The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

bị “bán thân bất toại” và nói ngọng. Một thời gian sau được tha
về đoàn tụ với gia đình và đã qua đời tại Phú Nhuận Saigon.
Chẳng biết sau này Vợ Con của anh Chung có được Chính phủ
Hoa Kỳ chấp nhận cho đi định cư tỵ nạn theo diện H.O. hay
không?

XÓM HOÁN BÙ.

Sửa đường xuyên xóm Hoán Bù,
Phùn giăng Bấc thổi mịt mù rừng hoang.
Tranh nghèo mươi mái chắn ngang,
Thành phần Đảng buộc bỏ làng đến đây.
Xưa kia Cha ruột theo Tây,
Thuộc dòng “Tư Sản” phải đầy cách Dân.
Dăm năm chuyển chỗ một lần,
Thâm sơn cùng cốc, trước gần sau xa.
Quần quây Nam, Nữ, Trẻ, Già,
Bên nhau cả Họ tham gia cuốc cầy.
Thiếu nhi tuổi trẻ thơ ngây,
Gom phân, cắt cỏ hàng ngày định công.
Tuổi già sáu chục lưng còng,
Trăn trâu, giữ trẻ, vợ chồng chia lo.
Sắn, ngô độn bữa đói no,
Thân choàng áo đụp co ro cơ hàn.
Ốm đau, lá ngải xông than,
Mệnh chung, chiếu cuộn xác quàn bờ gai.
Sống nay chẳng biết đến mai,
Cuộc đời tăm tối, nào ai thấu cùng?
Tiếng than dâng thấu Thiên Cung,
Hỡi Trời! thấy cảnh não nùng này chăng?

351

Xuân Tân Dậu-1981.
Trên đường đi K3, Trại Thanh Phong, Như Xuân, Thanh
Hoá.

Chương 28.
NHỮNG NGÀY THÁNG CUỐI,
LƯU ĐẦY CẢI TẠO TẠI MIỀN BẮC VĨ TUYẾN 17

Kiếp sống Tù Cải tạo lao động khổ sai buồn thảm cứ vất vưởng
lặng lẽ trôi theo thời gian giữa rừng già trong dải Trường Sơn.
Nhưng các bà Vợ Tù lại hăng hái gan dạ không ngại gian lao
khổ cực đường xa núi thẳm rừng sâu khe suối gập ghềnh, tìm
đến thăm nuôi chồng tấp nập tại K2 Trại Thanh Phong. Hầu như
ngày nào cũng có bốn năm Bà thay phiên nhau chiếm ngụ Khu
Nhà Thăm Nuôi đợi gặp chồng.

Riêng phần Tôi đã biết rõ hoàn cảnh và sức khoẻ của Vợ Con,
nên luôn luôn bình tâm chờ đợi những gói Bưu kiện hàng tháng
và ngày hết cơn đại nạn ra khỏi Trại Tập Trung cùng Vợ Con đi
định cư lập lại cuộc đời, ngoài cái nhà tù khổng lồ Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam dưới quyền thống trị bạo tàn của ảng
Việt Cộng này.

Mỗi buổi chiều đi lao động về trong khi các ội đứng xếp hàng
trước cổng đợi đến lượt vào khu giam, không ai bảo ai hầu như
mọi người đều hướng mắt về Khu Nhà Thăm Nuôi quan sát như
chờ trông một phép lạ sắp xẩy ra. Khi thấy bóng chiếc xe tải của
K1 chạy tới, mọi người reo ồ lên:

“Tới rồi! Tới rồi!”

352

khiến Cán bộ Trực Trại phải giật mình xửng sốt hỏi:

“-Cái gì, cái gì mà ồn ào vậy?”

Nhưng sau khi được anh Trưởng Ban Thi ua giải thích lý do,
Cán bộ nhe răng cười không nói gì.

Các Tuyên Úy Phật giáo lẻ tẻ cũng có người được thăm nuôi, có
Vị được thân nhân thăm nuôi, có Vị được Phật tử nơi Chùa mình
trụ trì hồi trước khi đi trình diện học tập đến thăm nuôi. Riêng
đối với Thượng Tọa Thích Thanh Long Giám đốc Nha Tuyên úy
Phật giáo, được Phật tử của Chùa Giác Ngạn nơi Ngài Trụ Trì
trước 30-4-1975 đến thăm nuôi cũng như gửi Bưu kiện tiếp tế
rất đều hòa.

Mỗi lần Thượng Tọa Thanh Long nhận được tiếp tế thì các ại
ức theo nhau lén tới thăm, mỗi người tùy nhu cầu được tự do

chia nhau lấy những món quà của Thầy, ngoại trừ thuốc lào
không ai dám động tới vì biết đó là nhu cầu duy nhất mà Thầy
cần. Rút cuộc Thầy chẳng còn gì, y như chưa hề được thăm nuôi
hay nhận Bưu kiện.

Mỗi khi có dịp cho các đệ tử đến chia nhau “xỉa” quà như vậy,
Tôi quan sát thấy nét mặt của Thượng Tọa Thanh Long rạng rỡ
hẳn ra, chắc là trong tâm Ngài đang rộn rực hoan hỉ vì đã đem
lại niềm vui cho những người khác. Thật là một gương sáng về
lòng Từ bi Hỉ xả của một nhà Tu hành chân chính làm Tôi thán
phục vô cùng.

Những năm 66 và 67 Tôi làm Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy
Trung Ương ịa Phương Quân và Nghĩa Quân ( PQ & NQ) tại
Saigon, Thượng Tọa Thanh Long là Tuyên Úy trưởng của các
Tuyên úy ịa Phương Quân & Nghiã Quân trên toàn 4 Vùng

353

Chiến Thuật tại BCH Trung Ương PQ và NQ. Trong giai đoạn
Phật Giáo xuống đường đấu tranh thời Tướng Nguyễn Cao Kỳ
làm Chủ Tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương, Thượng Tọa
Thanh Long đã giúp Tôi hoàn thành một công tác vô cùng khó
khăn lúc bấy giờ ngay tại Viện Hóa ạo ở đường Trần Quốc
Toản Saigon. Từ đó về sau Thượng Tọa và Tôi càng thêm thân
thiết, y như Ngài là Thầy đỡ đầu cho Tôi Quy Tam Bảo vậy.

ầu đuôi câu chuyện như thế này:

“Khắp trên toàn miền Nam Việt Nam, Phật tử dưới sự lãnh
đạo của một số Tăng Ni tranh đấu chống Chính phủ xuống
đường thường xuyên ngày đêm. Đặc biệt tại Saigon, Viện
Hóa Đạo ở đường Trần Quốc Toản được coi là trụ sở Trung
ương lãnh đạo Phong trào, các Đại Lão Hoà Thượng,
Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử và quần chúng hiếu
kỳ ra vào tấp nập suốt ngày đêm.

Một buổi sáng, đúng vào lúc cao điểm người và xe cộ đang
vội vã chen nhau đi làm, đi học, đi chợ búa cho kịp giờ. Bỗng
dưng, có một xe vận tải của Quân lực Hoa Kỳ chạy ngang
trên đường Trần Quốc Toản, khi xe tới gần trước cổng Viện
Hóa Đạo đang có đồng bào Phật tử tụ tập di chuyển hỗn độn
đầy cả mặt đường đến bu quanh chiếc xe, làm người lính
Đồng Minh Hoa Kỳ ngồi bên tài xế sợ hãi nổ súng chỉ thiên
hướng ra phía trước, với hy vọng làm cho mọi người giật
mình tránh sang 2 bên đường cho xe chạy qua. Nhưng không
may, một viên đạn lạc trúng nhằm người đàn ông cưỡi xe gắn
máy gục ngã ngay bên lề đường phía gần Chợ Cá Trần Quốc
Toản. Mọi người giạt sang bên cho chiếc xe chạy qua, rồi
xúm nhau khiêng người bị nạn vào bên trong Viện Hóa Đạo
để cấp cứu, nhưng không kịp và ông ta đã chết.

354

Một lúc sau tin tình báo cho biết, người đàn ông mặc thường
phục gặp nạn ấy là một Chiến sĩ Địa Phương Quân thuộc
Tỉnh Biên Hoà. Cùng lúc đó Tôi nhận được điện thoại từ văn
phòng Tham Mưư trưởng Liên quân Bộ Tổng Tham Mưu, ra
lệnh cho Bộ Chỉ huy Trung Ương ĐPQ và NQ (trụ sở ở tại
đường Hùng Vương Chợ Lớn) phải nhờ Tuyên Úy Phật Giáo
của Bộ Chỉ Huy là Thượng Tọa Thích Thanh Long giúp can
thiệp đem xác Chiến hữu này ra khỏi Viện Hóa Đạo, để tránh
việc Ban tranh đấu lợi dụng xác chết làm rùm beng gây thêm
chuyện khó khăn cho Chính Phủ Nguyễn Cao Kỳ. Lệnh ra
phải tức tốc thi hành và báo cáo kết quả lên Bộ Tổng Tham
Mưu trong thời gian sớm nhất.

Là Tham Mưu trưởng của Bộ Chỉ huy Trung ương ĐPQ &
NQ, Tôi phải cử ngay người lên tận Biên Hoà tiếp xúc với
thân nhân của người Chiến hữu bất hạnh để trấn an, và yêu
cầu Bộ Chỉ huy ĐPQ và NQ Biên Hoà cho người canh chừng
không cho ai có cơ hội đến tiếp xúc với gia đình nạn nhân
mua chuộc lợi dụng. Đồng thời Tôi phải đích thân chạy tới
nơi cư ngụ của Ban Tham mưu các Thầy lãnh đạo Viện Hóa
Đạo trong Khu Bàn Cờ tìm gặp Thượng Tọa Thích Thanh
Long, nhờ tiếp xúc giàn xếp giúp cho Tôi diện kiến Thượng
Tọa Thích Tâm Châu để trình bầy xin giúp đỡ tránh trường
hợp những phần tử quá khích lợi dụng xác chết làm lớn
chuyện. Thượng Tọa Tâm Châu không có mặt tại đó, Thượng
Tọa Thanh Long phải lên xe mở đường dẫn Tôi vào Viện Hóa
Đạo để tìm Thượng Tọa Tâm Châu xin diện kiến.

Thoạt đầu chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn, Thượng Tọa
Thanh Long phải đích thân đi gặp hết Thầy này đến Thầy kia
qua lại cả giờ đồng hồ sau mới được diện kiến Thượng Tọa

355

Tâm Châu. Sau khi nghe trình bầy cặn kẽ mọi khía cạnh của
sự việc, Ngài suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu thông cảm hoan hỉ
giúp đỡ chúng tôi. Nhờ thế vào lúc nửa đêm ngày hôm đó,
chúng tôi đã dùng xe Quàn Mai Táng của ĐPQ & NQ có anh
em Nhẩy dù đi theo hộ tống, không mở đèn chạy lén vào
đường cổng hậu của Viện Hóa Đạo đem xác Chiến hữu xấu
số ra khỏi vòng vây của hàng ngàn người đấu tranh lúc nào
cũng tấp nập ra vào tràn ngập Viện Hóa Đạo.”

Cuối tháng 4 năm 1982 Tôi được rời Trại Thanh Phong chuyển
về Nam, Thượng Tọa Thanh Long bị đưa trở ra vùng đồng bằng
Bắc Việt. Ngài được tha ra khỏi trại tập trung trước Tôi mấy
tháng, trở về tiếp tục tu tại Chùa Giác Ngạn ở Phường 10 Quận
Phú Nhuận Saigon. Ngài đã qua đời ngày 22 tháng 10 năm 1991
(Tân Mùi) vì bệnh hoạn, hậu quả của mười mấy năm chịu đọa
đầy trong các Trại Tập trung cải tạo của Cộng sản Việt Nam.

Phần các Tuyên Úy Công giáo, việc thăm nuôi tiếp tế được các
Toà Giám Mục và Tổng Giám Mục tổ chức quy củ hơn. Ngoài
những Bưu kiện nhận được hàng tháng, các Ngài còn được Toà
Tổng Giám Mục cử các Dì Phước đến thăm nuôi Vị Linh Mục
cao niên để trao vật phẩm tiếp tế. Vị này nhận lãnh đem vào Trại
chia lại cho các Linh Mục khác cùng hưởng. Các Dì Phước được
tổ chức xin đi thăm nuôi dưới danh nghĩa thân nhân, chớ không
nhân danh đại diện Toà Tổng Giám Mục. Do đó Cán bộ Cộng
sản ác tâm xấu miệng phê phán rằng:

“-Thầy Chùa, Cha Cố đi tu mà cũng có vợ có con như mọi
người thường?”

Việc thăm nuôi Tù càng tấp nập, tin tức về Chương trình Hoa
Kỳ vận động giải thoát Tù Chính trị miền Nam càng được cập

356

nhật, đem lại niềm tin và tinh thần phấn chấn cho anh em tiếp
tục chịu đựng đợi chờ ngày được giải phóng. Mọi nét ưu tư bi
quan xưa nay hằn trên khuôn mặt mọi người tiêu tan hết, và hình
như trong những giờ lao động cực nhọc không còn ai cảm thấy
là đang bị hành hạ vất vả nữa.

Cán bộ không còn kiểm soát gắt gao như những năm trước
1980. Hệ thống “ăng ten” của Trại hình như cũng được chỉ thị
giảm cường độ hoạt động, có lẽ Việt Cộng muốn tránh trường
hợp sau này các “ăng ten” của họ bị vạch mặt chỉ tên hoặc bị trả
thù bởi các Cựu Tù nhân Chính trị đi định cư lưu vong nơi hải
ngoại.

Vào giờ thứ 25 này anh em cũng chẳng còn e ngại bao nhiêu,
nên trong giờ nghỉ thường lén qua lại giữa các Láng để thăm
nhau, trò chuyện, ăn uống, trao đổi tin tức. ặc biệt vào những
ngày Chủ Nhật và nghỉ Lễ, những Bạn dư giả đồ tiếp tế của gia
đình thường bầy vẽ tổ chức nấu nướng biến chế các món ăn theo
sở thích, mời dăm bẩy Bạn thân tới cùng đánh chén chuyện trò
vui vẻ. Lần nào cũng không quên mời một Bạn có trí nhớ tốt
tham dự, để sau khi ăn bạn ấy kể những truyện kiếm hiệp của
Kim Dung, hoặc truyện ông Châu Liệt quốc, Tam quốc chí,
Tây du ký... cho mọi người nghe giải trí giết thì giờ rảnh rỗi.

Thông cảm nỗi khó khăn của các Vị ại ức trẻ không có quà
cáp, Tôi thường lấy các thực phẩm khô do gia đình tiếp tế như:
tôm khô, nước mắm khô, mứt cà chua, mì ăn liền, miến, sữa bột,
bột đậu xanh và đường, góp cùng các Vị trồng được các luống
rau “cải thiện” hoặc có sắn tươi do Cán bộ “bồi dưỡng” nhờ “lao
động năng nổ” để biến chế các món ăn đặc biệt cùng nhau
thưởng thức. Những lần như vậy, chúng tôi không quên nấu

357

miến chay có rau và mộc nhĩ nêm bột ngọt để biếu Thầy Thanh
Long chia sẻ niềm vui “bồi dưỡng”.

Thầy Thanh Long không bao giờ ăn mặn, phần thịt, cá, hoặc
mắm được Nhà Nước tăng cường cho các bữa ăn trong những
ngày ại Lễ và Tết đều được Thầy cho người khác lãnh mà
dùng. Nhưng đối với các ại ức trẻ, Thầy rộng lượng răn rằng:

“-Giữ gìn ý chí cao để tiếp tục Tu hành trong những lúc khó
khăn như thế này mới là điều quan trọng. Nhưng trong giai
đoạn hiện tại, việc Trai Giới có thể tùng biến tùy theo cái
nghiệp và sức chịu đựng của mỗi người để duy trì mạng
sống.”

Tháng 6 bắt đầu mùa mưa lũ hàng năm, có khi mưa suốt đêm
đến sáng thì tạnh, có khi mưa kéo dài từng cơn ròng rã 2, 3 ngày
mới dứt. Con sông và các suối nhỏ hồi chiều tối còn cạn queo,
qua một đêm mưa đến sáng đã tràn trề mênh mông nước lũ cuồn
cuộn chảy, cuốn theo những cây rừng bật gốc, những bụi chuối
rừng, những khóm khoai mì... Diện tích trồng rau bên bờ sông bị
ngập hơn phân nửa, nhiều luống rau bị nước cuốn đi chẳng còn
vết tích gì.

Trong mùa mưa bão đi lao động thật là một cực hình, lúc phải
dãi nắng chói chang oi nồng muốn ngộp thở, lúc lại dầm mưa
xối xả như thác đổ lên người ướt sũng từ đầu đến chân lạnh
cóng.

Khoảng giữa tháng 7 năm 1981 bỗng dưng Trời âm u mấy ngày
liền, tiếp theo là những cơn mưa rừng tầm tả đổ xuống, nước
sông dâng cao nhưng vẫn phải đi lao động.

358

Vào nửa đêm 14 tháng 7 cơn bão nhiệt đới đầu tiên trong năm
ập tới tàn phá toàn vùng, từng đợt gió thét ù ù xé không gian làm
náo động như có những đoàn phản lực cơ đang bay ngang, khiến
mọi người tỉnh giấc bàng hoàng sợ hãi.

Tôi nằm trên xạp ngủ tầng cao sát mái nhà, cảm thấy sợ hơn
những người nằm ở xạp dưới gần mặt đất. Mỗi lần nghe tiếng
gió gầm ù ù nho nhỏ từ đàng xa rồi lớn dần, dẫy nhà bị xô
nghiêng đi kêu răng rắc. Khi những miếng tôn trên mái nhà bị
giật kêu rầm rầm xoảng xoảng, là lúc đợt gió đang thổi qua đầu.
Lúc tiếng ầm ầm ào ào xa dần và im bặt, dẫy nhà bị đẩy ngược
lại đu đưa kêu cót két như muốn xập đổ. Thật khủng khiếp!

ợt gió đầu tiên đi qua, Láng của chúng tôi có miếng tôn trên
mái bị bứt đanh bay đi mất. ợt gió tiếp theo bóc thêm 2 miếng
nữa tạo thành một lỗ hổng khá lớn ở khúc giữa nhà, mưa gió lùa
vào trong nhà xối xả làm ướt hết mùng mền chiếu đồ đạc, người
cũng bị ướt lạnh lo sợ run như cầy sấy. Một số anh em gan dạ
phải hiệp sức gỡ dây kẽm cột màn dọc kệ nằm tầng trên, leo lên
giàn nóc nhà tìm cách cột giữ những miếng tôn chung quanh lỗ
hổng cho những đợt gió sau không bóc thêm. Những người gan
dạ tự nguyện xông xáo làm cái việc vô cùng nguy hiểm này là
các bạn ại tá Dương Hiếu Nghĩa, Trịnh ình ăng, và Hoàng
Trọng Trị.

Hoàn cảnh lo âu sợ xệt này làm Tôi hồi tưởng nhớ những năm
đầu Thập niên 1940, phi cơ chiến đấu của Hoa Kỳ từ Trung Hoa
lục địa bay sang Lạng Sơn oanh kích thả bom phá các trụ sở
Quân Phiệt Nhật ở lẫn lộn trong các khu cư ngụ của dân chúng
trong thành phố. Lúc đó Tôi là Hướng ạo Sinh tham gia công
tác “giúp ích” nên đã phải đeo khăn quàng Hướng ạo vào cổ
chạy trên đường phố băng qua các hầm trú ẩn, để tiếp tay các

359

đoàn y tế băng bó tiếp cứu di tản các nạn nhân bị thương máu
me bê bết đầy người. Nhưng chưa hề cảm thấy sợ hãi như trong
những giây phút thịnh nộ của Thiên nhiên tại K2 Thanh Phong
trong cái đêm “cát tó duy dê” 14 tháng 7 năm 1981 này. Thật
kinh hoàng chẳng bao giờ Tôi quên được!

Chừng 3 giờ sáng cơn bão dứt, dưới ánh sáng tù mù của chiếc
đèn chai dầu hôi treo lửng lơ dưới khung cửa phòng vệ sinh nơi
cuối Láng, anh em chúng tôi thu vén lại chỗ nằm và ngủ thiếp đi
vì mệt mỏi.

Sáng hôm sau được mở cửa ra đi lao động, mới thấy rõ sức
mạnh tàn phá hung tàn của trận bão. Trong khu giam Tù, những
Láng nằm về phía Tây và Tây Nam thế đất thấp bị nước dâng
ngập ngang bụng.

Những người nằm xạp ngủ sát đất phải leo lên tá túc trên xạp
cao. ồ đạc thực phẩm khô do nhà tiếp tế chuyển lên không kịp
bị ướt sũng thấm nước phân từ các thùng chứa trong phòng vệ
sinh nổi lên trôi ra, coi như hư hỏng trăm phần trăm. Có đôi
người tiếc của mồ hôi nước mắt do Vợ Con chắt chiu tần tiện
từng đồng mua gửi cho, nên đem phơi khô để dung vì bỏ đi sợ
“phí của Trời, mười đời không có mà ăn”. Thật tội nghiệp!

Gần nhà Bếp của trại giam có một cây lim cao bị bật gốc đổ nằm
dài giữa 2 Láng, ngọn với cành lá um tùm choáng hết khoảng
đất trống bên Hội trường nên đã không gây thiệt hại gì cho
người và của. Thật may cho ội nhà Bếp. Hội trường vì các
tường phên chung quanh có nhiều cửa sổ rộng với những mảnh
liếp kéo lên hạ xuống không kín chắc, nên bị gió luồn vào bóc
cuốn đi nhiều miếng tôn làm mái hư hại nặng. Có miếng bị gió
cuốn băng ra ngoài hàng rào Khu giam, rớt rải rác trên đường

360

hoặc mắc trên các tàn cây cao. Cũng có miếng rớt ngay trong
sân hoặc xuyên kẹt trên hàng rào gần bên cổng trại giam. Cách
cổng trại giam Tù chừng 500 mét vào khúc giữa con đường đi
tới Khu nhà Cán bộ ở, có một cây cổ thụ cao trên 50 mét gốc to
cỡ 7 người dang tay ôm, thân cây phiá trên cao chia ra 2 nhánh
bị bẻ gẫy một dính đùng đưa ngọn gục là là mặt đất. Ai cũng sợ
chẳng dám đến gần, thế mà anh em ội Lâm Sản phải làm đủ
mọi cách trèo lên đốn cho rơi xuống. Trên suốt dọc đường ra
“hiện trường lao động” của các ội, cây đổ ngổn ngang nhà lô
tốc mái xiêu vẹo, sông suối nước đục ngầu tràn bờ cuồn cuộn
chảy.

Trại làm báo cáo lên Nhà Nước là tài sản hoa mầu thiệt hại 100
phần trăm. Một đợt “thi đua khắc phục Thiên tai, đón mừng
ngày ại lễ 2 tháng 9” lập tức được tung ra. Mọi người phải
“khẩn trương” dọn dẹp tu sửa những đổ nát hoang tàn do cơn
bão để lại, và tích cực gia tăng trồng hoa mầu gấp rút trong suốt
2 tháng trời.

“Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, vừa mừng Lễ ộc Lập
xong một Thiên tai thứ 2 lại ập tới vào ngày 19 tháng 9. Lần này
mưa tàn bạo hơn gió, mới chỉ có một ngày một đêm mà nước lũ
đổ về mênh mông. Trong trại giam Tù, những Láng ở vùng thấp
nước ngập lưng chừng nhà mấp mé ngang xạp nằm tầng trên,
chỉ còn mấy dẫy gần sát cổng và Nhà Bếp thì nước chưa dâng
tới. Mọi Tù bị giam trong các Láng bị ngập được lệnh quăng đồ
đạc lên xạp tầng cao, và tản cư tới các dẫy nhà chưa bị ngập sát
bên cổng trại cạnh sân tập họp để tá túc. Nhóm Tù Hình Sự di
tản tập trung trong Hội trường gần khu nhà bếp.

Nước dâng thật nhanh, lúc đó là sau giờ điểm danh tối, mọi
người đang bị giam trong các Láng cửa khóa trái bên ngoài.

361

Chúng tôi nhìn qua cửa sổ và khe vách liếp quan sát thấy các
Bạn cư ngụ tại các Láng phía Tây bị ngập tản cư ngang. Người
cuối cùng của nhóm tản cư vừa đi qua xong thì nước đã theo
chân họ dâng đến tận nền Láng ở của chúng tôi, và chỉ khoảng
10 phút sau tràn vào trong nhà dâng cao đến đầu gối chân. Các
thùng chứa phân trong phòng vệ sinh nổi lên lềnh bềnh trôi sang
khu ngủ trong Láng. Chúng tôi tự động tiếp tay nhau chuyển đồ
đạc của các Bạn nằm ở xạp dưới lên xạp trên vừa xong, thì Cán
bộ Trực Trại đến mở cửa hối “khẩn trương” quăng hết đồ đạc
lên xạp ngủ tầng trên và di tản ngay qua dẫy nhà ngay bên kia
sân tập họp, khu cao nhất trong trại giam.

Trời vẫn mưa tầm tã không ngớt. Láng chúng tôi gồm gần 100
người được dồn vào tá túc trong một Láng cũng đang chứa
khoảng gần 100 bạn Tù khác. Chen nhau ngồi chặt cứng như
nêm đầy cả 2 tầng xạp ngủ sát đất và trên cao.

Khoảng nửa đêm mọi người đang thiu thiu ngủ, có tiếng loạch
xoạch mở kh cửa, Cán bộ Trực Trại, Quản Giáo Dội, và Thi ua
ập vào chiếu đèn pin lia lịa điểm danh từng ội trong Láng. Lúc
đó mới biết là nước đã dâng ngập sân tập họp và đang tràn vào
nền nhà nơi chúng tôi tá túc. Trong khi Cán bộ điểm danh, nước
từ từ dâng cao ngập bàn chân rồi đến nửa ống quyển chân.
Chúng tôi hoang mang suy nghĩ nhưng không giám nói ra:

“-Cứ cái đà này, không biết nước sẽ còn dâng lên đến đâu?
Liệu có được di tản lên vùng đất cao khu Cán bộ ở không?
Cả K2 gồm khoảng 5, 6 trăm Tù, Hội trường Khu Cán bộ nhỏ
xíu làm sao đủ sức chứa?”

May thay, nửa giờ rồi một giờ trôi qua nước lên gần xấp xỉ mặt
xạp nằm tầng dưới thì ngưng lại không dâng tiếp.

362

Kiểm tra xong Cán bộ đi ra, cửa Láng được khóa lại, tiếng mưa
tiếp tục gõ rào rào trên mái tôn. Khi ánh đèn của Cán bộ vừa
khuất, từ chỗ anh ội trưởng nằm cạnh bên cửa bắt đầu có
những tiếng thì thầm truyền tai nhau cho biết là, có một anh
thuộc ội Nhà Bếp vắng mặt nên mới có cuộc đi các Láng kiểm
tra nhân số từng ội.

ến giờ điểm danh sáng, Cán bộ mở kHóa các Láng cho Tù ra,
nước lụt đã rút ra khỏi vòng rào Trại để lại một lớp bùn sền sệt
nâu xám ngập cổ chân. Anh em không phải ra ngoài lao động,
được ở trong trại thu dọn sạch sẽ. Nhờ dấu bùn còn ghi lại trên
vách phên, mới biết Láng chúng tôi bị nước ngập cao khoảng 1
mét. Trong nền nhà và trên mặt xạp ngủ tầng dưới bị phủ một
lớp bùn dầy nhão nhoẹt. Anh em tiếp tay nhau quét vét bùn khỏi
mặt xạp, trên nền nhà, và sân chung quanh nhà, cho trơ nền đất
cứng ra để đi lại được dễ dàng.

Lúc gần hết giờ lao động sáng anh em ội Nhà Bếp khênh đồ ăn
tới phát, tin về anh bạn mất tích đêm qua mới được xì xầm loan
truyền như sau:

“Nửa đêm, nước dâng ngập chuồng lợn (heo) “cải thiện”
của Tù ở sát bờ rào gần Nhà Bếp, Cán bộ phải vào mở cửa
Láng Đội Anh Nuôi điều động mấy người ra lội mưa di tản
lợn. Làm xong việc nhóm công tác trở vào Láng thấy thiếu
một người, Cán bộ gạn hỏi, các bạn trong toán báo cáo anh
ta bị hụt chân nước cuốn trôi mất tích. Cán bộ bủa đi tìm
quanh bờ rào không thấy liền trở lại kiểm tra tư trang của
anh mất tích, thấy thiếu một số vật dụng và thực phẩm khô
cần cho nhu cầu nhiều ngày. Cán bộ nghi là trốn trại và sợ
có thể nhiều người khác cũng lợi dụng mưa lụt để đào ngạch

363

xé vách trốn, do đó phải “khẩn trương” đi kiểm tra tất cả các
Láng trong đêm.”

Anh bạn Tù mất tích là một Sĩ quan cấp úy thuộc Binh Chủng
Hải quân, nên không ai nghĩ là anh ấy bị chết đuối. Nhiều ngày
qua đi, Trại giam không có tin tức gì về việc vớt được xác người
chết đuối ở vùng hạ lưu, cũng không thấy có ai bị bắt đem trở lại
Trại. Chúng tôi nghĩ rằng anh ấy đã trốn trại, mọi người đều
nguyện cầu mong cho anh ấy thoát được ra khơi và sớm có Tự
do.

Trận lụt này làm dẫy nhà 3 gian Khu Thăm Nuôi bị xập, ội
chúng tôi được chỉ định đến dỡ bỏ để ội Xây Dựng cất lại nhà
mới 5 gian, có nhiều phòng hơn để tiếp đón khách “thăm nuôi”.

Xong công tác này ội chúng tôi được “biên chế” lại thành ội
Gạch, nên phải cải tiến tổ chức ội thành nhiều Tổ để đảm trách
nhiều Khâu khác nhau. Những người khoẻ vào các Khâu Thái
đất, Quần trâu, Lên quả, Vận chuyển đất, và óng gạch. Còn
những người yếu như Tôi, làm trong các Khâu óng than đá
cám thành bánh phơi khô, hoặc Chuyển gạch mộc mới đóng
xong ra phơi ở giữa sân cho khô rồi đem xếp vào nhà chứa chờ
khi nào gạch đóng được đủ mẻ khoảng 7 ngàn viên sẽ Vào Lò
nung.

K2 Thanh Phong có 2 ội Gạch, một ội gồm toàn Tù Hình Sự
phụ trách lò nhỏ cỡ mỗi mẻ 5 ngàn viên, còn ội chúng tôi toàn
là dân Tù Chính trị miền Nam gồm một số ại tá và Linh Mục,

ại ức, Mục sư Tuyên úy Quân đội phụ trách lò lớn cỡ hơn 7
ngàn viên một mẻ.

364

Các Vị Tuyên úy tương đối tuổi còn trẻ khoẻ nên được chia vào
các Khâu nặng. Còn nhóm ại tá chúng tôi già yếu được chia
vào 2 Khâu nhẹ. ến giai đoạn “Vào lò” tức là xếp gạch mộc
vào lò để nung, tất cả các Khâu phải “hợp đồng” cùng làm theo
dây chuyền.

Thoạt đầu Tôi và 3 Bạn nữa được giao phó công tác đóng than
đá cám thành bánh hình chữ nhật to dầy cỡ viên gạch. Công việc
tương đối không nặng nhọc nhưng vất vả, vì phải làm theo “chỉ
tiêu” quy định hàng ngày hơi cao, chúng tôi phải “hợp đồng”
làm liên tục không ngơi nghỉ để thực hiện lần lượt từng công
đoạn một. Trước tiên, cùng đi “thái đất” sét ở hầm xúc lên xe
chuyển về đổ bên đống than đá cám. Sau đó đập bằm cho đất
nhỏ tơi rồi trộn đều với than đá, phải ước lượng sao cho mỗi mẻ
đủ đóng 10 khuôn 6 miếng than to dầy bằng cỡ viên gạch. Tiếp
đến là ban mỏng mẻ than trộn đất thành một mặt tròn đường
kính cỡ 2 mét, gánh nước đổ vào trộn đều liên tục cho đất và
than quện với nhau thành một loại hồ mầu đen, vừa sền sệt
không khô mà cũng không lỏng quá rồi xúc vào “ky tôn” khiêng
ra sân, đổ vào từng mảng khuôn 6 miếng một để phơi và xoay
trở mặt hàng ngày cho mau khô. Sau cùng đem xếp vào nhà lô
tồn trữ chờ ngày nung gạch sẽ chuyển về xếp xen kẽ với gạch

trong lò.

Hiện trường làm than của chúng tôi ở phía bên kia hồ nước, đối
diện với hiện trường lao động của ội ngay bên lò gạch. Hai
tuần lễ sau đóng xong đủ số than cần cho một kỳ nung gạch,
chúng tôi được điều động về lao động chung bên ội để phụ
trách Khâu chuyển phơi gạch mộc mới đóng, xoay trở hàng
ngày cho khô rồi đem xếp vào nhà lô.

365

ược về làm bên anh em phụ trách các Khâu khác, Tôi mới có
dịp quan sát để hiểu được thế nào là Thái đất, Quần trâu, Lên
quả.

“Thái đất” là sắn đất chung quanh hầm đất sét, hất mạnh cho đất
tơi rải đều trên mặt nền giữa hầm thành một lớp dầy bằng phẳng.
Hầm đất, thoạt đầu nông hẹp lần lần rộng ra và sâu xuống thêm
sau mỗi đợt “thái đất”.

“Quần trâu” là dắt trâu đi vòng tròn trong hầm đạp cho đất
nhuyễn thành một loại bùn xệt đặc, y như chúng ta thường được
xem các phim chuyện thời Phong kiến bên Âu Châu bắt nô lệ
đứng trong các bồn gỗ lớn đạp nho cho nát nhuyễn ra để đem cất
rượu vang vậy. Trong khi Quần trâu phải có những người
thường xuyên gánh nước đổ vào đều đều đủ lượng cần thiết sao
cho đất quện vào nhau sệt quánh lại như hồ, không khô và cũng
không nhão.

Khi đất đã thật nhuyễn sệt quánh vào nhau gọi là “đất chín” là
đến phiên Khâu Lên Quả xuống sắn xúc “đất chín” gom thành
một đống tròn, cao vồng lên như nửa quả cầu ở giữa hầm đất.

Tiếp theo là nhiệm vụ của Khâu Chuyển Vận, xén “quả đất
chín” đem lần lần từ hầm đất lên giữa sân cho Khâu óng Gạch
làm nhiện vụ của họ. “ ất chín” được xúc đổ thành đống tròn
trên một mảnh ván dầy để trên xe cải tiến, kéo đến bên bàn đóng
gạch. Khâu Chuyển Vận ất Chín phải thường xuyên theo dõi
công việc đóng gạch, để lúc nào cũng có đất tiếp tế đều hòa liên
tục cho những anh đóng gạch không phải chờ. Hai công tác
Chuyển Vận ất Chín và óng Gạch phải được phối hợp làm
“khẩn trương” liên tục cho mau xong, nếu không “quả đất” sẽ bị
khô không dùng được sẽ phải phá ra làm lại từ đầu.

366

Mỗi người đóng gạch có một bàn riêng với 3, 4 chiếc khuôn gỗ,
1 dao cắt đất và một thùng tro. Mỗi khuôn đúc ra 2 viên gạch
một lượt. Người đóng gạch phải có đôi cánh tay rất mạnh và sức
khoẻ dồi dào dẻo dai mới cáng đáng nổi. Công việc đóng gạch
coi thấy chẳng khó khăn gì, nhưng rất vất vả mệt mỏi yếu sức
không thể làm nổi. Tôi đã tập đóng thử một khuôn, kết quả là
đất không nhồi được đầy lòng khuôn, 2 viên gạch lấy ra đều bị
vẹt góc và cạnh dưới phía chạm mặt bàn không đầy đặn phẳng
nhẵn như mặt trên cắt bằng dao.

Các công đoạn đóng gạch được thực hiện theo thứ tự sau đây:

1,- Rắc một lớp tro mỏng lên mặt bàn, đặt khuôn gỗ lên rồi
tung một nắm tro khác vào trong lòng khuôn, để đất sét
không dính khuôn khi đổ gạch mộc đóng xong ra sân phơi.

2.- Lấy dao cắt một viên đất thật to vừa đủ đóng 2 viên gạch
một lần theo khuôn, dùng 2 tay bê viên đất dơ cao lên ném
xuống mặt bàn nhiều lần để nhồi cho mịn và tròn cạnh. Sau
đó bê viên đất đã nhồi lên cao ném mạnh xuống khuôn cho
đất rập đầy lòng khuôn. Rồi dùng dao cắt sát một đường dài
từ đầu bên này sang đầu bên kia khuôn, để hớt đám đất dư
ngoài khuôn bỏ đi.

3.- Đẩy khuôn gạch đóng xong sang bên để người phụ trách
phơi bê đi, đổ ra trên mặt sân thành từng hàng dài nối tiếp
nhau.

Khuôn gạch đóng xong vừa được mang đi, người Đóng Gạch
lấy một khuôn khác tiếp tục làm lại từ đầu những công đoạn
thực hiện việc đóng gạch của mình.

367

“Dao cắt đất” không phải loại ta thường thấy dùng để cắt thịt
hay chặt cây, nó là một khung gỗ hình chữ U, nơi hai đầu chữ U
căng ngang một sợi dây kẽm nhỏ thật thẳng. Sợi kẽm này chính
là lưỡi dao cắt đất.
Công việc làm của những người óng gạch, Quần trâu, Lên quả
và Chuyển vận đất được coi là loại “lao động nặng” nên lãnh
phần “tiêu chuẩn” ăn hàng ngày cao hơn mọi người trong ội.
Thỉnh thoảng Quản giáo ội còn cho lén đi lấy trộm từng bao
tải sắn của Trại về “bồi dưỡng”. Dĩ nhiên bao giờ Quản giáo và
Cảnh vệ cũng có phần “bồi dưỡng” thoả thê trước khi chia cho
những tù được hưởng “bồi dưỡng”. Nếu chẳng may, người đi
lấy trộm sắn bị bắt thì ráng mà lãnh chịu kỷ luật, không được
khai là Quản giáo ội cho phép đi.

Thấm thoát cuộc đời Tù của chúng tôi đếm thêm mùa Thu thứ
sáu nơi rừng núi miền Bắc xã hội chủ nghiã, mưa Ngâu và nắng
Hanh làm lá rừng đổi màu từ xanh sang vàng, đỏ, nâu, để đợi
gió heo may về theo nhau lả tả trút xuống mặt đất, mặc cho cây
cành trở nên trơ trụi chịu đựng mưa Phùn gió Bấc lạnh lùng suốt
mùa ông.

Tết “Con Chó” Nhâm Tuất 1982 đến với nhiều tin dồn dập khác
thường đem lại niềm vui riêng cho mỗi người, khiến cả Tù lẫn
Cán bộ K2 Trại Thanh Phong đều hân hoan chuẩn bị đón Tết
nhộn nhịp khác hẳn mọi năm.

Anh bạn ại tá Hồ Hồng Nam (gốc Chiến tranh Chính trị) nằm
bên cạnh Tôi, vẫn thuộc nhân số của ội nhưng được tăng phái
làm việc trong Ban Văn Hóa để chuẩn bị Hội trường đón Tết cho
biết: “-Cán bộ Giáo dục tiết lộ tin Trại Thanh Phong sẽ đóng cửa
trao lại cho Chánh quyền địa phương quản lý tiếp tục khai khẩn,

368

Tù Chính trị được đưa hết về Nam chờ ngày tha, Tù Hình Sự sẽ
chuyển đi nơi khác.”

Anh bạn ại tá Tô văn Vân cũng nằm bên cạnh Tôi, phụ trách
nấu nước tại nhà Lô của ội cho biết trong một lúc vui câu
chuyện, Quản giáo ội hỏi dò:

“-Thủ Đức và Hàm Tân thuộc tỉnh nào tại miền Nam?”

Thân nhân đến “thăm nuôi” đưa tin:

“-Có nhiều đợt Tù Chính trị được di chuyển về Nam bằng
Tầu Hoả và nhiều đợt tha lẻ tẻ dăm bẩy người hoặc từng
nhóm đông cả trăm người. Có người được tha từ miền Bắc,
có người được tha sau khi về các trại trong Nam.”

ể chuẩn bị ăn Tết, Anh ội trưởng xin Quản Giáo ội cho Tôi
nghỉ công tác chuyển phơi gạch trong vài ngày để thực hiện việc
hớt tóc cho anh em trong giờ lao động, được Quản Giáo chấp
thuận. Trong khi Tôi hớt tóc cho anh em, Quản Giáo theo dõi
quan sát thấy Tôi hớt được đủ kiểu cao, thấp, vừa vừa với tóc
mai xanh... theo ý muốn của khách hàng. Sau khi hớt cho anh
em trong ội xong, ông ta yêu cầu Tôi đến sân sau nhà Lô phía
nhìn xuống dòng sông nơi ông ấy cư ngụ, hớt tóc cho ông ấy và
mấy người Bạn Cán bộ khác từ xa có dịp đi ngang ghé thăm.
Quản Giáo ội chúng tôi là Thượng sĩ Công An, mới mua được
chiếc xe đạp do Trung Cộng sản xuất, bạn bè ai cũng trầm trồ
khen đồ tốt và tỏ vẻ thèm muốn được làm chủ một chiếc như
vậy.

Trong lúc hớt tóc, ông ấy hỏi chuyện Tôi về tình trạng gia đình
và trước kia gia đình Tôi sống ra sao? ời sống của đồng bào
lao động ở trong Nam như thế nào?

369

Vào giờ thứ 25 này thì chẳng còn sợ hãi e dè gì nữa, Tôi thủng
thẳng kể cho ông ấy và các bạn của ông ấy nghe sự thật nếp
sống của gia đình Tôi và một ví dụ về nếp sống của người lao
động tại Saigon trước 30-4-1975 như thế nào?

ại để:

“Dưới Chế độ cũ tại miền Nam, Vợ Con của Tôi được phép
làm “kinh tế” (buôn bán tự do) như mọi người dân thường
khác, dĩ nhiên là phải đóng thuế cho Chính phủ theo luật
định. Vợ của Tôi hùn vốn với bạn bè lập xưởng sản xuất quần
áo trẻ con và người lớn gửi đi bán cho các bạn hàng trên
khắp các tỉnh. Lợi nhuận kiếm được hàng tháng nhiều gấp 4,
5 lần lương Chính phủ phát cho Tôi. Do đó lương của Tôi
chẳng bao giờ phải dùng tới, nên Tôi mở cho mỗi người con
một Trương mục Tiết kiệm trong Ngân Hàng Việt Nam
Thương Tín để gửi tiền tích lũy lấy lời hàng tháng. Sau này
khi chúng đến tuổi trưởng thành thì mỗi đứa có sẵn một món
tiền riêng làm vốn vào đời, ngoài mớ khả năng văn hoá học
được tại nhà trường trong thời niên thiếu. Nhưng bây giờ
chẳng còn gì, vì sau ngày Cách mạng giải phóng Saigon thì
Ban Quân Quản tiếp thu Ngân hàng không ai trách nhiệm
cứu xét hoàn trả cho chúng tôi.

Tiền dành dụm bao năm nay tiêu biến hết đúng như các Cụ ta
ngày xưa thường nói: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Số Trời đã định tai ách đến với mình như vậy đành phải chịu
chớ biết làm sao?

Hai người con lớn của Tôi học Đại học Y khoa và 3 người
học Trung học, đều được Vợ Tôi mua cho mỗi người một xe
máy dầu hiệu Honda làm phương tiện riêng để di chuyển

370

hàng ngày. Loại xe này giống như chiếc mô tô Side-Car mà
Đại úy Giám thị Trưởng Phân trại K2 mới được cấp, nhưng
nhỏ hơn và không có thùng ghế cho người ngồi bên cạnh.
Sau ngày giải phóng phải bán đi để mua xe đạp dùng, vì tiền
ăn còn không có lấy đâu dư mua săng chạy xe máy dầu.”

Về phần dân lao động trong Nam, Tôi kể chuyện gia đình một
bác đạp xe xích lô tại Saigon. Tôi biết rõ vì Tôi có hùn vốn kinh
doanh với người bạn làm chủ công ty nhỏ cho mướn xe xích lô
đạp.

“Gia đình bác X ở một thôn trong vùng xôi đậu thuộc Tỉnh
Tây Ninh. Vì chiến tranh giữa quân Cách mạng và quân
Quốc gia xẩy ra thường xuyên, sinh hoạt nông nghiệp gặp
khó khăn và mạng sống cũng không được bảo đảm an toàn.
Bác X đã giắt gia đình gồm Vợ và 2 con nhỏ lên Saigon tá túc
tại nhà người anh bà con bên Vợ để kiếm việc làm. Xưa nay
sống nơi đồng quê chỉ biết làm ruộng vườn trồng tỉa không
thông thạo các nghề của người công nhân, Bác X đã phải
nhờ người anh bà con giới thiệu và hướng dẫn cho làm nghề
đạp xích lô đưa đón khách trong Thành phố, vừa hợp khả
năng dễ kiếm tiền lại không cần phải có vốn nhiều.

Anh bà con Vợ của Bác X là quân nhân tài xế lái xe cho Tôi,
anh ấy nhờ Tôi giúp đỡ thân nhân trong cơn hoạn nạn. Tôi
đã bảo lãnh cho Bác X thuê xe tại công ty Tôi có hùn vốn để
chạy kiếm sống hàng ngày không phải đóng tiền thế chân.
Sáng đến ký nhận xe đạp quanh khắp các đường trong Thành
phố kiếm khách chở lấy tiền. Tối đem xe về hoàn trả công ty
và đóng tiền thuê xe cho ngày hôm đó. Chỉ vài tháng sau,
Bác X đã dành dụm được món tiền kha khá đủ cho Vợ Bác
làm vốn sắm đồ nghề mở một gánh cháo lòng bán rong trong

371

khu gia binh, nơi gia đình Bác X cư ngụ chung với người anh

bà con.

Đến dịp Tết, gia đình Bác X được người anh bà con dẫn đến
nhà Tôi để cám ơn và chúc Tết. Bác X khoe mới mua được
một căn phố lợp tôn để ở riêng và hiện cuộc sống gia đình đã
ổn định thoải mái, chờ khi nào tình hình chiến sự yên ổn sẽ
trở về quê làm ăn như trước. Trong lúc vui câu chuyện, Bác
X còn cho biết bây giờ đã có vốn đóng tiền thế chân trước khi
lấy xe đi. Hàng ngày thức dậy từ lúc tờ mờ quãng 5 giờ sáng
ăn uống lót lòng xong, đi lãnh xe chạy chở các khách quen
mang hàng ra chợ, sau đó tiếp tục chạy đón khách trên các
đường phố đi chợ và về, đến khoảng hơn 11 giờ đã kiếm
được gấp đôi số tiền cần đóng để thuê xe. Bác ghé đậu xe bên
lề đường mua một phần cơm hàng gánh rong, ăn xong Bác
ngồi lên xe gác chân chữ ngũ hút điếu thuốc lá rồi chợp mắt
ngủ khoảng nửa tiếng đồng hồ sau mới thức dậy, tiếp tục đạp
xe đi kiếm khách. Trong khi nghỉ nếu có khách đánh thức cần
thuê chở một cuốc nhưng lại mặc cả trả giá rẻ quá, Bác nhẹ
nhàng lịch sự xin lỗi là đang mệt cần nghỉ ngơi đôi chút chưa
chạy được. Ngày nào Bác ấy cũng kiếm được nhiều gấp 3 lần
số tiền cần để thuê xe. Vào những ngày thứ Bẩy và Chủ Nhật
đông khách đi dạo phố mua bán, bao giờ cũng kiếm được
nhiều hơn ngày thường.”

Trong khi kể truyện Tôi luôn luôn đưa mắt quan sát, thấy các
Cán bộ im lặng lắng nghe một cách thích thú say sưa y như đang
nghe truyện kiếm hiệp không có sắc thái phản ứng khó chịu nào.
Nên Tôi yên tâm hứng thú vừa hớt tóc vừa kể truyện liên tục bỏ
cả giờ nghỉ giải lao giữa buổi, thanh toán cả thẩy 5 cái đầu tóc
cho Cán bộ chuẩn bị ăn Tết không mảy may mệt mỏi.

372

Thật là một dịp may thích thú an toàn hiếm có, Tù Chính trị
được tự do làm công tác ịch vận khai sáng cho Công An Nhân
dân trẻ miền Bắc biết về sự thật tại miền Nam Việt Nam trước
ngày được Cách Mạng giải phóng 30-4-1975, những điều mà từ
nhỏ đến lớn họ chưa bao giờ được nghe nói cũng như không có
dịp thấy tận mắt.

Hớt xong cái tóc chót vừa đúng giờ nghỉ lao động buổi sáng, Tôi
thu vén đồ nghề ra tập họp cùng anh em trong ội đi tắm trước
khi trở vào khu giam.

ón mừng Tết Nhâm Tuất 1982 tại K2 Thanh Phong có vài sự
việc đặc biệt đáng ghi nhớ. Nội quy trại giam cấm Tù không
được tồn trữ cũng như uống rượu, thế mà có vài bạn Tù thuộc

ội Vôi ở chung Láng với chúng tôi được Quản giáo ội “chiếu
cố” mua giúp rượu để đón giao thừa trong Láng. ội Rau Xanh
kiêm Văn Nghệ cũng có bạn Tù cấp Trung tá gốc Chiến tranh
Chính trị, trong đêm giao thừa được Cán bộ cho phép sang Láng
giam của bọn Tù Hình Sự vui nhậu đón Xuân với chúng. Những
Bạn có cơ may hưởng các đặc ân này dĩ nhiên phải là người
được Cán bộ tin tưởng, ghi nhận kết quả “học tập cải tạo tiến
bộ” hơn những người khác về mọi mặt, và đặc biệt việc đối xử
rộng rãi này chỉ dành cho các Tù “Tự giác” và “Thi đua” mà
thôi. Tù “Tự giác” là những Tù được Ban Giám Thị Trại tin
tưởng giao cho thực hiện các công tác đi lao động một mình
ngoài Trại giam không cần Cán bộ theo sát canh phòng. “Thi

ua” thuộc thành phần được lựa chọn phụ lực cho Cán bộ Trực
Trại, ban ngày được phép ra vào tất cả các Láng giam Tù thong
thả bất cứ giờ giấc nào để thực hiện những lệnh riêng của Cán
bộ Trực trại và Cán bộ An ninh, trong khi những Tù khác bị cấm
không được qua lại các Láng tiếp xúc với người khác ội.

373

Sau 6 cái Tết (một tại miền Nam, 5 tại miền Bắc) đau khổ tủi
buồn của kiếp sống Tù, đến cái Tết thứ 7 Nhâm Tuất “Con
Chó”1982 tình thế đang thay đổi lạc quan hơn giúp mọi người
lăng xa lăng xăng chuẩn bị đón Xuân hân hoan yêu đời một cách
lạ lùng.

Vui Tết xong, như thường lệ một chương trình “ra quân thi đua”
mới lại được phát động rềnh rang để mọi người tiếp tục làm
công cụ sản xuất ra thật nhiều của cải cho Xã hội Chủ nghĩa.

Gần cuối tháng 4 năm 1982, một sự kiện lạ đã xẩy ra vào giờ
xuất Trại lao động buổi chiều, các ội Tù Hình Sự được gọi
xuất trại xong thì toàn thể Tù miền Nam ngồi tại chỗ nghe lệnh
“biên chế “ lại các ội, sau đó là lệnh “khẩn trương” chuyển đổi
phòng giam. Một vài bạn ại tá đang trong ội Rau Xanh được
chuyển trở về chung ội với chúng tôi, ngược lại mấy ại tá
khác trong ội chúng tôi được “biên chế” qua ội Rau Xanh
kiêm Văn nghệ, và ội Rau Xanh di chuyển ra khỏi “khu cách
ly” của chúng tôi.

Sáng hôm sau, toàn Khu cách ly của chúng tôi bị giữ lại trong
Láng cho đến khi tất cả các ội xuất Trại lao động hết mới được
mở cửa Láng ra sân chờ Cán bộ “làm việc”. ội trưởng phải lập
danh sách anh em trong ội với đầy đủ các loại tin tức lý lịch cá
nhân gia cảnh..., loại danh sách ngang thường phải thực hiện
mỗi lần chuyển trại. Sự việc cho phép chúng tôi mừng tin tưởng
chắc chắn là trong đêm sẽ được rời khỏi cái nơi thâm sơn cùng
cốc này.

úng như dự đoán, một lúc sau Cán bộ và anh em Ban Thi ua
vào đặt một bàn “làm việc” sát ngay bên ngoài cổng ra vào Khu
Cách ly của chúng tôi. Từng ội một theo “biên chế” mới, lần

374

lượt tập họp ra gặp Cán bộ nhận lại những qúy vật tư (nhẫn,
đồng hồ, giây chuyền…) bị Trại thu giữ bấy lâu nay, rồi vào
chuẩn bị tư trang gọn ghẽ sẵn sàng “Hành quân” khi có lệnh.

Khoảng xế chiều có mấy chiếc xe tải từ K1 vào, chúng tôi được
lệnh từng ội một xếp toàn bộ tư trang lên đầy trên xe. Công
việc hoàn tất, xe chở đồ đi trước người lội bộ theo sau trực chỉ
hướng K1 nơi có cơ sở làm việc của Ban Chỉ huy Trại Thanh
Phong. Suốt dọc đường đi dài khoảng gần chục cây số ai nấy
hân hoan thoải mái, vừa đi vừa trò chuyện nổ như bắp rang.

Vừa sẩm tối chúng tôi tới K1, được hướng dẫn vào tập trung
riêng từng ội quanh sân rộng bên Hội trường lớn gần bên khu
cơ sở của Ban Chỉ huy Trại. Nhà Bếp và Khu giam anh em Biệt
Kích thuộc K1 nằm tập trung phía bên kia con đường xe hơi
chạy băng qua Trại.

êm xuống, một đống lửa lớn được đốt lên bập bùng cháy ở
giữa sân, anh em Biệt Kích khiêng phần ăn tối đến phát cho
chúng tôi. Khuya thêm chút nữa lại đến phát phần ăn cho cả
ngày hôm sau đi đường. Nhân dịp này anh em tiết lộ cho biết:

“-Đêm nay sẽ có xe đến chở ra Ga Thanh Hóa để lên tầu
hỏa vào Nam.”

ây là đêm sau cùng nghiệt ngã tại Thanh Phong không bao giờ
quên được. Không có phòng để giam, chúng tôi phải nằm trên
đất ngoài trời qua đêm không mùng mền, và Trại giam đốt một
đống lửa lớn ở giữa sân để vừa soi sáng vừa có khói hun xua
muỗi. Mọi đồ đạc đã gói ghém gọn gàng không được mở ra,
quần áo giầy dép phải luôn luôn mặc đầy đủ trên người sẵn sàng
“hành quân”. Anh em đành chùm áo mưa phủ kín đầu và tay cho

375

khỏi bị muỗi đốt, tựa lưng vào nhau hoặc vào đống tư trang của
mình mà ngủ.

ĐÊM GIÃ BIỆT THANH PHONG.

Bâng khuâng nhìn lửa bập bùng,
Đắng cay gửi lại núi rừng Trường Sơn.
Chia tay khe thẳm, thác nguồn,
Xa lìa muỗi vắt, chim muông, khỉ già.
Quên đi lò gạch, đồi trà,
Mặc bầy ve núi reo ca nắng hè.
Nhớ chi nấm mối, măng tre,
Tiếc gì mộc nhĩ nấu chè thả sương.
Kệ cây sung đứng ven đường,
Gió rung trái chín vãi vương kiến bò.
Suối trong nương náu cá, cua,
Mặc tình sản xuất cho cò kiếm ăn.
Chẳng còn đụng rắn, gặp trăn,
Sói lang, chồn cú lăng xăng cạnh rào.
Từ mai giã biệt vùng cao,
Đồng bằng rộng mở đón chào cố nhân !

ĐÔI LỜI NHẮN NHỦ BẠN.

Thăm thẳm rừng khuya lửa bập bùng,
Màn Trời chiếu Đất, bạn đâu lưng.
Thì thầm trao đổi niềm tâm sự,
Thoát nạn, đừng quên trách nhiệm chung.

Thanh Phong, Như Xuân, Thanh Hóa, Trung Việt.
Cuối tháng 4 năm 1982.

376

(Chiều ngày 24-4-1982 rời K2 di chuyển sang K1, ngủ đêm tại
đây để chờ xe di chuyển ra thị xã Thanh Hóa.

Chương 29.
CHUYẾN TÀU HỎA VỀ MIỀN NAM
SAU 6 NĂM LƯU ĐẦY BIỆT XỨ

Sương đêm càng lúc càng dầy đặc, Tôi dùng miếng ni lông rộng
thay áo mưa nửa nằm nửa đắp phủ kín toàn thân (cả đầu lẫn
chân) cho muỗi không làm phiền, nghiêng mình dựa lên chiếc
túi vải đựng quần áo nằm co quắp giữa sân vừa lạnh vừa ngột
ngạt khó chịu. Trằn trọc mãi không ngủ được, đến lúc mới chợp
mắt thiếp đi thì tiếng động cơ của đoàn xe tải đến đón nổ rầm
rầm, còi lệnh the thé rúc lên đốc mọi người “khẩn trương” tập
họp chuẩn bị “hành quân”.

Sau khi anh em cùng nhóm tiếp tay nhau chuyển chất đồ đạc lên
xe xong, từng đôi Tù một bị khoá tay chung vào sợi xích nhỏ và
lần lượt dắt nhau leo lên xe. Màn đêm còn phủ trùm vạn vật,
đoàn xe lăn bánh tiếng động cơ rên đều đều thân xe rung rung
nẩy nẩy, lúc nghiêng qua trái lúc nghiêng qua phải, lúc nhẹ
nhàng vù vù lao xuống lúc nặng nề vo vo leo lên, từ từ nuốt con
đường băng suối vượt đèo rời núi rừng Thanh Phong xuống
đồng bằng ven biển ông. Mọi người mệt mỏi ngồi tựa vào
nhau im lặng ngủ thiếp đi.

ang ngủ ngon giấc, bỗng xe giảm tốc lực đột ngột xô dồn mọi
người chúi về phía trước bừng tỉnh, mở mắt thấy Trời đang tờ
mờ sáng và xe đang chạy ngang khu ngã ba đi Huyện lỵ Như
Xuân nơi có trại huấn luyện bộ đội Việt Cộng, hồi đầu năm

377

1980 xe chở chúng tôi đến Thanh Phong đã chạy ngang vào lúc
hoàng hôn bị bọn trại viên đứng phía trong hàng rào ném đá hét
chửi om xòm. Hôm nay Trời còn sớm quá chúng đang ngủ chưa
thức giấc, quang cảnh lưa thưa mấy dẫy nhà tôn vắng hoe như
Chùa Bà anh mờ ảo ẩn hiện trong lớp sương mai dầy đặc.

ến ngã ba đoàn xe rẽ vào đường đi Thanh Hoá, chạy miết đến
khoảng mặt Trời lên gần tới đỉnh đầu đoàn xe tới vùng Thị xã
Thanh Hoá, chạy vòng ra phía sau ga xe hoả đến gần khu có
những toa chở hàng trống rỗng. Anh em giật mình hoảng sợ, nếu
trở về Nam bằng những toa xe này sẽ là một tai họa lớn.

Hồi ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi gặp một số anh em gốc
Chiến tranh Chính trị bị đưa ra Bắc vào giữa năm 1976 bằng tầu
thủy tới bến cảng Vinh lên bộ đi tiếp bằng xe hỏa. Họ kể lại
những cực hình phải chịu đựng trên các toa chở hàng hoá, nghe
mà phát lạnh xương sống sởn gai ốc cùng mình.

“Mọi người ngồi bệt xuống sàn toa chen chúc nhau chặt
ních, trong thời gian tầu chạy thì cửa toa bị đóng kín khoá
trái bên ngoài nên rất nóng nực ngột ngạt thiếu dưỡng khí. Vì
là chuyến tầu suốt đặc biệt chạy từng đoạn nhiều trăm cây số
mới ngừng một lần để tiếp nhiên liệu cho đầu máy, và lúc đó
Cán bộ áp giải tới mở cửa kiểm tra nhờ thế mới có dịp được
thoáng khí đôi chút. Trung tá Ngô văn Hùng trước 30-4-1975
làm việc tại Tổng Cục Chiến tranh Chính trị ở Saigon, đã bị
chết ngộp trong khi tầu đang di chuyển. Nhiều người khác
trong cùng toa cũng ngất ngư nhưng không có cách nào kêu
cứu, phải đợi tới khi tầu ngừng Cán bộ tới mở cửa để kiểm
tra mới báo cáo được. Người ta đem xác anh Hùng xuống
không biết đem đi đâu để làm gì?”

378

Thật vô cùng dã man, mạng sống của những chiến sĩ chống
Cộng sản một khi bị thất thế lọt vào tay Việt Cộng luôn luôn bị
coi rẻ chẳng khác nào mạng súc vật. Thế mà Bác Hồ trước kia
và các đàn em của Bác trong ảng hiện tại, luôn luôn rêu rao là
Cách mạng Vô sản đại lượng khoan hồng nhân đạo nhất Thế
giới.

Sau ngày Quốc hận 30-4-1975, nhiều trăm ngàn người chống
Cộng tại miền Nam đã bị ảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghiã Việt Nam đọa đầy thập tử nhất sinh, sống vô
vọng chờ chết vì bệnh tật, đói khát, kiệt lực… hàng chục năm
trời trong các Trại cải tạo của Cộng sản Việt Nam nơi rừng sâu
nước độc trên cả 3 miền đất nước. May nhờ sự can thiệp của
Chính phủ Hoa Kỳ theo chương trình nhân đạo mới được giải
thoát, để cùng Vợ Con đi định cư tỵ nạn tái lập cuộc đời trên đất
nước xa lạ ngoài quê hương của chính mình. Thế mà bây giờ có
một số nhỏ trong tập thể Cựu Tù Chính trị và người di tản trước
30-4-1975 đang được cùng vợ con định cư tỵ nạn tại nước ngoài
với cuộc sống đầy đủ hạnh phúc, lại vì danh lợi cá nhân xiêu
lòng ngả theo lời mê hoặc của Việt Cộng quên đi quá khứ dã
man của chúng, cấu kết cùng các nhóm Tài phiệt Quốc tế dấn
thân hoà hợp tiếp tay củng cố cho chúng giữ vững Bạo quyền
tiếp tục bóc lột trấn áp nhân dân ở trong nước, thay vì tiếp tay
cùng ồng bào Việt Nam tranh đấu lật đổ chúng. Thật đáng
khinh miệt biết chừng nào!

ang lo lắng suy nghĩ lung tung thì lại chợt mừng vì đoàn xe
tiếp tục chạy vượt qua khu những toa chở hàng hoá trống hốc
đến ngừng lại bên một dẫy nhà sườn sắt, dài cao to mái và 3 mặt
quây quanh bằng tôn đang có chiếc đầu máy xe hoả đậu trong đó
chắc là để tu bổ hay sửa chữa.

379

Chúng tôi được lệnh mang đồ đạc xuống xe ngồi tập trung theo
từng ội trên bệ xi măng dài giữa 2 dẫy đường rầy. Tất cả anh
em ở trại Thanh Phong về Nam chuyến này được khoảng 100
người. Nhóm anh em ại tá gồm: Nguyễn ngọc iệp, Trần văn
Thăng, Phạm tài iệt, Lại đức Nhi, Trịnh đình ăng, ỗ văn
Sáu, Hồ hồng Nam, Dương hiếu Nghĩa, Võ hữu Bá, Nguyễn
quốc Quỳnh, Tô văn Vân, Nguyễn văn Phúc, Trần Kim Hoa và
Tôi Nguyễn-Huy Hùng.

Khoảng chừng 2 tiếng đồng hồ sau khi chúng tôi xuống xe, lại
thấy một đoàn xe khác đến đổ người xuống gần chỗ chúng tôi
đang ngồi. Hỏi ra mới biết anh em thuộc Trại Lam Sơn ( ầm

ùn hay Lý bá Sơ) gì đó Tôi không nhớ rõ, cũng ở trong địa hạt
của Tỉnh Thanh Hoá được đưa về Nam một chuyến với chúng

tôi.

Trong suốt buổi chiều ngồi giữa trời phơi nắng chờ đợi, chúng
tôi có dịp quan sát mấy chuyến tầu từ phía Nam ra Bắc đi ngang
ga Thanh Hoá. Hai ba đoàn tầu chạy suốt không ngừng, gồm
toàn những toa chở hàng hoá đóng kín và những toa hàng lộ
thiên chất đầy thùng gỗ hoặc thùng kim khí đồ sộ, những chồng
ống sắt to dài, những cây gỗ dài chưa xẻ, những chiếc connex
của Quân đội miền Nam chẳng biết chứa gì ở trong, những chiếc
xe hơi kiểu nhỏ, những chiếc Mini Van, những dẫy xe máy dầu
Honda, Suzuki quen thuộc tại Saigon trước 30-4-1975... Chỉ một
đoàn tầu có lẫn lộn toa chở hành khách và toa chở hàng hoá
ngừng lại ga khoảng ba mươi phút cho hành khách lên xuống,
cắt bớt ra và nối thêm vào đoàn tầu vài toa hàng hoá.

Từ ngày bị đưa ra miền Bắc học tập Cải tạo đến nay đã được 6
năm rồi, hôm nay Tôi mới có dịp thấy tận mắt cảnh tượng hành
khách lên xuống tầu tại ga xe lửa trên đất miền Bắc Xã hội Chủ

380

nghĩa do Nhà Nước và ảng Cộng sản Việt Nam quản lý điều
hành từ mấy chục năm qua.

Không biết việc bán vé cho khách đi tầu được tổ chức ra sao?
việc kiểm soát ra vào sân ga như thế nào? mà trong toa không đủ
chỗ chứa hành khách phải ngồi đứng đầy cả trên các bậc lên
xuống ở 2 đầu toa. Có người liều lĩnh gác đòn gánh ngang trên
lan can nối giữa 2 toa, ngồi tòng teng như đang làm xiệc biểu
diễn giữ thăng bằng cho mọi người chiêm ngưỡng sự can đảm
khác thường của mình. Số người ngồi lộn xộn bừa bãi bên các
đống thùng trên các toa chở hàng hoá lộ thiên, cũng đông chẳng
kém gì trên các toa dành cho hành khách. Thật không hiểu nổi!
Khi đoàn tầu vào sân ga vừa đậu lại, không biết từ đâu những
người bê bình nước với đôi chiếc bát đá, xâu bánh gói bằng lá
chuối khô, chiếc bao tải đựng bánh mì, hoặc rổ đầy ổi chuối... ào
ra chạy dọc các toa mời chào rao hàng ầm ĩ. Trong lúc đó hành
khách lên xuống tầu tranh nhau ném hành lý hàng hoá qua cửa
sổ toa. Các bậc thang ở 2 đầu toa nghẹt cứng người xô đẩy giành
nhau lên xuống la í ới chửi thề tán loạn. Hình như người ta phải
vội vã sợ lỡ chuyến nếu lên xuống không kịp giờ tầu chạy. Thật
vô cùng hỗn độn!

Trước 30-4-1975 tại miền Nam và miền Trung Việt Nam, Tôi
cũng đã từng dùng xe lửa đi công tác giữa nhiều Tỉnh suốt từ
Nam ra Trung nhưng chưa bao giờ thấy cảnh hỗn loạn như vậy.
Có lẽ vì hồi đó Công ty Hoả xa miền Nam tổ chức thường xuyên
nhiều chuyến tầu, số toa bao giờ cũng dư để cung cấp nhiều chỗ
ngồi hơn cho khách so với số vé dự trù được bán ra. Hơn nữa
dưới Chế độ Tự do Dân chủ theo nền Kinh tế Thị trường tại
miền Nam Việt Nam trước 30-4-1975, ngoài phương tiện Hoả
xa còn có nhiều Công ty Tư nhân cạnh tranh cung cấp các

381

phương tiện chuyển vận khác như xe đò, tầu thủy và tầu bay đầy
đủ cho khách cần di chuyển, nên dân chúng không phải chịu
đựng cái thảm cảnh mất tiền mua vé mà vẫn phải tranh giành
nhau như vậy.

Thấy cảnh trước mắt Tôi trạnh lòng thương các bà vợ Tù, tay
xách nách mang ôm đồm những bao thực phẩm khô nặng cả
trăm kí lô từ Nam ra Bắc “thăm nuôi” Chồng, chắc chắn cũng đã
phải chịu đựng những cực hình mà chúng tôi đang được chứng
kiến.

Sau ngày Tôi được tha về nhà, Vợ tôi đã kể cho nghe truyện
chuyến tầu lửa bà ấy đi từ ga Hà nội đến ga Ấm Thượng Vĩnh
Phú để “thăm nuôi” Tôi vào cuối năm 1979, còn thê thảm hơn
nhiều.

“Người ta xếp hàng hoá đầy trên các ghế ngồi, chật cả lối đi
ở chính giữa toa không có chỗ mà len chân. Kiếm được một
chỗ rồi phải ngồi lên hành lý của mình mà giữ, nếu không khi
tới ga tầu ngừng lại kẻ cướp trà trộn trong đám hành khách
xách đại hàng hoá của mình chuyền tay nhau vất xuống sân
ga chẳng có cách nào mà giằng lại. Kêu cứu chẳng ai tiếp,
mọi người tỉnh khô nhướng mắt nhìn không nhúc nhích vì họ
cũng đang phải lo giữ cho phần riêng của họ.

Tầu tới ga Ấm Thượng vào lúc nửa đêm sân ga tối như bưng
không đèn đóm. Hai Chị Em (Vợ tôi và bà Chị) tay xách tay
khênh đồ đoàn len ra được tới đầu toa thả hành lý rớt xuống
đất trước, rồi mới lần mò các bậc thang bước xuống sau. Bậc
cuối cùng cách mặt đất khá xa, tối không thấy gì nên bước
đại xuống hụt chân té lăn nhào xuống đất. Hoàn hồn lồm
ngồm ngồi lên được vừa đúng lúc tầu xình xịch chuyển bánh
đi tiếp. May mà lúc bị té lăn ra ngoài, chớ vô phúc bị lăn vào

382

phía đường rầy khi tầu chạy thân mình bị nghiến nát chẳng
ai hay.”

Thật vô cùng nguy hiểm!

Chúng tôi phải ngồi giữa trời phơi nắng chờ mãi cho tới gần tối
mới thấy một chiếc đầu máy chạy đi dồn tới kéo lui cả tiếng
đồng hồ tập trung một số toa chở hành khách hạng nhì. Sau cùng
đến đậu ngay khu chúng tôi đang ngồi. Cán bộ phụ trách ội
đến mở khoá xích tay cho mọi người, và ra lệnh ội trưởng điều
động anh em khuân đồ đạc chất lên một góc toa dành cho chúng
tôi. Xong xuôi, toàn ội phải tập trung 2 hàng dọc để Cán bộ
đếm đầu cho lần lượt lên toa kiếm chỗ ngồi 2 người một ghế.
Mọi người lên hết vừa ngồi yên chỗ, Cán bộ đến từng ghế khoá
tay 2 người chung một sợi xích y như lúc bắt đầu lên xe di
chuyển từ Thanh Phong ra ga Thanh Hoá.

Bên trong toa ở giữa là lối đi, 2 bên dọc theo bề dài của toa có 2
dẫy ghế gỗ có tựa lưng, mỗi ghế dành cho 2 người. Các ghế
được sắp xếp đâu mặt vào nhau thành từng nhóm 4 người ngồi
đối diện, 2 người hướng về phía đầu tầu, 2 người hướng về phía
đuôi tầu. Anh Trịnh ình ăng và Tôi bị khoá tay chung một
sợi xích, chúng tôi ngồi chiếc ghế quay lưng về phía đầu tầu
thành ra không quan sát được quang cảnh phía tầu sắp chạy tới
như những bạn ngồi đối diện. Hàng ghế chúng tôi ngồi ở bên
nửa phải của toa nên chỉ thấy toàn rừng núi của dẫy Trường
Sơn, không thấy được cảnh đồng ruộng làng mạc phần lớn tập
trung bên phía ven biển.

ến xẩm tối, có đoàn tầu gồm toàn xe chở hành khách từ Bắc
vào ngưng ngay giữa sân ga. Sau các khung cửa sổ toa thấp
thoáng đầy bóng người, không thấy ai xuống mà cũng chẳng

383

thấy khách mới lên. Nhóm người bán hàng rong cũng không
thấy xuất hiện.

ang chú tâm quan sát thì cảm thấy đoàn tầu chứa chúng tôi di
động, tiến tới thối lui bốn năm lần cả tiếng đồng hồ chuyển từ
đường rầy này sang đường rầy khác để cuối cùng nối vào đoàn
tầu vừa tới. Trời tối ga không đèn đóm nên cũng chẳng biết
được nối vào khúc nào trong đoàn tầu chính. Mãi sáng hôm sau,
khi đoàn tầu chạy đến khúc vòng quanh sườn núi nơi chân đèo
Hải Vân (giữa Huế và à Nẵng) nhìn thấy được cả đoàn tầu từ
đầu đến đuôi, mới biết toa của chúng tôi nằm ở khúc giữa. oàn
tầu có khoảng hơn chục toa, 2 đầu máy kéo ở phía đầu và 1 đầu
máy đẩy ở phía đuôi.

Suốt từ lúc lên tầu, ai nấy phải ngồi nguyên tại chỗ không được
di chuyển lộn xộn ngay cả trong toa, nên chẳng biết khách trên
các toa khác là những thành phần nào. Nhưng chúng tôi đoán
chắc là các bạn Tù từ miền đồng bằng Bắc Việt được di chuyển
về Nam cùng lượt với chúng tôi.

Toa xe chỉ có một phòng vệ sinh nhỏ ở khoảng giữa dành cho
một người dùng nên rất chật hẹp. Mỗi lần anh nào cần tiểu hoặc
đại tiện đều phải kéo theo anh bạn xích tay chung cùng đi.
Người giải quyết ngồi làm nhiệm vụ của mình, người đi theo
phải đứng kè ngay bên cạnh chờ hít thở mùi xú uế của bạn mình
thải ra. Thật thảm não nhưng phải ráng chịu chớ biết làm sao
hơn!

Toa xe chở cả 4, 5 chục người thay phiên nhau đi giải quyết vệ
sinh dài dài suốt ngày đêm. Chỉ có 3 Cán bộ áp giải võ trang
súng AK của Liên Xô ngồi nằm trên 4 ghế trấn thủ ở 2 đầu toa,
đời nào họ lại chịu cực đi tới đi lui mở khoá xích cho hết người

384

này đến người khác hoài hoài được. Cũng may họ không buộc
phải hô to báo cáo xin phép mỗi lần rời khỏi chỗ ngồi để đi giải
quyết vệ sinh là tốt rồi.

oàn tầu rời ga Thanh Hoá khoảng lúc 9 giờ tối, anh em đăm
chiêu ngồi nhìn những ngọn đèn vàng thưa thớt trong thành phố
lùi dần ngoài khung cửa sổ toa tầu. ộ chừng dăm phút sau
chẳng còn thấy gì, ngoài Trời tối đen như mực, trong toa không
có đèn mọi người mò mẫm lấy đồ ăn ra nhấm nháp cho xong
bữa tối rồi ai nấy thiu thiu ngủ.

Khoảng nửa đêm, gió lạnh lùa vào toa làm chúng tôi tỉnh giấc,
nhìn ra thấy tầu đang chạy ngang một khu có lưa thưa mấy dẫy
đèn điện vàng vọt sáng. Tấm bảng treo nơi hàng hiên dẫy nhà
sát bên đường rầy cho biết đây là Ga Vinh, tầu tiếp tục chạy
không ngừng. Bốn anh em chúng tôi ngồi đối diện nhau đồng
thoả thuận kéo mành cửa sổ toa xuống cho khỏi lạnh để ngủ
tiếp.

Lối đi giữa 2 chiếc ghế chẳng rộng rãi gì, đầu gối chân người
ngồi ghế bên này chỉ cách đầu gối người ngồi ghế bên đối diện
khoảng 10 phân, muốn duỗi thẳng chân ra cho khỏi mỏi cả 4
người phải thoả thuận cùng duỗi tréo xen kẽ bên nhau.

Hai người bị khoá tay chung một sợi xích, một bên tay cứ phải
để yên không nhúc nhích sợ làm phiền bạn, thật khó chịu. Ngủ
ngồi phải ngửa đầu tựa lưng vào ghế, 2 vai, sống lưng, hông và
2 chân tê mỏi vô cùng.
Anh Trịnh đình ăng bị xích tay chung với Tôi là người có
nhiều sáng kiến rất hay để ứng phó với mọi tình huống. Không
biết làm cách nào anh ấy rút được bàn tay ra khỏi vòng xích
khoá, rồi ghé miệng sát tai Tôi thì thầm đề nghị để anh ấy chui

385

nằm dài dưới gầm ghế còn Tôi nằm một mình trên ghế, như vậy
2 anh em cùng được nằm ngủ thoải mái. Tôi đồng ý ngay và để
tránh không bị Cán bộ phát giác khi đi kiểm tra, Tôi phải bỏ
thòng tay có xích xuống sát ngực anh ấy y như 2 tay vẫn xích
liền bên nhau. Chỉ có một điều bất tiện duy nhất là phải nằm
nghiêng co chân không duỗi thẳng được vì bề dài chiếc ghế chỉ
độ 1 mét rưỡi, nếu duỗi thẳng chân sẽ cản đường đi giữa toa xe.

Hai anh bạn ngồi đối diện thấy sáng kiến hay nên bắt chước,
nhưng các anh ấy không ai rút được bàn tay ra khỏi vòng xích
như anh ăng. Bốn đứa chúng tôi ngủ được một giấc dài thoải
mái đến sáng, bị một bạn đi giải quyết vệ sinh ngang qua đụng
vào chân mới giật mình tỉnh dậy.
Chúng tôi ngồi trở lại vị trí trên ghế mở cửa sổ toa nhìn ra ngoài,
thấy tầu đang chạy song song bên trái Quốc Lộ 1, đường vắng
hoe không một bóng người. Chừng nửa giờ sau tầu băng qua cầu
Hiền Lương bắc ngang sông Bến Hải, Quảng Trị. Mấy dẫy nhà
tiền chế bằng tôn dành cho anh em Công An thuộc Việt Nam
Cộng Hoà giữ an ninh vùng phi quân sự ở đầu cầu phía Nam có
từ ngày thi hành Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 vẫn còn
đó, chỉ không thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ phất phới trên ngọn cột
cờ cao dựng trước dẫy nhà như hồi trước 30-4-1975 mà thôi.

i ngang khu này Tôi nhớ lại dịp đến công tác tại Tiểu khu
Quảng Trị hồi Tết Âm lịch năm 1958. Tôi được ông Quận
trưởng Quận Gio Linh dẫn đi thăm khu phi quân sự, đặc biệt là
cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải. Chúng tôi đi bộ lên cầu tới
cách vạch sơn trắng phân ranh Nam Bắc ở giữa cầu chừng 10
mét thì ngừng lại, đứng quay lưng về phía Bắc chụp tấm hình kỷ
niệm. Bên kia đầu cầu có một viên an ninh Cộng sản Bắc Việt
mặc sắc phục vàng đội nón cối lá đứng gác. Xa hơn đầu cầu

386

chừng vài trăm mét là một dẫy nhà tranh 5 gian, đằng trước có
một cột thật cao treo lá cờ đỏ sao vàng to tướng bay phất phơ

theo gió.

Vạch sơn trắng oan nghiệt ghi trên sàn giữa cầu Hiền Lương bắc
ngang sông Bến Hải từ cuối tháng 7-1954 đến 30-4-1975 là ranh
giới chia đôi đất Việt Nam thành 2 nước: Nam Việt theo Chế độ
Tự do Tư bản, và Bắc Việt theo Chế độ Cộng sản quy định bởi
Hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Tại cái vạch sơn trắng
(bức tường vô hình oan nghiệt) này cũng từng là “cửa khẩu trao
đổi Tù binh” giữa 2 bên Nam Bắc, sau khi Hiệp ịnh Paris 27
tháng 1 năm 1973 chấm dứt cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”
dài một phần năm Thế kỷ 20 được ký kết.

Hôm nay Tôi được đi ngang cầu Hiền Lương bằng xe hoả từ
miền Bắc về miền Nam, với tư cách một Tù nhân Chính trị sau
hạn lưu đầy suốt 6 năm trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.
Lòng xúc động nghẹn ngào rưng rưng lệ sung sướng, vì không
ngờ qua bao năm cay đắng lao khổ cực nhục vô vọng mình còn
sống trở về gặp lại ồng bào miền Nam thân yêu và Vợ Con
thân quyến ruột thịt, mà trong suốt thời gian 6 năm qua cứ tưởng
rằng chẳng bao giờ còn được thấy mặt.

oàn tầu chạy qua hết địa phận Quận Gio Linh, khi sắp tới chiếc
cầu sắt dài băng ngang sông Thạch Hãn ngay giữa tỉnh lỵ
QuảngTrị mới thấy lẻ tẻ xuất hiện đôi ba chiếc xe đạp, xe máy
dầu, xe Lam chở hành khách tất bật vội vã ngược xuôi trên
đường cái. Không như trước 30-4-1975 vào giờ này người và xe
cộ đủ loại nối đuôi nhau chạy như mắc cửi trong thành phố.

Chừng một giờ sau tầu chạy chậm lại, xình xịch băng qua cầu
Bạch Hổ trên sông Hương đậu lại ga ngay gần đầu cầu. Bên kia

387

sông Hương là Thành Nội Cố đô Huế, nơi mà Tết Mậu Thân
1968 Việt Cộng theo kế hoạch Tổng công kích toàn miền Nam
đã chiếm đóng cả tháng trời, bắt bớ sát hại chôn sống tập thể cả
chục ngàn dân vô tội và Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hoà.

oàn tầu vừa ngưng bánh tại sân ga, Cán bộ dẫn anh ội trưởng
và 2 người nữa xuống khỏi toa vào nhà ga lãnh nước và thực
phẩm tiếp tế ăn đường cho cả ngày.

Toa chở chúng tôi ở đoạn giữa đoàn tầu nên may mắn ngưng
đúng ngay chỗ có nhà ga, nhờ thế quan sát được đầy đủ mọi việc
xẩy ra trong sân ga.

Những người bán hàng rong nấp sau những toa xe bỏ trống
trong sân ga ùa ra rao hàng mời mua rối rít. Anh em chúng tôi
dơ tay bị xích lên cho họ biết mình là Tù làm gì có tiền để mua.
Bỗng dưng, một trong những người bán hàng lên tiếng nói lớn:

“-Các Anh là Chiến sĩ ra Bắc cải tạo trở về à? Vậy thì đâu
cần tiền, cứ nhận lấy mà ăn không phải trả tiền nong gì cả.”

Rồi lần lượt những người bán hàng rong đua nhau quăng bánh
mì, trái cây... đủ thứ qua cửa sổ toa cho chúng tôi.

Cán bộ áp tải và Công an giữ an ninh tại ga thấy vậy, bắt chúng
tôi phải kéo mành che cửa sổ toa xuống không cho nhìn ra ngoài
nữa, rồi dồn đuổi những người bán hàng kia đi chỗ khác.

Phía ngoài hàng rào nhà ga, đàn ông đàn bà thanh niên nam nữ
chen nhau đứng đông nghẹt gọi với vào hỏi thăm:

“-Có Đại úy X, có Trung úy Y, có Thiếu tá Z... trên đó
không? Từ Trại nào về vậy?...”

388

Lạ thật! làm sao bà con thân nhân biết sáng nay có chuyến tầu
chở Tù từ miền Bắc về mà ra tìm gặp hỏi thăm vậy?

oàn tầu đậu gần hai tiếng đồng hồ tại ga Bạch Hổ Huế rồi mới
chuyển bánh tiếp tục con đường xuôi Nam. Ngừng lâu như vậy
chắc là để tiếp nhiên liệu cho các đầu máy sau quãng đường dài
đã chạy cũng khoảng hơn 5 trăm cây số từ Thanh Hoá đến Huế.
Rời ga Bạch Hổ đoàn tầu lần lượt băng qua các vùng Phú Cam,
An Cựu, núi Ngự Bình, Phi trường Phú Bài, Bạch Mã, Truồi,
Lăng Cô, để bắt đầu quanh co bò lần lên cao vòng theo các sườn
núi chui qua hầm đèo Hải Vân dài cả chục cây số để đổ xuống
phố à Nẵng.

Hồi những năm 1948-1949 theo học khoá đầu tiên của Trường
Sĩ quan Việt Nam tại Huế, Tôi và các bạn cùng khoá đã phải lặn
lội ngày đêm tôi luyện chiến thuật hành quân tại vùng này nên
không quên được. Có những buổi thực tập hành quân đêm, đụng
độ với các toán Việt Cộng võ trang mò về hăm doạ buộc dân
chúng tiếp tế hoặc đóng thuế. Cũng có lần tập hành quân an ninh
mở đường bộ và thiết lộ vào lúc sáng sớm, đã khám phá ra
những quả mìn do Việt Cộng lén lút cài ban đêm để phá hoại xe
hơi hoặc tầu hoả chuyên chở dân chúng di chuyển trong ban
ngày. Những cuộc hành quân thực tập này nằm trong phần
chương trình “Giai đoạn thử lửa” trước khi mãn khoá.

Từ hầm đèo Hải Vân chui ra đoàn tầu từ từ vòng vèo trườn
xuống dốc, nhìn được toàn cảnh vùng thành phố à Nẵng rất
đẹp và nên thơ, đặc biệt là pho tượng Phật trắng toát đồ xộ cao
lênh nghênh nổi bật giữa tấm thảm rực rỡ đủ mầu sắc của các
mái nhà và ngọn cây dưới ánh nắng của mặt trời buổi sáng.

389

Tuốt xa xa xừng xững dẫy Ngũ Hành Sơn um tùm cây chen đá
nối liền cảnh đồng ruộng và bầu trời xanh trong, nơi dân địa
phương khai thác đá hoa mầu hồng để đẽo tượng, bình bông, lư
hương... bán cho khách thập phương qua lại.

Két két xình xình xịch xịch đoàn tầu từ từ xiết bánh sắt trên
đường rầy tụt xuống hết dốc đèo Hải Vân, thì lại bắt đầu tăng
tốc độ vùn vụt nuốt tuyến thiết lộ trải dài trên dải đất hẹp nằm
giữa Biển ông và Dẫy Trường Sơn (bộ xương sống của quê
hương Việt Nam thân yêu hình chữ S).

Suốt cả ngày dưới trời nắng chang chang không ngừng lại bất cứ
ga lớn nhỏ nào, đoàn tầu băng băng chạy ngang các địa phận
Quảng Ngãi, Bình ịnh, Qui Nhơn, rẽ vòng theo chân núi qua
các vùng Vân Canh, La Hai xa bờ biển, rồi lại vòng trở ra An
Mỹ tiếp tục chạy sát biển. Tới lúc xế chiều đến Tuy Hoà (Phú

ên) đoàn tầu chạy ngang sườn rặng núi trên đỉnh có Hòn Vọng
Phu rêu phong xừng xững đứng thi gan cùng tuế nguyệt. Theo
tục truyền đây là hình người thiếu phụ bồng con trung kiên đứng
đợi chồng đi chinh chiến lâu không về, nên biến thành tượng đá.

Chừng nửa giờ sau đoàn tầu từ từ tụt xuống èo Cả vùng ại
Lãnh ranh giới Phú ên – Khánh Hoà, rồi từ Ninh Hoà chạy dọc
bờ biển băng èo Rọ Tượng vào đến ga Nha Trang lúc nhá
nhem tối. Sát dọc hai bên thiết lộ dẫn vào ga Nha Trang thấy chi
chít toàn là nhà dân chúng cư ngụ. Trong khi đoàn tầu di chuyển
ngang, thấy ồng bào trong khu ùa ra chạy dọc theo tầu vừa nói
vừa làm hiệu tay, chỉ bảo viết lời nhắn và địa chỉ gia đình ném
xuống để họ gửi đi báo tin giùm.

Thật bất ngờ, trong số anh em chúng tôi cũng có đôi người vội
vã lấy giấy viết vứt xuống nhờ, nhưng phần lớn còn lại cho rằng

390

việc làm có vẻ phiêu lưu không tin tưởng nên không thực hiện.
Nhưng ai nấy cùng tỏ lộ sắc thái hân hoan cảm kích tấm thịnh
tình của ồng bào đối với mình. ồng bào miền Nam không thù
hận “Ngụy Quân” như Cộng sản Bắc Việt rêu rao trong các bài
học Cải tạo nhồi sọ bấy lâu nay.

Vào đến ga Trời đã tối mịt chẳng còn thấy gì, dưới những dẫy
đèn điện vàng yếu ớt chiếu sáng đoàn tầu lại được điều khiển
dồn tới dồn lui cả tiếng đồng hồ chẳng biết nối thêm hay cắt bớt
toa để lại. Xong xuôi, tầu đậu thêm chừng 1 tiếng đồng hồ rồi
chuyển bánh chạy trở ra ngang khúc đường cũ có nhà dân chúng
ở dọc 2 bên. ồng bào lại cằm đuốc chạy theo vẫy tay chào,
mục đích chính có lẽ để nhận thêm những mảnh thư anh em Tù
ném xuống nhờ gửi về nhà trước nếu ai cần. Tiếc quá, chúng tôi
đâu biết tầu phải chạy trở lại đoạn đường này để nhập vào con
đường chính tiếp tục xuôi Nam mà chuẩn bị.

Sau khi ra khỏi vùng thị xã Nha Trang đoàn tầu bắt đầu tăng tốc
độ chạy vùn vụt trong đêm tối, anh em lo ăn uống và thu xếp
chỗ ngủ để giữ sức chứ thức làm chi cho mệt. Tiếng bánh sắt lăn
trên đường rầy tạo ra một loạt âm thanh đều đều rào rào rào!
kịch kịch kịch! rào rào rào! kịch kịch kịch!... liên tục, thân toa
tầu không nẩy xóc rung nhẹ nhẹ êm êm giúp mọi người chìm
vào giấc ngủ dễ dàng hơn cả dùng thuốc an thần.

Anh ăng và Tôi đổi chỗ nằm, anh ấy lên nằm trên ghế, Tôi
xuống dưới gầm ghế nằm trên mặt sàn toa. Mỗi lần nhắm mắt để
ngủ, những hoạt cảnh tại ga Bạch Hổ ở Huế lúc buổi sáng và
khúc đường vào ga Nha Trang mới hồi tối thi nhau diễn lại trong
đầu làm Tôi trằn trọc không sao ngủ được. Cũng phải khoảng cả
hơn tiếng đồng hồ sau, nhờ những tiếng ngáy ro ro đều đều của
các bạn nằm bên cạnh và trên ghế hoà nhịp cùng tiếng chuyển

391

động vượt không gian của đoàn tầu, hợp thành một điệu ru trầm
trầm êm ái mới khiến được mí mắt của Tôi nặng trĩu rồi xụp
xuống ngủ đi lúc nào không biết.

ang say sưa ngon giấc, các tiếng xôn xao lục đục làm Tôi bừng
tỉnh mở mắt thấy tầu đã ngừng chẳng biết tại đâu. Có lệnh chuẩn
bị xuống, anh em lần lượt nối đuôi nhau ra đầu toa, xuống đến
bậc thang chót thì thấy Cán bộ áp tải đang đứng tại đó mở khoá
xích tay cho anh em.

Sau khi mọi người đã xuống hết, Cán bộ leo lên toa tầu rọi đèn
pin kiểm tra để chắc chắn không còn sót ai, rồi mới ra lệnh tập
trung chuyển đồ đạc chất lên chiếc xe chuyên chở đậu gần bên.
Trời tối thui, chung quanh ga chẳng có đèn đóm gì cả ngoài mấy
luồng ánh sáng đèn pin của Cán bộ quẹt qua quẹt lại, soi đường
đi kiểm tra theo dõi mọi người khuân chuyển đồ đạc từ toa tầu
xuống chất lên xe.

Trong khi anh em chúng tôi làm dây chuyền mò mẫm chuyển
xếp đồ đạc, anh tài xế mặc thường phục loanh quanh lại gần hỏi
nhỏ: “- Bắc về hả?” Tôi trả lời cụt lủn: -Thanh Hoá về. Anh ấy
nói tiếp cho biết đây là ga Gia Rai, xe thuộc nghiệp đoàn chuyển
vận ở Saigon được thuê lên chở vào Trại Hàm Tân. Tôi thì thầm
hỏi: -Có thể đưa tin về nhà giúp được không? Anh ấy trả lời
được, Tôi liền lấy mẩu giấy nhỏ viết vội mấy chữ “Bố đã về
Hàm Tân” tiếp sau là tên người con gái của Tôi cùng địa chỉ của
gia đình, rồi xếp làm tư giúi vào tay anh tài xế. Xong xuôi Tôi
lỉnh nhanh ra chỗ khác tiếp tục khuân đồ đạc bên mọi người.

Ba tháng sau, Tôi được Vợ giắt 3 người con tới Trại Z30C Hàm
Tân thăm nuôi, Tôi hỏi thăm về mẩu tin nhắn lúc mới về tới
Nam. Vợ tôi xác nhận:

392

“-Anh tài xế tốt bụng, có đem mảnh giấy nhắn tin của Tôi tới
tận nhà. Gia đình biếu anh ấy chút tiền uống nước để cám
ơn. Anh ấy vui vẻ nhận, và chúc cho gia đình chúng tôi sớm
được đoàn tụ.”

Mọi đồ đạc chất lên xe xong, mọi người phải tập họp hàng 2 để
Cán bộ đếm đầu người lên xe về Trại giam. Chạy vòng vo một
hồi đoàn xe rẽ qua một cổng lớn bên trái con đường rồi đậu tại
một bãi sân rộng 2 bên có những dẫy nhà tôn, giữa sân có một
đống lửa bập bùng cháy để soi sáng thay đèn.

Anh em được lệnh xuống xe khuân đồ đạc vào trong một dẫy
nhà mái tôn vách gỗ chỉ có một lối vào ở đầu nhà. Xong xuôi,
mọi người phải trở ra đứng xếp hàng đôi để Cán bộ đếm đầu cho
lần lượt vào nhà giam rồi khoá trái cửa bên ngoài.

Trong nhà chứa được khoảng 100 người, có 2 dẫy xạp ngủ 2
tầng bằng gỗ dọc 2 bên tường, một lối đi ở giữa nhà rộng
khoảng hơn 1 mét. Một ngọn đèn dầu leo lét cháy treo nơi khung
cửa lối vào căn phòng vệ sinh nhỏ ở cuối nhà. Nhóm anh em ại
tá chúng tôi thuộc ội phải nằm xạp tầng trên, một vài bạn có
quá nhiều rương, thùng, bao đựng đồ tiếp tế không khuân lên
cao được, đành để đại thành từng đống tại lối đi giữa nhà làm
nhiều người đi vệ sinh ban đêm vấp đau chân bực mình lẩm bẩm
cằn nhằn.

Xạp ngủ tầng trên được ghép bằng nhiều tấm ván dầy mỏng
khác nhau, những miếng mỏng lâu ngày bị khô cong lên võng
xuống nằm bị cấn lưng đau khó chịu vô cùng. Nhưng cũng may,
không có rệp như ở các K1, K5 thuộc Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh
Phú ngoài miền đất Bắc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

393

TRỞ VỀ MIỀN NAM.

Mây ngàn phủ kín thương đau,
Tưởng xa vĩnh viễn ngờ đâu lại về.
Mừng ôi ! mắt lệ dầm dề,
Tim rung rộn rã đê mê sóng tình.
Tầu qua Bến Hải, Gio Linh,
Băng sông Thạch Hãn, đất Bình Trị Thiên.
Long lanh bao ánh mắt hiền,
Ngóng đoàn Cải tạo bình yên trở về.
Lưng cong, dựa mái tóc thề,
Trẻ thơ hớn hở, hương quê nồng nàn.
Nắng Hè vương gió Trường Sơn,
Trời Nam rực rỡ, chứa chan tình người.
Giạt dào sóng rộn biển khơi,
Buồm trương thẳng hướng vui đời tự do.

Z30C, Rừng lá Hàm Tân, Bình Thuận.Cuối tháng 4 năm
1982.

Chương 30.
TRẠI Z30C HÀM TÂN,
TIA SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM

Sau 6 năm bị lưu đầy biệt xứ trên đất miền Bắc Xã hội Chủ
nghĩa được trở về hít thở bầu không khí ôn hoà của miền Nam
vào đúng cuối tháng 4 năm 1982, Tôi cảm thấy nao nao buồn
vui lẫn lộn.

Vui mừng sung sướng vì không ngờ sau thời gian dài 2125 ngày
bị đọa đầy hành hạ cực khổ đói khát bệnh hoạn, đã không phải

394

bỏ thây trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa như dự tính của
ảng Cộng sản Việt Nam mà vẫn còn sống trở về miền Nam đợi

ngày được Tự do đoàn tụ với Vợ Con và thân quyến bằng hữu.

Buồn vì nhờ chuyến tầu hoả xuyên Việt mới có dịp nhìn thấy tận
mắt cảnh quê hương tiêu điều suốt dọc con đường dài 1456 cây
số hai bên thiết lộ từ Thanh Hoá vào tới Gia Rai Thuận Hải, sinh
hoạt của dân chúng không nhộn nhịp như trước ngày bị Cộng
sản xâm lược dưới chiêu bài Giải phóng miền Nam.

Không ai có thể quên được ngày 30 tháng 4 năm 1975, cái mốc
thời gian lịch sử đau thương nhất của toàn dân tộc Việt Nam
trong hậu bán Thế kỷ 20 do Việt Cộng tay sai Cộng sản Quốc tế
đã ghi vào cuốn sử hơn bốn ngàn năm Văn Hiến của dòng giống
Tiên Rồng chúng ta. Cả triệu người cằm súng chống Cộng sản
Quốc tế xâm lăng miền Nam Việt Nam phải đau lòng nuốt hận
buông súng, vì bị ồng minh Hoa Kỳ và nhóm Lãnh đạo Chính
trị hoạt đầu đón gió trở cờ tại miền Nam phản bội.

Chế độ Cộng hoà Dân chủ Tự do tại miền Nam Việt Nam tan
biến, hàng triệu người dân vô tội đang sống yên vui hạnh phúc
phải tất tưởi sợ hãi dắt díu nhau tìm đủ mọi phương tiện bỏ nước
ra đi, vì họ đã thấy tấm gương tầy liếp “tắm máu diệt chủng” của
dân tộc Cămpuchia khi bọn Khmer ỏ tay sai Cộng sản Quốc tế
cướp được Chính quyền tại Nam Vang đã thực hiện hồi đầu
tháng 4 năm 1975 trên đất nước xứ Chùa Tháp ế Thiên ế
Thích. Cả hơn 2 triệu người dân Cămpuchia bị đập đầu đến chết
một cách rất man rợ, chẳng khác nào Việt Cộng đã chém giết
chôn sống gần chục ngàn đồng bào Việt Nam tại Huế trong cuộc
“Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968”.

395

Sau suốt mấy chục tiếng đồng hồ tù túng ê mông đau lưng nằm
ngồi trên chuyến xe lửa Thống Nhất đặc biệt, nay được nằm dài
duỗi thẳng chân tay trên sàn ván nên mọi người thoải mái từ từ
chìm vào giấc ngủ mê mệt chẳng biết trời trăng gì.

ang mê man trong mộng Hoàng Lương thì những tiếng cồng
đánh thức sáng oang oang vang trong sương mù làm mọi người
tỉnh giấc. Uể oải mắt nhắm mắt mở ngồi dậy Tôi cứ tưởng mình
đang ở Thanh Phong, nhưng khi chống tay ngồi lên cảm thấy
chiếc sàn nằm bằng ván cứng mới nhớ ra mình đang ở Trại Hàm
Tân tỉnh Thuận Hải trong miền Nam.

Chờ hoài không thấy Cán bộ đến mở cửa nhà giam nhưng anh
em chẳng ai ngạc nhiên, vì mọi người đã quá quen thuộc với cái
quy luật cố hữu của Trại Cải tạo Cộng sản là Tù mới tới bao giờ
cũng được ở nhà một đôi ngày làm thủ tục khai báo lý lịch, sau
đó Ban Chỉ huy Trại dựa theo lý lịch xếp loại thành phần để
“biên chế” vào các ội rồi mới đưa ra ngoài lao động.

Tất cả Tù cũ theo nhau xuất Trại lao động hết xong xuôi Cán bộ
mới đến mở cửa cho chúng tôi ra, làm vệ sinh cá nhân và đi lãnh
phần ăn sáng về chia nhau. ược ra sân nhìn quanh giữa ban
ngày, thấy Trại giam này rộng rãi hơn K2 Thanh Phong Thanh
Hoá rất nhiều. Trại ngự trị trên một khoảng đồi rộng và được
chia thành 2 khu riêng biệt cách nhau bởi con đường đủ rộng
cho 2 xe tải chạy ngược chiều không phải ngừng để nhường
nhau. Khu bên phía ông con đường có nhiều cây cao to tàn lá
um tùm mát mẻ, với những căn nhà khang trang như một xóm
dân cư dành cho Cán bộ và các cơ sở Ban Chỉ huy Trại. Còn khu
bên phía Tây trơ trụi không cây, với một lũy đất cao 1 mét trồng
tre gai tươi dầy đặc rộng cỡ 2 mét bao quanh để nhốt Tù.

396

Bên phần đất giam Tù được chia thành 2 khu cách nhau bởi một
khoảng trống rộng và hàng rào kẽm gai. Khu trên cao nơi đang
giam chúng tôi gồm toàn nhà mái tôn, Nhà Bếp, Hội trường,
Bệnh xá và một giếng nước lớn. Khu dưới thấp gồm 3 dẫy nhà
gạch, 2 dẫy mái lợp ngói và 1 dẫy lợp bằng những miếng fibro
ciment sóng gợn. Anh em Tù cũ gọi là Khu Nhà Ngói giam
những Tù bị Trại coi là nguy hiểm cần cách ly, Nhà Kỷ Luật
giam Tù vi phạm Nội quy Trại cũng ở trong Khu Cách Ly này.

Tại trại này, mỗi dẫy nhà giam đều bị quây chung quanh bởi một
hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 2 mét. Nhà nọ cách nhà kia
một khoảng đất trống chừng 50 mét và có một đường đi rộng 5
mét ở chính giữa. Dọc bên hàng rào phía cuối của mỗi dẫy nhà
là nơi Tù được phép gây bếp để nấu nướng linh tinh tăng cường
cho 2 bữa ăn hàng ngày của mình.
Hết giờ lao động sáng, từng ội Tù cũ lần lượt trở vào Láng
giam sau đó ùn ùn kéo nhau ra khu bếp ngoài trời nấu nướng.
Chúng tôi ra sát hàng rào bên Láng đứng quan sát ngóng tìm bạn
bè quen cũ trao đổi tin tức. Nhiều Bạn gặp người quen cùng đơn
vị cũ hỏi thăm nhau rối rít. Tôi không nhận ra được ai quen vì
phần lớn anh em thuộc đơn vị tác chiến. Bỗng nhiên có một anh
cỡ hơn 3 chục tuổi, loay hoay nhóm bếp xong đứng lên vẫy tay
về phía Tôi lớn tiếng gọi:

“-Trưởng Hùng! Trưởng Hùng! Em là X đây, Hướng đạo
Quân đội Tiểu khu Định Tường đây, Trưởng có nhận ra
không? Ôi chao! sao lúc này Trưởng già ốm quá vậy?
Trưởng có cần gì không? Cho biết em ném sang tiếp tế cho
Trưởng.”

Ngờ ngợ một lúc lâu Tôi mới nhớ ra anh bạn X Trung úy thuộc
Khối Chiến tranh Chính trị ở Mỹ Tho, đã theo Trại huấn luyện

397

Huynh Trưởng Hướng đạo Quân đội tại Căn Cứ Tiếp vận Long
Bình do Tôi làm Trại trưởng. Bạn ấy học Trại Ngành Thiếu để
về tổ chức hướng dẫn con em gia đình quân sĩ trong Tiểu khu
sinh hoạt trau dồi Trí, ức, Thể lực, và hoạt động Giúp Ích xã
hội trong những giờ nhàn rỗi ngoài học đường. Tôi lắc đầu trả
lời:

“-Không cần thực phẩm, chỉ cần ít củi đun thôi.”

Anh bạn X liền chạy ra góc sân lấy một bó củi ngắn nhỏ ném
qua đỉnh 2 hàng rào sang cho. Tôi cám ơn rồi đem vào đưa cho
anh bạn ăn chung chuẩn bị nấu nướng món tăng cường cho bữa
trưa của chúng tôi.
Hôm sau là mồng 1 tháng 5 Lễ Lao động Quốc tế cả Trại nghỉ
không phải ra ngoài lao động. Việc nấu nướng “cải thiện” được
thực hiện cả ngày không hạn chế, anh em tha hồ đứng bên hàng
rào hàn huyên thăm hỏi nhau thoải mái. Tôi đang ở trong Láng
giam viết thơ gửi về gia đình báo địa chỉ liên lạc mới, thì một
bạn ở chung Láng từ khu nấu nướng chạy vào cho hay có người
nhắn muốn gặp Tôi. Thủng thẳng đi ra khu nấu nướng bên hàng
rào nhìn sang coi ai kiếm mình, Tôi thấy Trung úy X đứng bên
một người cao lênh nghênh. Anh bạn cao như cò sếu dơ tay vẫy
vẫy rồi chào theo kiểu riêng của Hướng đạo sinh và lên tiếng:

“-Chào Trưởng Hùng, Em là “Hươu Lém” đây, Trưởng có
nhớ ra Em không?” Bạn này thì Tôi nhớ ra ngay vì cái dáng
dấp cao đặc biệt, hồi bạn ấy tham dự Trại huấn luyện
Trưởng ngành Kha đã được Toán Huấn luyện tổ chức cuộc
săn đêm theo lối sinh hoạt của Hướng đạo để đặt Tên Rừng
Hướng Đạo Sinh cho bạn ấy nên Tôi nhớ mãi không quên
được.

398

Tôi cười gật gật đầu nói:

“-Nhớ! Nhớ! làm sao quên được kỷ niệm cuộc săn đêm ở
Trại Kha ngày nào.”

Bạn ấy vỗ tay cất tiếng ha hả cười và ném qua hàng rào sang cho
Tôi một túi ni lông. Tôi nhặt mở ra xem thấy trong có bó rau
muống và một chiếc mũ rộng vành đan bằng lá buông, kiểu
Hướng đạo sinh thường đội. Trong suốt 6 năm ở trong các trại
Z30C và Z30D tại Hàm Tân, Tôi đã dùng chiếc nón lá này đội
để che mưa nắng và khi dược tha về Tôi cũng đem theo làm kỷ
niệm, nhưng tiếc quá khi lu bu chuẩn bị hành lý cùng gia đình đi
định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ vào đầu tháng 8 năm 1992 Tôi đã

quên không mang theo.

Nghỉ Lễ Lao động xong mọi người tiếp tục đi lao động, nhóm
anh em chúng tôi mới đến được ở trong trại chờ “biên chế”thành

ội. Nhóm ại tá chúng tôi được tăng cường một số Trung Tá
gốc Pháo binh, Công binh, Tổng quản trị, Biệt động quân, An
ninh quân đội, Chiến tranh Chính trị, có cả Cảnh sát Quốc gia và
4 ại tá từ nơi khác về (trong đó có anh ại tá Hải quân Nguyễn
văn Tấn) lập thành ội Nông Nghiệp.

Anh Tấn nguyên là Tham mưu phó Chiến tranh Chính trị Bộ Tư
lệnh Hải quân, được “biên chế” vào chung một Tổ với Tôi.
Chúng tôi chiếm chỗ nằm gần bên nhau để dễ tâm sự, có lần Tôi
hỏi anh có biết gì về tin tức Trung tướng Trần văn Trung Tổng
cục trưởng Chiến tranh Chính trị không? Anh Tấn đã kể cho mọi
người cùng nghe: “-Lúc 11 giờ sáng ngày 30-4-1975 sau khi
Tướng Dương văn Minh kêu gọi Quân đội buông súng qua làn
sóng đài phát thanh Saigon, thì Trung tướng Trung đến Bộ Tư
lệnh Hải quân gặp anh ấy và anh ấy đã lo thu xếp chiếc tầu thủy

399

chót còn lại đang đậu trong Hải quân Công xưởng chở Trung
tướng Trung xuôi theo sông Lòng Tào thoát khỏi Saigon ra
ngoài khơi Vũng Tầu đi tỵ nạn, nhưng cá nhân anh Tấn không đi
theo.” Tôi không tìm hiểu lý do tại sao anh Tấn không đi, vì mỗi
người có hoàn cảnh cá nhân riêng không muốn người khác biết.

Tại Trại Hàm Tân này cũng như ở những Trại khác, các ội
được phân biệt bằng một số riêng, ội chúng tôi mang số 6,
tổng số gồm 42 người (17 ại tá, và 25 Trung tá). Trung tá
Phạm ngọc Xuyến (gốc Tổng Quản Trị làm việc tại Bộ Tổng
tham mưu) được chỉ định làm ội trưởng của chúng tôi. Trung
tá Nguyễn văn Sáu (gốc Biệt động quân, làm việc tại Trung tâm
thẩm vấn tù binh, thuộc Phòng Nhì Bộ Tổng tham mưu Quân
lực Việt Nam Cộng hoà) làm ội phó.

“Biên chế” xong chúng tôi được lệnh khuân vác đồ đạc tư trang
di chuyển ngay xuống Khu Nhà Ngói (tức là khu cách ly).
Khoảng cách giữa 2 khu trên dỉnh đồi với khu cách ly nơi dưới
chân đồi cũng cỡ hơn nửa cây số. Có người nhiều đồ tiếp tế quá
một mình vác không xuể phải nhờ bạn bè tiếp tay, đi qua đi lại
2, 3 lần mới khiêng hết được đồ đạc và tư trang. ến nơi giam
mới chúng tôi phải mở hết tư trang và đồ tiếp tế riêng của mình,
bầy mỏng trên mặt đất giữa sân y như ngồi bán chợ trời để Cán
bộ lục soát kiểm tra. Cuộc kiểm tra lần này thật là tỉ mỉ khác
thường, phải phơi nắng suốt ngày đến gần chiều mới xong để
được dọn vào nhà ở.

Nghe nói các dẫy nhà giam này được xây cất theo khuôn mẫu
nhà giam bên Liên xô, hèn chi thấy nó thoáng rộng hơn các nhà
giam xây cất ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú trên đất Bắc Xã hội Chủ
nghĩa rất nhiều. Mỗi dẫy nhà được ngăn đôi y như 2 căn phố nối
dài liên tiếp để giam 2 ội khác nhau, nhân số mỗi ội khoảng

400


Click to View FlipBook Version