- 199 - chủ. Tầng lớp tiểu tư sản gồm ba bộ phận: trí thức, tiểu thương và thợ thủ công, trong đó, trí thức chiếm tỷ lệ không nhỏ. Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có đội ngũ công chức được Pháp đào tạo và sử dụng đông đảo, có chuyên môn. Trong tầng lớp học sinh, sinh viên, đã quy tụ khá nhiều phụ nữ có trình độ học vấn nhất định và có tinh thần dân tộc. Rất nhiều trong số này đã tiếp thu được nền văn hóa Pháp và văn minh phương Tây, tích cực tham gia các hoạt động, vận động giải phóng dân tộc. Nhiều phong trào cách tân, duy tân, dân chủ ở Nam Bộ được khởi xướng từ tầng lớp trí thức thanh niên mới. Ngay từ năm 1946 đầu năm 1947, hàng loạt công ty tư bản Pháp đã triển khai việc kinh doanh tại những vùng đất tái chiếm đóng, như: Sài Gòn, Chợ Lớn, Hải Phòng, Hà Nội… Với lợi thế là nơi hình thành các cơ sở công nghiệp đầu tiên (xưa nhất là xưởng Ba Son từ cuối thế kỷ XVIII), Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tiếp tục phát triển các công xưởng và mở rộng đội ngũ công nhân. Số lượng công nhân trong vùng địch tạm chiếm của Nam Bộ cao gấp nhiều lần so với Bắc Bộ và Trung Bộ (cuối năm 1947 - đầu năm 1948, trong vùng địch tạm chiếm của Nam Bộ có 90.300 công nhân, Trung Bộ có 19.630 công nhân, Bắc Bộ có 8.863 công nhân). Từ năm 1950, số lượng công nhân vùng địch tạm chiếm ở Nam Bộ tiếp tục tăng lên, dao động trong khoảng 150.000 người, chủ yếu thuộc các doanh nghiệp kỹ nghệ và thương mại ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các đồn điền cao su. Năm 1950, số lượng công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định khoảng 120.000 người, cao gấp nhiều lần so với các thành phố tạm bị chiếm khác (Đà Nẵng, Hải Phòng…)(1). Dưới sự kiểm soát 1. Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 80, 87.
- 200 - của thực dân Pháp, công nhân cũng như dân lao động ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ít có điều kiện học tập để nâng cao trình độ văn hóa và chuyên môn, phần đông còn bị mù chữ hoặc mới biết đọc, biết viết. Tuy vậy, với sự phát triển chung của trình độ dân trí trong những năm 1945 - 1954, tỷ lệ dân lao động và công nhân có chuyên môn trong một số ngành sản xuất phát triển đã gia tăng đáng kể trong giai đoạn này. “Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, trong ngành điện - nước, vào tháng 12/1949 mới có 399 công nhân chuyên môn nhưng chỉ hai năm sau đã có 541 người. Trong ngành cơ khí và luyện kim tại Sài Gòn - Chợ Lớn, tháng 12/1949 có 654 công nhân chuyên môn nhưng đến tháng 6/1957 đã có 2.341 người”(1). Ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong giai đoạn 1945 - 1954, do tình hình kháng chiến chống thực dân Pháp, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch đặc biệt. “Trong khi ở Bắc Bộ và Trung Bộ, bộ phận công nhân công nghiệp đang dần phục hồi, tập trung lại về mặt số lượng, thì tại Nam Bộ xảy ra tình trạng gần như đảo ngược: trừ một bộ phận khoảng 10.000 công nhân thuộc đủ các ngành nghề từ các đô thị, mà nhiều nhất từ Sài Gòn - Chợ Lớn, chuyển ra chiến khu làm việc trong các công binh xưởng hoặc kháng chiến, còn một bộ phận lớn hơn đã trực tiếp tham gia vào lực lượng vũ trang cách mạng, anh dũng chiến đấu mặt đối mặt với quân thù tại Sài Gòn - Chợ Lớn và nhiều thành phố khác”(2). Trong hoàn cảnh chiến tranh bùng nổ sớm nhất, lực lượng công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn đã bị phân tán và chuyển hóa khá phức tạp và sâu sắc. Đáp lời kêu gọi của Ủy ban kháng 1. Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Sđd, tr. 93. 2. Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Sđd, tr. 16.
- 201 - chiến Nam Bộ, công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vừa tham gia phong trào phá hoại kinh tế địch tại hàng loạt bến cảng, trung tâm kinh tế và đô thị; đồng thời, sau Chỉ thị 4/ NV năm 1947 kêu gọi nhân dân Nam Bộ ra các căn cứ cách mạng phục vụ kháng chiến, 6.000 viên chức, thợ thuyền Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được chuyển dần lên chiến khu, trong đó có 1.000 công nhân chuyên môn của các ngành kỹ thuật, thuộc các xí nghiệp quan trọng của Pháp như Ba Son (400 thợ giỏi), FACI (200 công nhân) và pháo binh (100 công nhân)(1). Họ gia nhập đội ngũ 10.000 công nhân công nghiệp của toàn Nam Bộ được Đảng, chính quyền và công đoàn các cấp của Nam Bộ đưa dần lên các chiến khu và đã trở thành lớp công nhân đầu tiên, phần lớn có trình độ chuyên môn khá, làm việc trong các cơ sở kinh tế kháng chiến của Nam Bộ. Đông đảo nam nữ viên chức, công nhân từ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã tham gia xây dựng các công binh xưởng ở căn cứ kháng chiến, cung cấp vũ khí đạn dược cho các mặt trận. Trong khi đó, ở lại trong các khu địch tạm chiếm của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, các lực lượng đấu tranh đã trở thành môi trường lớn thu hút đông đảo công nhân và dân lao động tham gia: trong lực lượng tự vệ kháng chiến của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có 60% công nhân tham gia(2). Tuy từ lâu Sài Gòn được người Pháp gọi là “hòn ngọc Viễn Đông”, nhưng danh xưng này chủ yếu chỉ vùng đất thuộc địa ăn chơi xa hoa của thực dân, không phản ánh thực chất cuộc sống của người Việt dưới thời Pháp thuộc. Ở Sài Gòn - Chợ 1. Theo Dự thảo tổng kết công tác công vận Sài Gòn - Chợ Lớn từ trước tổng khởi nghĩa đến hòa bình lập lại, 1962 - Tài liệu số CĐ 440 lưu trữ tại Ban Lịch sử Việt Nam hiện đại - Viện Sử học, tr. 50. 2. Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Sđd, tr. 22.
- 202 - Lớn những năm 1945 - 1954, quyền lợi kinh tế chủ yếu trong tay người Pháp và một số tư bản lớn người Hoa, người Việt phần lớn là những người làm công nghèo khổ bị bóc lột trong các xưởng và công sở… Sau khi sát nhập Chợ Lớn vào thành phố Sài Gòn vào đầu thế kỷ XX, Sài Gòn - Chợ Lớn đã trở thành đô thị lớn nhất xứ Đông Dương thuộc Pháp, tuy nhiên diện tích cũng chỉ 51km2 . Trong đó, cho đến tận năm 1954, dù nhiều lần mở rộng địa giới, người Pháp cũng chỉ tập trung tô điểm sự xa hoa sang trọng ở một khu vực trung tâm khoảng chừng 3km2 (nửa diện tích Quận 1 hiện nay), phần còn lại của Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn còn hoang sơ, nhiều nơi là đầm lầy. Để đổi lấy sự xa hoa sang trọng của thành phố, đại đa số người Việt và người lao động Hoa kiều phải làm việc cực nhọc với đồng lương rẻ mạt. Nhà sưu tầm, nghiên cứu Vương Hồng Sển ghi lại: “Ngủ khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò beefsteak, uống rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp, hút thuốc phiện và chơi gái thì, với thủy thủ tàu viễn dương và đám thực dân đến từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là hòn ngọc Viễn Đông đâu có gì lạ… Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), Xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui…”(1). Những xóm lao động nghèo mới là bức tranh chủ đạo của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định suốt thời Pháp thuộc. 1. Vương Hồng Sển (2004), Sài Gòn năm xưa, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 85.
- 203 - b. Văn hóa Trong bối cảnh văn hóa - xã hội đặc trưng của mình, thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đồng thời cũng phải đương đầu với những vấn đề chung của toàn dân tộc. Nạn mù chữ phổ biến là một vấn nạn lớn. Nhân dân lao động nghèo ở thành phố cũng như những vùng ven (Gia Định, Chợ Lớn) đại đa số nghèo đói, mù chữ. Nạn mù chữ ở nông thôn nặng hơn nhiều ở thành thị, ở phụ nữ nhiều hơn nam giới. Từ những năm 1930 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, các trí thức yêu nước đã tổ chức Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ và phát động phong trào chống nạn thất học. Phong trào được khởi đầu ở các đô thị lớn như Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ… rồi lan rộng ra các tỉnh. Ngay sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận định nạn đói, nạn dốt là vấn nạn quốc gia và phát động phong trào cứu đói, phong trào xóa mù chữ. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng ngày 3/9/1945, Hồ Chủ tịch đề ra nhiệm vụ “chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Ngày 8/9/1945, Chính phủ ban hành các sắc lệnh “… đặt ra nhiệm vụ công tác Bình dân học vụ trong toàn cõi Việt Nam…, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ” và quyết định thành lập Nha Bình dân Học vụ. Tháng 10/1945, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Toàn dân chống nạn thất học”. Ở miền Nam, hưởng ứng lời kêu gọi, Hội và các Chi hội truyền bá Quốc ngữ tuyên truyền vận động người dạy, người học và người bảo trợ Bình dân học vụ. Nhưng phong trào chỉ phát triển rầm rộ được 1 tháng đầu sau Cách mạng tháng Tám. Khi giặc Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, phong trào tạm lắng. Mãi đến năm 1947, Ủy ban kháng chiến hành chính
- 204 - Nam Bộ mới quyết định thành lập Ban Bình dân Học vụ, ở các tỉnh cũng đồng thời thành lập Tiểu ban Bình dân Học vụ. Sở Giáo dục Nam Bộ mở 2 lớp sư phạm cấp tốc đầu tiên trong năm 1947, đào tạo được 200 nam nữ giáo viên dạy bình dân học vụ cho toàn miền(1). Năm 1948, lực lượng bình dân học vụ phát triển đến xã ấp với khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt/ Một người biết chữ là thêm một viên đạn bắn vào đầu quân thù”, có nơi phong trào phát triển đến sát vùng địch tạm chiếm, như xã An Phú Đông (Gia Định), cách Sài Gòn 4 cây số. Chính Gia Định là tỉnh đạt thành tích sớm và nổi bật nhất Nam Bộ với xã Quới Xuân (huyện Gò Vấp) là xã đầu tiên của Nam Bộ xóa mù chữ trong năm 1948, số người trong tỉnh thoát mù chữ đạt tỷ lệ khá cao, hơn 70% dân số vùng giải phóng. Ở một số xã khác trong tỉnh như Bình Lý, Tân Mỹ, Tân Hiệp,… phong trào đi học của nhân dân và phụ nữ cũng rất sôi nổi(2). Cùng với xã Quới Xuân, xã Tân Kiên (huyện Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn) cũng là một trong hai xã đầu tiên làm lễ mừng công xóa xong nạn mù chữ. “Cuối năm 1949, chiến dịch thi đua toàn dân diệt dốt đã trở thành cao trào rộng khắp trong vùng giải phóng Nam Bộ, quần chúng thất học hưởng ứng nhiệt tình, đăng ký xin học rất đông, nhất là chị em phụ nữ”(3). Trường lớp lúc này được tổ chức khắp nơi trên các vùng đất Nam Bộ: ở trường học, ở nhà riêng, trong đình chùa, trong trụ sở, trên bờ ruộng. Bà con sống nghề sông nước thì tới đậu ghe thuyền lại, học ngay trên thuyền của mình. Người biết chữ dạy cho người không 1. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 11. 2. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 16. 3. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 36.
- 205 - biết chữ, chồng dạy cho vợ, con dạy cho mẹ, cháu dạy cho bà, trẻ già đều học, tập đọc, tập viết, tập làm toán. “Ở miền Đông Nam Bộ, để thực hiện việc kiểm tra chữ viết của chị em đi chợ, có cổng kết hoa, cắm cờ, chị em đi qua đọc “được” thì cho đi”(1). Nhân dân ủng hộ phong trào hết mình, sẵn sàng cho mượn nhà cửa, bàn ghế, dầu đèn để mở lớp, giúp đỡ in sách vần quốc ngữ, mua tập vở, phấn bút… Một nhà in tư nhân trong thành Sài Gòn - Gia Định đã bí mật in 10 nghìn quyển vần quốc ngữ tặng ngành Bình dân học vụ tỉnh Gia Định. “Tính đến đầu năm 1950, toàn Nam Bộ đã có 800.000 người trong vùng giải phóng được xóa nạn mù chữ, đạt khoảng 56% số người mù chữ trong diện…”(2). Phong trào phát triển mạnh mẽ trong cả các nhà tù thực dân. Đồng chí Hoàng Minh Viễn (Phó Giám đốc đầu tiên của Trường Trung học bình dân Nguyễn Công Mỹ) kể lại cuộc đấu tranh học tập của Liên đoàn tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn với khẩu hiệu “Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng” trong những năm 1946 - 1948”: Một hệ thống lớp học gồm 5 lớp được đặt ra: lớp vỡ lòng, lớp dự bị, lớp sơ đẳng, lớp nhì, lớp nhất. Để thực hiện được chương trình trong toàn khám, một tờ học báo lấy tên là Truyền bá được xuất bản. Kết quả của công tác bổ túc văn hóa và bình dân học vụ ở Khám Lớn vượt cả mơ ước. Rất nhiều anh chị em lúc vào Khám còn mù chữ, phải ký tên vào sổ nhà tù bằng một chữ thập gạch nguệch ngoạc. Nửa năm, một năm sau, khi được thả, lên phòng giấy làm thủ tục, thì đã ký tên, viết chữ thành thạo, làm 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 109. 2. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 37.
- 206 - bọn giặc mất công truy cứu lại hồ sơ để xem có gọi thả lầm người không!(1) Để giải quyết nạn đói và tăng cường sức mạnh dân tộc, phục vụ trường kỳ kháng chiến, Chính phủ cách mạng phát động các phong trào thi đua trong dân chúng khắp ba miền. Ngày 1/5/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi anh chị em lao động cả nước nhân ngày Quốc tế lao động. Người kêu gọi giai cấp công nhân, nhân dân lao động đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, mà trọng tâm thi đua là: Quân đội thi đua giết giặc lập công. Công nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Người trí thức thi đua sáng tác, phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến. Ở các vùng nông thôn của Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng, dân chúng tích cực tăng gia sản xuất, trong đó vai trò chính thuộc về phụ nữ. “Trai tráng ra tiền tuyến, việc làm ruộng ở “hậu phương” được phụ nữ đảm đương thay thế. Đây là sự đảo lộn to lớn trong tập quán canh tác. Vốn trước, khâu làm đất (cày, bừa, trục, đắp bờ) và nhổ mạ, phụ nữ không phải làm. Còn cấy, nam giới không tham gia. Chỉ khâu thu hoạch, hai giới làm chung. Đến khi trong nhà không còn nam thanh niên nữa, phụ nữ nhảy vào cầm cày, đứng bừa, đứng trục và cả nhổ mạ… Cày bừa ban đêm, để phòng bị “lỏi” thì phía trước đôi trâu có đèn, có người dắt. Nghe hơi động máy bay, thì thổi đèn. Đêm, leo lên cây cao nhìn 1. Nhiều tác giả (1995), Dạy và học trong những năm Nam Bộ kháng chiến (1945 - 1954), Sđd, tr. 92, 93, 94.
- 207 - cánh đồng ruộng, có những đốm đèn như sao sa mặt đất…”(1). Không chỉ đảm đương tất cả các khâu sản xuất lương thực, phụ nữ còn tích cực ủng hộ các phong trào do Chính phủ phát động, như “Mùa đông binh sĩ”, “Tuần lễ vàng”, “Quỹ tham gia kháng chiến”… Trong các vùng giải phóng, trên mặt trận văn hóa, đời sống Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cũng có những thay đổi tích cực, đặc biệt ở khu vực nông thôn vốn trước đây còn lạc hậu. Phụ nữ các huyện cử cán bộ tham gia tuyên truyền “Đời sống mới”, vận động nhân dân đắp đường, bắc cầu, sửa sang nhà cửa, thực hiện nếp sống văn minh, ăn ở vệ sinh, nhà cửa sạch sẽ, trật tự. Nam Bộ có nhiều kênh rạch, cộng thêm hoàn cảnh sống nghèo nàn khiến trước đây, người dân thường nhiễm nhiều bệnh tật. Để phòng ngừa bệnh thường gặp nhất là dịch tả, cán bộ phụ nữ tuyên truyền người dân phải ăn chín uống sôi, không ném xác súc vật chết xuống kênh, vận động làm nhà vệ sinh, văn minh. Quan trọng hơn là “đời sống mới” trong tinh thần dân chúng, phải bỏ bớt những hủ tục trong cưới xin, ma chay. Phong trào “Đời sống mới” được đẩy mạnh, đã góp phần loại bỏ các hủ tục, xây dựng nếp sống vệ sinh, xây dựng quan hệ tốt đẹp trong gia đình, trong thôn xóm. Trật tự trị an được giữ vững, nạn trộm cắp, cờ bạc, rượu chè, đồng bóng lễ bái cũng giảm. Phụ nữ được hưởng lợi rõ rệt từ sinh hoạt văn hóa này. Trong bối cảnh nhộn nhạo thời kỳ Pháp chiếm đóng, những điểm son về văn hóa đã gắn liền với cách mạng, với phong trào giải phóng dân tộc và các vùng tranh đấu. 1. Huỳnh Châu Sổ, “Nhớ về văn hóa kháng chiến bưng biền”, in trong sách: Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 447.
- 208 - c. Xã hội Dưới chế độ thực dân Pháp, người phụ nữ lao động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định phải loay hoay để sống còn trong đời sống xã hội rối ren, thu nhập còm cõi trong khi nhiều gia đình thiếu vắng người đàn ông trụ cột (chồng chết, đi bộ đội, bị bắt lính…). Trong khi đó, những tàn dư của chế độ phong kiến vẫn còn dấu ấn trong đời sống của phụ nữ, khiến họ không thể ngang vai với nam giới trên mặt trận chính trị và xã hội. Khuôn “tam tòng tứ đức”, “tề gia nội trợ”, ép uổng phận duyên vẫn kìm kẹp người phụ nữ, đặc biệt ở các vùng nông thôn Gia Định, Chợ Lớn. Lời hiệu triệu của Ủy ban Sáng kiến Phụ nữ Ái hữu Sài Gòn - Chợ Lớn phác họa một bức tranh sơ lược về đời sống của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn những năm Pháp thuộc: “Hỡi chị em! Theo tình hình sanh sống của chị em phụ nữ lao động hiện thời, về mặt học thức ta nhận rõ, đa số chị em công nhân, nông dân lao động đều bị cái nạn thất học, chỉ có một thiểu số chị em con nhà tư sản được học hành, nhưng các chị em có học đó không được bổ dụng vào các ngạch quan trường, chỉ được làm cô giáo, cô mụ, điều dưỡng, và ngồi biên chép ở các cửa hàng. Giờ làm nhiều, đồng lương ít, lại bị đối đãi không được ngang hàng với đàn ông, thêm bị chửi mắng, đánh đập, cúp phạt sa thải là khác. Chị em đem bán sức lao động các công xưởng kỹ nghệ và các xí nghiệp lớn để mưu sự sống còn, công việc làm thì bằng đàn ông mà tiền lương lại lãnh ít hơn. Chị em lao công tư gia, khâu đầm, giữ con, nấu ăn, bồi bếp lại làm nhiều giờ hơn hết, làm ngày, làm đêm, làm quá sức lao động, sự đối đãi càng cay nghiệt.
- 209 - Chị em mua gánh bán bưng, thức khuya dậy sớm, chạy gió, dầm mưa, đầu đường góc chợ để kiếm chút đồng lời nuôi sống, vì giá sanh hoạt mắc mỏ, thêm ba tăng tiền chỗ quá cao làm cho sự sống khốn cùng, vất vả…”(1). Trên báo chí Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thời đó, khá nhiều phóng sự ghi nhận đời sống phụ nữ, trong đó nổi bật nhất là tập phóng sự Bức tranh thành thị của Đặng Thị Thanh Phương (năm 1950). Cùng là phụ nữ, nữ nhà báo đã tỉ mỉ tập hợp nhiều câu chuyện của những người bà, người mẹ, người vợ là dân lao động - tầng lớp yếu thế nhất trong xã hội, họ cùng chung một hoàn cảnh: phải loay hoay vất vả kiếm sống với thu nhập còm cõi để nuôi con khi chồng chết hoặc đi xa. Tác giả ghi chép lại thu nhập của từng nhân vật để người đọc có thể hình dung cụ thể sự khốn khó: “trong những mảng màu đen tối nhất của bức tranh thành thị vẫn sáng lên những tia hy vọng mỏng manh và ấm nồng tình cảm. Chị Khanh nghĩ đến chồng nơi xa để tiếp thêm nghị lực vượt qua khốn khó; bà Bá tuy “làm mà sống cho qua ngày” vẫn mong mỏi sớm được gặp lại đứa con trai đi xa; chị bán cà-rem không cho con gái đi bồng em cho người ta lấy một trăm đồng mỗi tháng vì “có mẹ có con còn hơn”; người đàn ông thổi sáo dạo vì quá thương người vợ đã chết vì sinh nở mà không thể bỏ con trong trại trẻ mồ côi, đành ôm đứa trẻ sơ sinh hành khất khắp các nẻo đường”(2). Phụ nữ lao động chiếm đại đa số trong giới phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thời Pháp thuộc. Trong số phụ nữ lao động thì số lượng nữ công nhân tăng lên nhanh chóng vào những năm 1945 - 1954. Để bù đắp cho sự thiếu hụt 1. Lời Hiệu triệu của Ủy ban Sáng kiến Phụ nữ Ái hữu Sài Gòn - Chợ Lớn (Bộ sưu tập Bùi Văn Quế - SG71), tr. 152. Bản điện tử tại Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn: http://192.168.17.17/libol/attach/doc/doc20061109TMCJ.pdf. 2. Nguyễn Thị Phương Thúy (2013), “Tác phẩm ký ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945 - 1954”, Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ, tập 16, số X2 - 2013, tr. 82 - 93.
- 210 - nhân công nam (do bị bắt đi lính) và thực hiện chủ trương tận dụng giá nhân công rẻ mạt, thực dân Pháp tăng cường dùng nữ công nhân và trẻ em trong các cơ sở sản xuất. Tiền công trả cho nữ công nhân rẻ hơn nhiều so với tiền trả cho nam công nhân ở Sài Gòn - Chợ Lớn, cuối năm 1949 trong 120 xí nghiệp sử dụng 6.470 thợ nam và 3.207 thợ phụ nữ với tiền công trung bình hằng ngày của nam giới là 15,40 đồng, của nữ giới chỉ có 11,30 đồng. Tháng 6/1950, qua một cuộc điều tra thì trong 84 xí nghiệp ở Sài Gòn - Chợ Lớn có 5.159 thợ nam hưởng tiền công trung bình hằng ngày mỗi người là 16,40 đồng và 2.836 thợ phụ nữ với 12 đồng/ngày công(1). Tình hình các nữ công nhân ở khu vực vùng ven Gia Định - Chợ Lớn cũng tương tự, thậm chí còn bị bóc lột thậm tệ hơn trong các đồn điền cao su. Năm 1949, tỷ lệ nhân công là phụ nữ được tuyển mộ từ các làng quê ở Bắc Bộ và Trung Bộ chiếm tới 10% trong số 2.500 nhân công mà Liên đoàn Cao su Đông Dương xin tuyển mộ. Theo tài liệu điều tra của một công sở ngụy quyền - Viện Thống kê và Khảo cứu kinh tế Việt Nam thì việc sử dụng nữ công nhân tại 18 đồn điền cao su Nam Bộ như sau: 4.967 công nhân nam có tiền công trung bình 24.85 đồng/ngày, 3.317 nữ công nhân có tiền công trung bình 22.35 đồng/ngày(2)… Như vậy, trong 18 đồn điền cao su ở Nam Bộ, nữ công nhân chiếm số lượng đáng kể trong tổng số công nhân, với khoản tiền công thấp nhất. Đã chịu cảnh bất công vì công việc làm như nhau, tiền lương không ngang nhau, chị em sinh đẻ còn không được nghỉ, không được trợ cấp, thậm chí còn bị đe dọa mất việc… Đau khổ hơn, phụ nữ vẫn còn thường xuyên phải chịu cảnh đánh đập, hãm hiếp… 1. Việt Nam kinh tế tập san, số 8/1953, tr. 430. 2. Nguyễn Hữu Hợp, Phạm Quang Toàn (1987), Giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954, Sđd, tr. 93.
- 211 - Trong năm 1954, để làm công tác vận động khối nữ công nhân xí nghiệp, bà Nguyễn Thị Thanh - nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, đã giả trang làm công nhân ở một xưởng dệt ở Thị Nghè, chủ là người Pháp. Bà kể lại trong hồi ký: “Xưởng này không lớn lắm, chỉ có khoảng 40, 50 công nhân, đa số là nữ… Suốt tám tiếng lao động, không có phút nào dành cho tiểu tiện. Tôi chưa quen với nếp sống này. Những ngày đầu thường phải đi vệ sinh giữa giờ, có lần tên gác-dan thấy tôi ở phòng vệ sinh ra, hắn cầm roi quất túi bụi vào đầu vào cổ tôi, chửi thề, văng tục, cảnh cáo sẽ cúp lương. Lao động trong xưởng, đối với tôi rất căng thẳng. Trong lúc điều khiển máy dệt, cả đầu óc và cặp mắt luôn phải tập trung theo dõi con suốt kéo sợi, để kịp thời phát hiện chỉ đứt hoặc bị rối mà sửa ngay, nếu để bị lỗi trên mặt vải, dù chỉ là một nút nhỏ, cũng sẽ bị phạt trừ lương. Do lao động căng thẳng, tôi không dám uống nước nhiều, nên bị mất sữa… Lúc tôi mới vào làm, chủ giao cho tôi đứng một máy, tháng sau đứng hai máy. Trong xưởng này, những người đã làm lâu đứng từ bốn đến sáu máy, người có tay nghề cao đứng đến tám máy. Lương tháng đầu tôi lãnh được có 360 đồng, trong khi lương của một thư ký văn phòng hoặc một nhân viên đánh máy thấp nhất lúc đó cũng được từ 1.800 đồng đến 2.000 đồng… Trong khi đó, chính mắt tôi thấy xí nghiệp đã chi cho mỗi con chó béc-giê của chủ mỗi ngày một cân thịt bò, bằng tiền lương trả cho công nhân trong một ngày…”(1). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lớp phụ nữ nông dân ở các vùng nông thôn rất phấn khởi, hồ hởi đón nhận 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 145, 146.
- 212 - chính quyền mới, thắng lợi về mặt tinh thần là rất lớn. Nhưng các chính sách mới chưa thể làm thay đổi ngay đời sống. Đến tận cuối năm 1952, Nam Bộ mới tiến hành cải cách ruộng đất. Đoàn thể phụ nữ các tỉnh có vai trò tuyên truyền, phát động quần chúng. Trong quá trình này, cán bộ đoàn thể phụ nữ chứng kiến nhiều tình cảnh đáng thương của phụ nữ nông dân, như chuyện một chị tá điền mang thai tám tháng bị địa chủ đánh đập dã man chỉ vì câu vài con cá ở bờ ruộng trên đất địa chủ, “đến khi được thả về, chị đau bụng đẻ, sanh ra đứa bé thiếu tháng bị chấn thương không nuôi được”(1). Hay một chuyện thương tâm hơn: “Ở cạnh Rạch Giá Nước Ngọn, có một tên địa chủ cưỡng hiếp con gái một tá điền. Cô này có thai, khy sinh xong bị vợ tên địa chủ kia cướp đứa con về nuôi, cách ly con với mẹ. Còn người mẹ bị buộc phải ở trong cái chòi nhỏ bên cạnh chuồng trâu một mình, ngày ngày chỉ quét chuồng trâu, chuồng heo, làm cỏ trong vườn, không được lên nhà trên và ra khỏi cửa, không được tiếp xúc với ai, chẳng bao giờ thấy mặt con. Chị sống như vậy đến có đứa con thứ ba với tên địa chủ, vẫn bị giam cầm, chẳng thấy mặt đứa con nào do chính mình mang nặng đẻ đau. Ba đứa trẻ lớn lên cứ tưởng vợ tên địa chủ là mẹ ruột. Đến khi đoàn phát động quần chúng đến ấp này, phát hiện ra sự việc mới giải phóng được người phụ nữ nông dân khốn khổ ấy, cấp đất, vận động bà con nông dân trong ấp giúp vốn cho chị tự làm ăn sinh sống, cho ba đứa trẻ nhìn nhận mẹ ruột. Ban Chấp hành Phụ nữ và Ban Cán sự ấp giới thiệu chị đi học bình dân học vụ, tham gia hoạt động xã hội, gia nhập Hội Phụ nữ. Lúc đó, chị mới được trả lại quyền làm người, quyền làm mẹ…”(2). 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 124. 2. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 124, 125.
- 213 - Đã chịu cảnh sống cơ cực và bị áp bức bất công, phụ nữ ở vùng nông thôn và kể cả thành thị còn có tập quán ít giao lưu, sống hạn hẹp trong gia đình nhỏ của mình, thường chia rẽ, cô độc, ít khi tập hợp thành tổ chức. Vì vậy, tiếng nói của phụ nữ nhỏ bé, ít có sức nặng, ít tác động ảnh hưởng. Ở thành thị Sài Gòn - Chợ Lớn, chỉ một số phụ nữ thuộc tầng lớp trí thức được học tập, tiếp thu nhiều tư tưởng dân chủ, đã tích cực tham gia nhiều hoạt động xã hội. Lực lượng này tuy ít ỏi, nhưng đã góp phần đáng kể trong việc phát triển các phong trào của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định trong 9 năm chống Pháp. Họ phát động các phong trào của phụ nữ thành phố, đi đầu trong việc vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia vào công cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ cũng tình nguyện đi về các vùng nông thôn, các khu căn cứ kháng chiến để phối hợp với cán bộ phụ nữ địa phương phát triển phong trào. Do đó, ở nông thôn, đội ngũ cán bộ phụ nữ có thành phần đa dạng, gồm cả trí thức và phụ nữ lao động. Chính đội ngũ này đã góp phần đem ánh sáng mới của đời sống cách mạng về với bà con nông dân, xây dựng các cơ sở cách mạng trong quần chúng. Những năm 1945 - 1954, nhìn chung phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng vẫn còn sống cực khổ, nghèo đói, bị áp bức. Nhưng sau những cao trào cách mạng trước năm 1945 và đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, hoạt động cách mạng đã tạo được tiền đề khá vững chắc để phụ nữ nhận thức tình hình chính trị và quân sự của đất nước. Sau khi Chính phủ cách mạng được thành lập, đời sống của phụ nữ có những chuyển động tích cực.
- 214 - II.PHONG TRÀO PHỤ NỮ SÀI GÒN - CHỢ LỚN - GIA ĐỊNH TRONG 9 NĂM CHỐNG PHÁP Đặc điểm chính trong tình hình giai đoạn này là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra trên phạm vi cả nước, thể hiện trên thực tế: nhiều vùng miền vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương, đan cài, xen kẽ “xôi đậu”. Trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đất nước tạm thời chia thành các vùng tự do kháng chiến và vùng tạm bị chiếm (ở Nam Bộ từ ngày 23/9/1945). Sau khi thực dân Pháp nổ súng, từ năm 1946 đến đầu năm 1947, Pháp đồng thời đã triển khai việc khai thác, kinh doanh tại những vùng đất tái chiếm đóng, như Sài Gòn, Chợ Lớn… Một mặt tiếp tục khai thác một thành phố đã được chúng đầu tư hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật, một mặt duy trì và khẳng định ảnh hưởng của chính sách văn hóa thuộc địa của Pháp. Thực dân Pháp kiểm soát khu vực thành phố Sài Gòn, một số địa phương khác, cùng với đường giao thông chính. Chúng lại hay lấn ra vùng tự do để thu hẹp dần địa bàn của ta. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Chợ Lớn, đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, đông đảo phụ nữ cùng với gia đình tản cư về nông thôn, tổ chức cuộc sống gia đình theo hoàn cảnh kháng chiến. Trong khi đó, phụ nữ các vùng nông thôn Gia Định, Chợ Lớn cũng như trong các căn cứ kháng chiến đón nhận những gia đình tản cư, giúp chị em ổn định đời sống, nhường cả ruộng đất để tăng gia sản xuất. Tại các vùng tự do kháng chiến của ta, các hoạt động phong trào đã được tổ chức hiệu quả. Lực lượng phụ nữ đã đóng góp xây dựng chính quyền cách mạng bằng hiệu quả thiết thực qua các hoạt động của mình.
- 215 - 1. Tham gia xây dựng chính quyền cách mạng Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng được thành lập, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định cùng với phụ nữ cả nước hăng hái tham gia xây dựng, ủng hộ chính quyền mới. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập đã đánh dấu một bước chuyển cơ bản trong đời sống của người phụ nữ: từ nay phụ nữ thực sự trở thành người chủ đất nước, làm chủ vận mệnh, cùng nam giới chung tay lo bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. a. Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I (1946) Như tinh thần của bản Hiến pháp đầu tiên, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên cả hai mặt nghĩa vụ và quyền lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng giải thích về quyền bình đẳng nam nữ được quy định trong Hiến pháp: “Bản Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới rằng dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do. Hiến pháp đã tuyên bố với thế giới phụ nữ Việt Nam đã đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng mọi quyền công dân”(1). Sự ủng hộ của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dành cho chính quyền cách mạng cũng là động thái ủng hộ một chính quyền bênh vực quyền lợi phụ nữ trong hoàn cảnh đời sống của người phụ nữ còn chịu bất công, thiệt thòi. Một trong những hành động xây dựng chính quyền cách mạng của phụ nữ là sử dụng quyền ứng cử và bầu cử trong cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, năm 1946. Lần đầu tiên trong lịch sử, các mẹ, các chị cầm lá phiếu bầu người đại diện cho mình và đã làm tròn nghĩa vụ công dân, bất chấp hành động ngăn cản, phá hoại của thực dân Pháp. 1. Võ Nguyên Giáp (2010), Những chặng đường lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 573.
- 216 - Đây là một sinh hoạt chính trị quan trọng nổi bật trong giai đoạn 1945 - 1954. Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức ngày 6/1/1946. Lần đầu tiên mọi người dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ được hưởng quyền bầu cử và ứng cử. Cuộc bầu cử được tiến hành sôi nổi trong cả nước, trong hoàn cảnh giặc phá hoại quyết liệt. Ngay trong vùng có chiến tranh, đồng bào vẫn tìm mọi cách tham gia bỏ phiếu. Phụ nữ không chỉ háo hức đi bầu mà trực tiếp tham gia tuyên truyền, vận động bầu cử, ứng cử… Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định bầu cử trong vòng vây ráp ác liệt, cán bộ nữ đưa thùng phiếu len lỏi vào quần chúng, 42 cán bộ trong đó có phụ nữ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ. Kết quả, 82% cử tri Sài Gòn - Chợ Lớn đã bỏ phiếu, với 40.000 lá phiếu bầu. “Ở các vùng Bà Hom, Bình Trị và ven đô, cán bộ phụ nữ ôm thùng phiếu đến từng nhà hướng dẫn bà con bầu cử; mỗi hộ (phường hiện nay) có từ 3 đến 4 thùng phiếu lưu động”(1). Cuộc tổng tuyển cử kết thúc thắng lợi, với kết quả trên cả nước: hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu, nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên, trong đó đàn ông 96%, đàn bà 4%; những người trong các đảng phái 57%, không đảng phái 34%, nông dân 22%, công nhân 6%, kỹ nghệ gia 6%, thương gia 5%; phụ nữ chiếm 48% tổng cử tri đi bầu, 10 phụ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội(2). Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lúc đó đã dồn phiếu cho bà Trịnh Thị Miếng - Hội trưởng Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Gia Định. Bà Trịnh Thị Miếng trúng cử đại biểu Quốc hội cùng 2 đại diện phụ nữ Nam Bộ khác là bà Nguyễn Thị Thập 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 96. 2. Trần Tường Vân, Nguyễn Quang Ân (1997), Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954: những sự kiện, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr. 44.
- 217 - và bà Ngô Thị Huệ. Trong số 10 nữ đại biểu Quốc hội, Nam Bộ có đại diện nữ của ba địa phương: bà Trịnh Thị Miếng, đại biểu tỉnh Gia Định; bà Ngô Thị Huệ, đại biểu tỉnh Bạc Liêu; bà Nguyễn Thị Thập, đại biểu tỉnh Mỹ Tho. Các bà đều là cán bộ kỳ cựu trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, trong phong trào 1936 - 1939, trong Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940 và trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Sau khi đắc cử Quốc hội, các bà đều tiếp tục hoạt động cách mạng ở hàng ngũ tiên phong, xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân và phụ nữ Nam Bộ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có Quốc hội, và trong Quốc hội có đại biểu nữ trúng cử. Những đại biểu Quốc hội nữ đầu tiên của Nam Bộ đó đã cùng với các đại biểu nam giới tham gia thảo luận bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có thể nói, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã được tham gia vào một sinh hoạt chính trị lớn lao, bởi đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nước ta có một Quốc hội dân chủ, tiến bộ do nhân dân cả nước bầu ra. b. Diệt “giặc đói”, diệt “giặc dốt”, diệt giặc xâm lăng Chính phủ cách mạng chủ trương giải phóng phụ nữ, đem lại quyền bình đẳng cho nữ giới. Từ bản Hiến pháp đầu tiên đến hiện thực cuộc sống sinh động là cả một chặng đường phân công, sắp xếp lại lao động của toàn xã hội, đưa phụ nữ tham gia vào nhiều ngành nghề như nam giới; tổ chức lại đời sống xã hội cũng như sinh hoạt gia đình để phụ nữ được giảm nhẹ công việc nhà, có điều kiện tham gia sản xuất, chiến đấu, được học tập nâng cao trình độ. Muốn vậy, đất nước phải dần thoát khỏi tình trạng nghèo đói, kiệt quệ sau Cách mạng
- 218 - tháng Tám, đồng thời phụ nữ cũng phải dần tham gia tích cực và đông đảo vào tiến trình tạo ra sự tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật của đất nước. Từ nhận định trên, khi Chính phủ cách mạng mới được thành lập, Hồ Chủ tịch đã kêu gọi phụ nữ hăng hái cùng toàn dân tham gia ba phong trào lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc xâm lăng. Để diệt giặc đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào toàn dân tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Người chủ trương “Mỗi một người và tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1). Với tinh thần “tấc đất tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang”, phụ nữ ba miền thi đua sản xuất lương thực cho gia đình và đóng góp nuôi quân. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, đông đảo phụ nữ cùng với gia đình tản cư về nông thôn, tổ chức cuộc sống gia đình theo hoàn cảnh kháng chiến. Trong khi đó, phụ nữ các vùng nông thôn Gia Định - Chợ Lớn cũng như trong các căn cứ kháng chiến đón nhận những gia đình tản cư, giúp chị em ổn định đời sống, nhường cả ruộng đất để tăng gia sản xuất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ cách mạng tịch thu điền địa của địa chủ để chia cho nông dân canh tác, hướng dẫn chị em phụ nữ vần công, đổi công để tăng gia sản xuất; giữ thóc, cất giấu lúa gạo… Từ năm 1948 đến năm 1951, đã có 6.111 hộ gia đình nông dân mà thành phần chủ chốt là phụ nữ của 18 xã trong 5 huyện (Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè, Trung Huyện (tức Bình Chánh)) ở Gia Định - Chợ Lớn được tạm cấp 4.854 mẫu ruộng đất, bình quân đạt 52% nông dân được 1. Dương Thoa (1982), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 29.
- 219 - tạm cấp đất đai(1). Từ đây, chị em lo cày bừa, phát cỏ - những việc mà trước đây nam giới đảm nhiệm. “Đi đến đâu cũng nghe bài hát “Lúa khoai ta gắng trồng” rộn rã khắp vùng căn cứ du kích. Ở những vùng mà địch bắn phá suốt ngày thì chị em đi sản xuất ban đêm. Làm ruộng rẫy ban đêm là một hiện tượng mới trong sinh hoạt ở nông thôn kháng chiến”(2). Trong điều kiện nam giới hầu như đi bộ đội, phụ nữ đảm nhận sản xuất chính và “cơ bản tự túc tự cấp được những nhu cầu thiết yếu đảm bảo cuộc sống và phục vụ chiến đấu”(3). Trước tình trạng tài chính kiệt quệ của đất nước năm 1945, để tái kiến thiết đất nước và phục vụ kháng chiến, Chính phủ phát động các phong trào quyên góp quy mô toàn quốc, như chương trình “Tuần lễ vàng” (16 - 24/9/1945) thu góp số vàng trong nhân dân và các nhà giàu có để củng cố quốc phòng, “Ngày phụ nữ ủng hộ Nam Bộ” (10/11/1945), “Quỹ tham gia kháng chiến” (lập ngày 16/5/1946) kêu gọi mỗi người dân đóng góp một số tiền bằng 10 ngày sinh hoạt phí của bộ đội, Quỹ “Mùa đông binh sĩ” (lập tháng 10/1946) nhằm quyên góp quần áo, tư trang cho quân đội, cuộc vận động “Ngày đồng tâm”, “Hũ gạo cứu quốc”… Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định tích cực quyên góp ủng hộ, có chị em đem cả tư trang cưới cho nhà nước. Đông đảo lực lượng chị em trong các tổ chức Phụ nữ Công thương, Phụ nữ Việt Nam… đã tích cực tham gia vận động ủng hộ tiền, vải, thuốc men để góp vào quỹ nuôi quân. Ở nội thành, cán bộ phụ nữ len lỏi vào các 1. Theo Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến khối Thông tin tỉnh Gia Định, Thông tin tuyên truyền Gia Định - những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tr. 20 - 22. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 105. 3. Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Nguyễn Thị Thập - Người con ưu tú của Nam Bộ thành đồng, Sđd, tr. 116.
- 220 - chợ; cán bộ, tổ chức đoàn thể. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức được thành lập ngày 20/10/1946, gồm nhiều đoàn thể phụ nữ trong đó Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là tổ chức trụ cột, lãnh đạo phong trào phụ nữ trong cả nước, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Phụ nữ còn vận động phong trào tiết kiệm, nhường cơm sẻ áo, lập quỹ cứu tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo, chuyên chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu, tổ chức các ban tiếp tế phục vụ kháng chiến. Mỗi địa phương đều có cán bộ phụ trách vận động phụ nữ ủng hộ kháng chiến, tiếp tế cho bộ đội. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn có một Ban tiếp tế đông trên 100 chị em, được thành lập từ những ngày đầu kháng chiến 9 năm chống Pháp, đặt trụ sở tại đình Rạch Da, lo tiếp tế lương thực, thực phẩm hàng ngày cho chiến sĩ và đồng bào tản cư. Chị em làm việc bất kể ngày đêm, đảm bảo đầy đủ và kịp thời những bữa ăn cho chiến sĩ. Ban tiếp tế tự lập cả một đội ghe thuyền, liên hệ tận các tỉnh miền Trung, miền Tây Nam Bộ để mua lương thực, thực phẩm; dự trữ thành những kho nhỏ rải rác dọc bờ sông Sài Gòn từ Thạnh Lộc xuống tới Thạnh Phú, đảm bảo đủ lương thực tiếp tế cho các cơ quan dân - quân - chính tại căn cứ An Phú Đông trong 6 tháng (9/1945 - 3/1946)(1). Căn cứ An Phú Đông còn nhận được sự ủng hộ của bà con các xã quanh khu vực. Mẹ Hai Ước ở xã Tân Thới Hiệp, mỗi ngày chèo xuồng đem hàng chục mo cơm ra Rỗng Tràm cho bộ đội ăn no đánh giặc. Tối đến bà đi vận động quyên góp tiền bạc để mai đi chợ sớm, rồi lại tiếp tục nấu cơm, cắt cỏ… Giặc bắt bà vào tù 12 lần, đốt nhà bà 6 lần, nhưng bà vẫn cười 1. Theo Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 92 - 93.
- 221 - và bảo: “Tao không sợ, đốt nhà này tao cất nhà khác”. Có lần ở tù về, nhìn cảnh nhà cửa tan hoang, chỉ còn trơ trụi những mảnh củi cháy đen, điều đầu tiên bà muốn biết vẫn là “bộ đội mình có bình yên không?”. Chính nhờ tấm lòng của những bà mẹ như thế mà quân cách mạng đã bám trụ làng An Phú Đông(1) làm căn cứ kháng chiến lâu dài(2). Phong trào quyên góp ủng hộ Chính phủ, ủng hộ kháng chiến đã thu hút phụ nữ mọi tầng lớp tham gia. Ở Sài Gòn, phu nhân các trí thức, thậm chí là phu nhân sĩ quan quân đội ngụy quyền, các tiểu thương khá giả, chị em công chức… đã có những động thái tích cực ủng hộ cách mạng: “có bà đóng hội phí mỗi tháng 1.000 đồng Đông Dương (nói là hội phí nhưng có tính chất ủng hộ cho cách mạng)”; “có bà quyên góp thuốc men, dụng cụ y tế, máy đánh chữ, giấy mực gửi ra chiến khu; có nhà, con trai là sĩ quan ngụy mà mẹ vận động lấy hàng ôm quần áo lính gửi vô chiến khu. Do binh vận giỏi nên đã có nhiều lính Pháp chuyên chở hàng tiếp tế cho ta sữa, thuốc Tây, vải, mùng mền, quần áo… xuống Tân Hiệp (Mỹ Tho), rồi từ đó chuyển vô khu căn cứ Đồng Tháp Mười”(3). Nhiều nữ trí thức tích cực thu gom thuốc men, dụng cụ y tế (dược sĩ Phạm Thị Yên, kỹ sư Huỳnh Thị Lẫm, nha sĩ Lê Thị Tỵ, Lê Thị Kế…); thu gom gạo, thực phẩm, nhu yếu phẩm chuyển ra chiến khu (nhà giáo Bùi Thị Nga, bà Nguyễn An Ninh, bà Tư Bá…). Nhiều chị em tiểu thương góp tiền hằng tháng để chuyển cho chính quyền cách mạng. Ở ven đô Sài Gòn (tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn), phụ nữ ngày đêm sản xuất, lập “hũ gạo nuôi quân”. Năm 1. Vùng đất nay thuộc phường An Phú Đông, Quận 12, vốn là chiến khu An Phú Đông - Thạnh Lộc đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp. 2. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 91 - 92. 3. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 134 - 135.
- 222 - 1950 là năm ngoại thành được mùa, cũng là năm phụ nữ cùng nhân dân đóng góp lương thực thực phẩm dồi dào nhất cho Chính phủ và quân đội. Hồi đó đã thành một tập quán cứ gần ngày Tết, các má, các chị nội thành, ngoại thành lại tập trung gửi ra chiến khu hàng tấn bánh, mứt, hàng ngàn khăn thêu để bộ đội và cán bộ đón xuân. Lúc chính quyền cách mạng phát động ủng hộ công binh xưởng, chị em hăm hở gom góp đồ đồng, đồ thau để đúc súng đạn. Trên mặt trận văn hóa tinh thần, phong trào diệt giặc dốt là một sinh hoạt văn hóa lớn lao trong giai đoạn 1945 - 1954, tác động sâu sắc đến phụ nữ. Trong Lời kêu gọi chống nạn thất học (tháng 10/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mọi người Việt Nam phải hiểu hết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phải biết đọc biết viết chữ Quốc ngữ. Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu và ứng cử”(1). Phong trào tác động đến nhận thức của phụ nữ khắp ba miền. Chỉ riêng mục tiêu diệt giặc dốt sẽ giúp 90% dân số thoát nạn mù chữ, trong đó phần đông là phụ nữ. Nhận thức được quyền lợi tinh thần và vật chất mà chính quyền mới đem lại là biểu hiện của việc giải phóng phụ nữ trong bước đầu của cách mạng giải phóng dân tộc. Từ đó, lực lượng phụ nữ vừa được giải phóng tham gia vào các hoạt động chính trị với nhiệt tình cách mạng sôi nổi. Người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định có ý thức tham gia tích cực phong trào xóa nạn mù chữ. Đông đảo phụ 1. Dương Thoa (1982), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, tr. 21.
- 223 - nữ đi học và dạy học. Trường lớp tổ chức được ở khắp nơi. Trong một thời gian ngắn, người dân cơ bản được phổ cập chữ Quốc ngữ. “… khắp đường làng, ngõ xóm, đâu đâu cũng gặp những nét mặt hồ hởi, những bóng dáng hoạt bát, khẩn trương của người phụ nữ… ban ngày tăng gia sản xuất, làm công tác kháng chiến, ban đêm, ngoài những buổi sinh hoạt chính trị, chị em học bình dân học vụ… Đường bờ trơn trượt, cầu khỉ lắc lư không làm giảm nhiệt tình học hỏi của các mẹ, các chị. Đêm đêm, khi các lớp học tan, từng hàng đuốc lá dừa tỏa ra khắp hướng, tạo nên cảnh vui tươi nhộn nhịp như những ngày hội hoa đăng”(1). Ở tỉnh Gia Định có bà Hồ Thị Bi (sau là Đại tá quân đội), bà Trịnh Thị Miếng (đại biểu Quốc hội năm 1946) tham gia cách mạng từ năm 1936 nhưng đều không biết chữ. Các đồng chí làm công tác tuyên truyền của huyện Hóc Môn kể lại lý do mà đội tuyên truyền lưu động hay đến bến đò Thới Thuận là vì “ở đó gần địa điểm của Ban Kinh tế của Ủy ban Kháng chiến Hành chính quận Hóc Môn do chị Hồ Thị Bi phụ trách. Mỗi lần gặp chị, chị thường tiếp tế cho anh em khi mấy viên thuốc, khi nắm thuốc rê, khi túi lương khô, đứa cái khăn rằn. Ngược lại chúng tôi phải đàn hát cho chị nghe và phải dạy học chữ cho chị nữa. Chị than làm Trưởng Ban tiếp tế mà chưa biết ký. Mọi giấy tờ chị chỉ gạc chữ thập”(2). Sau phong trào bình dân học vụ những năm 1945 - 1950, bà Hồ Thị Bi và bà Trịnh Thị Miếng đều được xóa mù chữ, đóng góp thiết thực vào hiệu quả công tác. 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 156. 2. Lê Ngọc Huy, “Vài mẩu chuyện vui trong công tác tuyên truyền quận Hóc Môn hồi kháng chiến 9 năm”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định: Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 2, tr. 81.
- 224 - Về phía đội ngũ giáo viên, đông đảo phụ nữ tham gia công tác giảng dạy. Ở tỉnh Gia Định, gia đình cụ Hồ Văn Thanh (ông Đốc Thanh) và cụ bà Nguyễn Thị Cho (bà giáo Cho) có 4 thế hệ (cha mẹ, con, cháu, chắt), 32 thầy cô giáo nối nghiệp “trồng người” trong hơn 80 năm (1915 - 2009). Cho đến năm 2009, vẫn còn 10 người là con, cháu nội ngoại, là chắt, đang đứng trên bục giảng hoặc công tác trong ngành giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy không thoát ly kháng chiến song thầy đã tiễn đưa 5 người con ra kháng chiến: bà Hồ Thị Hoa công tác ở Ty Công an tỉnh Gia Định; ông Hồ Kiển Xuân vào Binh công xưởng Trung đoàn 306 - 312 năm 1946; ông Hồ Kiển Tươi năm 1944 công tác ở Ủy ban Kháng chiến tỉnh Gia Định, hy sinh ở An Phú Đông; ông Hồ Kiển Tiên tham gia cách mạng từ năm 1945; bà Hồ Thị Duyên thoát ly năm 1947. Ông bà và các con Hồ Thị Duyên, Hồ Thị Châu, Hồ Thị Thấm, Hồ Hoàng Kim cùng nhiều học trò đều tham gia kháng chiến tại tỉnh Gia Định trong phong trào Bình dân học vụ và công tác giảng dạy bậc tiểu học ở địa phương. Việc dạy học duy trì nửa công khai nửa bí mật đến tận những năm 1953 thì thực dân Pháp phải chịu lùi và cất cho ba gian nhà lá để các anh chị em ra dạy ở đó(1). c. Phong trào “Đời sống mới” Hưởng ứng chính sách của chính quyền cách mạng, cùng với phong trào xóa nạn mù chữ, phụ nữ nhanh chóng tham gia phong trào “Đời sống mới”, xây dựng nếp sống mới, quy tắc mới về quan hệ xã hội. Phụ nữ Nam Bộ nói chung hết lòng hưởng ứng cuộc vận động làm tốt đẹp hơn đời sống của 1. Hồ Thị Duyên, “Hồi ức một thời”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định: Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 2, tr. 186 - 191.
- 225 - mình. Bà con đoàn kết, tương trợ, tổ chức ma chay, cưới xin tiết kiệm; có ý thức đến trạm y tế khi đau ốm, sinh đẻ; dần loại bỏ những hủ tục mê tín dị đoan… Phong trào Đời sống mới thực sự tác động đến nhận thức và hành động của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Nếp sống mới được xây dựng trên cơ sở tôn trọng phụ nữ, giải phóng phụ nữ khỏi hủ tục, đem lại chất lượng sống tốt hơn cho nhân dân. Nhận thức được điều này, đại đa số phụ nữ trong các vùng giải phóng của tỉnh Gia Định và Chợ Lớn ra sức ủng hộ chính quyền cách mạng. Như một quan hệ tương hỗ hai chiều, khi phụ nữ tham gia càng tích cực vào sự phát triển của công cuộc kháng chiến và kiến quốc, thì quyền bình đẳng của phụ nữ trên nhiều mặt càng được hiện thực hóa. Để ủng hộ chính quyền cách mạng, phụ nữ tham gia cải cách ruộng đất, nhờ vậy phụ nữ nông dân được chia ruộng và có thể tạo ra giá trị sản xuất như nam giới. Để chung tay bảo vệ đất nước, phụ nữ cũng tham gia chiến đấu; trong quá trình đó, họ được học tập, đào tạo, bồi dưỡng, không bị hạn chế năng lực. Phụ nữ đã có mặt rộng rãi trên các lĩnh vực mà chính quyền cần, từ y tế, văn hóa, giáo dục, khoa học… Trong đông đảo quần chúng phụ nữ đã tích cực củng cố chính quyền cách mạng, đại đa số đi theo tiếng gọi của các phong trào, đem ý chí, vốn liếng và sức lao động của mình để đóng góp cho thành công của cách mạng. Bên cạnh đó, có những phụ nữ Nam Bộ và phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã nổi bật hẳn lên trong hàng ngũ, trở thành những người dẫn đầu, người khởi xướng phong trào. Đa phần họ được giác ngộ chính trị sớm, được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam, có ý thức cách mạng sâu sắc. Bà Nguyễn Thị Thập - Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ, từng là một nữ chỉ huy phong trào cách
- 226 - mạng lừng lẫy của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định (trước năm 1945) và của Nam Bộ nói chung (1945 - 1954). Bà sớm có quan điểm về tổ chức cơ sở Đảng sâu sắc và đúng đắn, như: phải xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng rộng rãi khắp cả nông thôn và thành thị; phải thống nhất hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến địa phương, chấm dứt thời kỳ phân biệt về tổ chức và hoạt động. Trong giai đoạn đầu của 9 năm chống Pháp, ở Nam Bộ có hai hệ thống tổ chức Đảng cùng hoạt động, chung mục tiêu đấu tranh nhưng phương thức hoạt động, hình thức, chủ trương đấu tranh khác nhau, là Xứ ủy Tiền phong và Xứ ủy Giải phóng. Bà Nguyễn Thị Thập lãnh đạo Xứ ủy Giải phóng nhưng đã sớm nhận thấy đây là điểm làm suy yếu sức mạnh cách mạng, nên đã nhiều lần chủ động đề cập việc thống nhất hai tổ chức. Bà nêu rõ trong cuộc gặp đồng chí Trần Văn Giàu (lãnh đạo Xứ ủy Tiền phong): “Nhật giờ coi như gần thất bại. Chúng ta phải thống nhất lực lượng cho mạnh, nếu để hai tổ chức thì lực lượng sẽ phân tán và tác dụng yếu đi. Dù muốn hay không, nếu mỗi tổ chức cứ bảo thủ cho hoạt động của mình là hay thì sẽ làm hại cho cách mạng. Chúng ta có hai tổ chức, bây giờ nên thống nhất với nhau”(1). Từ đó, bà chủ trương thống nhất hành động, thống nhất hình thức tổ chức quần chúng, thống nhất tờ báo Tiền phong và báo Giải phóng thành một cơ quan ngôn luận chung… Những diễn tiến sau đó của cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp đã cho thấy quan điểm của bà là đúng đắn, đón đầu xu thế và phù hợp với đường lối đấu tranh chung. 2. Xây dựng tổ chức chính trị phụ nữ Phụ nữ chiếm khoảng một nửa dân số Việt Nam, là một lực lượng cách mạng quan trọng, nhưng trước khi được Đảng 1. Nguyễn Thị Thập - Hồi ký, lưu tại Viện Lịch sử Đảng, tr. 8.
- 227 - Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, phụ nữ chưa được tập hợp thành các đoàn thể chính trị mạnh mẽ, có tôn chỉ và mục đích. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phụ nữ dần được tập hợp trong các tổ chức chính trị nhằm phát huy sức mạnh tập thể vào công cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Đường lối lãnh đạo phong trào phụ nữ của Đảng luôn mềm mỏng, sát với thực tế, có tính định hướng xây dựng hệ thống tổ chức và lực lượng phong trào một cách tích cực. Từ thời kỳ trước đó, tháng 9/1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về công tác phụ vận: “…Phải tùy theo hoàn cảnh mà tổ chức Hội Phụ nữ tân tiến, Phụ nữ thể dục, Hội Những người mẹ chống chiến tranh, Hội Ái hữu, Hội Tương tế, Hội Ca hát, vệ sinh trẻ con, trường nữ công… không phải theo một thứ tự tên mà lấy nhiều tên khác nhau, miễn có cái giống nhau là giác ngộ phụ nữ chống phản động thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, huấn luyện chị em có ý thức đòi nam nữ bình quyền. Không câu nệ hình thức tổ chức, miễn hoạt động được công khai, rộng khắp, miễn bao gồm được nhiều chị em nhất, nghĩa là thực sự mạnh”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ “Muốn thâu phục được hết các phần tử phụ nữ thì ngoài sự công tác trong phụ nữ công nông ra, Đảng lại cần phải tổ chức ra các đoàn thể phụ nữ “phụ nữ hiệp hội” mục đích là mưu quyền lợi cho phụ nữ, làm cho phụ nữ được triệt để giải phóng”(2). Theo đó, để tập hợp thành công, lực lượng phụ nữ đông đảo, thì bên cạnh mục tiêu cách mạng, cần đề xướng những yêu cầu thiết thân với chị em, như đấu tranh không để phụ nữ phải làm công đêm, làm việc nguy 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, “Quá trình phát triển”, Website Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, nguồn: http://www.phunu.hochiminhcity. gov.vn. 2. Văn kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ, tr. 12.
- 228 - hiểm; tiền lương ngang bằng với nam giới; được nghỉ thai sản; bỏ các hủ tục và chế độ áp bức đối với phụ nữ (ép duyên, năm thê bảy thiếp, vợ hầu vợ lẽ…); phụ nữ được nuôi con nếu li dị… Trên tinh thần bênh vực quyền lợi chung của các tầng lớp nhân dân, trước hết của công nông, và quyền lợi riêng của phụ nữ, trong những năm trước 1945, các tổ chức chính trị của phụ nữ lần lượt ra đời trên toàn quốc, từ Hội Phụ nữ phản đế đến Hội Phụ nữ Dân chủ, Hội Phụ nữ Giải phóng, Hội Phụ nữ Tân tiến, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc…, thu hút các tầng lớp phụ nữ thành một mặt trận lớn mạnh đấu tranh dưới ngọn cờ của Đảng. Hoạt động thống nhất trong các tổ chức chính trị, sức mạnh phong trào đấu tranh yêu nước của phụ nữ góp phần thúc đẩy cách mạng tiến tới; đồng thời, phong trào cách mạng phát triển lại tạo điều kiện giải phóng lực lượng phụ nữ, đẩy phong trào của các tổ chức phụ nữ lên cao. Trước Cách mạng tháng Tám, ở thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, các tổ chức phụ nữ phát triển mạnh mẽ với các hoạt động quyên gạo, quyên tiền, diễn thuyết, văn nghệ, tổ chức lớp học, lớp cứu thương, phụ vận… Trong đó, có Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập ngày 16/6/1941, đến trước Cách mạng tháng Tám mới rải rác có ở một số xã. Đoàn Phụ nữ Cứu quốc lúc đó mới chỉ bao gồm được đông đảo chị em công nhân, nông dân và một số chị em tiểu tư sản học sinh(1). Sau năm 1945, theo chủ trương chung của Xứ ủy Nam Bộ, Hội Phụ nữ Tiền phong và Hội Phụ nữ Giải phóng cùng hợp nhất vào tổ chức của Đoàn Phụ nữ Cứu quốc; từ đây, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc phát triển nhanh, quy mô lớn mạnh, rải rác ở 40 xã (5 huyện) của tỉnh Gia Định và Chợ 1. Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1961, tr. 4.
- 229 - Lớn. Ở chiến khu, các vùng nông thôn, dù phải đối phó với các cuộc càn quét của giặc nhưng trong các tiểu tổ Phụ nữ Cứu quốc, phụ nữ hội họp, bàn bạc, học tập tình hình thế giới và trong nước, học các chủ trương của chính quyền, tham gia xây dựng chương trình hành động của Hội. Vào thời điểm khi thực dân Pháp mới quay trở lại xâm chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ nữ cùng đồng bào thành phố tản cư về vùng nông thôn, tổ chức phụ nữ trong nội thành bị xáo trộn, nhưng ở ngoại thành, ở các huyện thuộc tỉnh Gia Định và Chợ Lớn, đoàn Phụ nữ Cứu Quốc vẫn hoạt động mạnh. Sau khi cuộc kháng chiến dần ổn định, lực lượng cách mạng luồn sâu vào nội thành, vận động phụ nữ vào tổ chức Hội. Từ năm 1947, đoàn thể phụ nữ phát triển đều, hoạt động mạnh. Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định có Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc từ tỉnh đến huyện(1). Lòng yêu nước tiềm ẩn trong những người phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và toàn Nam Bộ được khơi dậy qua thông điệp “cứu quốc”. Năm 1946, số đoàn viên trên toàn Nam Bộ lên đến 1 triệu(2). Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là tổ chức đóng vai trò rất lớn trong công tác động viên, tổ chức phụ nữ tham gia các hoạt động kháng chiến, kiến quốc giai đoạn 1945 - 1954. Sự phát triển nhanh chóng của tổ chức này cho thấy tinh thần cách mạng của đông đảo phụ nữ công nhân, nông dân, học sinh sinh viên, tiểu tư sản, lớp nghèo thành thị… Tổ chức bài bản của Đoàn Phụ nữ Cứu quốc từ cấp xã, đường phố, chợ… đến cấp huyện, quận, tỉnh thành… cũng cho thấy khả năng quản lý đặc trưng của nữ giới trong công tác cách mạng. Tuy nhiên, 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh - Ban Sử truyền thống, Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 200 - 201. 2. Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Sđd, tr. 4.
- 230 - đoàn viên Đoàn Phụ nữ Cứu quốc đại bộ phận là nữ công nhân lao động, nữ nông dân, nữ học sinh, sinh hoạt cơ sở bí mật ở tiểu tổ. Những năm đầu, Đoàn chủ yếu hoạt động bất hợp pháp, không thể thu hút được các tầng lớp phụ nữ khác. Nhiệm vụ đoàn kết và tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp phụ nữ thành một lực lượng lớn mạnh để cùng toàn dân phấn đấu hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cải thiện đời sống phụ nữ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới, đòi hỏi phải có một tổ chức rộng rãi thích hợp hơn. Thực hiện chỉ thị của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn mở rộng mặt trận liên hiệp phụ nữ, cán bộ hội đã vận động, tập hợp nhiều tầng lớp phụ nữ vào các tổ chức khác nhau, như: Phụ nữ Công thương (phụ nữ tiểu thương, doanh nghiệp), Phụ nữ Việt Nam (phụ nữ trí thức, tư sản, công tư chức), Phụ nữ Phật giáo… Do đó, bên cạnh Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là tổ chức nòng cốt của phong trào phụ nữ nói chung, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định còn có nhiều tổ chức chính trị của phụ nữ khác: Hội Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Xã hội, Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ Công thương, Phụ nữ Lao động, Phụ nữ Phật giáo, Phụ nữ Trí thức… Đoàn Phụ nữ Cứu quốc hoạt động bí mật, trong khi các tổ chức phụ nữ khác chủ yếu hoạt động công khai. Có sức ảnh hưởng khá lớn là Hội Phụ nữ Việt Nam, có hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới ở Sài Gòn - Chợ Lớn và nhiều tỉnh, tập hợp những chị em nhân sĩ trí thức, công thương gia và một số vợ con công chức trong bộ máy chính quyền Sài Gòn, đồng thời có chân rết trong các chợ, các xóm lao động. Hội Phụ nữ Việt Nam và nghiệp đoàn đã làm nòng cốt công khai cho nhiều cuộc đấu tranh của giới cũng như những cuộc đấu tranh chung giai đoạn sau năm 1945.
- 231 - Ngoài ra, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn còn phát triển nhiều tổ chức bán công khai khác như các nhóm nữ công gia chánh (dạy và học làm bánh, nấu ăn, may thêu, đan móc len), Hội đồng hương, Hội ái hữu tương tế, Hội cúng đình cúng chùa… Các tổ chức này hoạt động sôi nổi, thực dân Pháp khó lòng đàn áp. Riêng với Đoàn Phụ nữ Cứu quốc trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn, tổ chức bí mật của phụ nữ là tổ nòng cốt, mỗi tổ ba người, mỗi người nắm một số quần chúng tích cực, mỗi quần chúng tích cực nắm một số quần chúng cảm tình, vận động chị em phụ nữ theo hình thức rễ, chuỗi. Các tổ trưởng phụ trách nhóm 3 người có nhiệm vụ hướng dẫn nhóm học tập các tài liệu về 5 bước công tác và công tác tiểu tổ. Trong một hộ (tương đương quận hiện nay) thường có nhiều tổ Phụ nữ cứu quốc được tập hợp thành Liên tổ. Trong khi đó, ngày 20/10/1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập, là thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ thế giới. Hội ra mắt các tầng lớp phụ nữ tại Hà Nội và tuyên bố chương trình hoạt động. Hội Liên hiệp Phụ nữ vừa có tính chất một đoàn thể, vừa có tính chất một mặt trận để đoàn kết các tổ chức phụ nữ và các cá nhân phụ nữ yêu nước, tán thành độc lập dân tộc, bảo vệ hòa bình thế giới. Trên cơ sở thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, tháng 4/1950, tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ I ở Việt Bắc, theo chủ trương của Đảng thống nhất các lực lượng phụ nữ kháng chiến thành một khối, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc hợp nhất vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, với 3 triệu hội viên. Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là bộ phận trụ cột của Hội, hoạt động tích cực thi hành chủ trương của Hội. Đoàn Phụ nữ Cứu quốc phát triển mạnh mẽ cơ sở trong quần chúng phụ nữ lao động công nông. Hội Liên hiệp phụ nữ phụ trách vận động đoàn
- 232 - kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trí thức, công thương, nội trợ gia đình. Hội thống nhất từ cơ sở lên đến toàn quốc(1). Ngay sau đó, cơ quan Phụ nữ Nam Bộ tổ chức Đại hội phụ nữ Nam Bộ tại Rạch Ruộng, huyện Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá. Đây là cuộc họp lớn nhất của đoàn thể phụ nữ trong những năm kháng chiến chống Pháp nhằm thống nhất mọi lực lượng phụ nữ. Các tổ chức như Phụ nữ Cứu quốc, Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ Cao Đài, Phụ nữ Phật giáo, Công giáo hợp nhất vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nội dung chương trình kỳ họp này phản ánh rõ nét phong trào phụ nữ các địa phương, đúc kết kinh nghiệm công tác, đề ra những chủ trương mới với nhiều nghị quyết quan trọng. Ban Chấp hành mới được bầu lại gồm những đại biểu ưu tú của phong trào các tỉnh, có các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, nhân sĩ, phụ nữ các tôn giáo. Bà Nguyễn Thị Thập trước là Trưởng Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ, nay được bầu làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Nam Bộ. Ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, 8 tổ chức phụ nữ gồm Đoàn Phụ nữ Cứu quốc, Hội Phụ nữ Việt Nam, Phụ nữ Xã hội, Phụ nữ Dân chủ, Phụ nữ Công thương, Phụ nữ Lao động, Phụ nữ Phật giáo, Phụ nữ Trí thức được Ban Phụ vận Thành ủy do bà Ngô Thị Huệ làm Trưởng ban đã tập họp vào tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, là thành viên của Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt. Đó là một bước tiến bộ rất lớn về mặt tổ chức của công tác phụ vận, tạo điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp phụ nữ dốc sức vào cuộc kháng chiến kiến quốc”. 1. Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Sđd, tr. 5.
- 233 - Đây là một tiền đề để phụ nữ các tầng lớp chung tay phục vụ cách mạng trong một hệ thống tổ chức thống nhất. Đây cũng là dấu ấn mạnh mẽ nhất của hoạt động đoàn thể phụ nữ trong giai đoạn 1945 - 1954, cho thấy sự giác ngộ chính trị cao của phụ nữ các tầng lớp. Trong quá trình thành lập, hợp nhất và hoạt động của các tổ chức chính trị giai đoạn 1945 - 1954, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nổi lên những gương mặt cán bộ lãnh đạo phong trào tiêu biểu: bà Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước) là Hội trưởng Phụ nữ của khu Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1949, bà Nguyễn Thị Lựu phụ trách Ban Phụ vận của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1949, phụ trách Ban Trí vận Sài Gòn - Chợ Lớn những năm 1953 - 1954; bà Mười Linh phụ trách Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Sài Gòn - Chợ Lớn; bà Nguyễn An Ninh - Hội trưởng Hội Phụ nữ Việt Nam; bà Phạm Thị Nhiệm - Hội trưởng Phụ nữ Xã hội; bà Huỳnh Thiện Lộc - Hội trưởng Phụ nữ Dân chủ; bà Mai Thị Lựu - Hội trưởng Phụ nữ Công thương; bà Bích Thủy - Hội trưởng Phụ nữ Lao động; Ni sư Diệu Đức - Hội trưởng Phụ nữ Phật giáo; bà Nguyễn Thị Diệu - Hội trưởng Phụ nữ Trí thức; bà Ngọc Phượng - Đoàn trưởng Đoàn Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Chợ Lớn; bà Ngô Thị Huệ - Trưởng Ban Phụ vận Thành ủy; bà Nguyễn Thị Thanh; bà Phương Điền; bà Lê Đoan… Do đặc điểm hoạt động thời kỳ kháng chiến, các cán bộ phụ nữ được điều chuyển công tác thường xuyên và linh hoạt giữa Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định, Chợ Lớn và các khu vực của Nam Bộ, cũng như chuyển công tác về Cơ quan Phụ nữ Nam Bộ. Trong số đó, có những cán bộ phụ nữ xuất thân là trí thức, cũng có những phụ nữ nông dân ít được học hành trường lớp nhưng nhận thức chính trị cao, trình độ lý luận tốt. Như chị
- 234 - Nguyễn Thị Một công tác ở Đoàn Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Chợ Lớn “trình độ văn hóa không cao nhưng ăn nói lưu loát, mỗi kỳ về họp chung, chị trình bày tình hình thế giới rành rọt làm cho người nghe có cảm giác như mình đang đứng trước bản đồ thế giới”(1); bà Nguyễn Thị Thập - Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ Nam Bộ, xuất thân trong gia đình bần nông, giác ngộ chính trị rất sớm, kiên quyết ly hôn để đi theo cách mạng; bà Trịnh Thị Miếng vốn không biết chữ mà hoạt động cách mạng tích cực, được bầu làm đại biểu Quốc hội… Ngoài ra, trong đội ngũ cán bộ phụ nữ của Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói riêng còn có một số ít cán bộ phụ nữ do Trung ương Đảng tăng cường, như các bà Hà Giang, Bội Hoàn, Xuân Hồng… Tham gia các tổ chức chính trị phục vụ kháng chiến, phụ nữ có điều kiện học tập, tập huấn nâng cao trình độ chính trị và lý luận. Tuy chiến tranh khốc liệt, các tổ chức phụ nữ vẫn thường xuyên mở các lớp huấn luyện cán bộ tập trung, từ ngắn ngày đến dài ngày. Lớp huấn luyện chính trị đầu tiên của phụ nữ Nam Bộ quy tụ 20 phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh Nam Bộ khác được tổ chức từ ngày 10 đến 15/8/1948 ở xã Đốc Binh Kiều. Bà Lê Đoan khi đó là Ủy viên Tuyên huấn Ban Chấp hành Phụ nữ Nam Bộ, là giảng viên. Ngoài học tập lý luận chính trị, cập nhật tình hình kinh tế, xã hội, chiến sự…, học viên còn học cách sống trong tập thể cách mạng, tự lực tổ chức sinh hoạt cần thiết trong chiến khu. Nhiều chị em đô thành mới thoát ly gia đình đến với cuộc sống bưng biền, “mới rời dép guốc, xuồng không biết bơi, ghe không biết chèo, lại rơi vào chiến khu Đồng Tháp Mười nơi có tiếng “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh như bánh canh”, 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 97.
- 235 - có chị phát khóc, ngất xỉu… Nhưng lạ lùng thay trong những buổi chiều, người ta vẫn nghe tiếng cười rộn rã, hớn hở, tiếng hát vang lên đâu đó trong ngôi đình, tiếng đàn Mandolin réo rắt, dịu dàng tha thiết, sau khi lớp học tan giờ, cơm chiều đã xong… Hồi đó, mỗi học viên còn tham gia viết bích báo, phê bình, tự phê bình ưu khuyết điểm của nhau, vừa viết những mẩu chuyện vui, buồn trong ngày, ngoài ra còn có Sổ tự tu, Sổ nhật ký trong ngày tu dưỡng tư tưởng, rèn luyện phẩm chất cách mạng”(1). Các kỳ đại hội phụ nữ tuy không tổ chức thường xuyên nhưng cũng là dịp học tập quan trọng của cán bộ phụ nữ, đồng thời là hoạt động củng cố, chấn chỉnh tổ chức. Giai đoạn 1945 - 1954, toàn Nam Bộ có 20 tỉnh và 1 đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, lần đầu tiên phụ nữ Nam Bộ tập hợp được đầy đủ 21 đơn vị trong một kỳ đại hội là vào tháng 12/1947: Hội nghị Ban Chấp hành Phụ nữ Cứu quốc (lần 2). Trong dịp này, bà Nguyễn Thị Thập được bầu làm Hội trưởng Hội Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ. Sau Hội nghị, phong trào đấu tranh của phụ nữ Nam Bộ được đẩy lên một bước mới, các cơ sở cách mạng của phụ nữ từ xã, huyện đến tỉnh đều được củng cố(2). Quá trình hoạt động trong các tổ chức chính trị cho thấy cách làm cách mạng của phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và phụ nữ Nam Bộ nói chung giai đoạn 1945 - 1954. Hệ thống tổ chức tập trung, thi hành chủ trương thống nhất từ tỉnh thành đến ấp, xã; từ Ban Chấp hành đến các cơ sở, tiểu tổ… phản ánh cách quản lý chặt chẽ, chu toàn của đa 1. Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 267. 2. ThS. Trần Thị Hợi, “Nguyễn Thị Thập với cuộc đấu tranh của phụ nữ Nam Bộ những năm 1947 - 1953”, in trong sách: Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2016), Nguyễn Thị Thập - Người con ưu tú của Nam Bộ thành đồng, Sđd, tr. 108.
- 236 - phần các tổ chức phụ nữ. Sự hợp nhất thành công và nhanh chóng các tổ chức phụ nữ vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không chỉ là chủ trương chung của Đảng mà còn cho thấy tinh thần cởi mở, đặt sự nghiệp cách mạng chung lên trên hết của cán bộ phụ nữ trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này. Cũng vì sự nghiệp chung, cán bộ phụ nữ hoạt động phong trào trong thời kỳ chiến tranh không những phải chịu đựng gian khổ hy sinh cũng như nam giới, mà còn phải vượt qua những trở ngại tinh thần. Công tác phụ nữ cũng phải lưu ý những khác biệt này. Năm 1951, bà Nguyễn Thị Thập - người chị cả của phong trào phụ nữ Nam Bộ - từng nói: “Cán bộ phải vượt qua ba cửa ải Tù - Tình - Tiền, nhưng đối với cán bộ phụ nữ thì ải tình cảm đối với chồng con lại khó vượt qua nhất, vì không ít chị khi còn là thanh nữ thì rất hăng hái tích cực, đến khi có chồng, nhất là có con lại bỏ công tác… Cán bộ phụ nữ phải có cái trán bằng cao su, nghĩa là phải kiên trì đương đầu vượt qua mọi trở ngại”(1). Cũng chính vì lý do này, thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hội Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ từng ban hành Chỉ thị số 20/ CT để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong cán bộ các cấp, các ngành thời ấy. Chỉ thị có ba điểm lớn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ xây dựng gia đình trong hoàn cảnh kháng chiến: 1. Nếu ai chưa có người yêu: khoan yêu! 2. Nếu ai có người yêu rồi: khoan cưới! 3. Nếu ai đã cưới rồi: khoan đẻ! “Vì nội dung đặc biệt này mà chỉ thị được truyền miệng trong các cấp, các ngành thời ấy, bị dư luận xuyên tạc rằng tổ 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 116.
- 237 - chức phụ nữ cấm không cho cán bộ lấy chồng”(1). Chỉ đạo của tổ chức như thế, song cũng chính các tổ chức phụ nữ đã đứng ra tác hợp và tổ chức đám cưới cho nhiều chị em cán bộ với các anh em của các đơn vị bạn. Hồi ký, chuyện kể của nhiều cán bộ phụ nữ thời ấy cho thấy cách quản lý tình cảm và mềm mỏng của tổ chức đối với chị em, dù không ít cán bộ nữ sau khi có gia đình và con cái đã xin rút lui không hoạt động cách mạng được nữa. Để tuyên truyền hoạt động của tổ chức, vận động phụ nữ quần chúng, các tổ chức phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định phát hành thành công các tờ báo là cơ quan ngôn luận của mình. Đoàn Phụ nữ Cứu quốc thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định, tỉnh Chợ Lớn có Tờ Tin/ tờ Nội san của riêng mình; Hội Phụ nữ Dân chủ có tờ Việt Nữ ra được 5 kỳ (từ tháng 3 - tháng 7/1948), mỗi kỳ 500 tờ; Đoàn Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ có tờ Phụ nữ cứu quốc phát hành từ năm 1948… Các tờ báo của tổ chức phụ nữ được quần chúng yêu thích vì nội dung mềm mại, đa dạng: tin tức xã hội, thơ ca, văn nghệ, chuyện phụ nữ, kinh nghiệm sản xuất nuôi quân, phong trào nữ dân quân, hội mẹ chiến sĩ, cuộc vận động “hũ gạo kháng chiến”, “con gà cứu quốc”, “bụi chuối nuôi quân”; thành tích của chị em tham gia chiến dịch, tiếp tế bộ đội, ủy lạo chiến sĩ, nuôi dưỡng thương bệnh binh, phong trào xây dựng đời sống mới, bình dân học vụ… Các tin bài ngắn gọn, dễ hiểu, thuyết phục, có sức cổ động quần chúng. Các tòa soạn báo được tổ chức bài bản gồm chủ bút, thư ký tòa soạn, họa sĩ, thủ quỹ, phóng viên (tuy vậy, phóng viên đa phần là cán bộ phong trào viết bài gửi về). Công việc in và phát hành 1. Nguyễn Thị Yến, “Quá trình xây dựng và hoạt động của phong trào phụ nữ Nam Bộ 1947 - 1954”, in trong sách: Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp), Sđd, tr. 261.
- 238 - báo thường gặp nhiều khó khăn, bởi cơ sở vật chất thiếu thốn (giấy in, mực in…), cơ sở in ấn phải đảm bảo bí mật, muốn phát hành phải nhờ đến các trạm giao liên ngụy trang qua mắt thực dân… Tuy vất vả và nguy hiểm, đội ngũ chủ yếu là nữ giới, nhưng đa phần các tờ báo của các tổ chức phụ nữ có thể phát hành đều đặn, thực sự cổ vũ phong trào cách mạng đang lớn mạnh những năm chống Pháp. Ngoài báo chí, một số tổ chức phụ nữ còn phổ biến các tài liệu tuyên truyền viết tay hoặc tài liệu in trên khuôn bột nếp, như điều lệ, thông báo, hướng dẫn dành cho các tiểu tổ… Với sự phát triển của các tổ chức chính trị phụ nữ và phong trào phụ nữ nói chung trên toàn quốc, trong đó quan trọng nhất là việc thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - một thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ thế giới, hoạt động cách mạng của phụ nữ vươn ra tầm quốc tế một cách sâu sắc hơn. Cuối năm 1949, lần đầu tiên một đoàn đại biểu phụ nữ Việt Nam đến dự Hội nghị phụ nữ châu Á tại Bắc Kinh. Lần đầu tiên, Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ cử bà Hồ Thị Minh đi đường hợp pháp để tham dự hội nghị này. Bà Hồ Thị Minh đã đem lại cho hội nghị những tin tức mới nhất của cuộc kháng chiến, nguyện vọng thiết tha của phụ nữ Nam Bộ và Việt Nam. Phần nào qua đó Hội nghị phụ nữ châu Á khâm phục tinh thần chiến đấu anh dũng của phụ nữ Việt Nam và ủng hộ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc ta. Từ năm 1950 - 1952, phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định theo chủ trương của Hội Liên hiệp Phụ nữ, đã tham gia ủng hộ nhiều hoạt động quốc tế: phong trào chống chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Ban Nha, chống chính sách phục hồi chủ nghĩa phát xít ở Tây Đức, chống chính sách gây chiến và đe dọa chiến tranh của đế quốc, thắt chặt quan hệ với Hội Liên
- 239 - hiệp Phụ nữ Pháp… Phong trào phụ nữ thế giới ủng hộ Việt Nam trong giai đoạn này cũng có bước tiến mạnh, góp phần động viên tinh thần nhân dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Ngày 25/1/1950, Đảng Cộng sản Pháp tổ chức Ngày chống chiến tranh xâm lược Việt Nam được đông đảo nhân dân Pháp hưởng ứng, hơn 30.000 người đã tập trung tại trường đua Mùa Đông (Paris) để mít tinh phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của chính quyền Pháp. Bên cạnh các tổ chức chính trị dành cho phụ nữ, trong bộ máy chính quyền và tổ chức Đảng các cấp, phụ nữ cũng tham gia ngày càng đông. Ở Nam Bộ, với tinh thần cởi mở, các cấp ủy Đảng khuyến khích và tạo điều kiện để phụ nữ tham gia công tác chính quyền. Tại các vùng giải phóng, quyền lợi chính trị của người phụ nữ được quan tâm một cách thiết thực và đã có những tác dụng rõ rệt trong việc hình thành lực lượng cán bộ nữ. “Ở Nam Bộ thời ấy, phụ nữ tham gia chính quyền ở tất cả các cấp và hầu hết các ngành… Thống kê chưa đầy đủ cho biết, đầu năm 1949 có tất cả 1.259 phụ nữ trong các cấp Hội đồng nhân dân; 61 phụ nữ trong các Ủy ban Kháng chiến Hành chính. Sang năm 1950, số chị em trong các Ủy ban Kháng chiến Hành chính là 164, tăng hơn 100 chị. Gần như tất cả các tỉnh đều có phụ nữ tham gia công tác tòa án, làm thẩm phán và biện hộ sư”(1). Sau năm 1954, do đặc điểm hoạt động cách mạng sau Hiệp định Genève, các tổ chức phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chuyển hướng sang hoạt động bí mật, đoàn thể phụ nữ và các đoàn thể quần chúng hoạt động công khai tự giải tán. Công tác phụ nữ chuyển sang một giai đoạn mới, cam go 1. Tổ sử Phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Sđd, tr. 114.
- 240 - hơn, để bước vào một cuộc chiến dài và khó khăn hơn: kháng chiến chống đế quốc Mỹ. 3. Phong trào đấu tranh a. Đấu tranh chính trị công khai Những năm đầu của cuộc kháng chiến, trong vùng tạm chiếm, phụ nữ đấu tranh chính trị chủ yếu bằng hoạt động tuyên truyền: treo cờ, rải truyền đơn, vẽ khẩu hiệu, vận động nhân dân… Những hoạt động này dù chưa lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, nhưng đã thể hiện cách thức hoạt động linh hoạt, chớp nhoáng, đơn giản, khéo léo nhưng hiệu quả thiết thực của các chị em cán bộ nữ cùng với tổ chức của mình. Liên đoàn Phụ nữ xã Phú Nhuận (Tân Bình) do bà Thái Thị Nhạn lãnh đạo (khoảng năm 1947) có nhiều hình thức tuyên truyền sáng tạo. “Có lúc các chị treo biểu ngữ “Đả đảo thực dân xâm lược Pháp” vào cổ chó đánh chó chạy rong khắp đường, bọn lính ngụy phải rượt theo để bắt. Vào ngày lễ 8/3/1948, Chi hội phụ nữ hộ 21 mua thả 40 con bồ câu mang truyền đơn và cờ đỏ sao vàng ở cổ tung bay khắp hướng và 20 bong bóng vẽ cờ bay lơ lửng trên nóc phố. Ngày sinh nhật Bác, các chị đặt làm 2 cây pháo bông, khi nổ, bông kết mang hình tượng Bác”(1). Bà Nguyễn Thị Thanh sau khi được kết nạp vào Đoàn Phụ nữ Cứu quốc, đã tham gia công tác đầu tiên là rải truyền đơn giữa lòng Sài Gòn. Bà kể: “Hôm ấy là ngày 18/8/1947… Chúng tôi xếp nhỏ từng tờ truyền đơn lại cuộn tròn gói vào tờ giấy bóng, thoáng trông tưởng là cục kẹo để dễ mang đi phát tán. Chúng tôi luân phiên canh gác cho nhau, vừa liệng truyền 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 161.
- 241 - đơn vào những nhà vắng người, vừa dán áp phích lên tường hoặc thân cây cổ thụ ở hai bên đường… Trưa hôm sau, chị bếp thuật lại những điều nghe thấy ngoài chợ: …“Các chị ấy nói đêm qua Việt Minh về đông lắm, họ rải truyền đơn đầy trời! Nội dung kỷ niệm Cách mạng tháng Tám, biểu tình đấu tranh đòi giảm thuế, chống phạt vạ, đòi sửa đường sá, nạo vét cống rãnh để đừng ngập đường; chống bắt lính, kêu gọi thanh niên cương quyết không đi lính làm bia đỡ đạn cho giặc… Họ nói Việt Minh càng ngày càng mạnh. Thành phố lính tráng đông như vầy mà họ về rải truyền đơn như chỗ không người”(1). Để tiện công tác, một số cán bộ phụ nữ làm nhiệm vụ tuyên truyền hoạt động nửa công khai nửa bí mật dưới bình phong là tiểu thương, công chức, công nhân… Khi có đợt tuyên truyền, các chị em dựa vào thế hợp pháp như khi đi vào xí nghiệp, đi xem xi nê, đi chợ, đi học hoặc đi làm để rải truyền đơn, dán khẩu hiệu. Có khi chị em giả vờ đứng hóng mát đêm trên cầu Bông, cầu Kiệu rồi người phết hồ, người dán… Sáng ra, cờ, truyền đơn đầy thành cầu, trong rạp, trong chợ… Có khi một tổ hai ba người giả vờ vào các xóm lao động, ngồi quán ăn hủ tíu uống cà phê rồi tụ tập bàn tán thời cuộc; khi thấy đông người chú ý lắng nghe, chị em chuyển qua tuyên truyền rồi phân phát báo chí cách mạng, tài liệu truyền đơn. Có khi anh chị em thả bóng bay mang theo cờ, truyền đơn rải giữa trung tâm thành phố. Tuy cách này không duy trì được lâu vì điều chế khí bơm bóng bay phức tạp, không được nhiều mà tốn kém, nhưng đây là một cách làm rất hay giữa Sài Gòn - Chợ Lớn, khiến đồng bào vô cùng phấn khởi. Ngay giữa lòng Sài Gòn, phụ nữ tham gia tổ chức biên soạn, in ấn và phát hành nhiều tờ báo kháng chiến: tờ Thông 1. Nguyễn Thị Thanh (2015), Khát vọng, Sđd, tr. 48 - 50.
- 242 - tin kháng chiến - tiếng nói của Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn, sau đổi tên thành tờ Chống xâm lăng (1945 - 1947), tờ Tổ quốc trên hết của Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn (từ tháng 4/1947) được phổ biến gần như công khai giữa đô thành Sài Gòn và được các giới đồng bào đón nhận nồng nhiệt; tờ Tri thức Kháng chiến, Sinh viên Kháng chiến, Cứu quốc Nội thành, tạp chí Tù chính trị… Ở các vùng tạm bị chiếm ven Sài Gòn, để công tác tuyên truyền đi sâu vào quần chúng, phụ nữ tham gia các đội tuyên truyền lưu động. Ở các vùng của tỉnh Gia Định (Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức, Nhà Bè), ở đâu cũng có Ban Tuyên truyền. Trong giai đoạn 1945 - 1954, Ty Thông tin Gia Định(1) có 105 cán bộ, nhân viên, trong đó có 25 nữ(2). Với Đội Thông tin Tuyên truyền huyện Nhà Bè, vì là địa hình sông nước, cán bộ phụ nữ sáng tạo hình thức “đài phát thanh” lưu động bằng ghe: đi trên ghe 3 chèo, phát thanh bằng loa thiếc, cứ ba bốn trăm mét thì dừng lại đọc bản tin hay tuyên truyền một vấn đề gì đó rồi lại đàn hát, hò lờ… Các anh chị tuyên truyền viên của Ban Tuyên truyền Thủ Đức thì kể lại: “Sang năm 1947, cán bộ nhân viên nữ có các chị: Nguyễn Thị Điệu, Nguyễn Thị Ngọc, Nguyễn Thị Nghi… Tài liệu để đi công tác và phân phối về các xã rất thiếu, thường dùng loa tay phát thanh và đội tuyên truyền lưu động đến từng nhà, từng liên gia tuyên truyền hoặc tranh thủ các buổi lễ như ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày Quốc khánh 2/9 có mít tinh đông người tập họp để phát loa tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền thường là động viên nhập ngũ tòng quân, tham gia dân quân du kích, đi phá hoại đào đường, đắp cản 1. Đồng chí Hoàng Lê Kha từng là Trưởng Ty Thông tin Gia Định (1947 - 1948). 2. Theo Kỷ yếu Câu lạc bộ Truyền thống Kháng chiến Khối thông tin tỉnh Gia Định: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định - Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, Sđd.
- 243 - sông, lập xã chiến đấu, đưa tin thắng trận của bộ đội, thất bại của địch mà chúng cố bưng bít, chống nạn mù chữ, ăn ở theo đời sống mới… Đến những xã vùng tạm bị chiếm, ban đêm đồn bót, lô cốt địch làm công tác binh vận, bắc loa kêu gọi binh lính địch. Chị Điệu gọi loa bằng tiếng Pháp, các anh Bửu và Minh thì đàn hát, rải truyền đơn… Giữa năm 1949, chị Điệu bị giặc Pháp phục kích bắn giữa ban ngày, hy sinh tại chỗ. Phòng Thông tin Tuyên truyền mất một cán bộ phụ nữ trẻ có đức hạnh, có tri thức tốt, thật là một mất mát lớn cho ngành…”(1). Đồng thời, cũng bằng việc tuyên truyền lưu động trong các vùng tạm chiếm, phụ nữ cùng đồng bào đã tích cực góp phần triệt phá hệ thống tháp canh được thực dân Pháp dựng lên khoảng năm 1949. Hệ thống tháp canh De Latour là giải pháp của Pháp để phá vỡ chiến tranh nhân dân, chặn đường dây liên lạc của quân đội cách mạng. Pháp dựng lên hàng loạt tháp canh ở khắp các huyện, xã đã chiếm được. Theo thống kê, đến năm 1949, ở toàn Nam Bộ có hơn 700 tháp canh. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân đã nhìn ra chỗ yếu: những tháp canh lẻ loi, ít lính, bị du kích bao vây bắn tỉa, không cho quân lính ra ngoài lấy nước hay đi tiểu tiện; đêm đến đội tuyên truyền xung phong phối hợp với du kích bắc loa kêu gọi lính tháp canh bỏ ngũ, giao súng…; địch kêu viện binh thì viện binh bị chặn diệt dọc đường. Hệ thống tháp canh dần trở thành có xác không hồn. Nhờ đó, đường liên lạc giữa các vùng kháng chiến hoạt động trở lại bình thường, đường tiếp tế vật phẩm từ nội thành đưa ra cho các cơ quan, đơn vị dễ dàng hơn, không bị chặn gắt gao như trước. 1. Lê Công Mẫn, Nguyễn Minh Xuân, “Ngành thông tin tuyên truyền Thủ Đức thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954”, in trong sách: Nhiều tác giả (2014), Thông tin tuyên truyền Gia Định - Những hình ảnh và tổ chức hoạt động kháng chiến chống Pháp, tập 1, tr. 109, 110.
- 244 - Công tác tuyên truyền ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và các vùng ven Gia Định, Chợ Lớn góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị của đồng bào. Rải rác từ đầu cuộc kháng chiến, nhưng cao trào đấu tranh chính trị diễn ra trong năm 1950, chủ yếu ở Sài Gòn, tiêu biểu như cuộc biểu tình ngày 9/1/1950 của học sinh và đám tang Trần Văn Ơn, đám tang Trần Bội Cơ, cuộc biểu tình nhân ngày Quốc tế lao động 1/5… Một sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn diễn ra ở Sài Gòn vào tháng 3/1950 là cuộc biểu tình chống Mỹ của đồng bào đô thị. Nhằm từng bước can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, đầu tháng 3/1950, Mỹ cho tàu sân bay chở 71 máy bay lởn vởn ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Ngày 16/3, Mỹ cho hai chiến hạm Sticken và Anderson vào thả neo ở bến Bạch Đằng để dương oai và thăm dò phản ứng của dân chúng Sài Gòn. Dân chúng đang xôn xao bàn tán thì lính Mỹ đã lên bờ đi lại nghênh ngang. Theo kế hoạch, sáng 19/3, lính Mỹ sẽ lên diễu hành trên một số đường phố, trong lúc hàng chục máy bay lượn khắp bầu trời Sài Gòn để thị uy. Theo chỉ đạo của Thành ủy Sài Gòn, phái đoàn đại diện các giới (do luật sư Nguyễn Hữu Thọ phụ trách) đã tổ chức một cuộc mít tinh ở trường Tôn Thọ Tường (trường Ernst Thalmann hiện nay). Nhà giáo Bùi Thị Nga và dược sĩ Phạm Thị Yên cùng nhiều trí thức trong tổ chức Trí vận phụ trách lực lượng bảo vệ trước cổng trường. Các bà Đỗ Duy Liên, Nguyễn Thị Bình, Thu Trang, Công Thị Nghĩa là nòng cốt tổ chức vận động đồng bào dự mít tinh; công việc thuận lợi do không khí phản đối Mỹ can thiệp vào Đông Dương đang sôi sục, và cũng vừa đúng kỷ niệm 100 ngày Trần Văn Ơn hy sinh. Ngoài học sinh sinh viên, cuộc diễu hành còn thu hút công chức các hãng xưởng
- 245 - Brossard, BGI, Mitac, Lucia, Bastos, Nhà đèn Chợ Quán, Hỏa xa Sài Gòn, Bưu điện, công chức Tòa Đô chính, Sở Công chính, Đông Dương Ngân hàng, anh chị em các khu phố… Sau mít tinh, 30 vạn nhân dân thành phố xuống đường, tiến thẳng ra bến cảng, phụ nữ đi đầu hô vang các khẩu hiệu. Phụ nữ đứng tại các ngã đường thổi còi giữ trật tự. Chị em buôn bán tiếp tế bánh, nước cho đoàn biểu tình. Bà Bùi Thị Nga kể lại: “Chúng tôi trở lại bùng binh Sài Gòn, nhiều hình thức đấu tranh diễn ra tại chỗ làm tôi hưng phấn. Học sinh, sinh viên các trường, có cả học sinh trường Marie Curie như chị em cô Bình Minh đang hè nhau lăn ghế đá từ bùng binh xuống đường làm chướng ngại vật. Trên ngã tư mọi nẻo đường dẫn vào chợ Sài Gòn do các cậu học sinh huýt còi giữ trật tự, chỉ huy xe cộ qua lại coi rất oai phong. Vài xe buýt không tuân thủ đã bị đốt cháy, khói bốc lên, càng tăng khí thế phong trào. Tại ga xe lửa Sài Gòn - Chợ Lớn, thanh niên học sinh lên những toa xe chở củi, phân phối cho mỗi người một thanh củi chống lại bọn lính mã tà”(1). Đoàn biểu tình làm chủ trung tâm thành phố từ sáng đến trưa thì giải tán. Chương trình thị uy của Pháp và Mỹ hoàn toàn thất bại. Ngay đêm đó, hai chiến hạm Mỹ rút khỏi bến cảng Sài Gòn. Thắng lợi của cuộc biểu tình ngày 19/3/1950 được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao. Đây là cuộc biểu tình chống Mỹ đầu tiên ở Việt Nam, từ đó ngày 19/3 được gọi là ngày “Toàn quốc chống Mỹ”. Ở vùng ven Sài Gòn, phụ nữ tích cực tham gia phong trào đấu tranh công khai bảo vệ chồng con, chống bắt lính, phản đối âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. Đặc biệt, từ đầu năm 1950, Quốc hội Pháp chấp thuận cho chính quyền 1. Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ thành đồng Tổ quốc đi trước về sau - Hồi ký kháng chiến chống thực dân Pháp, Sđd, tr. 248 - 249.
- 246 - Bảo Đại có quân đội riêng nên chúng ráo riết bắt thanh niên vùng tạm chiếm đi lính; vì vậy chính quyền kháng chiến phát động cuộc đấu tranh chống chiến dịch bắt lính bằng nhiều hình thức: lẩn trốn, cáo bệnh, chặt ngón tay, đấu tranh phản kháng. Để bảo vệ chồng, con, anh em của mình, phụ nữ có cách đấu tranh không khoan nhượng: chặn xe, giấu người, cản thực dân bắt người, tập hợp biểu tình trước đồn bốt đòi trả chồng con… Trong các vùng bị tạm chiếm, tính trong năm 1952, phụ nữ đã đấu tranh giữ lại được 18.482 nam giới(1). Nhiều cuộc đấu tranh chống bắt lính giải thoát thanh niên tiếp tục vào cuối năm 1953 và đầu năm 1954, trong đó phụ nữ và học sinh đóng vai trò tích cực (phụ nữ vùng Bàn Cờ và nam nữ học sinh trường Kiến Thiết). Đồng bào tỉnh Gia Định từ Quán Tre, Trung Chánh, Nhị Hòa, Vinh Lộc… trong nhiều năm liền đã đấu tranh giữ từng miếng đất, từng nóc nhà, không để bị vơ vét sức người sức của; tìm mọi cách giấu thanh niên nông thôn bị bắt lính, một thanh niên bị bắt thì cả xóm cùng đấu tranh, giữ lấy con em của mình… Ngoài ra, để bảo vệ chính mình, phụ nữ phát động phong trào chống hãm hiếp. Một số chị luyện tập võ nghệ để tự vệ. Khi sắp sửa có cuộc càn, chị em nữ thanh niên tản đi xa, chị em trung niên và các mẹ còn bám đất, bám nhà thì thoa nghệ, thoa nước cốt dừa lên người để chúng gớm ghiếc không đụng đến. “Trường hợp bị địch cưỡng bức, chị em quyết tâm chống lại, không cho giặc làm nhục, như chị Chín Ốm, thư ký Ban Chấp hành xã Phú Hữu bị giặc bắt và cưỡng ép, trong trận càn tháng 12/1947, đã chống cự quyết liệt và bị chúng bắn chết trong tư thế ghì chặt lấy áo quần không để chúng xâm phạm 1. Nguyễn Thị Thập chủ biên (1980), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, Sđd, tr. 129.
- 247 - tới người”(1). Thậm chí có một Ủy ban chống hãm hiếp được thành lập, đồng chí Ung Văn Khiêm làm Trưởng ban, để nam giới cùng đứng ra hành động thiết thực bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Hoạt động trí vận trong giới trí thức đóng một vai trò khá quan trọng trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Phụ nữ tuy chưa là lực lượng chủ đạo trên mặt trận trí vận nhưng đã tham gia rất tích cực và có những gương mặt tiêu biểu. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa qua 2 năm, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ ra Chỉ thị 4/ NV ngày 22/5/1947, kêu gọi giới công chức, tư chức bất hợp tác với chính phủ bù nhìn và gia nhập đội ngũ phục vụ kháng chiến. Theo tinh thần đó, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có trên 600 viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn rời bỏ thành phố để ra chiến khu tham gia cách mạng. Đến đầu năm 1950, sau cao trào đấu tranh công khai ở thành phố, thì số nhân sĩ trí thức “bị lộ” ở đô thị cần tránh về chiến khu càng đông, làm cho chiến khu lớn mạnh cả về số lượng lẫn trình độ chuyên môn. Đài Phát thanh Tiếng nói Nam Bộ cùng với Đài Phát thanh Tiếng nói Sài Gòn - Chợ Lớn lúc đó còn thực hiện được các bản tin tiếng nước ngoài (tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Khmer). Bà Tiệp Dư - một trí thức người Hoa phụ trách buổi phát thanh tiếng Hoa. Tổ ca nhạc của Đài Tiếng nói Nam Bộ thậm chí quy tụ được những ca sĩ có tiếng của thành phố như ca sĩ Khánh Vân, ca sĩ Xuân Mai (tức NSƯT. Đỗ Hồng Lan)… Hai chị em nhà giáo - nhạc sĩ Nguyễn Bình Trang, Nguyễn Bình Thanh cùng nhiều ca sĩ từ Sài Gòn về củng cố 1. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1985), Phong trào phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, tập 1 (1930 - 1954), tr. 160 - 161.
- 248 - cho các đoàn quân nhạc của chiến khu. Các nữ y sĩ, dược sĩ ở đô thành cũng kẻ trước người sau đi về hướng bưng biền, như các bà Phạm Thị Yên, Phạm Thị Hương, Ngô Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Kim Cúc… Với đội ngũ trí thức hoạt động trong nội thành, chỉ trong thời gian 9 năm của cuộc kháng chiến chống Pháp, giới trí thức Sài Gòn đã cùng nhau ký vào 5 bản tuyên ngôn gửi đến chính quyền thực dân để thể hiện chính kiến về độc lập dân tộc. Ngày 10/2/1946, hàng trăm trí thức tiến bộ Pháp và trí thức Sài Gòn tổ chức mít tinh tại dinh Đốc lý Sài Gòn, ký vào bản Tuyên ngôn đòi thực dân Pháp nghiêm chỉnh thương thuyết với Chính phủ Hồ Chí Minh, thừa nhận nền độc lập của Việt Nam. Chỉ vì ký tên vào bản Tuyên ngôn hòa bình mà nữ nhà báo Pháp Florence bị bắt, cạo trọc đầu rồi dẫn đi khắp đường Sài Gòn với hàng chữ Coupable (thủ phạm). Ngày 10/10/1946, để biểu thị chính kiến về Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9, lực lượng trí thức tiếp tục ra bản Tuyên ngôn với gần 700 chữ ký, nhận định: “Dân tộc Việt Nam đương trải qua một giai đoạn lịch sử nghiêm trọng mà mỗi phần tử dân chúng không có quyền lãnh đạm. Sự đấu tranh cho tự do và thống nhất là phận sự chung của tất cả các cá nhân… Hãy “tạm gác các chánh kiến để thống nhất sự tuyên truyền trên một chương trình tối thiểu, để ủng hộ triệt để hai Chánh phủ Pháp, Việt thi hành thỏa hiệp án, để cho sự thống nhất ba kỳ được thực hiện, để ủng hộ triệt để Chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”(1). Tuyên ngôn được đăng trên các báo đồng thời gửi đến Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cộng hòa Pháp, Quốc hội Pháp ở Paris và các tờ báo của Pháp. 1. Hồ Sơn Diệp (2003), Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 70.