The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

trên dưới 4 chục người. Cả hai bên kiến trúc giống y nhau chia
thành 3 phòng, nhưng thứ tự sắp xếp các phòng thì đối ngược
lại. Trong mỗi phòng có một bóng điện thắp sáng mỗi tối từ 7
đến 9 giờ.

Phòng đầu nhà được ngăn riêng, có cửa ra vào với nhiều cửa sổ
(không có cánh cửa) dành làm nơi ăn, đồng thời cũng là nơi cất
các dụng cụ cần cho việc nấu nướng và thực phẩm tiếp tế riêng
của Tù. Củi đun nấu riêng mỗi cá nhân được phép nhặt gom
trong giờ lao động đem về xếp đống tại khu bếp ngoài sân sát
hàng rào phía cuối dẫy để dùng dần.
Phòng kế tiếp là phòng giam, bề ngang rộng 6 mét, có 2 dẫy sàn
ngủ 2 tầng dọc theo chiều dài nhà, bề rộng sàn ngủ là 2 mét. Sàn
ngủ dưới thấp được xây bằng gạch láng xi măng cao hơn mặt
nền nhà 50 phân, giàn sàn ngủ trên cao dát ván dầy chắc chắn
bằng phẳng. Mỗi người được chia một khoảng nằm bề ngang 70
phân vừa bằng bề ngang chiếc chiếu con dành cho 1 người.
Phòng giam có một cửa ra vào duy nhất ở chính giữa, với cánh
cửa có cây sắt dài chặn khoá trái bên ngoài. Hai bên cửa ra vào
có 2 cửa sổ cao rộng gắn song sắt nhưng không có cánh cửa,
nhờ thế những người nằm sàn ngủ trên cao cũng có thể nhìn ra
ngoài được, và ở bên ngoài nhà cũng có thể quan sát các hoạt
động bên trong rất rõ ràng. Hàng tường mặt trước phòng giam
được xây thụt vô 1 mét làm hàng hiên cho Tù đứng xếp hàng đợi
vào phòng giam khi trời mưa lớn.

Nối liền bên phòng giam là phòng vệ sinh, có 2 lỗ hầm cầu tiêu
1 máng tiểu cho Tù dùng cả ngày lẫn đêm, và 1 hồ chứa nước để
xối rửa cầu tiêu sau mỗi lần xử dụng. Nước chứa trong hồ được
xe bồn do Tù đi lấy từ sông nhỏ chảy ngang Trại, đem về tiếp tế
mỗi ngày 1 lần vào buổi sáng. Phòng vệ sinh là phòng cuối

401

cùng, nên bức tường của phòng này là điểm ngăn cách tiếp giáp
với phòng vệ sinh của nửa nhà thuộc phía ội bên kia.

Dẫy nhà giam chúng tôi là dẫy thứ 2 tính từ cổng khu đi vào.
Dẫy nhà thứ 3 ở phía đằng sau dẫy của chúng tôi, 1 nửa làm Nhà
kỷ Luật, nửa kia giam 1 ội cũng gồm lẫn lộn ại tá, Trung tá.
Tôi biết được là nhờ lúc ra nấu nướng vào trưa ngày hôm sau, có
mấy bạn cũ cùng ngành Truyền Tin với Tôi trước kia ra nấu
nướng gọi sang hỏi thăm.

Kiểm tra tư trang xong, anh ội trưởng đưa các Tổ trưởng vào
nhà chia khu vực nằm cho từng Tổ, sau đó mọi người mới ùa
nhau vào giành chỗ nằm tốt trong khu vực quy định cho Tổ của
mình. Những chỗ nằm thường được mọi người coi là tốt phải xa
cửa vào phòng vệ sinh và gần cửa sổ. Hai chỗ nằm ở sạp ngủ
dưới thấp sát ngay hai bên cửa chính ra vào phòng giam phải
dành cho ội trưởng và ội phó. Vừa ổn định xong chỗ nằm
chưa kịp ăn bữa tối, kẻng báo tập họp kiểm tra nhân số vào
phòng giam đã điểm, mọi người phải đem thức ăn vào phòng
giam để thanh toán tại chỗ ngủ riêng của mình.

Sáng hôm sau ra quân lao động lần đầu tại Trại này, ội chúng
tôi được dẫn lên Khu Nhà Tôn dọn dẹp rác rưởi trên mấy nền
nhà cháy bỏ không từ lâu ngày. Theo tin tức mấy anh em cũ cho
biết, đây là vết tích của cuộc đốt phá chống đối Ban Chỉ huy
Trại của các anh em bị giam tại Trại này trong những năm cuối
thập niên 1970 đầu thập niên 1980.

Sau một tuần lễ dọn dẹp khu nhà cháy cũ xong, chúng tôi được
điều động ra bãi đất trống gần cổng khu giam Tù ngồi đập đá
hộc thành đá vụn. Anh em phải ngồi giữa trời nắng chang chang
suốt buổi để đập, trong khi ngay gần bên đống đá có một cây

402

cao tàn lá um tùm râm mát. Buổi lao động chiều, Tôi đề nghị
anh ội trưởng xin Quản giáo cho anh em vần đá vào gần gốc
cây có bóng mát để ngồi đập cho đỡ nắng. ợi mãi chẳng thấy
kết quả gì, Tôi bèn tự động vần đá vào bóng mát bên gốc cây
ngồi đập. Anh ội trưởng thấy nhưng không có ý kiến và cũng
không bắt chước, tiếp tục ngồi giữa trời đập đá bên các bạn
khác. Một lúc sau có thêm vài bạn làm theo Tôi, và chúng tôi
thoải mái ngồi đập đá đến hết giờ lao động chiều không có
chuyện gì xẩy ra. Buổi sinh hoạt tối trong Láng giam thảo luận
rút ưu khuyết điểm công tác trong ngày, cũng không ai đề cập
nhắc nhở tới hành động của Tôi.

Nhưng sáng hôm sau vào lúc bắt đầu giờ giải lao, anh ội
trưởng thông báo lệnh Quản giáo gọi Tôi vào túp nhà tranh ngay
gần bên chỗ ội lao động để “làm việc”. Tôi hơi chột dạ nhưng
vẫn bình tĩnh đi gặp Quản giáo ngay không do dự gì, chuyện đã
lỡ rồi đành phải liều tùy cơ ứng biến chớ biết làm sao bây giờ.

Tôi thong thả bước vào cửa gian lều thấy Quản giáo ngồi sau
một chiếc bàn, Cảnh vệ cằm súng đứng gác chân lên chiếc ghế
khác gần bên. Tôi dừng lại thẳng người làm đúng quy luật báo
cáo:

“Tôi là Nguyễn Huy Hùng trình diện Cán bộ”.

Ông ta chỉ tay xuống đất nói:

“-Anh ngồi xuống đây.”

Không có ghế, Tôi ngồi chồm hổm trên nền nhà cách phía trước
bàn chừng 2 mét ngẩng mặt lên chăm chú nhìn ông ta, chờ đợi.

403

Mở màn giáo dục cố hữu của các Cán bộ đối với Tù, ông ta nhắc
lại những gì đã phải nghe suốt 7 năm qua về ế quốc Mỹ sen
đầm quốc tế, Ngụy quân Ngụy quyền tay sai của ế quốc cặn bã
của xã hội..., rồi kết thúc bằng câu hỏi:

“-Anh học tập bao lâu rồi mà chưa tiến bộ, vẫn còn ngại
mưa sợ nắng vậy?”

Tôi bình tĩnh thủng thẳng trả lời:

“-Thưa Cán bộ, từ ngày đi học tập cải tạo đến nay cũng được
7 năm rồi. Dầm mưa dãi nắng lao động cải tạo cực nhọc
trong mọi thiếu thốn trên đất miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, Tôi
đã học được nhiều điều hay của Xã hội Chủ nghĩa. Tôi đã
“nắm được” những điều răn dạy của Cách Mạng về “lao
động là vinh quang” thì có lý nào còn ngại mưa sợ nắng. Các
Cán bộ đại diện Đảng và Nhà Nước cũng đã dạy cho biết
“lao động là sáng tạo” thì làm sao Tôi quên được. Muốn đạt
“năng xuất cao” phải biết “khai thác óc sáng tạo” để tạo
“môi trường lao động” thích hợp. Sở dĩ Tôi lăn đá vào gần
gốc cây có bóng râm mát là để nâng cao “năng xuất” và giữ
được sức bền dai để làm nhiều ngày, chớ đâu phải sợ nắng.
Cán bộ cứ ra đo thử xem khối đá do Tôi và anh em ngồi
trong bóng râm sản xuất, có nhiều hơn những người ngồi
ngoài nắng không? Đấy là chúng tôi “khai thác óc sáng tạo”
để “lao động với năng xuất cao”, nếu Cán bộ không bằng
lòng thì Tôi trở ra giữa nắng ngồi như mọi người”.

Ông ấy không bắt bẻ vào đâu được, đành nói trớ rằng:

“-Anh đừng ngoan cố biện minh, hãy nhớ cố gắng mà tiếp
tục học tập lao động cho mau “tiến bộ” để sớm được về

404

“đoàn tụ” với vợ con. Lâu hay mau là tùy ở tinh thần phấn
đấu và mức tiến bộ của chính bản thân các anh”.

Tôi gật đầu và đứng lên nói:

“-Rõ, báo cáo Cán bộ Tôi đi ra.”

Thời gian “làm việc” với Cán bộ kéo dài hơn một tiếng đồng hồ
mất toi cả buổi giải lao. Trở ra chỗ lao động thấy mấy anh em
ngồi gần gốc cây đã di chuyển ra giữa nắng ngồi bên các người
khác. Tôi đi ngang khoa tay nói nhỏ đủ cho họ nghe:

“-Chuyện không có gì đừng lo”

và Tôi đi về chỗ ngồi cũ bên gốc cây tiếp tục đập đá cho đến hết
giờ lao động.

Buổi lao động chiều khi vừa tới “hiện trường lao động”, anh ội
trưởng nói cho biết là Cán bộ bảo Tôi ra ngồi lao động chung
một chỗ với anh em. Không có biện pháp kỷ luật nào đối với Tôi
về vụ này, nhưng kể từ đó trở đi Tôi biết mình bị theo dõi
thường xuyên cả trong lẫn ngoài giờ lao động. Rút kinh nghiệm
thời gian còn ở các K1, K5 Trại Tân Lập và K2 Trại Thanh
Phong ngoài miền Bắc, Tôi lại phải nhẫn nhục giữ mồm giữ
miệng và làm như mọi người, kẻo “tai vách mạch rừng” có thể
vướng vòng kỷ luật bị hạ mức ăn hàng ngày, không được gửi
nhận thư và tiếp tế của gia đình, sẽ làm cho gia đình lo sợ buồn
lòng vì ảnh hưởng đến việc tha về “đoàn tụ”.

ập đá chẳng được mấy ngày thì đá hết, ội đổi công tác đi làm
cỏ ruộng mạ. Nước ngập ngang bắp chân phải vắn ống quần cao
lên trên đầu gối, vén tay áo sát tận nách, lội xuống ruộng cúi gập
người dùng 2 tay quơ quơ dọc theo các hàng mạ để cào nhổ cỏ

405

vứt lên bờ. Cả ội xuống xếp hàng ngang cùng làm, liên tục
suốt từ đầu này đến đầu kia của ruộng mới ngừng. Làm chậm
một mình lùi lại sau anh em thì coi không được, nên cứ phải
ráng mà theo cho kịp các bạn làm nhanh. Lưng bị cúi gập lâu
bắp thịt mông và lưng như đông cứng lại đau đớn, mỗi lần muốn
đứng thẳng lên nghỉ đôi chút phải dùng 2 mu bàn tay đập đập
nhẹ vào 2 thăn lưng khúc ngang hông một hồi cho rãn ra hết đau
mới ngẩng thẳng người lên được. Hết ruộng này sang ruộng
khác, cứ phải cúi lom khom như vậy làm liên tục suốt buổi lao
động, ngày này qua ngày khác, không nặng nhọc nhưng đau
lưng mỏi gối tê chân vì ngâm nước cả ngày, đêm về nằm ê ẩm
mỏi mệt người hâm hấp nóng khó chịu vô cùng. Có điều lạ
khiến Tôi ngạc nhiên, không biết tại sao ruộng ở đây đỉa nhỏ
con và ít hơn ở ngoài Bắc.

Trong thời gian làm cỏ ruộng mạ, anh ại tá Trịnh ình ăng
và Tôi ăn chung được dịp “cải thiện” đồ ăn tươi không mất tiền
mua, lộc của Thổ Thần ban cho rất thích thú. Cá nhỏ, cua, ốc có
rất nhiều trong ruộng mạ, anh ăng là tay rất thông thạo nghề
nông nên vào giờ giải lao giữa buổi lao động nào cũng bắt được
một số đem về nấu canh chua, hoặc rim mặn để 2 anh em cùng
ăn dần.

Sát cạnh khu lao động của chúng tôi, có một túp nhà tranh 1
gian 2 trái dựng bên một thửa ruộng vuông mỗi cạnh dài cỡ trăm
mét cũng đang có mạ đã cao. Hai người một nam một nữ khoảng
40 tuổi cặm cụi làm cỏ ngoài ruộng, còn 2 đứa nhỏ một trai một
gái cỡ 3, 4 tuổi lăng xăng đùa rỡn với con chó vện quanh hiên
nhà. ứa chị mặc cả quần lẫn áo ngắn cũn cỡn còn thằng em chỉ
có một chiếc áo thun để chuồng lồng lộng. Theo lời Quản giáo

ội đây là gia đình của ại úy Bộ đội “phục viên” (đã giải ngũ)

406

được Chính quyền địa phương cấp cho mảnh đất này để khai
khẩn sinh sống.

Cả vùng ruộng chúng tôi đang lao động chỉ có căn nhà này là
khoảnh đất nổi cao duy nhất không ngập nước, nên Quản giáo
cho Anh Nuôi của ội dựng lò nấu nước ở góc sân. Giờ nghỉ
giải lao anh em cũng được phép tụ tập ngồi hút thuốc ăn uống
nên có dịp lấy bánh kẹo cho 2 đứa trẻ. Cha mẹ chúng cũng lợi
dụng cơ hội nghỉ giải lao, đến ngồi gần chúng tôi hút thuốc uống
nước nói chuyện với Cán bộ Cảnh vệ và Quản giáo. Qua câu
chuyện trao đổi giữa họ với nhau, chúng tôi biết được: “Anh ại
úy Bộ đội “phục viên” này người gốc địa phương Hàm Tân,
trước thuộc một đơn vị trong Mặt Trận Giải phóng miền Nam có
nhiều công trạng trong “Chiến dịch hành quân Hồ Chí Minh
Thần Thánh mùa Xuân năm 1975”. Anh ta bị tước ảng tịch
cho giải ngũ vì không chịu tuân hành chỉ thị của ảng ủy đơn vị,
ngoan cố nhất định khăng khăng kết hôn với người vợ hiện tại
mà ngặt một nỗi Chị ấy không phải là thành phần đảng viên
Cộng sản như anh ấy”!!!

Mang tiếng ội Nông Nghiệp nhưng chúng tôi không có “hiện
trường lao động” riêng, bị thường xuyên tăng phái đi làm thuê
cho các ội khác. Làm cỏ ruộng mạ vùng này xong, chúng tôi
được điều động đi tăng cường phát quang cuốc đất lên luống
trồng khoai lang cho một ội Nông Nghiệp ở vùng khác, phía
gần cổng vào Trại cách khu Nhà Thăm Nuôi khoảng nửa cây số.
Lượt ra lao động tại hiện trường mới, chúng tôi được dẫn đi theo
đường ra khu Nhà Thăm Nuôi để rẽ vào, nhưng hết giờ lao động
lại được dẫn về theo lối khác. i theo con đường dẫn xuống nơi
có một đập đá mặt rộng chừng 8 mét ngăn ngang dòng sông, để
tắm rửa giặt giũ trước khi trở về Trại giam. Cái đập đá này vừa

407

dùng để ngăn dòng sông lấy nước tưới cho các khu ruộng cao
của Trại Z30C, vừa làm con đường kè đá cho xe hơi chạy vào
phân trại K2 cách bên kia sông chừng 5 cây số.

ông người xuống tắm cùng một lúc, gần bờ nước bao giờ cũng
bị ngầu đục. Những người biết bơi thường bơi ra giữa dòng có
một cồn đất, đứng thẳng người chỉ ngập ngang ngực để tắm
nước trong cho thoải mái. Sau khi đã tắm sạch sẽ bằng nước
trong ở giữa dòng, phải bơi xuôi tới quãng giữa đập leo lên rồi
đi trên mặt đập vào bờ để tránh cho khỏi bị nước đục ven bờ
sông bám vào người. Tôi vẫn thường tắm như vậy. Một hôm lúc
Tôi đi trên mặt đập vào gần tới bờ, một bạn Tù cũ tốt bụng đã
khuyên không nên bơi vào cạnh đập ở khu giữa sông như vậy
nguy hiểm. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao, bạn ấy mới kể cho nghe
một chuyện không may đã xẩy ra một năm trước khi chúng tôi
về đây như sau:

“Thường thường mọi người đều thấy anh Y tắm nơi cồn đất
giữa dòng sông, tắm xong bơi vào khúc giữa đập để leo lên.
Nhưng một hôm vào mùa mưa mực nước sông cao hơn bình
thường và cuồn cuộn chẫy rất xiết, sau buổi tắm chiều cả Đội
tắm xong tập họp kiểm số về Trại không thấy anh Y đâu.
Quần áo của anh ấy cởi ra để xuống tắm vẫn còn nguyên bên
bờ. Cán bộ đổ đi tìm khắp các nơi 2 bên bờ đều không thấy.
Cho mấy người bơi lội giỏi lặn mò tìm dọc đáy đập cũng
không thấy. Ai cũng cho là anh ấy đã trốn trại. Nhưng mấy
ngày sau xác anh ấy nổi lên ở phía hạ lưu của dòng sông,
cách xa đập cả mấy trăm mét. Lúc đó người ta mới suy luận,
có lẽ anh ấy đã bị nước xoáy cuốn xuống lỗ cống ở gần đáy
giữa đập, bị mắc kẹt không ra được chết ngộp trong lòng ống
cống.”

408

Lúc bình thường trong mùa khô nước sông chẩy liên tục thủng
thỉnh nhẹ nhàng, vừa tràn qua mặt đập vừa thoát theo một ống
cống ở đáy đập khoảng giữa sông xuống phía hạ lưu, tạo nên
một âm điệu rì rầm rào rào êm êm đều đều như tiếng quay của
cối xay lúa, quang cảnh mặt đập thấy rất là hiền hoà nên thơ,
nhưng vào mùa mưa nước lũ dâng cao hơn mặt đập gần 2 mét
tràn lan làm cho lòng sông mở rộng thêm lấn vào 2 bên bờ
khoảng vài chục mét, chẩy xiết không lưu thông trên mặt đập
được. Vì thế người ta đã dựng một chiếc cầu treo bằng tre có sàn
ván song song gần đập, cho người đi bộ và đẩy xe cải tiến chở
đồ tiếp tế qua lại giữa K2 và K1 (nơi có Ban Chỉ huy Trại Hàm
Tân và khu Nhà Thăm Nuôi).

Trong thời gian tăng phái làm tại khu gần cổng trại, chúng tôi có
dịp thấy các xe lô chở thân nhân “thăm nuôi” Tù tấp nập đến
vào buổi sáng từ khoảng 10 giờ trở đi, và buổi chiều vào quãng
4 giờ xe trở lại tập trung đón các bà rời khu Nhà Thăm Nuôi.
Các bạn Tù ra thăm nuôi thường được đưa ra làm 2, 3 đợt liên
tiếp nhau, đợt trước thăm nuôi xong sắp rời Nhà Thăm Nuôi trở
vào Trại thì đợt kế theo được dẫn ra.
Từ ngày về Trại Z30C Hàm Tân chúng tôi không được cấp
phiếu gửi Bưu Kiện nữa, nhưng gia đình Tù được đến Trại xin
“thăm nuôi” 3

Ttháng 1 lần đem tiếp tế cho Tù bao nhiêu cũng được không hạn
chế. Chừng 2 tháng sau khi về đây các bạn trong ội chúng tôi
lần lượt có gia đình đến “thăm nuôi”. Những bạn vốn giầu đồ
tiếp tế xưa nay vẫn là những người được vợ con “thăm nuôi”
sớm nhất, y như hồi còn bị giam ở ngoài Bắc. Có nhiều bà rất
khôn ngoan, chưa kịp chuẩn bị đi thăm chồng thì nhờ những bạn
thân quen đem giúp thư và chút đỉnh quà vào trại giam cho

409

chồng. Người được “thăm nuôi” nhận chung một lượt vói quà
của mình rồi đem vào trại đưa lại cho bạn. Quà gửi như vậy
không được nhiều khoảng dăm ba kí lô thôi, nhưng một tuần lễ
được 2, 3 bạn đem giùm như vậy cộng chung cũng đủ dùng
trong đôi tháng.
Phần Tôi phải đợi hơn 3 tháng mới được Vợ dẫn cô gái út tới
“thăm nuôi”. Lâu ngày mới gặp nhau, Vợ Chồng Cha Con mừng
rỡ nghẹn ngào không nói được nên lời. Cô gái út của Tôi lớn
quá, ngày từ biệt gia đình đi trình diện học tập cải tạo 7 năm về
trước cô ấy đứng đầu chỉ cao ngang nách Tôi, bây giờ thì đã cao
ngang Mẹ xấp xỉ bằng Bố.

Sau khi nhóm anh em được “thăm nuôi” làm thủ tục trình diện
xong, Cán bộ vừa đưa tay ra hiệu cho phép mọi người vào
phòng thăm nói chuyện thì Cô gái út chạy ùa tới ôm Tôi hôn, tíu
tít nói: “-Bố ốm quá! Bố đen quá!...” làm Tôi xúc động rưng
rưng nước mắt, ôm con hôn cố gắng giữ cho khỏi bật ra tiếng
khóc mừng ngày Cha Con tái ngộ. Rồi quay qua vòng tay ôm vợ
hôn hỏi thăm sức khoẻ và dắt nhau vào phòng thăm kiếm chỗ
ngồi.

Có 2 phòng thăm sát bên nhau, trong mỗi phòng kê 2, 3 chiếc
bàn dài cho Tù và thân nhân ngồi nói chuyện. Tù ngồi một bên
và thân nhân ngồi bên đối diện. Thời gian “thăm nuôi” nói
chuyện ở đây rộng rãi hơn Trại Tân Lập ngoài Bắc, được tới 30
phút tha hồ thong thả nói đủ thứ chuyện. Chỉ có một Cán bộ phụ
trách, nên ông ta đi qua đi lại các phòng để theo dõi chớ không
ngồi tại đầu bàn theo dõi như ở Trại Tân Lập Vĩnh Phú ngoài
Bắc. Mọi người tha hồ nhỏ to nói chuyện thoải mái không e ngại
gì cả. Nhờ vậy Tôi được biết Vợ đang lo cho 2 người con đi
vượt biên, nên không dư dả để có thể tiếp tế cho Tôi đều và

410

nhiều như mong muốn. Tôi cũng được biết các con đang phải
lao động vất vả để kiếm sống hàng ngày. Mấy người con trai
đứa làm gia công cho Tổ hợp sản xuất mành trúc do gia đình các
Cán bộ Cộng sản làm chủ, đứa đạp xe đi bỏ mối nước ngọt và
bia cho các nhà hàng ăn. Mấy người con gái nhận đồ về nhà làm
gia công thêu và may ráp quần áo của các tổ hợp sản xuất quần
áo cũng do các thân quyến của các Cán bộ Lãnh đạo tại địa
phương làm chủ. Vợ của Tôi phải nấu cháo vịt bán ngay trên lề
phố trước cửa nhà riêng của chúng tôi.

Nghe chuyện Tôi rất xót xa đau khổ thương Vợ Con vô cùng.
Nhất là Vợ của Tôi, từ ngày kết hôn với nhau cuối năm 1949
đến 30-4-1975 chưa bao giờ phải vất vả khổ cực như vậy, lúc
nào trong nhà cũng có 2 người giúp việc đi chợ lo bếp núc, giặt
giũ, quét dọn nhà cửa...

Từ đó trở đi Tôi không biên thư yêu cầu gia đình tiếp tế món
này món kia như các bạn nữa, tùy gia đình gửi cho thứ gì cũng
được, có gì dùng nấy và luôn luôn tiết kiệm. Thời hạn “thăm
nuôi” cũng không cần thiết phải 3 tháng một lần, lúc nào thuận
tiện thì đi năm sáu tháng một lần cũng được, miễn là biên thư
cho biết tin gia đình thường xuyên hàng tháng là đủ.

Cũng vì quyết định này nên Tôi đã tách ra không nấu nướng ăn
chung với anh ăng nữa, sợ phần đóng góp của mình không cân
xứng gây thiệt thòi cho bạn.

Thời gian tăng cường rẫy cỏ và vun đất cho các luống trồng
khoai lang gần cổng Trại, Tôi được Thổ Thần thương tặng cho
món quà đặc biệt một cách thật bất ngờ. Trong một buổi lao
động chiều dưới trời nắng chang chang, Tôi đang bình thản cuốc
vun đất giữa hai luống khoai, bỗng thấy anh em làm gần tay chỉ

411

miệng hô: “-nó kia! nó kia!” và rầng rầng đua nhau rượt đuổi bắt
con gì không rõ. Tôi định thần quan sát thấy một con thỏ rừng
nhẩy qua các luống tìm đường thoát thân. Nó chạy qua hướng
nào cũng có người đuổi chặn đầu vồ nhưng hụt. Không biết Thổ
Thần xui khiến sao, nó quýnh quáng nhẩy ngay vào rãnh giữa
hai luống Tôi đang làm để chạy tiếp. Tôi dựa cuốc vào sườn
luống, dạng 2 chân đứng im không nhúch nhích đợi nó chạy tới
sát chân mới cúi thật nhanh xuống dùng 2 tay chộp bắt nó. May
làm sao Tôi đã hành động rất đúng lúc, nên nắm được ngay
bụng và cổ nó nhấc lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Con
thỏ hết thời đương nhiên thuộc quyền sở hữu của Tôi, để được
yên bụng không lo con thỏ tinh khôn tìm đường trốn thoát, Tôi
đập đầu nó vào lưỡi cuốc hoá kiếp cho nó ngay.

Thịt thỏ rừng thường dai và cứng nên chiên xào ăn không được,
đồ tiếp tế của Tôi không còn gia vị để ướp trước khi đem hầm
mềm, nên Tôi thương lượng giao thỏ cho anh bạn ại tá Dương
Hiếu Nghĩa giải quyết. Hết giờ lao động ra sông tắm, anh Nghĩa
lột da cắt đầu 4 chân và bộ lòng bỏ, chỉ lấy bộ gan và thân mình
với 4 chiếc đùi chặt thành 8 miếng đều nhau. Về tới khu giam
lấy gia vị ướp và đun một lửa cho chin rồi cất dó, đến trưa hôm
sau đem ra đun thêm lửa thứ hai cho thật nhừ và đợi bữa cơm
chiều mới đem ra chia nhau mỗi người một nửa. Phần của Tôi 4
miếng, đem tặng anh ội trưởng và anh ăng người ăn chung
với Tôi hồi trước mỗi người một miếng, còn lại 2 miếng Tôi
thủng thẳng ngồi thưởng thức và trước khi ăn không quên lẩm
nhẩm khấn cám ơn lòng thương của Thổ Thần.

Trong Khu Nhà Ngói Tôi có dịp gặp rất nhiều bạn cũ thuộc Binh
chủng Truyền Tin và Chiến tranh Chính trị, và đặc biệt không
biết cơ duyên nào xui khiến cả 3 người từng nối tiếp nhau giữ

412

trách vụ Chủ Nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến của Quân đội đều hội
ngộ tại Khu Nhà Ngói này. ó là Thiếu Tá Thạch (đã giải ngũ)
Chủ Nhiệm đầu tiên điều hành tờ báo từ khi mới ra đời, Trung tá
Ninh (Thi sĩ Hà Thượng Nhân, đã giải ngũ) Chủ nhiệm thứ 2, và
Tôi người thay thế anh Ninh làm Chủ Nhiệm sau cùng từ năm
1972 cho đến ngày Quốc hận 30-4-1975.

Trong những tháng cuối năm 1982 có tới 2, 3 đợt tha, mỗi đợt
hàng trăm người, các anh Thạch và Ninh được tha trong các dịp
này cùng nhiều bạn bè của Tôi thuộc Binh Chủng Truyền Tin.
Một đợt tha khác rất đông đã xẩy ra vào dịp trước Tết Quý Hợi-
1983, trong đó có anh Trung tá Xuyến ội trưởng của chúng tôi.
Chừng mươi ngày sau ội chúng tôi lại có thêm 2 ại tá được
tha là anh iệp (người bị nhũn não (stroke) ở K2 Thanh Phong,
Tôi đã kể trong một đoạn trước) và anh Tấn (Hải quân). Sau khi
Tôi và gia đình đến định cư tỵ nạn Cộng sản tại quận Orange
Nam California hồi cuối năm 1992, có nghe nói anh iệp và gia
đình định cư tại Los Angeles nhưng Tôi không có dịp gặp, còn
anh Tấn thì đã có dịp làm việc chung với Tôi một thời trong cơ
quan từ thiện USCC tại Orange County Nam California.

Sau khi anh Xuyến được cuốn gói hành trang tạm biệt anh em
trong ội, Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh được chỉ định
làm ội trưởng thay thế, anh Trung tá Sáu vẫn làm ội phó.
Mọi người hân hoan ăn Tết vui vẻ chúc nhau y như đang sống
trong trại tạm trú tỵ nạn chớ không phải trong Tù. Sau 3 ngày
Tết thoải mái mọi người lại phấn khởi “ra quân thi đua” tiếp tục
“lao động cải tạo năng nổ” để chờ đợi tới phiên mình được gọi

tên tha.

XUÂN TÁI NGỘ MIỀN NAM

413

Rừng Lá Hàm Tân mai nở vàng,
Đoàn Tù Chính trị đón Xuân sang.
Xuân trên Xứ Bắc mây u ám,
Tết tại Miền Nam nắng dịu dàng.
Việt Cộng vong nô hành khổ nhục,
Cộng hoà chiến sĩ vẫn hiên ngang.
Trà Blao nhấm nháp hương đoàn tụ,(1)
Cẩm Lệ phì phèo khói nạn tan.(2)

K1-Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải. Xuân Qúy Hợi-1983.
(1)-Trà sản xuất tại Bảo Lộc, Tỉnh Lâm ồng.
(2)-Thuốc lá sản xuất tại Cẩm Lệ, Tỉnh Thừa Thiên.

Chương 31.
DÙNG CHÍNH SÁCH THÂM ĐỘC
LAO ĐỘNG CẢI TẠO TƯ TƯỞNG,
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ THẤT BẠI Ê CHỀ

Chuẩn bị mừng lần thứ 9 ngày ại thắng mùa Xuân 30-4-1975
của Cộng sản Việt Nam, Trung Ương ảng gửi phái đoàn hùng
hậu đến Trại Z30C tổ chức học tập 2 tuần lễ liền.

Thật là may mắn kỳ học tập này oàn Cán bộ không nhai lại
như bò những gì đã nhai liên tục suốt 8 năm qua, nhưng lại phải
ngồi chồm hổm trên nền đất nhà Hội trường mái tôn chặt cứng
như nêm, ngột ngạt đủ thứ mùi vị nồng nặc từ cơ thể mọi người
toát ra, để xem liên tục nhiều ngày cuốn phim dài cả chục tập
còn mệt mỏi hơn đi lao động ngoài đồng nhiều.

414

ây là bộ phim được dàn dựng theo loại phim tài liệu lịch sử ghi
lại các chiến thắng của Cộng sản Việt Nam từ năm 1945 cho tới
30-4-1975, với mục đích tuyên truyền khoa trương những góc
cạnh có lợi nhằm đánh bóng và thần thánh hoá các hành động
của các lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhưng đối với những người có tinh thần Quốc gia Nhân bản
kiên định, không những chẳng xiêu lòng thán phục mà lại càng
thấy rõ ràng hơn mặt thật xảo trá bịp bợm tinh vi trơ trẽn vô
nhân đạo dã man của Cộng sản Việt Nam “Hại Dân Hại Nước”
chớ không phải “Vì Dân Vì Nước” suốt mấy chục năm qua, và
nay vẫn còn đang tiếp tục.

Người ta đưa vào phim những khuôn mặt lớn của Cộng sản như
Hồ Chí Minh, Phạm văn ồng, Trường Chinh, Võ nguyên Giáp,
Lê dức Thọ... Bên phía Quốc gia chống Cộng, họ cũng đưa vào
hình ảnh của Cựu Hoàng Bảo ại, Thủ tướng Trần văn Hữu,
Nguyễn văn Tâm, Tổng thống Ngô ình Diệm, Cố vấn Ngô

ình Nhu, một vài Tướng lãnh Việt Nam Cộng hoà... và một số
nhân vật Chính trị Quân sự của Hoa Kỳ và Pháp đã nắm những
vai chính yếu trong cuộc chiến Việt Nam. (Thời gian qua đi đã
lâu quá rồi, hơn nữa ngồi xem trong tình trạng bị ép buộc không
quan tâm chăm chú xem những dự kiện ghi nhận một chiều, nên
Tôi không nhớ các chi tiết “cụ thể” trong phim nên không ghi
lại được chi tiết như mong muốn).

Tất cả những người thuộc phe Quốc gia Tư bản chỉ được cho
xuất hiện trên phim trong một thời gian rất ngắn với những trích
đoạn lời phát biểu dưới góc cạnh có lợi cho Cộng sản, còn các
nhân vật Lãnh tụ Cộng sản thì bao giờ cũng được phô trương lâu
nói dai nói dài với những lời lẽ chải chuốt tuyên truyền, tâng bốc
cái khí thế của làn sóng Cách mạng Vô sản đang cuồn cuộn

415

dâng lên trước cái thế yếu xuy thoái đang rẫy chết của Hoa Kỳ
và phe đồng minh Tự do Tư bản.

Sau đợt học tập, các ội lại phải thi hành cái thông lệ họp riêng
tại Láng dưới sự giám sát của Quản giáo để mọi người thay
phiên nhau phát biểu ý kiến tổng kết “thâu hoạch”, ghi biên bản
trình những gì đã hấp thụ được sau các buổi học tập lên đoàn
hướng dẫn phán xét kết quả kỳ học tập tiến bộ như thế nào.

Dĩ nhiên kết quả bao giờ cũng mỹ mãn “đạt mục đích yêu cầu”,
và mọi người đã đều “nhất trí”

“Cách mạng Vô sản Việt Nam là đỉnh cao trí tuệ” “anh hùng
vô địch đã đánh thắng cả 2 Đế quốc Pháp và M giầu mà
không mạnh”..., và sau cùng mọi người cũng đã đồng thanh
hứa là “luôn luôn cố gắng cải tạo cho tốt để sớm được Nhà
Nước tha cho về đoàn tụ với Vợ Con, tiếp tục tuân theo luật
lệ của Đảng và Nhà Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xây dựng đất nước xã hội chủ nghiã giầu mạnh gấp
trăm ngàn lần hơn các nước Tư bản đang dẫy chết...”,

chớ không ai ngu dại gì mà nói rằng

“-Cộng sản Việt Nam là tay sai của Đế quốc Đỏ Liên Xô,
Trung Cộng, được các nước Cộng sản quan thầy cung cấp vũ
khí đạn dược và Cố vấn tham gia điều khiển thi hành kế
hoạch xâm lược miền Nam Việt Nam và toàn Bán đảo Đông
Dương để làm bàn đạp cho Cộng sản Quốc tế bành trướng
xuống toàn vùng Đông Nam Á Châu...”

Kỳ Học tập chấm dứt, nhiều đợt tha Tù lại tiếp tục xẩy ra, và
những tin đồn Chính phủ Hoa Kỳ đang chuẩn bị đón tiếp Tù
Chính trị tới định cư cũng dồn dập vào trại theo các đợt “thăm

416

nuôi” hàng ngày. Các sự kiện này cho phép nhận định, mục đích
chính của đợt học tập kỳ này nhằm tuyên truyền lôi cuốn Tù
Chính trị còn “nhẹ dạ cả tin” ở lại trong nước, đừng xin đi định
cư nơi nước ngoài để sau này Việt Cộng còn có cơ hội lợi dụng
làm công cụ câu tiền của Hoa Kỳ.

Khi lúa sắp sửa trổ đòng đòng, chúng tôi lại được tăng phái đến
làm cỏ và phát bờ ruộng cho một ội Nông Nghiệp khác ở phía
mút hướng Tây của Trại. Cây lúa cao ngang bụng, cả ội xếp
hàng ngang dùng cuốc vừa cà cỏ nhặt vứt lên bờ vừa vun gốc
lúa. Lá lúa nhỏ dài ngọn lá nhọn cạnh bén như lưỡi dao, mỗi khi
cúi xuống ngẩng lên đều bị lá lúa đâm cứa vào mặt vào tay làm
rặm ngứa xót khó chịu vô cùng.

Làm trong ruộng lúa dưới trời nắng nóng bực bội khiến cho
người ta dễ nổi tính cáu bẳn một cách vô lối. Tôi đã lỡ làm một
việc khiến cho anh em cả ội rơi vào một hoàn cảnh thật khó
xử. ầu đuôi câu chuyện như sau:

Hàng ngày khi vừa tới “hiện trường lao động” là Quản giáo ội
ra lệnh ngay cho anh ội trưởng cung cấp 2, 3 người để chuốt
đũa bằng cuống lá buông cho ông ấy đem bán kiếm tiền xài.
Anh em trong ội phải nỗ lực làm nhiều hơn để bao phần của
các bạn đó thì mới hoàn tất được chỉ tiêu quy định cho ội phải
thực hiện trong ngày. Mọi người vừa làm vừa nói chuyện bông
đùa cho quên thời gian vất vả, bỗng tôi nghe thấy anh Z (gốc
Cảnh sát) được chỉ định chuốt đũa cho Cán bộ đến báo cáo với
Cán bộ là, anh ta đã đến gặp thủ kho ội chủ nhà mượn dao bén
nhưng không có. Cán bộ cứ nhất định là có, hai người nói qua
nói lại hoài không chấm dứt, sau cùng anh Z kết thúc bằng câu
đại ý nói

417

“nếu Cán bộ không tiếp xúc thẳng để có dao đưa cho anh ấy
thì anh ấy chịu không thể thi hành lệnh của Cán bộ được”.

Tôi ngứa miệng nói đổng một câu

“-Sao ngu quá vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp.”

Các bạn làm gần quay lại ngó Tôi rồi từ từ lảng dần ra chỗ khác
cách xa nơi Tôi đang làm.

Một lúc sau, anh ội trưởng (Trung tá Cảnh sát Phan trung
Chánh) đến khu chúng tôi đang làm hỏi

“-Anh nào vừa nói gì mà lấy răng cạp vậy?”

Không ai trả lời, anh ấy đến bên từng người hỏi có nghe ai nói
không? Mọi người đều lắc đầu nói không nghe, riêng Tôi thì anh
ấy không hỏi. ến hết giờ lao động buổi chiều, ội tập họp đi
tắm trước khi về Khu giam, Cán bộ đến đứng trước ội hỏi

“-Trong lúc lao động anh nào nói gì, có ai biết ai nói
không?”

Không ai trả lời, Tôi cũng yên lặng. Cán bộ nói tiếp

“-Nếu không tìm ra được người đã phát biểu linh tinh lúc
nãy, bắt đầu từ chiều nay Đội bị phạt không được đi tắm sau
giờ lao động cho đến khi nào tìm ra được người nói mới
thôi.”

Chiều đó chúng tôi không được đi tắm, anh em trong lòng chắc
phiền lắm nhưng không ai nói gì, mọi người yên lặng trở về Khu
giam không xì xầm hay nói một tiếng nào tỏ ý phiền hà Tôi cả.
Buổi sinh hoạt ội trong phòng giam hàng đêm, cũng không

418

thấy ai nhắc tới chuyện đã xẩy ra. Tôi cảm thấy ân hận suy nghĩ
trằn trọc mãi không ngủ được, Tôi bàn với anh Nguyễn văn Sáu

ội phó nằm kế bên là sáng mai Tôi sẽ gặp Cán bộ để nhận tội
rồi ra sao thì ra. Anh ấy gạt đi nói

“-Cứ lờ đi, rồi mọi việc sẽ qua”.

Nhưng Tôi nghĩ chuyện không đơn giản như vậy, hồi mới về
đây Tôi đã bị Quản giáo gọi “làm việc” về vụ tự động vần đá
vào bóng râm ngồi đập, chắc hẳn Quản giáo vẫn đang theo sát
Tôi tìm sơ hở để kỷ luật rằn mặt. Nếu không công khai nhận lỗi
này thì ông ta sẽ tìm cách làm cho sự việc trầm trọng khác đi để
kỷ luật thì rất nguy hiểm.

Sáng hôm sau, từ lúc bắt đầu lao động anh ội trưởng được lệnh
đến gọi lần lượt từng người chiều hôm trước lao động gần bên
Tôi đến gặp Cán bộ “làm việc”. Mỗi người phải “làm việc” lâu
từ 10 đến 15 phút, khi trở ra chẳng anh nào nói năng gì lẳng lặng
tiếp tục lao động. Tôi đến gần hỏi thì các bạn cho biết là hỏi
chuyện chiều hôm qua, ai cũng nói anh em vừa làm vừa nói
chuyện bông đùa với nhau nên không nghe và cũng không biết
người nào đã nói như vậy. Không muốn để anh em tiếp tục bị
phiền hà vì việc làm của mình, Tôi yêu cầu anh ội trưởng xin
cho Tôi gặp Cán bộ Quản giáo trình bầy về việc chiều hôm qua.
Anh ấy xửng sốt nhìn Tôi với vẻ ái ngại, nhưng rồi cũng đi trình
Quản giáo theo lời yêu cầu của Tôi. Một lúc sau anh ội trưởng
đến cho biết Quản giáo bằng lòng gặp Tôi vào giờ giải lao.

Lúc bắt đầu nghỉ giải lao, Tôi đem Gô nước trà và bao thuốc lá
thơm tới gặp Quản giáo. Ông ta đang ngồi một mình bên gốc
cây, xa chỗ anh em ngồi nghỉ khoảng 100 mét. Tôi đến cách 1

419

mét đứng lại báo cáo trình diện như thường lệ mỗi khi Tù gặp
Cán bộ. Ông ta nói:

“-Anh ngồi xuống đây, có việc gì vậy?”

Tôi thong thả ngồi xuống đưa Gô trà nóng và bao thuốc lá thơm
mời ông ta dùng, rồi chậm rãi trình bầy:

“- Trước nhất Tôi xin lỗi đã làm phiền lòng Cán bộ và anh
em trong Đội từ chiều hôm qua đến giờ. Tôi là người đã nói
câu “sao ngu vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp”.

Tôi nói câu này vì trong lúc anh em vừa lao động vừa kể lại câu
chuyện cũ xẩy ra từ hồi còn ở ngoài trại Thanh Phong, có một
anh khát nước quá muốn ăn vụng mía trong ruộng nhưng lại
không có dao nên chẳng biết làm sao. Tôi buột miệng góp
chuyện bằng câu:

“-Sao ngu quá vậy, không có dao thì lấy răng mà cạp”.

Chắc Cán bộ cũng “nhất trí” với Tôi là đâu phải lúc nào ăn mía
cũng cần tới dao, mình có thể dùng răng tước vỏ rồi cắn gẫy
từng mẩu nhỏ để ăn cũng được. Như vậy lời góp ý của Tôi vào
câu chuyện anh em đang nói là thật tình không có ý gì khác đâu?
Tôi không hề nghe thấy anh Z báo cáo với Cán bộ là không
mượn được dao để chuốt đũa cho Cán bộ. ây là sự trùng hợp
đáng tiếc, Tôi không ngu dại gì mà nói anh Z như vậy, xin Cán
bộ rộng xét bỏ qua cho, nếu Cán bộ muốn kỷ luật thì kỷ luật một
mình Tôi chớ anh em trong ội không can hệ gì.

Ông ta ngồi hút thuốc và uống trà nóng do Tôi đem tới mời mắt
nhìn về phía anh em ngồi nghỉ giải lao, yên lặng nghe trình bầy

420

không nói gì. Khi Tôi vừa dứt lời, ông ta mới quay lại nhìn Tôi
và nói:

“-Anh có tinh thần tự giác nhận sai trái của mình như vậy là
tốt. Thôi được rồi đi về Đội lao động với anh em.”

Hết giờ lao động sáng ội được đi tắm trước khi về trại giam,
mọi người vui vẻ không khí nặng nề không còn nữa. Thế rồi một
ngày, hai ngày, ba ngày qua đi không thấy gì, mọi người thở
phào nhẹ nhõm mừng cho Tôi tai qua nạn khỏi không bị kỷ luật.
Theo suy đoán riêng của Tôi thì câu Tôi đã nói chẳng có gì là
“phản động chống đối chính sách của Nhà Nước”, nếu Quản
Giáo trình lên xin kỷ luật Tôi thì Cán bộ Giáo dục của Trại và
Cán bộ An ninh sẽ gọi Tôi lên “làm việc” trước khi trình Ban
Giám Thị trại quyết định, Tôi sẽ chẳng sợ gì mà không khai sự
thật, như vậy sẽ lòi ra điều sai trái của chính ông Quản Giáo lợi
dụng Tù làm việc riêng cho mình trong giờ lao động để kiếm
tiền. Chắc chắn ông ta sẽ phải lãnh tai họa kỷ luật trước Tôi, nên
ông ta mới phải bỏ qua mặc dù rất căm giận.

Khi trại bắt đầu thu hoạch vụ lúa Chiêm, ội chúng tôi được cấp
cho một “hiện trường lao động” riêng sát bên bờ sông về hướng
Tây Nam để trồng rau, bí ngô, và bầu.

Muốn tới nơi lao động mới này phải đi vòng vèo một đoạn
đường khoảng 3 cây số, xuyên ngang các khu lao động của 3

ội khác nằm sát bên bờ sông phía Bắc, Tây Bắc, và Tây của
K1 Trại Z30C. Như vậy là ội chúng tôi đã được cái hên là có
dịp đi lao động trên khắp mặt địa bàn K1 của trại Z30C. Hiện
trường lao động của các ội hướng ông Bắc, Bắc, Tây Bắc, và
Tây đều nằm sát bên sông cho phép kết luận

421

“K1 là một vùng đất nằm trong khúc quanh của con sông dài
chẩy từ Trại Z30D Thủ Đức qua.”

Khúc sông chẩy sát bên khoảnh đất dành cho ội chúng tôi hình
vòng cung, bao bọc các hướng Tây và Nam của “hiện trường lao
động”. Triền bờ 2 bên sông thẳng đứng cao hơn mặt nuớc 1 mét,
bờ này cách bờ kia khoảng chục mét, nước chảy lừ đừ, chính
giữa lòng sông chỉ sâu cỡ ngang ngực lội qua lại dễ dàng. Chúng
tôi mở 2 bến lên xuống gánh nước tưới cho các luống rau rất tiện
lợi và nhanh. Việc tắm giặt của anh em cũng rộng rãi thoải mái,
không bị cảnh tắm nước đục vì đông người xuống cùng một lúc.
Bên kia sông là rừng cây không thấy bóng người qua lại. Thỉnh
thoảng có vài bạn ội Lâm Sản lội về ngang, đem theo những
bó măng tre rừng. Những Tù trong ội Lâm Sản được coi là “Tù
tự giác” đi lao động một mình, không cần Cán bộ theo coi chừng
như các ội khác. ội chúng tôi chẳng hạn, hàng ngày đi lao
động ngoài Quản giáo ội còn có thêm 2 cảnh vệ mang súng
AK đi canh chừng.

Rau và bầu chúng tôi trồng tỉa tăng trưởng rất nhanh, khi lứa rau
vừa tới kỳ thu hoạch ội bị mất trộm một mẻ rất lớn. Chỉ qua có
một đêm kẻ trộm nhổ một loạt 4, 5 luống rau dài 25 mét rộng 1
mét, mơn mởn tốt nhất trong khu cùng những trái bầu lớn và dài
chớ không thèm lấy trái nhỏ.

Vụ trộm được coi là có tổ chức quy mô chứ không phải tầm
thường, vì hàng đêm luôn luôn có toán Cảnh vệ đi tuần tra canh
phòng cẩn mật trên khắp các khu vực đất canh tác thuộc quyền
sở hữu của Trại, như vậy cá nhân lẻ tẻ đâu dám làm một vố lớn
như vậy. Mấy bạn Tù “tự giác” được ở tại Nhà Lô với Quản
giáo kế cận “hiện trường lao động” của ội chúng tôi, chắc chắn
không bao giờ dám làm cái việc liều lĩnh này. Vậy thì ai? Hẳn là

422

phải có sự mưu mô toa rập giữa Cán bộ trong trại và dân chúng
ở quanh vùng gần trại. Họ tẩu tán đem rau và bầu đánh cắp qua
sông chớ không thể chuyển vận một số lượng nhiều như thế theo
các đường đi bên trong trại. Cán bộ An ninh mở cuộc điều tra
nhiều ngày, đi tới đi lui “làm việc” với một số anh em trong ội
chúng tôi, nhưng chẳng ai biết kết quả sau cùng ra sao?

Ít ngày sau vụ mất trộm, ội chúng tôi và ội Nông Nghiệp
đang gặt lúa kế cận gặp một tai họa thật hi hữu vào một buổi
chiều lúc gần giờ nghỉ lao động. Tai họa không nguy hiểm,
nhưng đủ làm mọi người kể cả Quản giáo và Cảnh vệ bị một
phen tản thần không bao giờ quên được. Chuyện như thế này:

ầu giờ lao động buổi chiều tại “hiện trường lao động”, anh em
xuống bến sông phía Tây của ội gánh nước tưới rau thấy có
một bầy ong bu đen to cỡ một bao gạo trăm kí lô trên cành cây
cao phía bên kia sông. Một số con bay lượn chung quanh như
đám lính canh phòng tuần tra, một vài con bay lượn sang tận bên
này sông kêu vo vo nhưng không làm gì ai. Anh em yên tâm lao
động, không ai quan tâm đến bầy ong đang đậu nghỉ cánh này
nữa.

ến gần giờ nghỉ lao động chiều sau khi đã tưới xong hết các
luống rau, anh em xuống tắm rồi lên ngồi bên Nhà Lô nghỉ ngơi
đợi giờ tập họp trở về Trại giam. Bỗng thấy anh ại tá Nguyễn
văn Phúc (gốc Chiến tranh chính trị) từ bến tắm hớt hơ hớt hải
chạy lên tay khua quanh mặt đuổi những con ong đang đua nhau
nhào vào đốt, y như các phản lực cơ nước chim chích tấn công
người khổng lồ.

Những người đứng chơi bên dọc đường anh Phúc chạy ngang,
cũng bị ong bay sà sà quanh mặt quanh đầu quanh người kêu vo

423

vo như đùa rỡn làm cho nhột nhạt sợ hãi. Người nào gan dạ
đứng im không nhúc nhích không bị đốt, người nào chịu đựng
không nổi sự đùa rỡn của ong, lấy tay khua đuổi tức thì bị chúng
đổi giọng kêu gọi nhau nhào tới đốt túi bụi ngay.

Hầu như mọi người ai cũng bị đốt chạy tán loạn. Tôi và một số
anh đứng ở bến tắm phía Nam, cách bến phía Tây cả 500 mét
cũng bị ong bay tới quấy nhiễu đốt cả chục mũi lên mặt lên đầu.
Có người chạy vào Nhà Lô đứng phía sau bếp đun nước đang có
khói, ong không dám tới gần nhưng khi rời khỏi khu bếp lại bị
ong bay quấn chung quanh ngay. Có người đang tắm ở bến bị
ong sán đến gần phải lặn xuống nước lỉnh ra chỗ khác, nhưng
ong vẫn bay rà theo trên mặt nước đợi khi nhô đầu lên là sà vào
chích liền.

ội bạn đang gặt lúa gần bên ội chúng tôi cũng bị ong nhào tới
chích tán loạn.

Anh bạn ại tá Võ hữu Bá thuộc ội chúng tôi, bị một con ong
chui vào trong lỗ tai làm mọi người quýnh quáng chẳng biết làm
sao. Thật kinh hoàng! Quản giáo phải quyết định cho ội tập
họp về ngay để anh Bá vào Bệnh xá cho người ta lấy kẹp gắp
con ong ra. Suốt dọc đường đi về vẫn có mấy con lẽo đẽo bay
theo chúng tôi đến tận Trại giam cách xa “hiện trường lao động”
cả 3 cây số. Có lẽ chúng bay theo tiếng kêu cứu của con ong
mắc kẹt trong lỗ tai anh Bá. Người nào cũng bị tối thiểu từ năm
bẩy mũi trở lên, chẳng ai thoát nạn cả. Tôi chùm khăn lông kín
mặt đầu và cổ, vẫn bị chích cả thẩy chục mũi ở trán hai bên tai
và phía sau ót.

Rất may không phải loại ong độc, những chỗ bị chích trên mặt
trên đầu chỉ xưng đỏ tấy đau nhức nhối không làm độc đến nỗi

424

bị nóng sốt. Phải dùng 2 ngón tay bóp nặn chiếc kim ong chích
đứt lại trong da bật ra, thoa chút dầu gió lên một lúc sau mới bớt
đau nhức.

Sáng hôm sau, trên đường ra hiện trường lao động mọi người
bàn tán không biết phải làm sao giải quyết vụ bầy ong, nếu
không lại bị chúng đuổi đốt sẽ chẳng làm được gì. May thay lúc
đến gần Nhà Lô của ội, mọi người cùng thở phào nhẹ nhõm vì
bầy ong bu trên cây đã biến mất, chúng đã cuốn gói ra đi không
còn bóng dáng một con nào.

Sau vụ bị trộm rau ban đêm chừng nửa tháng, ội chúng tôi
được di đô về gần ội Nuôi Heo sát bờ sông phía Bắc, cũng tiếp
tục trồng rau. Khu vực này chỉ cách khu giam chúng tôi có
khoảng 1 cây số. Cả ội phải xúm vào phát quang dải đất bên
đường dọc theo bờ sông, phân thành khu có đường nhỏ đi chung
quanh xong xuôi mới bắt đầu trồng tỉa. Mỗi người được giao
trách nhiệm lo toan chăm sóc 5 luống dài 25 mét rộng 1 mét.
Phải tự cuốc đất, lên luống, xẻ rãnh reo hạt, tưới nước ngày 2
đợt, làm cỏ, bón xới, chăm sóc cho tới ngày “thu hoạch”.

Thời gian trồng mỗi đợt rau, tính từ khi reo cho tới lúc “thâu
hoạch” ước chừng 4 tuần lễ. Sau khi “thâu hoạch” xong, mỗi
người lại phải cuốc lật đất, lên luống... tiếp tục reo trồng đợt
khác. ặc biệt chỉ có “công đoạn” reo hạt, được anh Sáu ội
phó tiếp tay từng người, theo chương trình anh ấy “quy hoạch”
trước.

Khu đất trồng rau dài dọc bên sông, chúng tôi phải dọn 2 bến lên
xuống để gánh nước tưới cho tiện đỡ mất thì giờ di chuyển xa.
Triền bờ sông thẳng đứng cao hơn mặt nước 2 mét, do đó phải
thực hiện đường lên xuống khúc khuỷu theo hình chữ chi với

425

các nấc thang rộng 60 phân cao 30 phân. Các bậc đất phải tu sửa
luôn, vì nước trong thùng gánh từ sông lên sóng sánh tràn ướt
liên tục phá hư. Mùa mưa mới thật vất vả trần ai, lên xuống gánh
nước lúc nào cũng bị trơn trợt khó khăn vô cùng.

Mỗi luống phải tưới ngày 2 lần sáng và chiều. Khi rau còn nhỏ
phải tưới 2 gánh nước một lần cho mỗi luống. Bắt đầu từ tuần lễ
thứ 3 trở đi rau tăng trưởng mạnh phải tưới nhiều gấp đôi. Do đó
việc gánh nước tưới rau được coi là vất vả nhất hàng ngày.

Mỗi đợt rau chỉ tưới một lần phân, do Khâu Phân đi gánh từ hồ
chứa bên ội Nuôi Heo kế cận về tưới cho từng luống. Khâu
Phân gồm anh Dương hiếu Nghĩa và 2 bạn khác phụ trách. Ngày
nào đến lượt rau được tưới phân, người phụ trách luống phải vất
vả hơn bình thường. Phân vừa tưới xong phải lập tức gánh nước
tưới rửa liền, nếu không thì lá và cây rau bị phân bám làm cháy
hư luôn, lượng nước tưới cũng phải nhiều gấp rưỡi bình thường.

Ngày “thâu hoạch” thì cả ội phải tập chung “hợp đồng” nhổ
hoặc cắt rau, cột thành bó 5 kí lô, rồi anh em tự động “bắt bồ”
thành từng cặp khiêng rau về Nhà Bếp cân nộp. Trung bình 2
người bao giờ cũng phải khiêng một lượng rau từ 100 đến 120 kí
lô một chuyến. Mỗi ngày chỉ “thâu hoạch” từ 5 đến 7 luống theo
thứ tự reo hạt trước sau. “Thâu hoạch” v à đem nộp Nhà Bếp trại
liên tục mấy ngày liên tiếp cho tới hết cả khu xong thì bắt đầu
phá đất làm luống lại để reo trồng đợt khác.
Anh Trung tá Sáu ội phó và Tôi cao xấp xỉ ngang nhau nên
xáp thành một cặp. Anh ấy mạnh hơn Tôi nên trong lúc khiêng
bao giờ cũng cho Tôi đi phía trước, và lúc nào cũng để kiện rau
gần phía đầu đòn của anh ấy cho sức nặng đè trên vai Tôi được
giảm bớt. ối với Tôi hình như anh Sáu có một cảm tình đặc
biệt nào đó, nên trong công tác tưới các luống rau hàng ngày anh

426

ấy thường xuyên tự động phụ giúp Tôi, nhất là trong giai đoạn
rau phát triển mạnh cần nhiều nước. Có lẽ vì anh ấy thấy Tôi
yếu mà vẫn im lặng cáng đáng công việc bằng như mọi người,
không bao giờ mở miệng than van nhờ vả gì ai. Thật là một
người vô cùng tốt bụng suốt đời Tôi không bao giờ quên.

Ngày tháng cứ tuần tự trôi đi, ội chúng tôi nay là ội Rau
chuyên nghiệp không còn cái cảnh tăng phái nơi này nơi khác
nữa. ược ổn định tại chỗ, anh em chẳng ai bảo ai mỗi người tự
động dọn một mẩu đất nhỏ bên bến lên xuống sông trồng ít rau
thơm, rau răm, mồng tơi, đậu ván, ớt, bạc hà... để “cải thiện”

riêng.

Một hôm đi lao động chiều về, tự nhiên Tôi thấy người ớn lạnh
đau sau hông, vào nhà vệ sinh đi tiểu ra máu và cảm thấy hơi
choáng váng hâm hấp nóng, từ trong bụng một cơn rét run bộc
phát ngày một mạnh hơn không sao kềm nổi. Phải lên xạp ngủ
nằm đắp mấy tầng chăn mà vẫn lạnh run bắn người lên, sau cơn
lạnh là cơn nóng hừng hực đầu nhức như búa bổ.

Tôi vốn có bệnh sạn thận từ năm 1965, trước khi sốt lại tiểu ra
máu nên nghi là có hột sạn trong thận chui vào ống dẫn nước
tiểu làm đau đớn hành như vậy, cần phải lên Bệnh xá để được
chẩn bệnh đưa đi nhà thương cấp cứu nếu cần. Tôi báo cáo anh

ội trưởng nhờ gọi anh Thi ua của Khu mở cổng cho Tôi lên
Bệnh xá xin cấp cứu. Anh Sáu ội phó dìu Tôi đi lên Bệnh xá
và đứng đợi để biết rõ kết quả, trước khi trở về khu giam.

Nằm trên bàn khám bệnh chờ Cán bộ tế vào, thân nhiệt của
Tôi mỗi phút mỗi tăng lên tới hơn 40 độ bách phân, người nóng
hừng hực, mắt môi đỏ au, cổ khô như rang, mệt mỏi bải hoải
nhưng vẫn tỉnh. Mắt mở bị ánh sáng làm nhức buốt vào óc chịu

427

không nổi phải nhắm nghiền lại, tai ù ù loáng thoáng nghe mấy
anh bạn Tù làm tá phụ cho Cán bộ tế của Trại yêu cầu anh
Sáu về Láng lấy chăn mùng đem lên cho Tôi nằm lại Bệnh xá
theo dõi chữa trị. Nghe được tới đó Tôi cảm thấy người lơ mơ
và lịm đi không còn biết gì nữa.

ến khuya nghe có tiếng cạo xoạt xoạt phía dưới gầm giường,
Tôi giật mình tỉnh giấc mở mắt nhìn quanh thấy mình đang nằm
trên chiếc giường gỗ nhỏ kê bên cạnh tường nơi góc một căn
phòng vắng hoe không có ai, ngoài ngọn đèn dầu vàng vọt leo
lét cháy đang treo nơi khung cửa cạnh đầu giường. Tôi cảm thấy
nực nội khó chịu người đẵm mồ hôi, khát nước khô cổ khô
miệng hơi thở ra nóng hừng hực, nhưng bỏ chăn ra thì rét buốt
vì khí lạnh của mái tôn toả xuống. Chống tay muốn ngồi lên đi
tìm người xin nước uống, nhưng cảm thấy đầu lảo đảo cơ bắp
chân tay thân mình bải hoải nhức mỏi như vừa bị đánh một trận
đòn nhừ tử ngồi lên không được. Nằm vật mình xuống giường
quay mặt vào tường buồn chán nản, tự nhiên thấy nghèn nghẹn
nơi cổ họng nấc nấc bật thành tiếng khóc nước mắt trào ra dàn
dụa không cầm lại được, y như đứa con nít bị đòn oan nức nở
khóc vì không nói ra được những điều uẩn ức trong lòng. ưa
tay quờ mép chăn lau nước mắt đụng nhằm vật gì cứng lạnh, mở
mắt nhìn mới biết là Gô nước của Tôi và Cà mèn đựng cháo.
Chắc là anh Nguyễn văn Sáu ội phó đem lên cho Tôi hồi chiều
tối theo lời yêu cầu của mấy anh bạn Tù làm tá, khi được biết
Cán bộ cho Tôi nằm lại Bệnh xá để theo dõi cấp cứu.

Như vậy là Tôi bị sốt rét Hàm Tân vật chớ không phải căn bệnh
sạn thận hành như Tôi tưởng. Tôi cố gắng ngồi dậy uống nước
và ăn cháo cho tỉnh người, vì hồi chiều đi lao động về Tôi đã kịp
ăn uống gì đâu. Miệng lạt đắng hàm răng ê mỏi không muốn

428

nhai, nhưng vẫn phải cố gắng ăn cho hết Ga men cháo. Lỡ có
chết cũng được chết no không phải làm ma đói, như các Cụ
thường khuyên mỗi khi đến thăm các người bệnh nặng.

Hồi mới về đây anh em cũ khuyên là cần uống thuốc ngừa sốt
rét, vì trong thời gian qua tại Trại này đã có một số bạn Tù bị
vong mạng vì bệnh sốt rét Rừng Lá Hàm Tân rồi. Tôi đã xin gia
đình đi chuốc mua gửi cho 6 viên Chloroquine uống ngừa cả
tháng trước rồi chớ không đâu, thế mà vẫn bị trùng sốt rét Hàm
Tân vật như thường.

Ăn uống xong người vẫn hâm hấp nóng, Tôi cố gắng ngủ lại
nhưng không được, hễ nhắm mắt là y như thấy chập chờn hiện
ra, vầng ánh sáng vân vân lẫn lộn đủ mầu sắc cùng những hình
mặt người đủ loại. Lúc thì hình Quan Vân Trường, Trương Phi
trong chuyện Tam quốc Chí, lúc thì hình Phật Quan Thế Âm Bồ
Tát, hình Napoleon, hình Chúa Cứu Thế Jesus, lúc thì hình
những khuôn mặt Tôi chưa hề quen biết bao giờ... Có điều lạ là
hình Cha Mẹ đã qua đời, hình Vợ Con, Họ hàng thân thích đang
còn hiện diện nơi trần thế thì không thấy hiện ra.

Trong khi không ngủ được như vậy, Tôi bỗng dưng nhớ ra một
sự kiện đã xẩy ra vào năm 1969. Hồi đó Tôi là ại Tá đang giữ
trách vụ Chánh Sự vụ Sở Khai thác Nha Tổng Thanh tra Quân
lực Việt Nam Cộng hoà, Tôi được ại Tướng Cao văn Viên
Tổng Tham mưu trưởng QLVNCH chỉ định làm Trưởng một
đoàn Thanh tra Hỗn hợp Việt Mỹ, tới Quân Viện của Bộ Tư
lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến ở Thị Nghè Saigon và Bộ
Chỉ huy Liên đoàn Thủy quân Lục chiến đóng tại Thủ ức điều
tra về vụ tại sao một số rất lớn Quân Sĩ trong Liên đoàn bị sốt
rét vật trong khi đang hành quân tại vùng Rừng Lá Hàm Tân,
mặc dù Tiếp vận đã cung cấp thuốc phòng ngừa sốt rét cho

429

Quân Sĩ xử dụng hàng ngày đầy đủ. Cuộc điều tra được thực
hiện theo lời yêu cầu của Phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ, vì họ nghi là
quân sĩ không chịu uống thuốc phòng ngừa nên mới bị sốt rét
tấn công gây trở ngại cho kế hoạch hành quân đang tiến hành.

Sau khi điều tra, thấy rằng mọi người có uống thuốc phòng ngừa
như quy định nhưng vẫn bị sốt. Kết quả thử nghiệm phối hợp
của Quân Việt Mỹ đã phát giác ra một loại vi trùng lạ
Phansiparum, thuốc Chloroquine không công hiệu nên mới xẩy
ra cớ sự. Nhờ vậy huề cả làng, các cấp Chỉ huy Thủy Quân Lục
Chiến Việt Nam bình chân như vại không ai bị khiển trách,
nhưng Cố vấn Huê Kỳ hơi ngượng vì báo cáo không đúng sự
thật.

Kẻng báo thức sáng của Trại giam chấm dứt đêm dài cơ cực mà
trùng sốt rét Hàm Tân hành hạ Tôi. Cả Bệnh xá chỉ có mình Tôi
nằm điều trị, sau khi Cán bộ tế vào chẩn bệnh cho thuốc
khoảng vài chục bạn Tù khai bệnh buổi sáng xong, mới khám
đến Tôi. Không ai trong số người đến xin khám bệnh được coi là
đủ nặng để được vào nằm Bệnh xá điều trị, riêng phần Tôi được
ở lại điều trị thêm vài ngày nữa.

ến khoảng 11 giờ tự nhiên thấy anh Nguyễn văn Sáu ội phó
vào Bệnh xá thăm Tôi, vì hôm nay là ngày ội “thâu hoạch” rau
nộp cho Nhà Bếp nên được về sớm mới có dịp ghé thăm. Theo
lệ thường vào những ngày “thâu hoạch” rau, thì khoảng 9 rưỡi
10 giờ mọi việc nhổ bó rửa rau phải hoàn tất, ội phó cùng với
số anh em đến lượt theo quy định khiêng rau về cân nộp cho
Nhà Bếp. Cân nộp rau xong anh em được về Láng giam nghỉ
ngơi thong thả, trong khi những người khác tiếp tục ở lại “hiện
trường” làm việc cho đến hết giờ lao động sáng mới được về.
Nhờ thế anh Sáu mới có cơ hội thuận tiện ghé thăm Tôi để biết

430

tình hình sức khoẻ ra sao. Thấy Tôi được ở lại Bệnh xá điều trị
thêm vài ngày, anh ấy rất vui mừng và hẹn mỗi buổi chiều sau
giờ lao động về, sẽ xin Thi ua trình Cán bộ cho phép đem đồ
ăn “bồi dưỡng” thêm cho Tôi mau lại sức.

Ba ngày sau Tôi được Cán bộ tế cho rời Bệnh xá trở về ội,
nhưng đêm đến Tôi vẫn lên cơn sốt nên sáng phài đi khám bệnh
lại, Cán bộ thấy thân nhiệt vẫn còn cao nên cho nghỉ tại Láng
chưa phải theo ội ra ngoài lao động. Hàng ngày đi khám bệnh
lãnh thuốc điều trị “ngoại trú” như vậy được 1 tuần lễ sau mới
hết sốt thân nhiệt trở lại bình thường nên phải theo ội đi lao
động.

Sau 10 ngày nghỉ bệnh tiếp tục theo ội đi lao động trở lại, Tôi
cảm thấy sức khoẻ suy nhược nhiều nên trong buổi sinh hoạt

ội vào buổi tối Tôi mở lời xin giảm “chỉ tiêu lao động” của
mình. Tôi cũng biết anh ội trưởng sẽ bị đặt vào hoàn cảnh khó
xử, nhưng vẫn phải nói để phòng ngừa trường hợp các luống rau
của Tôi bị “năng xuất thấp” không bị “phê bình xây dựng”, nhất
là Quản giáo ội không thể viện cớ đó tìm biện pháp kỷ luật trả
thù Tôi. Sở dĩ Tôi phải làm như vậy vì biết rằng trong khi ội
sinh hoạt tối trong phòng giam, bao giờ Quản giáo ội cũng
đứng bên ngoài nghe và theo dõi.

Anh em ai cũng “nhất trí” yêu cầu của Tôi là chính đáng, nhưng
không ai đưa đề nghị nào để giải quyết. Anh ội trưởng vướng
vào thế kẹt, nếu quyết định rút bớt số luống rau Tôi đang phụ
trách thì sẽ trao lại cho ai? Không khí im lặng nặng nề đè trên
buổi sinh hoạt, Quản giáo đứng ngoài cũng không lên tiếng. Anh
Sáu ội phó khẳng khái phát biểu ý kiến “tự nguyện” phụ giúp
Tôi tưới các luống rau hàng ngày. Nhờ thế đến kỳ “thâu hoạch”
các luống rau của Tôi vẫn có “năng xuất cao” không thua gì các

431

bạn khác, nên Quản giáo ội không kiếm được lý do nào để có
thái độ khắt khe trả thù Tôi được.

Một tuần lễ sau khi đi lao động trở lại Tôi được gia đình tới
“thăm nuôi”. Vợ của Tôi báo cho biết người con gái lớn đã vượt
biên trót lọt, hiện đang ở bên Phi Luật Tân chờ hoàn tất thủ tục
sang Hoa Kỳ định cư với sự bảo trợ của người con trai lớn đã ở
Hoa Kỳ từ năm 1971. Tôi mừng xúc động nước mắt trào ra
không kềm nổi. Người con rể vượt biên không thoát bị bắt giam
2 năm tại Trại Z30A mới được tha, cũng đi theo Vợ Tôi trong
dịp thăm nuôi này đưa khăn tay cho Tôi chùi nước mắt và nhắc
nên cố rằn cơn xúc động giữ bình tĩnh, vì “các anh ba” này
không thích như vậy, họ thấy được sẽ có điều không hay.

Lần tiếp tế này của Tôi được coi là khá giả nhất từ xưa tới nay.
“Thăm nuôi” vào nhớ tới lòng tốt của anh Nguyễn văn Sáu ội
phó, Tôi mời anh ấy dùng cơm với Tôi và đề nghị từ nay cho
đến khi nào còn được ở chung một ội thì hai anh em sẽ ăn
chung với nhau hàng ngày. Anh ấy đồng ý ngay không suy nghĩ
do dự gì cả vì hoàn cảnh tiếp tế của 2 gia đình chúng tôi không
chênh lệch nhau bao nhiêu, nên không e ngại có thể xẩy ra
chuyện phân bì so sánh thiệt hơn làm phiền lòng nhau sau này.
Cũng kể từ đó chúng tôi thu xếp để gia đình thay phiên nhau đi
thăm, hễ gia đình anh Sáu đi thăm nuôi thì gia đình Tôi nhờ đem
quà giùm và ngược lại. Nhờ thế mỗi 6 tháng gia đình mới phải
đi thăm một lần để có thì giờ ở nhà lo tần tảo kiếm ăn.

Chúng tôi trở thành bạn tri kỷ bắt đầu từ đấy cho đến khi được
tha ra khỏi Trại Z30D vào tháng 2 năm 1988. Cũng nhờ vậy, Tôi
đã giúp anh Sáu ội phó cải tiến cách cư xử hàng ngày để
không làm mất cảm tình của anh em trong ội. Anh ấy là người
rất tốt bụng thẳng thắn bộc trực, thường “nói toạc móng heo” ý

432

nghĩ của mình chứ không biết khôn khéo lựa lời tế nhị rào trước
đón sau, nên đã khiến cho vài ba anh khó tính có thành kiến
trong ội không vui lòng cho lắm.

Những năm đầu mới tới định cư tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ,
biết được gia đình anh Sáu cũng đang định cư tại vùng San
Diego Tôi đã cùng Vợ và 2 người con lớn tới thăm gia đình anh
ấy. Gặp nhau mừng rỡ ôn lại những kỷ niệm vui buồn chia sẻ
ngọt bùi trong các Trại Z30C và Z30D suốt 6 năm trời ròng rã
bên nhau.

TÌNH CHIẾN HỮU TRONG CẢI TẠO

Sa cơ lao khổ bên nhau,
Nắng mưa chia sẻ nhịp cầu đắng cay.
Một mai thoát đại hạn này,
Gặp nhau nâng chén mừng ngày Tự do.
Đấu tranh dựng lại cơ đồ,
Cho Dân tộc Việt ấm no thịnh cường.
Công bằng trải khắp quê hương,
Nhân quyền, Dân chủ, Tình thương hài hoà.
Trẻ già mọi giới hoan ca,
Chung lưng bảo vệ Sơn Hà Việt Nam.
Đập tan Cộng đảng gian tham,
Trừ loài vong bản từng làm hại Dân.
Diệt phường ác qủy vô thần,
Phục hưng Luân lý, Đạo Nhân Lạc Hồng.

Mùa Hè 1983, K1 Trại Z30C, Hàm Tân, Thuận Hải.

433

Chương 32.
BẢN CHẤT TÀN BẠO THÂM ĐỘC
CỦA VIỆT CỘNG VÔ ĐỊCH THẾ GIỚI

Vào dịp Tết Giáp Tý-1984 có một đợt tha ồ ạt rất nhiều người,
một số Trung tá thuộc ội 6 chúng tôi cũng may mắn có tên,
riêng anh em ại tá chẳng ai được dính vào danh sách. Có thể
tại chúng tôi thuộc gốc Chiến tranh Chính trị, An ninh Quân đội,
Tỉnh trưởng, Xây dựng nông thôn bị ảng Cộng sản Việt Nam
quy vào thành phần có nhiều “nợ máu” với Nhân Dân nên chưa
được nhòm ngó tới. Nhưng cũng có thể Cấp bậc ại tá và
Tướng đang là những con bài giá trị mà bạo quyền Việt Cộng
cần giữ lại để nèo co thêm giá cả trao đổi với Hoa Kỳ trong kế
hoạch thả tù và cấp hộ chiếu cho cùng vợ con đi dịnh cư trên đất
nước Hoa Kỳ hoặc tại các nước tự do khác trên thế giới theo
mong muốn.

Sau đợt tha này nhân số lao động tại K1 và K2 Trại Hàm Tân
Z30C còn lại rất ít, không đủ để tiếp tục khai thác toàn bộ các
khu đất hiện hữu, kế hoạch dồn chung tất cả Tù K2 về K1
được“khẩn trương” thực hiện. Phân trại K2 ở bên kia sông cách
K1 chừng 3 cây số bị đóng cửa, hai anh bạn ại tá Tô văn Vân
và Võ hữu Bá hồi ở Thanh Phong về đây cùng một lượt với
chúng tôi bị tách ra đưa sang K2 nay lại được “biên chế” bổ
xung vào ội chúng tôi. “Biên chế” vừa xong ội phải chuyển
sang phòng giam ở phía nửa bên phía Bắc của cùng dẫy nhà
đang ở. Phòng ăn mới nằm sát ngay bên khu nấu nướng cạnh
hàng rào rất tiện lợi, nấu nướng xong không phải bê nồi niêu đi
xa cả trăm mét như hồi còn ở bên nửa phía Nam của dẫy nhà.
Trong những ngày mưa cứ việc ngồi trong phòng ăn chạy ra

434

chạy vào canh chừng bếp lửa, không phải đội áo mưa ngồi liên
tục giữa trời chịu trận cho đến khi nấu xong.

ứng trong phòng ăn nhìn ra khu bếp giữa trời thấy cảnh anh
em nấu nướng trong mưa thật là vui mắt. Song song bên 2 dẫy
Ông Lò đâu lưng vào nhau nằm dọc theo bờ rào, đang cuồn
cuộn toả khói dưới những mái ni lông đủ mầu sắc thấp lụp xụp
là 2 hàng đầu bếp chùm áo mưa từ đầu xuống chân, nước mắt
nước mũi chảy dàn dụa chổng khu hì hà hì hục thổi quạt lửa lúc
cháy lúc tắt cố gắng làm cho các món nấu nướng chín mau để
sớm được thoát nạn. Nhưng mưa gió nào có tha, cứ liên tục lúc
mau lúc thưa dồn tới từng cơn cho đến khi nấu xong mới dứt.
Thần Mưa Thần Gió thật cắc cớ oái oăm khéo hành hạ người
trần tục, thảo nào ngày xưa các Cụ thường ví: “hay ăn thì lăn
vào bếp, chẳng ai khen cái nết hay làm” là thế. Hồi còn nhỏ đi
học được Thầy Cô giảng dạy như vậy nhưng vì chưa đủ “trình
độ” hiểu được chính xác nghĩa đen nghĩa bóng của câu ví, bây
giờ nhờ kinh nghiệm thực tiễn giúp cho mới thấu hiểu thật cặn
kẽ chẳng bao giờ quên được.

Tù thuộc 2 Phân trại dồn chung cả vào K1 thế mà quang cảnh
trại vẫn thấy vắng vẻ lạ thường, khu Nhà Tôn phiá trên cao chỉ
còn vài dẫy có người, trong khu Nhà Ngói dẫy 1 sát trước dẫy
nhà của chúng tôi cũng bỏ trống.

Nhân số ội chúng tôi hụt đi nhiều, khu vực canh tác phải thâu
hẹp bỏ bớt những luống rau gần bên đường lớn xa bến gánh
nước tốn nhiều thời gian di chuyển vất vả. Tôi được đổi công tác
không phụ trách các luống rau riêng nữa, làm phụ tá cho anh
Sáu ội phó xẻ rănh reo hạt các luống sau khi anh em phụ trách
đă cuốc tơi và lên luống xong. ến khi rau bắt đầu mọc và trổ 2
lá lớn, tỉa bỏ những cây nhỏ yếu ớt chỉ để lại trong mỗi rănh

435

chừng 7, 8 cây là tối đa. Sau đó cuốc vun gốc cho những cây còn
lại nhằm giúp cho chúng đứng thẳng vững vàng để tiếp tục phát
triển, và giữ cho nước đọng lại trong rănh giữa các hàng rau thay
vì tràn ra bên ngoài luống trong khi tưới. Vào những đợt tỉa như
vậy, anh em cả ội tha hồ chia nhau rau non để ăn ghém hoặc
nấu canh với tôm khô và mì ăn liền do gia đình tiếp tế cũng là
một món ăn ngon khoái khẩu.

Trong một buổi giải lao giữa tầm lao động sang, anh Sáu ội
phó và Tôi đang ngồi ăn lót dạ thì Quản giáo ội đến chỉ thị cho
anh Sáu thu xếp đi lănh thuốc trừ sâu vào lúc xuất Trại lao động
buổi chiều. Tôi lợi dụng cơ hội hỏi một câu y như Tôi đă hỏi
Quản giáo tại K2 Trại Thanh Phong hồi đầu năm 1982 trước khi
được chuyển về Trại Z30C này: “-Thưa Cán bộ, anh em chúng
tôi sẽ lần lần được tha hết, Trại không còn Cải tạo viên chắc là
phải đóng cửa trao đất lại cho Hợp Tác Xă địa phương, Cán bộ
có chuẩn bị xin đi công tác tại đâu chưa?”

Ông ấy trả lời ngay không nghĩ ngợi, giống y như Quản giáo cũ
của Tôi tại Thanh Phong đă trả lời: “-Các anh đừng lo, Nhà
Nước đă tiên liệu hết cả rồi, chỉ sợ không đủ Nhà Giam chớ
không sợ thiếu Tù. Các anh về rồi đâu có thiếu người vào trám
chỗ, tội phạm ngoài xă hội đầy rẫy vì chưa đến lúc cần thì chưa
bắt đấy thôi!”

Thảo nào hồi còn ở K5 Trại Tân Lập Vĩnh Phú, chúng tôi biết
một trường hợp có anh chàng đứng tuổi đánh xe trâu cho Trại
nguyên là Tù Hình Sự được tha, nhưng anh ta tình nguyện ở lại
trong Tù phục vụ theo tiêu chuẩn Tự giác chớ không muốn trở
về địa phương quê quán cũ của mình. Theo lời anh ta kể:

436

“-Thuở thiếu niên anh ta bị bắt cải tạo trong trại thiếu nhi, vì tội
đồng loă ăn cắp tài sản Xă hội Chủ nghĩa tồn trữ trong kho của
Hợp Tác Xă. Thi hành lệnh phạt cho đến lúc đủ tuổi trưởng
thành nhưng hạn tù chưa hết, nên bị chuyển qua trại người lớn
tiếp tục cải tạo cho đến khi hết hạn tập trung mới được tha về
địa phương tiếp tục làm ăn sinh sống như mọi người. Sauk hi
được tha về anh ta đă cố gắng tuân theo luật lệ Nhà Nước và ịa
phương không làm điều sai trái nữa để được coi là người lao
động tốt trong Xă hội.

Bỗng một hôm Hợp Tác Xă có vụ bị mất trộm rất trầm trọng, do
chính Chủ nhiệm Hợp Tác Xă liên kết với nhân viên thực hiện ai
cũng biết. Công An Huyện về điều tra bắt một số người nghi có
liên hệ, anh ta không dính dáng gì vào vụ việc cũng bị bắt đưa đi
lănh án tập trung cải tạo, kêu oan chẳng ai cứu xét. Mấy năm
sau nhờ ân huệ khoan hồng nhân đạo của Tổng Bí Thư ảng
mới đắc cử, anh ta may mắn có tên trong đám người được tha
cho về nguyên quán lập lại cuộc đời.

Chẳng được bao lâu, tự nhiên lại thấy có lệnh gọi tới Công An
“làm việc” và bị giữ luôn đưa đi tập trung cải tạo, chẳng ai hỏi
cung hay buộc khai báo gì cả. Không phải một hai lần mà cứ dài
dài như vậy suốt cả thời thanh xuân nên chẳng lập được gia
đình, bà con thân thuộc cũng lánh xa không dám “quan hệ”.

Vì thế lần được tha sau cùng nhân dịp ảng và Nhà Nước cùng
Nhân Dân ăn mừng 2 năm ngày ại thắng Thống nhất đất nước,
anh ta xin tình nguyện ở lại trong tù luôn chớ không muốn về
địa phương nữa.”

Anh ta ở trong nhà giam chung với các Tù Hình Sự, chỉ khác là
được ra vào trại giam bất cứ lúc nào y như các “Tù Tự Giác”

437

vậy. Phần ăn hàng ngày của anh ấy được Bếp Cán bộ cung cấp
nên cũng no đủ như một lao công Hợp Tác Xă. Hàng ngày đi
chạy xe trâu thong thả không còn lo bị bắt tới bắt lui và bị đánh
đập mỗi lần giải đi giam như suốt thời niên thiếu nữa.

Hoàn cảnh của anh em Tù Chính trị miền Nam cũng chẳng hơn
gì. Theo tin tức “thăm nuôi” cho biết:

“Ngay từ khi được tha về nhà, anh em cũng bị cơ quan Công
An địa phương nơi cư ngụ quản chế theo dõi rất k trong thời
gian nhiều năm, trước khi cho làm thủ tục hành chánh để trở
thành công dân có giấy tờ căn cước hợp lệ.

Trong suốt thời gian bị quản chế, anh em phải đến trình diện
Công An Phường theo định kỳ hàng tuần hàng tháng để nộp
sổ ghi hoạt động chi tiết hàng ngày của mình. Nếu sổ báo cáo
ghi không đầy đủ chi tiết rõ ràng cặn kẽ, còn bị hạch hỏi
buộc khai bổ túc và sẽ phải nhận lănh đủ thứ chuyện khó
khăn trong cuộc sống hàng ngày.

Ngoài ra vào những ngày Lễ lớn thường có Phái đoàn các
nước Xă hội Chủ nghĩa anh em và đông đảo phóng viên
ngoại quốc đến thăm đất nước Việt Nam, những cựu Tù
Chính trị đang trong thời gian bị quản chế còn bị gọi tới tập
trung tại Phường để học tập, hoặc làm những công tác Xă
hội Chủ nghĩa cho đến khi lễ lạc xong mới được trở về nhà.”

Như vậy những điều bàn dân thiên hạ thường nói là: “Từ sau 30-
4-1975 cả nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu trở
thành một Nhà Tù Lớn do ảng Cộng sản và Nhà Nước Cộng
hoà Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam quản lý” quả thật không sai một
chút nào. Bên trong cái Nhà Tù Lớn đó còn có cơ man nào là
những Nhà Tù Nhỏ (Trại tập trung Cải tạo) do Chính quyền ịa

438

phương và Chính phủ Trung ương chia nhau quản lý. ặc biệt
hơn nữa, bên trong mỗi Nhà Tù Nhỏ lại có một Nhà Tù Tý Hon
(Nhà Kỷ Luật).

Ôi! Thật là khốn nạn thay! Sau bao năm phung phí máu xương
của các thế hệ con cháu Lạc Hồng một cách vô ích trong Hậu
Bán Thế Kỷ 20, Dân tộc Việt Nam độc lập Thống nhất đang
phải ăn cái “bánh vẽ ộc lập Tự do Hạnh phúc” của gian tặc Hồ
Chí Minh và bè đảng Cộng sản Việt Nam lừa bịp họa ra từ ngày
phát động cuộc Cách Mạng Muà Thu năm 1945!!!

Một buổi chiều vào lúc xẩm tối sau Tết Nguyên đán Giáp Tý-
1984, anh em ăn uống xong đang chơi ngoài sân chờ giờ tập
họp vào phòng giam, thấy có xe tải chở một lô Tù Hình Sự cả
Nam lẫn Nữ tới. Họ bị đưa vào giam trong dẫy nhà đang bỏ
trống phía trước dẫy nhà của chúng tôi.

Trong đám nữ ăn mặc quần áo bà ba mầu sắc đủ loại nổi bật lên
2 người thật đặc biệt, một còn rất trẻ nhỏ nhắn cỡ 18 đôi mươi,
một xồn xồn cỡ trên dưới ba chục tóc uốn môi mặt thoa son phết
phấn mang kính râm, ăn mặc quần áo kiểu Âu có vẻ sang trọng
đài các tay sách chiếc ví đen vuông to. Thoạt thấy anh em tưởng
2 người này là Cán bộ Nữ đi theo áp giải Tù, nhưng khi thấy họ
vào phòng giam ở lại cùng những người khác mới vỡ lẽ rằng
không phải. Vài ngày sau, mấy người tù Nữ được đưa đi nơi
khác chỉ còn toàn tù Nam tiếp tục ở lại K1.

Sau này chúng tôi bị chuyển sang Trại Z30D, lại có dịp thấy 2
Tù Nữ xinh xắn nổi bật kia phục vụ tại Câu Lạc Bộ bên đầu đập
nước. Theo nguồn tin từ Cán bộ tại Z30D cho biết:

439

“Hai người nữ Tù Hình Sự này là thân nhân của một Chủ
nhiệm Hợp Tác Xă lớn trong Tỉnh Thuận Hải, bị liên can
biển thủ lường gạt tiền của Xă hội Chủ nghĩa nên bị lănh án
Tập trung Cải tạo.”

Thấy đem Tù Hình Sự tới Trại chúng tôi cảm thấy buồn, vì
những phiền hà do bọn Tù Hình Sự gây ra cho chúng tôi tại Trại
Thanh Phong Như Xuân Thanh Hoá vẫn còn rõ nét trong chí
nhớ chưa phai nhoà. Nhưng rất may, chỉ mấy ngày sau khi bọn
Tù Hình Sự tới thì cả ội chúng tôi bị chuyển sang Trại Thủ

ức Z30D cách Trại Z30C chừng vài chục phút chạy xe.

Lần di chuyển này được thực hiện giữa ban ngày vào một buổi
sáng trời nắng đẹp dịu dàng của mùa Xuân miền Nam. oàn xe
đưa chúng tôi rời Khu Nhà Ngói chạy dọc con đường lớn chính
giữa Phân trại K1, bên phải đường là Khu Nhà Tôn giam Tù,
bên trái là Khu Hành chánh nơi cư ngụ của các Cán bộ và Ban
Chỉ huy trại. Lúc xe chạy ngang Khu Nhà Thăm Nuôi điểm ranh
giới sau cùng của Trại Hàm Tân Z30C, thấy vắng hoe chẳng có
ai, chắc tài xế các xe chuyên chở gia đình “thăm nuôi” đã được
báo cho biết trước nên hôm nay họ không nhận khách đến Z30C.
Ra khỏi Trại Z30C, xe chạy bon bon trên Quốc lộ Saigon-Phan
Thiết được chừng đôi chục phút thì rẽ trái vào con đường đất dài
5 cây số bụi cát mịt mù, rồi đậu lại trước một cổng chào lớn có
một chiếc cần gỗ sơn trắng chặn ngang đường. Sau mấy phút
ngừng cho Cán bộ làm thủ tục, đoàn xe chui qua cổng tiếp tục
chạy.

Sát ngay hai bên đường phiá sau cổng vài chục mét có 2 căn nhà
bằng gỗ mái lợp tôn. Nhà phía bên tay phải rộng răi vuông vắn
có hàng hiên rộng bao chung quanh, trang trí trồng cây cảnh như
một quán ăn uống khang trang đẹp mắt với tấm bảng ghi 3 chữ

440

Câu Lạc Bộ. Căn nhà đối diện xeo xéo bên tay trái trông có vẻ
dùng để ở, được chia thành 3, 4 phòng liền nhau với một hàng
hiên dài phía trước. Sau này mới biết đó là Khu Nhà Thăm Nuôi
của K1 Trại Z30D.

Qua cổng đoàn xe chạy về hướng bờ sông, dọc bên phải đường
là Khu Hành chánh, Kho và nơi cư ngụ của Cán bộ và gia đình,
phía bên trái đường từ cổng vào có một khoảng đất trống dài
500 mét, kế theo là Khu giam Tù bao bọc bởi hàng tre gai tươi
dầy đặc cỡ 2 mét, hai bên rià lũy tre còn được tăng cường thêm
2 hàng rào kẽm gai đan ô vuông cao 3 mét. Qua hết lũy tre bên
hông khu giam dài 500 mét, có một tròi canh cao làm bằng gỗ
mái tôn ngay chỗ góc vuông nối đầu 2 lũy tre. oàn xe rẽ trái
chạy tiếp trên con đường nhỏ hơn dọc theo mặt tiền của Khu
giam, và ngừng lại trước một cổng rộng có 2 cánh cửa sắt cao
luôn luôn đóng kín. Trụ cột bên trái cổng là một điếm canh kiểm
soát ra vào, xây theo lối lô cốt nóc bằng có các bậc thang lên nóc
để đặt súng chĩa vào bên trong khu giam. Bên phải cổng sát
ngoài hàng rào dựng một căn nhà gỗ 2 tầng có lan can nhìn vào
Khu giam. Các đoàn khách quan trọng không muốn vào bên
trong, có thể lên đó vừa ngồi ăn uống vừa quan sát mọi hoạt
động trong trại giam một cách an toàn.

Ngay sau cổng là một “sân tập kết” vuông rộng đủ chỗ cho cả
ngàn người xếp thành hàng ngũ đứng ngồi thoải mái. Tiếp theo
là một vườn cây cao bóng mát rộng dài chẳng thua gì sân tập
kết, chính giữa có đường đi thẳng tắp dẫn vào Hội Trường lớn.
Khu sân tập kết, vườn hoa và hội trường là khoảng đất phân
cách giữa 2 Khu giam Tù Nam và Tù Nữ.

Bên trái sân tập kết, từ cổng nhìn vào là mấy căn nhà nhỏ dùng
làm Bệnh xá, rồi đến những dẫy nhà giam tường gạch mái tôn

441

dành cho Tù Nam giới. Kiến trúc xây cất giống như các dẫy nhà
giam trong Khu Nhà Ngói bên Trại Z30C nhưng rộng dài hơn.
Những khoảng đất chung quanh các dẫy nhà giam để trống đi
thông luôn, không quây rào kẽm gai phân cách riêng từng dẫy
một như bên Z30C. Mỗi dẫy cũng được chia thành 2 ngăn riêng
biệt, mỗi ngăn dùng để giam 2 ội khoảng 7, 8 chục Tù. Như
vậy mỗi dẫy nhà ở Z30D dài gấp 3 dẫy nhà trong Khu Nhà Ngói
bên Z30C, có đủ chỗ giam tới 4 ội thay vì 2.

Việc nấu nướng “cải thiện” riêng của Tù được Trại “chiếu cố”
đặc biệt hơn bên Z30C. Một dẫy nhà bếp lợp tôn dài 50 mét,
được dựng trên khu đất trống giữa hàng rào và các dẫy nhà giam
để Tù tập trung vào đó đun nấu hàng ngày. Dọc theo hàng rào,
dài 2 bên đầu nhà bếp “cải thiện” còn có mấy dẫy cọc căng giây
kẽm lớn cho Tù phơi hong quần áo, chăn, mùng.

Bên phải sân tập kết đối diện với khu giam Tù Nam có Nhà Bếp
của K1, kế tiếp là những dẫy nhà giam Tù Nữ cũng tường gạch
mái tôn như bên khu Nam.

Ngay sau khi xuống xe vào qua cổng trại, chúng tôi bị dẫn vào
Khu Cách Ly ở tuốt phía cuối khu Tù Nam gồm mấy dẫy nhà
nhỏ có hàng rào kẽm gai bao quanh xa cách hẳn với các dẫy
khác, và cổng ra vào khu cách ly luôn luôn bị khoá trái bên
ngoài.

Vào tơí khu này chúng tôi lại có dịp thấy thêm khoảng không
gian phía sau Hội trường của trại là một khu đất trống, chính
giữa xây Nhà Kỷ Luật tường gạch mái tôn. Mấy tháng sau khi
đến Trại Z30D này Tôi đă được cái vinh dự bị cùm một chân
trong căn Nhà Kỷ Luật này 1 tuần lễ, vì tội chống lệnh “Ban”

442

Nhu (Giám Thị, Bí thư ảng ủy) trước đông đảo anh chị em Tù
toàn Phân trại K1 đang tắm tại bến sông bên đập nước.

Chúng tôi bị giam trong Khu Cách Ly 2 ngày liền, chẳng được
tiếp xúc với ai ngoài anh “Thi ua” đến gặp ội trưởng chuyển
lệnh của Ban Giám thị làm thủ tục khai báo danh sách ngang,
danh sách dọc. Sau khi các thủ tục khai báo hoàn tất nhóm
chúng tôi được đặt tên là ội 23 Nông Nghiệp, và các anh
Trung tá Cảnh sát Phan Trung Chánh và Trung tá Biệt ộng
Quân Nguyễn văn Sáu từ Z30C sang Z30D một lượt với chúng
tôi vẫn được duy trì làm Ban Tự Quản ội (tức là ội trưởng và

ội phó, gạch nối giữa Cán bộ và Tù).

ội được lệnh di chuyển đến ở chung với một ội khác, trong
nửa bên trái của dẫy nhà đầu tiên thuộc Khu Nam tính từ cổng
trại vào. Mỗi dẫy nhà đều có ghi số riêng để gọi nhưng Tôi
không nhớ. Bên kia khoảng sân rộng 50 mét ngay phía trước dẫy
nhà chúng tôi ở, có một hàng rào cây dâm bụt thưa và 3 căn nhà
nhỏ dùng làm Bệnh xá của Trại. Bệnh nhân nặng thuộc tất cả
các Phân trại chưa hội đủ tiêu chuẩn cần phải di tản đi Bệnh viện
Phan Thiết đều nằm điều trị tại đây. Có 2 bạn Tù được dùng làm
phụ tá cho Cán bộ tế được cư ngụ thường trực tại Bệnh xá,
một làm tá, một phụ trách nấu thực phẩm hàng ngày cung cấp
cho Tù bệnh ăn theo quy chế riêng không lănh tại Bếp chung
của Trại như các Tù khác.

Bên cạnh đường đi phía đầu dẫy nhà chúng tôi ở, có một vòi
nước máy công cộng dựng ngay chính giữa một nền xi măng
tròn đường kính 4 mét. Hàng ngày Tù đặt thùng xếp hàng lấy
nước tích trữ dùng riêng cho việc nấu nướng vệ sinh và tắm
trong những ngày nghỉ lao động ở trong trại. Vòi nước này dùng
chung cho cả Khu Tù Nam nên phải dành ưu tiên cho các bạn

443

Tù Trực Nhà lấy trước, khi nào họ đổ đầy hồ chứa dùng xối cầu
tiểu trong các nhà giam xong mới đến lượt anh em lấy dùng
riêng. Việc giải quyết đại tiện cho tù trong phòng giam cả ngày
lẫn đêm vẫn dùng thùng chứa phân nổi. Mỗi ngày vào khoảng 9
giờ sáng có Tù đánh xe bò đến, Trực Nhà phải khênh ra cho họ
đem đi đổ vào hồ chứa ngoài hàng rào phía sau Khu giam để
Trại dùng nuôi cá và làm phân bón trồng rau gọi là Phân Bắc.

Ngày hôm sau, ội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động gặp
đúng ngay buổi K1 “ra quân thi đua sản xuất” mừng 30 tháng 4
ngày Thống nhất đất nước lần thứ 10. Toàn thể Tù Nam và Tù
Nữ tập trung khai quang trồng mía và khoai lang dọc 2 bên đoạn
đường dài 3 cây số từ khu giam tù K1 vào đến ranh giới khu
giam Tù K2. Con đường này chạy song song cách dòng sông
nhỏ chẩy ngang qua Trại chừng nửa cây số. Các luống miá trồng
dọc phiá bên phải con đường ra tới gần bờ sông, các luống khoai
lang trồng dọc theo phiá bên trái đường vào gần tớí K2.

Cách cổng Khu giam Tù K1 một cây số là “hiện trường lao
động” của 2 ội Tù Nữ, một trồng rau, một nuôi heo. Khu vực
này nằm phiá bên phải cách xa đường chừng vài trăm mét và
rộng tới tận ven sông.

“Chỉ tiêu lao động” và “Tiêu chuẩn ăn” hàng ngày được quy
định bằng nhau cho cả Tù Nam, Tù Nữ, Tù già, Tù trẻ thuộc các

ội Nông Nghiệp. Như vậy trong “xă hội tập trung tù cải tạo
Việt Nam Xă hội Chủ nghiã”thì Già, Trẻ, Nam, Nữ được đối xử
hoàn toàn bình đẳng đúng theo luật “Công bằng Xă hội Chủ
nghĩa”.

Các Tù Nữ lao động rất khoẻ, trong lúc lao động họ nói chuyện
tía lia đủ thứ, có lúc căi cọ đánh lộn với nhau chẳng khác nào

444

các tay chị em bán cua bán cá giành nhau khách mua hàng giữa
chợ. Thấy cảnh đó, chúng tôi trạnh lòng thương các Sĩ quan Nữ
Quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hoà đang bị nhốt chung
với các Nữ Tù Hình Sự gốc “gái ăn sương”, trộm cắp, lừa đảo
ngoài xă hội này.

Hồi còn ở K5 Trại Tân Lập ngoài Bắc, chúng tôi bị giam khác
phòng nhưng chung một dẫy nhà với các Tù Hình Sự còn gặp
biết bao phiền toái. Thế mà ở đây các Nữ chiến hữu của chúng
ta phải sống chung với họ trong cùng ội cùng phòng giam
cùng chia sẻ mọi sinh hoạt hàng ngày, phải chịu đựng bao cảnh
trái tai gai mắt thường xuyên xẩy ra nơi “hiện trường lao động”
cũng như trong nhà giam thì chịu làm sao nổi. Thật tội nghiệp!

Sau khi biến khu đất hoang giữa K1 và K2 thành một cánh đồng
đầy các rănh mía luống khoai xong, các ội Nông Nghiệp được
điều động ra phát quang trồng bắp 2 bên con đường dẫn vào
Trại. Khúc đường dài khoảng 2 cây số từ cổng Trại ra tới chỗ
ngă 3 nơi có đường dẫn thẳng vào K2.

Gần ngă ba có một căn nhà tranh 3 gian thoáng mát rộng răi, đây
là nơi các xe Lô chở thân nhân tới “đăng ký” xin “thăm nuôi”
Tù hàng ngày. Sau khi làm xong các thủ tục, ai đi thăm Tù ở K
nào sẽ có xe của K đó chở tới Khu Nhà Thăm Nuôi riêng của K.
Lúc thăm xong thân nhân phải đi bộ trở ra căn nhà này tập trung
ngồi đợi xe Lô quay lại đón về Thành phố.

Từ cổng Trại đi ra, trước khi tới căn Nhà dùng làm Văn phòng
“đăng ký xin thăm nuôi” cách xa đường chừng vài trăm mét thấy
một khu có nhiều nấm đất hình chữ nhật nổi lên, anh em cũ cho
biết đó là nghiă địa nơi trôn vùi những nắm xương tàn của các
Tù đă bỏ mạng tại Trại Z30D từ khi thành lập đến nay.

445

Trong những đợt “Thi đua toàn Phân trại”như thế này, người ta
luôn luôn cố tình chia khu vực lao động cho các ội Nam và

ội Nữ xen kẽ bên nhau. ây là cao kiến thâm hiểm của “Ban”
Nhu (con người rất ư là Xă hội Chủ nghiă), để kích thích máu tự
ái xĩ diện rởm giữa 2 giới Nam Nữ trẻ ganh đua vượt “chỉ tiêu
lao động hàng ngày” do Trại quy định. Ngoài ra đây còn là cái
bẫy vô hình gài bắt những Tù Nam Tù Nữ lăng mạn, lợi dụng cơ
hội lén lút quan hệ trái Nội quy trại. “Ban” Nhu sẽ dựa vào đó
tung những “chưởng cùm chân trong Nhà Kỷ Luật” để thị uy rằn
mặt cho mọi người sợ mà ngoan ngoăn tuân hành tuyệt đối mọi
lệnh của Ban Giám Thị mà không mang tiếng độc tài tàn bạo.

Trong những đợt “thi đua” toàn trại, “Ban” Nhu luôn luôn xuất
hiện bất thần tại “hiện trường lao động” xông xáo băng ruộng
ghé ội này ội kia hỏi chuyện Tù. Chẳng may người nào quên
không ngả nón lễ phép chào lớn tiếng khi thấy “Ban” hoặc trong
khi nói chuyện không “Kính thưa Ban” một cách trịnh trọng, thì
trước sau gì rồi cũng được dịp nếm mùi kỷ luật.

Một hôm trong giờ giải lao giữa buổi lao động sáng, thấy 1 Tù
Nữ lén đến gần anh Tù ội kế bên đang ngồi nghỉ để thủ thỉ
nhắn nhủ gì đó. ến buổi lao động chiều lại thấy 2 người tìm
cách đến gần nhau trong lúc lao động, chàng móc túi quần giúi
cho nàng một bọc nho nhỏ rồi 2 người lảng ra chỗ khác. Nhưng
“vách có tai, rừng có mắt”, không đầy 30 phút sau Cán bộ An
ninh đến bắt dẫn cô nàng về nhốt vào Nhà Kỷ Luật, đồng thời
Ban Nhu và mấy Cán bộ khác dáng vẻ hùng hổ quan trọng như
đi đuổi giặc cướp xầm xầm đến khu lao động của ội Nam, tìm
bắt cái anh chàng đa tình dám “quan hệ” với Tù Nữ giữa ban
ngày tại “hiện trường lao động”. Sáng hôm sau trước khi Cán bộ
Trực Trại gọi các ội lần lượt xuất Trại lao động, toàn thể trại

446

viên được nghe đọc lệnh phạt đôi Tù Nam Nữ kia mỗi người 7
ngày cùm một chân trong Nhà Kỷ Luật.

Hoàn tất khu trồng bắp trước cổng Trại xong, toàn thể các ội
lại được tập trung làm tiếp qua đám đất phía sau Khu giam Tù
K1. Khu vực này rộng dài cỡ 4 cây số vuông, còn lưu nhiều dấu
tích của rừng cây Buông bị chặt quang để xây dựng Trại Thủ

ức Z30D. Nhiều gốc Buông già bị đào đốt chưa cháy hết nằm
ngổn ngang xen kẽ giữa những cây non đang vươn lên từ những
hột già vương văi trôn vùi dưới lòng đất bấy lâu nay.

Cây Buông là loại trông giống như Dừa, có lá mọc thẳng từ thân
cây ra xoè tròn như những chiếc quạt lớn chung quanh thân y
như lá Gồi. Lá non còn búp chưa xoè ở ngọn cây có mầu vàng
nhạt thường được người ta chặt đem về banh ra phơi khô, tước
thành những dải mỏng dài như lá Gồi để làm nón, đan mũ hoặc
các loại giỏ xách bị xách tay hay vật trang trí trong nhà. Cuống
lá già được lấy để chẻ truốt cà bóng thành những chiếc đũa vân
vân nâu rất đẹp chẳng thua gì đũa làm bằng gỗ mun, bền không
bị vênh cong theo thời tiết ẩm khô như đũa tre. Hồi còn ở bên
K1 Trại Hàm Tân Z30C, ngày nào ội chúng tôi cũng phải trích
ra 2 ,3 người ngồi trốn trong các bụi mát bên bờ sông để truốt
nhiều chục đôi đũa Buông cho Quản giáo bán kiếm tiền xài.

Gần bên hàng rào tre và kẽm gai phía sau Khu giam Tù K1, có
một căn nhà 3 gian nền cao bằng đất nện, vách tường là khung
tre chát rơm trộn sét và bùn, mái tranh, đàng trước nhà có sân
đất nện cứng bằng phẳng, sát bên đầu hồi nhà có 1 căn bếp cất
riêng rẽ trông chẳng khác nào một trang trại riêng của tư nhân
hồi trước 30-4-1975. ây là Nhà Lô cất giữ dụng cụ và cũng là
nơi cư ngụ của Quản giáo ội Nông Nghiệp quản lý “hiện
trường lao động” này. Giữa khu Nhà Lô và con đường đất rộng

447

4 mét chạy dọc theo hàng rào tre tươi tăng cường kẽm gai phía
sau Khu giam Tù K1 là một dẫy 3 cái hồ lớn chứa nước bề
ngang 50 mét bề dài cả 100 mét đào liền bên nhau để thả cá, và
một hồ chứa Phân Bắc lấy từ trong các nhà giam Tù đổ xuống
hàng ngày.

Ngày đầu lao động tại đây, một trong các ội Tù Nữ được chia
khu vực làm việc sát ngay bên ội chúng tôi. Các cô này sàn
sàn ngang tuổi nhau cỡ trên dưới 30 sắc diện cũng dễ coi, dáng
vóc cân đối nẩy nở phơi bầy các đường cong rất khêu gợi, lao
động rất khoẻ. Trong lúc lao động các cô luôn luôn tìm cách gợi
chuyện với anh em. Một đôi người trẻ tuổi trong ội chúng tôi
muốn tỏ ra lịch thiệp với phái Nữ nên bắt chuyện, được thể các
cô lân la lang bang hết chuyện này qua chuyện khác. Trước lạ
sau quen nói hoài hết chuyện lông bông tầm phào chẳng còn biết
nói gì, bỗng nhiên có một cô lên tiếng tỏ ý tội nghiệp cho chúng
tôi bằng những lời lẽ y chang Cán bộ ảng và Nhà Nước Xă hội
Chủ nghĩa đă nhai đi nhai lại xỉ nhục chúng tôi qua các bài học
tập suốt mấy năm qua.

Cô ấy nói đại ý:

“-Các Chú hồi trước oai phong lẫm liệt kẻ hầu người hạ chớ
đâu phải cực khổ như bây giờ. Cũng tại hồi đó các Chú ham
vui quá lại chậm chân không kịp di tản, không thì giờ này tụi
cháu đâu có được gặp tại đây...”

Nghe tới đây Tôi bực mình không dằn được cơn nóng giận, lớn
tiếng dồn một hơi:

“-Khen cho cô đă cải tạo tiến bộ lắm. Không quên những
điều đă được Cách mạng dậy dỗ bấy lâu nay. Đúng là trong

448

hàng ngũ Quân đội cũ có một thiểu số người xấu lợi dụng
ham chơi như cô nói, nhưng nhóm thiểu số hèn đó đă cuốn
gói chạy trốn từ 30-4-1975 rồi. Chúng tôi đây không thuộc
hạng người đó, không nên vì “con sâu làm rầu nồi canh” mà
vơ đũa cả nắm như vậy...”

Thấy Tôi lớn tiếng, anh ội trưởng chạy đến hỏi đầu đuôi câu
chuyện rồi khuyên Tôi bớt nóng và dẫn Tôi ra chỗ khác làm.
Bên phía các Tù Nữ thấy Tôi nổi nóng phản ứng giữ rằn không
ậm ờ chịu chuyện như các bạn trẻ, nên chưng hửng cúi mặt im
lặng lảng ra chỗ khác không nói nữa. May mắn thay trong lúc đó
các Cán bộ Quản giáo và Cảnh vệ còn đang mải túm tụm trong
nhà Lô, uống trà hút thuốc thơm do các Tự Quản ội cung cấp
nên không biết. Nhờ thế câu chuyện được chấm dứt yên ổn,
không ai bị Cán bộ gọi “làm việc” phiền hà gì.

Phát quang dọn cỏ đắp đường chia lô cuốc đất lên luống reo hạt
bắp trên toàn khu đất phía sau Khu giam Tù K1 xong, toàn thể
lại được điều động đi khai quang khu dọc 2 bên bờ sông dài hơn
cây số, từ ranh ội Nữ nuôi Heo đến bờ Nam ập nước.

Ngày “ra quân” làm tại khu bờ sông này ội chúng tôi bị gọi
xuất trại sau cùng, khi chúng tôi tới “hiện trường lao động” thì
các ội khác đă bắt đầu công việc giao khoán cho họ, và “Ban”
Nhu đang đứng bên đường như có ý đợi chúng tôi tới để giao
việc. Thấy ội chúng tôi tới, ông ta chỉ vào khu cây cỏ bụi gai
dầy đặc nhất xen lẫn những nùi kẽm gai rối đầy mảnh chai rác
rến xà bần đủ loại mục nát mùi rữa thối xông lên nồng nặc, và
nhoẻn miệng cười nói: “-Mời các ại tá lại đây, khu này hẹp và
dễ ăn nhất để phần các ại tá đây!”

449

Sau khi chỉnh đốn 2 hàng ngang, anh ội trưởng hô lệnh cho
ội đứng nghiêm và báo cáo nhân số trình diện ội cho Quản

giáo, rồi anh ấy đi theo Cán bộ nhận khu lao động. Chúng tôi im
lặng đứng đợi anh ội trưởng chia khu vực dành cho từng Tổ
xong mọi người bắt tay vào việc ngay.

ến giờ giải lao, anh em đă dọn xong đám rác rến phía ngoài
tiến dần lên chỉ còn cách bờ sông chừng 50 mét, từng nhóm 2, 3
người một ngồi nghỉ ngay tại chỗ bên gốc các bụi cây gai đang
phá dở để ăn lót lòng. “Ban” Nhu và bầy Cán bộ tùy tùng xuất
hiện “tham quan” kết quả tiến hành công tác của các ội. Khi đi
ngang qua chỗ chúng tôi đang ngồi, ông ấy lên tiếng khen: “-Già
mà lao động tích cực lắm, chẳng thua gì bọn trẻ”. Rồi nói tiếp:
“-Khu này cần phải khai quang thu dọn sạch sẽ để xây dựng
Khu Thăm Nuôi mới, có các phòng ngủ trang bị đầy đủ giường
nằm rộng răi với bàn ghế ngồi ăn uống đàng hoàng, chung
quanh có vườn cây cảnh mát mẻ ngay bên bờ suối thơ mộng. để
gia đình tới thăm ở lại được thoải mái hơn khu hiện có nơi cổng
trại có được không?”

Anh em im lặng không ai quay lại nhìn không lên tiếng chào
“Ban” cũng không lên tiếng trả lời, vì không biết ông ấy nói cho
ai nghe, nói với mình hay nói với các Cán bộ đang lăng xăng
chạy theo. Lỡ không phải nói với mình mà lên tiếng sẽ mắc tội
nghe lén chuyện của Cán bộ, đặc biệt Cán bộ đó lại là “Ban”
Nhu (Giám thị kiêm Bí thư ảng ủy của Trại) nổi tiếng nghiêm
khắc, thì tránh sao khỏi bị kỷ luật. Do đó im lặng như điếc
không nghe thấy là hơn. Nhưng ông ấy đứng lại không đi tiếp
quay mặt nhìn anh em chúng tôi lộ vẻ không bằng lòng, đưa mắt
nhìn quanh như đang soi mói tìm cái gì đã làm cho ông ấy khó
chịu.

450


Click to View FlipBook Version