The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

3 ngày Tết cho đã thần khẩu, kẻ ít tiền chung nhau 2, 3,4 người
mua một con. Giá cả đồng nhất tính theo con, ai hên gặp được
con to nặng, ai xui gặp phải con nhỏ hơn đôi chút. Gà tuy già đẻ
nhiều lứa nhưng vì nuôi theo lối gà công nghiệp đứng trong
chuồng mỗi con một ngăn nhỏ riêng để đẻ, nên thịt vẫn mềm
béo không dai cứng như gà thả chạy rông. ợt bán hôm 30 Tết
nhiều người chậm chân không mua được than phiền yêu cầu các

ội trưởng “phản ảnh” lên “Thi ua” báo cáo Cán bộ Trực Trại,
nhờ thế chiều ngày mồng Một Tết lại bán đợt thứ 2. Nhưng lần
này bị ế lại một số con, loa phóng thanh của Thư viện phải ra rả
rao hàng nhắc nhở điếc cả lỗ tai.

úng vào dịp Tết Nguyên đán Bính Dần-1986 này, “Ban” Nhu
được thăng hàm Thiếu tá và làm Trại Trưởng thay ông Giám Thị
Trại trưởng cũ bị Nhà Nước cho “phục viên” (về hưu) sớm. Do
đó “Ban” Nhu đặc biệt “chiếu cố” cho Tù K1 Z30D được hưởng
những dịp vui đón Tết thật là “cởi mở đổi mới” chưa từng gặp
trong suốt thời gian cải tạo gần 11 năm qua trên cả 3 miền đất
nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

ể mừng đón Tân Xuân đặc biệt này, “Ban” Nhu cho tổ chức
một đêm Văn Nghệ thật đặc sắc và hấp dẫn. Ban Văn Hoá Trại
tuyển lựa một số Tù Nam Tù Nữ “biên chế” thành lập ội Văn
Nghệ tập luyện kỹ càng, trình diễn thành thạo chẳng khác nào
đoàn Văn Công thứ thiệt Xã hội Chủ nghĩa. Một số ca kịch sĩ Tù
Nữ duyên dáng hấp dẫn trình bầy rất thành thạo khiến cử toạ
(Cán bộ và Tù) vỗ tay hoan hô nồng nhiệt, hô Bis! Bis! yêu cầu

hát thêm.

êm mồng một Tết, “Ban” Nhu lệnh cho Cán bộ Trực Trại dẫn
các Tự Quản ội cả Nam lẫn Nữ ( ội trưởng, ội phó) và toàn
thể anh em ội ại tá chúng tôi đến Tư dinh của “Ban” bên bờ

501

sông gần Nhà Thủy Tạ giữa hồ nước ập Thủy iện đãi trà
bánh. Trong cuộc vui bỗng dưng “Ban” Nhu hứng chí cất giọng
hát một bài, rồi yêu cầu mọi người có mặt cũng phải thay phiên
nhau hát hoặc kể chuyện giúp vui. Người thì hát, người thì đàn,
nhạc đỏ, nhạc vàng, nhạc Dân tộc, nhạc ngoại quốc gì cũng
được hết. Ai không biết hát có thể kể chuyện vui thanh tục gì
cũng không sao, miễn làm cho mọi người được dịp vui cười
thoải mái là được.

ến lượt Linh Mục Bùi ức Sinh, Ngài mở lời bằng một câu rào
đón rất ư là khôn ngoan:

“-Kính thưa Ban Giám Thị, kính thưa qúy Cán bộ, kính thưa
các bác Đại tá và anh chị em, Tôi xin kể một câu truyện
nhưng xin Ban Giám thị đừng cùm Tôi vì câu truyện Tôi sắp
kể”.

“Ban” Nhu nói:

“-Hôm nay là ngày vui, Tôi sẽ không cùm ai hết, dù câu
truyện có xúc phạm đến cá nhân Tôi”.

ược “Ban” Nhu xác định lập trường rõ ràng trước mặt mọi
người, Linh Mục Sinh yên tâm chậm rãi nói:

“-Kính thưa Ban và Qúy vị, câu truyện của Tôi nói về 4 lợi
ích của việc ghiền hút thuốc lá. Một là không sợ chó cắn. Hai
là không mất trộm ban đêm. Ba là trẻ mãi không già. Bốn là
gia đình hạnh phúc. Xin hết”.

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau không vỗ tay cũng chẳng cười.
Tôi ngồi bên cạnh Linh mục Sinh hiểu ý Ngài nói khích “Ban”
Nhu vì “Ban” Nhu ghiền thuốc lá rất nặng, hàng ngày hút liên tu

502

bất tận và đặc biệt chỉ hút toàn thuốc ngoại loại đắt tiền y như cố
Chủ Tịch Hồ Chí Minh thời còn sanh tiền vậy. Tôi lấy tay bấm
tay Linh mục nói nhỏ:

“-Ông già này liều thật dám vuốt râu hùm”.

ể phá tan bầu không khí thinh lặng đang bao trùm mọi ngưới,
“Ban” Nhu cất tiếng:

“-Yêu cầu Linh mục giải thích thêm cho rõ vì sao?”.

Linh mục Sinh đáp:

“-Thưa “Ban”năm phút của Tôi đã hết”.

Ban” Nhu thủng thẳng nói:

“-Tôi cho Linh mục thêm 10 phút”.

Lúc đó Linh mục Sinh mới giải thích:

“-Không sợ chó cắn vì bệnh hoạn đi phải chống gậy nên chó
sợ. Không mất trộm vì nằm ho suốt đêm. Trẻ mãi không già
vì chết sớm. Gia đình hạnh phúc vì các cô chê không chịu
chung sống vì hôi mùi thuốc”.

Linh mục vừa dứt lời mọi người ào ào vỗ tay tán thưởng. Câu
truyện thật thâm thúy ý nhị, “Ban” Nhu cũng vỗ tay. Mấy bữa
sau, “Ban” Nhu có dịp ghé thăm ội chúng tôi vào giờ giải lao
sáng tại Nhà Lô, Linh mục Sinh cũng có mặt bên anh em, anh
Quỳnh ội trưởng lấy thuốc “555” ra mời “Ban” Nhu khua tay
nói:

503

“-Nghe lời Linh mục dạy từ đêm mồng Một Tết vừa qua rất
chí lý nên từ nay Tôi không hút thuốc nữa”.

Linh mục Sinh vuốt ve:

“-Thưa Ban, tiết độ, chừng mực và làm chủ được mình như
vậy, thật đáng ca tụng vô cùng”.

Từ ngày khai trương Khu Nhà Thăm Nuôi mới, anh ại tá Hồ
Hồng Nam (Chiến tranh Chính trị) thuộc ội chúng tôi bị đi đại
tiện ra máu thường xuyên, nhưng vì lý do an ninh không được
đưa ra Bệnh viện Phan Thiết như các Tù Nữ và Tù Nam khác
cấp bậc nhỏ hơn phải nằm điều trị dài hạn tại Bệnh xá Trại, là
người được gia đình đến xin “thăm nuôi” đầu tiên và đã được
“Ban” Nhu cho phép thăm nhiều ngày, đặc biệt còn cho xe Mini
Van riêng của gia đình anh ấy vào đậu ngay tại sân Khu Nhà
Thăm Nuôi. Sau mấy lần gia đình đến “thăm nuôi” liền liền, anh
Nam nhận được lệnh tha và xe riêng của gia đình được vào tận
Khu Nhà Thăm Nuôi đón chở anh ấy rời trại để về nhà. Mấy
tháng sau chúng tôi được tin anh Nam đã qua đời trong cuộc giải
phẫu gan tại một Bệnh Viện trước kia rất nổi tiếng của Saigon.

Người thứ 2 thuộc ội chúng tôi được “Ban” Nhu cho phép
thăm nhiều ngày tại Khu Thăm Nuôi mới này là anh Quỳnh ội
trưởng. Chị Quỳnh được ở lại thăm 3 ngày 2 đêm. Sau ngày Chị
Quỳnh “thăm nuôi” ra về, “Ban” Nhu ghé thăm anh em chúng
tôi tại Nhà Lô hỏi thăm anh Quỳnh thăm nuôi có được vui vẻ
không? Rồi quay qua hỏi Tôi:

“-Thế còn Bác Hùng, kỳ Bà Xã tới thăm 24 giờ vợ chồng già
đánh được mấy quả?”

504

Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao con người luôn luôn nghiêm
khắc khó tính xưa nay, hôm nay lại dùng một câu hỏi bông đùa
xuồng xã như vậy. Tôi chậm rãi trả lời:

“-Thưa Ban, Vợ Chồng già vấn đề sinh lý đâu có phải là nhu
cầu chính yếu của tình nghĩa, xa nhau cả hơn chục năm trời
có biết bao nhiêu thay đổi trong xã hội, chuyện gia đình,
chuyện học hành của con cái cần phải trao đổi, còn thời giờ
rảnh đâu mà nghĩ đến chuyện nhục dục, nhất là tình trạng
sức khoẻ của Tôi chẳng mấy khả quan như Ban và anh em
vẫn từng thấy hàng ngày”

“Ban” Nhu cười nói:

“-Thôi được hôm nào nhắn Bác gái lên, Tôi sẽ cho Bác thăm
3 ngày đêm liền để vợ chồng có thì giờ mà tâm sự cho nó
thoải mái”.

Từ đó trở đi, anh em ội chúng tôi ai có gia đình tới “thăm
nuôi” muốn xin ở lại 2, 3 ngày đều được “Ban” Nhu chấp thuận
cho cả. Thực tình không phải vì nhu cầu sinh lý các Bà muốn ở
lại bên chồng, mà vì muốn vài tháng một lần giúp cơ hội cho
chồng có dịp được nghỉ lao động cực nhọc vài ngày cho nó khoẻ
nên mới chấp nhận ở lại thăm nuôi nhiều ngày vậy thôi. Trong

ội chúng tôi, cũng không phải tất cả mọi người đều xin “thăm
nuôi” nhiều ngày. Phần lớn vì hoàn cảnh sinh hoạt riêng của gia
đình, chỉ xin thăm nuôi 4 tiếng đồng hồ suốt từ 12 giờ bắt đầu
nghỉ lao động buổi trưa đến 4 giờ chiều mà thôi.

“Hiện trường lao động” và Nhà Lô của ội chúng tôi ở ngay kế
bên Khu Nhà Thăm Nuôi nên có dịp thấy hàng ngày lúc nào
cũng đầy khách. Tất cả Tù Nam Tù Nữ không bị kỷ luật, khi có

505

người phối ngẫu tới “thăm nuôi” muốn xin ở lại 24 giờ đều được
phép nộp đơn cho Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi vào đầu giờ
thăm gặp. Ông này tập trung mang đi trình Ban Giám Thị cứu
xét quyết định, nếu được chấp thuận lúc mãn giờ “thăm nuôi” sẽ
được thông báo và sẽ được dẫn đến Khu Nhà Thăm Nuôi cấp
phòng ngủ cho ở lại qua đêm.

Ăn Tết xong mọi người lại miễn cưỡng lao đầu vào “đợt ra quân
thi đua mới” để chuẩn bị đón mừng lần thứ 12 ngày Thống Nhất
đất nước 30-4 và ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5, đặc biệt năm
nay còn để chuẩn bị tham gia “Giải thi đua Trại Cải tạo Gương
mẫu toàn quốc”.

ĐỔI MỚI, CỞI MỞ, CỞI TRÓI.

Mênh mông sóng hận dâng cao,
Căm thù sôi sục đồng bào đứng lên.
Gian manh muốn giữ vững quyền,
Bầy trò “đổi mới” cho yên tạm thời.
Cùng loài Chồn, Cáo, đổi ngôi,
Cùng bầy Lang, Sói, hại đời khác chi.
Tam Vô, Bất nghĩa, Bất nghì,
Mẹ Cha còn đấu, xá gì người dưng.
Thế thời căng, chẳng đặng đừng,
Nới dây tơ mảnh, cột thừng chặt hơn.
Trổ nghề huýt sáo, rung đờn,
Gạt người lương thiện dâng hồn cho ma.
Hồ già xưa cũng ba hoa,
Lừa Dân, hại Nước mới ra nỗi này.
Mấy lần nhận tội, sửa sai,
Hứa nhăng hứa cuội, sửa hoài chẳng xong.

506

Nay còn chi nữa mà mong,
Công, Nông, Văn sĩ đồng lòng đứng lên.
Quyết đòi Dân chủ, Nhân quyền,
Đòi thay Chế độ Nhất nguyên độc tài.
Ngày tàn hẳn đến nay mai,
Đảng đành nhịn nhục luồn ngoài nịnh trong.
Hoan hô hoà hợp Tây Đông,
Theo Góc-ba-chốp kiếm đồng tiền xanh. (dollar)
Nới tay bóp cổ Dân lành,
Tuyên ngôn “đổi mới” mời Anh, M vào.
Đổi Tù Chính trị giá cao,
Giao thương kinh tế, miễn sao Đảng còn.
Nhún nhường phân giải thiệt hơn,
Khuyên Tù ở lại, giang sơn cậy nhờ.
Quên đi quá thứ hận thù,
Chung lưng xây dựng lại Nhà Việt Nam.
Lời tuôn dịu ngọt như cam,
Hồ ly tinh đội xác phàm rủ rê.
“Ra đi sống kiếp làm thuê,
Ở nhà, Con gửi tiền về dưỡng nuôi.
Thân già hẳn sướng như Trời,
Bôn ba thêm mệt cuộc đời ích chi.”
Ậm ừ cho qủy khỏi nghi,
Hết tù, nhất quyết phải đi nước ngoài.
Cho con cháu có tương lai,
Cho mình chuẩn bị một mai trở về.
Diệt bầy Cộng, dựng lại quê,
Cho Dân Tộc được mọi bề Tự do.
Sống trong hạnh phúc ấm no,
Nhân quyền Dân chủ nở hoa sáng ngời.

507

K1, Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải. Mùa Xuân Bính Dần-1986.

Chương 35.
KHÚC QUANH SAU CÙNG
CỦA ĐẠI NẠN CẢI TẠO

Vào ngày “ra quân lao động” đầu năm Bính Dần-1986, ngoại trừ
mấy anh phải tiếp tục tưới những luống rau chưa “thâu hoạch”,
toàn ội 23 chúng tôi phải tập trung dựng 2 giàn bầu ở 2 bên
đầu cầu trước khu Nhà Thăm Nuôi mới dài 50 mét rộng 10 mét
để phủ kín từ bờ này sang bờ kia khúc sông cạn. Quản giáo ội
cho biết là “Ban” Nhu muốn công tác phải giải quyết “khẩn
trương” trong vòng 1 tuần lễ, để kịp “hạ thổ” các cây bầu giống
do anh Dương hiếu Nghĩa ( ại tá Thiết giáp) ương từ trước Tết
nay đã đủ sức mạnh đâm rễ xuống đất và tăng trưởng ngọn leo
lên giàn. Hẳn là sắp có nhu cầu trình diễn với đoàn thăm viếng
quan trọng nào đó, nên “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D mới quy
định kỳ hạn cho ội chúng tôi phải hoàn tất công tác như vậy.

Chiều ngày mồng 2 Tết, ội Lâm Nghiệp đã phải đi rừng chặt
tre và xe tải của Trại đã chuyển về đổ xuống khoảng đất trống
trước sân khu Nhà Thăm Nuôi một đống cao lù lù nhiều hơn nhu
cầu. Ngày mồng 3 bắt đầu “ra quân” ội chúng tôi chỉ việc hiệp
nhau lựa cây, sắp xếp trôn cột, ráp nối đóng khung, gác buộc
giàn ô vuông cỡ 4 tấc như quy định.

Ngày nào “Ban” Nhu cũng ghé qua xem tiến triển công tác và
góp ý kiến hướng dẫn cho việc thực hiện được đúng như ý
“Ban” muốn. Chúng tôi chỉ mất có 4 ngày đã làm xong 2 giàn
bầu rất đẹp mắt trông như 2 cánh của con chuồn chuồn, đầu

508

chuồn chuồn là hòn đảo có 2 dẫy Nhà Thăm Nuôi với các bồn
bông, thân chuồn chuồn là chiếc cầu gỗ ở giữa 2 giàn bầu, và
đuôi chuồn chuồn là con đường dài từ cầu dẫn ra Vườn Tao
Ngộ.

“Ban” Nhu rất ngạc nhiên tấm tắc khen chúng tôi giỏi, việc gì
làm cũng rất thông thạo kỹ càng mỹ thuật. Những lời nhận xét
này được “Ban” Nhu nhắc đi nhắc lại trước các đoàn “tham
quan”, như cố ý khoe cái tài hướng dẫn cải tạo các ại tá Chế độ
cũ của ông ấy trở nên người lao động Xã hội Chủ nghĩa thành
thạo như thế nào. Nhưng các phái đoàn Trung ương và địa
phương tới Trại Z30D “tham quan” đâu có biết rằng, trong
những năm 1976-1977 ở Liên trại 1 xã Việt Cường ên Bái tỉnh
Hoàng Liên Sơn do Bộ đội Cộng sản Bắc Việt quản lý, anh em
chúng tôi đã phải lên rừng chặt tre đốn gỗ về làm nhà làm hàng
rào để giam chính bản thân mình, làm cơ sở Văn phòng cho Ban
Chỉ huy trại và nhà cho Bộ đội canh gác Tù ở đã quen rồi, nên
bây giờ mọi việc mới thực hiện được dễ dàng nhanh chóng
chẳng bỡ ngỡ khó khăn gì như vậy, chớ đâu phải Cán bộ Công
An Nhân Dân do ông ấy chỉ huy hướng dẫn chúng tôi đâu!

Dựng giàn bầu xong, anh em chúng tôi phải cải tiến tổ chức ội
và phân công lại để hoàn thành “chỉ tiêu thi đua” sản xuất Rau
Xanh quy định cho năm 1986 cao hơn năm cũ, nhưng ội không
được tăng cường nhân số. Mặc dù chúng tôi biết trong số Tù
Nam đang bị giam tại K1 cũng có một số bạn Tù cấp bậc ại tá
trong vài ội khác, nhưng không biết vì sao các bạn ấy không
được “biên chế” vào cùng ội với chúng tôi.

Nhờ mớ kinh nghiệm thực tế học được trong thời gian trồng rau
bên Z30C, với câu phương châm đầu môi chót lưỡi phải nghe
thường ngày như kinh nhật tụng suốt hơn mười năm cải tạo qua

509

là: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”, và dựa theo khả
năng sức khoẻ của mỗi người anh em chúng tôi đồng thoả thuận
chia thành những nhóm phụ trách các phần vụ chuyên biệt khác
nhau như sau:

1.- Nhóm lo trồng 3 vạt ớt, săn sóc chục cây đu đủ, các bụi
chuối, giàn nho, vườn hoa quanh Khu Nhà Thăm Nuôi và dọc
đường 2 bên bờ sông, không cần sức nhiều nên giao cho Linh
mục Bùi đức Sinh và các anh Đại tá Nguyễn văn Phúc (Chiến
tranh Chính trị) Lại đức Nhi (An ninh Quân đội) phụ trách.
Riêng vạt ớt của Linh mục Sinh ở ngay 2 bên đầu cầu trước
khu Nhà Thăm Nuôi, hàng ngày được anh Đại tá Nguyễn
quốc Quỳnh (Chiến tranh Chính trị) Đội trưởng tự nguyện
phụ giúp gánh nước tưới nên cây lúc nào cũng xanh tốt xum
xuê sai trái hơn 2 vạt kia.

2.- Hai giàn bầu gồm hơn chục gốc trồng dài 2 bên đầu cầu
như mái che mưa nắng cho khúc sông cạn trước Khu Nhà
Thăm Nuôi được giao cho một mình anh Nghĩa chăm lo. Anh
ấy tự nguyện nhận lãnh vì được chỉ định ở cả ngày lẫn đêm
ngoài Nhà Lô với anh Đại tá Tô văn Vân và Quản giáo Đội,
không bị lệ thuộc vào giờ giấc ra vào Trại nên có thể thủng
thẳng chăm sóc tưới tắm lúc nào cũng tiện. Ngoài ra anh
Nghĩa còn phụ trách thêm việc phun thuốc trừ sâu cho các
luống rau, một lần cho mỗi đợt mới trồng khi tới kỳ rau bắt
đầu bén rễ phát triển mạnh.

3.- Nhóm làm luống vô phân và gánh nước tưới do các bạn
Đại tá Phạm chí Kim, Đỗ văn Sáu, Trịnh đình Đăng, Trần
văn Thăng, Phạm tài Điệt, Trần kim Hoa còn tương đối khoẻ
phụ trách. Đây là nhóm nỗ lực chính của công tác trồng rau.
Để mọi người cùng vui vẻ, anh em được quyền tự nguyện

510

nhận tưới một số luống rau tùy theo khả năng của mình, ít
nhất cũng là 6 luống và nhiều nhất là 8 luống.

Riêng về hạt Giống thì qua những mẩu chuyện trao đổi giữa Cán
bộ Quản giáo và “Ban” Nhu trong những lúc ghé thăm ội mà
anh em nghe được là, anh Quỳnh ội trưởng đã tự nguyện nhờ
gia đình đến các vựa rau quanh Saigon mua gửi lên cho Trại 3
loại hạt Giống (rau muống, cải củ, cải bẹ xanh) nhập cảng từ ài
Loan rất tốt. Nhờ thế kết quả sản lượng rau “thâu hoạch” của

ội chúng tôi sản xuất bao giờ cũng cao hơn sản lượng do các
ội rau khác trồng tiả.

Phân bón “cơ bản chủ yếu” là phân bò đi lấy một tuần lễ 2 lần
tại chuồng nuôi bò cả trăm con trong Phân trại K2, cách “hiện
trường lao động” của ội chúng tôi khoảng hơn 3 cây số. Chúng
tôi phải đánh xe bò vào, tự vét lấy đổ lên xe chuyển về, tích
thành đống lớn để trộn lẫn với phân Bắc dùng dần. Vì thế ruồi
nhặng xâm lăng Khu Nhà Thăm Nuôi, đông đến nỗi các gia đình
“thăm nuôi” phải giăng mùng ngồi trong giường ngủ để ăn cơm
giữa ban ngày.Phân Bắc là phân người do một bạn tù chuyên
đánh xe bò đi lấy hàng ngày từ các phòng giam Tù trong trại
giam chuyển tới, đổ cho ội mỗi tuần lễ một xe để bằm trộn lẫn
với phân bò bón lót trong luống trước khi reo hạt rau.

Muốn cho ớt có trái lớn và hương vị thật cay, ội được phép đi
lấy mỗi tuần lễ 1 xe bò phân gà ở khu ội Nuôi Gà về trộn lẫn
với phân bò để bón.

Phân hoá học cũng được dùng để hoà vào nước tưới thúc cho
rau bốc nhanh sau khi đã tỉa bớt và vun gốc. Phân hoá học do
Cán bộ Quản giáo dẫn ội phó đi lãnh hàng tháng về tồn trữ tại

511

Nhà Lô ội, phát lần cho các bạn phụ trách tưới các luống rau
xử dụng.

Anh Nguyễn văn Sáu (Trung tá Biệt động quân) ội phó và Tôi
ngoài nhiệm vụ xẻ rãnh vào phân reo hạt tỉa xới vun gốc rau,
còn là nhóm phụ trách đánh xe bò đi chở phân và chuyển vận
nộp rau cho Nhà Bếp trại. Một tuần lễ 3 lần đi lấy phân và 2 lần
chuyển rau. Tôi là chuyên viên đánh xe bò, khi nào Vợ Con tới
“thăm nuôi” Tôi được nghỉ lao động thì anh Quỳnh ội trưởng
phải đánh xe thay thế vì anh Sáu không điều khiển được bò.

Vào những ngày đi lấy phân bò, anh Sáu ội phó dẫn 3 người
xuất trại trước vào K2 để lo vét vun phân thành từng đống lớn.
Sau khi ội xuất trại ra đến Nhà Lô, Tôi đi một mình sang khu
gần bên ội Nuôi Gà dắt bò về ội, mắc vào xe rồi đánh thẳng

vào K2.

Thoạt đầu vào nghề đánh xe bò, Tôi gặp nhiều vất vả với con bò
non mới tập bắt kéo xe này. Nó vùng vằng không chịu lùi đít
vào giữa 2 càng xe để mình đặt vai kéo xe lên sống gáy cổ nó,
hoặc mới đặt xong chưa kịp cột dây vòng dưới cổ để giữ thì nó
bước 2 chân sau ra khỏi càng xe, đôi khi nó vùng vằng lùi lùi
đẩy cho xe quay đít tuột xuống rãnh bên lề đường... Bực mình
quá đỗi, Tôi đành phải dùng bạo lực để trị bắt nó phải phục tùng
mình mặc dầu trong lòng cũng thấy áy náy bất nhẫn vô cùng.
Một tay cằm chặt thừng xỏ mũi nó kéo lên, một tay cầm roi tre
quất qua quất lại thật mạnh vào 2 bên má của nó túi bụi, nó đau
nhắm nghiền 2 mắt lại cúi đầu xuống lùi lùi chịu trận không dám
kháng cự. Nhờ mấy trận đòn phủ mặt như vậy nó mới biết sợ, và
từ đó về sau mỗi lần thấy Tôi cằm dây xỏ mũi điều khiển nó
ngoan ngoãn lùi vào giữa 2 càng xe, đứng im chờ cột dây an
toàn vòng dưới cổ đàng hoàng và chỉ khi nào thấy Tôi đã ngồi

512

trên xe phất cây roi hô: “- i!” thì nó mới bắt đầu chậm rãi cất
bước kéo xe tiến tới.

ể cho nó phải hoàn toàn thuần thục bớt sinh chứng ương ngạnh
dọc đường, chuyến đi bao giờ Tôi cũng ra roi bắt nó phải kéo xe
không chạy như ngựa suốt đoạn đường dài 3 cây số, dốc thoai
thoải xuống đồi rồi lại lên đồi từ ội chúng tôi vào gần đến
chuồng bò K2 mới cho đi thong thả trở lại. Mặc dù phải làm giữ
để rằn mặt nó như vậy nhưng Tôi rất thương nó, ngày nào phải
đi kéo xe với Tôi nó cũng được một bao cỏ thật non cắt sẵn từ
chiều hôm trước, để điểm tâm trong khi chờ kéo xe phân về ội
hoặc chở rau vào Trại. Sau mỗi lần chuyển vận xong nó lại được
nghỉ cả buổi chiều, lang thang bên bờ sông trong khu vực lao
động của ội để kiếm cỏ ăn no nê trước khi dẫn trả về khu giam
nó. Nhờ thế chỉ 2 tuần lễ sau nó và Tôi đã trở thành đôi bạn thân
thiết, mỗi lần thấy Tôi đến cởi dây cột bên bụi tre dắt nó đi làm
nó luôn luôn mừng rỡ cúi đầu cà cà vào người Tôi như chào hỏi,
chớ không ương bướng như hồi đầu mới gặp nhau. Ngược lại để
bầy tỏ tình thương của Tôi đối với nó, thỉnh thoảng Tôi nhét vào
miệng nó vài cục đường thẻ, một tay xoa xoa vỗ vỗ trên gò trán
giữa 2 cái xừng của nó, nó cúi đầu lim rim đôi mắt ngọ nguậy 2
tai ra chiều thích thú lắm.

Những luống rau nào được “thâu hoạch” nộp Nhà Bếp xong, các
anh phụ trách tưới khu rau đó phải cuốc đảo đất làm lại các
luống của mình. Mùa nắng phải làm luống chìm ngang mặt đất,
đường đi chung quanh luống cao hơn độ 10 phân để giữ cho lúc
nào trong luống rau cũng ẩm nước, rau không bị chết khô hoặc
èo ọt không tăng trưởng mạnh. Mùa mưa ngược lại phải làm
luống nổi cao hơn mặt đất chừng 20 phân, cho rau không bị úng
nước thối gốc. Tổ Reo Hạt Giống gồm anh Sáu ội phó và Tôi

513

phải tiếp tay các anh ấy sửa luống, xẻ rãnh, vào phân và reo hạt
đợt mới. Sau khi chúng tôi hoàn tất nhiệm vụ, các anh ấy lại tiếp
tục công việc tưới hàng ngày cho đến khi rau “đạt tiêu chuẩn” để
“thâu hoạch”.

Sau khi Hồ nước ập Thủy iện được khơi rộng xong,
Tourbine được đặt trong căn nhà tháp bên đầu ập khởi sự quay
để sản xuất điện cung cấp cho trại xử dụng, thì các dây bầu tại
khu “hiện trường lao động” của ội chúng tôi cũng bắt đầu bò
phủ lá xanh to dầy đặc mặt giàn, các luống rau tăng trưởng xanh
mướt, đu đủ chuối ớt cũng bắt đầu đâm bông kết trái, và vườn
hoa trước sân khu Nhà Thăm Nuôi nở rộ mầu sắc rực rỡ thì cũng
là lúc các đoàn “tham quan” từ Trung ương, ịa phương khác
nối tiếp nhau đến tới tấp.

Thời tiết đã vào Hè bắt đầu nắng gắt, một hôm vào khoảng 3 giờ
chiều Tôi đang xới đất vun gốc mấy luống rau mới tỉa, tự nhiên
thấy choáng váng mặt mày mắt trái buốt nhức thốn lên tận óc,
đau quặn thắt ngang lưng, phải bỏ việc đi lần qua những miếng
ván dài bắc chênh vênh nối giữa các mô đá suốt bề ngang dòng
sông về Nhà Lô ội nằm lăn ra chiếc giường riêng của anh
Nghĩa chịu đựng. Anh Sáu ội phó thấy vậy cũng bỏ việc chạy
theo về thoa dầu Cù Là cạo gió cho Tôi. Một lúc sau bớt đau
ngồi dậy lấy nước uống, Tôi thấy mắt trái tức tức và không nhìn
thấy gì. Tôi lấy tay bịt mắt bên phải và chỉ nhìn bằng mắt trái
không thôi để kiểm chứng. Quả rằng mắt trái của Tôi đã mù, chỉ
thấy một màn ánh sáng mờ đục chớ không thấy hình cảnh bên
ngoài nữa. Tôi hoảng hốt, Quản giáo ội không có mặt tại Nhà
Lô đành phải báo cho anh ội trưởng biết rồi tức tốc rời “hiện
trường lao động” vào Bệnh Xá Trại giam xin khám bệnh đột
xuất”.

514

Cán bộ tế không có mặt tại Bệnh Xá, Anh bạn Tù trẻ Bác sĩ
Tôn thất Sang (thuộc Đội anh em Phục Quốc trẻ gốc Đà Nẵng
đình công không đi lao động nhân vụ Tôi bị “Ban” Nhu phạt
cùm một chân trong Nhà Kỷ Luật 5 ngày 5 đêm Tôi đã kể trong
một đoạn trước) được chỉ định vào Bệnh Xá làm phụ tá cho Cán
bộ tế Trại khám định bệnh cho Tôi. Anh ấy cho biết là mắt
trái của Tôi bị “đục thủy tinh thể” (cataract) nên không nhìn thấy
hình cảnh bên ngoài. “Thủy tinh thể” mắt bên phải cũng bắt đầu
chớm đục chút đỉnh nên vẫn còn nhìn thấy. Nhưng một thời gian
sau không biết trước là bao lâu, khi “thủy tinh thể” đục hoàn
toàn như mắt trái thì cũng sẽ không nhìn thấy gì nữa. Tôi lo lắng
hỏi: “-Như vậy là mắt trái của Tôi hư luôn rồi sao? Có cách nào
chữa cho mắt phải không bị đục “thủy tinh thể” để còn một mắt
mà nhìn đời, chớ để cả 2 mắt mù luôn thành người tàn phế thì
còn gì là tương lai?”

ể cho Tôi yên lòng, anh Bác sĩ trẻ cười nhẩn nha giải thích: “-
“Thủy tinh thể” ở con ngươi mắt được ví như miếng thấu kính
(lens) của máy chụp hình, nó phải trong suốt thì ánh sáng hình
cảnh bên ngoài mới thấu qua in lên phim trong phòng tối của
máy ảnh được. Có một cách giải thích cụ thể khác dễ hiểu hơn,
tỉ như ta đứng sau một cửa sổ ráp kính trong vắt, có thể nhìn
thấy hình cảnh bên ngoài sân rõ rang, nhưng nếu kính trên cửa
sổ là loại đục, ta chỉ thấy ánh sáng mờ mờ chớ không thấy hình
cảnh bên ngoài sân. Cũng vậy “thủy tinh thể” trong con ngươi
mắt bị chất vôi làm đục mờ đi, bộ não không còn ghi nhận được
hình cảnh nữa chỉ thấy ánh sáng mờ mờ xuyên qua cái màng đục
thôi. Muốn nhìn được trở lại người ta phải làm phẫu thuật, mổ
mắt bỏ miếng “thủy tinh thể” bị đục đi thay thế bằng miếng
“thủy tinh thể nhân tạo” trong vắt không khó khăn gì. Tại Thành
phố Saigon có một Bệnh viện rất lớn chuyên khoa về mắt, hàng

515

ngày người ta giải phẫu thay “thủy tinh thể” cho rất đông bệnh
nhân, có thể coi như trăm phần trăm các ca mổ đều thành công
mỹ mãn. Còn thuốc để chữa cho “thủy tinh thể” không bị chất
vôi trong cơ thể làm đục thì hiện nay chưa có.”

Nhờ sự giải thích này, Tôi không còn cảm thấy chán nản buồn lo
nữa, chỉ cần có cơ hội xin “Ban” Nhu Trại trưởng cho đi Bệnh
viện mổ mắt thay “thủy tinh thể” là mọi chuyện lại bình thường.
Nhưng chuyện này chẳng dễ dàng gì, tấm gương nhãn tiền là vụ
anh ại tá Hồ hồng Nam bị đau gan đại tiện ra máu cả bao tháng
trời cứ phải nằm điều trị tại Bệnh xá Trại cho đến khi bệnh nặng
quá, gia đình khéo chạy chọt lắm mới được tha về vài tháng sau
thì chết.

Sáng hôm sau Tôi ghi sổ xin khám bệnh để được Cán bộ tế
Trại đích thân xét nghiệm ghi vào hồ sơ tại Bệnh xá tiện dụng
sau này.

May sao, mấy bữa sau có một phái đoàn thuộc Cục Trại giam
Trung ương do một Tướng cầm đầu (nghe nói là quan thầy của
Ban Nhu) tới “tham quan” Trại Z30D, ghé Nhà Lô ội 23 chúng
tôi ngồi uống trà hút thuốc vào giờ giải lao giữa buổi lao động
sáng. Lợi dụng trong lúc vui câu chuyện, Tôi trình bầy về con
mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” không trông thấy gì cần
phải đi Bệnh viện mổ, xin “Ban” Nhu “chiếu cố” để cứu cho
khỏi bị mù. Thấy “Ban” Nhu ngồi yên lặng nhìn Tôi vẻ ngạc
nhiên, Tôi trình bầy lại mọi việc đã xẩy ra và không quên báo
cáo là Cán bộ tế của Trại đã đích thân khám xét xác nhận như
vậy. Vài phút sau, “Ban” Nhu mới lên tiếng:

“-Được rồi để tháng tới có người đang nằm điều trị tại Bệnh
viện Phan Thiết về, Tôi sẽ cho Bác đi.”

516

Vào giờ nghỉ lao động buổi trưa anh em quây quần trong Nhà
Lô ngồi ăn cơm, anh iệt mới nói cho biết là lúc Tôi nói chuyện
với “Ban” Nhu anh ấy đang ngồi phía bên trái của Tôi, thấy
“Ban” Nhu lưỡng lự không quyết định, anh ấy đã nắm tay đấm
dọa thẳng vào thái dương trái của Tôi, không thấy Tôi chớp mắt
hoặc giật mình phản ứng tự vệ chứng tỏ mắt trái của Tôi không
trông thấy gì thật, lúc đó “Ban” Nhu mới tin và trả lời bằng lòng
cho đi Bệnh viện trong tháng tới.

Một tháng rồi 2 tháng qua đi không thấy “Ban” Nhu nhớ đến
việc cho Tôi đi Bệnh viện, Tôi cũng chẳng tìm cơ hội để nhắc lại
vì mới có tin anh bạn Tù (cấp bậc Trung tá) nằm điều trị tại
Bệnh viện Phan Thiết được gia đình móc nối giúp đỡ sao đó đã
trốn đi biệt tích. Ban Chỉ huy Trại đang phiền lòng điên đầu vì
vụ này xẩy ra ngay trong thời gian “thi đua lập thành tích tranh
giải Trại Cải tạo gương mẫu cả nước”. Tôi đành tiếp tục nhìn
đời bằng một con mắt, nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của thời

ại Nạn đến đâu hay đó chớ biết làm sao hơn, khi vận bí của
mình chưa hết.

Gần cuối tháng 6, Linh mục Bùi đức Sinh phụ trách trồng ớt
phía trước Nhà Thăm Nuôi được gọi “làm việc” mấy ngày liền,
và sau đó Ngài được chuyển đi trại giam khác. Sau này khi được
tha về, gia đình Tôi ở gần nhà Thờ Ba Chuông đường Lê văn Sĩ
(Trương Minh Ký cũ) thuộc quận Phú Nhuận nên có dịp ghé
thăm Linh mục Sinh, mới biết là rời Trại Z30D Ngài được đưa
về Trại Z30A tại Xuân Lộc Long Khánh ở chung với các vị Linh
mục Tuyên Úy Quân đội.

Hết Hè vào Thu là mùa mưa lũ nước sông dâng cao chẩy xiết
làm đất 2 bên bờ lở mở lòng sông rộng thêm cả 2, 3 mét, một số
luống rau và 2 vạt ớt trồng ven bờ bị xụt nước cuốn trôi mất

517

tích. Cứ sau mỗi trận nước lũ là bờ sông lại lở xụt thêm, diện
tích canh tác của chúng tôi tự nhiên được giảm bớt đi một phần
tư nhờ vậy anh em đỡ vất vả phần nào.

Sau Lễ ộc Lập 2 tháng 9 được tin Trại Z30D chiếm giải “Trại
cải tạo gương mẫu cả nước”, “Ban” Nhu rất hân hoan nên cung
cách cư xử đối với Cán bộ cũng như đối với Tù có nhiều thay
đổi rộng rãi bớt khắc nghiệt hơn trước.

Cũng vào dịp này Trung Ương cử một phái đoàn hùng hậu đến
Trại tổ chức đợt học tập mới, với tinh thần “Dân chủ Cởi mở,
nói thẳng nói thật, để Lãnh đạo ghi nhận mọi ưu khuyết điểm
nhằm chấn chỉnh ổi mới Chính sách quản lý Tù cho tốt hơn
hữu hiệu hơn”. Anh em được nghỉ lao động cả tuần lễ để nghe
thuyết giảng và viết bài tường trình tổng kết mọi nhận xét riêng
về cách giáo dục cũng như quản lý của các Trại trong suốt “quá
trình cải tạo” của mình một cách “thành khẩn”, đúng theo tinh
thần “cởi mở đổi mới” của Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh đã đi
tiên phong qua loạt bài “Những việc cần làm ngay” được phổ
biến rộng rãi để toàn Quân toàn Dân học tập. Ngoài ra anh em
Tù cũng được yêu cầu cho biết nguyện vọng cá nhân khi được
tha về đoàn tụ với gia đình, có muốn ở lại trong nước để cùng
Nhân dân xây dựng kiến thiết đất nước hay muốn xin đi định cư
tại nước ngoài? ặc biệt bài “thâu hoạch” kỳ này không phải
đem ra mổ sẻ trước ội như những lần học tập trước, và do
chính nhân viên phái đoàn Trung Ương thâu góp chớ không phải
nộp qua hệ thống Quản Giáo của Trại như thường lệ. Phái đoàn
đã giải thích sở dĩ lần học tập này phải làm như vậy để Cải tạo
viên yên tâm thành khẩn viết ra hết những suy nghĩ thầm kín của
mình mà không sợ bị Ban Chỉ huy Trại trù dập vì những điều
“nói thẳng nói thật” có liên quan tới Trại đang quản lý mình.

518

Không biết các anh em khác viết sao, phần riêng Tôi đã thẳng
thắn nhận xét là:

1.-Các Trại Bộ đội đối xử với Cải tạo viên tương đối có “tình
người” hơn các Trại do Công An quản lý. Cán bộ Quản giáo
bên Bộ đội tháo vát có nhiều kinh nghiệm chăn nuôi trồng tỉa
cũng như xây dựng và tận tình chỉ dẫn cho Cải tạo viên cặn
kẽ, không như Quản giáo Công An lầm lầm lỳ lỳ chỉ biết chỉ
tay năm ngón và hạch xách nạt nộ chớ chẳng biết gì để mà
hướng dẫn.

2.-Về quản lý Tài chánh, các Trại Bộ đội luôn luôn công khai
xòng phẳng, Nhà Nước quy định “tiêu chuẩn” cho Cải tạo
viên bao nhiêu một ngày thì lo tiếp xúc với địa phương mua
các thực phẩm Trại chưa sản xuất đủ hoặc không có để Cải
tạo viên có ăn hàng ngày. Còn bên các Trại Công An, ngày
nào cũng thấy ghi trên bảng Chi Thu tại Nhà Bếp tiền dư
không dùng hết trong khi thực phẩm cung cấp hàng bữa
nghèo nàn không có gì, ngoài vài muổng nước muối và đôi
cọng rau do chính Cải tạo viên sản xuất ra, đôi khi rau cũng
không có phải dùng lá đọt sắn muối chua rồi đem nấu chín.
Dân chúng địa phương hình như lúc nào cũng sợ lo thủ thế
không có cảm tình với Công An cho lắm, nên Trại chẳng mua
được gì do dân quanh vùng sản xuất để cung cấp cho Cải tạo

viên.

3.-Từ năm 1985 được chuyển về Trại Z30D thấy ngoài việc
trồng lúa khoai mì (sắn) ngô (bắp) khoai lang, còn có nhiều
chương trình làm “kinh tế” khác như: gia công sản xuất
quần áo, sản xuất đồ gỗ, trồng mía làm đường, nuôi bò, nuôi
heo, nuôi gà đẻ trứng được thực hiện cùng một lượt. Đồng
thời Trại xây dựng được Đập Thủy Điện nhỏ đủ cung ứng
cho nhu cầu soi sáng và kéo các loại máy công nghiệp không

519

tốn tiền xăng nhớt. Nguồn sức lao động của Cải tạo viên cả
Nam lẫn Nữ được khai thác đến mức tối đa để làm ra nhiều
của cải và tiền cho Trại. Nhờ thế hàng ngày Cải tạo viên
được ăn cơm không độn, “Chế độ thăm nuôi” gia đình tiếp tế
cho Cải tạo viên cũng được cởi mở dễ dàng hơn các Trại
khác, nên mọi người vui vẻ cố gắng lao động sản xuất hoàn
thành các “chỉ tiêu” Trại đề ra kịp thời đúng lúc y như đang
tham gia lao động trong Hợp tác xã thực sự vậy.”

Về nguyện vọng trong tương lai sau khi được tha về đoàn tụ với
gia đình, Tôi trả lời nước đôi một cách vô thưởng vô phạt là, nếu
Nhà Nước “chiếu cố” cho phép ra nước ngoài thì Tôi sẽ đi, vì
mình già yếu bệnh hoạn mắt bên trái đã mù không thấy đường
chẳng những không làm được gì lợi ích cho Xã hội mà lại còn
ăn bám vào Xã hội là điều Tôi không muốn, còn nếu Nhà Nước
không cho đi thì Tôi sẽ cùng vợ con cố gắng đóng góp sức già
yếu của mình vào công việc chung của đất nước được đến đâu
hay đến đó.”

ợt học tập chấm dứt, có 1 oàn tế Trung Ương được cử tới
Trại khám sức khoẻ tổng quát cho chúng tôi. Họ làm việc chậm
rãi kỹ càng, đo chiều cao, cân mức nặng của cơ thể, đo huyết áp,
nghe nhịp tim và phổi, khám mắt tai mũi họng và răng, quan sát
khả năng di chuyển, và sau cùng ngồi hỏi từng người để ghi
nhận những loại bệnh mà mình nghĩ rằng mình đang có bấy lâu
nay. Ai cũng nhân cơ hội này khai đủ thứ bệnh mãn tính, hy
vọng hồ sơ sức khoẻ ghi nhiều bệnh tật sẽ là một dự kiện giúp
cho việc xét tha thuận lợi hơn những người có sức khoẻ tốt ít
bệnh tật. Tôi cũng khai một lô bệnh, nào là đau bao tử, sạn thận,
thường hay bị tức ngực bên trái, mắt trái bị cườm mù không
trông thấy gì, thấp khớp, đau cột xương sống ở khúc ngang bả

520

vai và thắt lưng, thỉnh thoảng buốt một bên đầu. Riêng phần
răng của Tôi, sau khi khám họ nói cho nghe và ghi vào hồ sơ chỉ
còn dùng được 50 phần trăm.

Nhưng thực tế chẳng ai biết Việt Cộng dựa vào “tiêu chuẩn” nào
dể xét tha Tù? Lấy ví dụ thực tiễn nhất là tình trạng sức khoẻ
của Tôi thua xa các anh Nguyễn quốc Quỳnh, Tô văn Vân, thế
mà các anh ấy lại được tha trước Tôi cả nửa năm Trời.

Qua những lời bật mí úp mở trong lúc “Ban” Nhu và Quản giáo
ội và đoàn Cán bộ Trung Ương nói chuyện, mọi người “hồ

hởi” tin tưởng ngày tha hàng loạt sẽ được thực hiện vào những
ngày rất gần. Nhưng niềm vui hy vọng sắp thoát cảnh ngục tù
vừa chớm nở chưa được bao lâu, thì có 2 tin giật gân do báo chí
và đài phát thanh của Nhà Nước liên tiếp tung ra làm anh em
chưng hửng buồn vui lẫn lộn một thời gian. Vui vì trong số
những người bỏ nước ra đi hồi cuối tháng 4 năm 1975 cũng còn
có người can đảm dám đứng ra vận động chiến hữu tiếp tục cuộc
tranh đấu chống Cộng sản Việt Nam, để giải cứu quê hương dân
tộc thoát ách cai trị độc tài. Buồn vì các sự kiện này bất ngờ xẩy
ra không đúng lúc, có thể gây ảnh hưởng bất lợi làm trì hoãn
thời điểm mãn hạn ại nạn cải tạo cực khổ nhục nhằn của anh
em không biết đến bao giờ.

Hai tin đó là:

“-1. Võ đại Tôn, Đại tá chế độ cũ từ Úc Đại Lợi về Việt Nam
tổ chức mưu toan xúi giục lật đổ Nhà Nước Xã hội Chủ
nghĩa, đã bị bắt đưa ra Toà án Nhân dân xử tội và đang bị
câu lưu thi hành bản án.

-2, Hoàng cơ Minh, Tướng Hải quân chế độ cũ Saigon cùng
nhóm phản động từ Hoa Kỳ lén lút về nước hoạt động chống

521

phá Chính quyền Cách mạng, đã bị bắn chết tại vùng biên
giới Lào Việt. Một số đồng bọn cũng bị bắt đưa ra Toà án
Nhân dân xử và câu lưu cải tạo dài hạn.”

Mỗi lần có tin tức mới, “Ban” Nhu Trưởng Trại Z30D thường
tới Nhà Lô ội đưa tờ báo Nhân dân cho anh em coi hình, và
hỏi có ai quen biết những tên phản động này không? Anh em
cầm tờ báo nhìn ảnh thật kỹ, rồi ai nấy lắc đầu trả lời chưa hề
thấy bao giờ và nói: “-Cái tên nghe cũng có vẻ lạ, trong Quân
đội lúc sau này nhiều người được thăng cấp mặt trận nhanh quá
nên không biết hết được”, mặc dù cũng có người biết nhưng
không ai dại gì mà nhận có quen trong lúc đang còn nằm dưới sự
kiềm toả của Trại cải tạo.

Nhưng theo suy nghĩ của riêng Tôi, các sự kiện này đem lại may
nhiều hơn rủi cho anh em, vì có thể đây là những “hư chiêu” mà
Hoa Kỳ muốn tung ra để hù dọa Việt Cộng với mục đích ép họ
phải dứt khoát chấp nhận kế hoạch thả hết Tù Chính trị miền
Nam theo đề nghị của Hoa Kỳ để được hưởng những gì Hoa Kỳ
hứa đền bù trao đổi, còn nếu Việt Cộng vẫn theo bản chất cố
hữu “vừa đánh vừa đàm”dụ dự câu giờ như thường lệ thì nhiều
biến cố bất ngờ khác nửa sẽ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, hậu
quả sẽ là “xôi hỏng bỏng không”.

Ngày tháng căng thẳng cứ tiếp tục lầm lũi nối đuôi nhau theo
thời gian, mọi chuyện cũng mờ dần trong quên lãng và năm lại
hết Tết lại đến. Tết con Mèo ( inh Mão-1987) nhờ chính sách
“cởi mở”, anh em Tù được chuẩn bị đón Xuân thoải mái hơn Tết
năm con Hổ. Ngay từ giữa tháng Chạp nhân một dịp ghé Nhà Lô

ội chúng tôi và để chứng tỏ sự quan tâm khích lệ tinh thần lao
động cần cù của anh em, “Ban” Nhu mở lời mời mọc thân thiện:

522

“-Tết này Bác nào muốn có dịp đón Xuân bên Bà Xã và Con
Cháu, hãy nhắn họ lên Tôi sẽ cho ở lại suốt 3 ngày Tết, vợ
chồng con cái tha hồ thong thả nấu nướng ăn uống dắt nhau
rong chơi ngắm cảnh Vườn Tao Đàn, Hồ Thủy Điện, chụp
hình kỷ niệm.”

Ngày 30 Tết có nhiều gia đình đến “thăm nuôi”, nhưng phần lớn
ưa kiêng cữ không ai muốn đón Xuân trong đất có liên hệ đến
Nhà Tù nên chỉ có vài gia đình xin ở lại được “Ban” Nhu chấp
thuận cho hết, đúng như đã nói với chúng tôi từ nửa tháng trước.
Riêng ội chúng tôi chỉ có Anh Quỳnh ội trưởng nhắn Bà Xã
lên thăm ở lại ăn Tết bên anh ấy mà thôi.

Vào đêm Mồng Một Tết, nhờ sự “chiếu cố đặc biệt” của“Ban”
Nhu Trại Trưởng, oàn Văn Công số 1 của Thành phố Hồ Chí
Minh do Ca Nhạc sĩ Nghệ nhân Cộng sản Nguyễn trọng Cầu
hướng dẫn đã được thuê đến bao thầu một chương trình văn
nghệ thật đặc sắc. Trong số các Nữ Ca sĩ có Thanh Lan nổi danh
trước 30-4-1975 tại miền Nam, được toàn thể khán giả cả Cán
bộ lẫn Tù hoan hô nhiệt liệt. Cô ấy được vỗ tay yêu cầu hát liên
tiếp một lúc 3, 4 bài liền mà khán giả vẫn chưa tha cho rời sân
khấu, hô Bis! Bis! yêu cầu hát nữa. Hình như trong số người vỗ
tay ngưỡng mộ cũng có nhiều người thù ghét muốn khích cho
con thiêu thân nhuốm mầu ánh sáng đỏ này hát đến hết hơi mệt
đứt ruột chết gục trên sân khấu mới thôi.

Các gia đình được phép ở lại ăn Tết bên Tù trong khu Nhà Thăm
Nuôi, cũng được “Ban” Nhu cho Cán bộ dẫn vào xem chương
trình văn nghệ đầu năm rất hấp dẫn này. Các bạn ấy và thân
nhân được đặc biệt “chiếu cố” xếp chỗ ngồi ngay hàng ghế đầu
sát sân khấu trong khu dành cho Cán bộ.

523

Tết đã qua đi cả tháng rồi mà dư âm “cởi mở” của Ban Giám
Thị đối với Tù vẫn tiếp tục kéo dài chưa dứt. Các Cán bộ Quản
giáo và Cảnh vệ cũng dễ dãi bớt khắt khe thiếu cảnh giác nên đã
xẩy ra một vụ cướp súng trốn Trại giam giữa ban ngày, một cách
thật ly kỳ như chuyện đang xẩy ra trong phim trường Hồ Ly
Vọng (Hollywood) bên Hoa Kỳ vậy. Chuyện xẩy ra trong giờ
lao động chiều, tại cây cầu gỗ bắc ngang sông chỗ có khu Nhà
Tiếp ón thân nhân Tù đến “đăng ký” xin “thăm nuôi” gần
Quốc lộ Saigon-Phan Thiết. Ba người cướp súng bỏ chạy ra khỏi
Trại thuộc ội anh em Phục Quốc trẻ gốc à Nẵng, đã đình
công không chịu đi lao động hồi “Ban” Nhu phạt cùm Tôi trong
nhà Kỷ Luật (đã được kể trong một đoạn trước). Các bạn cùng

ội và mấy Tù phục vụ tại Khu Tiếp ón thân nhân được mục
kích sự việc lúc xẩy ra kể lại như sau:

“Vào giờ nghỉ giải lao giữa buổi lao động chiều, Cán bộ
Quản giáo không mang súng, Cảnh vệ mang súng nhưng để
xuống đất ngay bên cạnh chỗ ngồi, hút thuốc, uống nước, ăn
quà bánh do Tù mời như thường lệ. Bỗng dưng có một bạn
Tù bất thần nhào tới cướp súng lên đạn chĩa về phía Cán bộ
hô lớn: -Tất cả nằm xuống không được nhúc nhích. Thế rồi
mấy anh dự định trốn Trại theo nhau băng qua cầu chạy vào
phía rừng bên kia sông. Khi các anh ấy chạy xa ngoài tầm
súng AK, các Cán bộ mới dám vùng lên chạy theo đuổi cầm
chừng miệng la “bắt trốn trại! bắt trốn trại!”, đồng thời
nghe thấy 3 tiếng súng báo động nổ vang. Khoảng nửa giờ
sau thấy rất đông Cán bộ Trại được huy động rầng rầng bủa
đi tìm bắt, cho đến tối mịt vẫn không mang lại kết quả gì.
Không biết các anh ấy còn trốn lẩn quất đâu đó trong rừng,
trong nhà dân chúng quanh vùng, hay đã cao bay xa chạy
thoát khỏi vùng.”

524

Một cuộc điều tra sâu rộng đã làm cả Trại giam bị giao động
trong nhiều ngày liền, nhất là ội chúng tôi. Anh Quỳnh ội
trưởng của chúng tôi bị gọi “làm việc” trước nhất, vì có tin báo
cáo mấy người trốn Trại đã nhiều lần tiếp xúc với anh ấy.
Nhưng sau khi điều tra, anh Quỳnh và ội chúng tôi không bị
liên hệ gì, vì mấy người kia còn trẻ “tiêu chuẩn thực phẩm” Trại
quy định hàng ngày thấp, họ bị thiếu đói nên mục đích các lần
họ tiếp xúc với anh em ội chúng tôi chỉ để xin thực phẩm, y
như trường hợp nhiều Tù cả Nam lẫn Nữ thuộc các ội khác
cũng thường tiếp xúc với chúng tôi để xin thực phẩm vậy thôi.

Hơn tháng sau, một trong mấy anh trốn Trại bị bắt đem trở lại.
Theo tin do Cán bộ Quản giáo ội chúng tôi cho biết thì người
ta đã bắt được anh ấy về thăm thân quyến tại vùng quê à Nẵng.
Anh ấy bị cùm 1 chân trong Nhà Kỷ Luật nơi mà Tôi đã từng bị
cùm 5 ngày 5 đêm. Nhưng không biết làm thế nào, 2 ngày sau
anh ấy gỡ được cùm thoát ra khỏi Nhà Kỷ Luật, vượt 2 lớp hàng
rào kẽm gai và tre tươi cao 3 mét dày 2 mét phía hông sau Khu
giam Tù, chạy trốn lần nữa vào lúc nửa đêm. Thật là một cuộc
vượt ngục tài tình làm mọi người kể cả Cán bộ cũng phải ngả
nón chào sát đất để tỏ lòng thán phục.

ể mừng Lễ ộc Lập 2 tháng 9 năm 1987 của Nước Cộng hoà
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một đợt khá đông anh em Tù được
tha. ội chúng tôi có các anh Nguyễn quốc Quỳnh ội trưởng,
Tô văn Vân coi Nhà Lô ội và Nguyễn văn Phúc phụ trách
chăm sóc cắt tỉa cây kiểng vườn bông quanh khu Nhà Thăm
Nuôi cũng có tên trong danh sách may mắn này. Lễ đọc danh
sách tha được tổ chức vào một buổi sáng đẹp trời tại Hội trường
trước giờ xuất trại lao động. Sau buổi lễ những người được tha ở
lại trong trại về phòng giam chuẩn bị hành trang về đoàn tụ với

525

vợ con, còn những người vận may chưa đến ra sân tập họp đi lao
động như thường lệ. Người về kẻ ở bu lại chia tay nhau xúc
động nước mắt lưng tròng, dặn dò nhắn gửi vội vã ồn ào hỗn
độn y như buổi bãi trường đi nghỉ hè thời còn thơ ấu vậy.

Sau đợt tha nhân số ội chúng tôi bị giảm nhưng không được bổ
xung, nên buộc phải bỏ bớt một số luống rau không trồng tiếp.
Các khâu phụ trách những phần vụ chuyên biệt vẫn tiếp tục công
việc hàng ngày như bình thường không có gì thay đổi. Anh ại
tá Trịnh đình ăng, bạn nấu nướng ăn chung với Tôi hồi mới từ
Trại Thanh Phong về bên Trại Z30C, có sức khoẻ tháo vát thông
thạo về nhiều ngành nghề được chỉ định làm ội trưởng thay
anh Quỳnh.

Vài tháng sau ngày được tha, anh Nguyễn quốc Quỳnh trở lại
Trại thăm chào cám ơn Ban Giám Thị, nhân dịp này “Ban” Nhu
cũng cho phép ghé thăm và đem chút quà tình nghĩa cho anh em
chúng tôi tại Nhà Lô của ội. Anh em gặp nhau vui mừng trao
đổi những câu chào hỏi xã giao, nhưng không có dịp thuận tiện
tâm sự về những tin tức cần biết ngoài xã hội vì lúc nào Quản
giáo cũng kè kè theo sát bên anh em.

Khoảng giữa tháng 1 năm 1988, Tôi bệnh nặng nên Vợ và Cô
gái út phải dến trại xin “thăm nuôi” đặc biệt và được “Ban” Nhu
cho phép ở lại 5 ngày để chăm sóc. Ngay đêm đầu, Tôi bị lên
cơn đau bụng quằn quại, mắt trái đau nhức khi thấy ánh sáng,
hâm hấp sốt, đầu buốt như búa bổ, cả đêm đi ra đi vào tiểu tiện
rắt hoài không ngủ được. Hai Mẹ Con phải cực nhọc vất vả lo
thuốc thang đun nước hoà sữa cho Tôi uống từng chút từng chút,
cả đêm chẳng được ngơi nghỉ. Thật tội nghiệp!

526

Ngày hôm sau vào lúc mãn giờ lao động chiều, Tôi ngồi dựa
lưng bên giường ngủ vừa húp xong chén cháo đường thì cảm
thấy lợm giọng buồn nôn, chỉ kịp với tay cầm chiếc thau nhôm
hứng trước mặt thì ôi thôi những gì vừa nuốt vào tuôn ra hết,
cùng với một bụm máu đỏ tươi phủ trên đám cháo trắng. Cô gái
út của Tôi vội vã chạy băng qua cầu gỗ nơi khúc sông hẹp ngay
phía sau Nhà Thăm Nuôi sang Nhà Lô ội, trình xin bác ăng

ội trưởng cho bác Sáu ội phó sang giúp đỡ. Anh Sáu đến nơi
thấy sắc mặt và tình trạng của Tôi bất thường, anh ấy hốt hoảng
chạy gấp đi gặp Cán bộ phụ trách Thăm Nuôi báo cáo mời ông
ấy đến xem và xin đưa Tôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu. Cán bộ
phụ trách Thăm Nuôi và Quản giáo ội cùng theo anh Sáu đến
phòng dành cho gia đình Tôi, quan sát và đồng ý cho anh Sáu
dìu Tôi vào Bệnh Xá Trại xin cấp cứu.

Vào tới Bệnh xá, Tôi được đỡ cho nằm trên bàn khám và anh
bạn Tù Bác sĩ Sang hỏi các triệu chứng để định bệnh. Miệng cổ
khô khát, Tôi xin nước uống nhưng vừa nuốt vào lại mửa ra
ngay. Bác sĩ Sang bóp da mu bàn tay của Tôi kéo lên lúc buông
ra không thấy da tự động căng thẳng trở lại, anh ấy nói: “-Cơ thể
thiếu nước trầm trọng cần phải tiếp nước biển (serum). Bệnh xá
chỉ còn có một chai, phải chờ trình Cán bộ tế chấp thuận mới
được dùng.” Anh Sáu ội phó vẫn ở bên cạnh Tôi, khẩn khoản
xin Bác sĩ lo “khẩn trương” giúp. Tôi bắt đầu cảm thấy người
mệt nhoài không còn muốn cựa quậy, 2 tay tê tê buồn buồn phải
co ruỗi các ngón tay liên tục, mi mắt nặng trĩu mở ra không
muốn nổi. Anh Sáu đứng bên cạnh phụ bóp 2 cánh tay cho Tôi
đỡ mỏi. Sau này Tôi mới biết triệu chứng đó thường được các
Cụ già cho là bệnh nhân tay bắt chuồn chuồn tức là sắp tới giờ
chết.

527

Một lúc sau cả Cán bộ tế và Quản giáo ội của Tôi cùng vào
Bệnh xá, sau khi nghe Bác sĩ Sang trình bầy Cán bộ tế chẩn
bệnh kiểm tra rồi đi ra ngoài, một lúc sau mới quyết định chấp
thuận cho xử dụng chai nước biển, chắc là điện thoại xin lệnh
“Ban” Nhu.

Tôi được dìu vào nằm trên một giường trống bên các bệnh nhân
đang nằm điều trị trong Bệnh xá. Mạch máu giữa nhượng cánh
tay của Tôi lặn mất không tìm ra, Bác sĩ Sang phải đâm kim
chích vào tĩnh mạch nơi mu bàn tay để truyền nước biển vào
máu cho Tôi. Hai mắt mỏi xụp xuống, Tôi ngủ thiếp đi không
biết được bao lâu thấy có vật gì lành lạnh đè lên trán làm giật
mình tỉnh giấc. Mở mắt thấy Cán bộ tế và Quản giáo ội
đứng bên giường nhìn Tôi hỏi:

“-Anh thấy thế nào?”

Tôi chưa kịp trả lời, Cán bộ tế nói tiếp:

“-“Ban” Nhu chấp thuận cho đưa anh đi Bệnh viện. Anh
muốn đi Phan Thiết chữa bao tử hay đi Saigon chữa mắt?”

Tôi trả lời:

“-Nhờ Cán bộ trình “Ban” cho Tôi đi Saigon để chữa mắt, vì
mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” hơn một năm rưỡi nay
rồi, chắc để lâu quá không chữa trị mới biến chứng hành đau
đớn như vậy. Trong khi chữa mắt tại nhà thương Tôi cũng có
thể đồng thời xin chữa trị bao tử một thể, như vậy chỉ một lần
đi Bệnh viện giải quyết được 2 bệnh một lượt cũng rất thuận
tiện. Hơn nữa gia đình Tôi ở Saigon có thể ghé chăm sóc Tôi
thường xuyên dễ dàng hơn là nằm bệnh viện tại Phan Thiết.”

528

Các Cán bộ vừa đi ra thì thấy anh Sáu ội phó vào phòng thăm
Tôi, nhờ thế Tôi mới biết là đêm đã qua Trời đã sáng và anh em
đang chuẩn bị đi lao động. Tôi xin mảnh giấy viết mấy chữ nhờ
anh Sáu đem ra nhà thăm nuôi dặn dò Vợ Con mấy điều:

-1. Cán bộ Y tế vừa cho biết là “Ban” Nhu Trại trưởng chấp
thuận cho di tản Tôi đi Bệnh viện tại Saigon ngay sáng nay
để “cấp cứu” chữa mắt.

-2. Đưa hết quà “thăm nuôi” cho anh Sáu giữ dùng, vì anh
Sáu và Tôi ăn cơm chung và phải 2 tháng nữa Chị Sáu mới
đến kỳ lên “thăm nuôi”.

-3. Mẹ Con chuẩn bị hành trang sẵn sàng về Saigon ngay
trong buổi sáng nay.”

Anh Sáu cằm thơ của Tôi đi ra, thì mấy anh bạn thân trong ội
cũng ghé vào thăm, Tôi thong báo cho anh em biết “Ban” Nhu
cho đi Saigon chữa bệnh vào buổi sáng hôm nay. Ai cũng tỏ vẻ
mừng rỡ chúc cho Tôi thượng lộ bình an gặp nhiều may mắn.
Một lát sau khi mọi người thăm Tôi đã ra hết, Bác sĩ Sang bảo
Tôi về phòng giam thu vén tư trang đem ra chỗ phòng canh tại
cổng lớn, đứng chờ xe Cán bộ đến chở đi Saigon.

Tôi về phòng giam của ội chẳng đâu xa, ngay đầu Dẫy Nhà
đầu tiên của Khu giam Tù Nam bên kia khoảng sân rộng khoảng
2 chục mét đối diện với Bệnh xá. Tôi thu vén chăn gối mùng bọc
thuốc trị bệnh cần dùng hàng ngày và vài gói mì ăn liền, nhét tất
cả vào trong túi đeo lưng vải kaki xanh (do chính Tôi tự may lấy
đem theo từ hồi trình diện Học tập Cải tạo đến nay). Xong suôi
mệt toát mồ hôi, Tôi vừa tính đeo túi lên vai đi ra cửa thì anh Võ
hữu Bá ( ại tá) Trực Phòng chạy đến bắt tay chào chúc lên
đường bình an, và giành cầm chiếc túi đồ dùng và dắt Tôi đi ra

529

bên cổng cùng đứng chờ cho đến khi xe Cán bộ đến chở Tôi đi
anh ấy mới quay vào. Anh Bá cũng là một người bạn tốt, đã ở
chung một ội với Tôi suốt từ hồi còn ở Trại Cốc Liên trại 1
Yên Bái Hoàng Liên Sơn, sau đó cùng bị chuyển đến Trại Tân
Lập Vĩnh Phú, rồi lại di chuyển vào K2 Trại Thanh Phong
Thanh Hoá đến tháng 4-1982 cùng về Trại Z30C và sau cùng là
Trại Z30D này.

Tôi ngồi chồm hổm bên trong cổng khu giam chờ chừng 30
phút, chiếc xe hơi du lịch loại sang của “Ban” Nhu thường dùng
chạy đến. Cán bộ tế và một Cảnh vệ xuống xe vào tìm Tôi,
hối đem tư trang ra cất vào thùng xe phía sau rồi lên xe đi “khẩn
trương”. Trong khi anh Bá giúp Tôi để túi đồ lên xe Cán bộ tế
đứng bên hỏi:

“-Vợ Con anh đâu?”

Tôi trả lời:

“-Đang ở trong Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông.”

Ông ấy hối:

-“Khẩn trương” lên xe ra đón Vợ Con anh cùng đi Saigon
một lượt.”

Tôi quay lại bắt tay cám ơn anh Bá và dặn thêm:

“-Đồ đạc của Tôi còn lại trong phòng, nhờ anh nhắn anh Sáu
thu gọn bỏ hết vào trong chiếc rương tôn giùm”,

Rồi vội vã bước lên xe ngồi vào hàng ghế phía sau. Cán bộ tế
và Cảnh vệ theo canh gác Tôi trong thời gian nằm Nhà Thương
ngồi ở hàng ghế trước bên cạnh Cán bộ tài xế.

530

Xe chạy tới Vườn Tao Ngộ khu Nhà Thăm Nuôi bên bờ sông,
ngừng tại ngã ba phía trước cầu gỗ. Cán bộ tế bảo Tôi vào gọi
Vợ Con ra lên xe. Xuống xe Tôi lảo đảo cố gắng đi từng bước
một qua cầu, khi vào tới phòng đã thấy hai Mẹ Con và anh Sáu

ội phó đang ngồi đó nói chuyện chờ Tôi. Vợ Tôi cho biết anh
Sáu ội phó không chịu nhận các món quà “thăm nuôi”. Tôi
biết tính anh ấy khẳng khái cố ép cũng không được, bèn nói:

“-Chúng tôi đi bằng xe nhỏ của “Ban” Nhu đang đậu chờ
ngoài kia, không có chỗ chứa mấy bọc đồ ăn và gà còn sống
cồng kềnh này. Chừng mươi ngày mổ mắt xong Tôi trở lại
Trại, Chị Sáu chưa tới kỳ lên tiếp tế lấy gì cho tụi mình ăn?”

Rồi Tôi hối hả thúc Vợ Con ra xe lẹ lẹ kẻo Cán bộ đợi lâu phiền
lòng, để mặc anh Sáu đứng đó với đống quà “thăm nuôi” của
Tôi.

Hai Vợ Chồng tôi và Cô con gái ngồi hàng ghế phía sau, 3 Cán
bộ ngồi hàng ghế trước. Xe lăn bánh thong thả qua khu Vườn
Tao Ngộ, đến chỗ Xưởng Mộc gần Câu Lạc Bộ bên đầu ập
Thủy iện rẽ phải chạy trên con đường dọc bờ rào bên hông
Khu Giam Tù, băng qua cổng lớn của Trại Z30D để ra ngã ba
Quốc lộ rẽ phải đi hướng Saigon.

ặc biệt chuyến đi này cả 3 Cán bộ đều mặc thường phục, tay
của Tôi không bị còng xích trong khi di chuyển ra ngoài Trại
giam như thường áp dụng trước đây, nên mọi người đều cảm
thấy vui vẻ thoải mái. Tôi mệt mỏi lấy chiếc gối đệm sau ót kê
đầu tựa vào lưng ghế, chùm chiếc khăn lông che mặt cho khỏi bị
ánh nắng làm chói nhức mắt, thiêm thiếp ngủ theo tiếng ru vo vo
đều đều của máy xe hơi.

531

BẢN CHẤT VÀNG VẪN LÀ VÀNG.

Lũ lụt non sông nước đục ngầu,
Đỏ Xanh hoà lộn biến thành Nâu.
Vàng ròng nung lửa càng tinh khiết,
Đen Trắng muôn đời đối nghịch nhau.

Thời gian chồng chất mái đầu,
Nắng mưa biến tóc ngả mầu muối tiêu.
Giang sơn tan tác tiêu điều,
Toàn dân cùng cực trăm chiều đắng cay.
Thề xưa vẫn nhớ đêm ngày,
Kiên tâm nhịn nhục bấy nay đợi chờ.
Nạn tan Trời giúp thời cơ,
Mài gươm tiếp tục ước mơ thuở nào.
Chung vai sát cánh Đồng bào,
Diệt bầy qủy đỏ, trương cao cờ vàng.
Cứu Dân Việt hết lầm than,
Nhân quyền Dân chủ hân hoan mọi nhà.

Rời K1-Z30D, Hàm Tân, Thuận Hải, vào sáng ngày 17 tháng
1 năm 1988. (cận tháng giáp Tết Mậu Thìn)

Chương 36.
RỜI ỐC ĐẢO NHỎ TRẠI TÙ Z30D,
VÀO ỐC ĐẢO LỚN THÀNH HỒ

Mắt trái của Tôi bị đục “thủy tinh thể” không nhìn thấy cảnh vật
từ giữa năm 1986, “Ban” Nhu Trưởng trại Z30D hứa cho Tôi đi
Bệnh viện mổ để cứu chữa trước mặt ông Tướng Trưởng Phái

532

đoàn Thanh tra Trung Ương Cục Trại giam từ Hà Nội vào,
nhưng suốt một năm rưỡi trời trôi qua không bao giờ ông ta đả
động tới việc thực hiện lời đã hứa. Mãi tới giữa tháng 1 năm
1988, Vợ Con Tôi đã phải tới Trại xin “thăm nuôi” đặc biệt vì
Tôi bị mắt biến chứng hành đau đớn đến nỗi phải đưa từ Nhà
Thăm Nuôi vào Bệnh xá Trại cấp cứu tiếp nước biển (serum)
vào máu qua một đêm không chết, sáng hôm sau ông ta mới
quyết định cho di tản về Saigon “cấp cứu” chữa mắt. Từ lúc có
quyết định đến lúc hoàn tất thủ tục giấy tờ “di tản cấp cứu” phải
mất khoảng 2 tiếng đồng hồ.

Chiếc xe hơi du lịch xưa nay ông ta thường dùng làm phương
tiện di chuyển ra ngoài trại, hôm nay được xử dụng để chở Tôi
và Vợ Con đang “thăm nuôi” cùng đi Saigon “cấp cứu”. Xe rời
Trại vào lúc 10 giờ sáng, chạy đến khoảng trưa thì ngừng tại một
khu buôn bán có nhiều nhà phố vừa trệt vừa có tầng lầu xây xen
kẽ bên nhau dọc 2 bên lề đường, để ăn uống trước khi tiếp tục
đi. Tôi không biết tên Thị trấn, nhưng nhớ có một ngôi Nhà Thờ
khá lớn có cả Trụ sở Công An Nhân dân và Trường học.

Mặc dù mệt không muốn ăn uống gì nhưng Tôi vẫn phải xuống
xe theo mọi người vào quán. Nhà hàng có khoảng năm sáu chiếc
bàn tròn, không đông khách lắm, nhưng có thể gọi đủ loại món
ăn chơi, cơm bữa, hủ tiếu, mì, bia, và nước ngọt. Thấy chúng tôi
đi bằng xe hơi nhỏ loại du lịch sang trọng, ai cũng quay mặt ngó
như muốn tìm hiểu xem chúng tôi thuộc hạng người nào trong
xã hội đương thời. Có mấy người khách ăn đứng lên bỏ tiền trên
bàn chào chủ tiệm và đi ra ngay, mấy người còn lại không nói
chuyện ồn ào nữa ăn vội cho mau xong thanh toán tiền để rời
khỏi quán. Tôi cảm thấy hơi khó chịu về thái độ lạ lùng này,
nhưng các Cán bộ thì tỉnh như không.

533

Các Cán bộ và chúng tôi ngồi chung một bàn, y như một gia
đình gồm 2 ông bà già và 4 người con (3 trai, 1 gái). ích thân
Chủ tiệm rời quầy thu tiền đến tận bàn, đứng gần bên Vợ Chồng
tôi đợi ghi các món thực khách muốn dùng. Vợ Tôi lên tiếng:

“-Ông hỏi xem các Chú muốn dùng gì lo trước đi, riêng Tôi
cần 2 tô hủ tiếu mì và một ly sữa nước sôi hột gà cho ông nhà
tôi đang bệnh không ăn được”.

Các Cán bộ gọi mỗi người 1 phần cơm bữa và uống trà. Vợ Tôi
nói thêm:

“-Các Chú dùng bia nhé! Nhờ ông cho đem ngay 3 chai bia
và một đĩa gỏi tôm để các Chú ăn chơi trước khi dùng cơm”.

Các Cán bộ im lặng không nói gì và cũng không từ thoái.

Lúc mọi người ăn gần xong, Vợ Tôi giả bộ đi vệ sinh để ghé
quầy hàng gọi thêm đĩa trái cây ăn tráng miệng, 3 ly cà phê đá, 1
bao thuốc lá thơm cho các Cán bộ dùng thêm, và thanh toán tiền
luôn.

Ăn uống xong đồng hồ trên tường nhà hàng chỉ 1 giờ, Cán bộ
kêu tính tiền, ông chủ tiệm chạy đến gần nhỏ nhẹ:

“-Thưa, tiền nong đã được thanh toán xong cả rồi.”

Chắc là trong lúc trả tiền chủ tiệm có hỏi chuyện, Vợ Tôi đã giải
thích cho biết về hoàn cảnh của chúng tôi, nên lúc này ông chủ
tiệm mới có thái độ lịch thiệp trinh trọng như vậy với các Cán
bộ.

Ra khỏi tiệm ăn mọi người lên ngồi yên chỗ xong, xe chuyển
bánh rẽ ra đường tiếp tục chạy hướng Saigon. ược chừng 200

534

mét, một chiếc xe máy dầu hiệu Honda đang đậu bên lề đường
bất thần vọt đại ra giữa lộ. Cán bộ lái xe chúng tôi vừa đạp
thắng, vừa bóp còi, vừa quay vội bánh lái lạng xe ra giữa đường
để tránh nhưng không còn kịp, chiếc Honda vẫn bị cản hậu xe
chúng tôi đụng lạng quạng đổ văng xa cả chục mét bên lề
đường. Người đàn ông trung niên lái xe Honda té lộn mấy vòng,
nhưng không bị thương tích gì cả chỉ bị lấm lem bụi đất bám đầy
quần áo thôi. Thật là may!

Xe chúng tôi phải ngừng tại giữa lộ, các Cán bộ xuống xe đến
gần người lái xe Honda thương thảo giải quyết hồi lâu không
xong, hai bên cùng phải đưa xe vào sân trụ sở Công An cách chỗ
xẩy ra tại nạn không đầy 100 mét nhờ giải quyết. Vì hôm nay là
ngày Chúa nhật nghỉ cơ quan không làm việc, Văn phòng đóng
cửa không có ai trực. Cán bộ phải chạy đến các nhà gần bên hỏi
thăm, không ai giúp được gì đành ngồi tại chỗ đợi. Khoảng một
tiếng đồng hồ sau bỗng dưng có một nhân viên tới trụ sở, mừng
rỡ Cán bộ xe chúng tôi tới tiếp xúc nói chuyện qua lại cũng cả
mười phút mới thấy nhân viên kia bỏ đi. Khoảng hai mươi phút
sau y trở lại cùng một người khác đứng tuổi hơn, mở cửa trụ sở
mời 2 Cán bộ và người bị nạn vào trong. Thời gian mấy người
“làm việc” trong văn phòng lâu khoảng nửa tiếng đồng hồ thì sự
việc được giải quyết ổn thoả, các Cán bộ vui vẻ trở ra lên xe và
chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi Saigon.

Khi xe đến Cầu Xa Lộ nơi có Tân Cảng Saigon, Cán bộ tài xế
lên tiếng nhờ Tôi chỉ đường cho xe chạy vì ông ấy và 2 Cán bộ
kia đều không thông thạo đường đi trong Thành phố. Vào tới
khu a Kao lưu thông bắt đầu tắc nghẽn, xe máy dầu đủ loại
Honda, Suzuki, xe đạp, xích lô, xe ngựa, chạy hỗn độn chẳng
theo luật lệ nào. Người ta tranh nhau luồn lách tiến lên trước, xe

535

hơi phải chạy chậm rề rề thua cả người đi bộ. Phải mất hơn tiếng
đồng hồ xe chúng tôi mới tới được cổng Bệnh viện iện Biên
Phủ chuyên khoa mắt (Bệnh viện Saint Paul cũ, nơi có Dòng Tu
Nữ của các Dì Phước Công giáo). Cán bộ vào phòng an ninh tại
cổng tiếp xúc hỏi thăm nhân viên kiểm soát, họ cho biết là phải
tới Khu Nhận bệnh tại vùng Bàn Cờ khám nghiệm làm các thủ
tục chẩn bệnh nhập viện trước rồi mới tới đây. Thế là xe lại phải
chạy vòng theo các đường một chiều, chen lấn nhau với các loại
xe 2 bánh để đến Khu Nhận Bệnh tại vùng Bàn Cờ. ến nơi
thấy trụ sở đóng cửa, đọc bảng thông cáo treo trên cửa ghi giờ
làm việc bắt đầu từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều hàng ngày, Chủ
nhật nghỉ. Không biết các Cán bộ bàn gì với nhau Tôi không
nghe được, chỉ thấy Cán bộ yêu cầu Tôi chỉ đường cho xe chạy
quay trở lại Bệnh viện iện Biên Phủ.

Vừa đến nơi xe đậu bên đường phía ngoài hàng rào mặt tiền
Bệnh viện, Cán bộ tế xuống xe gọi Tôi xuống và dẫn ra đứng
cách xe chừng vài mét trên lề đường nói nhỏ:

“-Đêm nay chưa vào Bệnh viện được, chúng tôi đành phải
đưa anh vào gửi trong Khám Chí Hoà ngủ tạm qua đêm sáng
mai sẽ trở lại đón anh ra đi làm thủ tục nhập viện. Anh bảo
Vợ Con anh xuống tại đây thuê xe mà về nhà.”

Tôi quay lại xe gọi Vợ Con xuống và nói cho biết những gì Cán
bộ vừa nói với Tôi. Vợ của tôi đưa ý kiến mời họ về ở trong nhà
chúng tôi qua đêm, thay vì đưa Tôi vào gửi trong Khám Chí Hoà
rồi họ cũng phải đi tìm chỗ ngủ đêm trong Thành phố nơi mà họ
không thông thạo đường lối. Tôi đồng ý và chúng tôi đến gặp
Cán bộ. Tôi trình bầy:

536

“-Nhà chúng tôi cũng ở gần đây thôi ngay mặt tiền đường
lớn, phố đông đúc hàng quán đủ loại, nhà 3 tầng lầu rất rộng
có tới 5 phòng ngủ, mỗi phòng ngủ đều có phòng tắm và vệ
sinh riêng rẽ rất khang trang, xe hơi có thể chạy vào đậu
ngay trong nhà ban đêm rất an toàn không sợ ai phá phách.
Xin mời các Cán bộ cùng đến nghỉ qua đêm tại nhà chúng
tôi, Qúy Vị muốn đi chơi thăm sinh hoạt ban đêm của Thành
phố hoặc muốn mua gì, 2 người Con trai của Tôi sẽ dùng xe
máy dầu dẫn đi mua sắm thoải mái.”

Cán bộ có vẻ suy nghĩ lưỡng lự, Vợ của Tôi nói thêm:

“-Ông nhà tôi đang bệnh yếu đuối quá mấy ngày nay không
ăn uống được gì, xin Cán bộ rộng lòng thương cho về ở nhà
đêm nay cho chúng tôi lo chăm sóc lúc đêm hôm, ơn ấy
không bao giờ chúng tôi quên.”

Cán bộ tế đến bên xe bàn với 2 Cán bộ kia xong, quay lại gọi
chúng tôi lên xe và Cán bộ lái xe yêu cầu Tôi chỉ đường đi về
nhà. Cán bộ tế dặn:

“-Trong khi ở nhà không được thông báo cho bạn bè người
thân đến thăm, làm ồn ào đến tai Chính quyền địa phương thì
phiền phức lắm nghe!”.

Chúng tôi hứa “đảm bảo”giữ đúng những lời Cán bộ yêu cầu.

Gần 13 năm rồi, đêm nay Tôi mới lại có dịp nhìn thấy đường
phố Saigon lúc ban đêm. Khu chung quanh Bệnh viện gồm phần
lớn loại nhà kiểu Villa có sân cây cối um tùm phía trước nên ít
thấy ánh sáng đèn trong các nhà, chỉ có những cột đèn đường toả
ánh vàng vàng rọi sáng mặt lộ và 2 bên lề đi bộ. Nhưng bắt đầu
từ ngã tư ên ổ-Trương Minh Giảng về đến nhà Tôi, ánh sáng

537

bàng bạc của đèn Nê-ông từ các nhà phố vừa trệt vừa 2, 3 tầng
xây xen kẽ nhau san sát 2 bên đường toả ra cũng đủ soi rõ mặt lộ
và lề đi cho khách bộ hành. Theo lời Vợ tôi giải thích:

“-Nhờ chính sách “cởi mở đổi mới” từ một năm nay nên bây
giờ phố phường mới bắt đầu có các hàng quán ăn dọc 2 bên
đường đèn đuốc sáng trưng như vậy. Hồi 1986 trở về trước
tư nhân không được phép kinh doanh, tối đến nhà phố 2 bên
đường đóng cửa đường phố vắng teo dưới ánh sáng vàng vọt
của những trụ đèn công cộng rải rác dọc bên lề đường”.

Xe vừa chạy qua Nhà Thờ Ba Chuông (cái tên quen thuộc mà
dân chúng Saigon thường gọi để chỉ Nhà Thờ Saint Thomas) ở
góc ngã tư 2 đường Huỳnh Quang Tiên và Trương Minh Ký
(nay đổi tên Lê văn Sỹ) là tới nhà Tôi. Xe đậu ngay trước cửa
nhà, Con gái tôi xuống xe bấm chuông, cậu trai lớn ở trong nhà
ra mở cửa thấy chiếc xe hơi du lịch đậu trước cửa, hắn trợn tròn
đôi mắt nhìn với vẻ ngạc nhiên. Không chỉ riêng con trai tôi
ngạc nhiên, cả hàng xóm 2 bên đường cũng ngạc nhiên gọi nhau
ra đứng quan sát tìm hiểu sự lạ gì đang xẩy ra.

Từ mười mấy năm nay, quanh khu phố này chỉ có nhà Cán bộ ở
cách nhà Tôi 5 căn phố mới thường có xe du lịch ghé đến thăm,
tại sao hôm nay nhà một Sĩ quan Chế độ cũ bị đi cải tạo từ sau
30-4-1975 đến giờ chưa được tha, lại có xe hơi du lịch loại sang
như vậy chở Vợ Con và Tôi từ đâu về nhà vào lúc này?

Chúng tôi xuống xe mời các Cán bộ vào nhà và bảo các con dẹp
chiếc máy may cùng chiếc bàn ăn dài dùng làm bàn đo cắt vải là
ủi quần áo cho thợ may vào phía trong, để lấy chỗ cho xe hơi
vào đậu. Các Cán bộ được mời lên lầu đi một vòng thăm các
phòng ngủ, và chỉ cho biết đêm nay Tôi sẽ nằm tại phòng nào.

538

Các Cán bộ sẽ ngủ chung trong phòng của người Con trai lớn,
đối diện ngay trước phòng của Tôi.

Xem xong mọi người quay trở xuống dưới nhà, chúng tôi mời
các Cán bộ sang quán ăn bên kia ngã tư đường đối diện ngay
trước Nhà Thờ Ba Chuông dùng bữa tối, vì nhà không có tủ lạnh
không tích trữ sẵn thực phẩm tươi để nấu nướng. Quán ăn do
thân nhân một gia đình Cách mạng đi tập kết về làm chủ, mới
mở được chừng nửa năm nay có rất nhiều món ăn nhậu nổi tiếng
của miền Nam như lươn um, ếch chiên bơ, rắn hổ xào..., có cả
bia và rượu ngoại. Lúc đó đã 7 giờ tối không còn khách, quán ăn
chỉ mở cửa đến 6 giờ nhưng vì con trai tôi hàng ngày chở bia và
nước ngọt đến bỏ mối nên quen thân, có thể yêu cầu chủ tiệm
tiếp khách đặc biệt ngoại lệ như tiếp người trong nhà được. Nhờ
thế các Cán bộ cũng yên tâm bằng lòng đi ăn tiệm với chúng tôi.

Ăn xong về nhà, Con trai tôi âm thầm đưa riêng cho mỗi Cán bộ
một phong bì nhỏ và hỏi có ai muốn đi chơi thăm phố phường
ban đêm, cậu ấy dùng xe Honda chở đi. Không ai muốn đi, Cán
bộ Cảnh vệ có trách nhiệm đi theo canh giữ Tôi ở lại nhà qua
đêm, còn Cán bộ tế và Cán bộ tài xế dắt nhau đi bộ ra phố
chơi đến sáng hôm sau mới trở lại.

Tám giờ sáng, mọi người ăn điểm tâm xong mở cửa nhà cho xe
chạy ra đậu tại lề phía bên kia đường. Cán bộ tế, Cán bộ Cảnh
vệ và Tôi cùng thong thả băng qua đường lên xe trước sự nhòm
ngó hiếu kỳ của bà con xóm giềng và dân chúng qua lại 2 bên lề
đường. Con trai tôi phải nghỉ một buổi và nhờ em trai kế nó đi
giao hàng nước uống cho các tiệm ăn dùm, để cậu ấy đi theo
chúng tôi với một mớ tiền trong túi để trang trải các chi phí mỗi
khi cần, cũng như để biết rõ nơi Tôi được nằm điều trị.

539

Những con đường chúng tôi phải đi qua toàn là đường một
chiều, đầy nghẹt xe đạp, xe gắn máy, xe máy dầu, xích lô đạp,
giành nhau chạy lạng qua lạng lại đầy cả mặt lộ, nên đến hơn 9
giờ mới tới được khu Bàn Cờ. Tới nơi xe hơi phải đậu ngoài
đường lớn, ngõ vào Cơ sở khu Chẩn bệnh cách đường lớn chừng
50 mét, đầy nghẹt những dẫy xe 2 bánh và xích lô đợi đưa đón
người khám bệnh đi ra đi vào tấp nập như chợ Tết. Văn phòng
“đăng ký” khám nghiệm nằm trên lầu một, chúng tôi nối đuôi
theo mọi người đi lên lầu, lấy số đợi, vào ghế ngồi chờ đến lượt
mình. Có 2 Bác sĩ một Nam một Nữ làm việc liên tục không
ngơi nghỉ, khám, ghi bệnh lý vào hồ sơ, và quyết định bệnh nhân
phải làm những thủ tục gì tiếp theo. Có những bệnh nhân hàng
ngày phải đến điều trị gọi là bệnh ngoại trú, có những bệnh nhân
sau khi khám được chấp nhận cho vào nằm trong Bệnh viện điều
trị.

Trong lúc ngồi chờ đợi, Tôi có dịp quan sát cách cư xử của 2
Bác sĩ với bệnh nhân, ông Bác sĩ nói giọng Bắc chính cống chắc
là mới vào Nam sau 30-4-1975 là người khó tính hạch hỏi bệnh
nhân như Công an điều tra lấy cung người phạm tội, còn bà Bác
sĩ tính tình hiền dịu nói năng nhẹ nhàng giọng Bắc pha Nam, có
lẽ sinh trưởng trong miền Nam sau 1954.

Các Cán bộ áp giải Tôi đi ra đi vào hoài nghe chừng sốt ruột
lắm, nhưng cũng thúc thủ chẳng can thiệp được quyền ưu tiên
mặc dù giấy chuyển bệnh của Trại giam Cơ quan ại diện Nhà
Nước ghi lý do “cấp cứu”.

ợi một giờ 30 phút mới đến lượt Tôi, may mắn làm sao gặp
đúng lượt bà Bác sĩ khám, Bà ấy hỏi:

“-Bác đau mắt nào?”

540

Tôi chỉ lên mắt trái. Bà ấy hỏi:

“-Bác không nhìn thấy từ bao giờ?”

Tôi trả lời:

“-Thưa Bác sĩ một năm rưỡi nay rồi”.

Bà ấy dơ ống soi lên chiếu vào mắt Tôi, ghé sát mắt vào nhìn
qua nhìn lại xong bỏ ống rọi xuống nhìn Tôi nói:

“-Sao Bác để lâu thế bây giờ mới đi chữa?”

Tôi chậm rãi trả lời:

“-Thưa Bác sĩ, Tôi là Sĩ quan Chế độ Saigon cũ phải đi cải
tạo, ngay khi phát giác ra mắt trái không nhìn thấy Tôi có tới
Phòng Y tế của Trại giam khám để trình xin đi chữa, nhưng
Trại trưởng không cho, Tôi đành phải chịu. Một năm rưỡi
nay không sao, nhưng trong suốt tuần lễ vừa qua Tôi bị đau
nhức mắt nhức đầu ăn uống ngủ không được. Đến tối hôm
kia, Tôi ăn chút cháo cũng bị làm nôn mửa cả ra máu phải
vào bệnh xá trại tiếp serum vì cơ thể thiếu nước trầm trọng,
nên sáng hôm qua Trại mới cho di tản về đây xin cấp cứu.”

Bà ấy ghi chép những gì vào hồ sơ không biết, xong xuôi đưa
tập hồ sơ cho Tôi và nói:

“-Bác qua bàn giấy phía bên kia, đưa cho ông đang ngồi đó
làm thủ tục nhập viện ngay”.

Tôi cám ơn và cầm hồ sơ đem sang trình ông Tá trưởng, ông
ấy ghim thêm trên hồ sơ mấy mảnh giấy và bảo Tôi đi qua các
phòng khám nghiệm phía trong, khi nào xong đem kết quả trở ra

541

trình ông ấy. Tôi lần lượt vào qua các khu: cân mức nặng của cơ
thể, đo chiều cao, đo áp huyết và nghe động mạch, đo nhãn áp,
lấy máu và nước tiểu để thử nghiệm. Tại chỗ lấy máu người ta
hỏi:

“-Từ sáng đến giờ đã ăn gì chưa?”

Tôi trả lời:

“-Không ăn nhưng có uống sữa”.

Người ta nói:

“-Vậy thì để sáng mai lấy máu ngay trong bệnh viện cũng
được”.

Tôi đem kết quả ra trình ông Tá trưởng, ông ấy xem rồi nói:

“-Anh đi về mai nhịn ăn sáng trở lại lấy máu thử, mấy ngày
sau có kết quả rồi mới cho nhập viện được”.

Tôi giải thích hoàn cảnh của mình và năn nỉ mãi nhưng ông ấy
không chịu và bỏ đi chỗ khác. Không biết phải làm sao, Tôi
quay qua nhìn về phía bàn của bà Bác sĩ thấy bà ta không có
khách liền đến xin gặp. Bà ấy mời ngồi và hỏi:

“-Bác còn cần gì nữa?”

Tôi kể lại những gì đã xẩy ra giữa Tôi và ông Tá trưởng rồi
nói thêm:

“-Thưa Bác sĩ, nhờ bà giúp đỡ cho Tôi, đang là Tù bị giam
tận Trại Z30D vùng quận Hàm Tân tỉnh Thuận Hải nếu hôm
nay ở đây không chấp nhận cho Tôi được nhập viện điều trị,

542

Cán bộ Công An đưa Tôi đến đây sẽ áp giải Tôi trở lại Trại
giam, chẳng biết bao giờ người ta mới lại cho đi nữa”.

Nói đến đây tự nhiên Tôi cảm thấy nghèn nghẹn nơi cổ họng,
phải ngưng lại không nói nữa để kềm giữ cho khỏi bật tiếng
khóc. Chắc bà Bác sĩ cảm thông hoàn cảnh đau khổ của Tôi, Bà
ấy đứng ngay lên bước nhanh đến bàn giấy ông Tá trưởng để
hỏi. Ông ta vẫn một mực khăng khăng không bằng lòng ký hồ
sơ của Tôi. Bà Bác sĩ nói lớn tiếng như khiển trách:

“-Vào trong bệnh viện lấy máu thử cũng được. Mấy bữa
trước đã có trường hợp bệnh nhân bị cườm già quá đổ vào
phía trong làm hư võng mạc không cứu được, cũng vì việc trì
hoãn như vậy không nhớ sao mà còn tiếp tục?”

Rồi bà Bác sĩ cầm lấy hồ sơ ký tên và dẫn Tôi qua bàn giấy của
Dì Phước ngồi gần bên, đưa hồ sơ và nói:

“-Nhờ Ma Sơ (Ma Soeur) làm thủ tục thu tiền và hoàn tất hồ
sơ chẩn bệnh cho ông này nhập viện ngay bây giờ.”

Tôi nghiêng mình kính cẩn nói lời cám ơn bà Bác sĩ. Bà ấy trả
lời không có chi và bỏ đi trở lại bàn giấy riêng.

Cán bộ tế và Cảnh vệ đi theo Tôi đứng gần đó thấy rõ mọi
việc nhưng im lặng không nói gì. Con trai Tôi nộp số tiền phải
đóng cho Dì Phước khoảng 4, 5 trăm đồng bạc Cụ Hồ gì đó Tôi
không nhớ rõ, và chúng tôi đứng chờ. Bà Phước hoàn tất các
giấy tờ, ký giấy biên nhận, rồi nhoẻn miệng cười phúc hậu đưa
hồ sơ cho Tôi với lời chúc may mắn. Tôi cúi người xuống chào
cám ơn rồi cùng Con và các Cán bộ xuống xe đi Bệnh viện.

543

Lần này có giấy giới thiệu nhập viện nên nhân viên phòng an
ninh Bệnh viện mở cổng cho xe chạy vào trong sân đậu. Chúng
tôi tìm đến chỗ Khu Hành Chánh, Phòng Nhận Bệnh làm thủ
tục. Người ta bắt đóng 5 ngàn đồng bạc Cụ Hồ và cấp cho mảnh
giấy giới thiệu vào Khu Nhãn Khoa I ở trên Lầu 1 phía bên cánh
phải của Bệnh viện. Người ta giải thích cho Tôi biết:

“-Số tiền 5 ngàn chỉ là tạm ứng trước để trang trải các phí
tổn công Bác sĩ khám bệnh hàng ngày, phẫu thuật, thử
nghiệm, thuốc men và chỗ nằm tại Bệnh viện trong 7 ngày.
Khi nào xuất viện sẽ tổng kết mọi chi phí quy định cho mỗi
dịch vụ đã thực hiện, nếu thừa sẽ trả lại thiếu phải đóng
thêm. Còn ăn uống bệnh nhân phải tự túc hoặc do gia đình
đem đến hàng ngày, hoặc xuống Câu Lạc Bộ trong Bệnh viện
mua dùng tùy theo nhu cầu”.

Tôi tự hỏi, trường hợp những Tù được di tản cấp cứu không
được may mắn có gia đình đi theo như Tôi, không có tiền thì
chẳng biết Cán bộ đi áp tải giải quyết ra sao? Làm cách nào cho
Tù nhập viện hay áp giải Tù quay trở về Trại giam?

Cha Con Tôi cằm giấy đi trước, 2 Cán bộ lẽo đẽo theo sau. Lên
đến Khu Nhãn Khoa I vào trình giấy cho nhân viên tá, xem
xong cô ấy chạy đi tìm Bác sĩ đến giải quyết. Hai Bác sĩ Nam và
1 Bác sĩ Nữ xem hồ sơ, thay phiên khám mắt của Tôi rồi hỏi:

“-Ai chỉ Bác lên đây?”

Tôi trả lời:

“-Phòng Nhận Bệnh dưới khu Hành chánh”.

544

Họ tụm lại bên bàn Bác sĩ trưởng Khu bàn luận nhỏ với nhau rồi
quay ra nói:

“-Trường hợp của Bác phải lên Khu Nhãn Khoa II”.

Tôi phải đi trở xuống tới Phòng Nhận Bệnh kể lại những điều
Bác sĩ tại Khu Nhãn Khoa I đã nói với Tôi và nhờ giải quyết.
Một nhân viên cằm giấy chạy vào văn phòng Bác sĩ Giám đốc
Bệnh viện, một lúc sau trở ra dẫn Tôi đi lên Khu Nhãn Khoa II ở
trên lầu 2 phía bên cánh trái của Bệnh viện. Cô nhân viên dẫn
Tôi lên đem hồ sơ vào đưa cho tá trong Văn phòng, và quay
ra bảo Tôi ngồi đợi rồi cô ấy đi xuống cầu thang mất hút.

Ngồi đợi thấy nhân viên mặc áo choàng trắng và bệnh nhân đi ra
đi vào Văn phòng hoài, cả tiếng đồng hồ không thấy ai hỏi đến
mình, Tôi đến gõ cửa vào hỏi. Cô tá ngồi bàn giấy cho biết
phải chờ Bác sĩ còn đang bận. Các Cán bộ áp giải Tôi thấy phải
đợi lâu cũng bực mình lắm nhưng không làm gì được, họ đành
dắt nhau đi vòng vòng “tham quan” các Khu trong Bệnh viện.
Thỉnh thoảng họ quay trở lại thăm chừng xem xong chưa chứ
không đứng tại chỗ bên Tôi.

Khoàng mấy phút sau khi Tôi vào hỏi cô tá, thì thấy một Dì
Phước dáng người nhỏ nhắn thấp vẻ mặt trắng trẻo phúc hậu cỡ
ngoài 30 tuổi ở trong Văn phòng đi ra. Dì Phước thấy Tôi ngồi
với người con trai đến gần lên tiếng hỏi chuyện:

“-Nhà Bác ở đâu? Bác đau lâu mau rồi? Có ai đưa Bác đến đây
không?”

Không có các Cán bộ đứng cạnh nên Tôi mạnh dạn thong thả kể
lại cho Dì Phước biết rõ về hoàn cảnh của mình. Bà đưa 2 bàn
tay hiền dịu nắm tay Tôi vỗ vỗ và nói:

545

“-Tội nghiệp! Bác chờ đây, Tôi đi tìm trình Bác sĩ lo cho
Bác”.

Chừng mươi phút sau có 2 Bác sĩ (1 nam, 1 nữ) theo Dì Phước
trở về Văn phòng kêu Tôi vào “làm việc”. Họ xem hồ sơ, khám
mắt, rồi hỏi thêm nhiều chi tiết về các bệnh tật mãn tính mà Tôi
có từ năm nào? đã được điều trị như thế nào? Có cơ phận nào
trong cơ thể phải giải phẫu bao giờ chưa? có bị dị ứng với loại
thuốc nào không?... Sau cùng, dặn Tôi:

“-Sáng sớm mai phải nhịn đừng ăn uống gì để xuống Phòng
Thí nghiệm lấy máu thử sau đó mới được ăn. Thứ Năm sẽ
mổ”.

Xong thủ tục, Tôi ra khỏi văn phòng Bác sĩ vừa đúng lúc các
Cán bộ trở lại. Tôi được dẫn đến phòng số 4, cả 4 giường xếp
dọc 2 bên tường đều đã có bệnh nhân nằm chỉ còn một khoảng
trống chính giữa phòng kê một bàn vuông và 4 chiếc ghế. Dì
Phước và cô tá đi hướng dẫn Tôi nói:

“-Sẽ để một chiếc ghế bố thấp cho Bác nằm đỡ giữa phòng
qua đêm nay, sáng mai người nằm giường bên cạnh cửa kia
xuất viện Bác sẽ nằm lên chỗ đó”.

Thấy Tôi được nhập viện có chỗ nằm xong xuôi, Cán bộ tế
nói:

“-Ông X ở đây với anh đến khi nào xuất viện, ông ấy sẽ lo xe
đưa anh về”.

Nói xong Cán bộ tế ra đi chỉ còn lại Cha Con Tôi và Cán bộ X
ở lại trong phòng với 4 bệnh nhân cũ và thân nhân của họ.

546

Lúc đó cũng gần 1 giờ trưa, Tôi bảo cậu con đưa Cán bộ X
xuống Câu Lạc Bộ dùng bữa trưa. Ông ấy bảo Tôi cùng đi một
lượt, hiểu ý nên dù mệt Tôi vẫn phải cố gắng lết xuống cầu
thang 2 tầng lầu theo ông ấy ra Câu Lạc Bộ ở góc sân sau của
Bệnh viện. ây là một dẫy nhà bếp cũ khá rộng, một nửa có các
dàn bếp nấu bằng ga bằng điện hiện không dùng, nửa kia có lẽ
trước là kho chứa thực phẩm nay được sửa sang lại thành Câu
Lạc Bộ, trang trí đẹp mắt với nhiều bàn ghế đủ chỗ cho 50 người
ăn cùng một lúc. Thực khách phải đứng xếp hàng tại quầy ghi
nhận đơn đặt món ăn, trả tiền, lấy phiếu và đứng chờ. Nhà bếp
sửa soạn món ăn theo thứ tự đặt hàng, khi nào xong họ đọc lớn
tiếng món ăn đặt mua. Nếu là món mình đặt thì tới đưa phiếu đã
trả tiền, nhận món ăn, tự mang ra phòng ăn kiếm chỗ ngồi. Câu
Lạc Bộ mở cửa từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối, bán đủ thứ: cơm đĩa,
cơm bữa, phở, mì, hủ tiếu, bánh mì, các loại kẹo bánh ngọt,
nước uống đóng chai, trái cây tươi, thuốc lá, giá cả cũng tương
tự như ngoài phố.

Phía ngoài hàng rào phía trước Bệnh viện ở bên kia đường cũng
có các quán lợp mái tôn, xe đẩy, gánh hàng rong, bán đủ thứ đồ
ăn và nước uống suốt ngày đêm. Ai không muốn ăn trong Câu
Lạc Bộ, người nhà ở nuôi bệnh có thể ra mua đem vào phòng
dùng y như trường hợp đem từ nhà vào vậy.

Chúng tôi ăn xong trở lên phòng bệnh, đã thấy chiếc bàn giữa
phòng được chuyển để nằm sát một bên tường giữa 2 đầu
giường, 4 ghế để cạnh mỗi giường một chiếc. Một chiếc ghế vải
bố dài 2 mét rộng 70 phân được đặt nằm chình ình giữa phòng
ngay dưới chiếc quạt máy và bóng đèn treo lơ lửng trên trần nhà,
trên giường có 1 mền 1 gối và bộ quần áo đồng phục bệnh nhân

dành cho Tôi.

547

Tôi nói nhỏ với Cán bộ:

“-Ở đây không có chỗ cho Cán bộ ở bên Tôi ngày đêm, Cán
bộ đã thấy nơi cư ngụ của Vợ Con gia đình Tôi, không lý do
gì Tôi lại dại dột mà trốn nên Tôi đề nghị Cán bộ cứ yên tâm
đến nhà chúng tôi mà ở. Trong suốt thời gian Tôi nằm điều
trị tại đây, việc ăn uống của Cán bộ hàng ngày cũng như Cán
bộ cần tiêu pha mua bán gì gia đình Tôi sẽ lo lắng đầy đủ.
Xin Cán bộ cứ tự nhiên đừng thắc mắc gì”.

Ông ấy suy nghĩ một lúc rồi nói:

“- ược rồi anh cứ yên tâm nằm chữa bệnh”,

rồi ông ấy cùng Con trai Tôi rời bệnh viện.

Hai người đi rồi, Tôi vào phòng vệ sinh thay quần áo bệnh nhân
xong trở ra nằm dài trên ghế bố và phủ chiếc áo sơ mi che mắt
cho không bị chói cố gắng dỗ giấc ngủ giữa tiếng trò chuyện ồn
ào của bệnh nhân và thân nhân của họ ở cùng phòng. ang lơ
mơ chưa ngủ được thì Dì Phước tới phòng lên tiếng:

“-Ông Hùng Thuận Hải đã báo cho gia đình biết được nằm
tại đây chưa?”

Tôi ngồi nhỏm dậy nói:

“-Thưa Sơ, sáng nay con trai Tôi đi theo đã về nhà báo rồi,
cám ơn Sơ.”

Dì Phước đưa cho Tôi một tấm phiếu và dặn:

“ Sáng sớm mai xuống Phòng Thí Nghiệm để người ta lấy
máu thử rồi trở lên hãy ăn sáng”.

548

Tôi đưa tay nhận tấm giấy và nói:

“-Cám ơn Sơ nhiều lắm. Xin Chúa gìn giữ và ban nhiều ơn
phước cho Sơ”.

Vừa đúng lúc Dì Phước quay ra thì 2 cậu Con trai đem thức ăn
bữa chiều đến cho Tôi. Chúng cúi đầu chào Dì Phước và Tôi
giới thiệu đôi bên với nhau, Dì Phước nói:

“-Các Con biết lo lắng cho Cha như vậy là tốt lắm. Chúa sẽ
đền ơn trọng bội cho các Con”.

Các Con tôi chắp tay cúi mình cám ơn Dì Phước và nói:

“-Bố chúng con nằm đây có gặp khó khăn gì xin Sơ thương
tình giúp đỡ”.

Dì Phước gật đầu. Một trong 2 người hỏi tiếp:

“-Thưa Sơ, Bác sĩ Trưởng Khu này tên gì vậy?”

Dì Phước trả lời:

“-Bác sĩ Nam, một Bác sĩ Quân Y cũ”,

nói xong Dì Phước rời khỏi phòng bệnh ngay.

Cậu con nhỏ của tôi nói cho biết:

“-Bác sĩ Nam có phòng mạch riêng tại Quân Phú Nhuận, là
người quen thân của bà Cán bộ Tập kết trở về đang làm Bí
Thư Đảng Bộ Quận Phú Nhuận. Thân nhân của bà ấy là Chủ
nhiệm Tổ hợp sản xuất mành trúc, hiện cậu ấy đang làm công
nhân trong Tổ hợp và được ông Chủ nhiệm rất thương mến.

549

Để cậu ấy đi về ngay gặp ông Chủ nhiệm nhờ bà Cán bộ gửi
gấm vơí Bác sĩ giúp đỡ kịp thời khi cần thiết”.

ến tối cậu ấy trở lại ngủ trong Bệnh viện bên Tôi và cho biết:

“-Mọi việc đã xong, sáng mai Bác sĩ Nam sẽ đích thân khám
mắt cho Bố và ông ta sẽ đích thân làm phẫu thuật. Sau khi
mổ, ông ấy sẽ cho Bố nằm điều trị đủ 21 ngày mắt lành hẳn
cắt chỉ xong xuôi mới phải xuất Viện, nhưng phải giữ kín
đừng nói cho ai biết. Trường hợp chung của các bệnh nhân
khác thì sau khi mổ chỉ được ở lại Bệnh viện 7 ngày để Bác sĩ
theo dõi và sau đó phải xuất Viện về nhà, và trong 3 tuần lễ
kế theo mỗi tuần phải đến Bệnh viện khám một lần cho đến
khi đủ 21 ngày thì sẽ thực hiện việc cắt chỉ và đo mắt làm
kính”.

Trong Khu Nhãn Khoa II có cả thảy 3 Bác sĩ hàng ngày thay
phiên nhau khám và cấp thuốc điều trị cho các bệnh nhân nội trú
của Khu. Sáng hôm nay lúc mới nhập viện Tôi mới chỉ được gặp
có 2 người, còn Bác sĩ Nam Trưởng Khu đang bận thực hiện ca
mổ nên Tôi chưa được gặp.

Sáng hôm sau Bác sĩ Nam khám mắt cho Tôi và đặc biệt ông ấy
cấp phiếu giới thiệu Tôi sang Khu Tim Mạch khám bổ túc vì
Tim của Tôi đập loạn nhịp cần xác định trước khi quyết định mổ
mắt. Tôi cầm giấy đi sang Khu Tim Mạch ở bên cánh phải cùng
một tầng lầu với Khu Nhãn Khoa II. Tại đây Bác sĩ trưởng Khu
Tim Mạch và mấy Bác sĩ phụ tá thay phiên nhau đặt ống nghe,
khám đi khám lại rất kỹ. Sau khi bàn luận với nhau, Bác sĩ
trưởng Khu cấp giấy giới thiệu cho Tôi ra Trung tâm chuyên
khoa đo tim mạch bằng máy điện tử ở gần bệnh viện Bình Dân
tại Khu Bàn Cờ để làm ECG tức là iện Tâm ồ. Ngay sau bữa

550


Click to View FlipBook Version