in trong sách: Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 583.


- 329 - Ninh. Cũng vì nhiệm vụ này mà bà đành cho con trai nghỉ học ngang, vì sợ thầy cô lui tới sẽ bị lộ cơ sở cách mạng quan trọng. Đêm đêm bà tự soạn chữ cho con tập viết, soạn số cho con cộng trừ…; sáng ra, con theo đó mà học. Có lúc đã làm xong bài, cháu nhớ trường, cháu đứng quay mặt đối diện với tường nhà rồi kể chuyện con gà, con vịt, con báo, con công… như ở trường cô kể chuyện cho cháu nghe. Bà trông thấy, thương quá… Những thiệt thòi như thế trong chiến tranh, người phụ nữ nào cũng có thể trải qua. Chị Lê Thị Kim Hoàn, vợ liệt sĩ Hồ Hảo Hớn, suốt mười mấy năm dài vợ chồng mỗi người một nơi. Trong thời gian ấy, vì là vợ người chiến sĩ cách mạng kiên trung, chị bị bắt, bị lưu đày ra Côn Đảo. Được thả ra rồi, mỗi lần muốn thăm anh, chị phải nhờ giao liên hẹn rất thận trọng, mỗi lần dẫn theo một đứa con. Một lần Mỹ Chi, đứa con gái lớn, được mẹ dẫn đi thăm ba khi cháu lên 7 tuổi. Chị bảo con là đi thăm “cậu Ba”, rồi hai mẹ con đi xe đò xuống tận Bắc Mỹ Thuận, nhìn tới nhìn lui thật kỹ mới đi ngược trở về Chợ Lớn để gặp “cậu Ba”. Bé Chi không nhiệt tình lắm với ông “cậu Ba” ít gặp này. Bé chững chạc nhờ chuyển tới tay ba bức thư có mấy dòng nguệch ngoạc: “Ba ơi! Nhà ba ở đâu, ba làm nghề gì mà con không biết? Chừng nào ba mới về thăm con?”. Trở về nhà, bé Chi gọi em trai ra sau nhà buồn thiu: “Má mình chắc sắp sửa bỏ ba để thương cái ông “cậu Ba” này, chị em mình sẽ bơ vơ”. Chị đành nuốt nước mắt im lặng. Chị cũng không có dịp cho con gặp mặt và trực tiếp gọi ba, vì anh bị bắt và hy sinh không lâu sau đó(1). 1. Theo “Liệt sĩ Hồ Hảo Hớn”, in trong sách: Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 53 - 54.


- 330 - Má Nguyễn Thị Sách (Thủ Đức) là nòng cốt trung kiên của cách mạng, nhà má là địa điểm nắm tình hình địch, nuôi giấu chiến sĩ… Giặc tình nghi má dính dáng đến Việt Minh. Rình rập, hù dọa, dụ dỗ hết cách mà vẫn không kết quả gì, chúng xoay qua dùng thủ đoạn vô nhân đạo. Một sáng tinh mơ, lính ngụy ập vào nhà, sau khi uy hiếp, chúng bắt đứa con đầu lòng của má mới 7 tuổi, buộc má mỗi khi có Việt Minh về phải báo tin ngay, nếu không chúng không đảm bảo an toàn cho đứa bé. Má buồn rầu kể lại, từ đó đến khi hòa bình lập lại, rồi má được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, má không biết giặc đã làm gì với đứa con bé bỏng bị chúng bắt đem lên đồn: Chúng đem nó đi đâu, nó còn sống hay đã bị chúng giết mất rồi?(1) Nỗi mất mát của bà Lê Thị Tường Vân lại trên một khía cạnh khác. Hồi ấy, bà là vợ ông Lê Đình Chi, tham tá lục sự tòa án Sài Gòn, một trí thức hoạt động cách mạng tích cực. Năm 1943, lúc ông Chi hoạt động ở khu Chợ Lớn, bà bị bắt về bót Catinat. Bà bị giặc tra tấn dã man để khai ra nơi ông ở, nhưng bà trả lời: “Các ông đi tìm còn tôi chả biết được”. Khi ra tù, bà được tổ chức cho ra chiến khu, vậy là phải dứt ruột bỏ lại 6 đứa con nhờ người nuôi dưỡng. Bà hoạt động ở khu Đồng Tháp Mười… đến ngày 2/9/1949, bà được tin ông Chi hy sinh. Nhưng không chỉ thế, con gái bà, chị Lê Thị Hồng Phấn, 16 tuổi làm liên lạc thành bị lộ, ra chiến khu hoạt động với bố, cũng hy sinh cùng ngày. Hai cha con bị bắn cùng một lúc. Khi bà về đến nơi thì hai cha con đã được chôn 8 ngày, bà chỉ còn biết chết ngất trước hai nấm mồ(2). 1. Theo Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (1996), Những bà mẹ Việt Nam anh hùng: các tỉnh thành phía Nam, Sđd, tr. 239 - 241. 2. Theo Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (1996), Những bà mẹ Việt Nam anh hùng: các tỉnh thành phía Nam, Sđd, tr. 312 - 313.


- 331 - Sự hy sinh của mỗi người phụ nữ đã hình thành nên đặc điểm lớn của phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng và phong trào phụ nữ Nam Bộ nói chung trong những năm kháng chiến, đó là tinh thần tất cả vì cách mạng. Đặc điểm này có nguồn gốc từ tinh thần xả thân vì nghĩa lớn của người Nam Bộ, hòa kết cùng nhận thức cách mạng đã trưởng thành qua chiến tranh. Cứ qua mỗi giai đoạn, chiến tranh ác liệt hơn, người phụ nữ càng ngoan cường, dấn thân vào hoạt động cách mạng, thì sự hy sinh mất mát càng nhiều hơn, cao cả hơn. Họ vượt khỏi khuôn khổ gia đình, dòng họ, để lo việc làng việc nước. Để đánh giặc cứu nước, chị em đem hết nhiệt tình để công tác, vượt khó khăn nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ. Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định sống ở nơi đầu sóng ngọn gió, được tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng tiến bộ, lại càng nhanh nhẹn nhạy bén nhận thức tình hình đất nước và nhanh chóng biến nhận thức thành hành động. 2. Tiếp nhận lực lượng mới, xây dựng và phát triển phong trào phụ nữ Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định không có nhiều thay đổi về hình thức so với giai đoạn trước đó. Chiến tranh quay trở lại nhanh chóng, nên trong nhịp sống của mình, Sài Gòn gần như chưa kịp đón nhận những thay đổi do thành quả cách mạng đem lại. Phụ nữ vẫn sinh hoạt, ăn mặc và lao động như trước đó. Từ năm 1954, khi đế quốc Mỹ chính thức can thiệp vào miền Nam, đồng thời dòng người di cư từ Bắc vào Nam đã tác động lên hình thức sinh hoạt của người phụ nữ thêm rõ nét.


- 332 - Với sự tập trung phụ nữ từ các vùng miền khác về mảnh đất này, khái niệm phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã mở rộng phạm vi về cả phương diện vật chất lẫn tinh thần. Thành phần tham gia phong trào phụ nữ trong 9 năm chống Pháp trở nên đa dạng. Theo chủ trương của Đảng, ngay khi Sài Gòn bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, rất nhiều cán bộ chiến sĩ từ miền Bắc và miền Trung đã vào chi viện cho miền Nam. Đủ mọi tầng lớp, nam nữ hăng hái “Nam tiến” theo tiếng gọi chung. “Chỉ trong vòng tuần lễ cuối tháng 9/1945, Hà Nội và nhiều địa phương khác ở miền Bắc đã tổ chức Phòng Nam Bộ để kịp thời cho nhân dân ghi danh chi viện cho quân và dân Sài Gòn và các tỉnh miền Nam chiến đấu. Thật khó mà hình dung nổi sức lan tỏa của phong trào Nam tiến. Không chỉ có các chiến sĩ Việt Nam giải phóng quân mà hàng chục vạn thanh niên, phụ nữ, thiếu niên; họ là nông dân, công nhân, là văn nghệ sĩ và cả những nhà sư, kiều bào vừa về nước cũng tình nguyện tham gia…”(1). Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình là các tỉnh thành chi viện nhiều nhân lực cho miền Nam. Lớp nữ cán bộ chiến sĩ “Nam tiến” đã hòa vào phong trào phụ nữ Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng trong suốt những năm chống Pháp. Tại các chiến khu kề cận Sài Gòn, chiến sĩ trong các đơn vị Nam tiến lần lượt ra mắt bà con thành phố. Bên cạnh các bà, các chị mặc áo bà ba, mang khăn rằn, bên cạnh các cô gái Sài Gòn mặc quần áo tân kỳ, bây giờ có thêm nhiều chiến sĩ “nam đội mũ ca lô nâu, chân mang dép cao su “Con hổ”, nữ đội bê-rê đen, tóc cắt ngắn, đi săng-đan trắng, tươi cười giản dị…”(2). Từ 1. Đại tá, PGS.TS. Trần Ngọc Long, “Hà Nội với phong trào Nam tiến cuối năm 1945 đầu năm 1946”, in trong sách: Nhiều tác giả (2016), Nam Bộ với toàn quốc kháng chiến, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 69. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Sđd, tr. 158.


- 333 - ngày đầu đến miền Nam, các nữ cán bộ chiến sĩ miền Bắc, miền Trung đã được nhân dân Nam Bộ chào đón và coi như những người con trong gia đình. Một số chị em gắn bó lâu dài với mặt trận Sài Gòn và trở thành nòng cốt trong việc xây dựng và phát triển các tổ chức phụ nữ miền Nam. Có các bà, các chị người miền Bắc, miền Trung vào Sài Gòn sinh sống, rồi cũng đứng vào hàng ngũ cách mạng, đóng góp cho phong trào phụ nữ thành phố. Họ đem chính kỹ năng nghề nghiệp của mình để phục vụ kháng chiến. Như các bà Vũ Thị Điểm, Vũ Kim Dư quê ở làng Thọ - xã Yên Thái - tỉnh Hà Đông đã mang nghề làm giấy dó truyền thống của quê mình để vào chiến khu, công tác trong xưởng giấy của Ty Thông tin Gia Định. Khoảng đầu năm 1948, khi giặc bố ráp ráo riết, việc tiếp tế nguyên vật liệu từ Sài Gòn khó khăn, Ty Thông tin Gia Định bắt đầu nghiên cứu tự sản xuất giấy. Đơn vị vận động được gia đình 5 người gồm ông Nguyễn Văn Đắc, ông Nguyễn Văn Đức, ông Vũ Đình Năm, bà Vũ Thị Điểm, Vũ Kim Dư vào chiến khu làm thợ làm giấy. Ông Năm và chị Điểm là bố con, chị Dư là cháu họ ông Năm, ông Đắc là cậu của hai chị, còn ông Đức là người chung làng. Tất cả đều là thợ làm giấy thủ công trong gia đình làm giấy lâu đời. “Dần dần qua thử nghiệm, xưởng giấy đã cho ra lò những mẻ giấy gòn nội địa ngày càng tốt hơn và nhờ đó mà có đến 1/3 giấy đáp ứng nhu cầu in ấn truyền đơn, biểu ngữ, báo chí của Ty”(1). Với tính cách cởi mở, hào hiệp, phụ nữ Nam Bộ sẵn sàng đón nhận lực lượng mới cho cuộc kháng chiến. Các đơn vị Nam tiến đến bất cứ địa phương nào cũng được các đoàn 1. Huỳnh Văn Ni, “Một vài ghi nhớ về hoạt động của Ban ấn loát trực thuộc Ty Thông tin Gia Định thời kỳ kháng chiến chống Pháp”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định - Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 1, tr. 69.


- 334 - thể phụ nữ tiếp đón nồng nhiệt. Khi chiến sĩ Vệ quốc đoàn từ miền Bắc, miền Trung đi qua, chị em tổ chức phục vụ hậu cần, gửi cơm bánh mang theo. Có khi các chiến sĩ ở nhà dân, được chăm sóc như người nhà. Có chiến sĩ nhớ lại: “Trên đường dài vào Nam Bộ, tôi cùng anh em đã bao lần xúc động khi được đồng chí, đồng đội, đồng bào, nhất là các mẹ, các chị em che chở, chăm sóc… Hình như tình thương yêu, chăm chút của các mẹ, các chị ở miền Bắc lặng lẽ, pha chút gì trang trọng; ở vùng Trị Thiên - Huế lại sâu lắng dưới dáng vẻ chừng nào nghiêm cẩn. Còn ở Nam Bộ, cái tình đó phát lộ vừa sôi nổi, vừa thân mật đến mức ruột rà. Có lẽ vì tôi là thanh niên miền Bắc nên dễ cảm nhận những sắc thái ấy chăng?…”(1). Nghĩa tình quân - dân càng sâu sắc hơn khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng, các đơn vị bộ đội Nam tiến được phân tán thành các đơn vị nhỏ để triển khai sâu về địa phương, bám sát vào quần chúng, đồng thời chi viện vào các tổ chức Dân - Chính - Đảng trong chiến khu. Hoàn cảnh ấy làm nảy sinh nhiều quan hệ gắn kết mới cho người phụ nữ Nam Bộ, họ phát sinh tình cảm, lập gia đình với các cán bộ, chiến sĩ miền Bắc, miền Trung. Những gia đình nhỏ được sự chúc phúc của tổ chức, được gắn kết mạnh mẽ không chỉ bằng tình cảm mà còn bằng sự chia sẻ lý tưởng cách mạng, nhưng cũng thường phải xa cách nhau trong hoàn cảnh chiến tranh. Như bà Nguyễn Thị Thanh - một cán bộ phụ nữ cốt cán của thành phố - năm 1951 xây dựng gia đình với ông Hồng Việt, cán bộ miền Bắc được Trung ương chi viện cho Nam Bộ. Lúc đó, ông Hồng Việt được phân công phụ trách tờ Nghiên cứu - tạp chí lý luận của Đảng. Hai vợ chồng gần nhau ở chiến khu chẳng 1. Nguyễn Linh, “Sống trong niềm thương yêu nồng ấm, bao la”, in trong sách: Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp), Sđd, tr. 484 - 485.


- 335 - bao lâu. Từ năm 1954, bà Nguyễn Thị Thanh được điều động về Sài Gòn, lúc này hai vợ chồng đã có con, nhưng vì bí mật công tác, họ không thể nhận nhau. Nhiệm vụ cách mạng còn chưa hoàn thành thì cuộc hôn nhân của họ còn trong bí mật, ngay cả với gia đình họ hàng. Bà kể “Một hôm, vào buổi trưa, sau khi tôi về nhà được một tuần, anh Hồng Việt cũng về tới, ghé thăm gia đình. Vì nguyên tắc bí mật, anh không thể ở nhà một ngày nào, chỉ thỉnh thoảng ghé thăm vợ con và gia đình như một người khách. Đối với họ hàng, anh đóng vai thầy giáo dạy tư kèm cho các em tôi học thêm”(1). Cũng có những trường hợp chị em kết hôn với các anh chiến sĩ đã có gia đình ở miền Bắc, miền Trung, nhận mình là vợ hai. Chiến tranh kết thúc, sau tập kết, nhiều người lính trở lại quê nhà, để lại một gia đình nhỏ ở miền Nam. Người phụ nữ Nam Bộ đã làm quen với những hoàn cảnh mới, những sự gắn kết khác, phạm vi mỗi đơn vị gia đình được mở rộng hơn, nhưng cũng kém ổn định hơn. 3. Phong trào phụ nữ Sài Gòn trưởng thành về mọi mặt Những thay đổi từ bên trong lực lượng và phong trào phụ nữ, những biến động sâu sắc của tình hình chính trị, ảnh hưởng của không khí chính trị và cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai đã khiến người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có bước trưởng thành lớn về nhận thức và hành động. Đánh giá về phong trào phụ nữ thành phố trong giai đoạn 1945 - 1954, các tác giả cuốn sách Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng (1985) cho rằng: Trong khói lửa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phụ nữ thành phố đã trưởng thành mọi mặt. 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 142.


- 336 - Đó là sự trưởng thành về nhận thức và lý tưởng cách mạng, trưởng thành về lực lượng, trưởng thành trong công tác tổ chức hình thức tranh đấu, trưởng thành về hệ thống tổ chức phong trào phụ nữ dưới sự lãnh đạo thống nhất và rộng khắp của Đảng. Sự trưởng thành này là một quá trình, được tôi luyện qua nhiều diễn biến lịch sử phức tạp và trước sự lật lọng, gian xảo của kẻ thù. Trong giai đoạn này, những kẻ thù của dân tộc, cũng là những kẻ thù của phong trào phụ nữ, lần lượt là những thế lực mạnh nhất trên thế giới: thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đội quân đánh thuê và các thế lực thù trong giặc ngoài. Trong khi đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa tuyên bố độc lập, tình hình Nam Bộ hầu như chưa một ngày yên ổn, các lực lượng và tổ chức phụ nữ còn non trẻ vừa qua một thời kỳ chiến đấu gian khổ, hy sinh, đã phải đương đầu với cuộc chiến đấu tiếp theo. Cuộc đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn được đặt trong cuộc chiến đấu vì hòa bình, thống nhất của toàn dân tộc. Bác Hồ nói “Miền Nam trong trái tim tôi”, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, phụ nữ miền Nam, trong đó có phụ nữ Sài Gòn, được sự hậu thuẫn to lớn, mạnh mẽ của cả đất nước, cả dân tộc Việt Nam. Chính từ đó, những đường lối đấu tranh, những kinh nghiệm, những chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước đã thành một điều kiện nền tảng, cốt lõi để phong trào phụ nữ Sài Gòn gặt hái những thắng lợi trong tranh đấu, trưởng thành trong thực tế, đạt được những thành tựu rực rỡ, làm nòng cốt vững vàng để phát triển phong trào trong giai đoạn tiếp theo. Cuối cùng, trong giai đoạn 1945 - 1954, phong trào cách mạng của phụ nữ có một dấu ấn lớn, đó là bước tiến thực sự về mặt tổ chức. Từ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành


- 337 - lập năm 1946, với Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là trụ cột bên cạnh nhiều đoàn thể phụ nữ nhằm tập hợp đông đảo lực lượng chị em ở tất cả các mặt trận, các lĩnh vực, tạo thành sức mạnh tập thể to lớn. Tổ chức Hội đã có những bước phát triển về quy mô, tầm vóc. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập, hoạt động mạnh mẽ trong thời kỳ kế tiếp, cho đến năm 1950, tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc hợp nhất với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đồng thời Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trở thành thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế. Những bước phát triển về mặt tổ chức ở tầm vĩ mô cùng với những chiến công thầm lặng và những tấm gương anh hùng trong chiến đấu, trong công tác, đã thể hiện sự trưởng thành của một lực lượng chính trị mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phụ nữ không chỉ tham gia ủng hộ nhân lực, vật lực cho kháng chiến một cách tự phát, không chỉ là những tiếng nói yêu nước cá nhân, phụ nữ đã biết tập hợp thành lực lượng, thành tổ chức, có ý thức đấu tranh tập thể. Sự kiện các tổ chức phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định hợp nhất vào Hội Liên hiệp Phụ nữ là một trong những dấu ấn quan trọng nhất của phong trào phụ nữ giai đoạn này. Được tổ chức thống nhất, công tác phụ nữ có điều kiện gắn bó hơn với phong trào yêu nước chung của các tầng lớp khác do Đảng lãnh đạo. Phụ nữ tham gia toàn diện trên các mặt trận đấu tranh, không chỉ làm công tác hậu phương như trước đây: tham gia du kích, địch vận, hậu cần, nuôi giấu cán bộ, tham gia sinh hoạt xã hội, đoàn thể, lãnh đạo phong trào; lần đầu tiên, phụ nữ đã có tiếng nói trên chính trường, được ứng cử, bầu cử… Họ thay thế ở những vị trí công việc thiếu vắng người đàn ông, họ đảm đương nhiều vị trí, trách nhiệm ngang hàng


- 338 - nam giới. Lực lượng phụ nữ tham gia cách mạng ngày càng đông, tuổi đời tham gia cách mạng của phụ nữ ngày càng trẻ. Hồi ký cách mạng của rất nhiều bà, nhiều chị kể về buổi đầu tham gia chống Pháp, khi đó họ mới 15, 16 tuổi. Được đào tạo, rèn luyện qua hoạt động phong trào của 9 năm chống Pháp, phần lớn những phụ nữ thế hệ này sẽ còn tiếp tục hoạt động cách mạng trong giai đoạn chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975).


- 339 - - CHƯƠNG III - PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên mảnh đất Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, phụ nữ đã xuất hiện ở khắp các mặt trận: chính trị, vũ trang, binh vận, ngoại giao, văn hóa - văn nghệ… thể hiện sức mạnh to lớn của một lực lượng tranh đấu mang tính toàn dân, thiên biến vạn hóa, vô cùng mạnh mẽ. Không ít chị em đã tập kết ra Bắc, tiếp tục công tác, học tập, hoặc trở lại phục vụ chiến trường ác liệt. Nhiều chị em vẫn ở lại đất Sài Gòn - Gia Định. Tuy bom đạn không dày đặc như miền Bắc, miền Trung nhưng đây là thủ phủ của Mỹ - Diệm nên đòi hỏi chị em phụ nữ phải có tinh thần thép, lòng quả cảm, sự mưu trí. Hình ảnh đội quân tóc dài còn lưu lại trong nhiều tư liệu, di tích lịch sử. Đây là thời kỳ phong trào phụ nữ Sài Gòn có những đóng góp thiết thực, to lớn cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


- 340 - I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ THÀNH PHỐ SÀI GÒN GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 Trong 30 năm thực dân Pháp chiếm đóng, Sài Gòn là thương cảng quan trọng bậc nhất, là trung tâm kinh tế của cả miền Nam, là đô thị nuôi dưỡng tinh thần tư bản chủ nghĩa, tính cách cởi mở của cư dân và điều kiện giao lưu với phương Tây. Trong 20 năm tiếp nối, Sài Gòn vẫn mang dáng dấp thành thị, ở vị thế tâm điểm của toàn miền Nam, được chọn là thủ đô trong thời kỳ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Điểm qua một số nét sơ lược về đặc điểm lịch sử xã hội của vùng đất này, có thể thấy sự chuyển biến của phong trào đấu tranh cách mạng, trong đó có phong trào phụ nữ một cách rõ nét hơn. 1. Địa giới hành chính Địa phận Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, những năm 1954 - 1975, được đánh dấu trên bản đồ hành chính gồm có đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Hậu Nghĩa. Mỗi địa phận đều có yếu điểm, tạo nên vai trò không thể thay thế và góp phần ảnh hưởng vào việc định hình, phát triển phong trào đấu tranh chống Mỹ cứu nước của quân dân miền Nam nói chung và phong trào phụ nữ nói riêng. Đô thành Sài Gòn được thành lập theo Nghị định ngày 22 tháng 10 năm 1956, đổi địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn thành đô thành Sài Gòn - thủ đô của Việt Nam Cộng hòa, lúc này có 7 quận hành chính. Đô thành Sài Gòn được mở rộng dần, lần lượt với Nghị định số 110-NV ngày 27/3/1959, chia Sài Gòn thành 8 quận, diện tích 51km2 ; năm 1963, diện tích Sài Gòn mở rộng thành 58km2 ; Nghị định ngày 17 tháng 1 năm 1967 (thiết lập Quận 9 trên địa phận Thủ Thiêm), Nghị định ngày 1 tháng 7 năm 1969 (thiết lập Quận 10 và Quận 11 trên


- 341 - phần đất cắt ra từ Quận 3 và Quận 6). Đến năm 1972, bản đồ hành chính của đô thành Sài Gòn đã ổn định với 11 quận, 43 phường, với diện tích gần 71km2(1): Quận 1: 4 phường (Bến Nghé, Hòa Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải). Quận 2: 4 phường (Cầu Ông Lãnh, Chợ Bến Thành, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sĩ). Quận 3: 4 phường (Đài Chiến Sĩ, Bàn Cờ, Trương Minh Giảng, Yên Đổ). Quận 4: 4 phường (Xóm Chiếu, Lý Nhơn, Vĩnh Hội, Bến Xà Lan). Quận 5: 3 phường (Bình Tây, Bình Tiên, Phú Lâm). Quận 6: 4 phường (Bình Tây, Chợ, Bình Tiên, Phú Lâm). Quận 7: 6 phường (Cây Sung, Bình Đông, Rạch Cát, Phú Định, Bến Đá, Hàn Thái). Quận 8: 5 phường (Xóm Củi, Hưng Phú, Bình An, Chánh Hưng, Rạch Ông). Quận 9: 2 phường (An Khánh, Thủ Thiêm). Quận 10: 4 phường (Chí Hòa, Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Minh Mạng). Quận 11: 4 phường (Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ, Phú Thọ Hòa). Tỉnh Gia Định bao bọc quanh đô thành Sài Gòn; diện tích gần 1.499km2 . Tỉnh Gia Định phía đông giáp tỉnh Phước Tuy, Biên Hòa; phía bắc giáp tỉnh Bình Dương; phía tây giáp tỉnh Hậu Nghĩa, Long An, Gò Công; phía nam giáp Biển Đông. Ngày 29 tháng 4 năm 1957, Nghị định số 138-BNV/HC/NĐ của chính quyền Sài Gòn xác định tỉnh Gia Định có 6 quận hành chính là Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh; tổng diện tích là 1.228km2 . Đến năm 1963, 1. Nguyễn Đình Đầu (2007), Địa lý Gia Định - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr. 153.


- 342 - chính quyền Sài Gòn tổ chức lại tỉnh Gia Định với 60 xã, 427 ấp, diện tích 810km2 . Năm 1972, tổ chức hành chính của Gia Định gồm 8 quận, 73 xã(1). Cũng vào thời điểm năm 1972, quận Củ Chi với 6 xã, rộng 206km2 thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, chính là một phần đất đai ngày nay của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, quận Phú Hòa (một phần Củ Chi cũ) thuộc tỉnh Bình Dương với diện tích 237km2 và xã Hiệp Phước thuộc quận Cần Giuộc, tỉnh Long An với diện tích 36km2 lúc bấy giờ cũng được ghi nhận vào địa giới Thành phố Hồ Chí Minh sau này. Về phía ta, theo ranh giới địa lý, từ năm 1961, Sài Gòn - Chợ Lớn sáp nhập với tỉnh Gia Định, chung bí danh là vùng T4. Đặc điểm địa lý - dân cư vùng T4 thu gọn hình ảnh miền Nam trong thế đấu tranh, gồm 3 vùng chiến lược: 1/ Vùng đô thị - nơi đặt trung tâm đầu não chính quyền Sài Gòn và nơi sinh sống của trên 2 triệu dân; 2/ Vùng nông thôn - vùng đệm kháng chiến trải dài từ Củ Chi, Hóc Môn đến vùng Bưng Sáu Xã (nay thuộc Quận 9); 3/ Vùng tiếp giáp với căn cứ Trung ương Cục miền Nam qua dải rừng cao su chuyển tiếp vào rừng già, chiến khu Dương Minh Châu. Phần địa phận lãnh thổ tập hợp từ địa giới hành chính của những vùng đất nói trên, nhìn từ tổng thể bản đồ Việt Nam, khu vực và thế giới, là cơ sở để nhận định vai trò của Sài Gòn, xét về vị trí địa lý và đặc điểm thiên nhiên: Sài Gòn - Gia Định cận kề vùng Tây Nguyên, vùng duyên hải Nam Trung Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Vị trí 1. Nguyễn Đình Đầu (2007), Địa lý Gia Định - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa Sài Gòn, tr. 151.


- 343 - trung tâm này khiến Sài Gòn được xem như là trái tim của miền Nam Việt Nam, và cũng từ đây, những gọng kềm, tam giác tác chiến đã được định hình. Đặc điểm địa lý kiến tạo nên nhiều con đường đến với mảnh đất này; thuận tiện cả khi di chuyển bằng đường bộ lẫn đường thủy; phù hợp xây dựng đầu mối đường sắt, đường hàng không; và quan trọng là thông suốt với nội địa lẫn bên ngoài. Không gian mở ra với thế giới bên ngoài ấy, cùng với bản chất con người và lịch sử vùng đất đã hình thành nên tinh thần giao lưu, đổi mới và phóng khoáng của con người và văn hóa Sài Gòn từ những ngày đầu định hình cho đến tận hôm nay (xem thêm Chương 1). Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, địa hình Sài Gòn - Gia Định có sự thay đổi từ cao đến thấp dần. Đô thành Sài Gòn là vùng đất có độ cao trung bình; vùng cao chủ yếu thuộc tỉnh Hậu Nghĩa; đại bộ phận tỉnh Gia Định có địa hình trũng. Địa hình này có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Sài Gòn - Gia Định lúc bấy giờ: có khu vực giao thương trung tâm, có vùng đệm nông nghiệp bao quanh; đáng chú ý không kém là hệ sinh thái rừng tự nhiên (rừng nhiệt đới ẩm, rừng úng phèn, rừng ngập mặn) nằm rải rác ở các vùng ven nội thành. Đây chính là điểm quan trọng để quân dân ta khai thác, xây dựng nên các căn cứ cách mạng đệm lưng linh hoạt, hỗ trợ tích cực cho hoạt động cách mạng ở đô thành. Sài Gòn - Gia Định có ý nghĩa chính trị to lớn. Nơi đây được xem là “thủ đô” của Việt Nam Cộng hòa. Để đạt được mục tiêu thống nhất đất nước, quân và dân ta cần chiến thắng và giành được quyền quản lý ở thành phố này. Bởi:


- 344 - Nội thành Sài Gòn là nơi tập trung các cơ quan hành chính, quân sự, ngoại giao, thương mại, tổ chức quốc tế, đại sứ quán các nước chư hầu của chính quyền Sài Gòn và Mỹ. Dinh Độc lập là nơi làm việc và nơi ở của tổng thống chính quyền Sài Gòn; trụ sở Quốc hội(1). Tòa thượng thẩm, văn phòng các bộ, các tổng nha và nha,… tập trung ở Quận 1 và Quận 3. Các biệt thự, cao ốc dành cho cố vấn, nhân viên Mỹ trong các lĩnh vực chính trị, hành chính, an ninh, kinh tế,… cũng hình thành nhanh chóng. Sài Gòn - Gia Định cũng là vùng trọng điểm kinh tế của miền Nam Việt Nam; đặc biệt phát triển công - thương nghiệp. Khoảng 8.400 cơ sở công nghiệp tập trung ở vùng Sài Gòn - Gia Định - Biên Hòa. Đời sống xã hội, tư tưởng vùng Sài Gòn - Gia Định đã có những đặc điểm riêng so với các vùng miền khác trên cả nước do tính cách phóng khoáng, cởi mở của người dân nơi đây cùng điều kiện thuận lợi trong việc du nhập, giao lưu nhiều nền văn hóa. Điều này tạo cơ hội cho việc tổ chức đấu tranh trên mặt trận văn hóa khi hoạt động báo chí và ngôn luận được tự do ở mức độ nhất định; sinh hoạt văn nghệ - sân khấu được yêu thích và phổ biến. Các tờ báo như Công lý, Điện báo, Duy tân, Nhân loại, Gọi đàn, Hừng sáng, Bình minh,… trở thành nơi rèn luyện ngòi bút như một vũ khí chiến đấu của các cán bộ cách mạng. Các vở diễn đề tài lịch sử được các đoàn cải lương tiến bộ trình diễn trong các rạp ở nội thành như rạp Nguyễn Văn Hảo, rạp Đuốc Việt,… trở thành nơi tuyên truyền truyền thống yêu nước và khơi gợi tinh thần chống Mỹ của nhân dân. 1. Nhà hát Thành phố ngày nay.


- 345 - 2. Đặc điểm chính trị - quân sự Sức mạnh quân sự và chính trị của Việt Nam Cộng hòa phụ thuộc nhiều vào Mỹ. Thời kỳ này, tình hình chính trị tại miền Nam chịu nhiều tác động, có những biến chuyển nhất định vào những thời kỳ khác nhau. Có thể nhìn nhận cơ bản có các luồng gió chính trị trên chính trường, mà những tác động qua lại giữa chúng tạo nên không khí chính trị của miền Nam thời kỳ này. Luồng thứ nhất là hoạt động chính trị của phe cầm quyền, bao gồm cả chính quyền Việt Nam Cộng hòa và bạn đồng minh Mỹ, với nhiều nguồn viện trợ, trang bị, quân lực đổ ào ạt vào miền Nam. Luồng thứ hai là hoạt động đấu tranh chính trị sôi sục của nhân dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Luồng thứ ba là giới quan sát từ bên ngoài, có mặt tại Sài Gòn suốt thời kỳ quân đội Mỹ chiếm đóng; mặc dù không có các hoạt động trực tiếp nhưng có những tác động nhất định đến sự phản ánh bộ mặt chính trị của xã hội miền Nam thời bấy giờ. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa “tranh thủ” tuyên truyền chính trị đến tận rạp phim, bằng cách luôn cho chiếu phần “Thời sự Việt Nam” - tóm lược một số buổi kinh lý của Tổng thống Ngô Đình Diệm - trước khi phim chính bắt đầu(1). Mặt khác, chính quyền sử dụng quân đội, điên cuồng mở các chiến dịch vây ráp, lùng bắt “cộng sản”. Chỉ tính riêng chiến dịch “Tố cộng” thi hành từ năm 1955, với cao điểm là luật 10/59, đã bỏ tù đến 100.000 người, anh em Diệm - Nhu còn lợi dụng khẩu hiệu diệt trừ Việt cộng để tiêu diệt các phe đối lập và những lực lượng chính trị khác(2). Do vậy, bên cạnh nỗi 1. Lí Quí Chung (2004), Hồi ký không tên, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 23. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 198.


- 346 - uất hận của nhân dân, chính sách lê máy chém khắp miền Nam của Ngô Đình Diệm còn châm ngòi cho thái độ bất mãn của nhiều phần tử “quốc gia” khác. Những phương thức thi hành án tử dã man được sử dụng để khủng bố tinh thần nhân dân miền Nam, trong đó có hình thức xử chém công khai trước rất đông đồng bào thân thích, không những làm dư luận trong nước sục sôi, mà còn khiến truyền thông quốc tế quan tâm. Báo Straits Times ngày 24/7/1959 đưa tin về vụ xử chém “một tên Việt cộng sát nhân” (nguyên văn: “a comunist murderer”) ở tỉnh Ba Xuyên (nay là tỉnh Sóc Trăng), với hơn 1.000 dân thường phải chứng kiến(1). Năm 1962, Bộ Tư lệnh Quân đội Mỹ tại Sài Gòn (MACV) được thành lập, là cơ quan trực tiếp điều hành việc viện trợ quân sự và hành quân của quân đội Mỹ tại miền Nam. Không chỉ trang bị vũ khí tối tân như thiết vận xa M113, CH21 cho Việt Nam Cộng hòa, Mỹ còn chi viện cả hệ thống truyền tin, hỗ trợ nâng cấp hệ thống tình báo, tiếp liệu; đưa quân đội và kêu gọi đồng minh đổ quân vào miền Nam; chi tiền cho các khoản quân trang, quân dụng,…(2). Tính riêng năm 1962, Mỹ đã đưa vào miền Nam 12.000 cố vấn(3). Đến năm 1965, tổng số quân Mỹ tại miền Nam là 23.000(4). Việt Nam Cộng hòa có nhà máy sản xuất súng trường và lựu đạn ở Cát Lái từ năm 1958. Tuy nhiên, đây chỉ là nhà máy trá hình cho âm mưu biển thủ, tham nhũng của một 1. “1.000 see guiliotining”, Strais Times, ngày 24/7/1959, pp.3, http://eresources.nlb.gov. sg/newspapers/Digitised/Page/straitstimes19590724-1.1.3, truy cập ngày 22/9/2017. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 330. 3. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 460. 4. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 546.


- 347 - số tướng lĩnh, bằng cách tân trang vũ khí cũ mua từ Nhật Bản rồi bán lại cho quân đội(1). “Sức mạnh quân sự” của Việt Nam Cộng hòa đã tiềm ẩn những nguy cơ từ bên trong, do chính những người chỉ huy chỉ toan tính lợi riêng thay cho việc chung. Liên quân hùng hậu, được trang bị hiện đại của Việt Nam Cộng hòa và “đồng minh” Mỹ áp đảo lực lượng cách mạng về những con số thống kê. Song, sức chiến đấu của “Việt cộng” đã làm cho giới quan sát cuộc chiến này phải kinh ngạc: tính riêng 9 tháng đầu năm 1962 tại Sài Gòn, số cuộc tấn công của bộ phận biệt động đã lên đến 84 vụ dù phần đông chỉ trang bị vũ khí tự chế(2). Đến giai đoạn 1964 - 1968, biệt động nội thành đã gây dựng được 8 hầm vũ khí, với hơn 4 tấn vũ khí, gồm: súng B40, súng AK, súng K54, thuốc nổ,… đồng thời mở rộng quy mô các trận đánh, trung bình mỗi 3 - 5 tháng một trận lớn (sử dụng khoảng 100kg thuốc nổ, từ 7 - 12 chiến sĩ tham gia mỗi trận)(3). Ngoài đô thị, quân giải phóng đã giành quyền kiểm soát và thiết lập những chiến khu “bất khả xâm phạm”: Khe Sanh, Rừng Sác,… Sau những chấn động từ trận Mậu Thân, hãng tin USIS chua chát nhận định: “Thêm quân, thêm hỏa lực, tăng đánh đấm cũng không giành được gì hết. Đối với người tham chiến, chỉ có thêm những cái để thua”(4). 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 390. 2. Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm giải phóng (1945 - 1975), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 43. 3. Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm giải phóng (1945 - 1975), Sđd, tr. 171, 207. 4. USIS, tin tức ngày 1/3/1968, dẫn theo Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm giải phóng (1945 - 1975), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 222.


- 348 - Quân số Việt Nam Cộng hòa không ngừng được mở rộng, tỉ lệ tân binh so với tổng số quân tăng dần qua các năm: 1957: 2,9%; 1961: 23%; 1964: 39%(1). Chính quyền Sài Gòn ráo riết tuyển quân. Cả hai nền Cộng hòa liên tục ban hành những văn bản huy động nhập ngũ, nhưng đều bị nhân dân Sài Gòn phản ứng. Luật Động viên số 04/67 của Nguyễn Văn Thiệu bị hội thảo của sinh viên các trường Đại học Sư phạm và Đại học Khoa học Sài Gòn kết luận là vi hiến. Trong đặc san Xuân tu nghiệp, Liên hiệp các giáo chức Việt Nam gọi đây là “sắc luật tàn nhẫn”(2). Sang năm 1968, luật Tổng động viên số 3/68 lại thành lập “Sư đoàn sinh viên bảo vệ thủ đô”, buộc sinh viên tập quân sự và đi gác có súng hàng ngày. Sinh viên thành lập “Ủy ban chống quân sự học đường”, Tổng hội Sinh viên Sài Gòn ra tuyên cáo đòi giải tán “Sư đoàn sinh viên bảo vệ thủ đô” và hoạt động này đã giành thắng lợi(3). Đây là một thắng lợi quan trọng trên mặt trận chính trị, đánh dấu những chặng đường tranh đấu của phong trào học sinh sinh viên miền Nam, trong đó có sự góp sức của những nữ sinh viên. Năm 1971, chế độ quân dịch của chính quyền Sài Gòn mở rộng độ tuổi chấp hành luật động viên: từ 19 - 30 mở rộng thành 17 - 43, thanh niên không phân biệt trình độ học vấn cao thấp đều có thể bị gọi đi lính. Đến tháng 3/1975, Nguyễn Văn Thiệu lại ban hành Luật Tổng động viên, hòng tăng quân số cho quân đội đang rệu rã. Lần này, chính sách quân dịch bị 1. Đặng Phong (1991), 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu khoa học thị trường - giá cả, Hà Nội, tr. 35. 2. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 307. 3. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, in trong sách Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 307.


Click to View FlipBook Version