- 499 - Lửa ngàn năm lúa xanh trên đồng Lúa má trồng mòn mắt chờ mong Lúa má gầy mười năm chinh chiến Lúa ngàn năm héo trên bờ sông,… (Dành cho má một ngày - Trương Quân Vũ) Có hay rằng một người trên dòng sông đêm Reo cười thiết tha yêu người suốt đời Đã vì dân mà hiên ngang đấu tranh. (Thuyền em đi trong đêm - Nguyễn Phú Yên) Tim em trao về hồng như nụ chín Mai có hòa bình khác để yêu thương Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu. (Mai có hòa bình - Hải Hà, Ngô Kha) Hành động đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn những năm 1954 - 1975 không chỉ là sự phản kháng tất yếu để chống lại những áp bức mà giới mình phải chịu đựng. Đó còn là lời tiếp nối cho những câu chuyện hào hùng thời Bà Trưng, Bà Triệu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”; vì tấm lòng người phụ nữ luôn hướng về chồng con, gia đình, và lớn lao hơn là hướng về dân tộc. Câu chuyện của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975 đã hòa vào một trong những câu chuyện cảm động nhất, hào hùng nhất của phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh: chuyện về những Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Toàn miền Nam có hơn 29.000 Bà mẹ Việt Nam anh hùng được Nhà nước công nhận, gấp 3 lần số Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở miền Bắc. Tính riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh,
- 500 - đến ngày 27/2/2017, có 5.248 bà mẹ được trao tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam anh hùng(1). Các mẹ đã trực tiếp hiến từng phần máu thịt của mình cho cuộc kháng chiến tại Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975, và cả những người mẹ đã đóng góp cho cách mạng bằng nhiều phương cách: trữ lương, nuôi quân, che giấu cán bộ, hiến tặng tài sản,… Chiến tranh luôn đi liền với đau thương mất mát, nhưng mất mát to lớn nhất và khó chữa lành nhất là mất mát về con người. Những bà mẹ chính là người thấm thía sâu sắc nỗi đau ấy. Ngày 19/10/1966, tại Lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta”(2). Chính các Mẹ là ngọn nguồn sức mạnh và hòa bình dân tộc. Ngày 29/8/1994, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” như một lời tri ân đến những bà mẹ đã hiến dâng những người con ưu tú cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ở đợt tặng và truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng đầu tiên, trong số 19.879 bà mẹ cả nước, có nhiều bà mẹ của vùng đất Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Không chỉ là giới hạn trong một vùng địa lý quận, huyện nào. Từ nơi bưng biền, căn cứ kháng chiến như Củ Chi, Hóc Môn,… 1. Tự Trung, Lĩnh Hồng, La My, “Thành phố Hồ Chí Minh truy tặng 59 mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, báo Tuổi trẻ online, ngày 27/7/2017, nguồn: https://tuoitre.vn/ tphcm-truy-tang-59-me-danh-hieu-ba-me-viet-nam-anh-hung-1359544.htm, truy cập ngày 12/11/2017. 2. Hồ Chí Minh (2009), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 148.
- 501 - đến nội thành kề cận, ngay trước mắt quân thù như Quận 5, Quận 3 Sài Gòn,… các mẹ đều đã cống hiến tuổi xuân của mình, hy sinh các con, chồng mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Mẹ Nguyễn Thị Rành (Củ Chi) là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, má có 8 người con và 2 người cháu là liệt sĩ. Mẹ Nguyễn Thị Điệu (ấp Nam Hòa, xã Phước Long A, Quận 9) vĩnh biệt chồng trong kháng chiến chống Pháp, đến khi chống Mỹ lại động viên cả hai con trai nhập ngũ. Hai con của mẹ hy sinh trong vòng chưa đầy 1 tháng: Liệt sĩ Trần Văn Nào hy sinh ngày 9/12/1967, liệt sĩ Trần Văn Được hy sinh ngày 30/12/1967. Mẹ vẫn tiếp tục xây dựng cơ sở liên lạc cho cách mạng, tiếp tế lương thực, nuôi giấu cán bộ(1). Mẹ Võ Thị Tư (Luông Tre, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức) đã xuất gia, không lập gia đình, nhận một bé trai mồ côi làm con nuôi. Anh Nguyễn Văn Dẫn - bé trai năm nào - lớn lên, nhập ngũ và hy sinh khi mới 17 tuổi, tại xã Bình Sơn, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, ngày 24/2/1966. Mẹ nén đau thương tiếp tục đỡ đầu nhiều thanh niên, biến ngôi chùa nơi mình tu tập thành điểm hậu cần cho quân giải phóng. Mẹ trực tiếp vận chuyển thuốc men cho cách mạng và bị bắt năm 1968. Trải qua 10 tháng lưu chuyển qua nhiều nhà tù: Long Thành, Biên Hòa, Thủ Đức, mẹ không khuất phục trước cực hình, kẻ thù phải thả vào năm 1969. Hòa bình lập lại, mẹ dốc 1. Lê Thị Hồng Nga (25/9/2012), Câu chuyện về mẹ Trần Thị Điệu, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ Thành phố Hồ Chí Minh, bản đăng trên website http://www.baotangphunu. com/index.php?option=com_content&view=article&id=87:cau-chuyn-v-m-trn-thiu&catid=35:m-vn-anh-hung&Itemid=37, truy cập ngày 12/11/2017.
- 502 - lòng phục vụ đồng bào, tổ chức hỗ trợ người nghèo, người bị thiên tai(1). Những người mẹ anh hùng là cội nguồn chiến thắng, những người mẹ cũng là hình tượng gợi lên nhiều cảm xúc nghệ thuật. Khi cuộc chiến còn đỏ lửa, sinh viên Nguyễn Kim Ngân đã viết những câu thơ tặng “Người Mẹ Bàn Cờ”, sau này được nhạc sĩ Trần Long Ẩn phổ nhạc thành ca khúc cùng tên: Có người mẹ Bàn Cờ Tay gầy tóc bạc phơ Chuyền cơm qua vách cấm Khi ngoài trời đã thưa (…) Đường Việt Nam Bàn Cờ Tình Việt Nam như tơ Đồng Việt Nam lầy lội Giặc đợi chết từng giờ. Khi đất nước đã thống nhất, nhà văn Trầm Hương chọn Mẹ Việt Nam Anh hùng Bùi Thị Mè làm nhân vật cho cuốn phim tài liệu tốt nghiệp chuyên ngành Đạo diễn. Họa sĩ Đặng Ái Việt rong ruổi từ Nam ra Bắc để vẽ chân dung của các Mẹ. Trong số đó có bức chân dung mẹ Nguyễn Thị Hy, lời đề trên bức tranh có đoạn: “Chồng của mẹ và một người con hy sinh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc từ năm 1972 - 1973. Mẹ được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng năm 2014. Mẹ ở nhà tình nghĩa, số nhà 1331 đường Nguyễn Thị Rành”(2). Một bức chân dung có tên hai người Mẹ đất Sài Gòn, hai người 1. Nguyễn Đình Trung (2012), “Viết về Mẹ Việt Nam anh hùng Võ Thị Tư - Ni trưởng Thích Đạt Nhiễn”, Website Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, ngày 24/9/2012, bản đăng tại http:// www.baotangphunu.com/index.php?option=com_content&view=article&id=86:vitv-m-vit-nam-anh-hung-vo-th-t-ni-trng-thich-t-nhin-&catid=35:m-vn-anhhung&Itemid=37, truy cập ngày 12/11/2017. 2. Mai Thụy (2017), “Họa sĩ Đặng Ái Việt: “Với tôi, mỗi người mẹ là một nỗi đau””, báo Tuổi trẻ online, ngày 27/7/2017, nguồn: https://tuoitre.vn/hoa-si-dang-ai-viet-voi-toimoi-nguoi-me-la-mot-noi-dau-1359403.htm, truy cập ngày 12/11/2017.
- 503 - Mẹ đại diện cho phụ nữ Sài Gòn anh dũng, nghĩa tình. Cuộc kháng chiến đã kéo dài qua nhiều thế hệ, có những gia đình mà cả mẹ và con gái đều được vinh danh “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” - với những cuộc đời ấy, mất mát đau thương khó có thể nào đếm hết. Đảng và Nhà nước đã ghi công các mẹ bằng nhiều hình thức: phát hành bộ tem kỷ niệm, xây dựng nhà tưởng niệm, tượng đài,… Nhưng đối với các mẹ, hy sinh không phải để được vinh danh; các mẹ đã hiến dâng điều quý giá nhất của mình là những đứa con, cho điều cao đẹp nhất của nước nhà là toàn vẹn hòa bình. Tri ân sẽ là câu chuyện của muôn đời, của toàn dân tộc. Với các mẹ tại Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2015, Sở Văn hóa - Thể thao Thành phố và Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ đã tổ chức biên soạn bộ sách Những Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Thành phố Hồ Chí Minh. Cuốn sách tập hợp chân dung, tiểu sử tóm lược của các bà mẹ, đây là tư liệu quý, nhiều mẹ qua đời khi nước nhà chưa thống nhất, bản thân chưa được đền đáp vinh danh; rất nhiều mẹ chưa có hồi ký riêng cho mình. Công lao của các mẹ, các chị trong cuộc chiến đấu vì mục tiêu toàn vẹn đất nước quá lớn lao, không bút mực nào tả xiết. Bình dị đời thường nhưng khi phải đấu tranh thì mạnh mẽ can trường, đó là một phẩm chất quý báu của người phụ nữ Việt Nam bao đời nay, mà phụ nữ Sài Gòn đã thể hiện trọn vẹn sáng ngời trong thời chống Mỹ. Đó cũng là bằng chứng cho truyền thống đẹp đẽ của phụ nữ Việt Nam: đấu tranh kiên cường, bất khuất, hy sinh tất cả cho độc lập, tự do của dân tộc. Thành quả của chặng đường tranh đấu hy sinh ấy được gìn giữ trong cuộc kiến thiết, phát triển đất nước. Từ những
- 504 - phẩm chất đạo đức “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” được kết tinh trong suốt những năm tháng tranh đấu, đến những phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” là một bước kế thừa và tiếp tục phát huy những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
- 505 - KẾT LUẬN GIAI ĐOẠN 1930 - 1975 Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1975, lịch sử dân tộc có những biến chuyển lớn. Những thay đổi cơ bản, sâu sắc trong tiến trình lịch sử đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển của phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định hình thành trên vùng đất Nam Bộ với những đặc điểm riêng về địa lý, dân cư, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, đồng thời tuân thủ quy luật chung: ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Trên cơ sở đó, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã khởi phát, định hình và trưởng thành trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Có thể nhận diện những điểm son đánh dấu ba thời kỳ chủ yếu trong sự hình thành của phong trào: thời kỳ 1930 - 1945 kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thời kỳ 1945 - 1954 đánh dấu bằng Hiệp định Genève phân chia hai miền Nam - Bắc, miền Bắc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, miền Nam còn trong tình trạng bị can thiệp ngoại bang, cả nước tiếp tục
- 506 - cuộc đấu tranh thống nhất đất nước; thời kỳ 1954 - 1975 kết thúc bằng chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy, chiến thắng 30/4/1975, nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, độc lập. Ba giai đoạn được phân bố trong ba chương của Tập I. Mỗi một giai đoạn, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có những chuyển biến rõ rệt, được trình bày cụ thể chi tiết trên nền chung là bối cảnh chính trị, kinh tế - văn hóa của toàn cục. Trong giai đoạn thứ nhất, 1930 - 1945, nổi bật sự hình thành và chuyển biến của tầng lớp phụ nữ, dần bứt ra khỏi những lề lối, ràng buộc của xã hội phong kiến truyền thống, hình thành một tầng lớp riêng, từng bước bước ra khỏi bóng tối của xã hội phong kiến. Những luồng tư tưởng khai phóng đã ảnh hưởng đến không khí chung của thời cuộc, về mặt nhận thức, tư tưởng, học vấn… Tinh thần phóng khoáng, cởi mở, hào hiệp của đất và người Nam Bộ là một điều kiện cung cấp cho người phụ nữ những cơ hội mới. Họ đã để lại những dấu ấn sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống thời kỳ đó. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1929) với chính sách khai thác thực dân làm kiệt quệ về kinh tế, kéo theo nhiều hệ lụy, dẫn đến sự phản kháng của người dân, là mầm mống của tinh thần tranh đấu, khởi đầu các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, cả bề rộng lẫn chiều sâu. Phụ nữ đã tham gia các hoạt động cứu quốc trong một tâm thế rất mạnh mẽ. Từ năm 1930, Đảng dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh dưới nhiều hình thức, bằng những phong trào rộng lớn, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua con đường chuyên chính vô sản. Phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trưởng thành qua các phong trào đấu tranh của dân tộc, từ cao trào chống đế quốc phong kiến những năm 1930 - 1931, phong trào đấu tranh đòi quyền dân chủ dân sinh
- 507 - 1932 - 1935, phong trào Đông Dương Đại hội 1936 - 1939, Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940… Đỉnh cao Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc, chính thức trao quyền làm chủ cuộc đời cho người phụ nữ, với tư cách là công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thoát khỏi cuộc đời nô lệ, dứt bỏ những ràng buộc của hủ tục phong kiến ngàn đời kìm hãm, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định mạnh dạn bước ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, tham gia vào hoạt động xã hội. Tổ chức Hội Phụ nữ dần mở rộng, sau Cách mạng tháng Tám đã hình thành hệ thống tổ chức vững vàng. Giai đoạn thứ hai, 1945 - 1954, cũng là khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Khoảng thời gian này không dài nhưng đã cho thấy sự trưởng thành và vai trò vô cùng to lớn của phụ nữ trong hoạt động đấu tranh cách mạng. Sự phát triển của lực lượng phụ nữ đã tạo nên những thay đổi lớn trong đời sống xã hội. Phong trào phụ nữ chuyển sang một thời kỳ hoạt động mới, đa dạng, phong phú trong bối cảnh có nhiều thay đổi, biến động. Từ các phong trào, hoạt động đấu tranh, đã hình thành nên tinh thần, tính cách của người phụ nữ Nam Bộ nói chung và phụ nữ Sài Gòn nói riêng trong cuộc đấu tranh của dân tộc: kiên cường, bất khuất, bản lĩnh mà vẫn mềm mại khéo léo, kiên định ý chí cho đến mục tiêu cuối cùng. Trong giai đoạn này, phong trào phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có sự góp mặt ngày càng đông đảo của những người phụ nữ không sinh ra trên đất Nam Bộ, nhưng đã chiến đấu, đóng góp máu xương, trưởng thành cùng sự trưởng thành của phong trào phụ nữ thành phố. Họ mãi mãi là niềm tự hào của lực lượng phụ nữ Sài Gòn. Sự chuyển biến phẩm chất để thích ứng với sự thay đổi của xã hội đô thị, thích ứng
- 508 - với yêu cầu của cuộc đấu tranh chung của dân tộc là một đặc điểm lớn của giai đoạn này. Các tổ chức phụ nữ hoạt động trong định hướng chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiệp định Genève đánh dấu một giai đoạn đặc biệt. Phải khẳng định, người phụ nữ Nam Bộ nói riêng và nhân dân Nam Bộ nói chung đã chấp nhận sự thiệt thòi lớn về mình sau Hiệp định Genève. Thực tế, Nam Bộ phải chờ hơn 20 năm để giải phóng, và người phụ nữ Nam Bộ còn phải đấu tranh ngoan cường hơn nữa mới thực sự được hưởng độc lập, tự do. Sau tập kết, hơn 10 vạn cán bộ, chiến sĩ từng là lực lượng trụ cột cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đã ra Bắc, đồng thời gần như tất cả những lực lượng thù địch với công cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc đang trú đóng ở miền Bắc đi vào Nam, tạo nên một tình thế khó khăn hơn cho Nam Bộ. Cuộc chiến tranh của dân tộc đã chuyển sâu vào trong mỗi một cuộc đời, mỗi một con người. Cũng từ đây trở đi, mối dây thiêng liêng gắn bó những con người trong cùng một hàng ngũ trở thành mối dây gắn bó ruột thịt giữa hai miền Bắc - Nam. Những người con của Nam Bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng, phải mất 20 năm trời mới có thể trở về dưới một mái nhà, chung một gia đình. Phong trào phụ nữ Sài Gòn bước vào một thời kỳ mới, hòa trong cuộc đấu tranh giành lại tự do, độc lập, thống nhất dân tộc, có cuộc đấu tranh để những người thân yêu được trở về, để cha mẹ, vợ chồng, con cái được đoàn tụ. Giai đoạn thứ ba, 1954 - 1975, là một giai đoạn của tranh đấu gian khổ, ác liệt và chiến thắng vĩ đại, trong đó nổi bật lên sự đóng góp của phong trào phụ nữ. Vùng đất Sài Gòn thành vùng đấu tranh tâm điểm, quyết định kết cục của cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam những năm 1954 - 1975. Sài Gòn nhiều
- 509 - xáo trộn: đón nhận nhiều thành phần dân cư mới, chính sách quản lý dân cư của chế độ Việt Nam Cộng hòa những năm 1954 - 1960, một số lượng lớn nông dân nhập cư trở thành công nhân, số lượng công nhân ở Sài Gòn - Gia Định không ngừng tăng, trong đó, tỉ lệ công nhân nữ ở mức cao, đặc biệt là những cơ sở sản xuất ngành hàng may mặc, chế biến. Cùng với trẻ em, phụ nữ là đối tượng bị o ép thuê mướn với đồng lương rẻ mạt, là nạn nhân bị bóc lột, đàn áp trực tiếp. Công nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong các phong trào đấu tranh cách mạng tại đô thị Sài Gòn. Phong trào phụ nữ sát cánh trong cuộc đấu tranh đó, đặc biệt là hình thức đấu tranh công khai hợp pháp, phi vũ trang, với những phong trào đòi cải thiện đời sống, đòi quyền lợi chính đáng cho công nhân lao động. Các cuộc đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn diễn ra với nhiều hình thức: công khai, bán hợp pháp, bí mật; trên nhiều mặt trận: ngoại giao, chính trị, vũ trang, văn hóa; với mục đích chính trị ngày càng rõ nét: từ bảo vệ quyền lợi phụ nữ đến đòi thi hành các hiệp định hòa bình, đòi Mỹ rút quân về nước, đòi thống nhất Tổ quốc. Các tổ chức, hội đoàn phụ nữ cũng phối hợp nhịp nhàng với đại diện của các giai cấp khác, như: Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, Nghiệp đoàn Giáo dục Việt Nam, Tổng hội Phật giáo Việt Nam,… Nhiều cán bộ Hội đồng thời là thành viên và là chiến sĩ đấu tranh kiên cường trong những hội đoàn khác. Hội Phụ nữ Giải phóng được thành lập ở các cơ sở, từ đó, chủ trương đấu tranh, thông tin cách mạng được phổ biến rộng rãi hơn đến nhân dân lao động; đồng thời, những nữ cán bộ trong tổ chức này cũng là nòng cốt tổ chức, hướng dẫn phong trào đấu tranh chính trị công khai. Ban Phụ vận Thành ủy đã xây dựng cơ sở, nuôi giấu lực lượng; bảo quản súng ống,
- 510 - đạn dược; đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc men,… để ủng hộ cách mạng. Trên mặt trận quân sự, lực lượng vũ trang được xây dựng và phát triển từ quần chúng tập hợp trong các căn cứ kháng chiến; trong đó có cả các nữ chiến sĩ. Phụ nữ Sài Gòn đóng góp quan trọng cho cuộc nổi dậy Mậu Thân 1968. Đấu tranh vũ trang nội thành là mặt trận ghi dấu son chói lọi của phong trào phụ nữ Sài Gòn - Gia Định. “Đội quân tóc dài” trở thành tên gọi lực lượng nữ chiến sĩ tham gia đấu tranh vũ trang trong cuộc chiến vì sự thống nhất của dân tộc; khẳng định vai trò xã hội của phụ nữ ở thời điểm lịch sử quan trọng. Qua đó, phụ nữ Việt Nam càng chứng minh được năng lực và tinh thần bất khuất. Từ năm 1970 đến năm 1975, các nữ biệt động thành đã cùng đồng đội của mình lập nhiều chiến công oanh liệt. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và dấu ấn 30/4/1975, lực lượng phụ nữ được huy động phục vụ chiến trường vô cùng đông đảo và hùng hậu, tạo nên dấu ấn trong thắng lợi chung của dân tộc. Cùng với chiến thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1975, phong trào phụ nữ Sài Gòn khẳng định sự thành công, thắng lợi của những nỗ lực trong suốt chặng đường dài tranh đấu. Sau ngày 30/4/1975, các tổ chức, hội đoàn phụ nữ tại Sài Gòn tự nguyện gia nhập vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ ngày 10 đến ngày 12/6/1976, tại Hội nghị tổ chức ở Hội trường Thống Nhất, Hội Liên hiệp Phụ nữ ở hai miền hợp nhất, lấy tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ đây, Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh hoạt động trong hệ thống vững mạnh thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đại diện cho tiếng nói của phụ nữ trong các hoạt động vì quyền lợi và sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
- 511 - PHỤ LỤC 1. CHỊ NGUYỄN THỊ MINH KHAI “Cách mạng là sanh lộ” Con đường cách mạng vẫn chông gai Nhưng cách mạng là con được sống(1). Trên đây là những dòng chữ thêu trên chiếc áo gối - kỷ vật có thể để lại cho đứa con gái nhỏ của một bà mẹ trẻ đang ở tù, mang án tử, hy vọng “sau này con lớn lên sẽ hiểu điều đó”. Người mẹ trẻ đó là chị Nguyễn Thị Minh Khai và đứa con gái nhỏ là bé Lê Nguyễn Hồng Minh - kết quả của tình yêu giữa chị Minh Khai và anh Lê Hồng Phong - những đảng viên tiền phong của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Minh Khai, tên thật là Nguyễn Thị Vịnh (các bí danh: Minh Khai, Duy, Phan Lan, Năm Bắc), là một trong những học trò đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chị sinh ngày 1/11/1910, trong một gia đình công chức nhỏ, tại thành phố Vinh (Nghệ An). Sau khi học hết lớp nhì chị chuyển sang học lớp nhất trường Cao Xuân Dục. Được học với thầy giáo Trần Phú (người sau nay là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng 1. Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai (truyện ký), Nxb. Hồng Bàng, tr. 160.
- 512 - Cộng sản Đông Dương), chứng kiến cảnh lầm than của quê hương và được chính thầy giáo Phú giác ngộ, năm 16 tuổi Vịnh đã dấn thân vào con đường cách mạng. Một năm sau, chị đã tham gia Đảng Tân Việt, từ đây chị lấy bí danh mới là Minh Khai. Trong thời gian này, chị tích cực tham gia các phong trào đấu tranh tại quê hương, vận động phụ nữ tham gia bãi khóa. Chị vận động nữ sinh góp tiền mua hoa, mua vải may băng tang đi dự lễ truy điệu 1 năm ngày hy sinh của nhà chí sỹ yêu nước Phan Chu Trinh và ký tên vào bản yêu sách đòi thực dân Pháp thả chí sĩ Phan Bội Châu. Đầu năm 1929, được sự đồng ý của tổ chức, chị Minh Khai bí mật thoát ly gia đình đi hoạt động cách mạng. Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, chị được kết nạp vào Đảng và được phân công phụ trách công tác tuyên truyền, vận động phụ nữ, huấn luyện đảng viên ở khu vực Trường Thi, Bến Thủy và tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng. Chị tổ chức được nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cho Đảng là lực lượng nòng cốt trong cao trào Xô viết - Nghệ Tĩnh. Cuối năm 1930, chị được tổ chức cử sang Hương Cảng (Trung Quốc), công tác ở Văn phòng Đông phương Bộ của Quốc tế Cộng sản. Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (khi ấy lấy tên là Lý Thụy) trực tiếp giáo dục về lý luận chính trị, kinh nghiệm hoạt động cách mạng, chị tiến bộ rất nhanh. Sau đó, chị được giao nhiệm vụ liên lạc với các tổ chức cách mạng Việt Nam ở trong nước. Vừa công tác, chị vừa tranh thủ học thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Trung Quốc. Thời gian này chị lấy bí danh là Duy (gọi theo tiếng Quảng Đông là A Vầy).
- 513 - Tại Trung Quốc, chị bị mật thám Anh bắt hai lần. Lần đầu vào cuối năm 1930, nhưng chị trốn được. Lần thứ hai, vào năm 1931, vì trong người chị có tài liệu, nên bọn mật thám Anh nghi chị là một cán bộ quan trọng của cách mạng Trung Quốc, đã bắt và kết án tù cho chị. Trong tù, bị tra tấn dã man, nhưng chị kiên quyết không khai. Ba năm sau, 1934, chị được ra tù nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ Quốc tế vận động, chị tìm cách liên lạc với tổ chức và lại tiếp tục hoạt động. Chị được cử đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII tại Mátxcơva (Moskva) cùng với đồng chí Lê Hồng Phong (1935). Trong thời gian chờ đại hội diễn ra, chị được giới thiệu đến học tập tại Đại học Phương Đông. Tại đại hội, chị được gặp nữ đồng chí Crupxcaia(1) - vợ Lênin và nhiều đồng chí lão thành. Lúc này, chị lấy bí danh Phan Lan. Chị Minh Khai và anh Hồng Phong kết hôn tại đây. Trong phiên họp thứ 40, ngày 16/8/1935, lần đầu tiên trên diễn đàn của một đại hội quốc tế, người phụ nữ Việt Nam 24 tuổi dõng dạc đọc bài tham luận về vai trò của phụ nữ Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống chiến tranh đế quốc và bảo vệ hòa bình - đó là nữ đồng chí Phan Lan. Với tư cách là đại biểu phụ nữ trong Đoàn Đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương, Phan Lan đã trình bày bản tham luận trước đại hội, tố cáo tội ác của chế độ thực dân, phong kiến, đặc biệt là sự cai trị vô cùng khắc nghiệt của chúng đối với phụ nữ. Chị đã nêu được vai trò của phụ nữ đối với cách mạng, cũng như thông báo tình hình tham gia cách mạng một cách hăng hái của chị em phụ nữ. 1. Crupxcaia (1896 - 1939).
- 514 - Một năm sau, 1936, chị về nước, với bí danh Năm Bắc. Theo chỉ thị của cấp trên, chị được chỉ định vào Xứ ủy Nam Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, lãnh đạo cao trào cách mạng 1936 - 1939, cơ sở hoạt động chủ yếu ở Bà Điểm - Hóc Môn. Thời gian này, chị tích cực hoạt động, vận động, tổ chức các cuộc đấu tranh ở thành phố. Cùng với các đồng chí trong Ban lãnh đạo Xứ ủy Nam Kỳ, chị làm việc miệt mài ngày đêm, lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son và các xí nghiệp khác, vận động phát triển cơ sở Đảng tại các xí nghiệp, nhà máy. Chị cũng tích cực hoạt động trên mặt trận báo chí, là cộng tác viên của báo Dân chúng và nhiều tờ báo khác. Bài báo “Vấn đề giải phóng phụ nữ” của Nguyễn Thị Kim Anh vẫn được cho là của chị Minh Khai viết để phản pháo lại tư tưởng phụ nữ hồi gia của nữ sĩ Tuyết Dung. Với tư cách là xứ ủy viên phụ trách công tác phụ vận, chị đã mở nhiều lớp huấn luyện cho các đại biểu phụ nữ các tỉnh Nam Bộ. Chị còn được Xứ ủy cử đi họp nhiều cuộc họp liên tịch giữa các đồng chí hoạt động công khai với tổ chức bí mật của Đảng. Những người dự họp đều khâm phục tính nguyên tắc và trình độ lý luận sắc bén của chị. Có lẽ vì vậy, mặc dầu không phải là ủy viên Trung ương Đảng, nhưng hầu hết các cuộc Hội nghị Trung ương tại vùng Bà Điểm, chị đều được mời dự và tham gia thảo luận các vấn đề của toàn Đảng. Khi thực dân Pháp tiến hành khủng bố gắt gao các cơ sở cách mạng, năm 1939, chị về công tác tại cơ quan Trung ương, đóng tại Hóc Môn - Bà Điểm. Tại đây, chị sinh bé Hồng Minh, trong sự yêu thương, che chở của bà con. Sinh con được năm ngày, chị đã phải gửi lại con cho các chị em nuôi, tiếp tục lao
- 515 - vào hoạt động. Lúc đó, chồng chị, đồng chí Lê Hồng Phong, đã bị bắt và bị đày tại Côn Đảo(1). Ngày 30/7/1940, chị bị địch bắt khi đang đi làm nhiệm vụ. Chúng đưa chị về giam tại Catinat, rồi khám Phú Mỹ(2). Tại đây, chị lại làm công tác tuyên truyền cho các chị em trong tù và tìm cách liên lạc với bên ngoài(3). Địch tra tấn, dụ dỗ, mua chuộc và dùng cả đòn tâm lý: dùng bức ảnh của bé Hồng Minh để nói bóng gió xa xôi, hòng làm chị lo lắng, phải đầu hàng. Nhưng chúng đã thất bại. Tiếp sau đó, thực dân Pháp đưa chị gặp đồng chí Lê Hồng Phong để tìm chứng cớ kết án về sự tham gia của hai người trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Kìm nén đau thương, giữ bình tĩnh, chị trả lời “không quen người này”. Hai người kiên quyết không nhận là vợ chồng. Đây cũng là lần cuối cùng anh và chị gặp nhau. 1. Tháng 6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám Pháp bắt tại Sài Gòn. Hết hạn tù, để đề phòng đồng chí tham gia hoạt động, chúng trục xuất về quê nhà ở Nghệ An để quản thúc và giám sát. Tháng 1-1940, chúng bắt giam Lê Hồng Phong tại quê, rồi giam vào Khám Lớn Sài Gòn, cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. 2. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 79. 3. Tư liệu về đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Tạp chí Xưa & Nay số 246, 10/2005, Thủy Trường lược dịch. Ngày 7/12/1940, Chánh mật thám Đông Dương P. Arnoux đã có Công văn mật số 7709-8 gửi Thống đốc Nam Kỳ và các sở mật thám Sài Gòn, Huế, Hà Nội, Phnôm Pênh, Viêng Chăn về “Những hoạt động của cộng sản, đường dây liên lạc giữa tù nhân chính trị với các tổ chức bên ngoài”. Nguyễn Thị Khai, tức cô Duy. Nội dung công văn như sau: Ngày 4/12/1940, tôi đã thông báo về việc nữ tù nhân cộng sản Nguyễn Thị Khai tức cô Duy, bị giam ở nhà tù Phú Mỹ (Gia Định) đã tuyên truyền trong đám tù nhân nữ rằng tất cả cần tin tưởng vì chúng ta sẽ được tự do. Để xác minh những hoạt động này tôi đã yêu cầu giám đốc nhà tù chuyển Nguyễn Thị Khai về nhà giam ở phố Lagrandière… Khám xét trong người Nguyễn Thị Khai trong khi chuyển trại, đã tìm được trong quần áo của nữ tù nhân này hai tài liệu viết tay: tài liệu thứ nhất là lời kêu gọi binh lính, công nhân, nông dân Đông Dương đoàn kết đấu tranh cách mạng, chiến đấu giành độc lập với sự giúp đỡ của Liên Xô. Tài liệu thứ hai là một bức thư gửi “Các đồng chí” do Hồ Thị Đức ký tên, kêu gọi tăng cường tuyên truyền cộng sản. Thư này tìm thấy trong tay Nguyễn Thị Khai, cho biết nữ đảng viên này chắc chắn có nhiệm vụ liên lạc với bên ngoài.
- 516 - “Vững chí bền gan ai hỡi ai Kiên tâm gửi dạ mới anh tài Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ Con đường cách mạng vẫn chông gai”. Những câu thơ trên chị đã viết trên tường nhà ngục để nhắn nhủ với các đồng chí của mình. Rồi chị viết mấy lời trong một mảnh giấy cuốn thuốc lá nhỏ viết bằng bút chì gửi đến Lê Hồng Phong: “Dù có chết, em hứa với anh, chung thủy với cách mạng, trung thành với Đảng. Em hứa mãi mãi là người chiến sĩ cộng sản kiên cường. Mong anh cũng vậy”. Với chồng, chị đã phải nén bao đau thương vào trong lòng để có thái độ “dửng dưng” và câu nói lạnh lùng “tôi không quen người này”. Còn với cô em gái, Nguyễn Thị Quang Thái (người vợ đầu của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), chị đã không kìm được niềm vui khi gặp lại trong những giờ khắc cuối cùng của cuộc đời. Có bao nhiêu chuyện đã xảy ra từ ngày chị chọn “thoát ly gia đình” để đến với cách mạng. Nhưng cảnh tình thực tế của hai chị em, đang ở dưới chế độ thực dân, thì việc nói chuyện cũng là một sự hão huyền. Biết tin chị gái bị bắt, và lo thực dân Pháp kết án tử hình chị, cha mẹ đã chuẩn bị kinh phí để Quang Thái vào Sài Gòn tìm thầy kiện. Nhưng cả hai chị em đều hiểu: làm gì có công bằng ở cái xứ này khi thực dân Pháp còn hiện diện ở đây mà đi kiện. Quang Thái vào thăm, Minh Khai dặn: Chừng nào Hồng Minh khôn lớn, em đón cháu về nuôi và dạy bảo cháu nên người và hãy đi tiếp con đường của chị. Vì thế những chữ thêu trên bao gối “CMLSL” (Cách mạng là sanh lộ) gửi cho con gái nhỏ, cũng là lời nhắn gửi tới tất cả đồng chí cùng chí
- 517 - hướng: cách mạng sẽ còn nhiều chông gai, nhưng không thể không làm cách mạng được. Minh Khai biết mình không thoát được án tử, nên đón nhận việc đó một cách bình tĩnh. Nhưng điều chị không ngờ tới là Quang Thái cũng đã lựa chọn con đường như chị gái của mình. Và sau lần gặp này, thấy sự bất lực của mình không thể cứu được chị, Quang Thái đã nuôi thêm quyết tâm hơn nữa. Chỉ hơn một năm sau, Quang Thái cũng gửi con gái nhỏ của mình là Hồng Anh cho mẹ và em chồng rồi tham gia cách mạng và cũng bị bắt. Vì Quang Thái hiểu rằng: Lấy đâu ra gia đình hạnh phúc khi còn đế quốc. Con trẻ đâu được gần mẹ khi lũ ác ôn còn. Từ biệt chị, chính Quang Thái chắc cũng không ngờ, một năm sau mình phải viết những lời đau thương này dành cho con: Mẹ hỏi Hồng Anh: “Đố con biết tại ai làm mẹ xa con yêu quý của mẹ? Con đã nghĩ ra chưa, sao con không nhờ ông hay ai đó trả lời cho mẹ, hay là con không nghĩ ra? Thì mẹ nói nhá. Chính tại cái ô tô Tây làm mẹ xa con đó. Cái ô tô ấy đến đem mẹ đi, cho nên mẹ đi mãi mà không về với con được. Nếu cái ô tô ấy mà hư hỏng tan nát thì nó không chạy đến đem mẹ đi. Mẹ giận ô tô lắm. Anh có tức giận ô tô ấy không? Anh lớn lên, Anh khỏe, Anh tài giỏi thì Anh đập nát cái ô tô ấy đi. Nó làm Anh xa mẹ, xa ba. Mẹ nhớ Anh quá…”(1). Một thời gian sau, chị Minh Khai và các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần bị kết án tử hình. Ngày chị và các đồng chí bị đưa ra trường bắn, 28/8/1941(2), nhân dân đến rất đông. Nhân cơ hội này, chị muốn nói cho 1. Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai (truyện ký), Sđd, tr. 161. 2. Thi Ngọc (1999), Nguyễn Thị Minh Khai - Vững chí bền gan, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- 518 - đồng bào biết tội ác của thực dân Pháp. Chị đã hét to, biểu lộ sự căm thù: “Đả đảo đế quốc dã man giết người”. Chị vừa dứt lời, mọi người đều đồng thanh hô theo. Trước họng súng của giặc, chị vẫn ngẩng cao đầu bất khuất hô khẩu hiệu: “Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm!” Hoảng sợ trước thái độ phản ứng của những tử tù và lo những người tù khác bị kích động, tên chỉ huy Pháp đã lấy lê đâm vào ngực chị máu chảy lênh láng, rồi lấy giẻ nhét vào miệng chị để không thể hô khẩu hiệu được. Người nữ cộng sản kiên trung thuộc thế hệ tiền phong ấy đã chọn một cái chết oanh liệt, khi mới bước vào tuổi 31. Tấm gương hy sinh của chị đã được mọi người noi gương, nhắc nhở. Bác Hồ trong bài kêu gọi phụ nữ tham gia cứu quốc đã nhắc đến tên chị như một người anh hùng, đã nối tiếp được truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu: “Mấy phen tranh đấu xông pha Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai Kìa như chị Nguyễn Minh Khai Bị làm án tử đến hai ba lần…”(1). Từ truyền thống anh dũng của quê hương, lại tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân xâm lược, chị đã sớm hun đúc tinh thần yêu nước và nó trở thành động lực để một người con gái nhỏ tuổi chọn “thoát li gia đình” theo cách mạng, cũng là nguồn sức mạnh để chị sống và đấu tranh, kiên gan đến hơi thở cuối cùng, nói cho đồng bào, cho chị em phải đứng lên đấu tranh, vì dân tộc và cũng là vì chính mình. Minh Khai cũng như nhiều người khác, dù không phải là người Sài Gòn, nhưng đã nặng lòng với Sài Gòn, sống chết vì Sài Gòn. Chị đã 1. Báo Việt Nam độc lập, số 104, số 4, ngày 1/9/1941.
- 519 - không tiếc thân xông pha để gìn giữ đất nước thiêng liêng, dù phần đất ấy không liên quan đến tổ tông, quê quán ban đầu. Bộ tem bưu chính “Chiến sĩ cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai (1910 - 1941)”. Nguồn: TTXVN 2. THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI QUỐC TẾ CỘNG SẢN LẦN THỨ VII TẠI NGA VÀ CÁC BÀI BÁO VỀ VẤN ĐỀ PHỤ NỮ CỦA NGUYỄN THỊ MINH KHAI 2.1. Tham luận tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII tại Nga, ngày 16/8/1935 (trích) “Lần đầu tiên, tôi được báo cáo đến các đồng chí Tây Âu, các công nhân nam nữ toàn thế giới rằng, chúng tôi, nữ công nhân, nữ nông dân của các nước Đông Dương (thuộc địa Pháp). Những người bị khổ cực gấp bội hơn các đồng chí Tây Âu đã bước vào con đường tranh đấu cách mạng. Hàng trăm năm, luật lệ phong kiến cũ rích đã làm cho phụ nữ phải âm thầm và ngoan ngoãn làm nô lệ cho cha mẹ, chồng, làm nô lệ ý chí và làm tối tăm trí tuệ của họ. Tôi cần phải nói rằng ở Đông Dương chúng tôi, đặc biệt trong thời kỳ cao trào cách mạng, phụ nữ đã tham gia đáng
- 520 - kể vào công cuộc đấu tranh cách mạng. Họ tham dự các cuộc biểu tình và đã lãnh đạo một số cuộc, đã diễn thuyết trong các cuộc mít tinh. Cần phải nhấn mạnh thêm nhiều lần nữa phụ nữ đã dũng cảm đi hàng đầu trong các cuộc biểu tình và buộc lính phải thối lui, phải đồng tình. (…) Thời gian gần đây, tính tích cực của phụ nữ đang phát triển. Họ tham gia các cuộc bãi công của thợ thuyền và đấu tranh của dân cày. Nữ công nhân và nữ dân nghèo thành thị đang say sưa đấu tranh.”(1) 2.2. Bài báo “Chống luận điểm “Phụ nữ hồi gia”” Một ngày tháng 9/1938, các đại biểu nữ về dự lớp huấn luyện chính trị ở gần Sài Gòn, hôm đó chị Minh Khai cũng tham dự. Thấy có mấy tờ báo mới, mọi người xúm quanh đọc và sôi nổi thảo luận. Có được nền nếp như vậy là nhờ chị Minh Khai nhắc nhở: “Chị em mình lúc rảnh nên lo đọc báo để hiểu thêm điều nọ, điều kia”. Hôm đó, trên tờ báo Dân chúng, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương phát hành số 17 - 18 tháng 9/1938 (phát hành ở Sài Gòn), đăng liên tiếp hai bài của tác giả Nguyễn Thị Kim Anh tranh luận với bài báo của nữ sĩ Tuyết Dung đăng trên tuần báo Đọc (phát hành ở Hà Nội). Trên báo, Tuyết Dung ra sức thuyết phục phụ nữ quay về lo toan chuyện nội trợ, chăm sóc con cái chứ không nên tham gia vào việc vận động phụ nữ bình đẳng, giải phóng phụ nữ: “Các chị chạy xô vào việc giáo dục, việc chính trị, việc viết sách, viết báo, lại còn tổ chức công này việc kia, diễn thuyết vấn đề này nọ, bếp núc thiếu hẳn tay tề gia nội trợ (…). 1. Trích trong: Phong trào Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng 1930 - 1954, Sđd, tr. 71 - 72.
- 521 - Ôi, người đàn bà con gái nếu giúp đấng ông chồng cho việc gia đình được ôn cố, gia đình lúc nào cũng đầy vẻ xuân phong, mỗi khi đức ông chồng làm được việc gì hay, lại khéo bề khuyến khích, khéo lời an ủi, làm cho chồng mình được vui lòng nức chí, phấn đấu việc đời, há chẳng phải là chị em đã cho quốc gia xã hội một người công dân đầy đủ bổn phận làm một người hiền phụ rồi. Lại đến khy sinh con, chị em thay chồng chăm sóc, dạy dỗ con vào khuôn phép giáo dục. Chị em thi hành cái nghĩa vụ tự nhiên nuôi dạy con khôn lớn, mạnh giỏi, khiến cho con đều trở nên bậc đại quốc dân cả (…)”. “Đàn bà không có râu, đàn bà không có sức khỏe và đã phải mang cái trống bụng lúc chửa con, lại có cái bầu sữa của trời cho để nuôi trẻ. Như thế là tạo hóa đã cho chị em một cái nghĩa vụ tự nhiên… gánh lấy mọi việc gia đình rồi”. Tranh luận lại những lý lẽ của Tuyết Dung, Nguyễn Thị Kim Anh (bút danh của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai) đã trình bày quan điểm về giải phóng phụ nữ, nhiệm vụ của phụ nữ trong thời đại hiện nay: “Nếu mỗi người đều lấy việc nuôi con làm trách nhiệm tột bực mà bỏ công việc xã hội thì công việc giải phóng phụ nữ không biết đến đời nào sẽ thực hiện được? Phụ nữ giải phóng là công việc của toàn thể phụ nữ, đồng thời cũng là nhiệm vụ chung của mọi người. Cuộc vận động phụ nữ đã phát triển khắp thế giới và đã đưa tới cho phụ nữ Liên bang Xô Viết những thành tích vẻ vang. Những câu kết luận cám dỗ của nữ sĩ Tuyết Dung hết sức nguy hiểm, vì không nói theo lối phong kiến “tam tòng tứ đức” mà toàn học theo kiểu nói của Hitle, đầy những giọng lừa đảo khôn khéo rằng phụ nữ nằm xó bếp mà gánh vác trách nhiệm
- 522 - công dân, đầy đủ bổn phận cho quốc gia, nằm trong gia đình mà đào tạo ra những bậc lương dân cho xã hội. Tại sao chúng lại lừa gạt khéo đến thế? Vì rằng ngày nay chị em đã hiểu sự cần thiết phải tham gia việc quốc gia xã hội, muốn giải phóng, muốn bình đẳng nên bọn phát xít mới tìm những câu ấy để dễ ru ngủ các chị em, khuyên chị em yên phận trong gia đình làm nô lệ cho chồng con. Những người phụ nữ tán thành giải phóng đều hiểu rằng: vợ chồng là tuyệt đối bình đẳng, song muốn bình đẳng thì mình không nên ăn bám vào đàn ông và ai cũng nhận ra rằng: đẻ con là trách nhiệm đặc biệt của đàn bà, nhưng nuôi con không phải là bổn phận riêng của phụ nữ. Muốn hoàn toàn giải phóng và bình đẳng thì cần phải thay đổi chế độ xã hội hiện thời mới được. Khuyên chị em an phận trong gia đình thì chẳng những giam hãm chị em vào cảnh nô lệ mà còn làm giảm mất đi một nửa lực lượng đấu tranh giải phóng cho dân tộc của xã hội, nói chung là cuộc giải phóng loài người. Các chị em Việt Nam đứng trước tình hình thế giới ngày nay và địa vị dân tộc hiện tại, muốn làm một người quốc dân có đầy đủ trách nhiệm, muốn làm một phần tử trong xã hội nên họ cần đấu tranh chống những đạo đức phong kiến, chống lý luận phát xít, đòi tham gia việc xã hội, đòi quản lý việc quốc gia. Lênin thường nói “Mỗi người đàn bà nấu ăn phải tham gia việc quản lý việc nhà nước. Giải phóng đàn bà ra khỏi bếp núc để kiến thiết xã hội”. Một dân tộc mà bọn tu mi còn nằm khoanh trong xó bếp, chưa biết quan tâm tới tiền đồ quốc gia xã hội, phụ nữ đang bị giam hãm nơi gia đình, xó bếp, mà nữ sĩ Tuyết Dung lại xướng
- 523 - to lên cái lý thuyết “phụ nữ hồi gia”, đó thật là trái ngược với trào lưu thế giới và trình độ tiến hóa của dân tộc. Nên chi, tôi và chị em Sài Thành phải tuyên chiến với học thuyết phản động của phong kiến tư bổn, của phát xít vậy”(1). 2.3. “Vấn đề Phụ nữ”, báo Dân chúng, 1938 “Một dân tộc bị áp bức đến tột bực như xứ Đông Dương ta, trách chi địa vị phụ nữ không thấp kém hèn hạ. Sống trong những hình thức tổ chức xã hội phong kiến, tư bản, dưới trăm ngàn cái xiềng xích của lễ nghi, tập quán và thành kiến hủ bại, sống trong chế độ mục nát của dân tộc lạc hậu ta, chị em bạn gái đã chịu biết bao nỗi uất ức, căm hờn, đè nén. Trong gia đình cũng như ngoài xã hội, bạn gái đã từng trải trăm đắng ngàn cay, thiệt thòi rẻ rúng. Trong gia đình thì phạm vi “tứ đức, tam tòng”, trật tự “nam tôn, nữ ti” đã giam hãm chị em trong luân lý ích kỷ, bất công trói buộc chị em vào những phận sự bếp núc, niêu cơm trách mắm, bị đối đãi bất bình đẳng, ít khi được đi học mà luôn luôn bị hành hạ chửi mắng đánh đập, chẳng khác gì kiếp nô lệ. Con gái lớn là món hàng cho cha mẹ gả bán, đổi chác bằng tiền bạc, bắt ép “đặt đâu ngồi đấy” chứ không được quyền lựa chọn bạn trăm năm theo ý riêng (…). Ngoài xã hội, chị em trí thức không được bổ dụng vào các ngạch hành chính như đàn ông, dù chị em có tài cán ngang với họ, chị em thợ thuyền bị hãm hiếp, bạc đãi, chị em buôn bán hoặc cày cấy thường bị chất lên đầu lên cổ nhiều thuế má nặng nề, đến nỗi phải phá sản, thất nghiệp. Bằng trí não hay chân tay, chị em đã từng bán sức lao động, bằng những đồng tiền lương, tiền công ít ỏi thua kém đàn ông, 1. Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai (truyện ký), Sđd, tr. 113 - 126.
- 524 - trong khi công việc của chị em vẫn nặng nề khó như đàn ông, mà chị em vẫn làm trọn như họ. Hết thảy, chưa có quyền bỏ phiếu, đầu phiếu và không được luật xã hội bảo hiểm khi tai nạn, ốm đau hay sinh đẻ. Vì bị đè nén, áp chế, bóc lột đủ mọi phương diện bằng mọi hình thức, chị em tất nhiên phải đòi giải phóng để cứu thoát khỏi vòng tăm tối, khổ sở ấy. Nhưng hai tiếng giải phóng đối với phần đông chị em vẫn chưa nhận thức được rõ ràng, đích đáng và triệt để. Một số chị em tiên tiến, giác ngộ ý nghĩa giải phóng một cách chân chính đã hăng hái ra gánh vác nhiệm vụ vận động phụ nữ. Nhưng phần nhiều chị em chưa hiểu rõ ý nghĩa và tinh thần giải phóng, và để cho bọn phản động chế giễu, mỉa mai chị em, tấn công và đàn áp phong trào. Chẳng hạn, có chị em nông nổi, vì hoàn cảnh gia đình áp bức hành hạ, bó buộc nên tưởng rằng giải phóng là thoát ly gia đình, trốn đi với một sự nhận định mơ hồ về tự do (…). Chẳng hạn có những chị em không chịu gia đình ép uổng tình duyên, bất phục bỏ đi với một trái tim non nớt, bồng bột. Nhưng ở dưới cái chế độ tư bản mà chị em còn bị rẻ rúng, bỏ rơi thì những chị em không chức nghiệp đã đành là không thể tự lập được mà ngay đến cả những chị em có nghề nghiệp trong tay cũng nhiều phen gặp lắm trở lực đau đớn ê chề. Muốn đi làm tự nuôi sống, thì công việc không có, chế độ không dùng đàn bà trong mọi công việc, muốn trở về với gia đình thì cha mẹ, anh em vì quá tiêm nhiễm những đạo đức trưởng giả phong kiến, dã man, giả dối lại nghiêm khắc quá, hủ lậu quá, không thừa nhận chị em nữa. Tình thế bối rối, hoàn cảnh xấu xa đã cố ý đẩy chị em vào vòng trụy lạc. Người nào
- 525 - chịu ép không nổi những tủi nhục khinh khi của dư luận đành phải kết liễu đời sống bằng cách tự tử. Khi nào xã hội còn đóng khuôn trong chế độ áp bức bóc lột và bất công của chủ nghĩa tư bản, còn có giai cấp mâu thuẫn nhau, phụ nữ chưa thể hoàn toàn giải phóng được. Gây phong trào vận động để nam nữ bình quyền để thoát khỏi cái ách gia đình chuyên chế, chúng tôi vẫn tán thành cái nguyên tắc ấy, nhưng chủ trương cao hơn một bậc nữa: chúng tôi muốn sự bình đẳng giữa toàn thể nhân loại. Vậy muốn giải quyết vấn đề triệt để, chị em không thể đứng tách riêng, xét về phương diện giới, nam nữ phân biệt. Trái lại, điều cốt yếu của vấn đề là ở phương diện chung: phương diện giai cấp mà chúng ta cần phải giải quyết chung. Chen vai thích cánh với bạn trai, chị em phải liên hiệp với họ cùng tranh đấu trong hàng ngũ của họ để cải tạo cái chế độ xã hội, để triệt tiêu giai cấp, để thủ tiêu áp bức, các mâu thuẫn hiện tại để kiến thiết cõi đòi hoàn toàn bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Bạn trai, bạn gái, hết thảy như nhau. Phải cùng liên kết, nỗ lực đấu tranh đạp đổ tư bản, đạp đổ giai cấp bóc lột, kiến thiết xã hội chủ nghĩa, kiến thiết cơ sở bình đẳng, bình quyền tự do, hạnh phúc đến hoàn toàn triệt để. Sứ mạng thiêng liêng của phụ nữ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc không phải chỉ ở phương diện biệt giới (phụ nữ), mà quan trọng ở phương diện giai cấp chung của con người. Chị em phải tham dự một cách hăng hái trong các phong trào đấu tranh của quần chúng, phải đứng trong hàng ngũ với anh em bạn trai, chống phản động tấn công đàn áp bóc lột của bọn phản động thuộc địa, giành lại quyền lợi kinh tế, chính trị. Chị em ở xứ
- 526 - xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô Viết đã treo trước mắt một tấm gương chói lọi. Chị em trên một phần sáu địa cầu đã được hoàn toàn giải phóng, được bình đẳng với bạn trai và được tham dự các việc chính trị, kinh tế, văn hóa trên những địa vị cao quý”(1). 3. BẢO LƯƠNG NGUYỄN TRUNG NGUYỆT Nguyễn Trung Nguyệt sinh năm 1909, tại làng Bình Đại (tỉnh Mỹ Tho), sau này chuyển đến Rạch Giá(2). Trung Nguyệt được ông ngoại và cha dạy Hán văn, và được chú dạy chữ quốc ngữ. Khiếu văn chương của Trung Nguyệt bộc lộ từ sớm qua những lần đối đáp thơ văn với cha. Qua những lần xướng họa thơ văn, qua những ván cờ, và những lời thủ thỉ của cha về giặc Tây và tội ác của chúng kể từ khi đặt chân đến vùng đất Nam Kỳ, lòng yêu nước, căm thù giặc của cô gái nhỏ cứ thế lớn dần qua thời gian. Trong hồi 1. Nguyệt Tú (2013), Chị Minh Khai (truyện ký), Sđd, tr. 119 - 123. 2. Nhà văn Trầm Hương (2015), “Nữ danh xứ Nam Kỳ: Thiếu nữ cải trang nam đi làm cách mạng”, báo Thanh niên Online, ngày 8/3/2015. Nguồn: https://thanhnien.vn/vanhoa/nu-danh-xu-nam-ky-thieu-nu-cai-trang-nam-di-lam-cach-mang-539353.html, truy cập ngày 30/12/2017. Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt.
- 527 - ký của mình, chị bộc bạch: “Dài theo tháng năm khôn lớn của tôi, được ông cha căm hận thực dân rèn luyện hiểu biết thêm sự tham ác của ngoại bang để thâm thù bọn xâm lược ngày càng cao độ”. 16 tuổi, tài thơ văn của Trung Nguyệt đã vang tới Sài Gòn. Bước sang tuổi 18, Trung Nguyệt trở thành một thiếu nữ nhan sắc, xinh đẹp nên nhiều gia đình địa chủ giàu có, thân Pháp muốn cầu hôn, nhưng cha từ chối vì không muốn gả con gái cho những người ấy. Thời gian này, Trung Nguyệt bắt đầu nhen nhóm ý tưởng thoát ly gia đình đi làm cách mạng. Yêu nước, căm thù giặc, nhưng việc để con gái tham gia cách mạng thời kỳ này vẫn là một điều không tưởng thời bấy giờ đối với cả gia đình và đối với bản thân của những người phụ nữ. Trung Nguyệt viết: “Dai dẳng suốt hai năm tranh chấp thành kiến của gia đình, đã phá thành trì lễ giáo bền hơn bất cứ loại sắt đá hữu hình nào, gạt bỏ chi tiết vụn vặt khổ tâm của nếp sống người con gái mà phong kiến còn lưu lại chặt chẽ với bốn bức tường “khuê môn bất xuất”, tôi bạo phổi “xuất môn””. Trong lúc cha ngâm nga khoe với những người bạn về bài thơ đầy khí khái của con gái mới làm ở nhà Hội Khuyến học Phước Long, thì ở nhà, hai người em của Bảo Lương đã giúp chị chuyển hành lý trốn nhà ra đi một cách an toàn. Đến Sài Gòn, chị ở nhờ nhà ông Tôn Đức Thắng, rồi nôn nóng đi tìm ông Mai Bạch Ngọc để học hỏi. Trung Nguyệt không ngờ bầu khí huyết được dấn thân cho lý tưởng độc lập đất nước thấu đến Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Tổ chức chọn Bảo Lương sang Quảng Châu để dự lớp học chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc đào tạo. Được tin ấy, Trung Nguyệt sung sướng đến rơi nước mắt khi nhìn thấy
- 528 - phía trước một thế giới đang rộng mở, một thế giới mà từ lâu bị che khuất bởi bốn bức tường… Nhưng Trung Nguyệt là gái, mảnh manh, xinh đẹp, không dễ gì để có thể lên tàu. Và một quyết định “cắt phăng mái tóc dài, cải trang làm con trai để đi sang Quảng Châu” là một quyết định cũng không dễ dàng gì, bởi thời đó, người phụ nữ bị trói buộc trong xó bếp và khuôn chặt trong quan niệm “tam tòng tứ đức”: “Tâm lý tôi lúc đó rất phức tạp, nói hy sinh cho cách mạng, cho đại cuộc thì dễ mà chỉ mới bắt đầu bằng việc thoát ly gia đình đã thấy trăm ngàn khó khăn và vương vấn tình cảm trong tim. Hai năm dai dẳng tranh luận với thành kiến gia đình, bỏ đi những thành trì lễ giáo chặt chẽ với bốn chữ “bất xuất khuê môn” của nếp sống người con gái bền lâu hơn bất cứ loại sắt đá hữu hình nào, tôi bạo phổi “xuất môn”. Cắt phăng mái tóc dài, là tôi đã chiến thắng chính tôi. Ngồi xuống, mái tóc bị hớt trơ trụi. Phải trút bỏ áo dài, áo túi mới thẹn thùng làm sao. Tôi nghe lỗ tai bừng nóng. Thôi đã trót hóa trang thì phải đứng được, khi cái áo thụng cổ rộng, lật hở ra một khoảng rộng ở ngực, cố ý cho thấy “ta đây quả thật nam nhi. Sài Gòn về đêm càng hoa lệ, tôi có cảm tưởng như được dắt đi biểu diễn cho quen với đôi giày cứng nhất và bộ đồ xa lạ với những cái bắt tay của bạn bè đang đứng rải rác khắp các lối ra. Tại sao phải bắt tay hoài vậy? Em đừng e lệ, theo phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân” đừng quên em đang là con trai. Tôi bước đi giữa Sài Gòn giữa đám người xa lạ, cái lớp nam trang nhắc nhở tôi: đã nam nhi thì hồ thỉ, bước đi phải mạnh dạn thì mới được thực hành nổi ý chí kiếm cung. Tôi lấy thế quân bình trong tâm não, tiếng đế giày của tôi nện mạnh cộp cộp xuống cầu Khánh Hội, bỗng nghe tiếng huýt
- 529 - sáo nho nhỏ như một ám hiệu, tôi cố chạy cho kịp bạn đồng hành xuống chiếc tàu đi Hồng Kông. Một đồng đồ xanh phát ra cho mỗi người một bộ, ra dấu bảo thay. Người ta mặc vào mau lẹ, tôi cầm bộ y phục thợ máy tôi lại bần thần, nghe tiếng nói hối thúc: thay lẹ đi, mắc mớ chi tụi mình với nhau mà. Giờ định mạng đã điểm, những kẻ sắp xa tổ quốc, nét mặt đăm chiêu, cùng xích lại gần nhau, tăng thêm hơi ấm, tình thân trước chuyến đi xa. Tôi nhìn sâu vào màn đêm, tôi nhớ lời cha “cha mong cách mạng không có nghĩa là bỏ hết phần tốt đẹp đạo đức của người con gái phương Đông.” Bây giờ thì tôi thong dong dưới phòng tàu Đồng Sanh cách nhiều cây số ngàn rồi, chắc chắn là tôi được tự do đi tìm con đường cách mạng (…). Nhưng lòng tôi băn khoăn, man mác, ngẩn ngơ như chim lạc tổ bàng hoàng. Tôi soạn mau trong trí nhớ những lời căn dặn của mẹ tôi nói những ngày thường nhật”. Những ngày trên đất Quảng Châu đã tôi luyện Trung Nguyệt, từ một thiếu nữ đa cảm thành một chiến sĩ có ý chí sắt đá. Chị đã học được nhiều bài học quý giá từ cách vận động quần chúng, tập diễn thuyết trước họng súng kẻ thù, những đêm trắng giằng xé để chọn lựa tình riêng và lý tưởng đại cuộc. Chị đã gác những thi hứng dào dạt, trữ tình để viết những bài thơ kêu gọi nữ quyền khi phụ trách mục Nữ giới trên tờ báo Thanh niên. Năm 1928, chị về nước trên một chuyến tàu bí mật. Nhiệm vụ của tổ chức giao phó trĩu nặng trên đôi vai là phải vận động xây dựng cho bằng được tổ chức Hội Phụ nữ Giải phóng ở Nam Bộ. Ngày 8/12/1828, chị bị thực dân Pháp bắt trong vụ án đường Barbier. Tại phiên tòa, Nguyễn Trung Nguyệt đã tỏ
- 530 - rõ khí phách anh hùng của một chiến sĩ cách mạng khẳng định: “Mục đích của Đảng mình là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp…”. Nguyễn Trung Nguyệt đã dùng tòa án để tuyên truyền tư tưởng bình đẳng nam nữ khi thẳng thắn thừa nhận mình hoạt động cách mạng để đòi lại quyền lợi cho đàn bà, trước hết là quyền được nói hoặc viết những ý tưởng của mình, quyền được đi học… Chị tố cáo Pháp đã bỏ tù vô cớ những phụ nữ xin giảm hoặc hoãn thuế cho chồng, vì họ nghèo mà không lo đủ thuế nộp cho chính phủ… Khi bị chất vấn tại sao không lo bổn phận của mình trong gia đình mà lại đi làm cách mạng, Nguyễn Trung Nguyệt đã tuyên bố: “Tôi không phải có cái bổn phận gia đình thôi đâu, tôi còn có cái bổn phận đối với xã hội nữa.” Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt ra tù năm 1937, sau khi đã làm tròn vai trò tiên phong đáng khâm phục của người phụ nữ một thời dám bước ra khỏi bốn bức tường lễ giáo phong kiến, dấn thân cho lý tưởng cách mạng, bà trở về làm một người vợ, người mẹ bình thường. Bà mất năm 1976. 4. “HOÀNG HẬU ĐỎ” NGUYỄN THỊ BẢY Chị Nguyễn Thị Bảy tên thật là Nguyễn Thị Lục (Sáu), sinh năm 1909, ở làng Vĩnh Hựu, tổng Hòa Đồng Trung, quận Gò Công (nay là huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang)(1). Chị Nguyễn Thị Bảy cùng với chị Nguyễn Thị Minh Khai là hai nữ chiến sĩ cộng sản bị lãnh án tử hình trong danh sách gần 100 nữ tù chính trị bị kết án. 1. Long Thái (2015), ““Hoàng hậu đỏ” - Nữ anh hùng tiêu biểu trong Khởi nghĩa Nam Kỳ” báo Long An Online, ngày 21/10/2015, nguồn: http://baolongan.vn/-hoang-hau-do-nuanh-hung-tieu-bieu-trong-khoi-nghia-nam-ky-a8642.html, truy cập ngày 30/12/2017.
- 531 - Chị Bảy sinh ra và lớn lên tại làng Vĩnh Hựu, trong một gia đình nhà nho nghèo, đông con. 10 tuổi, mẹ mất, chị đi theo cha là ông Nguyễn Khắc Kỷ sang quận Cần Đước (Chợ Lớn) mưu sinh bằng nghề hốt thuốc bắc. Cha có vợ nhỏ, khắc nghiệt, nên chị bỏ nhà, tự mưu sinh. Chị Bảy đi ở mướn cho nhà của cậu Chín, con một Hương sư ở làng Phước Lại. Tại đây, khoảng năm 19 tuổi, chị được anh Tuấn Nẫy (tức Nguyễn Văn Ớt) dìu dắt, giác ngộ lòng yêu nước; chị quyết đi theo cách mạng và sớm gia nhập Đảng Cộng sản. Cuối năm 1932, chị là nữ đảng viên đầu tiên được kết nạp tại Chi bộ xã Phước Lại do anh Ớt đứng ra tổ chức. Năm 1934, chị được chỉ định công tác tại Quận ủy Cần Giuộc, làm Bí thư xã Phước Lại vào cuối năm ấy. Chị đã cùng đồng chí Bùi Văn Suyễn (tức Ngữ), Xứ ủy viên Nam Kỳ đứng ra tổ chức lễ kết nạp Đảng các đồng chí Nguyễn Thị Một (Một Nho), Huỳnh Thị Thinh (Hai Hưởng), Trương Thị Be - về sau đều là những cán bộ ưu tú của Đảng. Nhờ ăn nói có duyên, sự rèn luyện tốt, năm 1936, chị được bầu làm Bí thư Quận ủy Cần Giuộc, Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Chợ Lớn, sau đó trúng cử vào Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Dân chủ tỉnh. Chị tổ chúc nhiều Ủy ban hành động trong thời kỳ Phong trào Đông Dương đại hội. Trong Khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11/1940), chị là người chỉ huy chủ yếu cuộc nổi dậy ở quận Cần Giuộc, được đồng bào rất tín nhiệm. Ủy ban khởi nghĩa được lập nên do chị làm Trưởng ban. Chị là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ(1). Chồng chị, đồng chí Nguyễn Văn Ớt - Quận ủy viên, 1. Phụ nữ miền Nam, tr. 79.
- 532 - thành viên Ban Chỉ đạo khởi nghĩa của quận Cần Giuộc, bị địch giết hại. Khoảng 3 giờ chiều ngày 14/12/1940, trên đường đi công tác sang Kinh Hàn, chị đã tước khẩu súng hơi đen của Hương chánh Gần, qua bến đò làng Long Đức Đông, gần Cần Giuộc, bất ngờ gặp một toán lính lê dương đi càn quét. Biết bị lộ, chị và đồng chí Trần Chí Nam tạt xuống mé bờ. Đồng chí Nam nhảy lên bờ cùng với một khẩu súng, liền bị bọn lính bắn rượt, đồng chí Nam hy sinh tại chỗ. Còn một mình, chị thủ tiêu tài liệu. Địch nhảy xuống sông, bắt chị. Chúng ném chị lên ghe ông Mười Nhứt, bắt ông chở chị về thẳng đồn rồi thủ tiêu ông Mười. Do có bọn tề nhận mặt, địch biết rõ thân phận của chị, chúng đánh chị vô cùng tàn nhẫn, lấy súng đánh vào đầu, máu tuôn ướt đẫm. Chị lấy máu bôi vào bọn chúng nói: tôi muốn cho các người thấy, tôi cũng như các người, cũng đầu đen máu đỏ, là người Việt Nam, da vàng như nhau. Tôi chỉ là một người đàn bà yêu nước, các người đánh tôi như thế này không thấy nhục sao? Chúng giải chị về bót Pô Lô, nằm sau nhà thương Chợ Rẫy - một chi nhánh của Khám Lớn và nhà tù Catina. Đây chính là nơi địch đã thủ tiêu nhiều tù nhân cộng sản. Chúng dùng nhiều cực hình dã man tra tấn. Mỗi lần bị nhục hình, chị trừng trừng mắt nhìn quân thù và nói: Chúng bây là bọn người cướp nước. Vì vậy chúng tao phải đánh đổ bọn bây, giành lại nền độc lập cho đất nước. Trước sự bất khuất của chị Bảy, bọn lính bót Pô Lô đành bó tay. Chị được chúng đặt cho biệt danh “Hoàng hậu đỏ”, chuyển chị qua khám Phú Mỹ (Gia Định) - nơi biệt giam những nữ tù
- 533 - nhân để chờ ngày đưa ra tòa đại hình kết án. Chị Minh Khai cũng bị giam ở đây. Gặp chị Minh Khai, chị Bảy cùng với các chị em cùng nhau tổ chức đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực, buộc địch phải mở một số cửa để tù nhân bớt ngột. Chị quan tâm đến chị em bạn tù, nên được mọi người yêu thương. Chị Bảy dặn mọi người: sớm muộn gì tôi cũng bị xử tử. Chị em cứ mạnh dạn đấu tranh, có gì tôi nhận hết tội. 4 tháng sau, chúng đưa chị ra kết án tử hình. Hôm ra tòa, chị Bảy vẫn lạc quan, bình tĩnh, ôm chặt các bạn tù lần cuối và dặn: các đồng chí ở lại, ráng đoàn kết đấu tranh, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên(1). Chúng đem chị Bảy xử bắn ở sân banh Cần Giuộc. Theo lời kể của Đốc phủ Chương - lúc ấy là Chủ quận Cần Giuộc, sau làm Đô trưởng Sài Gòn: “Chị Nguyễn Thị Bảy mặc bộ đồ lãnh đen, đội khăn lông trắng, bình tĩnh xuống xe. Hai tên lính sen đầm đưa chị đến cột bắn chính giữa. Linh mục đến xin rửa tội, chị Bảy lắc đầu không đồng ý. Chị nói lời cuối cùng với đồng bào “Đồng bào hãy tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Pháp, giành lại độc lập cho dân tộc. Kỳ khởi nghĩa này thất bại, kỳ sau nhất định thành công”. Chị không bịt mắt, ngó thẳng vào họng súng của quân thù”. Trước cái chết của chị, Đốc phủ Chương ròng ròng lệ. Sau này, khi Pháp quay trở lại, ông Chương đang giữ chức Đô trưởng Sài Gòn đã từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để vào chiến khu. Ông nói “Một trong những điều thôi thúc 1. Trầm Hương, “Khủng bố trắng ở Nam Kỳ và những số phận phụ nữ ở Tân An - Chợ Lớn”, trong cuốn Sở Văn hóa Thông tin, Trung tâm Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chứng tích Pháp - Nhật trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, 1858 - 1954: Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- 534 - tôi chọn con đường kháng chiến là cái chết anh hùng của chị Nguyễn Thị Bảy”. Ngày 26/5/1941, chị Nguyễn Thị Bảy bị thực dân Pháp xử bắn cùng với bốn nghĩa quân là Đang, Châu, Thiệp (Lương) và Tiếu. Trước cái chết, chị kêu gọi đồng bào: “Hãy tiếp tục đấu tranh, đánh đuổi được đế quốc Pháp thì dân cày mới có ruộng. Khởi nghĩa lần này thất bại, lần sau sẽ thành công…”. Năm chiến sĩ cách mạng cùng hô lớn: “Đả đảo đế quốc Pháp! Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!” Gương hy sinh anh dũng của chị Nguyễn Thị Bảy và các chiến sĩ cộng sản bấy giờ đã gây xúc động lớn trong nhân dân. Thời 9 năm chống Pháp, đã có tài liệu phổ biến trong đoàn thể nêu cao tấm gương “Hoàng hậu đỏ”, cổ vũ đồng bào Nam Bộ chiến đấu. Ngày nay, công tích “Hoàng hậu đỏ” Nguyễn Thị Bảy được lưu danh trên bia đá đặt tại thị trấn Cần Giuộc; Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã ra quyết định lấy tên bà đặt tên cho một con đường tại tỉnh lỵ Long An (nay là thành phố Tân An). Năm 2010, bà được Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân (Quyết định số 212- QĐ/CTN ngày 23/2/2010 do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký)(1). 1. Long Thái (2015), ““Hoàng hậu đỏ” - Nữ anh hùng tiêu biểu trong Khởi nghĩa Nam Kỳ” báo Long An Online, ngày 21/10/2015, nguồn: http://baolongan.vn/-hoang-hau-do-nuanh-hung-tieu-bieu-trong-khoi-nghia-nam-ky-a8642.html, truy cập ngày 30/12/2017.
- 535 - 5. NỮ ĐỒNG CHÍ NGUYỄN THỊ NHỎ Nguyễn Thị Nhỏ (thường gọi là Sáu Điếc), sinh năm 1909 (1908) trong một gia đình buôn bán nhỏ tại Vĩnh Long. Anh trai là Nguyễn Văn Nhung, một đảng viên kỳ cựu của Vĩnh Long, từng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Long Xuyên sau Cách mạng tháng Tám. Em gái là Nguyễn Thị Phụng - một đảng viên từng vào tù ra khám nhiều lần. Cha mẹ là những người có lòng yêu nước, tính tình điềm đạm, được bà con xóm phố thương mến. Lúc nhỏ, chị học tại trường xã, rồi học lên trường tỉnh Vĩnh Long, sớm chứng kiến cảnh bất công của xã hội, cộng với truyền thống gia đình, lòng yêu nước, ý thức chính trị đã sớm được hun đúc trong người phụ nữ này. Chị đã tham gia phong trào đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu một cách hăng hái, rồi tiếp tục tham gia đám tang cụ Phan Chu Trinh. Thôi học, chị về làm công tác dạy học tại Bến Tre, sau lên Sa Đéc, hoạt động tích cực trong phong trào tẩy chay gian thương Hoa kiều, được tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội địa phương kết nạp (1927), sinh hoạt với các đồng chí Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Phát, thường xuyên liên lạc với đồng chí Châu Văn Liêm (Chợ Mới, Long Xuyên). Cùng chí hướng, cùng tham gia hoạt động, chị có cảm tình với đồng chí Nguyễn Văn Phát, hai người sau này thành vợ chồng. Sau khóa huấn luyện chính trị của Kỳ bộ, chị được các đồng chí lãnh đạo đánh giá cao. Năm 1929, chị Chị Nguyễn Thị Nhỏ.
- 536 - công tác trong Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội Sa Đéc. Cũng trong năm này, hai vợ chồng chị được điều lên Sài Gòn công tác tại trụ sở Kỳ bộ (ở số nhà 114 đường La-ca-đơ (La Case, nay là Nguyễn Tri Phương)(1). Chị hăng hái tham gia công tác, tham gia vào việc in phát tạp chí Bôn-sê-vích (Bolchevik) và báo Công Nông Binh, in tài liệu của Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Do tên Sường chỉ điểm, thực dân Pháp bao vây trụ sở Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, chị Nguyễn Thị Nhỏ cùng các đồng chí Nguyễn Văn Phát, Trần Ngọc Quế bị bắt ngày 23/7/1929. Sau đó chúng bắt đồng chí Nguyễn Kim Cương, Tôn Đức Thắng, Trần Trương. Duy chỉ có đồng chí Hà Huy Giáp thoát về Cần Thơ. Bị bắt, đồng chí Nguyễn Văn Phát khai chị Nhỏ là vợ, theo chồng lên Sài Gòn nấu ăn cho gia đình. Chúng bắt giam vài tháng, không khai thác được gì thêm nên phải thả chị. Ra tù, chị liên lạc với đồng chí Châu Văn Liêm (lúc này là Bí thư Kỳ bộ, thay cho đồng chí Phạm Văn Đồng), được biết tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đã đổi thành An Nam Cộng sản Đảng, chị phấn khởi tham gia hoạt động và được kết nạp vào Đảng (10/1929). Theo chỉ thị của cấp trên, chị được cử đi “vô sản hóa” ở xí nghiệp Ba Son để gây dựng cơ sở Đảng. Tại đây, chị xin vào làm phu gánh hồ để gần gũi anh em công nhân, tuyên truyền giác ngộ họ. Nhờ sự hăng hái, tích cực, chẳng bao lâu cơ sở Đảng đã được gây dựng tại một số cơ sở quần chúng ở xí nghiệp Ba Son. 1. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư liệu văn kiện, nguồn: http://dangcongsan.vn/ tu-lieu-van-kien/cac-ban-dang-tw/books-0103201511362246/index-21032015113449 466.html, truy cập ngày 30/12/2011.
- 537 - Sau khi ba tổ chức Cộng sản hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức Đảng ở thành phố được thành lập, Xứ ủy chỉ định chị là Phó Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn (đồng chí Lê Quang Sung - Bí thư). Trong vai trò Phó Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, chị đã tích cực hoạt động, xây dựng và phát triển Đảng, lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng trong cao trào 1930 - 1931. Khi đồng chí Lê Quang Sung bị bắt, chị đã gánh vác mọi công tác của Tỉnh ủy. Trong cuộc họp bàn về việc khôi phục lại Xứ ủy với một số lãnh đạo các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long, Chợ Lớn đầu năm 1932, đã thống nhất thành lập một Xứ ủy lâm thời gồm 3 đồng chí: đồng chí Phượng làm Bí thư, đồng chí Ngô Văn Chính và Nguyễn Thị Nhỏ làm Ủy viên. Nhưng trước sự khủng bố gắt gao của thực dân Pháp, Xứ ủy lâm thời nhanh chóng tan rã, các đồng chí lãnh đạo bị bắt, bị tra tấn tàn bạo. Tháng 2/1932, Thực dân Pháp mở phiên tòa đại hình đặc biệt, xét xử 121 chiến sĩ cộng sản, nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ Nam Bộ: Phạm Hùng, Ngô Gia Tự, Hà Huy Giáp, Lê Quang Sung… Tham dự phiên tòa, chị Nguyễn Thị Nhỏ hiên ngang đứng lên tố cáo chế độ cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, đặc biệt là chính sách tàn bạo với chị em phụ nữ. Chị đanh thép chỉ vào mặt chúng: chính cái chế độ tàn bạo của bọn thực dân đã đẩy chị em phải đứng lên làm cách mạng, đứng lên để đánh đuổi bọn chúng. Thực dân Pháp kết án chị 15 năm tù khổ sai. Trong tù, chị vẫn giữ tinh thần kiên cường, bất khuất, là người đứng ra tổ chức cuộc sống của nữ tù nhân, được tù nhân quý mến.
- 538 - Với sự vận động tích cực của nhà báo Louis Marie Perreux - người đã đến tận khám để trò chuyện với chị (trong khi trao đổi với nhà báo, chị không đòi hỏi quyền tự do cho bản thân, mà chỉ yêu cầu nhà báo hãy viết về tội ác của bọn thực dân Pháp ở đây để cho thế giới biết); dưới sự can thiệp của tổ chức Quốc tế Cứu tế đỏ, chị được ra khỏi tù, nhưng vẫn chịu sự quản thúc của chúng. Khi ra tù, chị đã tích cực hoạt động, sát cánh bên chồng chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), hưởng niềm vui độc lập chưa được bao lâu thì năm 1946 chị mất sau một cơn bạo bệnh trong sự tiếc thương vô hạn của nhiều người. 6. NỮ ĐỒNG CHÍ MAI HUỲNH HOA Mai Huỳnh Hoa sinh năm 1910, tên thật là Mai Ngọc Chi, là cháu ngoại nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái của chí sĩ yêu nước Mai Bạch Ngọc, cháu gọi đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn bằng cậu. Mẹ mất sớm, Huỳnh Hoa sống với bà ngoại từ nhỏ. Năm 10 tuổi, bà ngoại qua đời, ông Mai Bạch Ngọc gửi Huỳnh Hoa vào trường Nhà trắng, nhờ các bà sơ chăm sóc. Mang trong người dòng máu cách mạng, ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, bà đã tham gia rải truyền đơn kỷ niệm V.I. Lênin, Kark Liepneek và Rosa Lucxembourg trong trường. Cuối cùng bà đã theo bước con đường của cha: hoạt động cách mạng. Trong những ngày đầu hoạt động, bà bị bắt, đã khai tên là Mai Huỳnh Hoa. Bà bị đày từ Sở Mật thám Catinat đến Khám Lớn Sài Gòn, chịu đựng cảnh tù đày tra khảo của địch từ lúc còn tuổi vị thành niên.
- 539 - Ra tù, bà tiếp tục hoạt động công khai trong phong trào dân chủ 1936 - 1939. Bà cùng Nguyễn Thị Lựu, Trần Thị Đầy, Nguyễn Thị Lượng, Nguyễn Thị Kiêm ở tòa soạn báo La Lutte chia nhau đi vận động công nhân ở các hãng xưởng. Bà đã từng trúng tuyển giải nhất kỳ thi sắc đẹp ở Sài Gòn hồi đó mà người ta gọi là hoa khôi. Bà lập gia đình với ông Phan Văn Hùm. Không đồng chính kiến với chồng, bà vẫn giữ vững ý chí của mình và vợ chồng đã thỏa thuận với nhau “trong gia đình không bàn chính trị”. Bà tổ chức cuộc sống gia đình êm ấm, hạnh phúc. Bà có hai người con là Phan Nhuận Mai và Phan Kiều Mai. Sau ngày thống nhất đất nước, con út bảo lãnh bà sang Pháp sum họp gia đình, bà đã tâm sự với Nguyễn Thị Lựu: “Cực khổ mấy em cũng ở lại đây, chứ em nỡ nào vì con mà bỏ Tổ quốc”. Hôm dự đám tang Mai Huỳnh Hoa, ai cũng xúc động khi nghe chị Lựu khóc: “Em ơi, em ra đi, qua thế giới người hiền, em đã mang theo trọn vẹn tình yêu, tình bạn, quyện chặt với lý tưởng cách mạng và Tổ quốc”(1). 7. BÀ NGUYỄN AN NINH Bà Nguyễn An Ninh nhũ danh là Trương Thị Sáu, sinh năm 1899, tại xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Cha mất sớm, gia đình suy sụp, mẹ con bà phải đi làm thuê, cấy mướn, sống nhờ trong một góc vườn của ông ngoại. Chứng kiến cảnh giàu có của các cậu dì, bà nảy sinh ý làm giàu, thế rồi bà ráng sức làm ruộng rẫy, học may, học dệt chiếu và học cả nghề thợ mộc. 1. Phụ nữ miền Nam, tr. 52.
- 540 - Năm 15 tuổi, bà giúp việc cho người dì ruột giàu có ở Chợ Lớn. 3 năm sau, bà trở về Cần Giuộc may mướn nuôi mẹ. Khi mẹ qua đời, bà cùng hai người em họ lên Sài Gòn mướn một căn nhà ở Cầu Ông Lãnh mở tiệm may. Nhờ may khéo lại giữ được chữ tín với khách hàng, nên công việc làm ăn của bà khấm khá theo. Thêm vào đó, bà còn lãnh bán hàng ăn hoa hồng cho các hãng buôn các tỉnh nên bà làm giàu rất mau. Bà kết hôn với Nguyễn An Ninh, lúc này đang là chủ bút tờ La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè) vì niềm kính phục tinh thần yêu nước, tài năng và đức độ. Lập gia đình, bà bán cửa tiệm, về sinh sống tại Hóc Môn và bắt đầu giúp chồng cùng các đồng chí công tác hoạt động.(1) Bà tham gia tích cực vào công việc quốc sự của chồng, từ việc vận động tuyên truyền chống Pháp trong quần chúng cho tới việc lo tài chính cho chồng để đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền dân chủ, hay thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Trong những lúc Nguyễn An Ninh bị bắt, chính quyền Pháp dùng nhiều cách để mua chuộc, dụ dỗ để bà khuyên ông Nguyễn An Ninh thôi làm quốc sự. Bà không nghe, và trở 1. Trầm Hương (2017), “Ấn tượng áo dài: Chiếc áo dài của phu nhân ông Nguyễn An Ninh”, báo Thanh niên, ngày 8/3/2017, nguồn: https://thanhnien.vn/van-hoa/an-tuongao-dai-chiec-ao-dai-cua-phu-nhan-ong-nguyen-an-ninh-812935.html, truy cập ngày 30/12/2017. Chân dung bà Nguyễn An Ninh lúc 26 tuổi, năm 1925(1).
- 541 - thành thông tín viên đắc lực cho chống và các đồng chí trong lúc ở tù. Từ năm 1925, bà tiếp xúc với các anh em trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, Đảng Tân Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng. Nhà bà trở thành trạm để anh em liên lạc hoạt động với nhau, lại vừa là thư viện đọc sách, là chỗ nghỉ ngơi bồi dưỡng sức khỏe cho các anh em hoạt động cách mạng. Đầu năm 1934, bà lo tiền cho chồng cùng ông Nguyễn Văn Tạo ra hai tờ báo La Lutte và Trung Lập. Năm 1936, Nguyễn An Ninh tổ chức Đông Dương đại hội, bà đi vận động nhân dân thành lập các ủy ban hành động xã. Bà được cử làm Chủ tịch xã Mỹ Hòa (Hóc Môn) và nhà bà là trụ sở hội họp của cán bộ. Năm 1937, bà cùng một số chị em như Nguyễn Thị Lựu, Mai Huỳnh Hoa, Trần Thị Đầy lo kinh tế cho tờ L’ Avant Garde, tờ báo Đảng bằng tiếng Pháp đầu tiên công khai ra đời. Khi Nguyễn An Ninh bị bắt nhiều lần nữa, cho đến năm 1943 thì bị đày ra Côn Đảo và hy sinh, để lại nỗi đau thương khôn xiết. Bà tiếp tục sự nghiệp của chồng và hết lòng nuôi năm người con ăn học. Năm 1947, bà được cử làm Hội trưởng Hội Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1949, bà là Ủy viên Mặt trận Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn phụ trách tài chính và trong Đại hội phụ nữ tỉnh Rạch Giá (1949) bà được bầu vào Ban Chấp hành Hội Phụ nữ tỉnh, phụ trách cứu tế xã hội. Bà xuất sắc trong công tác xã hội, lập nhà bảo sanh, trại hài ấu nhi Nam Bộ, có lúc phụ trách việc tăng gia sản xuất cho cơ quan phụ nữ. Công việc nào tổ chức giao bà cũng đều hoàn thành. Bà được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ Nam Bộ, có lúc được giao quyền Hội trưởng Hội Phụ nữ Nam Bộ.
- 542 - Tập kết ra Bắc, bà phụ trách trại Nhi đồng miền Nam. Bà được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III, là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy viên Mặt trận Tổ quốc Trung ương. Trở về Sài Gòn, hưu trí năm 1975, bà tiếp tục công tác trong Hội Mẹ chiến sĩ. Bà mất ngày 3/12/1983(1). Hồi ký của Bà Nguyễn An Ninh viết: Năm 20 tuổi, tôi đã là cô chủ tiệm may có tiền dư dả… Trước khi về nhà chồng, tôi bán hết cửa tiệm, máy may và hàng hóa khoảng 10 ngàn đồng, một số vàng và hạt xoàn. Nhờ đó, tôi cũng đóng góp, giúp được ít nhiều tiền bạc cho anh Ninh và anh em khác hoạt động cách mạng. Hồi tôi mới về, vùng này còn trộm cướp nhiều lắm. Ai bán được con heo, đến tối là có cướp vào nhà khảo tiền. Nhất là đoạn Cây Gõ Đôi trên đường số một, khoảng chạng vạng tối là không ai dám đi qua. Đất đai Mỹ Hòa thời đó còn là đất rẫy đồng khô, làm ruộng rất khó, dân nghèo lắm. Những ngày mới về nhà chồng, tôi vẫn mặc áo dài nhung đen, cổ đeo mấy sợi dây chuyền, tay đeo hạt xoàn sáu ngón, chân đi hài thêu. Anh Bảy Ngang hỏi thẳng anh Ninh “tôi có phải là người của thằng phó Soái cài vào hay không? Cha chồng tôi cũng lựa lời dạy cho tôi hiểu hoàn cảnh của bà con chung quanh đời sống còn nghèo khổ. Tôi liền nghe lời cất hết tư trang mặc quần áo vải (…). Mẹ kế của anh Ninh là nông dân chất phác, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà, rỗi rãi chỉ biết chăm sóc mấy cọc trầu cau, bỏ mặc vườn tược hoang phế cỏ đầy. Thấy cách ăn mặc của tôi, lúc mới về làm dâu, bà tỏ vẻ khó chịu. Sáng, bà dậy thật 1. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 50 - 51.
- 543 - sớm, xua gà vịt kêu oang oác, suốt ngày không ngồi yên, nhưng mọi việc cơm nước thì bỏ mặc cho tôi lo. Tôi hiểu ý bà mẹ kế nên hết lòng chăm sóc cha chồng, lo chu đáo cơm nước cho cả nhà. Tôi nấu ăn khéo, thức ăn Việt Nam, Tây, Tàu tôi đều nấu được. Tôi muốn dành sự ngạc nhiên cho anh Ninh khi đi Tây về, nên tôi vừa sắp đặt việc nhà cửa trong ngoài chu đáo, vừa ra sức làm cỏ bón phân, trồng cây ăn trái trên cả tám mẫu vườn. Trong vườn, đất cát xấu, tôi đào hố rộng đến hơn một mét rồi cho đi mua rác, chở về đổ đầy, ủ thành phân, sau mới lấp đất lại để trồng xoài. Nhờ đó hơn 250 gốc xoài tôi trồng, trái sai quần là xà mặt đất. Tôi nuôi gà có lúc tới 500 con, nuôi bò, nuôi ngựa, lại còn trồng trầu, cau, ổi, mít, đủ thứ, làm suốt ngày ngoài vườn, người tôi đen xạm, hai bàn tay chai cứng. Hôm anh Ninh đi Pháp về, dân chúng đón anh và cụ Phan Châu Trinh đông lắm. Tôi cũng trà trộn trong số người đi đón, mặc quần áo dài đen, đội khăn, không trang điểm. Anh Ninh bắt tay anh em mà mắt cứ dáo dác tìm tôi, tôi phải lên tiếng “tôi đây nè”. Anh quay lại nhìn tôi ngạc nhiên, rồi như hiểu ra, anh cầm hai bàn tay tôi, rờ từng vết chai rồi hôn tới tấp lên hai bàn tay. Tôi phải nhắc khéo anh kềm chế trước chỗ đông người. Đêm ấy, anh Ninh nói chuyện với tôi rất nhiều. Anh kể về người vợ trước - cô Emilie - con nhà giàu có nhưng không cùng chí hướng với anh, anh chỉ mong cô ta chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ chớ cũng không dám mong cô đồng tình việc anh làm. Nhưng điều mong ước này cũng không thành và cuộc hôn nhân sớm gãy đổ. Còn bây giờ, sống với tôi, anh được cả hai, có tôi chăm sóc cha và làm bạn đồng hành suốt cuộc đời anh. Anh không bao giờ quên ơn tôi. Tôi chỉ im lặng rơi nước mắt…(1) 1. Cùng anh đi suốt cuộc đời (Hồi ký của bà Nguyễn An Ninh), Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
- 544 - 8. BÀ NGUYỄN THỊ THẬP Bà Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, sinh năm 1908, mất năm 1996. Bà là một nhà lãnh đạo quan trọng, có đóng góp lớn trong phong trào đấu tranh cách mạng của dân tộc nói chung và phong trào phụ nữ nói riêng. Từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam, chị cũng là phụ nữ đầu tiên được Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương Sao Vàng vào năm 1985. Sinh ra tại Mỹ Tho, trong một gia đình nông dân nghèo, đông con, mồ côi mẹ từ sớm, năm 17 tuổi, bà bị ép gả cho một người trong làng mà đôi bên gia đình đã hứa làm sui gia từ trước. Vì chữ hiếu, bà chấp nhận cuộc hôn nhân không có hạnh phúc và có một bé trai đầu lòng. Nhưng tư tưởng khao khát tự do, giải phóng được chính người cha - hội viên hội kín yêu nước “Thiên địa hội” truyền từ bé, đã ảnh hưởng đến chị, thôi thúc chị tự giải phóng cho mình. Bà ôm quần áo trở về gia đình, bước ngoặt cuộc đời của bà bắt đầu từ đấy. Trong phong trào sôi nổi của nông dân Mỹ Tho chống thuế thân, thuế tô cao tức nặng, chị đã dứt bỏ những bó buộc của nhà chồng, tham gia Nông hội xã. Với chiếc thúng rách mang theo khi đi chợ, khi đi bán nông sản nơi này qua nơi khác, bà vận động tổ chức nông dân các huyện Châu Thành, Cai Lậy vào Nông hội, làm nhiệm vụ giao thông liên lạc cho cấp ủy, diễn thuyết phát động quần chúng. Bà được kết nạp vào Đảng, tham gia hoạt động trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho. Khi thân phận bị lộ, bà thoát ly lên Sài Gòn, đi “vô sản hóa” ở hãng dầu Tếch-đa-cô, tham gia Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Tháng 4/1935, bà được bầu làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Kỳ.
- 545 - Tháng 5/1935, bị địch bắt do mật thám cài người vào nội bộ phá hoại. Bà chịu cực hình tại khám Catinat rồi Khám Lớn. Bà bị xử cùng với 30 anh em chính trị phạm khác. Ra tù, bà kết hôn với anh Lê Văn Giác - chiến sĩ cộng sản vừa ở Côn Đảo trở về. Hai vợ chồng luôn xa nhau vì công tác, vì sự săn lùng ráo riết của mật thám. Hai người có 1 đứa con gái. Bà vừa nuôi con vừa công tác, gửi con gái nhỏ cho cơ sở để tham gia hoạt động; năm 1940, khi mang thai đứa con thứ hai với anh Giác, bà bụng mang dạ chửa vẫn ngày đêm lặn lội đi hết thôn này qua thôn khác trong nỗi nhớ con da diết. Khởi nghĩa Nam Kỳ bà được phân công trong Ban Chỉ huy, theo dõi cánh quân đánh đồn Tam Điệp. Gần ngày sinh, bà lấy khăn rằn nịt chặt bụng, chỉ huy đánh đồn xông xáo như con gái. Con sinh được 8 ngày thì bà nhận được tin chồng hy sinh. Giặc lại truy lùng ráo riết, treo thưởng lớn nếu ai bắt được Mười Thập. Bà dứt ruột gửi con trai mấy ngày tuổi cho bà nội. Để tìm ra bà, địch lại săn đuổi đứa bé. Con bà được một nông dân nghèo cưu mang(1). Bị kẻ thù truy nã, niêm yết kèm nhiều tiền thưởng cho ai bắt được bà, nhưng bà đã được cán bộ, nhân dân Mỹ Tho và Nam Bộ yêu thương, che chở an toàn. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, bà tiếp tục hoạt động, gầy dựng lại cơ sở cách mạng ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cuối năm 1944, bà cùng với nhiều cán bộ trong tỉnh Mỹ Tho và các tỉnh bạn xúc tiến việc khôi phục lại Tỉnh ủy Mỹ Tho và Xứ ủy Nam Kỳ. Đầu tháng 8/1945, bà được cử ra khu căn cứ Tân Trào (Tuyên Quang) dự Đại hội Quốc dân, nhưng đường sá xa xôi trắc trở nên khi ra tới thì Đại hội đã kết thúc và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành được thắng 1. Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam, tr. 89.
- 546 - lợi. Bà trở lại thủ đô gặp Trung ương Đảng và được Tổng Bí thư Trường Chinh giao trọng trách cùng với phái viên Trung ương tiến hành việc thống nhất Đảng bộ Nam Bộ. Cuối tháng 8/1945, bà về đến Mỹ Tho, thực hiện thành công nhiệm vụ Đảng giao phó. Bà Nguyễn Thị Thập trở thành đại biểu Quốc hội tỉnh Mỹ Tho trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6/1/1946, được dự cuộc họp Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1947 đến năm 1952 bà là Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ. Với nhiều phong trào cứu quốc, phụ nữ Nam Bộ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1953, bà Nguyễn Thị Thập được Trung ương điều ra Việt Bắc. Sau khi Hiệp định Genève (ngày 20/7/1954) được ký kết, chị được cử vào miền Nam phổ biến việc thi hành Hiệp định đình chiến. Năm 1954, sau bao năm xa cách, mẹ con bà mới được đoàn tụ bên nhau. Chỉ một thời gian ngắn, tháng 5/1954, người con trai lớn của bà đã hy sinh trong một trận càn của địch. Người con trai thứ hai học tập ở Cộng hòa Dân chủ Đức, tốt nghiệp về nước, xin vào chiến đấu tại chiến trường Đông Nam Bộ và cũng đã anh dũng ngã xuống. Bà đã biến đau thương thành sức mạnh, tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1955, chị tập kết ra miền Bắc, được bầu làm Hội trưởng rồi Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ kiêm Trưởng Ban Phụ vận Trung ương. Bà cùng với tập thể lãnh đạo của Trung ương Hội đề ra nhiều chủ trương rất sáng tạo, dấy lên nhiều phong trào thi đua sôi nổi của phụ nữ cả nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam.
- 547 - Bà là người giữ cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong thời gian dài nhất (1956 - 1974). Ghi công ơn người nữ chiến sĩ cách mạng anh hùng, hiện nay, tên bà được đặt cho các đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Mỹ Tho và một số thành phố khác. 9. NỮ KIỆT MIỀN ĐÔNG HỒ THỊ BI Nữ kiệt miền Đông Hồ Thị Bi (tức Năm Bi) là một nữ chỉ huy quân sự lừng danh trong chiến tranh Đông Dương, từng được người đương thời gọi bằng nhiều biệt danh: Nữ kiệt miền Đông, Madame 131, Chị Năm hậu phương, Bà Năm chính sách. Bà cùng với nữ tướng Nguyễn Thị Định được xem là 2 nữ chỉ huy quân sự tiêu biểu của miền Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Bà được Nhà nước Việt Nam phong hàm Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Bà tên thật là Hồ Thị Hoa, sinh năm 1916 trong một gia đình nghèo tại làng Tân Hiệp, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày và tháng sinh của bà không rõ. Theo truyền thống Nam Bộ, do bà là người con thứ 4 trong gia đình và có tên thân mật là Bi, nên bà còn có tên là Năm Bi. Cha bà mất sớm, đến năm bà lên 6 tuổi thì mẹ cũng ngã bệnh nặng. Bà phải phụ giúp bán chè trôi nước để sinh kế. Năm lên 10 tuổi, bà phải đi ở đợ để kiếm thêm tiền nuôi mẹ, nuôi em. Do hoàn cảnh gia đình, từ nhỏ bà đã không được học hành. Cố gắng làm lụng và tiết kiệm, bà dành dụm được một số tiền để thoát khỏi thân phận ở đợ và làm nghề bán chè ở chợ Hóc Môn.
- 548 - Trong hồi ký của mình, bà Năm Bi đã viết về thân phận người phụ nữ nghèo, trước khi có ánh sáng của Đảng soi đường: “Gia đình và tôi nằm trong nhóm người bần cùng tận đáy xã hội. Lên sáu tuổi, tôi đã mồ côi cha, mẹ góa bụa một nách nuôi ba con, nhà không có một tấc đất để sinh sống. Chẳng biết phải dựa vào đâu, phải xin phép họ tộc từ xã Xuân Thới Thượng, quê nội, dìu dắt chị em tôi về quê ngoại, xã Tân Hiệp, quận Hóc Môn, nhà ông ngoại, để nương náu qua ngày. Mẹ bán bánh và chè trôi nước để nuôi chị em tôi. Hôm nào có ai mướn, mẹ còn đi xay bột kiếm thêm chút đỉnh tiền. Những hôm ấy có thể được tất cả là 10 xu, không đủ cho mấy mẹ con sống. Chỉ có cơm thôi, mà cũng chẳng no bụng. Khi tôi lên 9, chị tôi đi lấy chồng. Tưởng bớt được một miệng ăn thì đỡ, nhưng thật ra lại càng chật vật, vì sức mẹ yếu chẳng làm ra tiền. Mẹ buồn lắm, nhưng phải đành để tôi đi ở mướn cho một gia đình người Hoa kiều, mỗi năm bốn đồng công. Mẹ nói: Má không muốn rời con, không muốn con làm thân đợ đần cực khổ. Nhưng làm vậy, dầu sao con cũng được miếng cơm tấm áo lành lặn hơn. Còn má, má được 4 đồng bạc làm vốn, má tráng bánh tráng nuôi em con… Mẹ dắt tôi vào nhà chủ vào một buổi sáng tốt ngày. Trước mặt mẹ, chủ bảo mướn tôi giữ em, nhưng khi mẹ về, bắt tôi đội dưa hấu và rau câu chạy theo bán ở các bến xe Tây Ninh, Hốc Môn… Tôi chịu ở mướn hai năm với tám đồng bạc, nhận được tiền, mẹ dựng túp nhà con con, đóng bàn thờ ba, ngoài ra còn vài đồng làm vốn. Khi mãn hạn trở về, tôi đã 11 tuổi. Lúc này, tôi đi hốt phân trâu để bán cho người ta trồng rau. Ngoài việc ấy, tôi còn đi xay bột đỡ cho mẹ, để mẹ ngồi tráng bánh.