- 449 - Từ tháng 10/1954, tổ chức cách mạng ở Nam Bộ và các khu cử một số cán bộ văn hóa, văn nghệ về Sài Gòn hoạt động, gồm ký giả kịch trường, soạn giả cải lương, nhà văn, nhà thơ. Lực lượng tăng cường từ chiến khu phối hợp với lực lượng tại nội thành, trong đó có nữ soạn giả Nhị Kiều (tên thật là Quản Thị Minh Nguyệt (1921 - 2010), quê Bến Tre), đã thay đổi tính chất của cải lương Sài Gòn: các soạn giả sáng tác theo chủ trương của cách mạng: dân tộc, lành mạnh, tiến bộ, yêu nước, chống ngoại xâm (sau bổ sung thêm nội dung chống gia đình trị), bảo vệ hòa bình, tiến tới thống nhất Bắc Nam. Các vở diễn có hình thức dã sử, xã hội, mượn tích nước ngoài, đã thu hút khán giả đến cổ vũ hàng đêm. Chính quyền Sài Gòn triệu tập soạn giả, buộc họ phải viết tuồng tích có nội dung chống cách mạng, kêu gọi người dân ủng hộ đánh phá miền Bắc; cấm diễn và khủng bố đoàn hát. Các nghệ sĩ đã rất dũng cảm duy trì đoàn, chuyển sang hình thức lưu diễn để giữ cho sân khấu được sáng đèn, đổi lại, họ cũng phải chịu những hy sinh. Đầu năm 1955, nữ nghệ sĩ Bích Thuận, em dâu của Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Bộ Công dân vụ Việt Nam Cộng hòa lúc đó, chọn vở “Ngưu Lang Chức Nữ” (tác giả Hoài Linh, tức Trương Bỉnh Tòng, hợp soạn cùng Kiên Giang, tức Hà Huy Hà) làm tác phẩm khai trương gánh cải lương mang tên mình. Trong vở hát có đoạn đàn quạ đen bắc cầu Ô Thước nối hai bờ sông Ngân cho đôi tình nhân tái hợp, khơi gợi ước vọng thống nhất đất nước. Khán giả đến xem rất đông trong nhiều đêm diễn. Ngô Trọng Hiếu liền gọi vợ chồng em trai đến cảnh cáo, bắt phải thôi diễn vì đây là vở hát của “cộng
- 450 - sản” kích động đòi Hiệp thương tổng tuyển cử. Nghệ sĩ Bích Thuận tìm cách tính toán đưa đoàn đi diễn ở các tỉnh, thậm chí ở Campuchia, nhưng sau đó cũng bị ngưng hoàn toàn. Số phận của đoàn Bích Thuận và vở “Ngưu Lang Chức Nữ” vẫn là may mắn. Đêm 19/12/1955, khi đoàn Kim Thoa của cô Năm Kim Thoa đang diễn khai trương vở “Lấp sông Gianh” tại rạp Nguyễn Văn Hảo, đường Trần Hưng Đạo (nay là Nhà hát kịch Thành phố), thì một trái lựu đạn nổ giữa sân khấu. Nữ nghệ sĩ Thiên Kim là đào chính bị thương và phải từ bỏ nghiệp diễn. Một anh công nhân sân khấu, ký giả Nguyễn Mai và nghệ sĩ Ba Cương hy sinh tại chỗ. Chính quyền Sài Gòn lo sợ việc xảy ra trên sân khấu: lấp dòng “sông Gianh” chia cắt đất nước thành hai miền trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, sẽ châm ngòi cho dư luận đòi thống nhất nên đã ra tay(1). Ngày 7/8/1966, ngay tại Tòa Đô chính Sài Gòn, giới văn nghệ sĩ đã tổ chức Đại hội ra mắt Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc. Đây là mặt trận công khai do Ban Trí vận, Ban Tuyên huấn Khu ủy khu Sài Gòn - Gia Định phối hợp với Đảng ủy Văn hóa tổ chức. Tham dự đại hội, bên cạnh những tên tuổi nam nghệ sĩ - trí thức như: nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà văn Vi Huyền Đắc, nhà văn Thiên Giang, nhà văn Bình Nguyên Lộc, soạn giả Thu An, ký giả Kỳ Ninh, luật gia Bùi Chánh Thời…, thì các nữ nghệ sĩ cũng có mặt. Nhà giáo Phan Thị Của - Hội trưởng Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ 1. Mai Quân (nguyên Đảng ủy viên Đảng ủy Văn hóa khu Sàu Gòn - Gia Định), “Sân khấu Sài Gòn những năm sau Hiệp định Genève: Trào lưu tuồng tích tiến bộ”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc (1954 - 1975), tập 1, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Thông tin & Truyền thông, 2013, tr. 110 - 112.
- 451 - nữ cùng bà Nguyễn Thị Thơ - với tư cách Giám đốc đoàn cải lương Thanh Minh - Thanh Nga - là những đại diện cho phía nghệ sĩ - trí thức nữ(1) trong một hoạt động thể hiện vai trò và quyết tâm của giới văn nghệ sĩ đối với việc giữ gìn văn hóa dân tộc. Năm 1971, giải Văn Bút dành cho bộ môn Sân khấu đã được trao cho vở “Bức tranh lõa thể” của tác giả Kim Chi (bút danh của “kỳ nữ” sân khấu Kim Cương). Nhà văn Vũ Hạnh - cơ sở nội thành của ta - là người vận động trao giải cho tác phẩm vì “vở này có nội dung chống đối sự đồi trụy văn hóa trong văn học nghệ thuật… và qua sự vận động ấy việc trao giải sẽ làm cho cô Kim Cương thêm cảm tình với lực lượng cách mạng”(2). Quả thực, nghệ sĩ Kim Cương đã theo lương tri dân tộc, lựa chọn ở lại trong nước và tiếp tục con đường nghệ thuật thay vì di tản ra ngoại quốc sau năm 1975. Những đĩa nhạc cách mạng đầu tiên ở miền Nam sau thống nhất cũng có phần đóng góp của nghệ sĩ Kim Cương trong quá trình ghi âm và phát hành. Trong giới học sinh, sinh viên, lời ca tiếng hát được sử dụng làm vũ khí lợi hại chống kẻ địch, đủ sức lan tỏa và phát huy thế mạnh ham mê văn nghệ của các anh chị em. Ban đầu, phong trào hát dân ca, sử ca, kháng chiến ca manh nha trong cộng đồng học sinh sinh viên một cách tự phát, để phản ứng lại chủ trương du nhập những trào lưu văn nghệ ngoại lai 1. Lê Tùng Lâm, “Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc ở miền Nam Việt Nam (1965 - 1968)”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 319. 2. Vũ Hạnh, “Một chặng đường bút mực”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc (1954 - 1975), tập 1, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 105.
- 452 - hòng bôi xóa ấn tượng chiến tranh, làm người dân quên đi thực tại đất nước. Nhận thấy các ca khúc sẵn có chưa đủ quyết liệt để tấn công trực diện, Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã ra Nghị quyết khẳng định tính chất đấu tranh và chủ trương phát triển phong trào văn nghệ học sinh sinh viên. Theo tinh thần của Nghị quyết, ngày 15/5/1965, Đoàn Văn nghệ học sinh sinh viên Sài Gòn được thành lập. Các anh chị Dương Văn Đầy, Trương Thìn, Hồ Hữu Nhựt, Trần Thiện Tứ, Tuyết Ngọc, Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh, Nguyễn Văn Sanh, Quỳnh Như, Trần Xuân Tiến đã lần lượt lãnh đạo đoàn(1). Đoàn có biên đạo, nhạc sĩ, vũ công, ca sĩ,… đều là học sinh sinh viên. Tết Mậu Thân năm 1968, đoàn lưu diễn qua các trường Y khoa, Văn khoa, Sư phạm, Đại học Khoa học,… từ 20 tháng Chạp âm lịch. Đến ngày 26 tháng Chạp, đoàn mời các đoàn văn nghệ Bừng Sáng, ban đồng ca của học sinh Cao Thắng, và các đoàn bạn từ các tỉnh lân cận tổ chức Đại hội văn nghệ Tết Quang Trung, tại sân Học viện Quốc gia Hành chánh. Hàng vạn đồng bào đã tới dự. Các chị em diễn viên đã trình diễn những tiết mục làm nức lòng người như: Dòng sông hát (múa), Vũ khúc ải Chi Lăng,… Đêm diễn khép lại với hoạt cảnh Tiếng trống hào hùng do anh Tùng Linh biên soạn trên nền nhạc Hội nghị Diên Hồng của Lưu Hữu Phước. Trong không khí thúc giục tiếng trống trận và lời hát của diễn viên: “Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến?”, toàn thể khán giả đã hô vang: “Quyết chiến!”. Cảnh sát ập vào, chương trình kết thúc, nhưng khí thế của buổi biểu 1. Tôn Thất Lập, Nguyễn Phú Yên, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 371.
- 453 - diễn đã khởi dậy tinh thần của mỗi người, góp phần chuẩn bị tâm lý cho cuộc tiến công lịch sử năm Mậu Thân 1968(1). Từ năm 1970, trong các đoàn văn nghệ thành lập tại các trường đại học, nhiều chị em đã được phân công giữ vai trò dẫn dắt. Cùng với các anh Trần Long Ẩn - Trưởng đoàn văn nghệ sinh viên Văn khoa, anh Trương Quốc Khánh - phụ trách đoàn văn nghệ thanh niên sinh viên phật tử, nữ học sinh sinh viên Sài Gòn có chị Kim Hạnh làm Trưởng đoàn văn nghệ sinh viên Vạn Hạnh; chị Mười, chị Hiếu, chị Quỳnh phụ trách đoàn văn nghệ thiếu nhi Cờ Lau(2). Phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” chính thức ra mắt trong đêm văn nghệ vì hòa bình tổ chức tại trường Nông Lâm Súc (27/12/1969), đến năm 1972 đã lan rộng đến nhiều đô thị: Huế, Đà Lạt, Phan Thiết, Đà Nẵng, Cần Thơ, An Giang, Quy Nhơn,… ; gây ảnh hưởng trong giới thanh niên tiến bộ tại Pháp, Tây Đức, Canada, Nhật, Bỉ, Úc, Thụy Sĩ, Mỹ,… Trong khi các nhạc sĩ, biên đạo chủ yếu là nam, thì phái nữ Sài Gòn nổi danh với các giọng ca “vàng”: Thúy Liên, Mỹ Chinh, Kim Phương, Phùng Thị Thương, Mỹ Thành, Kiều Liên, Tường Lan, Thiên Hương,…(3) Cùng với anh em, chị em học sinh sinh viên đã truyền đi những lời ca tiếng hát mang khát vọng hòa bình, tranh đấu công khai với kẻ địch, góp phần tác động đến dư luận quốc tế. 1. Trần Tuyết Hoa, “Tiếng gọi Tết Quang Trung”, báo Tuổi Trẻ online, ngày 27/1/2008, nguồn: https://tuoitre.vn/tieng-goi-tet-quang-trung-240699.htm, truy cập ngày 23/12/2017. 2. Tôn Thất Lập, Nguyễn Phú Yên, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 373. 3. Tôn Thất Lập, Nguyễn Phú Yên, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 374 - 375.
- 454 - Báo Le Monde của Pháp, số ra ngày 11/2/1972, đăng bài viết của Mireille Gansel - nữ giáo sư ngôn ngữ và văn chương tại Đại học Vincennes và Lyon - trong đó có đoạn về phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”: “Vừa mới viết ra, vừa mới xướng lên nó đã được truyền đi từ miệng người này đến miệng người khác. Nó nảy nở giữa gọng kềm siết chặt, nơi mà mỗi cử chỉ, mỗi lời nói là một vấn đề sống chết. Những lời hát cất lên giữa những dùi cui, đàn áp lặp lại giữa những chiếc xe bọc thép, rồi vang lên ở góc phố, nơi mà những anh chị sinh viên bị đuổi bắt. Nó đã đánh thức lương tâm của tuổi trẻ và lòng nhiệt thành của họ. Tất cả cơ đồ của “lối sống Mỹ” đã bất lực, không thể bóp nghẹt tiếng nói của một thế hệ trẻ sinh ra dưới những trận bom và chưa bao giờ họ được biết gương mặt của hòa bình”(1). Một bộ phận nghệ sĩ không chỉ thể hiện cảm tình cách mạng bằng lời ca tiếng hát ở đô thành, mà còn bỏ sân khấu rực rỡ đèn hoa xuống “bưng biền”, phục vụ chiến sĩ và đồng bào trong chiến đấu. Đoàn Văn công I4 (đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) được thành lập giữa năm 1960 và hoạt động cho đến ngày đất nước thống nhất, với những diễn viên ban đầu là quần chúng từ các địa phương ta mới giành quyền kiểm soát. Sau này, nhiều nghệ sĩ từ nội thành đã thoát ly, gia nhập Đoàn. Đó là nữ vũ công Tám Hằng từ Ban Văn nghệ Hội Phụ nữ của bà Bút Trà, đào chính lừng lẫy Mỹ Ngọc (sau đổi tên thành Cẩm Vân) của đoàn Thúy Loan - Mỹ Ngọc, đào chính Ngọc Hoa (trong bộ đôi vọng cổ Thanh Hùng - Ngọc 1. Tôn Thất Lập, Nguyễn Phú Yên, “Hát cho đồng bào tôi nghe”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 383.
- 455 - Hoa) của đoàn Ngọc Hoa(1)… Lời ca tiếng hát của các chị và đồng đội vang lên dưới hầm, bị ngắt quãng vì bom đạn, nhưng hùng hồn đối chọi với những bài hát chiêu hồi trên sóng phát thanh Sài Gòn thời ấy. Đoàn Văn công I4 không chỉ phục vụ tại vùng ven thành phố, mà còn rong ruổi khắp miền Đông trong những năm 1960 - 1970, với những tiết mục nổi tiếng như Tiếng khóc bên bờ rào ấp chiến lược, Rừng cao su nhuộm máu, Dậy sóng (cải lương), Chuông Lôi (ca vũ kịch), Cánh chim quê hương (múa), Củ Chi đất lửa hoa hồng (ca khúc)… Tối 30/4/1975, Đoàn đã có mặt tại Sài Gòn, biểu diễn cho đồng bào thành phố nghe với tư cách quân giải phóng(2). Những đóng góp của phụ nữ Sài Gòn trong cuộc chiến chống Mỹ đã được Hồ Chí Minh ghi nhận và tuyên dương: “Miền Nam anh hùng có đội quân đấu tranh chính trị gồm hàng vạn chiến sĩ toàn là phụ nữ. Họ rất mưu trí, làm cho địch phải khiếp sợ và gọi họ là đội quân tóc dài”(3). e. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Trên mặt trận chính trị, để chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, chị em phụ nữ đã tham gia phát truyền đơn, tuyên truyền về lý tưởng cách mạng. Trong suốt 2 tuần trước cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, Ban Phụ vận(4) đã tham gia cùng các đơn vị khác phân phát 30.000 truyền đơn, 3.500 thư chúc Tết của Bác Hồ cho bà con 1. Mai Quân, “Đường ra chiến khu của nhiều đồng chí diễn viên, nghệ sĩ Đoàn Văn công Giải phóng I4”, in trong sách: Nhiều tác giả (2005), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Sđd, tr. 495. 2. Phan Thị Rưng (Hồng Nhung), trong sách: Nhiều tác giả (2005), Hồi ký căn cứ kháng chiến khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 1945 - 1975, tập 2, Sđd, tr. 214. 3. Ngày 19/10/1966, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Hiện vật trưng bày (tranh). 4. Năm 1955, Ban Phụ vận được Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thành lập với nhiệm vụ dẫn dắt phong trào đấu tranh của phụ nữ khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đòi thi hành Hiệp định Genève, bảo vệ quyền dân sinh, dân chủ cho phụ nữ các giới.
- 456 - nhân dân ở các quận, các chợ nội thành Sài Gòn. Sáng mồng 2 Tết Mậu Thân, tại xóm Lò Gốm, chị Dư Huệ Liên, nữ cán bộ người Hoa, phụ trách công vận, Phó Chủ tịch phân bộ nghiệp đoàn hãng dệt Vimytex đã kêu gọi đồng bào cùng nổi dậy, tham gia chiến đấu chống Mỹ thống nhất đất nước; hơn 300 người đã tham gia hưởng ứng(5). Đêm 5/5/1968, trước đợt 2 Mậu Thân, chị Quách Lan Anh và 2 đồng đội nữ khác thuộc tổ vũ trang tuyên truyền cánh Hoa vận đã căng dải băng dài ngang đường lộ: “Hoan hô quân giải phóng miền Nam”, sơn cờ, rải truyền đơn, rồi rút êm trước tuần tra, làm nức lòng nhân dân vùng Đèn 5 ngọn, Chợ Lớn(6). Trên mặt trận binh vận và xây dựng căn cứ cách mạng, năm 1968, chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, phong trào “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” được phát động khắp nơi, phụ nữ nhận nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững chắc cho tiền tuyến với các công việc như thu mua, quyên góp, bố trí, di chuyển lương thực, thuốc men; đồng thời, các cán bộ, chiến sĩ và cơ sở cách mạng bố trí lực lượng nằm vùng, hội họp trong lòng Sài Gòn - Gia Định. Ban Phụ vận Thành ủy đã cài cán bộ vào sinh sống ở các địa phương để xây dựng cơ sở, như đưa chị Lê Thị Huệ (tức Chín Trang) vào Quận 6, chị Đỗ Thị Vịnh (tức Hai Thảo) vào Quận 1, chị Bảy Nghĩa vào Quận 5, chị Nguyễn Thị Minh (tức Ba Hà) vào Bà Chiểu. Các chị đã thuyết phục được đồng bào ở địa phương ủng hộ cho cuộc tấn công Mậu Thân 1968. Mỗi cơ sở, các chị đã vận động được 10 đến 20 gia 5. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2015), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb. Chính trị quốc gia, phụ lục “Phụ nữ Nam Bộ đấu tranh chống Mỹ - ngụy 1954 - 1975” từ trang 480. 6. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 203.
- 457 - đình sẵn sàng trở thành nơi nuôi giấu lực lượng; bảo quản súng ống, đạn dược; đóng góp lương thực, thực phẩm, thuốc men,… để ủng hộ cách mạng. Những căn cứ này được gọi là “lõm chính trị”. Một số căn cứ tiêu biểu như: xóm Chợ Thiếc; Lò Gạch, Lò Gốm, Lò Siêu, cây Da Xà (Quận 6); Bà Cờ, Vườn Chuối, Hòa Hưng, Chợ Đũi (Quận 3); Hàng Xanh, Cầu Băng Ky, Đồng Ông Cộ (tức Bà Chiểu); Ngã Bảy, Vườn Lài (Quận 10); Xóm Chùa (Quận 1),… Dưới sự lùng sục của quân đội Mỹ - Thiệu, sự chở che của các mẹ, các chị ở địa phương là điều kiện quan trọng để giữ vững cơ sở cách mạng. Chị Chín Rớt ở phường Chánh Hưng, Quận 8, không chỉ lo cơm nước, canh gác cho các cuộc họp của cách mạng ở trong nhà mình mà còn kiên quyết không khai báo khi bị chính quyền Sài Gòn bắt, tra tấn đến nỗi chị bị sảy thai. Mẹ Trần Thị Ba (Hai Già, Quận 4) vận chuyển công khai tủ đứng 2 đáy, bên trong có 4 súng AK, 4 súng K54, 1.000 viên đạn từ căn cứ Thành ủy ở Bến Tre, qua các trạm gác về đến các lõm căn cứ nội thành an toàn. Chị Nguyễn Thị Chánh (Tám Chánh) tổ chức 14 nữ giao liên và lực lượng hỗ trợ vận chuyển 2 ghe vũ khí và tài liệu mật đến các đầu mối tại nội đô, tất cả đều trót lọt cập bến vào chiều 28 Tết(1). Các mẹ, các chị vùng giải phóng T4(2) ở Sài Gòn - Chợ Lớn, vùng Củ Chi đã quyên góp, tích trữ, chuyên chở và giao 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 179 - 180. 2. Vùng giải phóng T4: T4 là mật danh của quân khu Sài Gòn - Gia Định, thành lập năm 1961 trên cơ sở đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn thời chống Pháp; gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, các khu vực ngoại thành như Bình Tân, Tân Bình, Bà Chiểu, Tân Định, Dĩ An, Gò Vấp, Hóc Môn, Củ Chi. Từ tháng 6 năm 1969 đến đầu năm 1970, cơ quan lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây - Bến Tre, vùng mới giải phóng; thành lập căn cứ kháng chiến và xây dựng chỗ làm việc của lãnh đạo khu ủy.
- 458 - cho quân cách mạng lượng lương thực, thực phẩm, thuốc men theo nhu cầu. Trong đó, nổi bật là má Nguyễn Thị Rành (Tám Rành). Má đã đi gom gạo, quần áo, thuốc men từ các thành viên trong Hội Mẹ chiến sĩ ấp Phước Hòa, xã Phước Hiệp; sau đó chất lên 10 chiếc xe bò; hướng dẫn người chở ra tiền tuyến an toàn. Bà con xã An Phú Đông, Hóc Môn lấy cớ Tết đến, gói bánh tét nuôi giấu Trung đoàn Quyết Thắng đang ém quân ở ấp 3, ấp 5 của xã. Đội 25 du kích nữ Tân Xuân do chị Lê Thị Hà làm Đội trưởng, đã đào 25 hầm công sự chiến đấu chỉ trong một đêm. Trung đội nữ du kích Củ Chi cử 3 chị Nguyễn Thị Nê, Trần Thị Nho, Nguyễn Thị Dung tăng cường vào tổ công tác của đồng chí Ba Luân. Các chị và anh em đã di chuyển lên vành đai căn cứ Đồng Dù, đào địa đạo áp sát căn cứ địch. Chỉ trong 3 ngày giáp Tết, các hội viên phụ nữ đã quyên góp 1 triệu 600 ngàn đồng ủng hộ cách mạng(1). Ngay trước mắt quân thù, má Trần Thị Trọng đã giấu đơn vị biệt động F100 tại nhà, sát hàng rào sân bay Tân Sơn Nhất. Con của má, liệt sĩ Bành Văn Trân cũng tham gia trận đánh vào sân bay này. Lợi dụng địa hình Quận 8 chằng chịt kênh rạch, chị Chín Rớt, dì Chín Vườn lấy nhà mình làm địa điểm họp của các cán bộ cách mạng(2). Tháng 2/1968, sau khi mở màn trận Mậu Thân, quân giải phóng làm chủ một khu vực thuộc Quận 6. Các má đã lập ngay một nhà bếp ngoài trời, liên tục nấu nướng để tiếp sức 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 171 - 177. 2. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 176.
- 459 - cho anh em chiến sĩ(1). Chị Tư Xi ở Thạnh Lộc đã thuyết phục trưởng ấp cho mượn xe lam suốt một tháng trời để chở gạo ra ngoài nuôi Trung đoàn Quyết Thắng. Chị Tư Đại ở thị trấn Hóc Môn tập hợp chị em may quần áo cho chiến sĩ và may cờ mặt trận. Má Huỳnh Thị Như ở Quận 8 thì góp cả bầy vịt 200 con của mình cho mặt trận nuôi quân. Trong cuộc nổi dậy Mậu Thân 1968, chị em Sài Gòn - Gia Định còn tham gia dẫn đường, ủng hộ bộ đội dọc đường hành quân vào nội thành; tiêu biểu như gia đình chị Liễu Anh ở số 103/6 đường Phó Cơ Điều, má Thái Thị Sen ở chợ Thiếc,… Trong trận đánh vào khu vực đường ray xe lửa Phú Nhuận - Gò Vấp, 6 anh bộ đội thuộc Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 Quyết Thắng đã bị lạc đường. Má Huỳnh Thị Hay ở số nhà 328/41 đường Phan Văn Trị đã che giấu các anh ngay trong nhà, suốt 20 ngày; sau đó dàn cảnh mở tiệc ở nhà, xem các anh là khách đến dự rồi tiễn các anh về đơn vị. Cuộc đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn không chỉ mang tinh thần quân giải phóng, mà còn đánh động lòng yêu nước, lôi cuốn những người ở “phía bên kia” tỏ thái độ với nhà cầm quyền: Giáo sư Bùi Tuyết Hồng tuy không đứng hẳn về phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhưng đã thay đổi lập trường, chống Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu(2). Bà con khu tứ giác Vườn Lài đã nhất loạt nổi dậy hưởng ứng cuộc tiến công trong những ngày Tết, treo cờ, góp lương thực, đào công sự hỗ trợ bộ đội. Khi chính quyền Sài Gòn phản 1. Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) (2016), Biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 30 năm giải phóng (1945 - 1975), Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 70. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, tr. 601.
- 460 - kích ráo riết bằng pháo, đạn cối và xe tăng, bà con đã theo sự lãnh đạo của chi bộ cơ sở, gom dọn đồ đạc dắt nhau tản cư. Các má, các chị chống cảnh sát khám xét, căm phẫn mắng chửi quân tàn bạo, buộc địch phải mở vòng vây. Lợi dụng sơ hở, bộ đội di chuyển sang khu vực chợ Chuồng Bò, tiếp tục phối hợp chiến đấu cùng anh em khác đến ngày mùng 9 Tết mới rút đi. Phụ nữ Quận 7, Quận 8 kêu gọi binh lính Sài Gòn buông súng hỗ trợ bộ đội; vận động thanh niên tại chỗ đứng về phía cách mạng, cùng chiến đấu và thoát ly theo kháng chiến. Dì Lê Thị Lờ ở đường Phan Văn Trị, dì Trần Thị Lạng ở Phường 10 (Bà Chiểu) và gia đình, chị Phạm Thị Duyên ở Tam Bình, Thủ Đức đã băng bó, đưa quần áo cho thương binh cải trang, vẽ sơ đồ hướng dẫn rút lui. Nhà bà Năm Huê, bà Chín Sao, bà Tâm, bà Kim ở Phường 15 cũng trở thành trạm cứu thương. Chị Năm Lớn, chị Năm Điểu ở xã Phước Long, Thủ Đức và các vị sư chùa Gò tổ chức trạm xá, chôn cất chiến sĩ hy sinh, đưa trên 100 đồng chí từ chiến trường về hậu cứ. Ở hướng Phú Định, các chị tải thương bằng ghe, bằng cách khiêng bộ(1). Huyện Củ Chi phát động toàn dân nuôi thương binh, nhà nhà đào hầm nuôi giấu bộ đội, có nhà nuôi đến 3 - 5 thương binh, xã Bình Mỹ giấu 3.000 thương binh, xã Nhuận Đức nhận trên 700 anh em. Thương binh về đến hậu cứ là chị em cơ sở tiếp tục chăm sóc, thuốc men, vận chuyển những trường hợp nặng lên tuyến trên chữa trị. Trạm xá quân y vùng “Tam giác sắt” (Củ Chi - Bến Cát - Dầu Tiếng) có 100% y tá và 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 196 - 205.
- 461 - hộ lý là nữ, vừa đảm bảo chuyên môn, vừa tải lương, chuyển tuyến cho thương binh. Trung đội phó Võ Thị Huynh, y tá, kể: “Khiêng cáng thương binh về tuyến trên, phải đi 2, 3 ngày mới nghỉ (…) trung bình mỗi ngày khiêng từ 10 - 12 tiếng, từ 4h sáng đến 6h tối, có đêm đi liên miên không nghỉ (…) có hôm lạc đường phải khiêng từ 15 - 17 tiếng liền”(1)… Phục vụ tổng tiến công mùa Xuân Mậu Thân 1968, chị em phụ nữ ở địa phương đã tham gia và trở thành nòng cốt trong các đoàn dân công hỏa tuyến với nhiệm vụ chủ yếu là tải đạn, cáng thương, phá rào ấp chiến lược, đào đường, phá cầu, đào công sự. Họ không phải là chiến sĩ trực tiếp chiến đấu nhưng công việc của họ có ý nghĩa quan trọng đối với tiền tuyến, và họ cũng sẵn sàng hy sinh trên đường thực hiện nhiệm vụ. Hình ảnh của họ được lưu lại không phải với súng quàng vai, lựu đạn thắt lưng; mà đơn giản chỉ là người phụ nữ trong chiếc áo bà ba đen, khăn rằn, võng quấn quanh người. Tiêu biểu cho sự đóng góp thầm lặng và hy sinh anh dũng của các nữ dân công hỏa tuyến là đơn vị dân công xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh. Đêm 15/6/1968 (tức 20 tháng 5 năm Mậu Thân, theo âm lịch), đoàn dân công gồm 55 người tập trung ở ngã tư Tân Hòa 1 nhận nhiệm vụ chuyển hai thương binh Sư đoàn 9 từ góc bưng Láng Cát về Bình Thủy (Long An), sau đó thì tải đạn về Sài Gòn. Khoảng 22 giờ 30 phút, đoàn xuất phát, men theo bờ kênh Đìa Dứa, nước ngập đến bụng. Khi đến góc bưng kênh Láng Cát thì bị máy bay Mỹ - Thiệu phát hiện, xả đạn suốt một tiếng đồng hồ. Trận oanh 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 222 - 224.
- 462 - kích này khiến 32 người hy sinh, trong đó có 16 nữ dân công ở xã Vĩnh Lộc(1). Họ đều còn rất trẻ, chỉ trong độ tuổi 15 đến 30. Người dân trong xóm đã huy động 8 chiếc xe bò để đưa thi thể các chị dân công về chôn cất. Chuẩn bị cho các cuộc tấn công ở nội thành vào Tết Mậu Thân, chị em tham gia vào lực lượng chuyển vũ khí từ các tỉnh, ngoại thành vào các cơ sở nội thành. Hai trong số các nữ giao liên chuyển vũ khí lúc bấy giờ là chị Ngô Thị Cẩm Hương (tức Sáu Hồng), chị Ngô Phạm Cẩm Tiên (tức Chín Nghĩa) đóng giả làm người đi tản cư, đi buôn trái cây, làm cầu nối giữa các căn cứ ở Tiền Giang với Sài Gòn(2)… Nhờ đó, một lượng lớn súng đạn, chất nổ đã được vận chuyển an toàn đến các cơ sở ở Quận 3. Trên mặt trận vũ trang, một trong những đội quân tóc dài để lại dấu ấn rõ nét trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là Tiểu đoàn Lê Thị Riêng(3). Điều kiện tư liệu ít ỏi còn lại cho thấy bóng dáng một đội quân biệt động nữ đầu tiên và duy nhất ở Sài Gòn được thành lập năm 1968, từ đơn vị vũ trang Biệt động Thành do chị Lê Thị Riêng - Khu ủy viên Sài Gòn - Gia Định, Trưởng Ban Phụ vận thành phố - xây dựng năm 1967. Tiểu đoàn do chị Lê Thị Bạch Cát (tức Sáu Xuân) và chị Đào Thị Huyền Nga (tức Lê Hồng Quân) chỉ huy đảm 1. Ghi nhớ công lao của đội dân công, đặc biệt là các nữ dân công, Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho tập thể dân công hỏa tuyến Vĩnh Lộc, Mậu Thân 1968; Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã cho lập khu di tích Dân công hỏa tuyến xã Vĩnh Lộc ở xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh; người dân tổ chức cúng giỗ, dâng hương cho các nữ dân công vào ngày 20 tháng 5 âm lịch hàng năm. 2. Ngọc Phong, “Nghĩa tình vùng cứ”, Website Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn: Http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/24473. 3. Tư liệu về Tiểu đoàn Lê Thị Riêng tham khảo từ sách: Nhiều tác giả (2015), Tuổi trẻ Sài Gòn Mậu Thân năm 1968, Sđd, tr. 142.
- 463 - nhận nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền trên xe lam, xe buýt, các đường phố, các rạp chiếu phim, chợ Bến Thành và tham gia chiến đấu ở các cánh quân đánh vào các địa điểm trong nội thành; khu vực hoạt động chính là Quận 2, Quận 3, Quận 4 và một phần Quận 1. Đội quân này có những nữ chiến sĩ đặc biệt như chị Xuân, tốt nghiệp Khoa Hóa trường Đại học Sư phạm ở Hà Nội năm 1965, sau đó vào miền Nam chiến đấu, gia nhập vào tiểu đội. Trong đợt 2 của cuộc tổng tiến công Mậu Thân, khi tham gia tập kích ở Hẻm 83 Đề Thám, nhằm tấn công Ty Cảnh sát ở 72 Yersin, chị Hồng Quân bị thương một cánh tay. Để tiện chiến đấu, chị đã tự cắt bỏ cánh tay của mình. Trên đường rút lui thì chị bị bắt. Còn chị Bạch Cát chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, không cam lòng bị bắt, chị đã cho nổ trái lựu đạn còn lại quyết tử với quân đội chính quyền Sài Gòn. 3. Phụ nữ Sài Gòn với dấu ấn 30/4/1975 Phụ nữ là lực lượng không có nhiều chiến công quân sự có tên có tuổi lừng lẫy, nhưng là những người đấu tranh bền bỉ, bất khuất nhất. Phụ nữ Sài Gòn đã chiến đấu đến ngày đất nước thống nhất, tạo nên dấu ấn riêng của tầng lớp mình, trong thắng lợi chung của dân tộc. Lực lượng phụ nữ ở miền Nam được huy động phục vụ chiến trường trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975, vô cùng đông đảo và hùng hậu, trong đó có Sài Gòn: 200.000 phụ nữ lo công tác phục vụ chiến đấu, hơn 7.000 phụ nữ tham gia lực lượng vũ trang và bán vũ trang. Để chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng, 700 cán bộ được điều động tăng cường cho thành phố và 1.000 cán bộ cho vùng ven, trong đó đông đảo cán bộ nữ. Trung ương Hội Phụ nữ Giải phóng phân công
- 464 - cán bộ thâm nhập vào thành phố. Cánh phụ vận trung ương do chị Nguyễn Thị Thanh phụ trách, cánh phụ vận thành phố do chị Đỗ Duy Liên phụ trách, Hội Phụ nữ Giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định phân công cán bộ nữ phụ trách từng địa bàn cơ sở và lãnh đạo hội viên chuẩn bị lương thực, thực phẩm, thuốc men, tổ chức các trạm cứu thương, những điểm may cờ, vận chuyển, phân phát hàng triệu truyền đơn, vận động hàng chục nhà in có xu hướng tiến bộ sẵn sàng in tài liệu, văn kiện cách mạng khi thời cơ đến. Các cơ quan chỉ huy khởi nghĩa đặt trong các xóm lao động ở trung tâm thành phố như Bàn Cờ, Tân Định, Phú Nhuận, Thạnh Mỹ Tây, An Đông… Những hầm vũ khí mật được vận tải từ trước vào thành phố, được chị em cất giấu, bảo quản, nay cũng sẵn sàng chờ lệnh tiến công. Ở Hạnh Thông Tây, chị em có sáng kiến, ghép chung 4 chiếc ghe lớn nối mũi nhau bắc qua sông Láng The, rồi đốn tre cặp hai bên để làm cầu cho bộ đội vượt sông, tiến vào thành phố. Ở nông thôn, phụ nữ đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao khí thế cách mạng, chuẩn bị tâm lý quần chúng đón quân giải phóng. Chỉ trong vòng 3 tháng từ tháng 12/1974 đến tháng 2/1975, bà con Củ Chi rải 62.488 truyền đơn và lệnh giải tán phòng vệ dân sự, gọi loa động viên 27 lần với 965 binh sĩ rã ngũ, tổ chức hơn 100 cuộc đấu tranh chống gác, đòi gặp mặt thân nhân, ngăn hành quân tiếp viện. Tại Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh, hoạt động bãi thị, bãi khóa, treo cờ giải phóng, binh vận diễn ra khắp nơi. Chị em xã Trung Lập, Củ Chi, đưa sáng kiến mở hội nghị gia đình binh sĩ, kêu gọi bà con đưa anh em đi lính Cộng hòa về với cách mạng(1). 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 292.
- 465 - Từ giữa tháng 4/1975, thực hiện chủ trương của Thành ủy là đưa lực lượng áp sát vùng sâu và vào trong lòng địch, nhiều chị đã ém trong một số địa bàn móc ráp, chỉ đạo cơ sở, tuyên truyền tổ chức quần chúng chuẩn bị khởi nghĩa. Trong số các cán bộ tăng cường cho nội đô và vùng ven, nhiều nữ cán bộ từ các căn cứ rừng núi và các nhà tù được trao trả sau Hiệp định Paris được điều về, và rất đông các chị đã bám trụ từ trước ở nội thành. Về sau, lực lượng này trở thành cán bộ cốt cán trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, hoặc cán bộ của ban ngành, hội,…, cán bộ chỉ đạo, tuyên truyền, tổ chức quần chúng khởi nghĩa, như chị Hai Bằng (Gò Vấp), chị Năm Hiền và chị Bảy Nghĩa (Quận 5), các chị Tám Chánh, Chín Trang và Mười Vân (Quận 6), chị Tư Kiều (Thạnh Mỹ Tây, Bình Thạnh), chị Thân Thị Thơ (tức Năm Thành, ở Bảy Hiền)(1), chị Tư Duy Liên - Thường trực Ban Phụ vận Thành ủy, chị Tư Liên và chị Chín Ngân (Quận 3), chị Phạm Thị Sứ và chị Nguyễn Thị Châu (Quận 10)…(2) Khi quân ta từ nhiều hướng tiến về Sài Gòn, phụ nữ cũng hăng hái tham gia phối hợp chiến đấu. Ở Củ Chi, khi Quân đoàn 3 nổ súng tấn công căn cứ Đồng Dù, các mẹ, các chị đã đi đầu nổi dậy, chiếm lĩnh các cơ sở của địch ở xã, ấp. Ngày 29/4/1975, má Bảy Lánh xông vào đồn cảnh sát Củ Chi, bắt địch hạ cờ ngụy, giương cao cờ Mặt trận. Các chị Lê Thị Lan, 1. Vùng lõm chính trị Bảy Hiền: Căn cứ của lòng dân, Hoàng Minh, Ghi lại theo lời kể của đồng chí Nguyễn Hồng Giáo, nguyên cán bộ đội vũ trang tuyên truyền Khu tuyên huấn Sài Gòn - Gia Định, http://www.codotphcm.com/tintuc/chitiet/vung-lom-chinh -tribay-hien-can-cu-cua-long-dan-195.html 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 294.
- 466 - Trần Thị Yến hạ cờ ba sọc, treo cờ Mặt trận trên nóc dinh quận Củ Chi. Má Nguyễn Thị Rành - Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân - treo cờ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lên cây điệp đầu ấp Phước Hòa, xã Phước Hiệp (Củ Chi), cũng như 30 năm trước má treo cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mừng ngày tổng khởi nghĩa. Tổ du kích nữ dẫn quân chủ lực bắt Chuẩn tướng Lý Tòng Bá tại căn cứ Đồng Dù - phòng tuyến chiến lược thuộc huyện Củ Chi án ngữ Tây Bắc Sài Gòn. Tại đô thành, nữ giao liên Nguyễn Trung Kiên dẫn đoàn xe tăng tiến vào Dinh Độc Lập. Phụ nữ xã Trung Lập, trong đó có má Năm đã phát động 200 người cùng vùng lên truy bắt ác ôn và cắm cờ trên 13 bót trong xã. Má Lê Thị Gôm, chồng và 3 con là liệt sĩ, bản thân từng chiến đấu bị thương tật cả hai chân, đã động viên cơ sở cùng đào 45 công sự bao vây các bót giặc, thu nhiều súng ống, đạn dược. Tại Thủ Đức, chị em treo cờ trên dinh quận, bố trí canh gác thị trấn và kêu gọi lính ngụy nộp súng đầu hàng. Ở Hóc Môn, Gò Vấp và nhiều nơi khác, việc cắm lá cờ đầu tiên của Mặt trận trên dinh quận đều do nữ du kích tiến hành. Tại Hóc Môn, chị Võ Thị Bé cùng cơ sở chiếm lĩnh trại Bùi Như Lưỡng, tức Bộ Chỉ huy Trung tâm huấn luyện Quang Trung, tiếp thu và bảo quản kho xăng và kho lương thực tại đây. Chị Bé còn cùng các chị em vận động 201 lính ngụy đầu hàng, giao vũ khí cho cách mạng. Chị Nguyễn Thị Xuân, chị Lê Thị Hạnh và 2 nữ thanh niên của 18 Thôn Vườn Trầu đã xung phong hướng dẫn bộ đội
- 467 - tiến vào nội thành chiếm lĩnh Nhà đèn, bắt giữ bọn ngụy chốt tại đây và thu toàn bộ vũ khí. Chị Nguyễn Thị Phương chỉ huy một lực lượng quần chúng chiếm kho xăng dầu Cầu Kinh. Chị Phong Thu cùng gia đình và cơ sở chiếm giữ kho gạo 42.000 tấn ở Phú Mỹ, tịch thu 100 súng. Tại khu dệt Bảy Hiền, chị Thân Thị Thơ, chị Hồ Thị Toàn, Nguyễn Thị Hoài lãnh đạo quần chúng treo cờ trước trụ sở ấp Chí Hòa. Tại nội thành, Ban Phụ vận chốt tại 4 khu vực: 1/ Ngã tư Bảy Hiền do chị Đỗ Duy Liên phụ trách (đến 12 giờ ngày 30/4/1975, chị Đỗ Duy Liên đến tiếp quản Tòa Hành chính tỉnh Gia Định, nay là trụ sở UBND quận Bình Thạnh, do chị Lê Thị Thu dẫn đường); 2/ Từ Ngã sáu Sài Gòn đến chợ Bến Thành và lân cận do má Lê Thị Mỹ (Tư Mỹ), chị Lê Thị Vĩnh Cửu và chị Lê Thị Thu phụ trách; 3/ Xã Thạnh Mỹ Tây, Bình Thạnh do đồng chí Tư Kiều phụ trách; 4/ Khu vực Đồng Ông Cộ, Bình Thạnh và quận Gò Vấp do anh Võ An Khương (Hai Khương) - là cơ sở của Ban Phụ vận - phụ trách. Chi bộ phụ vận Quận 1 lãnh đạo bà con khởi nghĩa, treo cờ mặt trận ở 4 cửa chợ Bến Thành, ngã ba Thủ khoa Huân, Lê Thánh Tôn,…(1). Tính riêng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Ban Phụ vận và cán bộ phụ vận đã đánh chiếm 13 đồn bốt, 1 1. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân - Tập thể Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định (T4) - tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, số 318/BC-HPN, ngày 7/8/2017, tr. 25.
- 468 - kho xăng, 2 kho quân lương; cắm cờ, tiếp quản 13 đồn bốt, 10 cứ điểm quan trọng; tịch thu 200 súng, 42.000 tấn gạo, 10 bồn xăng, 200 xe GMC, 10 máy truyền tin, 5 khẩu đại pháo; gọi hàng, vây bắt hơn 400 binh lính và sĩ quan(1). Ngày 30/4/1975, trong thế giằng co giữa hai bên tham chiến, 65 tổ phụ nữ Củ Chi bám trận địa để làm công tác binh vận. Chị Đỗ Thị Bê cùng tổ hội phụ nữ Hóc Môn đã vận động được 294 binh lính của chính quyền Sài Gòn ra hàng. Ở Bình Chánh, chị em phụ nữ dùng ghe xuồng đuôi tôm đưa Tiểu đoàn 301 qua sông và chở du kích chiếm đồn Thái Văn Minh. 4 chị đã chặn đường thuyết phục 2 tiểu đoàn địch chạy từ Hậu Nghĩa về Tân Đạo nộp vũ khí, đầu hàng. Ở các khu vực khác, chị em phụ nữ cũng đứng lên, tổ chức cắm cờ, chiếm lĩnh các vị trí chủ chốt của địch, kêu gọi binh lính ra trình diện, nộp vũ khí. Tiêu biểu như chị Hai Bằng ở Gò Vấp, Thân Thị Thơ, Hồ Thị Toàn, Nguyễn Thị Hoài, Phan Thanh Kiều, Nguyễn Thị Phương, Nguyễn Thị Văn ở Quận 2, Nguyễn Thị Tốt, Hồ Thị Mười, Lê Thị Mỹ ở Quận 1 và Quận 3, Nguyễn Thị Bình, Thiếu Thị Tạo, Sáu Lê, Nam Hiệu, Bảy Nghĩa ở Quận 5, Tám Chính, Chín Trang, Mười Vân ở Quận 6, Trần Thị Thương, Nguyễn Thị Nghĩa, Trương Thị Thanh Thảo, Tô Thị Kia ở Phú Nhuận,… 32 điểm nổi dậy của quần chúng do cán bộ phụ nữ chỉ đạo là một phần trong những chiến công của phụ nữ Sài Gòn - Gia Định. Cùng với chiến thắng của cuộc Tổng tiến 1. Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo thành tích đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân - Tập thể Ban Phụ vận Sài Gòn - Gia Định (T4) - tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, số 318/BC-HPN, ngày 7/8/2017, tr. 8.
- 469 - công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, phong trào phụ nữ Sài Gòn khẳng định sự thành công, thắng lợi của những nỗ lực trong suốt chặng đường dài tranh đấu. Cùng với khí thế xung phong nổi dậy, phụ nữ Sài Gòn tỉnh táo bảo vệ cơ sở hạ tầng, vật chất khí tài, để thành phố có sẵn nội lực xây dựng sau chiến tranh. Chị Cao Thị Qui và chị Phạm Thị Duyên cùng các chị em tiến vào dinh quận Thủ Đức, thuyết phục binh lính hạ vũ khí. Sau khi cắm cờ Mặt trận, các chị phối hợp với anh em công nhân kiểm soát Nhà đèn Thủ Đức, duy trì dòng điện ổn định cho nội thành. Chị Nguyễn Thị Phương ở Cầu Kinh giữ 10 bồn xăng, 200 xe GMC, 10 máy truyền tin, 5 pháo lớn chờ tiếp quản. Chị Lương Dung và chị Hai Hạnh ở Quận 6 thu lãnh các xí nghiệp giày ba ta, dệt thun; bảo vệ nhà máy rượu Bình Tây, kho lương thực bến Lê Quang Liêm. Nữ công nhân các xí nghiệp Liên Phương, Sicovina, Vimytex, Thành Công, Phong Phú,… bảo vệ máy móc, không để giặc phá hoại. Chị Nguyễn Thị Nhàn lãnh đạo nghiệp đoàn bệnh viện Đồn Đất (Grall) bảo vệ tài sản bệnh viện(1). Anh dũng, kiên cường, bất khuất, nhưng phụ nữ cũng chính là những người sẵn sàng khép lại giao tranh; nhận về mình sự lặng lẽ, bình dị sau chiến cuộc. Đầu tháng 5/1975, Ni sư trưởng Huỳnh Liên thay mặt Lực lượng chính trị thứ ba tại miền Nam Việt Nam tuyên bố tự nguyện giải thể, vì “chúng tôi không phải là một đảng phái chính trị, mà là một phong trào 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 302 - 308.
- 470 - nhân dân yêu nước đứng lên bảo vệ đất nước bị xâm lăng. Nay đất nước đã thống nhất (…) chúng tôi lại trở về làm “người dân yêu nước trong hòa bình””(1). Trong bối cảnh thành phố ngổn ngang sau cuộc chiến, phụ nữ Sài Gòn là lực lượng chủ lực thu vén những bộn bề, hàn gắn tổn thương. Đông đảo chị em tham gia phá gỡ bom mìn, giải phóng đất đai, bắt tay vào sản xuất nông nghiệp. Chị Sáu Cưu (ấp Phú Hữu, xã Phú Mỹ Hưng) gỡ hàng trăm trái bom trên 3ha. Chị Lượng, chị Nguyệt (xã Tân Thạnh Tây) gỡ hàng ngàn bom mìn. Phụ nữ toàn thành đã đóng góp 30.000 ngày công trong tổng số 70.000 ngày công làm thủy lợi, đào đắp hơn 800.000m3 đất, làm kênh mương cho gần 30.000ha, tiêu biểu là công trình thủy lợi Lê Thị Riêng dẫn nước từ kênh Cầu Dừa, qua trạm bơm Tân Thới Hiệp, tưới tiêu cho hàng ngàn hécta rau chuyên canh của xã Tân Thới Hiệp và các vùng lân cận trong huyện Hóc Môn. Nhân ngày Thương binh liệt sĩ 27/7/1975, các cơ sở Hội Phụ nữ đã vận động quà tặng trị giá hơn 40.000.000 đồng, đến thăm hỏi tại các đơn vị, viện quân y, bệnh xá. Thành hội tổ chức phân phối gạo cứu đói theo giá nhà nước đến các xóm lao động, các quận huyện ít trồng lúa; giảm trừ nạn gian thương, đầu cơ(2). 1. Ngô Bá Thành, “Phong trào đô thị và Lực lượng chính trị thứ ba với đàm phán và đấu tranh thi hành Hiệp định Paris”, trong sách Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Lê Cung (chủ biên), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2015, tr. 45. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 329 - 334.
- 471 - III. ĐẶC ĐIỂM CỦA PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn giai đoạn 1954 - 1975 thể hiện vai trò lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời thiết lập những nền tảng cho sự phát triển trong giai đoạn kế tiếp. Qua diễn biến của phong trào, có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật của giai đoạn này. 1. Trưởng thành trên mặt trận tư tưởng Phụ nữ, với tư cách là một nửa của lực lượng lao động, cũng là một nửa của lực lượng đấu tranh, kể cả trên phương diện tinh thần và vật chất. Tầm quan trọng của lực lượng phụ nữ được đánh giá là có ảnh hưởng nhất định đến tình thế chiến trường. Trao đổi với Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Lê Duẩn - Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam - nhấn mạnh: “… Chúng ta không chỉ đơn thuần xem xét khả năng cách mạng của các tầng lớp xã hội xuất phát từ vị trí giai cấp, mà còn phải nhận định thái độ chính trị của họ đối với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, một cuộc chiến tranh hết sức tàn bạo và ác liệt đang đe dọa sự sống còn của toàn dân tộc, chi phối cuộc sống vật chất và tinh thần của mọi người Việt Nam. Trên quan điểm ấy, chúng ta nhìn nhận rằng trong các tầng lớp lao động, thanh niên và phụ nữ phải chịu những hậu quả chiến tranh nặng nề hơn ai hết. Vì vậy, thanh niên và phụ nữ có vai trò rất to lớn trong cách mạng (…) Ở các thành thị miền Nam, đời sống của phụ nữ, nhất là phụ nữ lao động, hết sức điêu đứng và đau khổ, vì giá cả sinh hoạt đắt đỏ, bị đuổi nhà, đuổi chợ, chồng con lại bị thất nghiệp, khủng bố, tù đày, bị lùng ráp, bắt lính. Trước cảnh
- 472 - nước mất nhà tan, chị em càng quyết tâm cách mạng. Cũng như ở nông thôn, chị em thành thị có thể đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh chính trị và công tác binh vận. Chúng ta cần xây dựng một số cơ sở phụ nữ trung kiên, sử dụng những cơ sở này để tuyên truyền, vận động, tập hợp chị em ở các chợ, các xóm lao động thành đội quân chính trị”(1). Cũng nhận thức được vai trò của nữ giới, ngay từ những ngày đầu của Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm đã “tranh thủ” nhân tâm người dân miền Nam bằng cách thành lập những tổ chức lấy nòng cốt từ nhiều tầng lớp xã hội, trong đó lưu ý đến phụ nữ, ví dụ phong trào “Phụ nữ liên đới”. Những tổ chức này đặt dưới sự kiểm soát của Đảng Cần lao Nhân vị (Cần lao Nhân vị Cách mạng Đảng, 1954(2)), có cơ chế hoạt động tương đương, nhằm đối chọi với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp Học sinh Sinh viên Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đương thời. Chính quyền Ngô Đình Diệm mong muốn huy động tinh thần và nguồn lực trong người dân miền Nam, nhằm chiếm ưu thế trong cuộc chiến. Chỉ tính đến năm 1963, số đoàn viên tham gia Thanh niên Cộng hòa và Phong trào Phụ nữ liên đới đã lên tới hơn ba triệu người (3). Bất kể việc họ bị chính quyền vận động tham gia bằng cách nào - tự nguyện, dụ dỗ hay ép buộc - lực lượng này cũng đã góp phần khẳng 1. Lê Duẩn, “Gửi Khu ủy Sài Gòn - Gia Định”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 11. 2. Nghị-định cho phép thành-lập Cần-lao nhân-vị cách-mạng đảng, số 116-BNV/ CT, ngày 02/9/1954, của Thủ- tướng Chánh-phủ, Tổng-trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa. 3. Trần Văn Đôn (nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa) (1989), Việt Nam nhân chứng, Nxb. Xuân Thu, California, tr. 141, nguồn: http://sachhiem.net/ LICHSU/TR/TQD04.php.
- 473 - định thanh thế của nhà nước Việt Nam Cộng hòa và đe dọa đến các phong trào cách mạng, các hoạt động đấu tranh của quân giải phóng. Trong chủ trương chung của chính quyền Sài Gòn, hoạt động dành cho phụ nữ được chăm chút và ưu ái tạo điều kiện phát triển. Tháng 8/1959, trong nhiệm kỳ thứ hai của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, phong trào “Phụ nữ liên đới” do Trần Lệ Xuân lãnh đạo có đến 9 đại diện trúng cử trong tổng số 123 dân biểu(1). Phong trào Phụ nữ liên đới lấy tạp chí Thế giới tự do để khuếch trương ảnh hưởng bằng những tin bài về các đợt huấn luyện quân sự cho nữ sinh và nữ công chức(2); tập hợp và điều phối các hội đoàn vệ tinh khác, như Thanh nữ Cộng hòa và Phụ nữ bán quân sự. Cùng với sự hỗ trợ truyền thông từ chính quyền, phong trào phụ nữ dưới sự bảo trợ của nhà nước Việt Nam Cộng hòa có bộ mặt sôi nổi: lạc quyên thăm hỏi đồng bào gặp tai ương, động viên quân nhân biên chế quân đội quốc gia, mở nhà trẻ, diễn thuyết về bình quyền cho phái nữ,…(3) Trên thực tế, đúng như nhận định của đồng chí Lê Duẩn, đời sống thực tế của nhân dân miền Nam, trong đó có phụ nữ, đã diễn ra theo một cách hoàn toàn khác với hình ảnh tươi vui, hữu nghị mà chính quyền Sài Gòn cố gắng phô trương. Chính tại đô thành Sài Gòn hào nhoáng, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp xã hội vẫn bùng phát, đã cho thấy những khó khăn, o ép, bức xúc thực sự trong các tầng 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, nguồn: http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML0. php. 2. Trần Văn Đôn, Sđd, tr. 144. 3. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd.
- 474 - lớp xã hội, mà nguyên nhân là từ những chính sách chính trị - kinh tế - xã hội do Ngô Đình Diệm chủ trương. Tương đồng với giai đoạn 1945 - 1954, giai đoạn này, phụ nữ Sài Gòn vẫn chiếm đa số trong thành phần lao động của xã hội. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, những gia đình có người thân thuộc diện tập kết chuyển quân ra Bắc khẩn trương thu xếp, tiễn đưa, thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định. Nhiều người vợ, người mẹ, nhiều cô gái bịn rịn chia tay chồng, con, người yêu lên đường; hẹn 2 năm sau gặp lại khi nước nhà thống nhất. Tuy nhiên, lo sợ trước viễn cảnh một nước Việt Nam trọn vẹn phát triển theo chủ nghĩa xã hội, Ngô Đình Diệm - đứng sau là Mỹ - đã âm mưu thao túng kết quả bầu cử. Báo Độc lập ngày 29/1/1955 ghi nhận: “Mối băn khoăn lo sợ nhất của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp phá hoại Hiệp định và bè lũ Ngô Đình Diệm, là cuộc tổng tuyển cử thống nhất nước nhà sắp tới. Cho nên mới tháng 9-1954 nghĩa là hai tháng sau ngày ký hiệp định đình chiến thì chúng đã nghĩ ra “sáng kiến” là làm thử tổng tuyển cử vài nơi ở miền Nam. Ở Vĩnh Trà (Nam Bộ), tay sai của Ngô Đình Diệm tìm cách mua chuộc nhân dân bằng cách đưa vải về một làng, phát cho dân rồi tuyên truyền cho Bảo Đại, phát phiếu cho dân làng bầu. Kết quả mà chúng lo sợ đã đến: chúng đã không mua chuộc nổi: 95% số phiếu dồn cho Hồ Chủ tịch, Bảo Đại chỉ được 5%. Chúng uất đến tận cổ. Báo cáo kết quả lên “thượng cấp” thì lại bị chỉnh một mẻ nên thân. “Thượng cấp” cho là chúng không tích cực tuyên truyền vận động, và bắt chúng phải làm lại. Chúng lại tìm cách mua chuộc một lần nữa. Một số vải, gạo, thuốc men,
- 475 - đưa về để phát cho dân, kèm theo một đợt tuyên truyền thứ hai. Nhưng cũng như lần trước, không ai chịu để chúng mua chuộc. Kết quả cuộc bỏ phiếu thứ hai là 100% bầu Hồ Chủ tịch. Ở Cực Nam Liên khu V cũng diễn ra trò hề tương tự, và cũng thất bại không kém chua cay”(1). Ý định mua phiếu bầu thất bại từ trong trứng nước, Chính phủ Ngô Đình Diệm bèn ra sức phá hoại Hiệp định, bôi nhọ lực lượng Việt Minh, xuyên tạc ý nghĩa Hiệp định. Biểu ngữ tuyên truyền treo khắp nơi: “Đả đảo Việt Minh, 20/7 là ngày Quốc hận”(2). Tiên liệu các ý định của địch, Đảng tổ chức các lớp học tập nội dung Hiệp định. Cán bộ phụ nữ kháng chiến từ miền Tây tập trung về Sài Gòn tham dự lớp theo chủ trương của Đảng. Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo thành lập tổ chức phong trào Bảo vệ hòa bình nhằm phát động quần chúng đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Genève bằng các hình thức: biểu tình, xuất bản sách báo tuyên truyền nội dung Hiệp định, thăm nhà tù, trại giam, phối hợp với các tổ chức quốc tế đòi trả tự do cho tù binh và tù chính trị. Khởi đầu với cuộc biểu tình 5.000 người đi từ chợ Cầu Muối, chợ Cầu Ông Lãnh sang đường Galliéni - Kitchener (nay là đường Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thái Học) vào ngày 1/8/1954, phong trào nhanh chóng lan ra nhiều tỉnh Nam Bộ và miền Trung. Đây chính là tổ chức công 1. Nguyễn Ngọc (29/1/1955), “Miền Nam yêu dấu: Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ”, báo Độc lập (Cơ quan Trung ương Đảng Dân chủ Việt Nam (trong Liên Việt)), số 84, tr. 8, tài liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, bản điện tử: http://baochi.nlv.gov.vn/ baochi/cgi-bin/baochi?a=d&d=WNyj19550129.1.9&e=-------vi-20--1--txt-IN------#, truy cập ngày 30/12/2017. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1985), Sđd, tr. 17.
- 476 - khai đấu tranh chính trị với chính quyền Sài Gòn ở những ngày đầu sau Hiệp định Genève. Phụ nữ là lực lượng đấu tranh quan trọng. Trong đội ngũ ban lãnh đạo phong trào, có bà Nguyễn Thị Lựu (Tám Lựu) là Phó Chủ tịch, bà Thái Thị Nhạn (Năm Nhạn) là thành viên Ban Tổ chức. Hoạt động đấu tranh này đã bị chính quyền ra tay đàn áp. Cuối tháng 10/1954, 26 hội viên của phong trào bị bắt, trong đó có các bà Phan Thị Liêm, Nguyễn Thị Hợi, Lâm Thị Tư. Nhưng trải qua bắt giữ, giam cầm, cuộc đấu tranh đã chứng tỏ sự trưởng thành của lực lượng phụ nữ đã nâng lên một bậc. Hoạt động đấu tranh được tổ chức hệ thống, rộng khắp và có tiếng vang lớn. Ban Phụ vận tổ chức từng nhóm chị em đến trụ sở Ủy hội quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến ở Việt Nam để đấu tranh đòi thả tự do cho các hội viên. Mỗi lần các ông bà bị đưa ra phòng dự thẩm hỏi cung, rất đông quần chúng tập trung phản đối trước tòa án. Bà con tự nguyện góp tiền mời luật sư bào chữa. Ngày 22/12/1954, các đại biểu, trí thức Sài Gòn đến gặp trưởng phái đoàn Ấn Độ, Ba Lan và Canada trong Ủy hội quốc tế để yêu cầu họ can thiệp với chính quyền. Bất chấp dư luận, Diệm vẫn giam giữ, quản thúc nhóm “Hòa bình” qua nhiều nơi: nhà lao Gia Định, nhà lao Chí Hòa, Biệt thự ngàn hoa (Villa aux mille fieurs, số 13 đường Lạch Tray, Hải Phòng). Sau đó, chính quyền Sài Gòn đã phải nhượng bộ. Đến tháng 4/1955, chính quyền Sài Gòn tuyên bố cho họ tự chọn về miền Nam hoặc ở lại miền Bắc. Bà Nguyễn Thị Hợi xin đoàn tụ thân nhân ở miền Bắc. Ông Phạm Huy Thông được cơ sở cách mạng bí mật đưa về Hà Nội, ông Lê Thành Nam xin ở lại để học tập. Những người khác về Sài Gòn, sáng 25/4/1955,
- 477 - được tự do về nhà, nhưng nhiều vị vẫn bị gọi đến gặp cảnh sát tra hỏi lần nữa. Đến ngày 27/4/1955, chính quyền Sài Gòn ra Nghị định số 93-TTP/VP, theo đó 6 người bị cưỡng bức cư trú tại xã Hòa Thịnh, thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, gồm các ông: Nguyễn Hữu Thọ, Từ Bá Đước, Nguyễn Văn Dưỡng, Trần Hàm Lãng, Nguyễn Tảo, và bà Lâm Thị Tư. Ngày 11/1/1956, bà Lâm Thị Tư và các ông lại bị cưỡng ép dời sang quận Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên. Địch chủ ý lưu đày các ông bà ở miền rừng núi hẻo lánh, điều kiện vật chất thiếu thốn, hạn chế tiếp xúc từ bên ngoài; đồng thời thường xuyên tổ chức khủng bố tinh thần, thậm chí đánh đập khiến ông Nguyễn Văn Dưỡng hy sinh. Nhưng trước sau, các ông bà vẫn kiên quyết lập trường là những người yêu nước, mong muốn hòa bình, chờ chỉ thị của Đảng(1). Cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn, những người chồng, người cha, người anh trực tiếp ra chiến trường; vì vậy, người phụ nữ gánh vai đỡ lấy vai trò trụ cột kinh tế gia đình. Họ làm việc ở nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực: nông nhân, công dân, tiểu thương,… Thêm nữa, việc chú trọng phát triển kinh tế phục vụ cho chiến tranh đã dẫn đến thực tế là trong các xí nghiệp, nữ giới là lực lượng lao động đáng kể. Cũng chính từ ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách chính trị - kinh tế đối 1. Sau này, hai ông Trần Hàm Lãng và Nguyễn Tảo ra vùng giải phóng, ông Nguyễn Hữu Thọ được Khu ủy Khu V và Tỉnh ủy Phú Yên tổ chức giải cứu rồi về căn cứ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các ông lấy bí danh lần lượt là Ba Hòa Bình, Mười Hòa Bình, Ba Nghĩa/Hai Thủy, hoạt động đến ngày thống nhất. Ông Từ Bá Đước bị quản thúc tại gia ở Sài Gòn, và qua đời năm 1964. Riêng bà Lâm Thị Tư không tìm thấy tài liệu ghi nhận tung tích. Phần viết về Phong trào bảo vệ hòa bình tham khảo từ Trương Võ Anh Giang (2013), “Những chiến sĩ hòa bình: Những thành viên trong Phong trào bảo vệ hòa bình”, trong sách Nhân sĩ trí thức Sài Gòn - Gia Định đồng hành cùng dân tộc (1954 - 1975), tập 1, UBND Thành phố Hồ Chí Minh, Sở Thông tin & Truyền thông, tr. 31 - 44.
- 478 - với việc làm và thành quả lao động của phụ nữ, họ cảm nhận rõ ràng hơn ai hết những bất công của chế độ, họ khát khao hơn ai hết điều kiện dân sinh đảm bảo và sự công bằng xã hội. Trong giới công nhân, cùng với trẻ em dưới 18 tuổi, phụ nữ là đối tượng bị các chủ hãng o ép thuê mướn với đồng lương rẻ mạt; có khi họ là nạn nhân trực tiếp của nạn sa thải vô cớ. Trong những cuộc đấu tranh của tầng lớp mình, các chị đã xả thân, bất chấp đàn áp để đòi hỏi quyền lợi dân sinh dân chủ và tạo được ảnh hưởng rất quan trọng, có thể bản thân các chị cũng không hình dung được hết, là góp phần làm suy yếu chế độ Cộng hòa về mặt chính trị. Trước năm 1961, phụ nữ chủ yếu đảm nhận vai trò đứng sau cuộc chiến; góp sức trong việc tiếp tế lương thực, chuẩn bị thuốc men, xây dựng căn cứ,… Sau năm 1961, phụ nữ Sài Gòn thể hiện ưu thế từ bản chất giới của mình trên nhiều mặt trận khác, đặc biệt là binh vận, tình báo và cả vũ trang. Trong các cơ quan do Khu ủy lãnh đạo, phụ nữ chủ yếu đóng vai trò “đường dây”, như giao liên, y tá… Nhiều chị đã chiến đấu và chấp nhận hy sinh, quyết không thỏa hiệp, không đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Thực tế xã hội quy định vai trò của người phụ nữ Sài Gòn trong giai đoạn 1954 - 1975, và đây cũng chính là điều kiện để họ trở thành người chiến sĩ cách mạng. Không bị lừa mị bởi những tư tưởng tư sản, thực dân đế quốc nấp bóng chiêu bài quốc gia, kiên quyết đấu tranh giữ vững phẩm tiết để không bị tha hóa trước những làn sóng ngoại lai, thực dụng, người phụ nữ trong giai đoạn này đã có bước trưởng thành vượt bậc về mặt tư tưởng. Lực lượng phụ nữ Sài Gòn, với truyền thống và thực tế tranh đấu, đã chứng tỏ mình nhận thức sâu sắc về
- 479 - lợi ích, quyền bình đẳng giới hòa trong quyền tự do độc lập của dân tộc, chứng tỏ ý thức bảo vệ các giá trị truyền thống của người phụ nữ song song với việc bảo vệ quyền độc lập, thống nhất nước nhà. 2. Hoạt động đấu tranh linh hoạt, sáng tạo, bất khuất, có tổ chức chặt chẽ Trong đấu tranh chính trị, các tầng lớp phụ nữ Sài Gòn thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo. Không có một khuôn mẫu nào để chị em ứng dụng như chiếc chìa khóa vạn năng cho mọi tình huống dưới ách đàn áp của địch, vốn đầy rẫy hiểm nguy. Chính lòng yêu nước, yêu thương đồng bào và cảm tình cách mạng soi sáng cho họ xử lý tình huống một cách khéo léo. Ở đầu giai đoạn này, các tình thế chính trị diễn biến một cách phức tạp từng ngày từng giờ. Đến cuối giai đoạn này, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đòi hỏi huy động một nguồn lực khổng lồ của toàn dân tộc, bao gồm cả đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị. Nguyện vọng thống nhất toàn dân tộc, đường lối lãnh đạo của Đảng đã được lực lượng phụ nữ cụ thể hóa thành các hình thức tổ chức đấu tranh rất sáng tạo, mềm dẻo linh hoạt nắm lấy thời cơ, dũng cảm bất khuất không khoan nhượng, thực hiện đến cùng mục tiêu tranh đấu của mình. Các hoạt động đấu tranh trong giai đoạn này được tổ chức chặt chẽ, có sự phối hợp, có sự tiếp sức, có sự đáp trả trực tiếp quyết liệt đồng thời cũng tận dụng hệ thống báo chí, quan sát viên quốc tế tại Sài Gòn giai đoạn này để khẳng định lẽ phải bằng tiếng nói của mình. Đấu tranh trong cao trào Phật giáo năm 1963, phản đối chủ trương “quyết liệt đối phó với Phật giáo” của Trần Lệ Xuân, nữ sinh Mai Tuyết An ở Thị Nghè tự chặt tay. Học
- 480 - sinh trường nữ trung học Gia Long, Trưng Vương bãi khóa, xuống đường và không chịu vào lớp ngay cả khi chính quyền chủ động mở cửa trường học. Các ni cô, sư bà tiếp tục tự thiêu, tuyệt thực(1). Hơn 20 ngày sau khi “bà Cố vấn” đưa ra tuyên bố, nữ sinh Quách Thị Trang cầm biểu ngữ dẫn đầu hàng vạn sinh viên học sinh Sài Gòn biểu tình trước chợ Bến Thành, cảnh sát đàn áp, bắn vào đoàn biểu tình, chị hy sinh(2). Hình ảnh Trần Lệ Xuân trước quốc tế bị sứt mẻ, thậm chí bị đón đường ném trứng thối và cà chua khi công cán tại La Mã, ngày 25/9/1963(3), sau đó phải mở họp báo tại nước bản địa để giải thích rằng chính quyền miền Nam Việt Nam không hề đàn áp Phật giáo, mặc dù có người chứng kiến đích thân bà ta chỉ huy cuộc tấn công vào chùa Xá Lợi vào đêm 20/8/1963(4). Tinh thần đấu tranh của các chị, các má là sự kiên cường, bất khuất đi liền với sự thông minh, mưu trí, dũng cảm. Chống đôn quân, phụ nữ ở Bà Hom, Bình Triệu xô ra bao vây, kéo bám xe GMC không cho địch chở thanh niên đi; chị em tập hợp thành nhóm vài chục người đến đơn vị địch hoặc đến tận Bộ Tổng Tham mưu đưa đơn đòi chồng con giải ngũ; phụ nữ ở An Nhơn Tây, Cần Giuộc đâm xuồng cặp hai bên hông tàu giặc, kêu khóc không cho bắt lính. Che giấu cán bộ, má Phạm Thị Quới ở ấp Gò Nổi, xã An Nhơn Tây, lấy cháo heo trộn tro 1. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 443. 2. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 451. 3. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 451. 4. Hoành Linh Đỗ Mậu (1991), Tâm sự tướng lưu vong: Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Sđd, tr. 480.
- 481 - rải khắp nhà, lấy chiếu đắp lên mình đồng chí Nguyễn Trọng Tuyển - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định, hô hoán nhà có người chết vì dịch tả, lính tráng nghe vậy sợ hãi bỏ về hết; má Hai Mai ở xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, tự tay châm lửa đốt từng cây rơm mà địch cho là giấu nắp hầm bí mật, thấy lửa cháy phừng phừng, địch bỏ đi, riêng cây rơm cuối cùng chưa bị đốt là nơi đồng chí Mười Tú đang trú nấp(1). Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, tháng 1/1959 (gọi tắt là “Nghị quyết 15”), đã xác định con đường của cách mạng miền Nam là “khởi nghĩa giành chính quyền”(2). Chủ trương kết hợp bạo lực cách mạng với đấu tranh phi vũ trang của Đảng là rất kịp thời, chấm dứt chuỗi ngày đau khổ của phụ nữ miền Nam: chỉ biết cắn răng nhìn anh em, chồng con mình bị kẻ thù ác ôn sát hại. Nay, họ đã được mở đường vùng dậy diệt ác dù vũ khí được trang bị và tự trang bị còn hạn chế. Phụ nữ tham gia đào địa đạo, làm hầm chông, tiếp tế nuôi quân, tham gia du kích. Chị Út Bé ở ấp Cây Sộp, Củ Chi, cùng đồng chí chặn đường trừng trị tên cai trưởng ấp. Chị Út Bé cũng là người theo dõi, phối hợp bắt và tiêu diệt tên gián điệp ở Thới Tam Thôn, Hóc Môn(3). 1. Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 46 - 47. 2. Các trích dẫn từ Nghị quyết 15 lấy theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam), ngày 12/10/2016. Nguồn: http:// dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/cac-van-ban-khac/books-110620159142646/ index-31062015913404621.html, truy cập ngày 30/12/2017. 3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 64 - 65.
- 482 - Chống lập ấp chiến lược, các má, các chị vùng Phú Thọ Hòa, Tân Bình, nằm lăn ra đường ngăn xe của địch, người khác thì lấy gậy gộc, đất đá ném trả cảnh sát. Đội du kích do các má dẫn đường đột nhập ấp chiến lược tại Tân Sơn Nhì tiêu diệt 2 tên ác ôn, phục kích đánh lật đoàn xe địch, trả thù cho chị Nguyễn Thị Rĩ bị chúng đánh chết khi đang mang thai(1). Từ năm 1960, đấu tranh vũ trang của phụ nữ Sài Gòn lên cao ở cả nội thành lẫn vùng nông thôn, nhưng như Đảng đã xác định tại Nghị quyết 15: “Trong quá trình đấu tranh lâu dài, gay go, gian khổ, phức tạp đó, hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu”, “khi sử dụng lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền, cần phải thấu suốt nguyên tắc phục vụ cho đấu tranh chính trị, và phục tùng lợi ích của đấu tranh chính trị, phải làm cho cán bộ và nhân dân nắm vững khẩu hiệu chính trị, nắm vững công tác động viên và tổ chức lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ bản”. Phụ nữ Sài Gòn đã tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị dưới nhiều hình thức, vận dụng thực tế phương châm của Đảng: “khéo công tác, khéo che giấu lực lượng, bảo tồn cơ sở và tích trữ lực lượng để có thể đấu tranh lâu dài và giành thắng lợi cuối cùng, càng đấu tranh càng mở rộng cơ sở và mở rộng phong trào (…) khéo kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp; tùy nơi tùy lúc phải biết khéo kết hợp các khẩu hiệu kinh tế, văn hóa với khẩu hiệu chính trị; khéo kết hợp các hình thức đấu tranh chính trị với vũ trang tuyên tuyền, vũ trang tự vệ; phải phối hợp chặt chẽ phong trào ở thành thị, ở nông thôn và vùng căn cứ, phong trào ở miền Nam và ở miền Bắc, phong trào trong nước với phong trào cách mạng thế giới”. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 88.
- 483 - Lợi thế của phụ nữ nội thành Sài Gòn trong đấu tranh là phần lớn chị em có nhân thân công khai, hợp pháp. Vì vậy, các chị tiếp tục đảm đương công tác đã có truyền thống từ thời chống Pháp: tiếp tế nuôi giấu cán bộ, hậu cần tin tức; từ đó phát huy thêm một bước hành động: làm giao liên, gây dựng giao thông giữa nội - ngoại thành, tranh thủ binh vận, địch vận. Sau khi anh Nguyễn Văn Trỗi hy sinh (15/10/1964), phụ nữ các quận nội thành đẩy mạnh tuyên truyền, lấy anh Trỗi làm tấm gương giáo dục thanh niên, chống bắt lính. Ở Quận 2, các chị vận động được 17 thanh niên thoát ly theo kháng chiến trong cùng một đợt. Ở Quận 4, chị em lao động ngăn cản cảnh sát lùng sục, đồng thời che giấu thanh niên trốn lính. Ni cô Hồ Thị Thê ở chùa Chương Đức giấu hàng chục anh em trốn lính ngay trong chùa. Ở Quận 8, chị em vừa vận động, vừa tiếp tế thực phẩm cho hàng trăm người trốn lệnh nhập ngũ tại lò heo Chánh Hưng. Các chị còn thông qua mẹ, vợ, em út trong gia đình binh sĩ Sài Gòn khuyên họ bỏ ngũ và lôi kéo thêm anh em khác. Nghe người thân, anh Trần Văn Thắm đã vận động một trung đội cùng rã ngũ, giao súng cho quân giải phóng(1). Lịch sử cũng ghi nhận phụ nữ Sài Gòn đã làm nên những chiến công ngoạn mục trên mặt trận chính trị, phi vũ trang. Đồng chí Ngô Tú Thanh (Út Phương) thuộc đội võ trang tuyên truyền của anh chị em công nhân người Hoa, cánh Hoa vận Thành ủy, cùng đội hình đã đột nhập Nhà hát Đô Thành (Quận 5, sau năm 1975 đổi tên thành rạp Hướng Dương) diễn thuyết chống Nguyễn Văn Thiệu sau buổi chiếu phim, 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 125.
- 484 - rải truyền đơn, giương cờ Mặt trận. Cũng chính đội hình này mai phục trước chi nhánh ngân hàng Sài Gòn, số 130, đường Phùng Hưng, chỉ 5 ngày trước Tết Mậu Thân, cướp bao tiền hơn 6 triệu đồng Sài Gòn vừa được nhân viên ngân hàng và cảnh sát vác ra, chuẩn bị chất lên xe hơi chuyển đi. Sự việc diễn ra trong tích tắc khiến cảnh sát không kịp trở tay, nhân viên ngân hàng ngơ ngác(1). Mẹ Trần Thị Ba (Hai Già, Quận 4) vận chuyển công khai tủ đứng hai đáy, bên trong có 4 súng AK, 4 súng K54, 1.000 viên đạn từ căn cứ Thành ủy ở Bến Tre, qua các trạm gác về đến các lõm căn cứ nội thành an toàn. Chị Nguyễn Thị Chánh (Tám Chánh) tổ chức 14 nữ giao liên và lực lượng hỗ trợ vận chuyển 2 ghe vũ khí và tài liệu mật đến các đầu mối tại nội đô, tất cả đều trót lọt cập bến vào chiều 28 Tết(2). Đêm 5/5/1968, trước đợt 2 Mậu Thân, chị Quách Lan Anh và 2 đồng đội nữ khác thuộc tổ vũ trang tuyên truyền cánh Hoa vận đã căng dải băng dài ngang đường lộ với dòng chữ “Hoan hô Quân giải phóng miền Nam”, sơn cờ, rải truyền đơn, rồi rút êm trước tuần tra, làm nức lòng nhân dân vùng Đèn 5 ngọn, Chợ Lớn(3). Lịch sử đặt phụ nữ Sài Gòn vào tình thế hai vai phải cùng lúc đảm đương việc nhà, việc nước. Nhưng những gì các má, các chị đã cho thấy ở người phụ nữ luôn có sức sáng tạo, bản tính tháo vát trong họ kết hợp với sức mạnh đấu tranh bền bỉ, 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 173 - 174. 2. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 179 - 180. 3. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1987), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập II (1954 - 1975), Sđd, tr. 203.
- 485 - quyết liệt. Tình yêu thương chuyển thành lòng căm thù, càng bị đàn áp, ngọn lửa đấu tranh trong họ càng được thổi bùng lên mãnh liệt. Họ hoàn thành trọn vẹn cả hai vai trò, vừa là lực lượng lao động, tần tảo chăm lo nuôi sống gia đình, vừa là những chiến sĩ kiên cường trên nhiều mặt trận đấu tranh vì độc lập, thống nhất đất nước. 3. Qua đấu tranh, nâng cao nhận thức và vị thế chính trị của phụ nữ Thêm vào sự cởi mở vốn là một đặc tính của con người và vùng đất phương Nam, sự phát triển giao thương và những yếu tố quốc tế giúp người phụ nữ nơi đây có điều kiện giao lưu, học hỏi, mở mang hiểu biết, nhận thức về xã hội và quyền bình đẳng nam nữ. Thông qua các phong trào đấu tranh, được bồi dưỡng về nhận thức, về đường lối, về bộ mặt thật của thực dân đế quốc, họ từng bước trưởng thành, nhận thức của họ dần rộng hơn, sâu hơn; theo đó, tinh thần và vũ khí chiến đấu của họ cũng được nâng cao, phát triển. Họ ý thức được quyền dân sinh, dân chủ, tự do của mình bị xâm phạm. Sau nữa, họ nhận ra một cách sâu sắc những áp bức, bóc lột và những mất mát, đau thương của chiến tranh mà phụ nữ Sài Gòn nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung phải gánh chịu. Muốn chấm dứt cuộc chiến tranh đó, muốn giành quyền sống của mình, muốn bảo vệ gia đình, gìn giữ những người thân yêu ruột thịt khỏi vòng chém giết, bom đạn, chỉ có con đường duy nhất là chấm dứt chiến tranh. Nhận thức ấy hình thành trong họ sức mạnh, trở thành vũ khí chiến đấu hiệu quả và không thể khuất phục. Thành lập trong sự phản đối của nhân dân miền Nam, nhà nước Cộng hòa của Ngô Đình Diệm ngay sau đó đã cho
- 486 - thấy bộ mặt thật trái ngược với những hứa hẹn ban đầu. Ngày 1/8/1954, đại biểu trí thức và lao động thành phố thành lập tổ chức Phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn dưới sự chỉ đạo của Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, đòi thi hành Hiệp định Genève. Ngày 23/10/1955, sau cuộc “trưng cầu dân ý”, Bảo Đại bị lật đổ, Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống, mặc cho tỉ lệ bầu cử không đạt con số hợp lệ: riêng tại Sài Gòn - Chợ Lớn, tổng số người đi bầu chưa đến 50% dân số(1). Để đổ lỗi thất bại của cuộc bầu cử cho Việt cộng, và tiêu diệt phần tử cách mạng còn lại ở miền Nam sau Hiệp định, Ngô Đình Diệm mở chiến dịch “Tố cộng, diệt cộng”, nhằm tách người dân ra khỏi “mối nguy” cộng sản. Chưa nhận được ích lợi gì từ chính quyền Diệm, nhân dân miền Nam đã phải đổ máu vô tội vì chiến dịch này. Chỉ tính đến cuối năm 1958, chính quyền đã giết hại khoảng 68.800 người, bắt giam 466.000 người, tra tấn thành thương tật 680.000 người(2). Nhân dân miền Nam rên xiết, ngay cả những bộ phận cư dân có vẻ như được hưởng đặc lợi cũng không chịu đựng nổi. Ngày 10/2/1957, linh mục Hồ Văn Vui nói: người Công giáo đang bị “đàn áp (…) dù có tội hay không có tội”(3). Trong các công xưởng, nhà máy, công nhân bị trả lương rẻ mạt, giờ làm việc kéo dài, bị cắt việc vô cớ, chị em nữ công nhân là những người gánh chịu hậu quả nặng nề hơn cả. Đây là bối cảnh, là nguyên nhân cho các cuộc đấu tranh của nhân 1. Cục Văn thư & Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2016), Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam qua tài liệu, tư liệu lưu trữ (1960 - 1975), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 77. 2. Lê Cung, “Phong trào đô thị miền Nam trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước”, in trong sách: Lê Cung (chủ biên), Về phong trào đô thị tại miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, 1954 - 1975, Sđd, tr. 49. 3. Cục Văn thư & Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II (2016), Sđd, tr. 78.
- 487 - dân Sài Gòn, kết hợp mục tiêu hòa bình với đòi hỏi quyền dân sinh dân chủ. Chính quyền Ngô Đình Diệm càng phớt lờ yêu cầu tiến hành tổng tuyển cử, nhân dân miền Nam càng quyết liệt yêu cầu phải có một đại diện cho mình trong cuộc đấu tranh đòi thống nhất đất nước. Trung ương Cục miền Nam đã quyết định tiến hành xây dựng một tổ chức tập hợp và lãnh đạo phong trào đến khi đạt mục tiêu sum họp hai miền Nam - Bắc. Sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20/12/1960 thể hiện ý chí chung của nhiều tầng lớp xã hội, đảng phái, tôn giáo tại miền Nam: lật đổ chế độ dân chủ trá hình do Mỹ bảo trợ. Tuyên bố của Mặt trận nêu rõ: “Chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các dân tộc, các đảng phái, các đoàn thể, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam Việt Nam không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện: độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hòa bình, trung lập ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”(1). Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, các tầng lớp nhân dân xích lại gần nhau hơn. Hoạt động đấu tranh đã có kim chỉ nam là đường lối của Đảng. Mỗi người dân đấu tranh không chỉ để đòi quyền lợi cho mình và giai cấp mình, mà còn vì mục tiêu chung. Cán bộ phụ nữ được cài vào hoạt động ở các đô thị. Để tạo mối liên hệ gắn với với nhân dân, các cán bộ hội thực hiện phương châm “ba hóa” (hợp pháp hóa, quần chúng hóa, nghề nghiệp hóa) và “ba cùng” (cùng ở, cùng lao động, cùng đấu 1. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1961, tr. 9.
- 488 - tranh). Nhờ đó, các chị nhận biết các nhân tố tích cực ở địa phương, kêu gọi tham gia vào Hội Phụ nữ Giải phóng, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Tự vệ mật. Những địa chỉ này trở thành nơi che chở cho thanh niên trốn quân dịch, tuyển chọn lực lượng vũ trang tại chỗ. Lịch sử ghi nhận, trong giai đoạn này, Sài Gòn - Gia Định có khoảng 40 căn cứ chính trị như trên được hình thành, trong đó có phần lớn công sức của cán bộ Hội Phụ nữ. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động Việt Nam Cộng hòa, các cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ tại Sài Gòn - Gia Định tăng dần qua các năm: 1960: 227 cuộc; 1961: 287 cuộc; 1962: 324 cuộc; 1963: 503 cuộc(1). Phụ nữ luôn có mặt trong cuộc đấu tranh chung với khí thế quyết liệt khiến đối phương kinh ngạc: nữ sinh Võ Thị Bạch Tuyết chỉ huy chiến dịch đốt xe Mỹ từ năm 1961 đến khi chiến tranh kết thúc; ni sư Huỳnh Liên và “đội quân đầu tròn” trong phong trào Phật giáo 1963,… Mỗi tầng lớp xã hội tại miền Nam đã có riêng cho mình một hội đoàn tập hợp lực lượng trong sự nghiệp đấu tranh chung. Tính đến ngày đất nước thống nhất, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chủ trương thành lập và điều phối trên 20 tổ chức thành viên, vươn chân rết vào nội đô, tiêu biểu là: - Đảng Nhân dân Cách mạng miền Nam Việt Nam - Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. 1. Nguyễn Thị Định, “Đấu tranh chính trị, ba mũi giáp công (trích)”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 22.
- 489 - - Hội Nhà giáo yêu nước miền Nam Việt Nam (ra đời tháng 4/1964) - Hội Nhà giáo yêu nước Sài Gòn - Gia Định (1965). - Hội Liên hiệp Học sinh Sinh viên Giải phóng miền Nam Việt Nam (ra đời ngày 9/1/1961). - Hội Nông dân Giải phóng (ra đời ngày 20/2/1961). - Hội Lao động Giải phóng (ra đời ngày 27/4/1961, sau đổi thành Liên hiệp Công đoàn Giải phóng). - Hội Văn nghệ Giải phóng (ra đời ngày 15/7/1961) - Hội Văn nghệ Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định (1963). - Hội Nhà báo yêu nước và dân chủ miền Nam (ra đời tháng 10/1961). - Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam (ra đời ngày 20/4/1968) - Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình khu Sài Gòn - Gia Định… Cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn đã trở thành tâm chấn, lan tỏa và tiếp sức cho hành động của đồng bào các tỉnh thành khác trên toàn miền Nam. Trên nền đấu tranh chung đó, giữa khí thế sục sôi ở đô thành, phụ nữ hòa vào phong trào của các giai tầng khác, trở thành một trong những lực lượng góp tiếng nói đáng kể trong cuộc đấu tranh chung. Đứng trước thực tế hiện tại: phụ nữ không chỉ là nạn nhân về sinh mạng mà còn bị xúc phạm nhân phẩm trong chiến tranh, trí thức Sài Gòn, trong đó có phụ nữ, đã nhận định đó là một nguy cơ, phải tổ chức đấu tranh, hành động để bảo vệ quyền lợi của giới mình. Ngày 1/7/1967, tạp chí Sinh viên của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, số thứ 4, đăng loạt bài: “Đời sống phụ nữ trong chiến tranh”, “Vai trò và trách nhiệm của nữ giới trong việc xây dựng xã hội tương lai”, “Từ gắn máy,
- 490 - Suzuki, đĩ điếm đến vai trò người nữ sinh viên”(1). Không chỉ có phụ nữ lên tiếng bảo vệ phụ nữ, đông đảo tầng lớp nhân dân đã nêu cao vai trò của giới nữ đối với đất nước, tố cáo tội ác chiến tranh mà phụ nữ là nạn nhân. Học sinh - sinh viên Sài Gòn sớm có diễn đàn riêng để đấu tranh với chế độ quân dịch và xa hơn là phản kháng chính sách văn hóa - chính trị của chính quyền nói chung. Giữa hàng ngũ sinh viên Sài Gòn đấu tranh chống Mỹ, nổi bật các gương mặt nữ. Chị Trần Thị Ngọc Hảo - sinh viên trường Dược, là Phó Chủ tịch ngoại vụ Ban Chấp hành Tổng hội nhiệm kỳ 1967 - 1968. Chị Huỳnh Quan Thư - sinh viên trường Văn khoa, là Tổng Thư ký Ban Chấp hành Tổng hội nhiệm kỳ 1967 - 1968. Chị Nguyễn Thị Tố Liên - sinh viên trường Vạn Hạnh, là Ủy viên Báo chí Ban Chấp hành Tổng hội nhiệm kỳ 1967 - 1968(2). Giai đoạn Tổng hội Sinh viên phải rút vào bí mật do Nguyễn Văn Thiệu ráo riết truy bắt những người lãnh đạo phong trào đòi hòa bình, từ tháng 2 đến tháng 7/1969, chị Trần Thị Ngọc Hảo đảm nhận vị trí quyền Chủ tịch thay Chủ tịch Nguyễn Đăng Trừng đã ra vùng giải phóng. Chị Nguyễn Thị Yến - sinh viên trường Văn khoa, Thủ quỹ Tổng hội nhiệm kỳ 1969 - 1971 - là người tham gia phái đoàn Tổng hội Sinh viên đến nhà Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ đòi hủy bỏ quân sự hóa học đường, đòi trụ sở mới thay cho trụ sở 207 Hồng Bàng đã bị 1. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 305. 2. Hồ Hữu Nhựt, “Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn - Gia Định (1954 - 1968)”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 299.
- 491 - chiếm giữ(1). Chính chị cũng là người liên lạc với dân biểu Hồ Ngọc Nhuận giúp giải cứu anh Huỳnh Tấn Mẫm bị cảnh sát vây bắt(2). Chị em phụ nữ thuộc nhiều tầng lớp được cách mạng giác ngộ, tham gia ngày càng nhiều trong các tổ chức chính trị, tổ chức cách mạng và nắm giữ không ít vị trí quan trọng trong các cuộc đấu tranh. Các tổ chức của giới nữ được thành lập: Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng (8/3/1961); triển khai nhiều hoạt động đấu tranh chính trị công khai và bán công khai với vũ khí sắc bén là lý lẽ, luật pháp quốc tế, thực trạng xã hội; xây dựng, phát triển lực lượng đấu tranh ngày càng sâu rộng bằng cách kêu gọi, vận động, tập hợp chị em phụ nữ thuộc các giai tầng khác nhau trong xã hội; kết nối, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân các nước trên thế giới bằng khả năng ngoại ngữ, tài hùng biện và ngoại giao;… Phụ nữ trở thành người dẫn dắt chị em mình, giai tầng mình và thu hút quần chúng quanh mình cùng hành động vì mục tiêu hòa bình dân tộc, công bằng xã hội. 1. Nguyễn Cao Kỳ đã chấp thuận giao nhà số 4 đường Tú Xương (nay là Nhà Thiếu nhi Thành phố), nằm trong dinh Quốc khánh của Phó Tổng thống để Tổng hội Sinh viên Sài Gòn làm trụ sở tạm. Nguyễn Cao Kỳ còn cấp trái lựu đạn MK3 để học sinh sinh viên đánh sập các thùng phiếu bầu cử tổng thống. Nguồn: Lê Văn Nuôi (2005), “Dùng vũ khí Nguyễn Cao Kỳ phá bầu cử tổng thống”, báo Tuổi trẻ online, ngày 22/4/2005, nguồn: https://tuoitre.vn/dung-vu-khi-nguyen-cao-ky-pha-bau-cu-tong-thong-67304. htm, truy cập ngày 30/12/2017. 2. Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận đã gọi Nguyễn Cao Kỳ, Kỳ cử sĩ quan lái hai xe jeep cùng dân biểu Nhuận đến giải vây và chở Huỳnh Tấn Mẫm ra ngoài. Nguồn: Hàn Giang (2010), “Đi biểu tình bằng máy bay của Nguyễn Cao Kỳ”, báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26/4/2010, nguồn: http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/di-bieu-tinh-bangmay-bay-cua-nguyen-cao-ky- 198661.html, truy cập ngày 30/12/2017. Nguyễn Cao Kỳ giúp Tổng hội Sinh viên Sài Gòn là để lợi dụng học sinh sinh viên phá Nguyễn Văn Thiệu trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1971, vì Thiệu đã gạt Kỳ ra khỏi liên danh bầu cử trong khi Kỳ đang là phó tổng thống.
- 492 - Bước sang thập niên 1970, phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn đã có những bước phát triển về chất. Giới nữ thể hiện thái độ chính trị của mình dưới những hình thức ngày càng đa dạng, gây ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân. Phong trào phụ nữ đòi quyền sống hoạt động mạnh mẽ, tập hợp 22 đoàn thể của phụ nữ Sài Gòn nói riêng cũng như của phụ nữ miền Nam nói chung, trong đó có cả những tổ chức hợp pháp như Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, lẫn những hội đoàn khác như Hội các bà mẹ có con ở tù. Ni sư trưởng Huỳnh Liên lãnh đạo Giáo hội Khất sĩ Ni giới Việt Nam, mở rộng phong trào phụ nữ đòi quyền sống trong Phật tử sang các “nghi lễ Phật giáo bất bạo động” - cầu nguyện hòa bình, tuyệt thực, đêm không ngủ, cầu an, cầu siêu, xuống tóc, tự thiêu,… - đậm bản sắc giáo giới trong tinh thần nhập thế cao đẹp. Nữ dân biểu Kiều Mộng Thu tổ chức chiêu đãi tại khách sạn Continental để “chào mừng bà Ngô Bá Thành ở tù về”, thực chất là để ra mắt Lực lượng chính trị thứ ba tại miền Nam Việt Nam trước nhân dân và truyền thông quốc tế, nhằm chuẩn bị tư cách hợp pháp cho các hoạt động đấu tranh bảo vệ Hiệp định Paris. Hoạt động của các đoàn thể dưới sự lãnh đạo của Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng không chỉ nhằm tác động đến chiến lược nội bộ các bên tham chiến, mà còn hướng đến mục đích tranh thủ sự ủng hộ quốc tế. Ngày 5/1/1971, đại diện Liên hiệp Quốc tế Phụ nữ Mỹ vì hòa bình và tự do (WILPF, The Women’s International League for Peace and Freedom) đã đến Sài Gòn, cùng với đại diện 17 đoàn thể phụ nữ miền Nam (Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ bảo vệ nhân phẩm, Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, Liên đoàn Phụ nữ Phật tử,…), tổ chức Đại hội quốc tế phụ nữ. Đại hội lịch sử này còn có sự tham gia của
- 493 - Phái đoàn sứ giả hòa bình quốc tế đến từ Đại hội quốc tế phụ nữ vì hòa bình Việt Nam, họp tại New Delhi. Thành viên phái đoàn gồm Chủ tịch phân bộ Mỹ, Pháp, Canada, New Zealand, Australia. Đại hội ra tuyên bố chung gồm 4 điểm: 1. Phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mỹ thỏa hiệp đồng ý duy trì mối bang giao hòa bình giữa hai dân tộc; 2. Phụ nữ bất hợp tác với bất cứ hoạt động nào nhằm kéo dài và nuôi dưỡng chiến tranh do chính quyền Nam Việt Nam và Mỹ chủ trương; 3. Phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mỹ đòi hỏi Tổng thống Mỹ Nixon phải công bố ngay một lịch trình rõ ràng triệt thoái toàn bộ quân đội, cố vấn Mỹ và đồng minh ra khỏi Việt Nam, cùng chấm dứt mọi viện trợ nuôi dưỡng chiến tranh; 4. Kêu gọi phụ nữ toàn thế giới chung tay với phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mỹ đem lại hòa bình trên căn bản dân tộc tự quyết cho nhân dân Việt Nam(1). Đại hội đưa ra quyết định gồm 3 điểm: 1. “Thỏa ước hòa bình được ký kết giữa Phong trào phụ nữ Việt Nam đòi quyền sống và Liên hiệp quốc tế phụ nữ Mỹ vì hòa bình và tự do; 2. Thực hiện Quyết nghị của Đại hội quốc tế phụ nữ New Delhi, mỗi phụ nữ sẽ gửi một tấm thiếp đến Tổng thống Nixon đòi công bố ngay lịch trình rút quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam trước tháng 6/1971; 1. Nguyễn Thị Định, “Đấu tranh chính trị, ba mũi giáp công (trích)”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 27.
- 494 - 3. Phong trào phụ nữ Việt Nam đòi quyền sống gia nhập WILPF để tác động có hiệu quả vào hoạt động của WILPF trong kế hoạch đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam thông qua các cấp hội quốc gia của WILPF”(1). Cuộc đấu tranh của phụ nữ Sài Gòn đã đánh động không chỉ các hội đoàn phụ nữ quốc tế, mà còn nhận được những khích lệ lớn lao từ nhiều nữ trí thức, thường dân các nước: cụ bà Hetz tự thiêu phản đối Mỹ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam; nữ phóng viên Ba Lan Monica Vernenska đến tận Sài Gòn, gia nhập các đoàn biểu tình chống chính quyền Cộng hòa(2); nữ dân biểu Bella Abzug của bang New York, Mỹ, viết “Điều trần về vấn đề tù chính trị và tình hình miền Nam trước Quốc hội Mỹ”(3). Họ đã lên tiếng với lương tri đứng về phía một dân tộc và sự đồng cảm sâu sắc với những chị em đang phải gánh chịu cuộc chiến tranh phi nghĩa ở một đất nước mà trước đó đối với họ hoàn toàn xa lạ. Trong mạng lưới tổ chức thành viên trực thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng được đánh giá là giữ vai trò quan trọng. Điều đó thể hiện ở cơ cấu Ủy ban Trung ương và số lượng hội viên tỏa khắp các lĩnh vực tranh đấu. Tại Đại hội lần thứ I Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bình - Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng được 1. Ngô Bá Thành, “Phong trào đô thị và lực lượng chính trị thứ ba với đàm phán và đấu tranh thi hành hiệp định Paris”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 41. 2. Nguyễn Thị Định, “Đấu tranh chính trị, ba mũi giáp công (trích)”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 28. 3. Ngô Bá Thành, “Phong trào đô thị và lực lượng chính trị thứ ba với đàm phán và đấu tranh thi hành hiệp định Paris”, trong sách: Lê Cung (chủ biên) (2015), Về phong trào đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Sđd, tr. 42.
- 495 - cử làm Ủy viên Trung ương. Cùng với những hội đoàn khác, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng và các tổ chức trực thuộc sẽ đảm nhận vai trò dẫn dắt, đưa các cuộc đấu tranh của giới nữ hòa vào dòng chảy của sự nghiệp thống nhất đất nước. Ở các tổ chức cơ sở Đảng địa phương, chị em phụ nữ cũng đảm nhận nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng. Trong thời kỳ 1954 - 1975, Đảng bộ Quận 2 (ngày nay là Quận 3) có sự tham gia lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi) - Bí thư Quận ủy, đồng chí Sáu Nhỏ - cán bộ Quận ủy, đồng chí Phạm Thị Sứ (Năm Bắc) - Bí thư Chi bộ khu Bàn Cờ, Quận ủy viên, đồng chí Nguyễn Thị Quế - Bí thư Chi bộ Trần Quý Cáp, đồng chí Lê Thị Bạch - Ủy viên Ban Cán sự Quận, đồng chí Võ Thị Chí - Bí thư Chi bộ Bàn Cờ, đồng chí Nguyễn Thị Loan Anh (Năm Nga) - Phó Bí thư Liên phường ủy 3A, đồng chí Trần Thị Lý (Sáu Trung) - Ủy viên Liên phường ủy 3A, Phan Thị Tốt - Bí thư Liên quận 1 - 3, đồng chí Hồ Thị Mười (Bảy Long)- Ủy viên Liên quận 1 - 3, Hứa Thị Tuyết Hoa (Chín Vi) - Bí thư Chi bộ (dự bị) Bàn Cờ; Đảng bộ Quận 3 (ngày nay là Quận 5, Quận 10, Quận 11, Quận 8) có sự tham gia lãnh đạo của đồng chí Tư Định - Bí thư, đồng chí Lê Thị Huệ (Chín Trang) - Ủy viên Thường vụ Quận ủy, đồng chí Lê Thị Tuyết Mai - Bí thư Chi bộ Phú Định, Bình Tiên, đồng chí Trang Thị Nghi - Bí thư Chi bộ Chợ Quán; chị Phan Thị Thanh Thuyền - Chi ủy viên Đảng ủy xã Tân Tạo;… Một số chị em phụ nữ là đảng viên, cán bộ hội phụ nữ được Đảng phân công vào các tổ chức quần chúng công khai; trở thành nòng cốt, kịp thời tập hợp, cổ vũ tinh thần người dân, hỗ trợ và triển khai các phong trào, hoạt động đấu tranh chính trị trong nội thành. Chị Nguyễn Thị Phương - Chủ tịch
- 496 - Nghiệp đoàn chợ Bàn Cờ - tập hợp chị em tiểu thương, yêu cầu chính quyền Sài Gòn sửa lại chợ, lấy lại sạp vào tháng 5/1956. Các đảng viên Võ Thị Chí, Nguyễn Thị Lan Chi tham gia vào Tổng Liên đoàn Lao động, công khai tuyên truyền, kêu gọi nhân dân đấu tranh vì hòa bình. Chị Nguyễn Thị Hoan - Chủ tịch Liên đoàn phật tử Việt Nam - cũng là một đảng viên. Chị Nguyễn Thị Cẩm nhận được sự tín nhiệm, trở thành Chủ tịch nghiệp đoàn mua bán chợ Bình Tây; vận động chị em tiểu thương ở chợ tham gia vào các cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân lao động thành phố, trong đó có cuộc biểu tình ngày 1/5/1955. Từ năm 1967, Hội Phụ nữ Giải phóng được thành lập ở các cơ sở. Tại Quận 6, chị Ngô Thị Tùng là Chủ tịch Hội Phụ nữ Giải phóng, với 120 hội viên; nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ chị Lê Thị Huệ. Ở khu vực Quận 6, cán bộ cách mạng tham gia vào “Hội Tương trợ chị em” của nữ công nhân dệt người Hoa, hoạt động bán công khai, nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc sống và tuyên truyền về cách mạng. Từ năm 1960, Hội Giải phóng được thành lập trong các xí nghiệp như Vimytex, Vinatexco, Hiệp Thành, Hải Vinh, Con Ó,… Từ đó, chủ trương đấu tranh, thông tin cách mạng được phổ biến rộng rãi hơn đến nhân dân lao động; đồng thời, những nữ cán bộ trong tổ chức này cũng là nòng cốt tổ chức, hướng dẫn phong trào đấu tranh chính trị công khai của công nhân. Nhân lực nòng cốt cũng được phân công về các cơ sở để xây dựng lực lượng trong quần chúng, ví dụ như lực lượng tự vệ mật. Giai đoạn 1969 - 1975, chị Vũ Thị Lan Chi, chị Hồ Thị Mười, chị Trương Thị Thu Thủy, chị Trần Thanh Hương đã bám trụ ở Quận 3; tìm kiếm trong trường học, trong khu lao
- 497 - động, trong các xí nghiệp các thanh niên có phẩm chất cách mạng để thuyết phục vào đội tự vệ mật. Sự trưởng thành của lực lượng phụ nữ được công nhận thông qua hệ thống tổ chức và hệ thống nữ cán bộ lãnh đạo các phong trào đấu tranh. Trên bình diện quốc tế cũng như trong nước, các tổ chức phụ nữ và sự đóng góp của họ trong phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc đã được khẳng định mạnh mẽ. Thái độ chính trị thể hiện rõ nét, dưới nhiều hình thức và có sức ảnh hưởng lớn đối với toàn thể xã hội - đó chính là thành quả quan trọng xuất phát từ việc gia tăng số lượng và nâng cao vị thế của lực lượng phụ nữ Sài Gòn những năm 1954 - 1975. Nhận thức và vị thế chính trị của lực lượng phụ nữ Sài Gòn đạt đến tầm cao mới thông qua những diễn biến lịch sử của giai đoạn này, nhưng quan trọng hơn là thông qua quá trình đấu tranh sôi nổi, quyết liệt, nắm bắt các thời cơ, có thái độ chính trị đúng đắn, kịp thời và lập trường đấu tranh cách mạng kiên định, thống nhất trong lập trường đấu tranh vì độc lập tự do của toàn dân tộc. Thành quả của giai đoạn này là hệ thống tổ chức của lực lượng phụ nữ, là vị trí chính trị trên trường tranh đấu trong nước và quốc tế, là sức mạnh đấu tranh được dẫn lối đúng đắn bằng mục tiêu chung và đường lối cách mạng của Đảng, là đóng góp thiết thực và to lớn vào chiến thắng 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 4. Khẳng định phẩm chất và kế thừa truyền thống của phụ nữ Việt Nam Phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ Sài Gòn - Gia Định nói riêng không xa lạ với chiến tranh. Họ đã quen thuộc, gần
- 498 - gũi với hình ảnh những Bà Trưng, Bà Triệu quật cường đứng lên chống lại xích xiềng phong kiến, cho đến những nữ chiến sĩ chống giặc ngoại xâm thời chống Pháp. Vì vậy, họ không cảm thấy quá băn khoăn khi suy nghĩ và đặt mình vào vị trí người chiến sĩ. Lịch sử dân tộc được lưu truyền qua truyện sử, qua ca dao - tục ngữ, qua cải lương - kịch nói,… nhắc nhở phụ nữ Sài Gòn - Gia Định rằng đã từng có những chiến công kỳ diệu do các thế hệ nữ giới trước đó viết nên từ lòng yêu nước, sự đảm đang, bản lĩnh kiên cường - những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt. Và họ chính là những người kế thừa, tiếp bước. Trên mặt trận đấu tranh văn hóa, phụ nữ không chỉ là lực lượng tham gia trực tiếp, mà còn là những hình tượng sống động dưới ngòi bút và bàn tay dàn dựng tiết mục của các nghệ sĩ. Phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe” có nhiều câu hát lấp lánh hình ảnh phụ nữ, là nạn nhân trực tiếp của sự đàn áp, nhưng cũng là những người chiến sĩ kiên cường, là hậu phương che chở và tiếp sức cho tiền tuyến: Công trường chiều nay ta mơ thấy một ngày trọng đại Người công nhân tay búa tay cờ Em nữ sinh hàng vạn lá truyền đơn Đàn bướm trắng hiên ngang về làm gió bão. (Công trường chiều nay - Nguyễn Phú Yên, Võ Quê) Hò ơi, lúa thương người chẳng thương người Đêm đêm tiếng súng (ơ) ngày ngày tiếng bom Lúa chờ gặt vội hôm qua Mẹ về không được lúa ra tro tàn,… (Gặt vội lúa vàng - Hải Hà)