The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

muốn dính vào vụ cãi cọ giữa Cảnh vệ hung hăng phi lý đối
với Tù.

Mọi người lo cho anh Hoa, có thể bị kỷ luật vì việc này. Nhưng
rồi chẳng thấy gì, sự việc êm ả qua đi trong quên lãng của mọi
người.

Ngày hôm sau, ội chúng tôi được đưa vào làm tại lò ép miá.
Một số anh em ngồi gióc vỏ cây miá trước khi cho vào trục ép.
Một số khác luân phiên nhau, đẩy cần quay trục ép miá thay cho
trâu.

Rút kinh nghiệm vụ anh Hoa, anh em ai thấy cần cải thiện chất
ngọt thì xin Cán bộ, cho nhặt những khúc gốc và ngọn miá vứt
dưới hố rác bên lò nấu mật, đem ra sông rửa sạch trong giờ đi
rửa chân tay trước khi trở về trại nghỉ, và ăn ngay bên bờ sông,
hoặc dấu vào bị đem về trại ăn sau vào buổi tối.

Từ Tết Kỷ Mùi (1979) trở đi, Tù được ăn độn hàng ngày theo
“tiêu chuẩn” 75 phần trăm “sắn duôi” và 25 phần trăm cơm
trắng. Theo thông lệ, tới khoảng tháng 4 (tháng giáp hạt) là thời
gian hè không trồng được lúa, phải trồng hoa mầu phụ như đậu,
cà, bắp, Tù thường phải ăn “sắn nút chai”. Nhưng không biết vì
sao, năm nay Trại bắt đầu được cung cấp hạt Bo Bo và bột Mì
do nước ngoài viện trợ, cho Tù ăn thay “sắn nút chai”.

Phải chăng đây là kết quả Hội nghị tại Genève, do Liên Hiệp
Quốc triệu tập theo yêu cầu của Hoa Kỳ, để giải quyết vấn đề
nhân đạo đối với Tù chính trị miền Nam ?

Cán bộ Quản giáo ội Nhà Bếp ở đây, cũng chỉ dẫn cho Tù cách
nhồi bột Mì với nước, đóng theo khuôn gỗ tròn, luộc chín phát

251

cho Tù y như bên Trại Quân đội trước kia. Chắc đây là “kỹ thuật
đồng bộ”, Nhà Nước Xã hội Chủ nghiã nghiên cứu và truyền
dạy cho Quân Cán cả nước cùng theo.

“Tiêu chuẩn” phần ăn hàng ngày vẫn ít ỏi, không trang trải đủ
nhu cầu cần yếu của cơ thể. Nạn đói vẫn tiếp tục hành hạ những
người như tôi, không được gia đình tiếp tế sung túc đầy đủ như
các bạn khác. Nên ngoài việc cải thiện linh tinh lén lút thường
xuyên hàng ngày, một số anh em còn phải lấy một vài vật dụng
riêng như khăn rửa mặt, hoặc thuốc lào trại phát hàng tháng... để
trao đổi cho bọn Hình Sự lấy Bánh Mì Luộc hoặc Bo Bo để ăn.
Dĩ nhiên chỉ có mấy đứa “Hình Sự ầu Nậu” trong tù, mối lái
móc ngoặc với anh em để làm việc này, chớ không phải tất cả
bọn Hình Sự.

“Tiêu chuẩn” ăn hàng tháng của bọn Hình Sự được quy định là
11 kí lô, ít hơn phần ăn của Tù Chính trị miền Nam là 12 kí lô.
Thế mà ngày nào chúng cũng có dư phần ăn để đem trao đổi,
vào buổi sáng trong thời gian mọi người chờ đợi ra sân tập họp
đi lao động. Chắc là bọn Hình Sự phục dịch ngoài Bếp Cán bộ,
đến khuya mới trở vào Trại ăn cắp đem về cung cấp cho bọn
“ ầu Nậu” trao đổi.

Tôi thấy anh bạn nằm bên cạnh ( ại tá Nguyễn ngọc Thanh
trước 30-4-1975 làm tại Phủ Tổng Thống) cũng có đổi hoài, nên
hỏi thăm và nhờ anh ấy chỉ mối để đổi chiếc khăn mặt mới lấy
chiếc bánh mì luộc. Ngay sau khi trao đổi, tôi lanh lẹ lỉnh vào
Láng ngủ, dấu chiếc bánh mì xuống dưới đống các bao tải đựng
quà anh em cất trong kho, nơi gần khu có thùng vệ sinh ban
đêm. Vừa xong thì ngoài cửa có tiếng anh ội trưởng ( ại tá Lê

ình Luân, ơn vị 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu)

252

gọi tôi, và cho biết là Cán bộ Trực Trại kêu tôi phải trình diện
ngay tại Văn phòng Ban Thi ua.

Mọi người nhìn tôi lo lắng, vì thấy cậu Hình Sự đổi bánh cho
Tôi bị bắt dẫn lên Văn phòng Thi ua, vừa đi vừa bị đánh túi
bụi. Riêng tôi thì đã chuẩn bị sẵn cách ứng phó, nên tỉnh khô
lặng lẽ đi trình diện. Vừa bước chân vào văn phòng Thi ua,
Cán bộ Trực chỉ mặt tôi nạt lớn :

“-Thằng này nó vừa đưa cho anh cái gì?” tôi nhanh nhẹn trả lời
ngay là không có. Nó thấy tôi cầm chiếc khăn mặt lông định lót
thêm dưới mũ đội cho ấm đầu. Nó năn nỉ xin để cuộn cổ cho ấm
vì lạnh quá. Tôi vừa mới được gia đình gửi quà cho 2, 3 cái, nên
cũng dư, thấy nó tội nghiệp cũng muốn cho. Nhưng đang còn
lưỡng lự, vì sợ vi phạm Quy luật Trại giam, chưa quyết định. Nó
liều giật đại rồi chạy tuốt vô khu ở của nó, chớ có đổi chác gì
đâu. Không tin Cán bộ khám người tôi và đồ đạc nơi ngủ của tôi
xem có gì không. Nếu có thì tôi sẽ chịu “kỷ luật”. Vừa nói tôi
vừa thọc tay vào túi quần móc ra nửa miếng bánh mì luộc, và
phân bua đây là phần “tiêu chuẩn” sáng của tôi, mới lãnh xong
hãy còn nguyên chưa kịp ăn.

Cán bộ Trực Trại đấm đá thằng Hình Sự túi bụi, và hỏi nó :

“-Có đúng vậy không?”

May mắn làm sao, nó gật đầu và quỳ xuống đất chắp tay vập đầu
lạy Cán bộ lia lịa, năn nỉ xin tha. Ông ta dơ cao chân đạp vào
ngực nó ngã ngửa ra phiá sau, vừa đúng lúc hồi kẻng tập họp
xuất trại nổi lên. Lập tức ông ấy quay lại xiả mạnh tay vào ngực
tôi, và nói :

“-Anh liệu hồn, thôi đi đi.”

253

Thật là xui xẻo hú hồn hú viá, người ta đổi hoài chẳng sao, mình
mới thử lần đầu tiên đã mắc kẹt ngay. ây là lần đầu và cũng là
lần cuối, tôi liều lĩnh lén lút tiếp xúc trao đổi với tụi Hình Sự.
Chuyện không may đã xẩy đến với tôi, nhưng may mắn không
việc gì, vì tôi đã chuẩn bị đề phòng trước.

Vào cuối mùa Hè ở vùng này thường có những đợt mưa rào,
nước trên Trời trút xuống xối xả như thác đổ. Mỗi ngày có đến
2, 3 cơn mưa lâu cỡ vài tiếng đồng hồ mới dứt. Có những đợt
mưa kéo dài 3, 4 ngày, và sau mỗi cơn mưa mặt trời trở lại nắng
gắt oi ả hơn, không một ngọn gió, nóng nực kinh khủng. Tiếp
theo những cơn mưa rừng chừng vài tiếng đồng hồ, bao giờ
cũng là một tai họa khủng khiếp. Thác lũ nước nguồn dồn
xuống, bứng cây cuốn theo phá hoại hoa mầu, nâng mực nước
sông lên cao tràn ngập mênh mông. Nước lũ cứ cuồn cuộn vài
ngày đêm như vậy mới lần lần thoát hết. Tất cả những gì con
người đã khổ công reo trồng vun bón, ở 2 bên sông chưa tới
ngày thâu hoạch, bị nước lũ cuốn trôi theo dòng xuống đồng
bằng ra biển cả ráo trọi. Chỉ còn lại một lớp phù xa đỏ ngầu,
ngập lút đầu gối.

Oái oăm thay, cũng chính vào cái mùa mưa lũ này, các bà vợ từ
miền Nam lẻ tẻ được phép đến Trại “thăm nuôi”, cung cấp tiếp
tế thực phẩm cho Chồng “bồi dưỡng” lấy lại sức khoẻ. Thời gian
Vợ Chồng gặp nhau chỉ được có 15 phút, chuyện gia đình con
cái ra sao trao đổi còn chưa đầy đủ, thời giờ đâu mà tả cảnh khổ
cực dọc đường cho các Ông nghe.
Tuy nhiên cũng có những anh ội trưởng, những anh Nấu Nước
ngoài “hiện trường lao động” cho ội, được Quản giáo ội
“chiếu cố” đề nghị Trưởng trại cho thăm 2 tiếng đồng hồ buổi
trưa. Có người còn được ở lại bên vợ 24 giờ đồng hồ, tại Nhà

254

Thăm Nuôi. Không có sự hiện diện kiểm soát của Cán bộ, Vợ
Chồng tha hồ tâm sự nhỏ to đủ mọi chuyện.

Nhờ thế, những tin tức về các cuộc họp tại Genève, liên quan
đến các phương thức giải quyết vấn đề Tù miền Nam, luôn luôn
được cập nhật hoá, và là đề tài xì xầm hàng ngày giữa anh em
Tù miền Nam trong cả Trại. ây là những liều thuốc bổ hữu
hiệu nhất, để chữa căn bệnh thất vọng của anh em đã phải chịu
đựng trong suốt mấy năm qua.

ỐC ĐẢO TÂN LẬP-VĨNH PHÚ.

Nắng hạn khô da nứt nẻ đồng,
Mưa nguồn lũ cuốn, khổ bần nông.
Cầm hơi lao động, lưng ca sắn,
Khắc phục bệnh thời, nắm lá xông.
Hung hãn Cai tù hăm hở nạt,
Hững hờ Cải tạo lạnh lùng trông.
Rừng hoang đất sỏi chen vồng miá,
Núi trọc hầm vôi dựng đá chồng.

K5 - Trại Tân Lập - V nh Phú, Hè 1979.

Chương 23.
NẾP SỐNG VÀ PHONG CÁCH
CON NGƯỜI XÃ HỘI CHỦ NGHIÃ VIỆT NAM

Mấy ngày cuối năm Âm lịch Mậu Ngọ (1978), ội chúng tôi
được đưa ra quét dọn rác rưởi cỏ dại, vét mương rãnh, quanh
khu gia binh và chung quanh các cơ sở của Ban Chỉ huy trại Tân
Lập, để Cán bộ và gia đình đón Xuân Kỷ Mùi (1979) cho được
sạch sẽ đẹp mắt.

255

Nhân dịp làm cỏ trong khu trồng rau của Cán bộ nơi gần bờ
sông, Tôi đưa mắt quan sát bốn phiá không thấy bóng Cán bộ,
liền ngồi thụp xuống bên luống rau, bứt trái bí nhỏ dấu vào bị.
Anh bạn ại tá Chu văn Sáng (An ninh Quân đội) đứng gần
trông thấy, nhìn Tôi nháy mắt rồi từ từ lỉnh xa ra chỗ khác. Tôi
đã mượn vắng mặt Cán bộ một trái bí rợ còn non (ngoài Bắc gọi
là bí ngô), to cỡ 2 nắm tay chụm lại, đem về phòng giam ăn sống
với “sắn duôi” và nước muối. Úi chao! nó ngon ngọt mát ruột
biết chừng nào!

Một lần khác, anh Sáng cũng rẫy cỏ vun luống rau của Cán bộ
gần bên Tôi, thấy bầy gà con cỡ nắm tay cứ sấn vào quanh lưỡi
cuốc để giành những con giun. Anh ấy hỏi có dám bập gà con
không? Tôi trả lời, gà phải lột lông phiền hà, không ăn sống như
bí được, nên đành sinh phúc cho chúng, để tránh tội sát sanh.
Nhưng Ếch, Nhái, lột da dễ dàng ngâm nước muối ăn sống
được, sẽ không tha mạng chúng. Hồi còn ở bên K1, anh Sáng
được chia chỗ nằm ngay bên cạnh Tôi. Anh em có nhiều dịp tâm
sự, nhận biết được anh ấy là người dễ mến không độc ngầm.
Sang K5 này, anh em lại được “biên chế” vào chung một Tổ,
nên Tôi mới dám cải thiện linh tinh ngay trước mặt anh ấy.

Dịp Tết Mậu Ngọ (1978), tại K1 có tổ chức các cuộc thi vui
Xuân, cho Tù tham gia tranh giải thưởng. Anh Sáng ghi tên đấu
bóng bàn, vì trước kia anh ấy từng là đấu thủ có hạng trong đoàn
tuyển thủ của Việt Nam Cộng Hoà, sang Nhật Bản dự tranh giải
bóng bàn Quốc tế vùng Á Châu. Nhờ có ngón thủ tuyệt vời bền
bỉ, anh ấy đã thắng và đoạt chức Vô địch. Nên hy vọng trong
Trại Tù này không ai hơn nổi, giải thưởng hạng Nhất 10 trái
trứng gà, sẽ lọt vào tay anh ấy dễ dàng. Tôi đã khuyên không
nên tham dự, “tre già măng mọc” cơ thể đang suy nhược lại

256

không tập luyện, e lỡ thua thì cái Danh Vị Vô địch Á Châu một
thời sẽ bị tiêu vong oan uổng. Anh ấy nhất định không nghe, và

nói :

“-Giữa lúc “củi châu gạo quế” này, 10 trái trứng là cả một
gia tài quý báu cho sức khoẻ. Hơn nữa, đây là dịp được tham
gia cải thiện hợp pháp, sao mình không thử thời vận?”

Kết quả đúng như Tôi đã tiên liệu. Vào chung kết, anh Sáng
thua một bạn trẻ còn khoẻ mạnh, có lối chơi tấn công thật vũ
bão, phần thủ của bạn ấy cũng không phải hạng thường, nên đã
giành mất giải Nhất. Anh Sáng được hạng Nhì, lãnh 5 trái trứng
gà. Sau buổi tranh đua về Láng, anh Sáng nhìn Tôi mỉm cười nói
: “-Vous (Bạn) nói đúng.”, và đưa tặng Tôi một trái trứng để
chia sẻ tâm tình bằng hữu. Tôi không nhận vì mới được Bưu
kiện của gia đình gửi tới

Tết Kỷ Mùi (1979) tại K5 (Phân trại Trung ương), nơi có Ban
Chỉ huy Trại Tân Lập, việc tổ chức mừng đón Xuân có vẻ nhộn
nhịp quy mô hơn Tết Mậu Ngọ (1978) ở Phân trại K1. Chung
quanh sân tập họp suốt từ cổng vào tới cửa Hội trường, những
cây Mai giả, ào giả, bông và lá làm bằng giấy mầu, được trang
trí rất nghệ thuật đẹp mắt. Quang cảnh rực rỡ y như “Bồng lai
Tiên cảnh” trên Thượng giới chuẩn bị mừng Chúa Xuân, mà các
Văn Thi sĩ giầu óc tưởng tượng thường mô tả.

úng giao thừa có đốt pháo đón Tân Niên. Vài phút sau, thấy
Cán bộ Trực Trại và “Thi đua” đến mở cửa phòng giam, cho
Trưởng Trại Tân Lập (Thiếu tá Công An Nhân Dân Nguyễn
Thùy) và Giám thị Trưởng Phân trại K5, vào chúc Tết anh em

ại tá chúng tôi, được sức khoẻ tốt để học tập mau tiến bộ. Ông
Thùy còn khen chúng tôi trong năm qua đã có tinh thần học tập

257

cải tạo tốt, và khuyên nên tiếp tục cố gắng hơn nữa, để sớm
được Nhà Nước xét cho về “đoàn tụ” với gia đình.

Chúc Tết xong, ông ấy hỏi :

“-Anh em có ai biết anh Nguyễn Bá Cẩn, Cựu Chủ tịch Hạ
viện Quốc hội thuộc chế độ cũ tại miền Nam không?”

Rồi khoe là :

“- Mấy năm về trước, anh Cẩn cũng học tập cải tạo tại đây,
đã được tha trước khi các anh đến đây. Từ ngày được tha đến
nay, năm nào anh Cẩn cũng vẫn nhớ gửi thư chúc Tết, và
không bao giờ quên ngỏ lời biết ơn sự đối xử rất “tình
người” của Ban Giám thị, cũng như khoe rằng trong cuộc
sống mới tại địa phương, được Chính quyền Cách mạng và
đồng bào thương yêu đùm bọc.”

Anh ội trưởng ( ại tá Lê đình Luân, ơn Vị 101 thuộc P.2
B.TTM) đại diện anh em chúng tôi, cám ơn và chúc Tết đáp lễ
Ban Giám Thị. Anh ấy cũng thay mặt anh em cả ội, hứa sẽ
luôn luôn cố gắng học tập “lao động cải tạo” hăng hái hơn năm
cũ, để sớm được hưởng lượng khoan hồng của ảng, Nhà Nước,
và Ban Giám thị Trại, tha cho về “đoàn tụ” với gia đình, hội
nhập vào cuộc sống mới trong lòng Dân tộc Xã hội Chủ nghiã.

ể tỏ thái độ “tình người Xã hội Chủ nghiã” của Ban Giám thị
đại diện ảng và Nhà Nước, ông Thùy kêu Cán bộ tháp tùng
đem thuốc lào, thuốc lá, và trà ướp sói, sản phẩm của tỉnh Vĩnh
Phú, “lì xì” cho anh em chúng tôi chia nhau mừng đón Xuân.
Quà này là tiền trích từ “tiêu chuẩn” Nhà Nước cho Tù ăn Tết để
mua. Thật là “của người phúc ta”.

258

Sáng mồng Một Tết, tất cả Tù và các Quản giáo thuộc Phân trại
K5 phải tập trung lên Hội trường, để nghe lời chúc Tết của Ban
Giám thị Trại trưởng (thường gọi tắt là “BAN”). Có múa Lân
đốt pháo, đón rước “BAN” từ ngoài cổng vào Hội trường. Khi
“BAN” vào tới Hội trường, mọi người phải đứng lên vỗ tay đón
chào. Cho đến khi “BAN” an vị xong bên bàn Chủ tọa trên sân
khấu, mọi người mới được phép ngồi bệt xuống đất, đợi nghe
“huấn từ vàng ngọc” của “BAN”.

“BAN” chúc Tết và phác họa những điểm chính yếu, Trại cần
phải thực hiện trong năm mới theo lệnh của Nhà Nước. Sau đó,
đến lượt đại diện Tù lên đọc lời chúc Tết “BAN”. Tiếp theo,
trưởng Ban Thi ua của Phân trại, trình bầy Dự án Kế hoạch
năm mới, cho mọi người “nắm vững” để mà ra sức “thi đua”.
Sau cùng, các ội trưởng đại diện cho từng khối : Nông nghiệp,
Lâm sản, Lò gạch, Rau xanh, Xây dựng, Mộc và an lát lên đọc
“bản cam kết quyết tâm thi đua”, hoàn thành trăm phần trăm
“chỉ tiêu giao phó đúng hạn kỳ”.

Chấm dứt buổi lễ chúc Tết đầu năm, “BAN” và Cán bộ rời Hội
trường, Tù giải tán ra sân tập họp dự các cuộc vui tranh giải
thưởng. Tôi không nhớ có những trò vui gì, vì không quan tâm
tham dự. Bỏ về phòng giam nằm ngủ cho quên nỗi nhớ Con
thương Vợ, chắc giờ này đang rất buồn khổ, 3 cái Tết đã qua đi,
gia đình thiếu bóng người Cha người Chồng thân thương.

Buổi tối có tổ chức trình diễn Văn nghệ tại Hội trường, cho cả
Tù, Cán bộ và gia đình Cán bộ cùng xem. Những người tham
gia ội múa Lân và ội Văn nghệ, được tuyển dụng trong nhóm
anh em Tù miền Nam có khả năng, thành lập ội Văn Nghệ tập
dượt thực hiện. Một số thuộc gốc Chiến tranh Chính trị, trong đó
có cả Linh Mục và ại ức Tuyên úy Quân đội.

259

Chương trình Văn nghệ rất dồi dào đầy đủ. Nào là đơn ca, tốp
ca, nhạc cảnh, và đặc biệt có trình diễn một vở tuồng được các
Cán bộ rất thích, trầm trồ ca ngợi. Tôi không nhớ chắc tên, hình
như tuồng Dương Vân Nga. Các nghệ sĩ có trang phục trình diễn
tươm tất, y như một đoàn hát lưu động miền quê. Vai Nữ được
mấy bạn người mảnh mai thủ vai, hoá trang trông thật xinh đẹp,
duyên dáng yểu điệu, làm mọi người vô cùng ngạc nhiên thích
thú. Chẳng biết trang phục và nhạc cụ kiếm ở đâu ra? Chắc Ban
Giám thị đi thuê của đoàn Văn Công Nhà Nước nào đó..

Ba ngày Tết qua đi, đợt “thi đua sản xuất” đầu năm được “phát
động ra quân” rầm rộ, có Lân, có pháo mở đường. ội chúng tôi
đi tăng cường trồng đậu cho một ội Nông Nghiệp khác, cách
Trại chừng hơn cây số về hướng Bắc của thung lũng.

Trên đường ra “hiện trường lao động”, chúng tôi thấy nơi giữa
đồng trống, xa xa gần bờ sông, một đám đông khoảng dăm chục
người cả đàn ông lẫn đàn bà, đang túm năm tụm ba, kẻ đứng
người ngồi, đi đi lại lại, nói năng ồn ào. Chúng tôi vừa đi vừa
quay mặt quan sát ngạc nhiên, không biết đám ma hay đám mít
tinh. Quản giáo ội thấy vậy, lên tiếng giải thích : “-Phiên họp
chợ định kỳ của dân địa phương đó.”

ất ruộng qua suốt mùa ông mưa phùn, ẩm ướt mềm xền xệt,
có chỗ úng vũng đầy nước. Trong lúc lên luống, mỗi nhát cuốc
là một lần bùn văng tùm lum lên người. Anh Trần văn Thăng
( ại tá An ninh Quân đội) vui miệng ca nho nhỏ, bài hát có câu
“...nhà.a. nông, chân lấm ta.ay bùn...”. Chẳng may Quản giáo

ội đi ngang nghe được, gọi lên bắt đứng giữa sân trước Nhà Lô
“làm việc” thật lâu. Ông ta lên giọng hạch hỏi, phê phán nặng nề
vì tội chưa ý thức được “lao động là vinh quang”, còn “ngại khó
ngại dơ”, “nặng óc tư sản, ngồi mát ăn bát vàng” ...

260

Ít ngày sau, ội chúng tôi lại đổi công tác, đi xắn đất vét ao
chứa phân, bên truồng “heo (lợn) cải thiện” của Cán bộ, cho xâu
thêm để trại thả cá theo chương trình “VAC” của Nhà Nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi còn sinh tiền, học được của các ồng
chí Cách mạng đàn anh bên Trung Hoa đem về áp dụng. Nếu
Tôi nhớ không lầm thì “VAC” là ám hiệu viết tắt của 3 chữ :
Vườn rau, Ao cá, và Con lợn (chuồng lợn), theo lời giải thích
của Cán bộ hướng dẫn học tập lao động.

Buổi sáng hôm đó trời âm u, thời tiết cũng còn ngăm ngăm lạnh.
Anh em chia nhau thành 4 toán làm việc cùng một lúc. Hai toán
lội xuống ao, đứng xắn đất thành từng khối vuông bằng lưỡi
xẻng. Hai toán đứng làm dây chuyền, bê chuyển những tảng đất
đã xắn ra từ lòng ao lên bờ. ất nhão đen xì xền xệt, trộn lẫn
phân heo lâu ngày hôi thối muốn ngộp thở, vẫn phải cắn răng
mà cố gắng làm cho mau xong.

Vào khoảng giữa buổi lao động, một trận mưa thật lớn đổ
xuống, mọi người chạy lên ẩn trú dưới mái chuồng heo để tránh
mưa. Cảnh vệ nạt nộ :

“-Ai cho các anh nghỉ? xuống tiếp tục làm ngay!”

Mọi người còn đang ngần ngừ, Cảnh vệ lên đạn súng và hét tiếp
:

“-Chúng mày định chống đối phải không?”.

Anh em đành lục tục trở ra tắm mưa tiếp tục công việc.

Trong khi mọi người nín lặng làm việc, giữa tiếng mưa rơi rào
rào trên mái tôn, anh Nguyễn văn Phúc ( ại tá Chiến tranh
Chính trị) vừa bê chuyển đất vừa ngâm nga mấy câu thơ của Tố

261

Hữu, nói đến vấn đề tình người sao đó. Tôi không nghe rõ được
từng tiếng thơ ngâm, thế mà Quản giáo ội đứng núp mưa gần
đó nghe được. Ông ta để cho mọi người tiếp tục lao động trong
mưa, chừng mươi phút sau mới cho phép vào trú mưa. Trong khi
ngồi nghỉ trên sàn chuồng heo, cả ội bị Quản giáo “phê bình
giáo dục” một trận nặng nề. Anh Phúc phải hết lời trình bầy
chứng minh rằng đấy là những vần thơ của ại Thi Hào Tố
Hữu, đang là Bộ trưởng Giáo dục của Chính quyền Cách mạng
tại Hànội, mới thoát khỏi tai vạ.

Khoảng từ tháng 9 trở đi, bắt đầu tàn Thu sang ông, các Bà Vợ
ở miền Nam được giấy phép ra “thăm nuôi” Tù tấp nập hơn, hầu
như ngày nào cũng có. Mấy bạn lâu nay nhận được nhiều Bưu
kiện hơn anh em trong ội, cũng lại là những người có may mắn
được “thăm nuôi” trước nhất. Các Bà đem theo cả 3, 4 chục kí lô
đồ tiếp tế đủ thứ, để trong rương, trong các bao tải đầy nhóc.
Trại phải cho Tù mượn xe “cải tiến” để chở đồ từ Nhà Thăm
Nuôi vào Trại, vì gánh không xuể.

ội chúng tôi có một bạn, quà nhận qua đường Bưu điện tháng
nào cũng 4, 5 Bưu kiện, lúc Vợ tới thăm tiếp tế thêm cũng rất
nhiều, nhắm chừng một người ăn cả năm mới hết. Anh em đã
đặt cho biệt hiệu “phú ông”. Mỗi lần đổi phòng giam hay di
chuyển đi trại khác, “phú ông” phải nhờ tới 2, 3 anh em phụ
khuân mới xuể. Dĩ nhiên những người chấp nhận phụ giúp, cũng
được “phú ông” đền ơn bằng những bữa ăn xứng đáng. Nhưng
có một chuyện làm anh em xì xào, chắc “phú ông” cảm nhận
được. Nên sau này khi vào tới Trại Thanh Phong, Thanh Hoá,
“phú ông” đã tích cực sửa sai. ể lấy lại cảm tình của anh em,
sáng Chủ nhật nào “phú ông” cũng nhờ mấy tay đàn em nấu

262

nướng các món ăn, mời chừng 7, 8 anh em trong ội thay phiên
đến đãi rất linh đình.

Số là khi bà Xã đến thăm lần đầu tiên, ngoài rất nhiều quà khô,
bà Xã còn nấu cho “phú ông” một rá cơm trắng đầy ắp, với gà
luộc nguyên con, đủ cho mười người ăn một bữa no nê. Một
mình “phú ông” ăn phải cả tuần lễ mới hết. Nhưng “phú ông”
chỉ tặng cho 3, 4 người quen thật thân, mỗi người 1 chén cơm,
còn để dành một mình ăn lần mỗi ngày 3 bữa cho đến hết.

Kẹt nỗi thời tiết gặp mùa nắng mưa lẫn lộn, không khí lúc oi lúc
ẩm, trong tù không có tủ lạnh để tồn trữ thực phẩm tươi, nên chỉ
hai ngày sau phân nửa rá cơm còn lại bị thiu chua không ăn
được. “Phú ông” tiếc của đem phơi khô cũng chẳng thành, mốc
meo vàng đỏ mọc đầy, xông mùi chua như mẻ, đành phải đổ bỏ.
Phải chi ngay hôm mới thăm nuôi vào, chia cho những bạn chưa
được gia đình tiếp tế đang thiếu thốn, mỗi người một chén
“miếng khi đói bằng gói khi no”, tiếng thơm hào hiệp sẽ vang
lừng chẳng bao giờ phai trong trí nhớ của anh em.

Một tuần lễ sau, anh em lại thấy “phú ông” đem phơi một lô
năm bẩy chiếc bánh mì tươi dài 4 tấc, sản xuất tại Hànội, cũng
bị mốc meo xanh lốm đốm không ăn được. Cho cũng chẳng ai
dám lấy, vì sợ ăn vào tiêu chẩy thêm họa vào thân. “Phú ông”
đành vứt vào thùng rác, cho Trại đem đi ủ với phân người để
bón ruộng, cho luá, cho rau thêm xanh tốt thâu hoạch cao.

Hầu như tuần nào ội chúng tôi, cũng có người được thân nhân
từ miền Nam hoặc từ Hànội đến “thăm nuôi”. Những bạn nằm 2
bên cạnh và một vài bạn thân khác, mỗi lần có “thăm nuôi” đều
cho Tôi đồ ăn tươi. Người cho nắm cơm nếp với miếng thịt gà
luộc. Người cho mẩu bánh mì cặp ít miếng thịt kho. Người cho

263

chén cơm trắng với chút muối mè đậu phộng. Có người cho
miếng bánh tổ (một loại bánh ở trong Nam, làm bằng bột nếp
trộn đường nấu chín đổ khuôn phơi khô ăn dần)...

Phần Tôi, tự biết hoàn cảnh gia đình khó khăn, Vợ đau yếu phải
lo nuôi tám Con còn nhỏ dại, không mong gì có ai thăm nuôi.
Ngay việc nhận Bưu kiện hàng tháng cũng thất thường, tháng có
tháng không. Bạn bè cho không nhận sợ mất lòng, còn nhận e
rằng mình sẽ không có để trả nợ. Tôi luôn luôn trình bầy sự thật
hoàn cảnh của mình, để từ chối không nhận. Nhưng ai cũng cố
tình ép phải lấy, và nói :

“-Trong hoàn cảnh này, không nên nghĩ đến chuyện “hòn
đất ném đi, hòn chì ném lại”. Sau này nếu chúng mình còn
sống, gặp nhau bạn bè tha hồ mà “chén chú, chén anh” lo
gì.”

Lâu lâu hai ba tháng không chừng, Tôi mới nhận được thư của
gia đình, lo lắng không biết thực trạng hoàn cảnh Vợ Con ra sao.
Tôi có địa chỉ của bà Chị Vợ, nhờ hồi đầu năm 1977 tại Hoàng
Liên Sơn, trong một thư kèm trong Bưu kiện tiếp tế quần áo, Vợ
tôi báo cho biết bà Chị có vào Saigon kiếm thăm gia đình. Chị
ấy cho biết địa chỉ, để phòng trường hợp Tôi được tha về, ghé
thăm nếu thuận tiện. Thư Vợ tôi có viết thêm đôi lời dặn, trong
thời gian đang cải tạo đừng biên thư làm phiền Chị ấy. Nhưng
trong hoàn cảnh hiện tại, cùng bất đắc dĩ, Tôi đành phải gửi thư
cầu cứu bà Chị Vợ, nhờ liên lạc tìm hiểu giùm tình hình hiện tại
của Vợ Con. Chị ấy có chồng người Trung Hoa, mở tiệm trồng
răng vàng tại Hải Phòng.

Thư Tôi gửi đi được khoảng một tháng sau, nhận được hồi âm
của bà Chị Vợ tốt bụng. Bà Chị trách Tôi sao không liên lạc sớm

264

hơn để Bà giúp đỡ, và tại sao không gửi Phiếu Bưu Kiện về đều
hàng tháng cho Vợ tôi gửi quà. ồng thời Chị ấy cũng báo cho
biết, Vợ tôi đang xin giấy phép ra thăm nuôi nhưng chưa được.
Ngoài ra, bà Chị cũng cho biết đã ra Bưu điện Hải phòng, xin
gửi Bưu kiện tiếp tế cho Tôi, nhưng người ta không cho, vì
không có Phiếu Bưu Kiện của Trại giam cấp.

Thật oan nghiệt, tháng nào Tôi chẳng nộp thư và Phiếu Bưu
Kiện do Trại cấp, để Quản giáo ội kiểm tra chuyển gửi về nhà
cho Vợ. Mỗi tháng chỉ được cấp có một Phiếu Bưu Kiện, làm
sao có dư mà gửi để bà Chị tiếp tế phụ cho. Tin tức này chứng tỏ
rõ ràng, thư Tôi gửi cho gia đình hàng tháng theo quy định của
Trại, không được chuyển đi. Hoặc có thể là Chính quyền địa
phương nơi gia đình Tôi cư ngụ, sau khi kiểm tra thư xong đã
vứt đi không phát. Chẳng lẽ nào Bưu điện tồi đến nỗi để mất thư
hoài sao? Các bạn khác trong cùng ội đâu có gặp khó khăn
như Tôi. Ai gửi thư về nhà cũng nhận được hồi âm đều đặn. Có
người hàng tháng còn nhận được 2, 3 thư của gia đình gửi tới.

Mùa ông năm nay tới sớm hơn mọi năm. Ròng rã ngày tháng
khổ xác khổ tâm, cứ tiếp tục theo nhau qua đi trong giá lạnh của
mưa phùn gió bấc. Bỗng một hôm, đang đứng dưới làn mưa bụi
nhẹ nhàng buổi sáng, chờ lệnh xuất trại lao động, Cán bộ Trực
Trại đọc tên những người được nghỉ lao động ra gặp “thăm
nuôi”. Có tên Tôi, mừng hết chỗ nói, bàng hoàng tưởng như
mình đang mơ ngủ. Bước ra khỏi hàng về phòng giam, cất túi đồ
nghề đi lao động, thay bộ quần áo lành lặn tươm tất, đúng như
Trại quy định cho những người được “thăm nuôi” phải tuân
hành. Chờ mọi ội xuất trại hết, Tôi hân hoan ra sân đến cạnh
cổng trình diện Cán bộ giắt đi “thăm nuôi”, cùng lượt với 5 bạn
Tù thuộc các ội khác.

265

Trên đường ra Nhà Thăm Nuôi, đầu óc Tôi trống rỗng. Thực
tình, Tôi không bao giờ nghĩ là Vợ dám liều, để mặc các Con
nhỏ ở nhà không người lớn chăm sóc, mà đi “thăm nuôi” mình,
nên không chuẩn bị tinh thần mong đợi như các bạn khác. Tôi
hoang mang, không biết phải sử xự ra sao, cho đúng quy luật
Trại giam, lúc gặp Vợ sau bao ngày xa cách? Chẳng biết sẽ được
gặp nhau như thế nào? ược phép nói những chuyện gì?

Tới điếm canh, cách nhà thăm nuôi chừng trăm mét, thấy một số
bà từ trong sân tiến ra để nhìn đón chồng. Tôi đảo mắt tìm hoài,
chẳng thấy bóng dáng Vợ mình đâu. ang ngạc nhiên suy nghĩ,
nghe có tiếng gọi :

“-Chú Hùng! Chú Hùng! Chị đây, Chị và cháu đi thăm Chú
đây!”

Quay mặt về phiá có tiếng gọi, Tôi thấy một Bà đã lớn tuổi dáng
người thấp và hơi mập, đang khua tay vẫy. Tôi chăm chú nhìn,
ngờ ngợ mãi mới nhận ra được bà Chị Vợ. Sau 25 năm không
gặp, bà Chị đã già đi nhiều, nhưng giáng vóc và khuôn mặt
không thay đổi, nhờ thế mới nhận được. Bà Chị xáp lại giắt tay
Tôi vừa đi vừa nói :

“-Chú gầy ốm quá, chắc phải xút tới phân nửa người chớ
không ít. Hồi cuối năm 1975 Chị có vào Saigon thăm Cô ấy
và các cháu, thấy ảnh Chú mập mạp tốt tướng lắm. Bây giờ
thì ốm tong ốm teo, thật tội nghiệp, may mà khuôn mặt không
thay đổi, Chị mới nhận được ra Chú đấy!”

Có tiếng Cán bộ quát :

“-Mấy chị kia dang ra, nếu không sẽ không cho “thăm nuôi”
bây giờ. Chờ vào phòng sẽ nói chuyện.”

266

Các Bà tách khỏi chúng tôi, đúng lúc mọi người vừa đi tới trước
sân Phòng Thăm Nuôi. Anh em Tù đứng thành một hàng ngang,
một bạn Tù được Cán bộ chỉ định từ trước khi ra khỏi Trại, dõng
dạc cất tiếng hô lớn như kiểu nhà binh :

“-Nghiêm, báo cáo Cán bộ 6 người K5 xin thăm nuôi.”

Cán bộ gật đầu cho mọi người vào Phòng Thăm Nuôi. Tù vào
trước, ngồi hàng ghế bên phải chiếc bàn dài suốt căn phòng, bề
ngang rộng 1 mét. Thân nhân vào sau, ngồi hàng ghế bên đối
diện. Cán bộ ngồi tại ghế ngay đầu bàn, đọc iều lệ Nội quy
“thăm nuôi”, và quy định thời gian thăm là 15 phút. Hai bên bắt
đầu nói chuyện. Cán bộ tiếp tục ngồi tại chỗ quan sát, lóng nghe
xem Tù và thân nhân nói những gì.

Tôi bị gọi đích danh, chỉ định ngồi ngay sát đầu bàn chỗ gần bên
Cán bộ. Thật là kẹt, 2 Chị Em chẳng dám trao đổi gì nhiều về
chuyện thật của gia đình.

Trước mặt Cán bộ, bà Chị luôn mồm khuyên :

“-Chú phải cố gắng học tập cho tốt, đừng dại dột nghe
người ta xúi bẩy làm những điều sai trái, Nhà Nước sẽ sớm
khoan hồng cho về với Vợ Con.”

Rồi Bà kể lể :

“-Hồi cuối năm 1975 vào thăm Cô ấy và các cháu, Chị đã
thấy mộ phần của Mẹ (nhạc mẫu của Tôi), và những phim
ảnh sinh hoạt gia đình của Cô Chú. Nhờ đó Chị biết được lúc
Mẹ còn sống cũng như sau khi qua đời, Cô Chú đã làm tròn
bổn phận phụng dưỡng Mẹ rất chu đáo. Nếu Mẹ ở ngoài này
gần các Chị, chắc chẳng được như vậy đâu. Biết Chú ở đây

267

rồi, Chị sẽ theo định kỳ Nhà Nước cho phép, đến tiếp tế cho
Chú, tiện hơn là Cô ấy ở trong Nam, đường xá xa xôi, mỗi
lần đi lại vất vả khó khăn. Việc nhà Chú đừng lo, Chị sẽ lưu
tâm giúp đỡ cho. Lần thăm nuôi này, Chị không biết Trại cho
phép tiếp tế cho Cải tạo nhiều thực phẩm như vậy, nên Chị
đem cho Chú rất ít. Chỉ có 2 kí bánh mì khô, 1 kí đường cát,
4 cái bánh chưng nhà gói lấy, và mới nài các Bà ở trong
Nam ra bớt cho được 1 kí mì ăn liền để Chú dùng đỡ. Chị đã
thưa với Anh Cán bộ đây rồi, một tuần lễ nữa Chị sẽ cho
Cháu mang đến tiếp tế thêm cho Chú, những thứ Chú cần để
“bồi dưỡng” cho mau lấy lại sức mà cải tạo cho tốt.”

ến lúc hết giờ thăm, thân nhân và Tù ra trước sân giao nhận
quà tiếp tế, bà Chị đứng sát bên Tôi nói nhỏ :

“-Lẽ ra chúng nó không cho Chị gặp Chú đâu, nhưng Chị đã
đút tiền nên nó mới cho đấy. Lúc xin giấy phép di chuyển ở
Hải Phòng cũng gặp khó khăn, vì không thuộc diện thăm
nuôi. Nhưng Chị đã phải nại lý do Cha Mẹ đã chết hết, Cô ấy
ở xa lại đang bệnh hoạn nên Chị phải thay thế. Chị đưa bức
thư xin giúp đỡ của Chú ra, và đút lót món tiền kha khá hơn
bình thường, chúng nó mới cấp giấy phép cho đi thăm đấy.
Chị ở ngoài này mấy chục năm rồi, biết rõ cần phải làm gì,
mỗi khi muốn được Chính quyền chiếu cố giúp cho mình
được việc.”

Nhận quà xong, Tù chất đồ lên xe “cải tiến” rời Nhà Thăm Nuôi
trở về Hội trường của Trại. Sau khi Cán bộ khám xét quà mới
nhận xong, Tôi xách chiếc bị cói đựng cả gia tài tiếp tế, khoảng
6, 7 kí lô về phòng giam. Anh Trực Phòng nhìn thấy, tỏ vẻ ngạc
nhiên, không nói gì. Tôi hiểu ý thong thả phân bua, Vợ xin giấy
phép hoài mà chưa được, nhờ bà Chị Vợ ở ngoài Bắc này đến

268

thăm, tìm hiểu đường đi nước bước trước. Ngoài Bắc này, chúng
mình đã từng thấy thân nhân đi thăm Tù, có bao giờ mang gì
nhiều đâu.

Sau giờ điểm danh Tù vào phòng buổi tối xong, Tôi lấy 2 chiếc
bánh chưng ra cắt làm 8 miếng, đem biếu anh ội trưởng, 2 bạn
nằm kế bên, mấy bạn đã từng cho Tôi ăn quà “thăm nuôi” của
họ trước đây, anh nấu nước ngoài “hiện trường lao động”, và
anh Trực Phòng. Còn lại 2 chiếc để dành ăn dần mỗi ngày nửa
chiếc.

Mười ngày sau, vào một buổi trưa vừa nhập trại sau khi đi lao
động sáng trở về, Tôi được gọi lên Văn phòng Thi ua làm việc.
Tôi giật mình chẳng biết có chuyện gì lành hay giữ, nhưng vẫn
phải tức tốc đi ngay. Khi tới nơi, anh “Thi ua” hỏi tên, rồi chỉ
cho Tôi chiếc rương làm bằng tôn (thường dùng để đựng quần
áo), và đưa chià khoá bảo mở ra kiểm tra, xem có đủ các món
như trong bức thư liệt kê không, rồi đem về. ổi lo sang mừng,
đây là rương quà bà Chị Vợ đã nói với Tôi, trước mặt Cán bộ
trong Phòng Thăm Nuôi hôm trước.

Trong khi Tôi kiểm đồ đạc để trong rương, anh “Thi ua” hỏi :
“-PtX là ai vậy? » Tôi trả lời Chị Vợ của Tôi ở ngoài Bắc này.
Anh ta nói tiếp với giọng ngạc nhiên :

“-Làm sao mà ở ngoài này lại có người Chị Vợ tốt bụng đến
thế? Anh là người tốt phúc lắm đấy!”

Kiểm xong, Tôi ngỏ lời cám ơn, và không quên biếu anh “Thi
ua » một phong bánh khảo Hải Dương. Rồi gồng hai tay, khệ

nệ bê chiếc rương thực phẩm ra khỏi Văn phòng Thi ua. May
sao vừa ra tới đường, gặp anh bạn nằm cạnh cùng phòng giam,

269

lảng vảng gần đó rình xem chuyện gì xẩy đến với Tôi, chạy đến
tiếp tay khiêng. Nếu không, một mình không thế nào tiếp tục bê
đi nổi, phải kéo chiếc rương lết trên mặt đất, cả trăm mét mới về
tới phòng giam. Kể từ lúc này Tôi cảm thấy yên tâm, không còn
lo bị chết đói trong Tù vì suy nhược thiếu dinh dưỡng nữa. ồng
thời cũng tự nhủ thầm, từ nay sẽ nhất định không cải thiện linh
tinh nữa.

Kiếp sống Tù, cứ tiếp tục trôi theo nhịp xoay của Trái ất, với
niềm hy vọng lớn lao vào các cuộc thương thuyết đang diễn tiến
thuận lợi tại Genève, giữa Hoa Kỳ và phe Cộng sản Việt Nam.

ầu tháng 12, khoảng hơn 3 tuần lễ sau ngày bà Chị Vợ đến
«thăm nuôi», Tôi lại được gọi tên đi « thăm nuôi ». Thật là một
bất ngờ thích thú, Tôi đoán chắc là Vợ ở trong Nam ra thăm.
Các bạn cùng ội rất ngạc nhiên, không hiểu sao mới thăm chưa
đầy một tháng, lại được phép thăm nữa.

Như thường lệ, sau khi tất cả các ội xuất trại đi lao động
khoảng mươi phút, anh em được “thăm nuôi » tập trung bên
cạnh cổng, theo Cán bộ ra khỏi trại để gặp thân nhân. Vừa tới
sân Nhà Thăm Nuôi, Tôi bỗng nghe một tiếng reo thật lớn :

« -Bố ! ».

Rồi từ trong nhóm các Bà đứng chờ Chồng, cô Con gái lớn của
Tôi chạy ùa ra, vồn vã ôm Tôi hôn rối rít. Tôi phải nói nhỏ, coi
chừng người ta phạt không cho thăm bây giờ đấy con ạ. Cô ấy
mới buông Tôi ra, và lẩn vào trong đám các Bà, đang ngạc nhiên
nhìn cảnh tượng bộc lộ tình thương rất là Âu Tây, của Con gái
đối với Bố giữa chỗ đông người, ngay trước mặt Cán bộ.

270

Vào trong Phòng Thăm Nuôi, thấy có 2 anh thanh niên cỡ tuổi
đôi mươi, một đứng một ngồi bên con gái, Tôi hỏi xem là ai.
Con tôi trả lời :

“-2 Anh con Bác ..x.., hôm trước theo Bác đến thăm Bố, nên
hôm nay dẫn đường cho con đi.»

Hôm bà Chị Vợ đến thăm, các cậu ấy đi theo nhưng không vào
trong phòng thăm, cũng không thấy xuất hiện để bà Chị giới
thiệu lúc ra sân nhận quà trước khi trở vào Trại, nên Tôi không
biết mặt.

Hai cậu với giọng lơ lớ Tầu lai nói :

«Chúng cháu chào Chú. Bố chúng cháu cũng đòi đi thăm
Chú, nhưng vì là người Trung Hoa nên Mẹ chúng cháu không
cho. Nhưng thế nào rồi Bố chúng cháu cũng sẽ đến thăm
Chú.”

Tôi ngỏ lời cám ơn các Cháu đã dẫn Con Tôi đến đây, và yêu
cầu chuyển lời chào của Tôi đến ông anh cột chèo tốt bụng,
chưa bao giờ biết mặt. Tôi hỏi tiếp xem các cậu ấy học ngành
nghề gì? công việc làm ăn ra sao? Một cậu nhanh miệng trả lời :

“-Mình là Công dân hạng nhì ấy mà Chú, lo làm ăn chớ thì
giờ đâu mà học với hành. Chúng cháu ở nhà học nghề làm
răng của Bố truyền lại, cũng đủ sống cần gì phải đi đâu học
cho nó thêm mệt. »

Tôi quay sang hỏi Con gái, về sức khoẻ của Vợ tôi, về việc học
hành của mọi người ra sao? Việc học khoa của cô ấy và người
em trai kế đến đâu rồi? có hy vọng gì không? bao giờ ra trường?
Qua những câu trả lời vòng vo nhỏ nhẹ, Tôi hiểu được là :

271

-Con gái Tôi phải đi làm ở Bệnh viện, với tư cách Y sĩ phụ tá
cho các Bác sĩ, để học nghề chớ không học ở trong trường.
Chưa biết bao giờ cô ấy sẽ được trở lại trường, để tiếp tục
học như các bạn khác mà lấy bằng.

-Hiện cô ấy đang làm việc tại Nhà thương Đồn Đất Saigon
(sau 30-4-1975 người ta đổi là Bệnh viện Nhi đồng 2), xin
được nghỉ phép 2 tuần lễ đi « thăm nuôi » Bố đang cải tạo ở
ngoài Bắc. Nhờ thế mới can thiệp với Chính quyền Địa
phương cho phép Mẹ đi theo, sau nhiều tháng Mẹ tự xin phép
không được chấp thuận.

-Hai Mẹ Con ra Hànội, nhờ Bác ..y.. (bà Chị thứ của Vợ tôi)
dẫn đi thăm Tôi.

Nhưng Bà thoái thác bận công tác Chính quyền không giúp
được, đành phải xuống Hải Phòng nhờ Bác ..x.. (bà Chị lớn)
giúp đỡ. Hôm nay Vợ tôi không đi thăm được, vì sau cuộc hành
trình vất vả mấy ngày đêm liền bằng Xe Hoả, xuống tới Hải
Phòng bị bệnh nặng ho ra máu, phải đưa vào Bệnh viện cấp cứu,
vẫn đang còn nằm điều trị chưa khỏi.

Bây giờ Tôi mới hiểu, tại sao hôm bà Chị ..x.. đến thăm Tôi lại

nói :

« -Trước khi đi thăm Chú, Chị có ghé vợ chồng Cô ..y.. ở
Hànội, hỏi xem có gửi gì cho Chú không? Cô ấy đã khuyên
Chị không nên dính vào, nhưng Chị vẫn cứ đi. Cô ấy còn dặn
Chị nói với Chú đừng gửi thư về nhà Cô ấy. »

Bà Chị Vợ tên ..y.. và Chồng theo Cách mạng từ năm 1945, trở
về tiếp thu Hànội hồi tháng 7 năm 1954 theo Hiệp định Genève.
Lúc gặp Mẹ Vợ tôi, Chị ấy đã khuyên Bà di tản vào Saigon sống
với Vợ Chồng chúng tôi để an hưởng tuổi già, không nên ở lại

272

miền Bắc. Vì Bà Mẹ có rất nhiều ruộng cho Tá điền canh tác tại
Nhà Quê. Cũng nhờ vợ chồng Chị ..y.. thúc đẩy bà Mẹ di cư vào
miền Nam sống với chúng tôi, nên Chị ấy đã thoát được cái tội
bất hiếu đối với Mẹ. Không như Trường Chinh Tổng Bí thư
Trung ương ảng Cộng sản VN, bị Thế nhân nguyền rủa đời
đời, vì đã đích thân về Quê đấu tố xử tử Cha ruột của mình là

ịa chủ, trong đợt Cải Cách Ruộng ất năm 1956 tại miền Bắc.
Trước khi rời Hànội xuống Hải Phòng đáp máy bay vào Saigon,
sống bên chúng tôi hồi cuối tháng 12 năm 1954, Bà Mẹ Vợ tôi
đã cho anh chị ..y.. căn nhà ngói rất rộng, trong khu phố Chợ
Khâm Thiên.

-Về phần các Con khác của Tôi ở Saigon thì, mấy người học
hết Trung học không được vào Đại học, phải đi làm thợ trong
các Tổ sản xuất mành trúc của gia đình Cán bộ Cách mạng
làm Chủ nhiệm. Mấy người còn nhỏ hơn vẫn tiếp tục học
Tiểu học.

Trong lúc nói chuyện, Con gái Tôi quan sát thấy cổ tay trái của
Tôi có vết xẹo, chắc Cô ấy nghi Tôi bị còng tay tra tấn, nên hỏi :

« -Cổ tay Bố làm sao vậy, hồi ở nhà làm gì có cái xẹo đó? »

Tôi trả lời, do tai nạn lao động từ hồi còn ở Hoàng Liên Sơn.

Cô ấy không thấy chiếc nhẫn cưới, xưa nay chưa bao giờ Tôi bỏ
ra khỏi ngón tay, tưởng là Tôi đã bán đi để chi tiêu, nên lẳng
lặng tháo chiếc nhẫn vàng một chỉ đang đeo, đưa cho Tôi và
bảo :

« -Bố cằm lấy để phòng khi cần, bán đi lấy tiền mà dùng. »

273

Tôi xua tay không nhận, và giải thích cho cô ấy biết, trong trại
chẳng có gì để mua. Hơn nữa Trại không cho phép giữ qúy kim
trên người. Nhẫn, đồng hồ, dây truyền bằng vàng đeo tượng
Phật, Tôi dem theo khi đi cải tạo phải nộp cho Trại giữ hết, khi
nào được tha Trại mới trả lại.

Tôi nhắc nhở Con gái, cố gắng giúp Mẹ lo cho các Em, và nhắn
nói lại với Vợ tôi, khi nào được ra khỏi Nhà Thương Hải Phòng,
nên trở về Saigon đừng tìm cách đến đây, lỡ bệnh trở lại chẳng
may có mệnh hệ nào thì tội cho cả mọi người. Tôi đang nói ngon
trớn, Cán bộ báo hết giờ thăm nuôi, ra nhận quà để trở về trại.
Mọi người ra sân nhận quà chất lên xe « cải tiến ». Cán bộ luôn
mồm hối thúc

«-Khẩn trương ! Khẩn trương !».

Cha Con Chú Cháu vội vã chia tay nhau trong bùi ngùi, lưu
luyến.

Quà của Tôi kỳ này gồm 2 bao tải và 1 thùng thiếc. Sau khi
kiểm tra tại Hội trường, mới biết trong thùng thiếc và 1 bao tải
đựng : Mì ăn liền vụn, sữa bột, cốm khô, đường cát, thịt chà
bông, bột đậu xanh, mấy gói nước mắm khô, hộp margarine, sà
phòng, thuốc đánh răng, một số Âu dược. ặc biệt có 1 bao
thuốc lá ngoại, để mua cảm tình Quản giáo ội, như mọi người
thường làm. Còn bao tải kia, đựng một quài chuối già (ngoài
Bắc gọi là chuối tiêu) có được 15 nải đang chín nửa chừng.
Buổi tối sau khi vào phòng giam, Tôi biếu tất cả các bạn trong

ội mỗi người một trái chuối chín. Riêng phần Tôi, mỗi ngày ăn
4 trái : sáng 2, trưa 1, và tối 1. ộ 3 ngày sau, đúng vào Chủ
nhật, những nải còn lại chín rộ một lượt. Tôi biếu thêm cho anh
em trong ội mỗi người 1 trái nữa. Còn lại bao nhiêu, Tôi bóc

274

vỏ thả vào soong nước đường, đun cho cạn khô làm mứt dành ăn
dần. Kết quả rất tốt. ây là cách biến chế do anh bạn ại úy
Cảnh sát, chỉ dẫn cho anh em ghi chép từ hồi còn ở chung ội
bên K1, trong những ngày Chủ nhật nghỉ lao động, chẳng biết
làm gì ngoài việc thủng thẳng hút những bi thuốc lào Trại phát
cho hàng tháng, để say lơ mơ mà quên đói.

Có nhiều quà tiếp tế bồi bổ lấy lại sức khoẻ, quả là một thần
dược cho tinh thần. Tôi vững tâm nhịn nhục lao động, tiếp tục
cuộc hành trình gian khổ đang sắp tới cuối đường hầm, tràn trề
hy vọng sẽ thấy lại ánh sáng văn minh. Nếu Trời thương không
cho Thần Chết chấm tên vào sổ Thiên Tào, chẳng sớm thì chầy
thế nào cũng sẽ có ngày được hít thở không khí Tự do, đã mất từ
bấy lâu nay.

Người ta thường nói « Họa vô đơn chí, Phúc bất trùng lai», vậy
mà không biết tại sao trong cuối năm con Dê (Kỷ Mùi) này, Tôi
được gặp Phúc nhiều hơn hai lần. Chả bù với năm con Ngựa
(Mậu Ngọ), bệnh hoạn kiệt sức gần chết, còn bị phạt giảm mức
ăn vốn đã chẳng đủ cung ứng cho nhu cầu hàng ngày của cơ thể.

Vào một buổi sáng mưa phùn lất phất lạnh cóng, khoảng 3 tuần
lễ sau khi Con gái đến « thăm nuôi », Tôi lại được gọi ra « thăm
nuôi » nữa. Lần này Tôi thấy nôn nao trong lòng, đoán chắc là
Vợ tới thăm và thế nào cũng có bà Chị ..x.. dẫn đi. Lúc ra xếp
hàng tập họp để Cán bộ kiểm tên trước khi đưa ra khỏi Trại, anh
« Thi ua » cắc cớ lên tiếng hỏi Tôi :

« -Anh này làm sao mà trong vòng 2 tháng, thăm nuôi tới 3
lần? »

275

Qua tin tức thân nhân đã nói nhỏ trong 2 lần thăm trước, Tôi biết
chắc là nhờ những tấm giấy bạc Cụ Hồ lót tay mới được phép ra
thăm, nên không sợ, lớn tiếng trả lời :

-Làm sao Tôi biết, Cán bộ gọi đi « thăm nuôi » thì Tôi đi, anh
có thắc mắc ra hỏi Cán bộ. Anh ấy im lặng lỉnh đi chỗ khác,
vì biết rằng câu hạch hỏi tọc mạch đó làm phật lòng Cán bộ
phụ trách « thăm nuôi », sẽ có hại cho bản thân anh ấy sau
này.

ến sân Nhà Thăm Nuôi, anh em Tù xếp hàng báo cáo xong.
Một bên là các Bà, một bên là Tù cải tạo, bắt đầu theo nhau đi
vào phòng thăm. Tôi đảo mắt tìm hoài chẳng thấy Vợ đâu. ang
đứng ngơ ngác tiếp tục kiếm thì, thấy bà Chị ..x.. từ bếp đi ra,
tay dắt Vợ tôi miệng hối thúc :

« -Mau lên, Cô vào nói chuyện với Chú ấy đi, để Chị lo tiếp
nồi nếp và con gà luộc cho. »

Vào Phòng Thăm Nuôi, Vợ Chồng mỗi người ngồi một bên
chiếc bàn, nhìn nhau mắt rưng rưng lệ nghẹn ngào chẳng nói
được gì. Tôi thấy đau nhói nơi tim, khi thấy Vợ ốm yếu gầy mòn
xanh xao, khác hẳn ngày Tôi chia tay đi trình diện Cải tạo.

Sau đôi phút xúc động, bình tĩnh trở lại, Tôi bắt đầu hỏi chuyện
về nơi ăn chốn ở có gặp khó khăn gì không ? về việc học hành
của các con, về công việc làm ăn sinh sống hàng ngày ra sao ?

ể trả lời, thay vì dài giòng văn tự như bà Chị, Vợ của Tôi chỉ
nói rất gọn và ngắn. Gặp câu nào nhắm không dám nói sự thật
trước mặt Cán bộ, thì nhỏ nhẹ bằng câu :

« -Việc nhà ông đừng lo, cứ yên tâm mà học tập, giữ gìn sức
khoẻ cho tốt là được rồi. »

276

Hiểu ý, để biết tin tức về cậu Con trai lớn du học bên Hoa Kỳ
từ năm 1971 ra sao, cũng như những người ở nhà có ai vượt
biên được không, Tôi đã phải đặt những câu hỏi ngụy trang.
Chẳng hạn :
-Thằng Hai đi công tác vùng Kinh tế mới bên M Tho, từ hồi
Tôi còn ở nhà, bây giờ ra sao? Nó có liên lạc về nhà không?
-Mấy đứa ở nhà có đứa nào đi vùng Kinh tế theo nó không?

Trong khi đang nói chuyện, bà Chị ..x.. đem một điã xôi có
chiếc đùi gà vào đưa cho Tôi, và nói :

« -Chú vừa ăn vừa nói chuyện. Chị biết Chú thích ăn cơm
nếp thịt gà nên Chị nấu một nồi lớn. Sợ đem vào Trại không
giữ được mà ăn, nên đem lên bây giờ cho Chú ăn. Hôm nay
thấy Chú có da có thịt hồng hào khá hơn lần gặp trước, Chị
rất mừng. Từ nay cứ yên tâm, sau này nếu Cô ấy không ra
được, đã có Chị ngoài này đến tiếp tế cho. »

Tôi lắc đầu trả lời :

-Bây giờ không ăn được, Chị cứ gói tất cả cho Em đem vào
trong Trại ăn dần, không sao đâu. Anh Em trong Nam ra ở
chung với nhau, không ai hà hiếp giành cướp mất đâu, Chị
đừng lo.

Hết giờ thăm nuôi, ra sân nhận quà xếp lên xe xong, Tôi dặn Vợ
là từ nay không phải ra thăm nữa, cứ cố gắng gửi Bưu kiện hàng
tháng là đủ rồi. Những quà tiếp tế qua 3 kỳ thăm này, Tôi có thế
tằn tiện dùng từ 4 đến 5 tháng mới hết. Bà Chị lại gần nói nhỏ :

« -Lần trước đến thăm Chú, Chị thấy có người đến thăm
chồng được ở lại qua đêm. Lần này Chị cũng định cho anh

277

Cán bộ tiền xin cho Chú được ở thăm lâu hơn, nhưng không
được. Anh ấy nói phải có Quản giáo Đội chấp thuận theo
đơn xin của Chú mới được, hoá nên chuyện không thành. Tội
nghiệp, xin giấy di chuyển khó khăn, lại phải lặn lội vất vả cả
hơn ngàn cây số, thế mà Vợ Chồng chỉ được thấy mặt nhau
có mươi lăm phút. Cũng chẳng được phép ngồi kế bên nhau
mà nói chuyện nữa. Thật hẹp hòi khó khăn quá chừng. »

Bà Chị đang nói thì có tiếng Cán bộ hối lên đường « khẩn
trương ». Vợ Chồng chúng tôi ôm hôn tạm biệt nhau, trong
quang cảnh mưa phùn dầy đặc, mờ mịt nhẹ nhàng rơi không
ngớt theo luồng gió Bấc, phủ trùm vạn vật thung lũng K5, Trại
Tân Lập.

Tối hôm đó trong phòng giam, Tôi lấy 2 cái đùi gà, 2 chiếc âu
cánh gà, và xé 2 cái lườn gà ra nhiều miếng, rồi đong cơm nếp
thành từng chén một, đem biếu anh ội trưởng, 2 người bạn
nằm kế bên, và 3, 4 bạn đã từng cho Tôi quà « thăm nuôi » của
họ. Chỗ cơm nếp và những phần còn lại của con gà, Tôi ngồi
chén một bữa thật no nê khoái khẩu. Lúc ngừng ăn, nhìn lại thấy
chỉ còn chút ít, vừa đủ cho bữa điểm tâm sáng hôm sau.

CÂU CHUYỆN THĂM NUÔI.

Gặp nhau bốn mắt tròn xoe,
Máu dồn tê mặt, lệ nhoè khoé mi.
Nghẹn ngào chẳng biết nói gì,
Không gian trùm phủ mây chì, gió Đông.
Vói tay tính nắm tay Chồng,
Bàn tre ngăn cách, đành trông ngậm ngùi.
Oai phong Cán bộ rung đùi,
Mặt vênh lên giọng nhắc lời Nội quy.

278

“Lếu” ai vi phạm tức thì,
Chồng vào kỷ “nuật”, Vợ về cấm thăm.
Vợ Chồng đưa mắt hiểu ngầm,
Rưng rưng hỏi chuyện những năm vắng nhà.
Chuyện sinh sống tháng ngày qua,
Chuyện Con thay đổi học xa học gần.(1)
Chuyện bè bạn, họ hàng thân,
Chuyện đời đổi mới cận lân thế nào?
Xa xôi bóng gió đổi trao,
Ngập ngừng tiếng lóng xen vào báo tin.
Hiểu ra thời thế đảo điên,
Vợ, Con, tủi cực triền miên tháng ngày.
Xót xa nuốt lệ bó tay,
Gượng khuyên lao động hăng say với người.
Từ rày vạn dặm xa xôi,
Gửi quà Bưu kiện tiếp bồi cũng xong.
Cần luôn can đảm vững lòng,
Giữ gìn sức khoẻ đợi trông ngày về.
Hạn thăm mươi phút đã kề,
Nhận quà chuẩn bị Chồng về Vợ đi.
Tủi lòng nhau lúc chia ly,
Giữa Trời mưa gió ôm ghì hôn nhau.
Cán trông hờ hững hối mau,
Vô thần Cộng sản hiểu đâu nghiã tình!!!

K5 - Tân Lập – V nh Phú, Mùa Đông 1979

(1) Hỏi mánh xem có ai vượt biên được không?

Chương 24.

279

NHỮNG NGÀY CUỐI,
TRONG ÐỊA NGỤC TRẦN GIAN
“TÂN LẬP - VĨNH PHÚ”

Cho đến giữa năm 1978, tại Phân trại K1 Trại Tân Lập tỉnh Vĩnh
Phú, anh em Tù chưa được nhận quà qua Bưu điện, gia đình
chưa được phép đến trại giam thăm nuôi tiếp tế thực phẩm để
“bồi dưỡng”. Trong những ngày Chủ nhật nghỉ lao động, để cho
quên cơn đói lúc ở không, một số anh em Ðội chúng tôi thường
tụm lại trong phòng giam ghi chép cách bào chế thức ăn, do một
vài bạn sành nghề nấu nướng truyền lại.
Ðây là phương thức ăn “hàm thụ” để quên đói, ngoài việc hút
những bi thuốc lào làm cho con tì con vị say lơ mơ không quậy
phá xôn xao trong bao tử.

Trong thời gian này, có Bạn bầy tỏ ước nguyện của mình một
cách rất chân thành mộc mạc là, khi được tha sẽ mua ngay một
lúc 5 kí lô sắn luộc để ăn cho thật no căng bụng, thoả thê, khoái
khẩu.

Nhưng đến năm 1979 tại K5, sinh hoạt ngày Chủ nhật nghỉ lao
động của anh em chúng tôi lại khác hẳn. Ða số đều có quà tiếp tế
qua đường bưu điện hàng tháng và mỗi 3 tháng gia đình đến
thăm nuôi cung cấp thêm, nên cả ngày mọi người bận bịu bu
quanh Cây Cổ Thụ bên Hội trường.

Người lo nấu nướng ăn uống. Người lo hâm xào lại các món thịt
kho, mắm kho, cho khỏi bị hư hỏng vì phải lưu trữ lâu ngày để
ăn dần…

Lúc này, chẳng còn ai nghĩ tới việc hút thuốc lào cho quên đói
nữa, vì nó là một loại ma túy nhẹ tạo nguy cơ cho buồng phổi và

280

trái tim, gây nguy hại cho sức khoẻ. Việc ghi chép cách biến chế
thực phẩm trong những giờ nhàn rỗi để quên đói cũng không
còn giá trị thực tiễn nữa, nó bị chìm lần trong lãng quên của mọi
người.

Một hôm, nếu Tôi nhớ không lầm là ngày 19 tháng 6 (Ngày
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà) Tù không phải xuất trại lao
động, tất cả ở trong trại để kiểm tra tư trang. Mọi người phải
đem hết tư trang của mình ra khỏi phòng giam, ngồi xếp hàng
dài vòng quanh sân bầy mỏng trên mặt đất như bán chợ trời, chờ
Cán bộ đến kiểm tra từng người một. Trong khi các Quản Giáo
xét tư trang của Tù thuộc Ðội mình phụ trách, thì các Cán bộ An
ninh vào lục soát trong các phòng giam đã trống trơn không
người không đồ đạc, để tìm kiếm thứ gì chẳng biết. Ai được
kiểm tra xong phải “khẩn trương” thu xếp đồ của mình lại sẵn
sàng chờ di chuyển. Kiểm tra suốt từ sáng tới gần chiều mới
xong, lập tức có lệnh các Ðội chuyển đổi Láng ở và phòng giam.

Sáng hôm sau, có tin một bạn Tù gốc Hành Chánh bị nhốt vào
Nhà Kỷ luật vì tội gửi lén thư ra ngoại quốc tố cáo sự tàn ác của
Việt Cộng đối với anh em Tù Chính trị miền Nam bị đưa ra Bắc.

Trong thời gian này, đủ thứ tin tức mới về các cuộc họp tại
Genève giải quyết số phận Tù Chính trị miền Nam giữa Hoa Kỳ
và Cộng sản. Ðây là những đề tài nóng hổi, rì rầm truyền tai
nhau hàng ngày tại bờ sông trong thời gian tắm giặt sau giờ lao
động chiều.

Nào là, Ðại diện Hoa Kỳ:

“Yêu cầu Chính quyền Việt Nam Cộng sản thả hết những
người đã phục vụ trong Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà

281

trước đây hiện đang bị giam giữ suốt từ 30 tháng 4 năm 1975
đến nay ra.”

Việt Cộng trả lời:

“Họ là những thành phần có nhiều nợ máu với Nhân dân
mầm mống gây nguy hiểm cho Xã hội Chủ nghiã Việt Nam,
nên không thả được.”

Hoa Kỳ liền đưa ý kiến:

“Nếu vậy, Hoa Kỳ bằng lòng nhận lãnh những người đó đưa
sang định cư tại Hoa Kỳ.”

Việt Cộng đặt điều kiện: “Hoa Kỳ phải bồi thường thiệt hại cho
Chính quyền Cộng sản Việt Nam như sau:

-1. Mỗi đầu Tù thả ra là 20 ngàn Ðôla;
-2. Cộng thêm tiền nuôi ăn suốt thời gian bị giam giữ, là 5
Ðôla một ngày cho mỗi đầu người.”

Hoa Kỳ: “Ðồng ý, nhưng với điều kiện:

-1. Các phái đoàn đại diện Hoa Kỳ phải được vào gặp Tù
ngay trong các Trại giam để lập danh sách.
-2. Hoa Kỳ sẽ bốc Tù thẳng từ các Trại giam đưa đến nơi
định cư.
-3. Sau khi bốc hết Tù ra khỏi các Trại giam, Hoa Kỳ sẽ bốc
Vợ Con của Họ thẳng từ nơi đang cư ngụ đi đoàn tụ với
Chồng.

282

-4. Trong khi chờ đợi, cho ngay các đoàn Hồng Thập Tự
Quốc tế vào thăm và khám sức khoẻ cung cấp thuốc men cho
Tù.”

Trong khi Việt Cộng còn đang ngần ngừ theo chỉ thị “Trì hoãn
chiến” do Liên Xô chỉ đạo, thì Trung Cộng xua quân xâm chiếm
một số Tỉnh biên giới Bắc Việt và rút hết Cố vấn Kỹ thuật về
nước. Tuyên bố là để cho Việt Cộng một bài học, về tội dám đưa
quân qua Cam Bốt triệt hạ phe Khmer Ðỏ (đàn em của Trung
Cộng) lập tay em của Việt Cộng thân Liên Xô lên cầm quyền.
Nhưng thực ra, Trung Cộng thực hiện cuộc xâm lăng nhằm mục
đích áp lực Việt Cộng phải chấp nhận những đề nghị của Hoa
Kỳ. Vì hình như Trung Cộng được Hoa Kỳ “đi đêm” hứa nếu
giúp hoàn thành xong việc này sẽ dành cho một số ưu đãi gì đó
về kinh tế.

Sau bài học dằn mặt của đàn anh Trung Cộng ở sát bên nách
“sông liền sông, núi liền núi, như răng với môi”, Việt Cộng đành
phải ưng chịu tuân theo áp lực của Trung Cộng với phản đề
nghị:

“Bằng lòng thả Tù về “đoàn tụ” với Vợ Con tại địa phương,
sau đó mới lần lượt cấp Hộ chiếu xuất cảnh cho toàn thể gia
đình đi định cư cùng một lúc theo đơn xin.”

Hoa Kỳ chấp nhận đề nghị này của Việt Công, Tổng Thống Hoa
Kỳ đề cử ngay Tướng Vessey làm Ðặc Sứ tiếp xúc thường
xuyên với Chính quyền Cộng sản tại Hànội để sắp xếp việc thực
hiện Chương trình Nhân đạo (Humanitarian Operation). Nhờ thế
kể từ năm 1979 trở đi, toàn Thế giới biết đến cái tên Chương
trình H.O. đem các Tù Chính trị miền Nam Việt Nam được Việt

283

Cộng thả ra khỏi các trại tập trung cùng gia đình Vợ Con sang
định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ, sống cuộc đời Tự do.

Mặc dù cho đến nay, không có điều kiện và cơ hội tìm hiểu thêm
để biết rõ mức độ chính xác của các tin đồn hồi đó, nhưng Tôi
vẫn ghi lại vì trong thời gian có các tin đồn nêu trên cũng có
nhiều sự việc sau đây đã thực sự xẩy ra đối với Tù trong Trại
giam, cho phép nghĩ rằng những tin đó có thật chớ không phải là
bịa đặt đồn nhảm.

1.- Khoảng giữa năm 1978, bỗng dưng có một Ðoàn Y tế khá
hùng hậu của Cộng sản từ Hà Nội đến tận các Phân trại
thuộc Trại Tân Lập, kiểm tra sức khoẻ tổng quát cho anh em
Tù miền Nam. Ít ngày sau, lại có phái đoàn Bộ Nội vụ của
Chính quyền Hànội đến tổ chức học tập buộc Tù phải làm
“Bản Tự khai Tự lên án mình”. Sau khi các đoàn đã hoàn tất
công tác và rời khỏi Trại, Giám thị Trại Tân Lập Thiếu tá
Nguyễn Thùy rao truyền là Nhà Nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghiã Việt Nam sẽ làm cuộc “Cách Mạng Hồng” để “bồi
dưỡng” cho Cải tạo viên “hồng đôi má”, mà cải tạo cho mau
“tiến bộ” sớm về “đoàn tụ” với gia đình.
Nhờ thế, hàng tháng Tù được Trại phát cho một Phiếu Bưu
Kiện và cho viết thư để chuyển về xin gia đình gửi 5 kí lô
thực phẩm khô qua đường Bưu điện mà “bồi dưỡng”. Rồi
Nhà Nước lại chỉ thị các Chính quyền địa phương cấp giấy
phép di chuyển cho thân nhân đến tận Trại giam “thăm
nuôi”, cung cấp thêm cả nửa tạ thực phẩm cho Tù mỗi 3
tháng ngoài các Bưu kiện gửi hàng tháng.

2.- Cách cư xử của Cán bộ Trại giam đối với Tù bớt khắt khe
hơn trước. Trong thời gian nghỉ giải lao giữa buổi lao động,
Tù được phép gom góp những bó củi nhỏ đem vào Trại để

284

dung vào việc nấu nướng thực phẩm “bồi dưỡng” hàng ngày
và những ngày nghỉ lao động. Đến bữa ăn từng toán nhỏ 3, 4
người được phép góp thực phẩm ngồi ăn chung với nhau,
không còn bị cấm túm năm tụm ba ăn uống nói chuyện như
hồi trước nữa. Trong giờ lao động, anh phụ trách nấu nước
ngoài “hiện trường lao động” được phép nấu giùm thức ăn
riêng cho các bạn trong Ðội để “bồi dưỡng” tại chỗ trong
giờ giải lao, hoặc đem vào trại ăn tăng cường cho thực phẩm
do trại cấp.

3.- Tại miền đồng bằng sông Hồng, có các phái đoàn Hồng
Thập Tự thuộc tổ chức Liên Hiệp Quốc đến các Trại giam
tiếp xúc nói chuyện với Tù.

4.- Lẻ tẻ có những đợt nhiều Tù được tha cùng một lúc với lý
do đã “cải tạo tiến bộ”. Có người đang bị Trại phạt nhốt
trong Nhà Kỷ Luật, khi có lệnh tha cũng được thả ra về thong
thả.

5.- Có nhiều đợt hàng ngàn Tù được chuyển từ các Trại giam
ở miền Bắc về các Trại giam tại miền Nam, để tiếp tục cải
tạo chờ lệnh tha.

6.- Bộ Nội vụ của Chính quyền Cộng sản Hànội chính thức
công khai loan báo trên báo chí và đài phát thanh của Nhà
Nước, việc thành lập phái đoàn Cục Trại Giam có dẫn theo
Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Hữu Có
đang là tù cải tạo tại miền Bắc vào miền Trung Việt Nam,
nghiên cứu địa hình địa vật vùng Thanh Cầm thuộc huyện
Như Xuân tỉnh Thanh Hoá ở giữa vùng rừng già trong dẫy
Trường Sơn ráp ranh Việt Nam - Hạ Lào. Mục đích thực hiện
Kế hoạch đem hết Tù Chính trị miền Nam vào đó khai phá
rừng thành lập khu Kinh Tế Mới, rồi sẽ ký lệnh thả Tù và
buộc đem hết Vợ Con vào định cư vĩnh viễn tại đó...

285

Theo kinh nghiệm và hiểu biết của Tôi, không bao giờ Cộng Sản
Việt Nam (CSVN) lại dám tập trung tại một nơi cả chục ngàn Sĩ
quan các cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hoà như vậy, mặc dù
là ở giữa nơi rừng núi hoang vu. Vì mọi người đã bị CSVN tập
trung hành hạ khổ nhục dã man, bỏ đói khát bệnh tật cho chết
lần mòn suốt từ mấy năm qua, mối căm thù trong thâm tâm tập
thể Sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hoà đối với CSVN rất sâu
đậm, nếu được tập trung đông đảo như vậy mọi người sẽ gắn bó
với nhau vùng dậy thành lập khu chiến chống Chính quyền và
kêu gọi Thế giới can thiệp, sẽ là một tai họa lớn khó giải quyết.

Do đó, nếu bình tâm suy nghĩ phân tích cẩn thận sẽ thấy rõ ràng
kế hoạch này chỉ là một “Ðòn Tháu Cáy” do Cộng sản Việt Nam
xảo quyệt gian ngoan tung ra, nhằm 2 mục đích:

-1. Chúng đoán biết được Hoa Kỳ đang bị lương tâm đạo đức
cắn rứt, vì đã phản bội bỏ rơi Ðồng minh đã từng hy sinh
cộng tác với Thế giới Tự do đứng nơi “tuyến đầu” ngăn cản
làn Sóng Cộng sản tràn xuống Vùng Ðông Nam Á, nay đang
bị hành hạ khổ nhục trong các trại Tập trung, nên bằng mọi
giá M phải tìm cách cứu cho họ thoát khỏi cảnh tù đầy hiện
tại. Nên Cộng sản Việt Nam gian manh xảo quyệt phả lợi
dụng cơ hội để nèo co giá cả được càng nhiều càng tốt.

-2. Trung Cộng đang “cơm không lành canh không ngọt” với
cả Liên Xô lẫn Việt Cộng, có thể bất thần ồ ạt đưa Quân
hùng Tướng mạnh vượt biên giới lần nữa, để cướp Tù Chính
trị miền Nam giao cho Hoa Kỳ để nhận những lợi lộc mà
Hoa Kỳ đã hứa thì sao? Nên “cẩn tắc vô ưu”, lập chương
trình kế hoạch đem Tù vào giam nơi vùng rừng núi âm u giữa
lòng Trường Sơn xa biên giới Bắc Việt-Trung Hoa là yên tâm
nhất.

286

-3. Ông Nguyễn Hữu Hạnh (một Cán bộ Cộng sản nằm vùng
tại miền Nam Việt Nam, với cấp bậc Chuẩn tướng trong
Quân lực Việt Nam Cộng hoà) sau 30-4-1975 làm Chủ tịch
Mặt trận Tổ quốc do Việt Cộng dựng lên tại Saigon được đưa
đến “tham quan” Trại Tân Lập, không biết mục đích cuộc
thăm viếng này để gặp những ai? nói về chuyện gì? Sở dĩ
chúng tôi biết được, là nhờ đúng ngày ông Hạnh tới Trại,
Ðội chúng tôi đang phải làm công tác dọn rác rưởi, nhổ cỏ
các vườn hoa, vét mương rãnh bên đường đi chung quanh
các cơ sở Văn phòng và Kho của Ban Chỉ huy Trại. Khi đi
ngang ông Hạnh ngừng lại bắt tay chào anh em. Không phải
tất cả Ðội cùng thấy, chỉ có mấy bạn đang làm tại khu vực
ông Hạnh đi ngang thấy mà thôi, trong số đó có anh Trần
văn Thăng (Ðại tá An ninh Quân đội), sau giờ lao động về
Trại anh Thăng kể lại cho anh em cả Ðội cùng biết.

Vài tuần sau ngày ông Hạnh “tham quan” Trại Tân Lập, Ðội
chúng tôi được đổi công tác bỏ nghề nông và tạp vụ để làm Ðội
Ðan Lát, cả ngày ngồi trong Láng có mái che mưa nắng để sản
xuất mành tre, đan thúng, nong nia, rổ rá, và chuốt đũa... Láng
đan lát của chúng tôi ở sát ngay bên xưởng cưa xẻ gỗ, sản xuất
bàn ghế giường tủ của Ðội Mộc, ở phía Tây ngoài Trại giam
cách khu Nhà Thăm Nuôi chừng nửa cây số.

Anh Chu văn Sáng (Ðại tá An ninh Quân đội) được anh Ðội
trưởng đề nghị Quản giáo chỉ định làm Anh Nuôi, chuyên nấu
nước chín cho anh em uống trong giờ lao động, và hâm nấu
giùm các Gô, soong đồ ăn riêng của anh em. Anh Ðội trưởng
cũng giao thêm trách nhiệm cho anh Sáng phục dịch nước trà,
món ăn, và thuốc lá thơm cho Quản giáo Ðội và Cảnh vệ trong
giờ lao động, để anh em được thoải mái không bị kiểm soát đôn

287

đốc gắt gao như hồi còn đi làm nông nghiệp và tạp vụ linh tinh
ngoài đồng.

Cũng nhờ thế, dịp anh Sáng có thân nhân đến “thăm nuôi”,
Quản giáo đã xin cho được phép gặp gia đình lâu hơn bình
thường. Anh ấy được Quản giáo đưa ra gặp thân nhân trong suốt
2 tiếng đồng hồ nghỉ lao động buổi trưa, cộng thêm 15 phút
thăm nuôi chung với mọi người trong giờ lao động buổi chiều.

Anh em chúng tôi cũng được Quản giáo Ðội cho phép viết thư
ngoại lệ nộp cho ông ấy kiểm tra ngay trong giờ lao động sáng
tại “hiện trường lao động”. Sau đó, ông ấy đích thân mang ra
Nhà Thăm Nuôi giao cho thân nhân anh Sáng, nhờ mang tay về
tận nhà chúng tôi tại Saigon.
Khoảng tháng 11 năm 1979, có một đợt hơn trăm Tù miền Nam
bên khu phiá Tây của Phân trại K5 của chúng tôi được di chuyển
ra khỏi Trại Tân Lập. Theo tin đồn, anh em được di chuyển về
miền Nam, mọi người đều “hồ hởi phấn khởi” chia sẻ nỗi vui
mừng với những người ra đi.

Cuối tháng 12 năm 1979, sau khi Trại dồn xếp lại nơi ăn ở của
các Ðội còn lại bên khu phiá Tây Phân trại xong, Ðội Ðại tá
chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy đang bị giam trong các phòng
thuộc dẫy nhà khu Hình Sự được di chuyển qua dẫy nhà ngay
đầu khu Tù miền Nam, nơi gần khu Bệnh xá và Nhà Bếp.

Ðêm giao thừa 1979 bước qua 1980, sau khi từng Ðội họp
“kiểm điểm, phê, tự phê và xây dựng” cho nhau “khắc phục”
những ưu khuyết điểm trong ngày xong, anh em được phép đàn
đúm vui ca những bài hát Cách mạng để mừng đón năm mới,
suốt từ tối cho đến nửa đêm.

288

Cả phòng giam cùng vỗ nhịp tay, cao giọng đồng ca rất nhiều
bài đã phải học thuộc lòng bấy lâu nay. Lúc ca bài “Saigon giải
phóng” của Văn nô Cộng sản đẻ ra sau 30-4-1975, có mấy anh
lấy Gamen và Ca uống nước bằng nhôm ra gõ nhịp gây tiếng
động rổn rảng ầm ĩ, đến nỗi Cảnh vệ đi tuần tra đêm lo lắng phải
đi báo cáo Trực Trại tới ra lệnh buộc phải chấm dứt.

Ngày hôm sau, nhiều người bị gọi lên gặp Cán bộ An ninh để
“làm việc”, nhưng chung cuộc chỉ có anh Vĩnh Biểu (Ðại tá Bộ
binh) và Ðại Ðức Tuyên Úy Phật giáo nguyên thuộc Vùng 4
Chiến thuật (Cấp bậc Ðại Úy, Họ Trần, Tôi không nhớ Tên) bị
phạt nhốt vào Nhà Kỷ Luật. Hình như có người báo cáo rằng,
trong lúc hát bài “Saigon giải phóng” đến chỗ có câu “quét cho
sạch nó đi”, 2 Vị này lại cao giọng hét lớn hơn mọi người là
“giết cho sạch nó đi”, nên mới mang họa bị nhốt để tiếp tục điều
tra.

Khoảng vài ngày sau, Ðội Ðại tá chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy
Quân đội (Công giáo và Phật giáo) được lệnh chuẩn bị “hành
quân” rời Trại Tân Lập. Riêng Mục Sư Dương Kỳ (nguyên
Giám đốc Nha Tuyên Úy Tin Lành) ở lại, sau này được chuyển
theo các đợt khác về Nam Hà vùng đồng bằng sông Hồng.

Chúng tôi không biết sẽ bị chuyển đi đâu nhưng mọi người đều
mừng rỡ hân hoan, vì ai cũng đang mong được ra khỏi cái Trại
Tân Lập “Ðịa ngục Trần gian” này sớm chừng nào tốt chừng
nấy.

TÌNH NGHIÃ ÐỒNG MINH CHỐNG CỘNG.

Ta thông cảm, vì chiến lược toàn cầu.
Bạn “Cờ Hoa” phải dứt tình cuốn gói.

289

Nghe “Bồ” gọi, vẫn ngoảnh mặt làm ngơ.
Bỏ “be bờ”, phá Liên Xô tận gốc.
Hai tay gộc, cần loại bớt một tên.
Gây chia rẽ, để dễ bề hạ độc.
Ðổi đòn mới, nhằm xoay chuyển thời cơ.
Quên lương tâm, khiến Bạn đường vương lụy.
Ta buồn hận, nhưng dũng cảm kiên trì.
Sống âm thầm, đợi biển dâu đổi dạng.

Ðồng minh phản bội thoát thân,
Mặc Ta chịu cảnh phong trần bấy lâu.
Gió sương mưa nắng dãi dầu,
Thảm thương tiều tụy như trâu ngựa già.
Âm thầm đếm tháng ngày qua,
Kiên tâm chịu đựng để mà đợi trông.
Qua cơn nước lũ hãi hùng,
Mài gươm tiếp tục vẫy vùng đó đây.
Xoá màn đêm giữa ban ngày,
Cho giang sơn Việt tràn đầy tình thương.
Tự do rực mọi nẻo đường,
Nhân quyền toả khắp quê hương an bình
Cầu xin Quốc Tổ hiển linh,
Ðộ Trăm Họ thoát cực hình Tam Vô.
Sớm khôi phục lại cơ đồ,
Việt Nam Dân chủ Tự do Phú cường.

K5-Tân Lập-V nh Phú, Ðầu năm 1980.

Chương 25.
TUNG LÁ BÀI "THÁU CÁY" ÐỂ NÈO CO GIÁ CẢ

290

Vài ngày sau khi mừng đón Tân niên 1980 tại Phân trại K5 trại
Tân Lập, Ðội Ðại tá chúng tôi và Ðội các Tuyên Úy không phải
xuất trại đi lao động buổi chiều, ở lại trong Trại chuẩn bị thu xếp
tư trang gọn ghẽ sẵn sàng “hành quân”.

Mọi người bị nhốt trong Láng giam không được ra ngoài, đến
tận lúc trời tối mò Cán bộ Hậu Cần mới vào phòng giam đổi
giấy biên nhận cũ ghi các vật quý của Tù bị Trại lưu giữ từ ngày
chuyển tới đây, lấy giấy biên nhận mới do một Cán bộ khác ký
không ghi rõ tên.

Anh Ðại tá Vĩnh Biểu và Ðại Ðức Tuyên Úy Phật Giáo bị cùm
trong Nhà Kỷ Luật, vì đêm giao thừa 1979-1980 đã đập Gamen
và Ca nhôm ầm ĩ làm nhịp gây náo động phòng giam lúc cùng
anh em vui hát đón mừng Tân niên 1980, được thả ra để chuẩn
bị lên đường một lượt với chúng tôi.

Ăn cơm tối xong mọi người đã sẵn sang, ngồi tựa lưng vào hành
trang của mình ngủ gà ngủ gật tại chỗ nằm trong Láng, mãi đến
nửa đêm đèn bật sáng mọi người thức dậy lãnh thực phẩm ăn
đường cho cả ngày hôm sau và đem tư trang ra sân tập họp. Cán
bộ đọc tên “biên chế” thành từng Ðội 30 người, tập trung bên
nhau thành từng nhóm đợi giờ “Hành quân”. Mọi người ngồi
giữa sân phơi sương đêm lạnh lùng, mãi tới gần sáng mới có
những chiếc xe Bus chuyên chở hành khách của Nhà Nước rầm
rầm chạy tới trại đón đưa đi.

Mỗi Ðội được chỉ định lên một xe. Tất cả Vali, túi đeo lưng,
rương, thùng thiếc, bao đựng tư trang và thực phẩm khô đều đưa
lên xếp trên nóc xe, có phủ một tấm vải bạt lớn che mưa và cột
dây kỹ càng cho không bị rơi rớt dọc đường.

291

Mỗi xe chỉ có một lối lên ở phiá trước bên tay phải buồng lái
của tài xế. Trong xe có 2 dẫy ghế đôi gắn dọc theo chiều dài
thân xe, phân cách bởi 1 lối đi hẹp chính giữa. Ghế ngồi và lưng
dựa đều có nệm bọc da giả (simili cuir). Dọc 2 bên hông xe có
hàng cửa kính đẩy qua lại được để thông thoáng gió.

Hai hàng ghế ngay cửa lên xuống và sau lưng tài xế, dành cho
Cán bộ áp giải ngồi. Anh em, từng đôi một bị khoá tay chung
một chiếc còng số 8 ngồi các hàng ghế phiá sau.

Tất cả lên xe xong, một hồi còi dài ra lệnh cho đoàn xe chuyển
bánh. Ánh mặt Trời chưa thấy rạng ở hướng Ðông, đoàn xe ù ù
nối đuôi nhau chạy ra khỏi Trại giam K5, đi ngược lại con
đường đã đưa chúng tôi tới đây khoảng hơn 2 năm về trước.
Mặc dù chẳng biết mình đang bị đưa tới đâu, liệu có khá hơn
chốn này hay tệ hơn, nhưng ai nấy đều vui mừng được giã biệt
cái Trại Tân Lập “Ðịa ngục Trần gian” này không một mảy may
nào luyến tiếc.

Trời còn tối, cảnh vật chìm đắm trong sương mù, chẳng nhìn
thấy gì ngoài những bóng đen lù lù mờ ảo của cây rừng nối tiếp
nhau xa dần 2 bên đường. Các cửa kính 2 bên hông xe đóng kín,
hơi người toả ra làm bầu không khí trong xe âm ấm. Mệt mỏi vì
phải thức từ nửa đêm, mọi người thiu thiu chìm trong giấc ngủ
theo nhịp ru vo vo đều đều của giàn máy xe, ngoại trừ anh tài xế
và các Cảnh vệ áp giải phải thức không dám ngủ vì trách nhiệm
nặng nề do Nhà Nước giao phó đang đè nặng trên vai.

Vài giờ sau, ánh sáng ban mai dần dần soi rõ cảnh vật, đoàn xe
ra khỏi đoạn đường rừng vòng vèo lên xuống tiếp tục bon bon
chạy trên đường nhựa lớn. Ðến lúc mặt Trời chiếu xéo ngang
vai, đoàn xe lần lượt băng qua một vài Thị trấn chẳng mấy gì

292

sầm uất, nhà cửa cũ kỹ thiếu trùng tu. Không có bảng hiệu
hướng dẫn nên chẳng biết là nơi nào, nhưng chắc vẫn trong địa
phận tỉnh Vĩnh Phú. Hai bên đường và phiá trước mặt thấy toàn
là đồng ruộng, nên đoán là đoàn xe đang chạy về miền đồng
bằng sông Hồng.

Tới lúc mặt Trời gần đứng bóng, thấy phiá xa xa đằng trước xeo
xéo bên phải con đường, xuất hiện một cây cầu đúc lớn cao và
dài như loại cầu Xa lộ Saigon-Biên Hoà. Ðây là một cây cầu
mới Tôi chưa được thấy trước năm 1954. Nghe loáng thoáng
qua các mẩu đối thoại giữa Cán bộ áp giải với anh tài xế, đó là
cây cầu mới băng qua sông Hồng tại vùng Trèm-Vẽ do Trung
Cộng viện trợ xây cất. Nhưng từ ngày Trung Cộng xua quân
xâm lăng một số tỉnh biên giới rút hết Cố vấn kỹ thuật về nước,
thì các đồng chí Liên Xô thay thế yểm trợ tiếp tục công trình
đang bỏ dở.

Tôi hoàn toàn bị mất phương hướng chẳng nhận ra được đâu là
đâu, vì suốt từ cuối năm 1950 đến nay 1980, đã mấy chục năm
qua đi, Tôi chưa bao giờ có dịp trở lại quanh vùng Hànội.

Ðoàn xe tiếp tục chạy tới vùng Gia Lâm, mọi người xì xào chỉ
trỏ nhận ra chiếc cầu sắt quen thuộc, cầu Long Biên (Pont
Doumer) băng ngang sông Hồng vào Hànội với nhiều nhịp nối
tiếp nhau dài trên ngàn mét. Lúc đoàn xe chạy trên cầu đến
khoảng giữa, nhìn xuống 2 bên thấy Bãi Phúc Xá như một hòn
đảo dài nổi lên chia đôi dòng sông, làm Tôi nhớ lại những kỷ
niệm hồi thập niên 1940. Tôi đã có dịp đi bộ trên suốt nửa cây
cầu rồi lần mò theo các bậc thang sắt xuống xóm nhà trên Bãi,
vui chơi trong những ngày chủ nhật mùa Hè để ăn bắp luộc tắm
nước sông trộn đầy phù xa hồng hồng mát rượi.

293

Qua hết cầu, đoàn xe vòng xuống chui qua gầm đầu cầu chạy
theo con đường dọc bờ sông đi về phiá Văn Miếu. Bên trái
đường, cái Bến xe hồi nào sầm uất đưa đón khách từ Hànội đi
các Tỉnh và ngược lại, nay vắng hoe thưa thớt có đôi nhóm
người dắt xe đạp thồ hàng hoá tụ tập. Những dẫy nhà hai tầng
dọc bên phải đường, trước kia tầng trên để ở tầng dưới mở cửa
hàng buôn bán, nay thấy vôi sơn cũ kỹ loang lổ tưởng như bỏ
hoang lâu ngày không người cư ngụ.

Lúc xe chạy ngang một ngã 3, nhìn vào con đường nhỏ bên phải,
thấy nhiều người dắt xe đạp chất đầy trên tay lái và phiá sau yên
ngồi những bao và giỏ đựng hàng hoá, đi lại hoặc tụ tập 2 bên lề
đường. Tưởng là khu chợ trời nhưng không phải, họ dắt nhau đi
vào cửa sau Chợ Ðồng Xuân ở tận cùng con đường. Cái cổng cũ
kỹ của Thành Thăng Long xưa kia rêu phong cổ kính vẫn nằm
lù lù ngay giữa con đường chẳng có gì thay đổi.

Xe tiếp tục chạy qua các phố dọc bờ sông phiá sau Nhà Hát Lớn,
qua khu Nhà Thương của Pháp trước kia, qua Chợ Mơ, Ngã Tư
Cống Vọng khu Bạch Mai, rẽ xuống hướng Văn Ðiển trên
đường đi Nam Ðịnh. Ðến gần khu ga xe hoả Văn Ðiển, nơi có
ngã ba rẽ vào Hà Ðông đoàn xe ngừng lại bên trái đường cho Tù
xuống xe, ngồi bên vệ đường nhìn ra đồng trống không bóng
người để nghỉ ăn bữa trưa. Chúng tôi lấy thực phẩm Trại phát và
bánh mì khô, thịt, cá hộp do gia đình tiếp tế để ăn.

Khi đang ăn, có mấy người dân địa phương hiếu kỳ lảng vảng
dưới ruộng lân la đến gần nhòm ngó. Họ nhặt và quan sát những
chiếc hộp thiếc hết thức ăn chúng tôi vừa vứt xuống bờ ruộng,
rồi chỉ chỉ trỏ trỏ nói với nhau những gì không rõ.

294

Chính tại ngã ba đường này, hồi đầu năm 1948 Ðại đội 4 Vệ
Binh Bắc Kỳ của Tôi được di chuyển từ Ngã Tư Cống Vọng tới
đây đóng 1 đồn lớn, 2 đồn nhỏ theo thế chân vạc. Hàng rào tre
và kẽm gai chung quanh đồn làm chưa hoàn tất, thì một đêm
quân Việt Minh đến tấn công. Họ lặn ao lách qua hàng rào bao
chung quanh đồn, mò sát tận chân tường phòng thủ ném lựu đạn
và xung phong hỗn chiến với cả 3 đồn một lúc. Nhờ có Pháo
Binh vị trí ở yếu khu Cống Vọng bắn yểm trợ sát ngay chung
quanh hàng rào, Việt Minh đã bị đẩy lui không chiếm được đồn

nào.

Giữa 3 đồn không có phương tiện liên lạc bằng Vô tuyến, đường
dây điện thoại duy nhất bị cắt đứt. Ðến lúc tiếng súng vừa lắng
dịu, Ðại đội trưởng người Pháp ra lệnh cho Tôi một mình ra
khỏi đồn Chỉ huy, đến tiếp xúc với 2 đồn Con tìm hiểu tình hình.
Sở dĩ Tôi được chọn làm công tác nguy hiểm này, vì Tôi là
người duy nhất trong Bộ Chỉ huy nói được cả 4 ngôn ngữ thông
dụng của các thành viên trong Ðại đội: tiếng Kinh là tiếng Mẹ
đẻ, tiếng Thổ vùng Lạng Sơn (sau này Việt Minh gọi là tiếng
Tầy), tiếng Tầu vùng Móng Cáy, và tiếng Pháp.

Tổng kết cả 3 đồn chúng tôi có 4 bị thương, một rất nặng bể nát
ống quyển chân trái cần tản thương ngay. Ðại đội liên lạc Vô
tuyến về Phân khu xin trực thăng tải thương không được, Tôi
phải buộc Garrot ở ngang đùi để ngăn máu cho anh ấy, chờ tới
mờ sáng đoàn xe Thiết giáp mở đường xuống tản thương. Khi
đoàn xe vừa đến đồn, cũng là đúng lúc anh bạn bị thương (người
Thổ Lạng Sơn) trút hơi thở cuối cùng. Tôi rất buồn và đau khổ,
với 2 bàn tay không đã phải chăm sóc an ủi anh ấy suốt nửa đêm
trường, đến lúc có phương tiện đem anh ấy đi cứu chữa thì anh
ấy lià đời để lại một vợ và 2 con nhỏ. Sau trận đánh này, Ðại đội

295

trưởng đề nghị xin ân thưởng Anh Dũng Bội Tinh với ngôi sao
đồng của Pháp cho một số anh em đã chiến đấu gan dạ đẩy lui
quân Việt Cộng tấn công đồn trong đó có Tôi, nhưng Tôi đã từ
chối không nhận chỉ xin được nghỉ phép 7 ngày về Hànội chơi
cho thoải mái. Ðại đội trưởng đã đề nghị thăng cấp cho Tôi từ
hạng Binh Nhì lên Binh Nhất, không cho đi phép vì đơn vị cần
người làm thông dịch viên thường trực.

Ðoàn xe chúng tôi nghỉ ngơi được chừng 45 phút, ăn uống xong
lại lên đường chạy song song phiá bên trái đường xe hoả. Ðến
khoảng gần Phủ Lý đoàn xe băng ngang đường sắt, tiếp tục chạy
trên Quốc lộ 1 đi hướng Nam, có người đoán là chuyển đến Trại
Nam Hà. Nhưng không phải, vì đoàn xe tiếp tục chạy qua Thị xã
Ninh Bình, qua cầu sông Ðáy, nơi gần dẫy núi đá tên Thúy hồi
cuối tháng 5 năm 1951 đã xẩy ra trận chiến rất khốc liệt giữa
quân Việt Minh và quân Viễn chinh Pháp. Trận chiến này Pháp
đặt tên là “Trận bên bờ sông Ðáy” mở màn ngày 29 tháng 5 kéo
dài tới khoảng giữa hạ tuần tháng 6 năm 1951 mới dứt, cả Thế
giới đều biết.

Trong “trận bên bờ sông Ðáy”, Tướng de Lattre de Tassigny
Cao Ủy Pháp kiêm Tư Lệnh đoàn quân viễn chinh Pháp tại
Ðông Dương đã mất người con trai yêu quý duy nhất là Trung
úy Bernard de Lattre, tử thương ngay tại ngôi Ðền trên lưng
chừng sườn núi Thúy nơi đặt Bộ chỉ huy của đơn vị.

Lúc trận chiến “trên bờ sông Ðáy” xẩy ra, Tôi đang là Thiếu úy
du học bổ túc chuyên nghiệp Sĩ quan tại Trường Thực hành
Chiến thuật Bộ Binh (Ecole d’application de l’Infantery) nằm
trong cùng một doanh trại của Trường Sĩ quan Lục quân Saint
Cyr ở vùng Coetquidan thuộc Bretagne, Tây Bắc nước Pháp.

296

Qua khỏi vùng núi Thúy, đoàn xe tiếp tục chạy suôi hướng
Nam, chẳng gặp chiếc xe nào lưu thông cùng chiều hay ngược
chiều. Dưới trời nắng trang trang tung bụi mịt mù, đoàn xe băng
qua Bỉm Sơn, vùng Phố Cát, Ðèo Ngang thuộc Tỉnh Thanh Hoá.
Phong cảnh Ðèo Ngang làm sống dậy 2 sự kiện ghi đậm nét
trong trí nhớ của Tôi từ thuở thơ ấu không bao giờ phai nhoà là:

Thứ nhất, bài thơ vịnh Ðèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
phải học thuộc lòng trong giờ Việt Văn của chương trình Tiểu
học.

“ Bước tới Ðèo Ngang bóng xế tà,
“ Cỏ cây xen đá, lá chen hoa.
“ Lom khom dưới núi Tiều vài chú,
“ Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
“ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
“ Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
“ Dừng chân đứng lại Trời Non Nước,
“ Một mảnh tình riêng Ta với Ta.

Thứ hai, là câu chuyện Ðền Sòng. Bà Ngoại của Tôi gốc người
Nam Ðịnh kể cho nghe vào những buổi tối thời tiền chiến lúc cả
nhà thanh thản quây quần ngồi ngoài sân, uống trà ngắm trăng
sao trên nền Trời miền Thượng du Bắc Phần.

Theo chuyện kể: «Tại Sòng Sơn, có ngôi Ðền thờ một trong TỨ
THÁNH BẤT TỬ của Việt Nam gọi là Ðền Sòng thờ Bà Liễu
Hạnh Công Chúa. Bà là Tiên Chúa thứ hai trên Trời tên gọi
Quỳnh Nương, phạm lỗi bị giáng xuống Trần làm ái nữ của vợ
chồng một Hiền nhân tên Lê Thái Công ở Thôn An Thái, xã Vân
Cát, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Ðịnh.
Sau khi chết Bà đã hiển Thánh và thường hiện ra ở nhiều nơi để

297

phù hộ cho quần chúng thoát qua nhiều tai ách hiểm nghèo. Dựa
theo lời tâu của Dân chúng địa phương và Quần thần trong Triều
thời Hoàng đế Lê Huyền Tông cũng như thời Vua Cảnh Hưng,
cả hai Vị đều ra Chỉ Chiếu cho Công Bộ của Triều đình đến lập
Ðền thờ và phong Tước Hiệu cho Bà tại 3 nơi: Sòng Sơn, Phố
Cát, và Ðèo Ngang để dân chúng thờ phượng hương khói lễ bái

sùng kính.

Tại xã Vân Cát, Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Ðịnh nơi Bà được
sinh ra đời cũng có đền thờ. Hàng năm dân chúng tổ chức Lễ
Hội rất linh đình suốt từ mồng 1 đến mồng 10 tháng 3 Âm lịch,
gọi là Hội Phủ Giầy.»

Thị xã Lạng Sơn, nơi Tôi được Cha Mẹ sinh ra và nuôi dưỡng
lớn lên cũng nghe nói Tiên Chúa Quỳnh Nương đã có lần hiện
lên đối đáp Văn Thơ cùng danh nhân Phùng Khắc Khoan. Dân
chúng sùng kính lập đền thờ, gọi là Ðền Thánh Mẫu Vân Hương
tại phố Cửa Nam. Hàng năm tổ chức Lễ Hội từ ngày 20 tháng 3
và kéo dài trong 5 ngày, để quần chúng thập phương tới lễ bái
dâng hương cầu xin Bà phù hộ cho làm ăn hanh thông phát đạt.
Những cặp vợ chồng hiếm muộn hoặc sinh con khó muôi, tìm
đến lạy cầu Bà độ trì cho được toại nguyện.
Mỗi kỳ Lễ Hội, người ta tổ chức rước Kiệu Linh Vị Bà đi thăm
xã giao 4 Vị Thần Linh khác, cũng được dân chúng dựng Ðền
thờ phượng tại những khu phố ở chung quanh bên ngoài Cổ
Thành Lạng Sơn.

TỨ THÁNH BẤT TỬ của Việt Nam gồm có:

1.- Thánh bất tử thứ nhất là Thánh Gióng tức Phù Ðổng
Thiên Vương giúp vua Hùng Vương thứ 6 dẹp giặc Ân, có
Ðền thờ Ngài tại làng Phù Ðổng, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc

298

Ninh (quê Nội của Tôi).
Những năm cuối Thập niên 1930, Tôi đã có dịp theo Cha về
thăm quê và dự Hội vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch. Cuối năm
1949, là Thiếu úy thuộc Ðại đội 2 Tiểu đoàn 2 Việt Nam đóng
tại làng Phù Lưu tỉnh Bắc Ninh, Tôi đã được Ðại đội giao
phó chỉ huy một cuộc hành quân tuần tiễu về tới gần làng
Phù Ðổng, nhưng không ghé thăm làng vì ngoài khu vực
nhiệm vụ quy định.

Sau khi Cộng sản Việt Nam có toàn quyền cai trị miền Bắc
hồi cuối năm 1954, họ đã chuyển làng Phù Ðổng từ huyện
Tiên Du phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh sang địa hạt Huyện Gia
Lâm thuộc Thành phố Hànội.

2.- Thánh bất tử thứ hai là Chữ Ðồng Tử, Chồng của Công
Chúa Tiên Dung con vua Hùng Vương thứ 3. Hai vợ chồng
hiển Thánh tại Ðầm Nhất Dạ và Bãi Tự Nhiên vùng Chử Xá.

3.- Thánh bất tử thứ ba là Tản Viên Sơn Thần (Núi Tản Viên
còn gọi là núi Ba Vì, trong địa hạt Làng Và, Huyện Bất Bạt,
Tỉnh Sơn Tây). Ðức Tản Viên Sơn Thần chính là Sơn Tinh,
chồng của Công Chúa Mị Nương con vua Hùng Vương thứ
18, trong chuyện Cổ tích Sơn Tinh và Thủy Tinh của dân tộc
Việt Nam.

4.- Vị Thánh Bất Tử thứ Tư theo truyện Cổ Tích của dân tộc
Việt Nam, lưu tuyền từ thời Nhà Lê là Liễu Hạnh Công Chúa
tức là Tiên nữ Quỳnh Nương.

Trong khi xe chạy ngang vùng Ðèo Ngang, Tôi cố đảo mắt tìm
bóng dáng ngôi Ðền thờ cũng như những chú tiều phu lom khom
dưới núi, nhưng chẳng thấy gì chỉ toàn là rừng cây âm u rậm
rạp.

299

Mặt trời miền Trung bắt đầu xuống thấp, đoàn xe chúng tôi băng
qua cầu Hàm Rồng trên sông Mã, qua Thị xã Thanh Hoá tới
khoảng giữa đồng không mông quạnh nơi ngoại ô dừng lại bên
phiá Trái đường, chẳng biết để làm gì. Tù không được xuống xe.

Chừng mươi phút sau, có một đoàn người độ hơn chục đứa trẻ
nít cả trai lẫn gái, do một bà tuổi chạc trên dưới 30 chắc là Cô
giáo, dẫn giắt di chuyển về hướng Thị xã. Tới ngang chỗ đoàn
xe chúng tôi đang đậu, bầy trẻ nhỏ dừng lại nhìn ngó chỉ chỉ trỏ
trỏ. Một lúc sau có thêm mấy người đàn ông đứng tuổi, người
vác cuốc, kẻ cằm đòn xóc đi tới ngừng lại nói chuyện với người
đàn bà. Thế rồi tự nhiên thấy người đàn bà bắt đầu xỉa xói vào
chúng tôi, cất tiếng chửi rủa những câu rất tục tỉu: “-Chém cha
đẻ mẹ chúng bay, khi không sao lại pháo kích xâm lấn đất đai
của Nhân dân Việt Nam anh hùng của bà? Chúng bay mà rơi
vào tay bà thì bà phanh thây xé xác chúng bay ra.”... Rồi bà ta
xúi giục bọn trẻ ném đá vào xe chúng tôi. Mấy người đàn ông
cũng hung hăng xấn đến sát xe, dơ đòn gánh và cuốc tính đập
vào dẫy cửa kính nơi chúng tôi đang ngồi. Cán bộ Công an áp
giải phải chạy ra can thiệp. Họ giải thích với nhau những gì,
chúng tôi không nghe được, vì cửa kính đã phải đóng kín từ lúc
bọn họ ném đá.

Mọi việc êm xuôi, Cán bộ bước lên xe giải thích: “-Họ thấy các
anh mặc áo bông và đội mũ bông bịt tai chống lạnh của Quân
đội Tầu, tưởng là tù binh Trung Hoa bị bắt tại các trận vùng biên
giới giải vào nên mới làm giữ như vậy.” Thật là phiền, những áo
bông và mũ lạnh chúng tôi đang mặc do Liên Trại 1 tại xã Việt
Cường, ên Bái, tỉnh Hoàng Liên Sơn phát cho từ hồi đầu năm
1977, không dè lại là đồ Trung Cộng tiếp tế cho Quân dội Nhân
dân Việt Nam dùng nay cũ quá phế thải phát lại cho chúng tôi.

300


Click to View FlipBook Version