The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

Ðộ mươi phút sau vụ lộn sộn đoàn xe nổ máy tiếp tục cuộc hành
trình, nhưng không chạy theo Quốc lộ 1 nữa mà rẽ vào đường
dẫn tới vùng núi rừng Trường Sơn. Ðoàn xe chạy vòng vo ngoằn
ngoèo qua các triền đồi khe suối đến nhá nhem tối, gặp một ngã
ba đường có một khu nhiều nhà sau một chiếc cổng lớn. Không
đọc được trên bảng hiệu ghi gì vì trời đã tối lại không có đèn soi
sáng nơi cổng. Phiá đằng sau hàng rào có rất nhiều bóng người
đứng lố nhố, họ la hò ỏm tỏi và ném đá vào xe chúng tôi đang
chạy ngang. Cán bộ Công an áp giải văng tục càu nhàu cho biết
đây là Trung tâm huấn luyện của Bộ đội.

Ðoàn xe tới ngã ba rẽ theo hướng Trái, sương rừng đêm bắt đầu
dầy đặc, quang cảnh chìm trong tăm tối mịt mù, chẳng còn thấy
gì ngoài 2 luồng ánh sáng rọi trước đầu xe. Anh tài xế giải thích
cho Cán bộ áp giải là rẽ sang tay Phải thì dẫn đến Huyện lỵ Như
Xuân. Có bạn trong chúng tôi tỏ vẻ thông thạo cho biết đó là
hướng đi đến Trại Ðầm Ðùn. Tôi chưa có dịp tới đây bao giờ,
nên ai nói sao nghe vậy không dám quyết đoán đúng hay sai.

Suốt mấy tiếng đồng hồ tiếp theo, lắc qua lắc lại lao xuống bò
lên băng qua 15, 16 con suối, đoàn xe ngừng lại giữa một Khu
trại có nhà 2 bên đường. Khoảng 20 phút sau lại tiếp tục di
chuyển được chừng mươi phút lại ngừng, để từng chiếc một
chậm chạp rà rà băng ngang một dòng sông cạn rộng khoảng
100 mét. Sau khi toàn bộ đã qua sông, cả đoàn chạy tiếp chừng
mười lăm phút tới một khu nhà có hàng rào ghép bằng cọc tre
cao bao chung quanh. Xe chạy qua cổng lớn vào trong ngừng lại
giữa bãi sân rộng, anh em được lệnh xuống xe, Cán bộ tới mở
khoá còng tay, mọi người tiếp nhau rỡ hành lý.

Lúc đó vào khoảng 12 giờ đêm, người ta đốt đuốc soi cho chúng
tôi gom tư trang hướng dẫn di chuyển vào một dẫy nhà tôn ở

301

phiá trong cùng của khu giam. Vách nhà bằng phên nứa đan, sàn
nằm hai tầng cũng bằng phên nứa đan, có một cửa gỗ ra vào duy
nhất với then chốt sắt khoá ở phiá bên ngoài.

Anh em tiếp tay nhau khuân vác đem tư trang vào Láng giam
xong, phải ra ngoài xếp 2 hàng dọc theo vách phiá trước cửa
nhà. Cán bộ đếm đầu người cho từng đôi một đi vào phòng
giam. Ðầy đủ không thiếu ai, cửa đóng lại khoá trái bên ngoài,
mọi người lo thu vén đồ đạc riêng và sắp xếp chia nhau chỗ ngủ.

Nhà nền đất không đập nén bằng phẳng nên chỗ lồi chỗ lõm,
đêm tối đi lại vấp té lên té xuống. Cuối Láng giam có một Phòng
Vệ Sinh dài 3 mét, rộng suốt bề ngang căn nhà. Nền phòng vệ
sinh láng xi măng, có 3 bệ gạch cao để 3 thùng gỗ phiá dưới cho
Tù giải quyết vệ sinh ban đêm, và một rãnh dẫn nước tiểu chẩy
ra hồ chứa ở ngoài đầu nhà. Ngay nơi cửa ngăn cách Phòng Vệ
Sinh và 2 hàng sạp nằm 2 tầng cho cả trăm người, có treo một
ngọn đèn dầu làm bằng chai thủy tinh leo lét cháy chập chờn cả
đêm. Lục đục mò mẫm thu xếp chỗ nằm căng mùng, cả tiếng
đồng hồ sau mọi người mệt mỏi chìm vào giấc “mộng Hoàng
Lương” đầu tiên giữa lòng rừng núi Trường Sơn. Cho tới lúc
kẻng báo thức sáng, ai nấy ngủ ngon nhờ sàn nằm bằng phên
nứa không có rệp hút máu ngứa ngáy như hồi ở Trại Tân Lập
tỉnh Vĩnh Phú ngoài Bắc.

Thức giấc rồi, chúng tôi phải ở trong Láng giam đợi cho đến lúc
toàn thể Tù cũ xuất trại lao động hết, Cán bộ mới đến mở cửa
cho ra. Một anh “Trật Tự” cùng với 2 bạn Tù thuộc Ðội Nhà
Bếp khiêng phần ăn sáng đến tận nơi phát cho từng Ðội. Trong 3
anh bạn Tù này có 1 người Tôi quen, Trung tá Chung trước 30-
4-1975 làm Sĩ quan Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức thuộc Tổng
Cục Chiến tranh Chính trị tại Saigon.

302

Ðến trưa, khoảng 30 phút trước khi Trại đánh kẻng báo hết giờ
lao động buổi sáng, anh Chung lại khiêng đồ ăn đến phát cho
chúng tôi. Không có Cán bộ và anh “Trật Tự” đi theo, Tôi men
đến gần anh Chung chào và hỏi thăm tin tức về Trại mới này.

Qua câu chuyện trao đổi chớp nhoáng, Tôi biết được đây là K2
thuộc Trại Thanh Phong, Trưởng Phân trại này là một Ðại úy
Công an Nhân dân gốc người Thiểu số, Trưởng Trại Thanh
Phong là Trung tá Nguyễn Thùy (nguyên Trưởng Trại Tân Lập
ở Vĩnh Phú). Ban Chỉ huy Trại Thanh Phong đặt tại K1, nơi mà
tối hôm qua đoàn xe của chúng tôi phải chạy ngang để vào đây.
Tại K1 người ta giam cả trăm anh em Biệt Kích Dù nhẩy ra Bắc
từ những năm đầu Thập niên 1960 bị bắt, anh em đã bị kết án tù
trung thân khổ sai. Ngoài Trại Thanh Phong, trong vùng này còn
có 2 Trại khác nữa là Trại Thanh Cầm và Trại Thanh Lâm.
Nghe cái tên Trại Thanh Cầm, làm chúng tôi suy tư bàn tán
nhiều về cái Kế hoạch tập trung tất cả Tù Chính trị miền Nam và
gia đình vào lập Khu Kinh tế mới, đồn đãi om sòm từ hồi còn ở
Trại Tân Lập. Nhưng, chúng tôi vẫn yên tâm lạc quan tin rằng
đây chỉ là mánh khoé của Việt Cộng, tung lá “bài tháu cáy” để
nèo co giá cả với Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết tại
Genève về việc thả hết Tù Chính trị miền Nam đem đi định cư
tại Hoa Kỳ mà thôi.

Dẫy nhà giam chúng tôi cách xa các nhà khác khoảng 100 mét,
tại vị trí đất thấp nhất trong góc cùng của khu trại. Quanh nhà có
sân rộng 10 mét và hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 2 mét,
chắc dẫy nhà này mới được dựng thêm để đón chúng tôi, chung
quanh còn đầy cỏ dại rác rến bừa bãi dơ dáy.

Suốt cả ngày sau đêm mới tới, chúng tôi được ở trong trại dọn
dẹp sạch sẽ san nện nền nhà cho bằng phẳng. Ngày hôm sau,

303

chúng tôi được đưa ra ban đất phá đá sườn đồi để làm Sân Bóng
Tròn cho Trại. Sân banh nằm giữa Nhà Thăm Nuôi cạnh khe
suối cạn và Khu nhà Cán bộ Phân trại K2 ở trên đỉnh đồi.

Khu giam chúng tôi ở phiá dưới chân đồi sát bên bờ suối, cách
Khu Cán bộ chừng 500 mét về hướng Ðông Nam. Từ trong khu
giam, chúng tôi có thể nhìn thấy các sinh hoạt tại Nhà Thăm
Nuôi ở về hướng Tây xa chừng khoảng hơn nửa cây số. Khu
giam gồm khoảng 8 dẫy nhà tôn, một Nhà Bếp, và một Trạm
tế nhỏ với vài giường bệnh. Một Bác sĩ Quân y Việt Nam Cộng
Hoà tập trung cải tạo được chỉ định lo toan, với một bạn Tù khác
phụ trách châm cứu (gốc Sĩ quan Truyền Tin). Hai người làm
việc dưới sự chỉ đạo của Nữ Cán bộ tế Công an Nhân dân.

Hàng ngày, cứ vào khoảng chừng 10 phút sau kẻng báo mãn giờ
lao động trưa cũng như chiều, Tù được Quản Giáo Ðội và Cảnh
vệ dẫn xuống suối ngay bên cạnh trại tắm giặt trước khi trở vào
khu giam, nên anh em Tù khác Ðội có thể gặp nhau nói chuyện
thoải mái ở giữa dòng suối.

Mấy ngày sau, chúng tôi được ở trong trại 1 ngày làm thủ tục
“khai báo lý lịch”, “kiểm tra tư trang”, “biên chế” lại Ðội. Nhóm
Ðại tá chúng tôi bị chia làm hai để hoà đồng cùng các Tuyên úy
Công Giáo, Phật Giáo và Tin Lành lập thành 2 Ðội riêng rẽ: một
Ðội Rau Xanh và một Ðội Nông Nghiệp.

Tôi thuộc thành phần Ðội Nông nghiệp, do anh Lê Ðình Luân
(Ðại tá Ðơn vị 101-Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu) làm Ðội
trưởng, anh Dương Hiếu Nghiã (Ðại tá Thiết Giáp) làm Ðội phó,
anh Tô văn Vân (Ðại tá Bộ Binh) làm Anh Nuôi, anh Hồ Hồng
Nam (Ðại tá Chiến tranh Chính trị) làm Thư ký Ðội, và một
người dân sự tên Khuông gốc Tây Ninh (trước 30-4-1975 là Cán

304

bộ Nghiệp Ðoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao công Saigon) cũng
là Tù Chính trị miền Nam bị đưa ra Bắc như chúng tôi làm Trực
Nhà cho Ðội.

Sau khi “kiểm tra và biên chế” xong, phải “khẩn trương” di
chuyển đến ở 2 dẫy nhà trong Khu Cách Ly sát bên cổng ra vào.
Khu Cách Ly được phân cách với các dẫy nhà khác trong trại
giam bởi một con đường rộng 5 mét và hàng rào kẽm gai. Sau
này chúng tôi phải làm lại hàng rào bằng tre nguyên cây, cao 2
mét dựng sát nhau chôn sâu xuống đất 1 mét. Tù trong các nhà
khác bị cấm không được lai vãng vào khu giam chúng tôi.
Khu Cách Ly của chúng tôi nằm sát bên sân tập họp, chỉ có một
lối ra vào ngay gần Cổng lớn, Cán bộ Cảnh vệ ngồi canh gác
ngày đêm nên chẳng ai dám léo hảnh tới. Dịp duy nhất anh em
có thể liên lạc nói chuyện với nhau, là trong thời gian xuống
suối tắm giặt sau những buổi lao động sáng và chiều hàng ngày.

Ngay bên ngoài hàng rào trại giam nhìn vào Khu Cách Ly của
chúng tôi có 1 dẫy nhà, một phần dành cho các Cán bộ Trực
Trại cư ngụ, một phần là Văn phòng làm việc của các Cán bộ
An ninh và Giáo Dục (tức là Quản Giáo ội) của Phân trại K2.

Có 2 điểm đặc biệt tại Phân trại K2 này là: 1.- Anh em Ðội Nhà
Bếp phải khiêng thực phẩm và nước chín đến từng Nhà giao cho
Trực Nhà của Ðội nhận lãnh, chớ Trực Nhà không phải xuống
Bếp lãnh như vẫn áp dụng tại các Trại khác trước đây. 2.- Trong
trại giam không có Tù Hình Sự ở chung với chúng tôi.

Môi trường cải tạo hoàn toàn mới, với rừng già núi cao khe sâu
âm u chưa hề khai phá, “chỉ tiêu lao động” hàng ngày nặng nề
gian khổ hơn. Ngày hai buổi, dù thời tiết nắng nóng như nung
hay mưa gió lạnh buốt như cắt da xé thịt, vẫn phải lặn lội xông

305

pha đốn cây phá rừng, trồng sắn, trồng bắp, trồng miá, trồng lúa,
trồng rau, để tự nuôi mình theo “tiêu chuẩn” dành cho Tù, và để
nuôi Cán bộ canh gác mình theo quy định của Nhà Nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam.
“Kế hoạch Chương trình làm Kinh tế” chính của Phân trại K2
này là phá rừng lập các nương trồng sắn, bắp, luá, trà, chăn nuôi
trâu bò, phá đá nung vôi, đào nhồi đất xét làm gạch ngói nung
chín, trồng miá ép làm mật đường, cất rượu, để Trại đem bán lấy
tiền nộp cho Nhà Nước. Chẳng khác nào một khu đồn điền tư
nhân rộng lớn thời Pháp thuộc, mà Cán bộ Nhà Nước là chủ
nhân ông và Tù Cải Tạo là bọn nô dịch phu đồn điền.

Ngoài công tác sản xuất còn phải lo xây dựng thêm Nhà cho
Cán bộ ở được khang trang hơn, có thêm nhà giam đón nhận Tù
các nơi khác sẽ dồn tới, có một Hội trường đủ rộng để chứa 6, 7
trăm người.

“Tiêu chuẩn thực phẩm” ăn hàng ngày của Tù vẫn nghèo nàn tồi
tệ chẳng khác gì những Trại trước. Chỉ có số anh em được gia
đình tiếp tế bằng Bưu kiện hàng tháng và đến thăm nuôi đều đặn
từng 3 tháng là không lo đói. Những bạn có dư giả này được dịp
tỏ tình chiến hữu thương yêu đùm bọc nhau, bằng cách không
dùng đồ ăn Trại phát hàng ngày để tặng cho những bạn đang gặp
hoàn cảnh kẹt thiếu thốn.

CUỘC SỐNG TẬP TRUNG CẢI TẠO

Môi trường cải tạo cheo leo,
Ðo rừng Yên Bái, đếm đèo Trường Sơn.
Sắn khô lưng chén thay cơm,
Ðọt lang dăm cọng, muối om nửa thià.

306

Nắng nung nối bước nhau đi,
Mưa phùn gió bấc, lầm lì Cán theo.
Vắt kim, điả đói bám đeo,
Muỗi mòng khát máu mừng reo cả bầy.
Run run những tốp thân gầy,
Bên nhau lặng lẽ đốn cây phá rừng.
Ðói phi bi thuốc môi rung,
Lơ mơ theo khói mung lung chuyện đời.
Trợn trừng Cán nạt thị oai,
Lăm lăm nòng thép hăm đòi cùm chân.
“Chỉ tiêu tối thiểu định phần,
“NÀM” chưa đạt mức, “NẦN” khân nghỉ hoài.”
Tù trong chịu phép Tù ngoài,
“Ếch ngồi đáy giếng coi Trời bằng vung.”
Xót thương Chiến sĩ anh hùng,
Sa cơ đành chịu sống cùng bọn ngu.

K2, Trại Thanh Phong, Thanh Hoá, tháng 1-1980.

Chương 26.
MÚT MÙA LAO KHỔ GIỮA LÒNG TRƯỜNG SƠN

Sau khi làm sân banh K2 Trại Thanh Phong xong, Ðội chúng tôi
được đưa lên sườn đồi ở bên kia con suối nhỏ đối diện Nhà
Thăm Nuôi, để chỉnh trang vun sửa các rãnh trà đã có từ trước
và trồng thêm những hàng trà mới. Anh em mừng thầm tưởng
Ðội được giao phó công tác trồng trà, hái trà, xấy trà, như đã
thấy quý Vị Tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa học lao động
cải tạo tại Liên trại 1, Xã Việt Cường, ên Bái, Tỉnh Hòang
Liên Sơn hồi những năm 1976-77 thì cũng đỡ.

307

Nhưng vẫn còn nghi hoặc chưa chắc vì Ðội không thấy có Nhà
Lô riêng cho ội, quanh khu vực K2 không thấy cơ sở lò xấy
trà. Ðồi trà hiện hữu mới có chừng mươi luống dài khoảng 50
mét từ dưới chân đồi lên gần sát đỉnh bên sườn Ðông, bên phía
sườn Tây còn bỏ hoang chưa phát quang chưa đào rãnh để chuẩn
bị trồng.

Giờ giải lao, mò lên ngồi nghỉ trên đỉnh đồi nơi “Anh Nuôi” của
Ðội đào lò dã chiến đun nước chin, nhìn xuống chung quanh
thấy quang cảnh tựa như một thung lũng đồn điền nhỏ gồm 3
quả đồi (A,B,C) nằm nối tiếp nhau từ Tây sang Ðông. Tôi tạm
đặt tên là “Ðồn điền 3 đồi” để gọi cho có vẻ thơ mộng, và quên
đi những nỗi đắng cay nhục nhằn của kiếp sống tù đầy đang phải
chịu hàng ngày.

Vòng theo chân “Ðồn điền 3 đồi” là con sông uốn khúc, với hai
con suối nhỏ từ 2 khe giữa 3 đồi chẩy nhập vào. Bao quanh vùng
“Ðồn điền 3 đồi” là những dẫy núi cao sườn dốc cây rừng rậm
rạp nối tiếp nhau vô tận.

Ngọn đồi B nằm chính giữa, là Khu nhà của Ban chỉ huy Phân
trại K2 (Chủ đồn điền) ở trên đỉnh. Chân đồi phía Nam sát bờ
sông là Khu các nhà giam Tù (Nô lệ phu đồn điền). Chân đồi
phía Ðông Bắc có một khối núi đá nhô lên là địa bàn hoạt động
của Ðội Lò Vôi. Chân đồi phía Ðông Nam có cái đập nhỏ dài
100 mét chặn ngang khe suối giữa đồi B và đồi C, vừa để ngăn
giữ nước cho Ðội gạch dùng vừa làm đường đi sang đồi mía. Sát
đầu đập phía bên chân đồi B có Nhà Ăn Tập Thể của Cán bộ
(Cai đồn điền).

Ngọn đồi C nằm bên hướng Ðông ngọn đồi B, là khu trồng mía
với cơ xưởng ép mía, lò nấu mật, lò cất rượu và dẫy nhà Lô của

308

Ðội Mía. Sườn phía Tây chân đồi C, ngay bên khe suối nhỏ đổ
ra dòng sông là “hiện trường lao động” của 2 Ðội Gạch, với sân
phơi gạch mới đóng khuôn còn ướt, nhà chứa gạch đã phơi khô
và lò nung gạch. Nhà Lô của Ðội gạch gồm 1 gian 2 trái mái
tranh vách phên, dựng sát bên đường ngay gần bờ sông trông
như một quán nước chờ đón khách thập phương qua lại.

Tất cả các Ðội Gạch, Mía, Vôi, Rau xanh, Mộc đều có Nhà Lô
riêng dựng ngay tại “hiện trường lao động” của mỗi Ðội. Nhà
Lô vừa dùng làm kho cất các dụng cụ của Ðội, vừa dùng làm nơi
cư ngụ cho Quản giáo Ðội. Theo Tôi, mục đích chính của các
nhà lô này là dùng làm tiền đồn, canh phòng an ninh xa chung
quanh trại giam.

Các Ðội Lâm sản và Nông nghiệp không có nhà Lô riêng, dụng
cụ lao động của các ội này cất nơi kho chung của Phân trại.
Mỗi khi Ðội chúng tôi xuất trại đi lao động, Quản giáo Ðội dẫn
3 anh do Ðội trưởng chỉ định thay phiên hàng ngày, đến kho
dụng cụ nhận lãnh và vác ra hiện trường lao động chia cho anh
em dùng. Hết giờ lao động gom lại, để mấy bạn trực ngày hôm
đó bó vác về kho hòan trả trước khi Ðội đi tắm giặt và trở vào
trại giam.

Ngọn đồi A trồng trà nằm bên hướng Tây của “Ðồn điền 3 đồi”,
đây là cao điểm cửa ngõ kiểm soát con đường đất duy nhất dẫn
từ K1 vào K2.

Con đường từ K1 vào chạy vòng theo chân đồi A từ Tây sang
Ðông, qua một cầu gỗ sang đồi B (trung ương) có khu Nhà
Thăm Nuôi, khu Cán bộ ở và khu nhà giam Tù, rồi tiếp tục qua
đồi C (phía Ðông) có hiện trường lao động của 2 Ðội Gạch, Ðội
Mía, và băng qua sông nơi khúc cạn đầy sỏi.

309

Sau này mới biết con đường băng qua sông dẫn đến Xóm Hoán
Bù, cách “Ðồn điền 3 đồi” chừng 7 cây số. Qua khỏi xóm Hoán
Bù đi thêm chục cây số nữa tới K3, nơi giam Tù Hình Sự của
trại Thanh Phong.

Trước khi băng qua chiếc cầu gỗ bắc ngang con suối nhỏ giữa
đồi trà (đồi A) và đồi trung ương (đồi B), con đường chẽ ra làm
hai, nếu đi thẳng qua cầu thì gặp khu Nhà Thăm nuôi, sân đá
bóng tròn (do Ðội chúng tôi mới ban), khu Cán bộ K2, và trại
giam. Còn rẽ trái vòng theo bờ suối đi về hướng Bắc, dẫn đến
Bản (làng) của đồng bào Thiểu số Thái Ðen cách “Ðồn điền 3
đồi” độ 3 cây số.

Thái Ðen không phải người Thái da mầu đen, mà là mầu của vải
may xiêm (váy) y (áo) của phụ nữ. Mẫu kiểu xiêm y thêu dệt và
may giống như của Thái Trắng, điểm khác duy nhất để phân biệt
là cả xiêm lẫn y của Thái Ðen dùng toàn một mầu đen, còn Thái
Trắng thì xiêm mầu đen y mầu trắng. Ðây là ghi nhận dựa theo
lời giải thích của đồng bào Thái, Tôi có dịp tiếp xúc lén trong
lúc đi khiêng cây rừng cho Ðội Gạch.

Từ chân phía Nam đồi trà (đồi A) ra tới đường cái, có một khu
đất rộng quây rào kẽm gai với một truồng bò nằm chính giữa.
Bên kia đường là dẫy Nhà Lô của 2 Ðội Rau Xanh, và Khu
trồng rau nằm dọc theo bờ sông. Bên bờ sông có một bánh
guồng to tướng kết bằng tre mang những đốt vầu múc nước, lừ
đừ quay liên tục ngày đêm đem nước từ lòng sông đổ vào hồ
chứa. Nhờ vậy việc gánh nước tưới các luống rau xanh nhanh
chóng hơn là phải xuống gánh từ sông lên.

Trong vòng 2 tuần lễ liền làm việc tại đồi trà, chúng tôi tu sửa
cắt tỉa các rãnh trà cũ bên sườn Ðông, sau đó chặt dọn gốc các

310

bụi tre gai đốt cháy không hết bên sườn Tây để sửa soạn đào
thêm các rãnh trồng những hàng trà mới.

Làm việc tại Ðồi trà, chúng tôi bị 2 lần hoảng sợ, nhưng may
mắn không ai mắc nạn.

Lần thứ nhất, trên đường đi lao động buổi sáng, khi sắp tới cây
cầu gỗ bên khu Nhà Thăm Nuôi, thấy bên vệ đường có một khúc
đen mốc mốc tròn to cỡ bắp đùi dài hơn 3 mét anh em tưởng là
khúc cây, không dè đi gần đến nơi mới thấy đầu con trăn ngóc
lên rồi nó tuồn thật nhanh xuống suối, băng qua bên kia lẩn vào
các bụi bên đường phía dẫn lên đồi trà. Cán bộ Cảnh vệ cằm
súng xăm xăm chạy tới xục xạo hồi lâu không thấy gì, anh em
tiếp tục dắt nhau qua cầu leo lên “hiện trường lao động” trên
sườn đồi trà. Không biết các bạn khác nghĩ sao, riêng Tôi vẫn
nơm nớp lo sợ nhỡ trong lúc lao động con trăn có thể nấp đâu đó
phóng ra, mổ cuốn nuốt mình làm một bữa cho thoả thê thì thật
vô phúc.

Lần thứ 2, cũng trong giờ lao động sáng nơi sườn Tây của đồi
trà, Tôi bị một vố sợ toát mồ hôi hột, mặc dù thời tiết đã bắt đầu
Lập Xuân nhưng khí hậu vẫn còn lạnh cóng. Chúng tôi chia
nhau chặt những gốc tre cháy chưa hết, bứng gốc các bụi tre cho
quang để đào rãnh trồng trà. Lúc Tôi vác mấy khúc tre vừa chặt
xong, đem đến chỗ tập trung thành một đống lớn đốt lấy tro làm
phân bón sau này, khi đi ngang chỗ lò nấu nước của anh Vân,
thấy anh ấy chỉ tay vào Tôi khua hất lia lịa miệng la thất thanh:

“vứt đi! vứt đi!”.

311

Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, nhưng phản ứng tự nhiên đoán là
có điều nguy hiểm bất thường, Tôi vội vàng vứt mấy khúc tre
xuống đất và nhìn anh ấy hỏi:

-Chuyện gì vậy?

Chẳng nói chẳng rằng thêm lời nào, anh Vân cằm một khúc tre
khác chạy ào đến bên Tôi, đập túi bụi vào đám cỏ ngay bên chân
Tôi. Chưa hết ngạc nhiên, Tôi cúi nhìn xuống mới thấy một con
rắn mầu trắng thân chỉ to bằng ngón tay, dài cỡ 30 phân, đầu
tam giác nằm quằn quại trên mặt đất. Lúc đó tim Tôi như muốn
ngừng đập, mặt tê lạnh toát, mình sởn gai ốc. Giây phút hoảng
sợ toát mồ hôi qua đi, hòan hồn hết xúc động Tôi mới nói được
nên lời:

- Cám ơn anh!

Anh Vân chậm rãi kể cho biết, lúc anh ấy lấy mấy khúc tre chẻ
làm củi đun nước, có một con rắn trắng nhỏ đầu tam giác (loại
rắn độc) rớt ra từ lòng khúc tre, nên khi thấy ở thân khúc tre Tôi
đang vác có một vật trắng đang chui ra từ từ trườn về phía cổ
của Tôi, anh ấy mới vội ra hiệu báo động cho Tôi vứt đám tre
xuống để tránh nguy hiểm. Anh Vân nói vừa dứt lời, Tôi cúi
xuống rạch bụng con rắn lấy túi mật, to bằng hạt gạo mầu xanh
trong như lá mạ bỏ mồm nuốt chửng.

(Anh Ðại tá Tô văn Vân là người sinh trưởng tại miền
Nam, rất khôn khéo và hòa nhã, đã có dịp làm việc chung
với Tôi tại Tổng cục Ðịa phương quân và Nghiã quân vào
thời gian 1967-68 ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa, Trại Trần Hưng Ðạo, Tân Sơn Nhất, Phú
Nhuận, Saigon. Về sau anh ấy theo học Khoá 1 Quân

312

Chính, mãn khoá được bổ nhiệm đi làm Phó Nội An cho
anh Ðại tá Dương Hiếu Nghiã Tỉnh trưởng Long Xuyên ở
miền Tây Nam phần.)

Con rắn trắng nhỏ này không phải loại rắn Hổ, cũng không phải
rắn Lục hay rắn Ráo, Tôi bèn đặt cho nó cái tên rất là Kiếm hiệp
“Trúc Bạch Xà” để ghi nhớ cái kỷ niệm sợ thất thần, không bao
giờ quên được trong cuộc đời tù đầy của mình tại K2 trại Thanh

Phong.

Sự việc lập tức được truyền tiếp cho toàn thể anh em trong Ðội
biết, để lưu tâm đề phòng nguy hiểm. Cũng kể từ đó về sau, hễ
anh em gặp rắn dù thuộc loại độc hay không, sau khi đập chết
đều gọi Tôi đến để cho lấy túi mật nuốt. Theo mấy ông thầy
thuốc Bắc, mật rắn độc là vị thuốc rất tốt cho Thận và làm sáng
mắt, nên người ta thường hòa mật rắn Hổ với rượu để uống cho
khoẻ. Thời gian khoảng 2 năm ở K2 trại Thanh Phong, Tôi có
dịp nuốt cỡ 50 chiếc mật rắn. Không có rượu đành chiêu bằng
nước chín, chẳng biết có hiệu nghiệm được như người ta nói

không?

Nhưng ít lâu sau, một hiện tượng đặc biệt đã xẩy ra cho chính
bản thân, không cần đeo kính cận thị Tôi vẫn nhìn được mọi vật
xa gần rất rõ ràng. Tôi suy nghĩ mãi không biết nhờ mật rắn, hay
do sự biến đổi tự nhiên của cơ thể con người theo phân giải của
cơ thể học (Lúc về già con ngươi mắt xẹp bớt đi, khuyết tật cận
thị nhờ thế sẽ được tự động điều chỉnh lại). Sự việc xẩy ra trong
một buổi đi phát cây rừng, cặp kính cận thị Tôi đang đeo bị rớt
văng xuống đất, Tôi nhướng mắt nhìn quanh để tìm, chẳng may
có bạn khác vô tình đi tới đạp lên làm gẫy gọng không đeo được
nữa. Tôi lo buồn vô cùng, vì không có kính mắt mờ sẽ dễ gặp tai
nạn lao động nguy cho bản thân. Nhưng không ngờ từ lúc không

313

mang kính, Tôi vẫn nhìn thấy hình cảnh chung quanh rõ ràng
chẳng khác gì đang đeo kính cận từ nhiều năm nay.

Công việc dọn sạch sườn Tây của đồi trà đang chậm rãi tiến
hành, đùng một cái Ðội chúng tôi được huy động đi tăng cường
khiêng thân và cành cây rừng đã đốn ngã tại các sườn núi bao
quanh “Ðồn điền 3 đồi”, đem về nộp cho Ðội Gạch dùng để
nung mẻ gạch mới đang vào lò. Sau đó lại tăng cường đi dọn cỏ
trong đồng mía, rồi đốn mía chất lên xe bò đem về cho Ðội Mía
ép nấu làm mật đường và cất rượu.

Sau Tết Canh Thân 1980, toàn thể các Ðội Nông Nghiệp trong
đó có cả Ðội chúng tôi “ra quân thi đua đầu năm”, tập trung đi
chiếm đất rừng càng nhiều càng tốt, để trồng bắp và khoai mì tại
các khu triền núi bên phải con đường dẫn ra K1 đã được đốn cây
và đốt quang từ trước. Sở dĩ Tôi quyết đoán là “tập trung đi
chiếm đất”, vì khi vừa dẫn Ðội chúng tôi tới hiện trường, Quản
giáo Ðội vội vã chạy đi tìm người đại diện của nhóm đồng bào
Thái đang làm trên sườn đồi để tiếp xúc quy định ranh giới của
đôi bên, trước khi cho chúng tôi khởi công trồng bắp.

Khi chúng tôi đến làm ở triền núi bên này, nhóm đồng bào thiểu
số Thái này đang reo lúa lốc nơi triền núi bên đối diện. Họ có
khoảng hai chục người, đứng từng cặp kẻ trước người sau thành
một hàng ngang dài từ chân núi lên cao dần theo triền núi. Họ đi
lần từng bước một, từ ranh bên phải qua mút ranh bên trái khu
nương đã khai phá. Người đi trước hai tay cằm một cây gậy dơ
lên đâm xuống mặt đất, tạo một lỗ sâu chừng mươi phân. Người
đi sau dùng tay phải móc hạt giống đựng trong chiếc giỏ cầm
nơi tay trái, vứt xuống lỗ rồi dùng bàn chân gạt ngang khỏa đất
lấp, thế là việc reo lúa hòan tất. Triền núi dốc đứng khoảng 60
độ, thế mà họ đi đứng thấy vững vàng làm việc nhanh nhẹn nhịp

314

nhàng đồng loạt bên nhau, tiến tới đều đặn như những người
máy trên xa bàn.

Chừng năm mười ngày sau khi reo hạt, các bụi mạ bắt đầu vươn
lên khỏi mặt đất và dần dần theo thời gian mọc cao thành các
khóm lúa um tùm xanh tươi. Sau ba tháng kể từ ngày reo thì lúa
chín, gặt đem về cất ăn dần. Ðây là loại “lúa ba giăng“ tức là 3
lần trăng tròn (ba tháng). Loại gạo này có lẫn lộn cả hạt đỏ và
hạt trắng, nấu thành cơm ăn hơi sượng y như còn sống, không
dẻo mềm như loại gạo trồng ở vùng đồng bằng.
Kỹ thuật hướng dẫn cho chúng tôi trồng bắp, giống hệt kỹ thuật
trồng lúa lốc của đồng bào Thái. Mỗi lỗ phải vứt vào 2 hột bắp,
để bảo đảm lỡ hột này không nẩy mầm còn có hột kia. Nhưng
anh Nghiã Ðội phó dặn nhỏ chúng tôi, nên vứt vào mỗi lỗ tối
thiểu 3, 4 hột cho chắc ăn, vì thấy mã hạt giống không được mẩy
tốt.

Nhóm đồng bào Thái nói tiếng Kinh rất thạo. Họ có tư thái rất tự
nhiên, dễ thương, vui vẻ, bộc trực, thật thà, không lạnh lùng kỳ
thị thủ thế xa cách với chúng tôi như các Cán bộ Công an. Cả
toán đồng bào Thái chỉ có hai người đàn ông đứng tuổi còn toàn
là nữ giới, già sồn sồn 4, 5 chục tuổi, trẻ mơn mởn đôi ba mươi.
Họ vừa lao động vừa cười nói bông đùa vang cả đồi núi. Họ cất
cao giọng ca những câu “hát quan họ” vùng Bắc Ninh để ghẹo
chúng tôi. Chẳng hạn:

“Anh Cả, anh hai, đó ơi ờí!... Hoa Mơ, hoa Mận, hoa Ðào,...
Ba hoa chụm lại hoa nào đẹp hơn?...”,

rồi họ khúc khích cười với nhau. Lâu không thấy chúng tôi lên
tiếng trả lời, họ lại cất tiếng hát những câu khác, có ý chê bai
chúng tôi nhát không dám đối chuyện chắc vì sợ lúc về nhà sẽ bị

315

“sư tử Hà Ðông” ghen cấu xé... Thật tội nghiệp, họ đâu có biết
vì Quy luật Trại giam cấm nên chúng tôi phải chịu ngậm tăm,
chớ bình thường đâu có ngán ngẩm gì việc đối đáp mua vui giữa
hai phe Nam Nữ.

Nhóm đồng bào Thái, chỉ được phép chiếm có một khoảnh sườn
núi bên hướng Bắc của đồi trà, còn tất cả những khoảng sườn
núi khác dọc bên đường đi K1, thuộc quyền sở hữu của “Ðồn
điền 3 đồi”.

ể trồng sắn (khoai mì), chúng tôi phải đào những hàng hố sâu
8 tấc, vuông 7 tấc, cách nhau 1 mét rồi mới bỏ hom xuống và lấp
đất lên.
Công tác mở mang diện tích “Ðồn điền 3 đồi” thêm vài cây số
về hướng Tây, phải hòan tất khẩn trương trong vòng 2 tuần lễ.
Sau đó, Ðội chúng tôi được giao phó trách nhiệm tu sửa lại con
đường dài khoảng 5 cây số, suốt từ K2 ra tới bờ sông gần đến
K1 cho thêm rộng, có rãnh thoát nước và phát quang một
khoảng rộng cỡ năm chục mét dọc 2 bên lề đường.

Khi công tác sửa đường hòan tất, Ðội chúng tôi lại đổi địa bàn
hoạt động, đi khai phá mở mang khu trồng đậu phụng (lạc) dọc
theo bờ sông nơi chân đồi mía, bên hướng Ðông của “Ðồn điền
3 đồi”. Quả đồi C này rộng lớn sườn thoai thoải, từ lưng chừng
lên đến đỉnh trồng mía, còn phần dưới xuống đến sát bờ sông
bên hướng Ðông và Nam chưa khai phá trồng trọt gì cả.

Dòng sông chẩy vòng theo chân đồi chẳng biết tên gì, có khúc
rộng chừng 50 mét, khúc hẹp 20 mét, thành bờ 2 bên thẳng đứng
cao cỡ 10 mét so với mặt nước. Trong mùa khô, dòng nước cạn
thu hẹp bề ngang từ bờ này sang bờ kia chỉ khoảng 5 đến 10
mét, trông như một lạch suối nhỏ trong vắt nhìn thấy đáy.

316

Nhưng tới mùa mưa lũ nước dâng cao tràn bờ, mặt sông trở nên
rộng mênh mông từ chân núi bên này tuốt tới chân núi bên kia
khu thung lũng. Dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chẩy xiết nghe
ào ào như thác đổ, cuốn theo đủ loại cây rừng lớn nhỏ bị trốc cả
rễ cành lá còn xum xuê.

Mỗi năm có một mùa mưa lũ vào các tháng 7, 8, và 9 Dương
lịch. Sau mỗi cơn lũ, đất bờ ở những khúc cong bị dòng nước
xoáy phá lở làm bề ngang sông rộng thêm cả 2, 3 mét. Ðất cát từ
bên bờ lở một phần bị cuốn đi theo dòng nước, một phần bồi qua
phía bên không lở tạo thành những bãi nổi dài làm thay đổi hình
thái và mức độ nông sâu của dòng sông.

Chung quanh chân của bãi bồi giữa dòng sông, là môi trường
sinh sống của các loài sò hến chen chét. Những khúc sông sâu,
là nơi cư trú sinh sản của các loại cá lớn nhỏ. Ðây là những loại
thực vật dưới nước cung cấp chất dinh dưỡng không mất tiền
mua, ngoài các loại muông thú hoang dã khác của thiên nhiên
dành cho những người thiếu may mắn phải sống cách biệt với xã
hội loài người vùng đồng bằng. Nhưng không phải dành cho Tù,
vì Tù đâu có được tự do đi lang thang săn bắt ăn như Cán bộ
canh Tù thường làm hàng ngày.

Suốt bề ngang đáy lòng sông toàn là đá sỏi, lớn nhỏ đủ cỡ đủ
màu sắc, hình thù khác nhau, bao bọc bởi rêu xanh trơn trợt và
các loại “ốc mút” tròn dài. Mực nước có chỗ sâu ngập lút đầu,
chỗ nông chỉ tới ngang đầu gối lội qua được. Luồng nước chẩy
lúc nào cũng rất xiết, vô ý trượt chân là bị cuốn phăng đi hàng
chục thước không đứng lên nổi, ướt sũng từ đầu đến chân. Trong
mùa Hè còn đỡ nhưng tới mùa Ðông là cả một cực hình, vì
không có quần áo khô thay ngay sẽ bị cóng lạnh cảm hàn, biến

317

chứng sưng phổi ho không thuốc chữa Thần Chết bắt đi dễ như
chơi.

Mấy tuần cuốc đất lên luống reo đậu phụng (lạc) hòan tất, Ðội
chúng tôi được đưa trở lại đồi trà, tiếp tục công tác đang bỏ dở.

Tới định cư tại K2 Thanh Phong được chừng 4 tháng, những bạn
Tù nghèo quà tiếp tế hết dự trữ bắt đầu phải cải thiện linh tinh.
May thay, quà Bưu kiện lại bắt đầu tới, anh Ðại tá Nguyễn Quốc
Quỳnh xưa nay đoạt giải quán quân nhận nhiều Bưu kiện hàng
tháng hơn mọi người, cũng vẫn là người may mắn nhận nhiều
Bưu kiện trước nhất. Nhiều đến nỗi, Cán bộ An ninh Phân trại
cũng như các Cảnh vệ đi theo canh gác Ðội chúng tôi, ai cũng
thuộc tên và tỏ vẻ quan tâm đến anh Quỳnh. Hầu như không
đêm nào tránh khỏi việc sau giờ điểm danh Tù vào Láng giam
buổi tối, Cán bộ đến bên ngoài cửa sổ đầu Láng giam nhỏ nhẻ
nhắn gọi muốn gặp anh Quỳnh. Họ xin thuốc Tây để trị bệnh,
hoặc xin vài con “sâu mỡ” (lạp xưởng) đem về nướng nhậu thử
với các đồng chí khác cho biết mùi...

Thật là một tai vạ cho anh Quỳnh nhưng lại là điều tốt cho anh
em trong Ðội, vì nhờ vậy họ không đối xử khắt khe với anh em
trong giờ lao động như trước nữa. Ngoài ra, số anh em vì lý do
nào đó bị kẹt chưa nhận được Bưu kiện, còn được hưởng một ân
huệ đặc biệt “gửi thư chui” trong giờ lao động. Anh em viết thư
thật ngắn gọn mang theo gom lại trong giờ lao động, nhờ Cán bộ
chận đưa tận tay thân nhân những bạn “thăm nuôi” xong đang
trên đường rời K2, để các Bà đem về giao thẳng tới nhà giùm.
Ðây là những “thư ngoại lệ” gửi bao nhiêu lần cũng được, ngoài
bức thư hợp pháp đã trình Quản giáo kiểm duyệt chuyển đi hàng
tháng.

318

Tôi cũng là một trong những người bị kẹt, anh em được nhận
Bưu kiện trở lại cả 2, 3 tháng rồi, phần Tôi vẫn chưa có gì. Nhờ
cái ân huệ hạn hữu gửi “thư chui” này, nên 2 cô con gái của anh
bạn Ðại tá Nguyễn Ngọc Ðiệp ở tận Bến Tre đến thăm Cha, đả
mang giùm “thư chui” của Tôi về tận nhà đưa cho Vợ Con Tôi ở
Saigon. Một tháng sau, Tôi nhận được Bưu kiện gia đình gửi tới
có thư kèm bên trong cho biết là vào dịp Tết Canh Thân 1980,
đúng 3 tháng sau khi dẫn Vợ Tôi tới “thăm nuôi” tại K5 trại Tân
Lập, Bà Chị Vợ tốt bụng lại cùng cậu con trai đến K5 xin “thăm
nuôi” Tôi, Cán bộ thăm nuôi tại K5 Tân Lập Vĩnh Phú cho biết
Tôi đã được di chuyển về Nam, Bà Chị nhanh nhẩu biên thư gửi
vào Saigon báo tin cho Vợ Con Tôi ngay. Vì thế, gia đình cứ đợi
thư của Tôi để có địa chỉ trại mới gửi quà hoặc xin phép đi
“thăm nuôi”. Chờ mãi chẳng thấy gì cho đến ngày con gái anh
bạn Ðại tá Ðiệp đến đưa thư tay, mới biết Tôi đang ở trại Thanh
Phong huyện Như Xuân tỉnh Thanh Hoá miền Trung Việt Nam
chớ không phải miền Nam. Gia đình vội vã đến trước Nhà Bưu
điện Saigon mua quà và thuê người bán gói cột làm thủ tục gửi
cho Tôi 4 Bưu kiện liền một lượt.

Ðang làm việc thong thả trên đồi trà, Ðội chúng tôi lại bị điều
động đi khai phá triền đồi C bên phía Ðông của “Ðồn điền 3
đồi”. Dọn đất cuốc rãnh trồng thêm mía, vãi phân, vun gốc các
rãnh mía cũ đang vươn mình trở lại sau vụ thâu hoạch hồi trước
Tết.

Thời gian này là giữa mùa Hè, mía đang vươn lên cao, phải tiả
các lá gốc cho cây tăng trưởng mạnh. Làm việc trong ruộng mía,
không khí nóng nực ngột ngạt khó chịu vô cùng. lúc nào mình
cũng ướt đẫm mồ hôi, bỏ áo ở trần không được vì cạnh lá mía
sắc bén như dao, cứa rách da thịt chẩy máu rất nguy hiểm. Bụi

319

phấn lông lá mía rụng ra bám trên da làm ngứa ngáy, cào gãi
xây sát sinh ghẻ lở cũng phiền hà không kém. Ngoài ra, việc để
mình trần còn bị nạn muỗi rừng nhiều vô kể, vằn đen trắng to
bằng đầu tăm bâu đốt đau như bị kim chích, sưng u lên từng cục
tròn đỏ rất khó chịu. Nếu chẳng may bị truyền bệnh sốt rét rừng
độc hại, còn có thể dẫn đến tử vong.

Quần áo trại phát mỗi 6 tháng một bộ, may bằng vải thô nhuộm
mầu xanh chàm sản phẩm của nhà máy dệt Nam Ðịnh, chỉ mặc
được chừng 2 tháng là bợt rách. Chúng tôi đã phải vận dụng óc
sáng tạo chế ra một loại áo lao động rất bền và rẻ tiền, mùa hè
thoáng mát mùa đông giữ được hơi ấm thêm cho cơ thể, để xử
dụng trong những giờ lao động. Ðó là những bao sợi pha ni-lông
màu xám rất bền không thấm nước, trước kia Quân đội miền
Nam dùng đựng đất cát đắp bờ tường chống đạn quanh các vị trí
phòng thủ, nay thân nhân mua đựng thực phẩm khô gửi qua
đường Bưu điện. Lấy những bao này khâu nối lại với nhau thành
một mảnh giáp dài có lỗ chui đầu ở giữa, nửa mảnh che trước
ngực, nửa mảnh phủ sau lưng, cột dây hai bên nách.

Những anh em được thân nhân tiếp tế dư giả loại quần áo lính cũ
dầy bền, không bao giờ cần biết đến việc sản xuất và xử dụng
loại áo kiểu mới này. Nhưng thấy chúng tôi dùng, anh em cũng
lịch sự khen có óc sáng tạo rất ư là Cách mạng. “Lao động là
sáng tạo” mà, Cách mạng Vô sản đã khẳng định như vậy làm
sao sai được.

Một Gô nước chín trại phát trước khi xuất trại, cộng thêm một
Gô do Anh Nuôi của Ðội cung cấp tại “hiện trường” vào giờ giải
lao, không bao giờ đủ giải quyết những cơn khát trong thời gian
lao động tại đồng mía. Anh em đành phải liều chặt lén mía ăn,
vừa để giải khát vừa thêm chất ngọt “bồi dưỡng” cho cơ thể.

320

Ðồng mía rộng bao la, được phân thành nhiều lô bởi những con
đường rộng 3 mét, thẳng tắp từ đầu này sang đầu kia theo hướng
Ðông Tây. Các rãnh trồng mía cách nhau 1 mét, dài trăm mét,
nằm vuông góc giữa các con đường theo hướng Bắc Nam. Khi
anh em vào sâu trong luống làm việc, đứng ngoài đường quan
sát chẳng thấy gì, chỉ nghe những tiếng gậy phạt soạt soạt lẫn
với bước chân người đạp lên lá mía rào rạo mà thôi. Cảnh vệ và
Quản Giáo cũng chẳng muốn chui vào đồng mía, theo sát bên
anh em đôn đốc làm gì cho cực. Họ ngồi ngoài đường dõi nghe
tiếng động cũng biết anh em có lao động liên tục hay không, và
đang hiện diện tại khu nào trong đồng mía.

Nhờ vậy, chúng tôi có thể thong thả chọn lựa cây mía nào mập
đốt dài nằm bên rià luống, rồi mới dùng cuốc bập cho đứt mà
không làm rung động cả bụi mía. Sau đó chặt phân thành 4, 5
khúc, phần ngọn đem cắm xen vào giữa các gốc bụi khác gần
đó, rồi tước vỏ các khúc mía nạc cắt thành từng khúc ngắn cỡ 2
đốt ngón tay, chẻ tư bỏ túi để vừa lao động vừa ăn. Bã mía nhả
ra vùi xuống dưới những đống lá trong rãnh.

Ngoài việc chặt mía lén ăn ngay trong ruộng, Tôi còn liều lĩnh
dấu đem về trại cho anh bạn Khuông Trực Nhà của Ðội mỗi
buổi 2 khúc để “bồi dưỡng”, vì anh này không có quà tiếp tế của
gia đình. Là “Trực Nhà” nên trong thời gian mọi người ra ngoài
lao động anh Khuông được ở trong trại giam, ngoài công việc
dọn dẹp vệ sinh trong ngoài láng, lãnh thực phẩm và nước chín
hàng ngày cho Ðội, còn trồng được một luống rau “cải thiện”
bên hàng rào. Do đó Tôi cung cấp gia vị và các thực phẩm khô
như mì ăn liền, gạo xấy, thịt cá mực tôm khô..., để anh ấy nấu
nướng biến chế thêm những món ăn chung ngày 2 bữa cho cả 2
người. Nhờ vậy nắng cũng như mưa, sau khi đi lao động về nghỉ

321

ngơi chừng nửa tiếng đồng hồ, Tôi có đồ ăn nóng sốt mà không
phải vất vả lo việc nấu nướng, cũng như sau khi ăn xong không
phải lo rửa soong, gàmèn...như các anh em khác. Chẳng riêng gì
Tôi, nhiều người khác cũng giúp các Bạn nghèo tiếp tế của gia
đình theo lối ăn chung như vậy. Vì thế có đôi người keo kiệt khó
tánh, nói ra nói vào bắn tiếng phê bình:

“-Ở tù mà còn bầy đặt dùng “Tà loọc”.

Chúng tôi ăn mía lén được cả tháng trời mới bị Cán bộ Cảnh vệ
phát giác, chỉ có Tôi và 3 bạn nữa cùng trong một nhóm làm gần
nhau bị mắc nạn. Quản giáo Ðội gọi chúng tôi ra “làm việc”
ngay tại chỗ, và buộc đến tối phải “tự phê” trong buổi họp kiểm
thảo hàng đêm của Ðội. Chúng tôi phải viết tờ kiểm điểm nhận
tội “ăn cắp của cải Xã hội Chủ nghiã” và cam kết hứa không tái
phạm. Chúng tôi không ghi là “ăn cắp” mà ghi là “ăn vụng”, hy
vọng tội sẽ nhẹ đi. Nhưng chắc là Ban Giám Thị Trại đã có lệnh
mới về việc đối xử với Tù sao đó, nên anh em chúng tôi không
ai bị kỷ luật, vụ việc coi như cho “chìm xuồng” luôn không thấy
nhắc tới.

Ðội chỉ được cấp một chiếc thùng để “Anh Nuôi” nấu nước chín
cung cấp cho anh em trong giờ lao động, vì thế ngày nào cũng
có một người được chỉ định thay phiên tiếp anh ấy khiêng thùng
đi, về, cũng như xuống sông lấy nước. Một hôm đến phiên Tôi
đi phụ, vào đầu giờ lao động buổi chiều trời nắng gay gắt, chúng
tôi vừa xuống tới bờ sông gặp một cảnh thật ngoạn mục hiếm có
hiện ra trước mắt. Phía trên bến lấy nước nơi đầu dòng khoảng
giữa sông chỗ nông nổi đầy đá, có 2 cô Thái ngồi chồm hổm
ngâm nửa người dưới nước. Cả 2 người cùng cuốn váy cao
ngang ngực mặt hướng nhìn về phía ngược dòng nước chẩy, nên
không biết có chúng tôi xuống bến. Ðợi một lúc lâu chẳng thấy

322

các cô ấy động tĩnh gì, chúng tôi đành phải đập mạnh vào thùng
sắt tạo tiếng động cho các cô ấy giật mình quay lại. Thấy chúng
tôi, các cô ấy tỉnh khô từ từ đứng lên thả váy xuống và thong thả
đi lên bờ. Chúng tôi chào và hỏi:

-Các Cô bắt gì vậy?

Các cô nhoẻn miệng cười thản nhiên trả lời:

“-Tắm cho mát thôi!”

Khoảng 5, 6 tháng sau ngày chúng tôi tới K2, một số anh em
đến trước bị di chuyển đi trại Thanh Cầm. Một tuần lễ sau, lại có
một số khác từ miền Bắc chuyển vào trại chúng tôi. Mọi người
hơi nao núng bàn tán, phải chăng cái Kế hoạch lập “Vùng Kinh
tế Mới” định cư Tù Chính trị miền Nam vĩnh viễn tại Thanh
Cầm là chuyện thật, và trại Thanh Phong này là điểm chuyển
tiếp?

Các biến động làm hoang mang tinh thần mọi người vừa tạm ổn
định, một việc buồn khác lại “đột xuất” xẩy ra tại K2. Một hôm
lúc gần đến giờ điểm danh vào Láng giam buổi tối, trong Khu
Cách Ly của chúng tôi có một bạn trẻ thân hình to lớn khoẻ
mạnh bị ngất xỉu, được anh em cõng xuống Bệnh xá cấp cứu.
Sáng hôm sau được tin anh ấy đã chết vì ngộ độc do ăn hột trái
“guốc” luộc.

Theo anh em Ðội Vôi ở chung Láng giam với chúng tôi cho biết,
vùng này có một loại trái rừng nhỏ hình thù cấu tạo y như trái
vải (lechi), đồng bào Thái gọi là trái “guốc”. Cùi chung quanh
hạt lột ra ăn ngon ngọt như cùi trái vải, hột đem luộc ăn bùi béo
như hột mít. Ăn chơi dăm ba hột thì không sao, nếu ăn nhiều
từng Gô cho no bụng như ăn hột mít luộc thay cơm, sẽ bị ngộ

323

độc chết không cứu được. Chỉ sau khi ăn một lúc lâu mới bắt
đầu cảm thấy say choáng váng, vì chất độc hòa vào máu chuyển
lên não bộ, dù có thụt nước rửa ruột hoặc làm mọi cách mửa bã
ra cũng vô ích. Cách duy nhất là truyền huyết thanh (serum) pha
trộn thuốc giải độc vào máu để cứu, nhưng trong Trại tù làm gì
có.

Dịp lễ Ðộc Lập 2 tháng 9, Phân trại K2 tổ chức một buổi văn
nghệ mừng rất rôm rả, có Trung tá Nguyễn Thùy Trưởng trại
Thanh Phong dẫn đoàn Cán bộ Trung Ương đến tham dự.
Chương trình văn nghệ do anh em Ðội Rau Xanh kiêm Văn
Nghệ, gồm một số Vị Tuyên úy Công giáo, Phật giáo, cùng mấy
anh em gốc Chiến tranh Chính trị sửa soạn tập dượt thực hiện.

Ðặc biệt trong chương trình có mục ngâm bài thơ của bồi bút Tố
Hữu Phó Thủ tướng Chính phủ Hànội. Bài thơ tuyên dương kỳ
công của Phạm Tuân Ðại tá phi công Cộng sản Việt Nam theo
phi hành đoàn Liên Xô Vĩ đại lên con tầu Vũ trụ của Nga đi vào
không gian, thử nghiệm tình trạng phát triển của Bèo Hoa Dâu
Việt Nam trong trạng thái Vô Trọng Lượng. Giọng ngâm của
anh bạn Tô kiều Ngân, một Sĩ quan thuộc ngành Chiến tranh
Chính trị, thật điêu luyện và lôi cuốn người nghe chẳng thua gì
hồi bạn ấy thi thố tài năng trong giờ Thi văn Tao đàn phát trên
làn sóng của các đài phát thanh tại Saigon trước 30-4-1975.

Lúc bạn ấy ngâm đến câu:

“Mang dép lốp bước lên tầu vũ trụ”,

nơi hậu trường có một tiếng pháo nổ thật lớn làm mọi người giật
mình xửng sốt, đồng thời đèn điện chớp nhoá thật nhanh và một
chiếc hoả tiễn vẽ trên giấy cứng được kéo từ chân sân khấu bên

324

này vụt lên tréo sang đỉnh sân khấu bên kia. Tiếng vỗ tay nổi lên
vang dậy cả Hội trường, xen trong đó có một bạn lớn tiếng thêm
câu thòng:

“-Nhớ đem về cho vài ký sắn!”.

Tiếng vỗ tay trong Hội trường rào rào vang dậy lớn hơn để biểu
lộ sự tán đồng lời riễu cợt. Lập tức có tiếng còi của Cán bộ An
ninh và tiếng gạn hỏi xôn xao ở phía cuối Hội trường làm ngưng
bặt tiếng vỗ tay. Trên sân khấu bạn Tô Kiều Ngân vẫn tiếp tục
ngân nga trầm bổng theo tiếng sáo dật dìu, ngâm cho hết bài thơ.

Chúng tôi được xếp ngồi ở khoảng giữa Hội trường, thành ra
đến tận lúc mãn buổi văn nghệ ra về mới được nghe anh em thì
thầm cho biết, người nói câu đó là một bạn Tù trẻ, Sĩ quan cấp
úy gốc Thiểu số miền Cao Nguyên Trung phần tên Ðiểu Côn đã
bị bắt đem đi giam trong Nhà Kỷ Luật.

Theo nhận định của riêng Tôi, buổi sinh hoạt văn nghệ này được
tổ chức theo chỉ thỉ của Trại trưởng Trại Thanh Phong Trung tá
Nguyễn Thùy, để khoe cùng các Ðàn anh ở Trung Ương về cái
tài giỏi của ông ta trong việc giáo hoá Tù Chính trị miền Nam.
Không những ông ta khiến được mọi người ngoan ngoãn quy
thuận hăng say khai phá rừng sâu để sản xuất thêm nhiều của cải
cho Xã hội Chủ nghiã theo đúng đường lối chính sách của Nhà
nước, mà còn lôi cuốn được Tù sáng tạo các chương trình văn
nghệ rất có ý nghiã để thúc đẩy tinh thần thi đua lao động cải
tạo, cũng như tin tưởng biết ơn Ðảng, Nhà Nước và các anh
hùng Xã hội Chủ nghĩa.

Mấy ngày sau buổi văn nghệ, một số anh em được Ðoàn Cán bộ
Trung Ương kêu lên “làm việc”. Thành phần được gọi toàn là

325

dân Phòng Nhì, An ninh Quân đội, Chiến tranh Chính trị, những
khuôn mặt quen thuộc trong đó có Tôi, đến Trại nào cũng bị gọi
lên “làm việc”. Dĩ nhiên, Cán bộ tra vấn không phải những
người cũ đã gặp trong các lần “làm việc” tại các Trại trước.

Lần này Tôi bị hỏi và phải viết chi tiết về Tổ chức, Nhiệm vụ,
của hệ thống Chiến tranh Chính trị từ Trung ương xuống Ðịa
phương và trong các Ðơn vị tác chiến. Ðề tài này họ đã buộc Tôi
viết từ hồi còn ở Trại Suối Máu Biên Hòa năm 1976. Sau 4 năm
họ lại hỏi nữa, chắc là để kiểm tra sự “thành khẩn khai báo” của
mình xem có “trước sau như một không”?

Tôi coi như “pha” chẳng có gì lo lắng, lỡ lần này viết có không
giống lần trước “tiền hậu bất nhất” cũng chẳng sao. Mức độ đầy
đọa khủng bố tinh thần đến mức tối đa đã qua rồi, mình vẫn
sống nhăn chưa chết, huống chi lúc này mình đang là con mồi để
Nhà Nước xã hội chủ nghiã kiếm Ðô-La của Hoa Kỳ, họ đâu
dám hành hạ cho mình “chết dở sống dở” như trước nữa mà sợ.

Thấm thoát ngày tháng qua đi thật mau, khi rừng bắt đầu đổi
mầu loang lổ xanh, vàng, hung đỏ, nâu, trông như một tấm vải
gấm ngũ sắc vĩ đại phơi mình dưới ánh nắng vàng úa của mùa
Thu, các Bà vợ Tù lại bắt đầu xuất hiện ở khu Nhà Thăm Nuôi.
Thường các Bà được xe vận tải Trại Thanh Phong chở từ K1 nơi
có Ban Giám Thị Trại tới K2 vào buổi chiều tối, nhưng ngày kế
theo sau khi “thăm nuôi” xong ra về các Bà phải đi bộ gần năm
cây số từ K2 ra K1 để chờ thuê xe chở khách đưa trở ra ga

Thanh Hoá.

Trong số anh em Ðội chúng tôi cũng lẻ tẻ có thân nhân đến
“thăm nuôi”. Có anh ngỡ ngàng khi thấy người đến thăm mình
là Bà vợ lớn ở Hànội, đã xa nhau từ mấy chục năm nay bỗng

326

dưng có dịp gặp lại. ặc biệt có anh Vợ ở Saigon ra mang theo
một giấy giới thiệu của Cán bộ Chính quyền Ðịa phương yêu
cầu Trại giam “chiếu cố” và anh ấy đã được ở lại qua đêm với
vợ. Thật bất ngờ vì anh bạn này không thuộc thành phần lao
động “xuất sắc” hoặc “Tự quản đội” (Đội trưởng, Đội Phó) để
được hưởng ân huệ “thăm nuôi đặc biệt”. Sau này nhờ anh ấy
tiết lộ tâm tình riêng với các bạn thân, anh em mới biết được
hòan cảnh éo le là một trong các cô Con gái của anh ấy đã kết
hôn với Cán bộ thi hành chính sách “Tam cùng” của Ðảng và
Nhà Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghiã Việt Nam. Theo chính
sách này, Cán bộ Cộng sản phải “tranh thủ” đoạt Vợ Con Ngụy
Quân Ngụy Quyền làm chiến lợi phẩm, nhằm mục đích phá tan
hoang nền nếp gia đình của Tư sản.

Hình như Cấp Trung Ương Ðảng Cộng sản Việt Nam mới có chỉ
đạo đặc biệt sao đó, nên tại Trại Thanh Phong Trung tá Nguyễn
Thùy Trại trưởng quy định thời gian “thăm nuôi” là nguyên cả
ngày, Tù và thân nhân được ở bên nhau từ sáng sớm cho đến tối
để có dịp cùng ăn một bữa cơm trưa do chính thân nhân sửa
soạn. Mỗi gia đình “thăm nuôi” được cấp một phòng riêng có
giường nằm, có bàn ghế, và đặc biệt có cửa đóng kín, tha hồ trò
chuyện thoải mái không có Cán bộ canh chừng. Trường hợp
được đặc biệt “chiếu cố” thì Tù và thân nhân được ở thêm bên
nhau qua đêm.

ặc ơn đặc biệt này đã được Trung tá Thùy Trại trưởng giải
thích trong một dịp ghé thăm gia đình “thăm nuôi” tại K2 là: “-
Ðể đền bù công lao khó nhọc vất vả đi hàng ngàn cây số của các
Bà, nên Trại “chiếu cố đặc biệt”cho Cải tạo viên và thân nhân ở
bên nhau cả ngày cho thoải mái, thay vì vì chỉ được 15 phút như
hồi còn ở trại Tân Lập Vĩnh Phú ngoài Bắc.”

327

TRƯỜNG SƠN, XUÂN LƯU ÐẦY.

Xuân vẫn là Xuân, Ta vẫn Ta,
Khác chăng là ngoại cảnh rừng già.
Lăng xăng ngoài giậu, Công an đỏ,
Lặng lẽ trong rào, Cải tạo gia.
Khỉ, Cú trẽn trơ nhìn nước đổ,
Anh hùng sầu muộn nhớ thời qua.
Mưa Phùn gợi nỗi thương Dân tộc,
Gió Bấc khơi lo vận nước nhà.

K2, Thanh Phong, Xuân Canh Thân – 1980.

GÓI ƯU TƯ MÙA THU

Gió đưa nhẹ lá vàng rơi,
Nghiêng nghiêng nắng ngả bóng đời vào Thu.
Lom khom ven núi đoàn Tù,
Khua dao, múa cuốc, ngất ngư vạn sầu.
Gió sương hun bạc mái đầu,
Rừng hoang ngăn lối, thấy đâu đường về.
Âm thầm ngày tháng lê thê,
Mây ngàn thăm thẳm bóng quê mịt mù.
Xuyên trời vụt bóng chim cu,
Làm sao gửi gói ưu tư nghẹn ngào ???

Mùa Thu 1980. K2, Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh
Hoá.

Chương 27.

328

KẾT QUẢ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CỦA
HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.

Mùa mưa lũ năm 1980 tại Thanh Phong đã làm gián đoạn lưu
thông giữa Trại và bên ngoài nhiều lần, mỗi lần lâu từ một tuần
lễ đến 10 ngày. Ban Hậu Cần không nhận được tiếp tế đều hoà
đúng kỳ hạn, nên trong những dịp này cả Trại cùng chịu thiếu
đói như nhau. Cán bộ K2 phải ăn ngày 2 bữa cháo độn khoai
tây. Anh em Tù chỉ được phát thực phẩm mỗi ngày một lần vào
buổi sáng trước khi đi lao động. Mỗi phần ăn dành cho cả ngày
được khoảng chục củ khoai tây luộc to bằng trái trứng gà.

a số anh em Tù nhờ có Bưu kiện tiếp tế của gia đình gửi hàng
tháng để tích trữ, nên vẫn đầy đủ ngày 3 bữa no nê. Chỉ tội cho
các bạn không có tiếp tế thiếu đói nặng phải cải thiện linh tinh,
nhưng không thấy Cán bộ làm khó dễ. Quản giáo ội cũng
thông cảm, trong mỗi buổi lao động thường cho 2 người lén lội
qua sông đào trộm sắn non của Trại đem về nấu cho Quản giáo
và Cảnh vệ ăn no tại chỗ, anh em Tù trong ội cũng được chia
phần “bồi dưỡng” chút đỉnh, nên vui vẻ cả làng không ai báo
cáo ai. Những người có dư giả nhường phần “bồi dưỡng” của
mình cho các bạn thiếu thốn, để bầy tỏ tình tương thân tương ái
“miếng khi đói bằng gói khi no”.

Sau nhiều cơn hoạn nạn thiên tai, Cán bộ và Tù đã có dịp cùng
nhau chia sẻ ngọt bùi thiếu đói, nên tình cảm cư xử với nhau đổi
khác hẳn. Cũng nhờ thế, không khí chuẩn bị mừng đón Tết Tân
Dậu 1981 có vẻ rôm rả đầm ấm hơn năm trước. Cán bộ mạnh
dạng xin Tù cho quần áo Trại phát không dùng, đem đi đổi lấy
thịt chó về vui nhậu trong 3 ngày Tết.

329

Ngược lại, Tù cũng nhờ Cán bộ đem quần áo đi đổi giùm lấy
gạo nếp đậu xanh và trứng gà, để tăng cường các món ăn đầu
năm của mình thêm phần phong phú. Việc này thực hiện được,
nhờ quần áo Nhà Nước phát cho Tù 6 tháng một bộ không may
pha lộn 2 mầu xanh trắng như hồi còn ở Trại Tân Lập, không
đóng dấu ám hiệu Trại giam trước khi phát, vải nhuộm toàn một
mầu xanh chàm đồng bào Thái ở gần Trại có thể dùng được
không trở ngại gì.

Trong 2 ội Rau Xanh, có 1 ội gồm toàn các Tuyên úy Quân
đội, ại tá và anh em gốc Chiến tranh Chính trị, được đặt tên là

ội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ. ội này, ngoài việc trồng rau
còn phải dàn dựng tập dượt các chương trình Văn Nghệ. Buổi
thử lửa trình diễn đầu tiên vào dịp mừng Lễ ộc Lập 2 tháng 9
thành công rất mỹ mãn, nên vào ngày mồng 3 Tết Tân Dậu 1981
Phân trại K2 tổ chức “xuất quân Thi ua đầu năm” với một
chương trình Văn Nghệ lưu động, thúc đẩy tinh thần anh em lao
động rất hào hứng. Có múa Lân, có toán Nhạc nhẹ và Ca sĩ lần
lượt đến từng khu vực lao động trình diễn giúp vui cho anh em
hăng hái xông pha phát bụi rậm cỏ tranh cỏ bông lau, còng lưng
cuốc đào đất bỏ hom trồng khoai mì trên sườn núi hai bên quãng
đường dài 4 cây số bên kia sông hướng đi tới Xóm Hoán Bù.

Có những bài hát của miền Nam sau 30-4-1975 bị cấm vì Cộng
sản Việt Nam coi là Nhạc Vàng phản động, nhưng thấy Ban Văn
Nghệ vẫn hoà tấu không lời ca cho anh em thưởng thức. Anh em
thích thú hoan hô nhiệt liệt và rất ngạc nhiên không biết vì sao
Ban Văn Nghệ giám liều lĩnh đến thế. Trong giờ nghỉ lao động ở
trong trại, Tôi tìm gặp Linh Mục Tuyên úy ội trưởng Rau
Xanh kiêm Văn Nghệ để hỏi, Ngài cho biết:

330

“-Mọi tiết mục trong chương trình đều phải trình Cán Bộ
Quản Giáo duyệt trước, mình nói là nhạc Liên Xô và nhạc Cu
Ba, họ hân hoan gật đầu ngay. Họ đâu có biết khỉ khô Ất
Giáp gì nhiều về ca nhạc ngoài mấy bài hát do Đảng và Nhà
Nước nhồi vào sọ hàng ngày. Còn anh em chúng mình chắc
chắn không ai đi tố cáo nên chẳng có gì để mà sợ.”

ể tới “hiện trường lao động thi đua đầu năm” Con Gà Mới
(Tân Dậu), mọi người phải đi theo con đường từ khu trại giam
qua ội Gạch bên đồi mía, xuống chân đồi băng qua sông chỗ
khúc cạn ngập ngang đầu gối. Dòng nước lúc nào cũng chẩy rất
xiết, lòng sông đầy sỏi đá rêu bao trơn trợt, anh em phải nắm tay
nhau kẻ trước người sau dò đi từng bước một. Tội nghiệp cho
các Bạn đến phiên trực phải vác các bó cuốc ra hiện trường cho
Anh Em dùng, thật vất vả. Nếu lỡ trợt chân bị nước cuốn băng
đi cả chục mét, khi gượng đứng lên được thì bị ướt sũng từ đầu
đến chân chẳng khác nào tắm gội không cởi bỏ quần áo.

Mỗi ội được giao khoán phát quang đào hố bỏ hom trồng
khoai mì (sắn) trên một khoảng đất bề dài 1 cây số, sâu vào 2
bên lề chừng 200 mét dọc theo con đường đi Xóm Hoán Bù. ội
nào làm xong trước nhất được thưởng mỗi người 1 kí lô sắn “bồi
dưỡng”. Dĩ nhiên ội các bạn trẻ bao giờ cũng dành phần thắng
lợi, ội chúng tôi già yếu chỉ cố gắng làm cho không bị chỉ trích
chây lười là tốt rồi.

Nhưng cũng may trong kỳ “thi đua” này Trại đặt ra một biệt lệ,
phát “giải thưởng bồi dưỡng” 5 cây mía cho cá nhân nào được

ội trưởng ghi nhận là “lao động năng nổ vượt chỉ tiêu” trong
ngày. ội trưởng, ội phó và Thư ký ội chúng tôi bàn luận với
nhau rồi cho anh em biết là, mỗi ngày sẽ trình danh sách 5 người
“lao động xuất sắc” để thay phiên nhau lãnh thưởng về chia đều

331

cho cả ội. Anh em phải kín đáo âm thầm tiếp tay cho các “anh
hùng lao động” này hoàn thành “vượt chỉ tiêu” tối thiểu từ 5 đến
7 hố sắn nhiều hơn những người khác. Anh em vui vẻ “nhất trí”,
nhờ vậy ngày nào toàn thể ội chúng tôi cũng có mía “bồi
dưỡng”.

Một hôm khi đang phát bụi rậm trong buổi lao động sáng, Tổ
chúng tôi gặp phải một tổ ong vàng bay toả ra đốt túi bụi, anh
em bỏ chạy tán loạn la ôi ối. Cán bộ Quản giáo thấy vậy chạy
đến vơ nắm cỏ tranh bện làm một nùi đuốc, đốt lên đem đến chỗ
bụi rậm hun xua ong bay tản đi chỗ khác, rồi vạch tìm lấy tổ ong
đưa cho chúng tôi.

Chúng tôi xé tổ ong chia nhau mỗi người một mảnh, lấy một ít
xáp và ong nhộng chà lên những chỗ bị ong chích để giải độc.
Chỗ còn lại, gồm cả ong nhộng và mật bỏ vào miệng ăn tươi rất
bùi béo ngọt. Từ đó về sau mỗi khi đi phá bụi rậm, anh em lại
mong được gặp tổ ong càng lớn càng tốt để có nhiều mật tươi ăn
cho nó bổ.

Cũng may, chúng tôi gặp phải tổ ong cỏ hay ong đất gì đó, mầu
vàng như nghệ thân ngực to bằng hột đậu xanh khúc bụng to dài
hơn hột đậu đen một chút, thế mà chúng đốt đã nhức nhối đau
rát y như bị phỏng lửa chịu không nổi. Nếu gặp nhằm tổ ong Vò
Vẽ (mình vằn đen vàng) nọc độc của nó làm cho bị nóng sốt mê
man xưng phù, nếu không có thuốc giải cứu kịp thời có thể vong
mạng như chơi. Thật là hú viá!
Trong rừng núi Trường Sơn thời gian giao mùa hết ông sang
Xuân, sáng sớm đi làm sương đêm đọng đầy trên cỏ đụng vào
lạnh cóng, trưa nắng chói chang lao động mau mệt vã mồ hôi
khô cổ họng, xế chiều vừa tới giờ nghỉ lao động mặt trời đã vội
vã lỉnh xuống phía sau các đỉnh núi cao rừng rậm khí lạnh toả ra

332

rất nhanh. Cả buổi lao động lam lũ, bụi đất bụi cỏ bám đầy từ
đầu đến chân, người đẫm mồ hôi, không tắm thì dơ bẩn ngứa
ngáy sinh ghẻ lợ, còn tắm thì phải cởi quần áo lội xuống nước
lạnh rùng mình rất dễ bị nhuốm bệnh cảm sổ mũi nhức đầu mệt
mỏi bải hoải, nhưng nếu không bị sốt cao độ chẳng bao giờ được
nghỉ lao động. ằng nào cũng khổ, nhưng nhu cầu giữ vệ sinh là
ưu tiên số một nên phải liều xuống tắm để cho cơ thể tự thích
ứng lần, cuối cùng rồi quen dày dạn chẳng sao.

Một hôm giữa buổi lao động chiều chúng tôi đang ngồi bên lề
đường nghỉ giải lao, có 3 người đàn bà Kinh đứng tuổi mặc váy
đen áo cánh nâu chít khăn đen mỏ quạ đã bạc mầu đi ngang.
Bỗng có một người đang đi ngồi thụp xuống ôm đầu nhăn nhó
mặt mày xanh lợt, anh ại tá Trần văn Thăng (gốc An ninh
Quân đội) tới gần hỏi:

“-Bà làm sao vậy?”

Bà ấy trả lời:

“-Tự nhiên Em thấy choáng váng chóng mặt nhức đầu
quá!”.

Anh Thăng lấy hộp sáp dầu Cù Là hiệu Macshu của Singapore
(Dân chúng miền Nam ưa dùng) đưa cho Bà ấy bôi vào 2 bên
thái dương trán và sau gáy để trị trúng gió. Sau khi bôi được
chừng vài phút, Bà ấy tỉnh hẳn ra mặt mày hồng hào trở lại, cám
ơn rối rít rồi đứng lên đi tiếp cho kịp 2 Bà bạn kia.

Một lúc sau, một trong 3 người đàn bà quay trở lại chìa tay xin
chút thuốc trị trúng gió. Anh Thăng nói:

“-Hồi nãy đã cho Bà rồi!”.

333

Bà ta lý nhí nói:

“-Thưa, lúc nãy anh cho Chị kia chớ không phải Em”.

Anh Thăng lấy hộp sáp Cù là mở nắp thấy còn rất ít dính đáy
hộp, bèn đưa luôn cho Bà ta và nói:

“-Chỉ còn có chút đỉnh thôi, Bà cầm lấy luôn để mà chia
nhau xài”.

Bà ta ngước mắt ngạc nhiên lắc đầu nói:

“-Không dám, xin anh một tý dùng thử cho biết mùi thôi”.

Sợ nói chuyện lâu với thường dân Cán bộ lại buộc tội vi phạm
Nội Quy trại thì phiền, anh Thăng nói nhanh:

“-Tôi cho Bà luôn đấy, thôi đi đi kẻo Cán bộ rầy rà thêm
phiền phức”.

Mắt Bà ấy sáng rực lên gật đầu lia lịa cám ơn rối rít, cầm hộp
xáp Cù là chạy vội đi khỏi chỗ chúng tôi.

Cảnh tượng này khiến tất cả anh em chúng tôi vô cùng xót xa
thương cho số phận người dân sống trong Thiên đường Xã hội
Chủ nghĩa bấy lâu nay tại miền Bắc Việt Nam.

ợt “Thi đua” trồng sắn đầu năm vừa dứt, ội chúng tôi được
chỉ định khai quang và đắp sửa con đường băng qua xóm Hoán
Bù cho đủ rộng để xe vận tải có thể lưu thông được.

Xóm Hoán Bù gồm khoảng chục căn nhà vách đất mái rạ, nằm
dọc theo sát bên trái con đường. Trong thời gian lao động tại
khu này, sáng cũng như chiều chúng tôi không thấy bóng một

334

Nam Nữ trẻ tuổi nào ngoài vài ông bà già và ít đứa con nít dưới
5 tuổi. Chúng tôi không quan tâm tìm hiểu tại sao lại đặt tên là
xóm Hoán Bù, và hai chữ Hoán Bù có ý nghĩa gì?

Tình cờ trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, sương mù
chưa tan hết, không khí còn ẩm lạnh căm căm, bà cụ nhà ở sát
bên đường đon đả mời Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ vào uống
trà tươi và khoai luộc còn nóng hổi cho ấm lòng. úng lúc đó,
một ông cụ từ bìa rừng về tới xà xuống bên chúng tôi, xin điếu
thuốc lào hút cho ấm dạ. Chúng tôi phải mặc 2, 3 tầng áo len áo
bông dài tay còn cảm thấy lạnh, trong khi ông già chỉ phong
phanh có 1 bộ quần áo “kiểu bà ba” nâu bằng vải mỏng đã bạc
mầu, bên ngoài phủ chiếc “áo bông chấn thủ” cụt tay đã rách
phải vá víu nhiều chỗ. Da mặt ông cụ xám ngoét môi tím bầm co
ro cúm rúm, xoa 2 tay vào nhau cho đỡ lạnh.

Một anh trong chúng tôi hỏi:

“-Cụ năm nay đã đến 70 chưa, già nua vậy mà vào rừng chi
sớm vậy?”

Ông cụ trả lời:

“-Cám ơn Trời cho năm nay mới được 60 thôi! Sống trong
Xã hội Chủ nghĩa, ai cũng phải lao động mới được chấm
công để lãnh phần “tiêu chuẩn” quy định hàng ngày. Chúng
tôi dẫn trâu của Hợp tác xã đi ăn cỏ, lợi dụng trong lúc
chúng đang ăn mình mò về kiếm chút khoai sắn đỡ dạ vậy
mà. Bà nhà tôi ở nhà chăm sóc nhà trẻ cho xóm, còn các
cháu cỡ 6, 7 tuổi trở lên phải đi hót phân cắt cỏ cho trâu ăn.
Mỗi người một việc Qúy ông ạ!”

Chúng tôi lại hỏi:

335

“-Phiếu vải được Nhà Nước cấp hàng năm để may quần áo
đâu sao Cụ không mua mà dùng?”

Ông cụ trả lời:

“-Ấy, hàng năm Nhà Nước có cấp Phiếu cho đấy, nhưng vài
năm nay mỗi lần đến Hợp Tác Xã đều nói chưa có hàng về,
nên mình phải đợi thôi! Từ ngày chấm dứt chiến tranh, không
còn viện trợ của các nước anh em Xã hội Chủ nghĩa nữa cái
gì cũng thiếu”.

Trong lúc nói chuyện có dịp quan sát kỹ khuôn mặt ông cụ, Tôi
ngờ ngợ thấy hình như mình đã có dịp gặp ông cụ này ở đâu,
nhưng không nhớ ra. Bèn hỏi:

-Cụ và bà con Xóm này ở đây bao lâu rồi mà trông các mái
rạ còn mới quá vậy?

Ông cụ trả lời:

“-Ấy cũng chưa lâu lắm đâu. Trước chúng tôi ở vùng Yên
Bái, Hoàng Liên Sơn, đủ hạn kỳ Nhà Nước lại điều động đến
đây khai phá làm ăn sinh sống”.

Tôi hỏi tiếp:

“-Gia đình cụ tình nguyện đi lập vùng Kinh tế mới ở đây à?”

Ông cụ lắc đầu đảo mắt liếc quanh không thấy bóng Cán bộ nào
gần chỗ chúng tôi đang trò chuyện, mới hạ thấp giọng nói tiếp:

“-Trước năm 1954, Cha của tôi làm Lý trưởng vùng Tề ở
Thái Bình. Sau tháng 7 năm 1954, toàn miền Bắc được giải
phóng khỏi tay Tây và phe Quốc gia, Cha tôi bị Toà án Nhân

336

dân xử tử vì tội Việt gian bán nước. Cả đại gia đình họ Nội
họ Ngoại chúng tôi được Nhà Nước khoan hồng tha tội chết,
nhưng phải đi lao động tại các vùng Kinh tế mới. Cứ 4, 5
năm lại rời nơi lao động, miết từ bấy đến nay chẳng biết bao
giờ mới được ở yên một chỗ. Khi còn ở Yên Bái, gia đình
chúng tôi ở Hợp tác xã trong vùng Xã Việt Cường. Hồi đó,
chúng tôi cũng đã có dịp gặp bạn bè của Qúy ông đến đắp
đập cho Hợp tác xã. Gia đình chúng tôi phải hàng ngày đại
diện Hợp tác xã cung cấp sắn bồi dưỡng cho các ông ấy
đấy!”

Tôi im lặng không nói gì, nhưng trong óc mung lung suy nghĩ và
bây giờ mới hiểu ra tại sao ông cụ này hồi đó cư xử rất tử tế với
chúng tôi, trong khi nhiều người khác luôn luôn có thái độ căm
thù. Hồi còn ở Liên trại 1, ội chúng tôi được chỉ định đi đắp
đập thuê ở quanh vùng xã Việt Cường, ên Bái (Tôi đã kể trong
một đoạn trước). Hàng ngày, Tôi được ội trưởng cử đi cùng 1
bạn khác theo Quản giáo ội vào Hợp Tác Xã để nhân viên đưa
đi đào sắn sống. “Tiêu chuẩn bồi dưỡng” Hợp Tác Xã cho mỗi
người 1 kí lô một ngày. Chúng tôi lãnh đem ra trao cho anh Nấu
nước của ội rửa luộc chia đều cho anh em “bồi dưỡng” trong
giờ giải lao, sau khi đã lựa mươi củ to ngon để Quản Giáo ội
và Cảnh Vệ dùng trước. Chính ông cụ này, đã được Chủ nhiệm
Hợp Tác Xã giao cho việc đưa chúng tôi ra ruộng sắn tự đào củ
và cân cho chúng tôi. Bao giờ ông cụ cũng cho chúng tôi lấy
nhiều hơn số cân lượng quy định cả chục ký.

Công việc sửa sang đường băng qua xóm Hoán Bù vừa được
chừng 1 cây số, ội chúng tôi được điều động đi rẫy cỏ phá bụi
trồng lúa nương, ngay bên kia bờ sông đối diện với khu trại

337

giam. oạn đường còn lại chưa sửa không biết do ội nào tiếp
tục phụ trách.

ường đi đến khu lao động mới rất gần, chúng tôi chỉ phải lội
qua sông nơi khúc cạn nước cao ngang đầu gối, ngay khu bến
tắm hàng ngày của Anh Em Tù sát bên hàng rào Nhà Bếp của
Trại giam ngó xuống.

Làm việc tại khu này cá nhân Tôi học được một kinh nghiệm hú
viá để đời. Một buổi sáng ra lao động, thấy trên khúc gỗ mục
mọc đầy nấm mầu nâu non đẹp y như nấm ông Cô, đúng loại
nấm anh bạn thuộc ội khác ở chung Láng chiều nào cũng nấu
cả Gô đầy để ăn. Bạn ấy ăn ngon lành và khen rất ròn ngọt
chẳng thua gì nấm ông Cô trong các Nhà hàng ăn của Tầu. Tôi
liền hái một lố cỡ đầy 2 Gô, rửa sạch sẽ đem về trại giam. Chuẩn
bị bữa ăn trưa, Tôi lấy một nửa số nấm hái được nấu chung với
bánh mì luộc trại phát cắt miếng vuông nhỏ bằng đốt ngón tay
và mì vụn gia đình gửi tới để ăn thử. Quả không sai, nước súp
rất ngọt y như có bỏ bột nêm, miếng nấm ăn rất ròn ngon lạ
thường.

Anh bạn nằm kế bên, ại tá Nguyễn Quốc Di (Trưởng Khối Tài
Chánh của Tổng cục Chiến Tranh Chính trị) thuộc số anh em
nghèo quà của gia đình, thấy Tôi tấm tắc khen ngon ngỏ ý muốn
nếm thử. Tôi múc ra tặng một Ca nhỏ, bạn ấy chỉ lấy phân nửa ý
chừng sợ gặp nấm độc không dám ăn nhiều. Thấy mấy Bạn khác
nằm gần đưa mắt nhìn chúng tôi ăn, Tôi mời nếm thử nhưng họ
lắc đầu không ai dám liều.

Ăn vừa xong bữa, Tôi cảm thấy đầu bừng bừng lâng lâng, giật
mình nghi là bị say nấm, Tôi bèn báo cho ội trưởng và các Bạn
nằm kế bên biết để lỡ bất tỉnh thì các Bạn đem đi Bệnh xá cấp

338

cứu. Sau đó Tôi chạy vào nhà vệ sinh trong Láng móc cổ họng
cho mửa ra, nhưng chỉ nôn ra được có chút đỉnh thôi. Người bắt
đầu cảm thấy lảo đảo như say rượu, phải vội vã lấy đường và bột
đậu xanh ra hoà đầy một ca uống giải độc.

Hai mắt mỏi xụp xuống buồn ngủ vô cùng, Tôi phải cố hoạt
động để cưỡng lại sợ ngủ có thể ngất lịm đi luôn không ai biết
thì nguy. Cứ nằm xuống ngồi lên, Tôi múc từng muổng đường
cát cho vào miệng ngậm cho đến giờ kẻng tập họp đi lao động
buổi chiều trổi lên, mới cảm thấy dễ chịu hơn không còn lảo đảo
nữa nên sửa soạn đi lao động như thường. Dĩ nhiên phải mang
theo Gô đường cát đầy nhóc, để tiếp tục ngậm liên tục từng
muổng một cho mau giải say. Anh bạn Di ăn ít nên chẳng sao.

Trên đường đi đến hiện trường lao động, lúc lội ngang sông Tôi
trầm mình xuống nước cho ướt sũng cả quần áo và đầu, hy vọng
cái lạnh làm thay đổi thân nhiệt đột ngột sẽ giúp cho cơ thể trở
lại bình thường nhanh hơn. Nhưng cái nạn buồn ngủ vẫn đè
nặng trên đầu, Tôi phải cố gắng lao động liên tục hăng hái hơn
bình thường cho mồ hôi vã ra thật nhiều để thải độc. Lạ một
điều, lao động hăng hơn bình thường mà không cảm thấy mệt.
Vừa lao động vừa suy nghĩ “thật chẳng cái dại nào giống cái dại
nào” như các Cụ thường ví von, nên Tôi cứ tủm tỉm cười một
mình hoài. Anh Bạn Di bông đùa đặt cho loại nấm mà chúng tôi
ăn một cái tên thật kỳ lạ: “khích tiếu nấm”, tức là loại nấm kích
thích cho mình phải cười hoài.

Chiều về, Tôi mang chỗ nấm còn lại chưa dùng bỏ thùng rác,
anh Bạn khác ội ở chung láng chạy lại xin để ăn. Tôi nói
không nên nấm này ăn làm say nguy hiểm. Lúc đó anh Bạn mới
tiết lộ cái bí quyết sửa soạn loại nấm đó ăn không bị say, và đêm
ngủ ngon thẳng giấc y như uống thuốc ngủ. ó là, phải luộc thật

339

kỹ, đổ bỏ nước, chỉ ăn xác nấm đã luộc chín sau khi vắt kiệt hết
nước như ăn rau, và chỉ ăn vào buổi tối. Thảo nào, thấy anh Bạn
ấy ăn hàng ngày không sao, mình vừa mới thử đã bị say làm sợ
hết hồn hết vía.

Mặc dù được anh Bạn chỉ cho bí quyết rõ ràng, nhưng từ đó trở
đi Tôi không bao giờ dại dột thử lần thứ hai, kể cả nấm mối hay
nấm trứng vẫn thường ăn xưa nay ngoại trừ nấm mèo (mộc nhĩ).
Vùng này có nhiều mộc nhĩ to bằng bàn tay và dầy, chúng tôi
thường lấy về xắt nhỏ nấu với đậu xanh làm chè ăn rất ngon.

Một hôm, bỗng dưng toàn K2 được nghỉ lao động buổi sáng tập
trung lên Hội trường nghe “Ban” Thùy (Giám thị Trưởng Trại
Thanh Phong) từ K1 vào nói chuyện. Ông ta vòng vo Tam quốc
về tình người, về lòng nhân đạo... để đi đến kết luận:

“-Trại sẽ đem khoảng một trăm Tù Hình Sự trong K3 (vùng
tử địa) đang bệnh hoạn không đủ khả năng lao động về ở
chung tại K2. Để cứu sống nhóm “đầu lâu chân tay” này,
Trại sẽ trích bớt phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày của anh
em để tăng cường “bồi dưỡng” cho bọn chúng trong vòng 2
tháng. Theo tinh thần Dân Chủ, Trại yêu cầu anh em cho biết
ý kiến để kịp thời quyết định.”

Thật là “nhân nghĩa Bà Chuá ễ”, ai cũng biết là không đồng ý
cũng chẳng được lại mang tiếng Vô Nhân ạo, nên mọi người
vui vẻ vỗ tay “nhất trí”. Thế là Ban Giám Thị đã đạt được “mục
đích yêu cầu” một cách dễ dàng vẻ vang mà không mang tiếng
độc tài đảng trị.

Kể từ hôm sau, mấy ội nông nghiệp (dĩ nhiên có cả ội chúng
tôi) được tập trung thực hiện một hàng rào tre cao 2 mét, để

340

nguyên cây ken sát bên nhau chôn sâu xuống đất 80 phân. Hàng
rào nằm dọc theo bên này con đường rộng 6 mét, phân cách Khu
Cách Ly giam chúng tôi và Khu sẽ giam Hình sự. Sau 1 tuần lễ
lao động “khẩn trương” hàng rào hoàn tất, bọn “ ầu lâu chân
tay” được xe tải chuyển từ K3 về K2 nhốt trong 2 dẫy Láng ở
góc sân thấp nhất của Trại giam, nơi mà chúng tôi bị đưa vào
giam từ đêm mới đến hồi đầu năm 1980 đến khi “biên chế” lại
và chuyển sang Khu Cách Ly hiện tại.

Bọn Tù Hình Sự này còn rất trẻ, ốm tong teo chỉ thấy da bọc
xương, ghẻ lở cùng mình, quần áo rách rưới bẩn thỉu hôi hám,
đầy chí rận. Chúng được ở trong trại “bồi dưỡng” khoảng 2 tuần
lễ, tạm coi như đã tỉnh táo trở lại nên phải đi tham gia lao động.
Một nhóm đi làm tại Khu trồng rau xanh, một nhóm sang làm
gạch và làm mía. Chúng bị cấm ngặt không được “quan hệ” với
chúng tôi, nhưng tại hiện trường lao động cũng như tại bến tắm
sau giờ lao động, chúng luôn luôn tìm cách mon men đến gần
chúng tôi để xin thức ăn, thuốc hút, đồ dùng lặt vặt như khăn
mặt, quần áo cũ... Ai tỏ ra hào hiệp sởi lởi được chúng nịnh Bố
Bố Con Con ngọt sớt, còn ai lạnh lùng làm ngơ không đáp ứng
lời năn nỉ, chúng đổi giọng hỗn xược chửi thẳng thừng “ ..M..
Bố già keo kiệt”. Thật là mất dậy hết chỗ nói.

a số trong bọn Tù Hình Sự này toàn là thành phần băng đảng,
ăn cắp, cướp của, hãm hiếp, giết người ngoài Xã hội, đã bị bắt
tập trung trong các Trại Cải Tạo Thiếu Nhi từ thuở còn thơ ấu.

ến khi chúng hết tuổi vị thành niên, phải chuyển sang Trại Cải
tạo của người lớn tiếp tục cải tạo cho đến hết án phạt.

Có đứa rất tội nghiệp, vì hoàn cảnh gia đình đông anh em túng
thiếu, cha mẹ bệnh hoạn, phải lập bọn tổ chức ăn cắp của Hợp
Tác Xã nên bị bắt Cải Tạo, lúc nào cũng mong cho mau hết hạn

341

trở về với gia đình. Nhưng cũng có đứa thuộc loại “cải tạo
chuyên nghiệp” ra vào tù như đi chợ. Ngoài xã hội, chữ nghĩa ăn
đong, nghề nghiệp chuyên môn không có, lại thích sống phè
phỡn như các cậu ấm cô chiêu con ảng viên Cán bộ Nhà Nước,
nên phải chuyên hành nghề bất hảo trấn lột của người mà tiêu
dùng cho đỡ cực nhọc. Cướp một lần sống thoải mái rong chơi
đàn đúm đĩ đượi cả tháng, rồi mới chuẩn bị làm mẻ khác. Nếu
chẳng may bị thộp thì vào cải tạo ít lâu đâu có sao! Mấy đứa này
thường là các tay “anh chị đầu nậu” hiếp đáp tù khác trong trại,
để được cung phụng sống chẳng khác nào Cán bộ cai tù. Trường
hợp trại giam có 2, 3 đứa thuộc loại này cùng bị nhốt một lượt,
thì chúng lập phe cánh riêng chém giết nhau để tranh giành ảnh
hưởng làm Chúa tể trong Láng ngủ.

Từ ngày có bọn Hình Sự về ở chung trong K2, anh em chúng tôi
gặp cái nạn bị mất đồ lặt vặt thường xuyên nơi bến tắm. Cán bộ
Cảnh Vệ bắt được đánh đập chúng rất tàn nhẫn. Họ dùng báng
súng đánh vào đầu cho ngã lăn ra đất, xỉa đầu mũi súng vào
ngực vào bụng, đá vào mặt vào đầu. Chúng co rúm người lăn
lộn trên mặt đất, chịu đòn kêu la xin tha tội, nhưng chẳng được
“chiếu cố”. Một người đánh chưa đủ, họ xúm nhau 2, 3 người ùa
vô đánh “đòn hội chợ” thấy mà khủng khiếp. Thế mà chúng
cũng chẳng sợ, chứng nào vẫn tật nấy.

Mánh khoé cướp đoạt công khai giữa ban ngày của bọn Hình Sự
này rất tinh vi. Muốn lấy cả đôi “dép râu” của mình, chúng lén
lấy một chiếc giấu vô trong bờ bụi quanh bãi rác bên bờ sông,
khi tắm xong lên nạn nhân bị đánh cắp thấy chỉ còn một chiếc
dép, tìm hoài không thấy chiếc kia đành vứt quách chiếc còn lại
vào đống rác đi chân đất về trại. Thế là buổi tắm kế theo, thằng
qủy sứ mò đến đống rác công khai đi lượm trước mặt các Cán

342

bộ Cảnh Vệ, cả 2 chiếc dép mang ra để làm của riêng chẳng ai
làm gì được nó. Thật vô cùng tinh khôn bịp bợm, phải chăng
đây là nền văn hoá giáo dục mà chúng đã tiêm nhiễm được từ
khi còn nằm trong lòng mẹ trước khi ra đời?

Trong giờ lao động, bao giờ chúng tôi cũng nhờ anh Nuôi của
ội nấu chín giùm những Gô mì, cơm, hoặc các thức ăn phụ

khác để đem vào trại tăng cường cho các bữa ăn của mình. Hết
giờ lao động, trước khi trở vào khu giam tất cả các ội đều được
tập trung xuống bến sông tắm, trong khi mình tắm mấy thằng
Hình Sự ốm đói đảo tới khu để quần áo, lén lấy những Gô đồ ăn
chạy ra bên đống rác bốc bỏ miệng ăn ngấu nghiến cho kỳ hết,
rồi vứt lon Gô không vào đống rác. Trường hợp có người trông
thấy tri hô lên, Cán bộ Cảnh Vệ xấn tới đánh nó túi bụi, nó vẫn
tỉnh khô chịu đòn và tiếp tục nhồi nuốt cho hết mới thôi. Cũng
có đứa chậm chạp hơn, chiếc Gô đang ăn dở bị giật ra để trả lại
cho sở hữu chủ. Nhưng ai mà dám ăn chỗ còn lại đành phải đổ
đi, lập tức có một đứa khác chạy ùa tới bốc cho vào miệng ăn
lấy ăn để.

Từ đó về sau mỗi khi xuống sông tắm, chúng tôi phải tổ chức cử
người thay phiên nhau đứng canh chừng bên khu quần áo và đồ
đạc cho yên bụng.

Một buổi trưa đi lao động về anh em đang chuẩn bị ăn, nghe
nhiều hồi còi huýt toét toét liên tục rồi thấy nhiều Cán bộ từ
ngoài cổng Trại rầng rầng chạy vào Khu giam Tù Hình Sự.
Khoảng 10 phút sau, thấy dẫn ra 2 đứa tay bị còng quặt ra sau
lưng, một đứa vừa đi vừa bị đánh túi bụi ngã xấp ngã ngửa, đứa
kia máu me đầy áo quần nơi bụng. Buổi chiều đi lao động hỏi ra
mới biết, 2 tay “anh chị đầu băng đảng” thanh toán nhau vì
chuyện xích mích giành đàn em phục vụ trong Láng giam.

343

ứa đâm người là “Bụi đời” gốc Hà-nội bị án tù chung than, vì
tội bắt cóc hiếp và giết chết cô gái con của ông Lãnh Sự thuộc
Toà ại sứ ông ức đồng minh của Nhà Nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. ứa bị đâm, là “Anh hùng” khét tiếng
của Hải phòng từng nổi danh đem một toán bạn về tra khảo Bà
Nội của chính nó để đòi tiền ăn chơi, rồi thay phiên nhau hiếp
dâm và giết để phi tang.

Từ khi có bọn Hình Sự giam tại K2, các Cán bộ Cảnh vệ có dịp
được mua vui thoả thích tại “hiện trường lao động” một cách dã
man, y như ta thường thấy các đoạn giải trí của Vua Chúa thành
La Mã trong các phim truyện cổ trích từ Kinh Cựu Ước. Họ treo
giải thưởng 1 củ sắn để cho 2 đứa đánh đấm vật đá nhau kịch
liệt. ứa nào đánh được đứa kia hộc máu mồm máu mũi phải
quỳ lạy xin thua thì được lấy giải thưởng. Lúc nào cũng có 2 đứa
hăng hái ra đấu để tranh giải.

Thật khủng khiếp, kết quả “to lớn” của nền giáo dục Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam “đấu tranh san bằng giai cấp đem lại công
bằng xã hội” nhập cảng từ Liên xô-Trung Cộng, cộng với
“Chính sách trăm năm trồng người của Bác Hồ” áp dụng trong
suốt hai mươi mấy năm độc quyền cai trị tại miền Bắc Xã hội
chủ nghĩa là như vậy sao?

Một buổi sáng trời trong vắt anh em đang chuẩn bị ra tập họp
xuất Trại lao động, có lệnh An ninh yêu cầu các anh ại tá Lê

ình Luân (Đơn vị 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu),
Phạm văn Phô ( ội phó), Trịnh Bảo Chương, Tôn Thất Hùng
(dân gốc Phòng Nhì) ở lại Láng làm việc với Cán bộ. ến trưa
mãn lao động vào trại, mới biết các anh ấy đã được Cán bộ từ
Hànội tới chở đi khỏi Trại. ến tối trong giờ sinh hoạt kiểm
thảo, Quản Giáo ội đứng ngoài cửa sổ chuyển lệnh chỉ định

344

anh ại tá Lê Phú Phúc làm ội trưởng thay thế anh Luân. (Anh
Phúc gốc Truyền Tin, hồi những năm đầu thập niên 1960, Tôi là
Thiếu Tá Cục Phó Cục Truyền Tin Quân lực Việt Nam Cộng
Hòa tại Saigon, anh Phúc là Đại Úy Liên Đoàn trưởng Liên
đoàn Truyền Tin. Cơ sở Liên đoàn đóng tại gần Trường đua
ngựa Phú Thọ.)

Mấy ngày sau, bất thần có cuộc tổng xét tư trang Tù Chính trị
miền Nam toàn K2, bọn Tù Hình Sự vẫn xuất trại đi lao động
như thường. Sau buổi xét tư trang, có anh Trung tá (Chiến tranh
Chính trị thuộc Không Quân) ở một Láng trong cùng Khu Cách
Ly của chúng tôi bị bắt giam vào Nhà Kỷ Luật. Hình như Cán
bộ bắt được quả tang anh ấy xé và vứt xuống hố nước tiểu nơi
đầu nhà phía sau Láng chúng tôi mấy tờ giấy, ghi chép những
điều liên quan tới vụ thành lập Chính phủ lưu vong hay một Hội
Cựu Tù Nhân Chính trị gì đó.

Những ngày kế theo, nhiều người bị gọi lên “làm việc” với Cán
bộ An ninh. ội chúng tôi có anh ại tá Nguyễn văn Lương
(gốc ịa phương Quân) cũng bị gọi lên “làm việc”, hình như
anh ta có ghi danh nhận một chức vị gì đó trong Ban Chấp hành
của tổ chức dự trù thành lập. Linh Mục Phan Phát Hườn thuộc

ội Rau Xanh kiêm Văn Nghệ cũng bị gọi lên điều tra, vì nghe
nói Ngài cũng có nhận một chức vị nào đó trong Ban Chấp
hành. (Hồi những năm đầu thập niên 1960, lúc Tôi làm Cục Phó
Cục Truyền Tin Bộ Tổng Tham mưu, Linh Mục Hườn là Tuyên
úy của Binh chủng Truyền Tin. Ngài đã giúp cho Binh chủng
xây dựng được một Nhà Nguyện và một Trường Trung học đệ
Nhất Cấp “Tinh Thần” tại Trại Gia binh của Tiểu đoàn Truyền
Tin ở ngay phía sau toà Nhà Chánh của Bộ Tổng Tham Mưu.

345

Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình đã đến Chủ lễ Khánh
thành,)

Ngay sau buổi xét tư trang, ội chúng tôi có sự thay đổi lớn,
một số bạn ại tá được chuyển qua ội Rau Xanh kiêm Văn
Nghệ, ngược lại một số ại ức Tuyên úy Phật Giáo và Linh
Mục Tuyên úy Công Giáo trẻ khoẻ thuộc ội Rau Xanh được
tăng cường vào ội chúng tôi. Sau vụ “biên chế” này ội chúng
tôi chấm dứt công tác Nông Nghiệp trở thành ội Mía. Chúng
tôi làm trong lò mía chớ không làm ngoài đồng mía như hồi
trước. ội được chia thành 4 toán (gọi là Khâu) để thực hiện 4
công tác khác nhau:

1.- Khâu Róc Vỏ Mía và chuyển vào phòng ép mía.

2.- Khâu Ép Mía chia thành 2 toán thay phiên nhau làm việc
từng đợt 30 phút, mỗi đợt 2 người làm trâu đẩy cần quay các
trục ép, 1 người ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép, và 1 người
lo chuyển mía vào cho người ép rồi đem các thùng nước mía
đã ép đổ đầy vào các vạc lớn để trên lò.

3.- Khâu Nấu Mật lo đun các vạc nước mía liên tục suốt ngày
đêm, cho sôi đến độ cạn quánh thành “mật đường”.

4.- Khâu sau cùng, gồm anh Dương Hiếu Nghĩa (Đội phó) và
một bạn phụ tá lo ủ nước mía sống cho lên men để cất rượu
trắng.

Mỗi Khâu làm việc có những vất vả nguy hiểm khác nhau.
Khâu Róc Mía phải làm thật nhanh mới kịp đủ mía cho Khâu
Ép không phải ngồi đợi. Thân cây mía nhỏ cầm nơi tay trái,
tay phải cầm dao róc, làm không cẩn thận sẽ vạt đứt luôn
mấy đầu ngón tay trái như chơi. Róc bỏ vỏ dầy quá sẽ bị
kiểm điểm phung phí của Xã hội Chủ nghĩa.

346

Công tác của Khâu Ép Mía có lẽ nặng nhọc vất vả nhất trong các
Khâu. “Bộ phận” đẩy cần trục ép gồm 2 người, mỗi người đứng
ở một đầu cây cần gỗ dài đi vòng tròn đuổi theo nhau, đẩy cho 2
trục ép bằng kim khí cao 1 mét đường kính rộng 50 phân, đầu
trục có răng cưa xoay ngược chiều nhau. Khi nào giữa khe của 2
trục không có những cây mía mới đẩy vào để ép, việc đẩy trục
quay thấy nhẹ nhàng không tốn sức bao nhiêu, nhưng đến khi có
những cây mía mới được đẩy vô ép sức cản trở nên nặng vô
cùng. Muốn cho trục quay, cả 2 người đẩy phải để 2 bàn tay
ngang ngực đè vào cần trục, bấm các đầu ngón chân xuống đất
ra sức đẩy về phía trước theo thứ tự từng chân một. Cứ mỗi 30
phút các người đẩy cần trục quay phải được thay phiên, nếu
không chẳng còn sức mà tiếp tục. Tôi được chia vào toán phụ
trách “bộ phận” đẩy trục ép mía thật vất vả hết chỗ nói.

Người chuyên ngồi đẩy mía vào giữa 2 trục ép ngó thấy có vẻ
không vất vả, nhưng lại có nhiều rủi ro nguy hiểm hơn cả. Phải
làm sao đưa đều đều liên tục từng ôm 4, 5 cây mía vào khe giữa
2 trục ép một lúc, nếu không cẩn thận bàn tay có thể bị dính
cuốn theo và bị ép nát cả cánh tay như chơi. Còn một điều khó
khác nữa là, phải giữ làm sao cho không cây mía nào đẩy vào ép
rắt vào các răng cưa của trục. Dù chỉ 1 răng cưa bị rắt, trục cũng
sẽ khựng lại không quay được. Mỗi lần trục đang quay ngon
trớn bị kẹt khựng lại là một đòn nặng đánh dồn vào ngực của
những người đẩy cần trục ép, đau tức ê ẩm như muốn gẫy bộ
xương lồng ngực.

Khâu Nấu Mật có những nguy hiểm vất vả khác. Mỗi khi có vạc
đầy nước mía bắt đầu đun, phải thay phiên nhau tiếp củi giữ lửa
cháy liên tục đều đều suốt ngày đêm, đến khi cạn quánh thành
“mật đường” mới hoàn tất nhiệm vụ. Trong khi đun còn phải

347

dùng cây bơi chèo thong thả khuậy nước mía sôi trong vạc, liên
tục theo chiều quay của kim đồng hồ cho mật không bị lắng khê
nơi đáy vạc. Trong lò nấu lúc nào cũng có 2, 3 vạc sôi sùng sục,
khí nhiệt toả ra nóng nực kinh khủng hơn cả phơi nắng ngoài
trời vào giữa trưa mùa Hạ. Khi nước mật bắt đầu xệt lại, việc
đứng bên mép miệng vạc cầm gậy khuậy tròn được coi là lúc
nặng nề khó khăn nguy hiểm nhất. Sơ ý có thể bị té vào vạc mật
chết phỏng như không. Trước khi ội chúng tôi vào làm trong
lò mật đã có một Tù Hình Sự bị phỏng nặng vì tai nạn này.

Công tác của ội Mía vất vả nguy hiểm như vậy, nên Ban Giám
Thị K2 “chiếu cố” chỉ thị Quản Giáo cho chúng tôi một đặc ân
làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Mỗi buổi lao động hàng ngày, mỗi
người trong ội chúng tôi được “bồi dưỡng” 1 Gô đầy nước mía
tươi vừa ép ra. Có thể để uống tươi như vậy hoặc đun sôi lên rồi
mới uống tùy ý. Nhờ thế sau vài tuần làm tại lò mía, anh em
chúng tôi ai cũng có đôi má hồng hồng như thoa phấn.

Nhưng cuộc sống Tù có bao giờ được phẳng lặng xuôi dòng êm
ả theo mong muốn đâu. Thường xuyên lúc nào cũng có những
tai ách bất ngờ hoặc do người hoặc do Trời đem đến, khiến cho
mạng sống của Tù mong manh chẳng khác nào “trứng treo đầu
chỉ”. Vào một buổi trưa Chủ Nhật, mọi người đang chuẩn bị nấu
nướng thêm những món ăn “cải thiện” tăng cường cho ca Bo Bo
luộc do Trại phát (loại thực phẩm dành cho ngựa của Ấn Độ
viện trợ ghi rõ bằng Anh ngữ ngoài bao đựng), thì từ Khu bếp lộ
thiên bên hàng rào phía cuối Khu Cách Ly của chúng tôi có
tiếng xôn xao náo động. Rồi thấy một toán 3, 4 người xúm nhau
khiêng một anh mập mạp hôn mê bất tỉnh xuống Bệnh Xá cấp
cứu. Tôi chạy ra coi thấy đang khiêng anh ại tá Nguyễn Ngọc

iệp (trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bạc Liêu, từng nổi danh

348

là “Hùm Xám Rừng Đước”). ến gần tối, mới thấy xe tải từ
Phân trại K1 chạy vào di tản anh iệp ra Bệnh Xá K1 Trại
Thanh Phong điều trị, vì Bệnh Xá K2 không đủ phương tiện cứu
chữa.

Theo tin tức từ Bệnh Xá do bạn Tù (Bác sĩ Quân của
QLVNCH) phụ tá cho Cô Cán bộ tế của K2 cho biết:

“-Anh Điệp bị hôn mê có lẽ vì bị đứt mạch máu não do cao
áp huyết. Tình trạng rất nguy kịch, với phương tiện nghèo
nàn về Y Tế của Bệnh xá Trại giam không biết có cứu được
không? Không biết Trại có cho di tản ra Nhà Thương Thanh
Hoá cấp cứu kịp không?”

Chúng tôi rất buồn thương cho hoàn cảnh không may của anh
iệp nhưng chẳng làm gì hơn được, chỉ biết cầu nguyện cho

Bạn tai qua nạn khỏi. Sống chết đều do mệnh Trời sắp đặt riêng
cho mỗi người chẳng ai biết trước mà tránh.

Chừng mươi ngày sau, anh bạn Tù (Bác sĩ) Phụ tá tại Bệnh Xá
K2 có dịp theo Cán bộ tế ra K1 lãnh thuốc về cho biết:

“-Anh Điệp nằm mê man nơi Bệnh Xá Trại Thanh Phong cả
tuần sau thì hồi tỉnh. Nay anh ấy đã bắt đầu cử động được
nhưng chậm chạp khó khăn, nói năng phát âm hơi ngọng
nghịu, quên không biết mình là ai cũng như không nhận ra
được bạn bè cũ. Thường xuyên nói chuyện với những người
vô hình, y như người bị bệnh tâm thần trong các nhà thương
điên.”

Thật tội nghiệp nhưng Trời chưa bắt chết là mừng rồi, sau này
được tha chắc chắn bệnh sẽ hết.

349

Hai tháng sau anh iệp lành hẳn đi lại nói năng được bình
thường, trí nhớ phục hồi được khoảng 80 phần trăm. Rời Bệnh
xá Trại tại K1 trở về K2, anh iệp được Ban Giám Thị Phân trại
“chiếu cố” đặc biệt giao cho phụ trách chăm sóc vun tưới vườn
bông và vườn rau “cải thiện” nhỏ của các Cán Bộ Trực Trại
ngay bên trước cổng ra vào Khu giam.,

Lúc này anh bạn Tù (Bác sĩ) mới giải thích:

“-Anh Điệp bị trường hợp Nhũn Não (stroke) chớ không phải
đứt mạch máu não nên mới có may mắn như vậy.”

Sau anh iệp, ở K2 còn có thêm 2 người nữa cũng bị trường
hợp y như vậy.

Một là Linh Mục người gốc Trung Hoa cao lớn mập mạp (trước
30-4-1975 cai quản Đặc Khu Hải Yến, gồm toàn người Trung
Hoa vùng Quảng Tây chạy sang Việt Nam tỵ nạn từ khi toàn Lục
địa Trung Hoa Dân Quốc của ông Tưởng Giới Thạch lọt vào tay
Trung Cộng Mao Trạch Đông. Đặc Khu Hải Yến là một vùng
biệt lập hẻo lánh giữa ranh giới Cà Mâu và Rạch Giá tại miền
Tây Nam Việt. Cư dân có tinh thần chống Cộng rất mãnh liệt.)
Sau nhiều ngày bị nằm liệt vì Nhũn Não tại Bệnh Xá K1, Linh
Mục cũng hồi tỉnh trở lại bình thường trả về K2 làm chung công
tác lo vườn hoa với anh iệp. Ngày ngày đi xuống leo lên con
dốc nghiêng 50 độ dài chừng 50 mét, để sách từng thùng nước
sông lên tưới rau và hoa trước cổng Khu Giam.

Người thứ hai là Trung tá Nguyễn Thủy Chung thuộc ội Nhà
Bếp (trước 30-4-1975 làm Phụ tá Trưởng Khối Tổ chức Tổng
Cục Chiến tranh Chính trị, Tôi đã có dịp nói đến trong một
đoạn trước). Số mệnh anh Chung không may bằng 2 vị kia, nên

350


Click to View FlipBook Version