The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by doanhdoanh, 2016-03-21 19:06:36

HỒI ỨC TÙ CẢI TẠO

Nguyễn Huy Hùng

Dương Hiếu Nghĩa được cử làm ội trưởng ội làm gạch, gồm
toàn Linh mục, Thượng Tọa, ại ức Tuyên úy Quân đội
VNCH. Linh mục Nguyễn văn Thịnh cũng được “biên chế” vào

ội gạch với anh Nghĩa, còn Mục sư Dương Kỳ thì ở lại với
nhóm chúng tôi.

Nhóm chúng tôi được chỉ định là ội Nông Nghiệp và được
tăng cường thêm 3 người lạ: 1 Trung úy Bộ binh, 1 ại úy Công
binh, và 1 ại úy Cảnh sát Quốc gia (lâu quá rồi nên Tôi không
còn nhớ Họ Tên của các bạn này).

Chúng tôi được dẫn vào giam tại dẫy nhà “Khu cách ly” nơi
cuối sân cách biệt hẳn với các nhà mái tôn trong khu giam Tù
miền Nam có tường bao quanh. Dẫy nhà gạch này được chia ra
3 ngăn có cửa ra vào riêng cho mỗi ngăn, có tường gạch phân
cách giữa các ngăn không thông thương được với nhau.

ội chúng tôi bị giam ở ngăn giữa, ội Gạch của các vị Tuyên
úy trong ngăn bên phải phiá sát gần sân tập họp lớn. Ngăn bên
trái ngăn giam chúng tôi là Phòng Kỷ Luật, giam những Tù vi
phạm các iều lệ Nội quy Trại giam. Cửa vào ngăn này ở phía
đằng sau dẫy nhà, đi thẳng ra bên ngoài tường rào của “khu cách
ly”.

Ngăn giam chúng tôi chỉ có một cửa ra vào bằng sắt có chốt móc
khoá cửa ở phiá bên ngoài, trong phòng có 2 dẫy sàn nằm 2 tầng
chồng lên nhau bằng gỗ, phiá cuối phòng có một ngăn nhỏ bề
ngang 1 mét rưỡi để một thùng gỗ đựng phân cho Tù giải quyết
nhu cầu vệ sinh ban đêm.

Chúng tôi ở đây được một tuần lễ, bỗng một buổi sáng đang
ngồi tập họp chờ gọi xuất trại đi lao động, anh em rì rầm truyền

201

tai nhau tin Linh mục Hiệu chết trong Nhà Kỷ Luật. Biết được là
nhờ anh em ội Mộc hồi đêm có mấy người phải “đột xuất” ra
xưởng đóng áo quan cho một nhóm Tù khác đem chôn. Trại
giam phao tin Linh mục Hiệu tự tử chết. Theo anh em Công giáo
đây là tin bịa đặt hoàn toàn, vì hành động này không bao giờ có
thể xẩy ra đối với một Linh mục.

NHÀ TÙ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.

Tự do thâu gọn một căn nhà,
Cửa sắt ngăn đường chặn lối ra.
Quanh Láng nhởn nhơ toàn bóng Qủy.
Đêm dài lởn vởn đặc hình Ma.
Không gian co cụm sau tường gạch.
Không khí bao trùm chục thước vuông.
Sàn gỗ hai tầng, người sáu tấc.
Theo nhau tha thẩn Rệp đầy buồng.
Tù Người Tù Rệp nằm chung ván,
Tranh đấu ngày đêm chẳng nhịn nhường.
Rệp hút máu Người no để sống,
Người lo diệt Rệp nát như tương.
Người, Rệp, chung nhau cảnh đoạn trường,
Không cùng lý tưởng, hoá không thương.
Rệp chuyên hút máu, nên Người diệt,
Để tránh cho đời, nọc bệnh vương.

TÙ KHÔNG ÁN.

Từ đây cách trở sơn khê,
Kiếp Tù không án, ngày về hẳn xa.
Trầm luân đâu một mình Ta,
Trăm ngàn chiến sĩ Cộng hoà chịu chung.

202

Bên nhau trong bước đường cùng,
Giữ sao khí phách anh hùng không phai.
Mặc cho Quỷ Đỏ thị oai,
Kệ thây bầy thú vô loài dương uy.
Vượng, Suy, Trời định có kỳ,
“Sắc không, không sắc”, lo chi nản lòng!

K1, Trại Tân Lập, V nh Phú, tháng 11-1977.

Chương 20.
ỐC ĐẢO TÂN LẬP (VĨNH PHÚ)
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN

Kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại dẫn “Thi ua” đi mở cửa
các nhà giam, họ đi vòng hết nhà này đến nhà kia mãi 30 phút
sau mới đến lượt ội ại tá chúng tôi được mở cửa cho ra sau
cùng. Anh Trực Nhà và 2 anh trực phụ (thay phiên hàng ngày)
tất tưởi dắt nhau chạy đi lãnh phần ăn sáng và nước uống chín ở
Nhà Bếp của trại đem về chia cho anh em.

Chia vội vã vừa xong, kẻng tập họp đi lao động cũng bắt đầu
gióng lên, ai nấy cầm phần ăn của mình vừa đi ra sân tập họp
vừa ăn. Khi tới sân tập họp, người nào ăn chưa kịp hết phải bỏ
vào túi, chờ lúc ra khỏi cổng trại vừa đi vừa ăn tiếp. Nếu không
ăn như vậy, ra tới hiện trường phải lao động ngay đói không làm
việc được “năng nổ” tối về sẽ bị “phê bình xây dựng”. Nếu bị
anh em góp ý kiến “xây dựng” hoài, hậu quả tai hại sẽ đến với
bản thân là bị phạt giảm phần ăn hàng ngày trong một tháng.

Phần “sắn duôi” ăn sáng chẳng được bao nhiêu, ém gọn lại được
vừa bằng một nắm tay, chỉ đôi người có dạ dầy yếu phải nhai

203

chậm rãi như Tôi mới gặp trở ngại, còn nhiều bạn khác bụng dạ
khoẻ, ăn uống nhậm lẹ thì chả thấm tháp gì.

Sáng nào cũng vậy, trong thời gian ngồi chờ Cán bộ Trực Trại
đến đọc lệnh gọi các ội lần lượt xuất trại, mấy người “Thi

ua” đi vòng “kiểm tra” xem áo quần của ai chưa đóng dấu sơn
“ám số Trại” thì họ đem con dấu bằng gỗ to dài hơn bàn tay có
tẩm sơn đen pha lẫn dầu đến đóng lên lưng áo và 2 bên ống
quần. Người nào quầo áo đã đóng dấu, nhưng lâu ngày sơn bị
phai bạc mờ đi thì đóng chồng lên cho được rõ ràng. ây là biện
pháp phân biệt Tù với người thường ngoài trại để dễ lùng bắt
nếu Tù trốn trại.

Hôm nay, ội chúng tôi và nhóm anh em mới tới xuất trại lao
động lần đầu tiên nên được “Thi ua” “quan tâm” “chiếu cố”
trước nhất. Họ đến đóng dấu sơn “ám số trại” lên quần áo chúng
tôi, ngay khi chúng tôi vừa tới ngồi tại sân tập họp.

Sau này Trại phát cho mọi người loại quần áo Tù bằng vải thô
Nam ịnh, cả áo lẫn quần đều bị may ghép lẫn lộn bằng những
mảnh vải nhuộm 2 mầu khác nhau, nếu nửa thân và tay áo bên
Phải mầu xanh nước biển, thì nửa thân và tay áo bên Trái mầu
trắng, quần cũng một ống trắng một ống xanh. Thật rõ ràng lồ lộ
chẳng lẩn đi đâu lọt, thế mà cả quần lẫn áo vẫn phải đóng dấu
“ám số trại”. Cứ mỗi 6 tháng mỗi người được lãnh 1 bộ, nếu
rách sớm hơn thời gian quy định phải tự vá víu mà mặc. Có thể
mặc quần áo riêng của mình, nhưng dĩ nhiên là phải bị đóng dấu
sơn “ám số trại” lên trên.

ội chúng tôi bắt đầu tham gia lao động tại K1 Trại Tân lập với
công tác đi chặt cây xim và cây muông đem về làm củi đun cho
Nhà Bếp. Xim được chặt trên những ngọn đồi cách xa trại

204

khoảng 3 cây số, bó gánh về chất đống dài sát tường phiá ngoài
cổng trại giam. Nhà Bếp Tù ra lấy vào dùng đun nấu thực phẩm
và nước uống chín phát cho Tù. Nhà bếp của Cán bộ canh Tù
cũng lấy củi ở đây về dùng hàng ngày.

Trước khi lên đường, anh em phải ghé vào đống củi cao như núi
bên cạnh tường ngoài cổng trại, lấy mỗi người 1 cây dài 2 mét
đường kính khoảng 10 phân đem theo làm đòn gánh củi mang
về.

Củi xim thân cây nhỏ, cỡ lớn nhất chỉ bằng ngón chân cái, xum
xuê cành con và nhiều lá, cao chừng 1 mét rưỡi. Chặt củi chẳng
khó khăn gì, nhưng muốn có dây để cột củi thành từng bó thì
phải cắt cỏ tranh dài rồi bện nối lại với nhau thành những sợi
dây nhợ dài ngắn tuỳ theo nhu cầu. Không biết cách cột cho
chắc, khi xốc đòn vào đưa lên vai bó củi sẽ xổ tung ra, hoặc tụt
rơi vãi từ từ dọc đường rất phiền phức.

Gom xếp một gánh củi với 2 bó nhơ nhỡ vừa với sự chịu đựng
của bắp thịt vai mình thì coi không được, cán bộ nhìn thấy chỉ
trích là:

“-Bó củi gì mà chỉ bằng nắm tay, trẻ con nó còn chê nhẹ”.

Nếu gom bó đủ lớn coi cho vừa mắt, dọc đường về sẽ bị chiếc
đòn gánh và sức nặng của 2 bó củi hiệp nhau hành hạ bắp thịt
vai, cổ, cột xương sống lưng của mình đau đớn chịu không nổi.

Không biết gánh, lúc nào cũng phải gồng vai gân cổ lên chịu sức
nặng, cắn răng bước đi dồn dập như chạy, thì mỗi bước chân đạp
xuống đường là một nhát dao cứa trên vai, đau buốt vào óc, dồn
xương sống mỏi hông ngang thắt lưng. Ráng hết sức cũng chỉ đi
được khoảng trăm mét, lại phải quăng gánh củi xuống đất để

205

nghỉ. Sau mỗi lần nghỉ, lúc đưa gánh củi lên vai đi tiếp cho kịp
bạn bè là một lần khổ nạn, vì sẽ cảm thấy hình như gánh củi
nặng gấp đôi trước, bắp vai nóng rát đau chẳng khác nào bị vọp
bẻ (chuột rút) chịu hết muốn nổi.

Bị bắt buộc phải làm mãi, rút kinh nghiệm lần rồi cũng “giác
ngộ” biết được là khi gánh phải hơi cúi đầu khòm lưng về phiá
trước, để cho đòn gánh đè tréo từ giữa bả vai bên này qua u thịt
sau cổ sang gần bả vai bên kia, bắp thịt vai sẽ không bị đau.
Bước đi phải nhịp nhàng, theo đà nhún nhẩy lên xuống của 2 bó
củi ở 2 đầu đòn gánh.

Nhiều bạn cả đời chưa có dịp phải gồng gánh, thấy những người
buôn thúng bán bưng làm hàng ngày cứ tưởng dễ dàng như mình
ngồi lái xe hơi, nay phải làm mới thấm thiá và thán phục cái tài
xốc vác chịu đựng của những người “lao động chân tay” trần ai
cực nhọc đến mức nào.

i cắt củi được hơn một tuần lễ, Trại phát động Kế hoạch “Thi
đua làm Cách mạng xanh”. “Mục đích yêu cầu” là làm cho tất cả
những khoảng đồi núi trong phạm vi đất dành cho Trại đang trơ
trụi không cây cối, phải được phủ kín bằng một mầu xanh của
các ruộng sắn (khoai mì) gồm 2 loại khác nhau: 1.-công nghiệp,
2.-để ăn, và miá re thân nhỏ vỏ cứng nhưng rất ngọt, ép lấy nước
cô thành “mật đường” để cất rượu trắng. ây là “kế hoạch làm
kinh tế” để Trại có tiền tự túc nuôi Tù và Cán bộ canh Tù, theo
lệnh của Nhà nước đã ban hành từ hồi đầu năm 1977.

ội chúng tôi phải đi đào hố trồng sắn, ngay trên những ngọn
đồi đã chặt củi xim. Mỗi buổi lao động sáng cũng như chiều,
mỗi người phải đào 15 hố vuông cạnh 70 phân sâu 80 phân, các
hố cách nhau một mét. Trên mặt đồi, cỏ dại cỏ tranh dầy đặc cao

206

cả thước phải phát sạch trước khi đào hố. ất đỉnh đồi cứng
chắc nịch lẫn đá lổn nhổn, không có xẻng nên mỗi người phải
múc đất từ dưới lòng hố lên bằng cuốc của mình.

Vất vả vô cùng cho những người lãnh phải cây cuốc cũ, lưỡi bị
mòn nhỏ cùn hoặc xứt mẻ. Chỉ có 3 anh bạn Tù cấp úy tăng
cường nhân số ội, và vài người khác khoẻ như anh ội trưởng
Lê ình Luân, Mục sư Dương Kỳ, anh Tôn Thất Hùng... là đạt
chỉ tiêu quy định, buổi lao động nào họ cũng dư ít phút ngồi
nghỉ ngơi, còn đa số anh em chẳng bao giờ hoàn tất đủ “chỉ tiêu”
trước lúc mãn giờ lao động.

Mỗi người tham gia lao động được Quản giáo ội “ghi điểm
tính công” hàng ngày. Ai đau ốm nghỉ bệnh nhiều không tham
gia đủ số ngày công hay lao động hàng ngày không “đạt chỉ
tiêu”, sẽ bị phạt giảm mức ăn quy định hàng tháng xuống.
Những người lao động “năng nổ vượt chỉ tiêu”, hàng đêm được
anh em trong ội “bình bầu” là “gương mẫu” nhiều lần, sẽ được
Quản giáo quyết định thưởng tăng phần ăn. Người được thưởng
sẽ được ăn tăng thêm 2 kí lô một tháng, tức là 14 kí lô thay vì 12
kí lô như mọi người. Người bị phạt phải giảm mức ăn xuống còn
11 kí lô, tức là bớt đi 1 kí lô.

Mức ăn quy định cho mỗi người bình thường hàng tháng là 12 kí
lô ngũ cốc (gạo, hoặc các loại khác như: bột mì, hột bo bo, sắn,
bắp, khoai).

Thời gian chúng tôi tới trại này, phần gạo được thay thế bằng
“sắn duôi” theo tiêu chuẩn một đổi một, tức là 1 kí lô “sắn duôi”
khô tính bằng trị giá 1 kí lô gạo. “Sắn duôi” là sắn tươi bào
thành sợi nhỏ như sợi bánh phở, sấy hoặc phơi khô cho bốc hết
hơi nước. Tôi không biết tại sao gọi là “sắn duôi”, nghe anh em

207

Tù cũ tại đây gọi vậy thì nhận biết như vậy. ể làm cho “sắn
duôi” chín, người ta rửa nước như vo gạo rồi để vào các vỉ tre
đan và đem hấp từng chồng nhiều vỉ một lượt trên những vạc
nước đun sôi. Lúc còn sống “sắn duôi” mầu trắng đục rời rạc
như gạo, khi chín trở thành trong và dính quện với nhau như
cơm nếp, những sợi sắn không chín vẫn giữ nguyên mầu trắng
đục. Không biết tại sao lúc nào “sắn duôi” hấp cũng bị nửa chín
nửa sống.

Phần “sắn duôi” ăn sáng được nấu cùng lúc với phần ăn chiều,
xúc riêng ra để qua đêm đến sáng mới phát. Gặp mùa lạnh thì
không sao, đến mùa nắng thời tiết oi nóng “sắn duôi” để qua
đêm bị thiu nhơn nhớt và có mùi chua, ăn vào nhiều người yếu
dạ bị đau bụng tiêu chẩy. Tù vẫn phải lãnh về ăn, vì chẳng có gì
khác để nhồi vào bao tử duy trì sự sống cho cơ thể mà lao động.

Việc hớt tóc cho Tù ở K1 trại Tân Lập này khác hẳn với bên các
Trại do Quân đội quản lý. đây, Trại mua 1 bộ đồ hớt tóc gồm
Tông-đơ, kéo và lược, trao cho Ban “Thi ua” cất giữ. Hàng
ngày, theo lịch trình quy định luân phiên cho các ội mượn đem
ra “hiện trường lao động” hớt tóc cho nhau. Hồi còn ở K2 (trại
cây khế) Liên trại 1 xã Việt Cường ên Bái, sau khi bị sốt vàng
da hành không chết Tôi mất sức nhiều không ra ngoài lao động
nặng được, Quản giáo ội đã trình Phân trại trưởng cho Tôi ở
trong trại phụ trách phòng hớt tóc một thời gian. Anh em trong
cùng ội hiện nay ai cũng biết, do đó ngày nào đến phiên ội
được xử dụng bộ đồ hớt tóc thì anh ội trưởng cũng trình Quản
giáo ội cho Tôi miễn lao động để hớt tóc cho anh em.

Quản giáo bằng lòng, nhưng buộc anh em trong ội phải gồng
mình làm bù đắp phần của Tôi, nhằm “bảo đảm chỉ tiêu chung”
của ội phải “đạt” trong ngày. Giống hệt trường hợp anh phụ

208

trách nấu nước chín tại “hiện trường lao động” cho ội, anh em
cũng phải làm nhiều hơn để bao phần “chỉ tiêu” hàng ngày của
anh ấy.

Việc hớt tóc giữa trời, có nhiều kỷ niệm khó quên cho cả thợ hớt
và người được hớt. Không có ghế cho khách ngồi, nên cả thợ lẫn
khách đều phải đứng. Hai người cao xấp xỉ ngang nhau, do đó
khách buộc phải đứng dưới ruộng hoặc rãnh bên luống, chịu
đựng ướt chân và ống quần để nhường cho thợ đứng trên bờ đất
cao không phải vói tay nghển cổ mới hớt được dễ dàng. Thời tiết
dù mưa hay nắng, cả 2 người cùng phải đứng giữa đồng mà hớt
cho nhau, không có một tán cây bóng mát nào để núp. Lúc nắng
còn đỡ, gặp trời mưa thì thật là một cực hình cho cả 2 người,
mặc dù ai cũng có khoác áo mưa. Khách phải dùng hai tay cằm
chiếc nón lá dơ cao hơn đầu, để cho mưa không làm ướt đầu và
chui qua cổ áo làm ướt người. Thợ luôn luôn phải giơ 2 tay cao
ngang vai, nước mưa cứ tự do theo 2 cổ tay áo mưa, dù đã cột
chặt bằng dây, để trôi vào làm ướt tay áo vải bên trong, thật là
trần ai không bút nào tả xiết.

Chúng tôi đến đây được khoảng ba tháng, bắt đầu có dịch kiết lỵ
lan tràn trong trại. Các khu vệ sinh công cộng dùng thùng đựng
phân lộ thiên, ruồi nhặng sinh sôi nẩy nở nhanh chóng bay đi
khắp trại nhất là khu nhà bếp. Có thể là trăm phần trăm nhân số
Tù đã bị mắc bệnh. Những người khoẻ sức đề kháng trong cơ
thể còn mạnh, chỉ bị sơ sơ vài 3 ngày rồi hết. Những người suy
nhược nhiều, sức đề kháng yếu bệnh ngày một tăng, từ đi đại
tiện có phân lần lần chỉ còn nước nhờn và máu. Ngày đêm đi
liên tục cả 2, 3, 4 chục lần, mệt mỏi hốc hác tiều tụy mà vẫn
phải đi lao động như thường. Chỉ những ai ngày đêm đi từ trên

209

năm mươi lần ra toàn máu và thêm sốt nóng lết đi không nổi
nữa, thì mới được ội trưởng ghi danh cho đi khám bệnh.

Khi nộp sổ khám bệnh, Tù “Thi đua” làm tá tại Bệnh xá buộc
Tù phải ra góc sân ngồi rặn ra mũi và máu còn nóng hổi trình
cho Cán bộ tế thấy rõ ràng, mới được cho vào Bệnh xá nằm
chữa trị. Rất nhiều anh em khai bệnh nhưng không được Cán bộ

tế cho vào điều trị tại Bệnh Xá, chỉ được cấp thuốc uống tại
chỗ rồi trờ ra theo ội tiếp tục đi lao động mặc dù họ rất mệt
mỏi đuối sức.

Những người bị kiết lỵ nặng nhưng không bị phù thũng thì có hy
vọng sống, còn những ai vừa kiết lỵ vừa phù thũng thì chỉ ít
ngày sau là đi về với Tổ tiên. Tôi đã bị ở trong trường hợp kiết
lỵ và sốt nặng đến nỗi bị ngất xỉu bên thùng phân trong phòng
giam ban đêm, phải kêu cấp cứu mới được đưa vào Bệnh xá
nằm điều trị.

Bệnh xá có 2 phòng, mỗi phòng rộng khoảng 16 mét vuông kê 5
giường nhỏ loại 1 người nằm. Tôi và những người kiết lỵ nằm
trong phòng “bệnh truyền nhiễm”. Lúc cấp cứu đưa vào, Tôi
phải nằm tạm dưới đất vì tất cả 5 giường đều đã có 2 người nằm
chung. Gần sáng có người chết, sau khi bệnh nhân khiêng anh
ấy ra túp lều chứa xác chết nơi giữa bãi đất trống phiá sau Bệnh
xá, Tôi được lên giường nằm thế vào đó.

Thuốc chữa trị hàng ngày, chỉ là 1 bát nước đủ loại lá thuốc
Nam do nhân viên bệnh xá lên rừng kiếm về, băm nhỏ, phơi
khô, bỏ vào vạc ninh nhừ để qua đêm đến sáng lấy nước phát
cho bệnh nhân uống. ây là loại thuốc trị Bá Bệnh, ai đau ốm ra
sao không cần biết, hễ cứ đến xin khám bệnh là được cho uống 1
bát. Nếu ai có sốt thì được thêm dăm chục viên Xuyên Tâm

210

Liên, mầu vàng xậm như nghệ trộn với gì không biết vê thành
viên tròn nhỏ bằng hột đậu xanh, bỏ vào miệng cảm thấy mùi vị
hắc hắc the the lưỡi.

Ban ngày, mưa cũng như nắng lúc nào ở góc sân Bệnh xá phiá
sau gần bếp cũng có để một thùng gỗ để cho bệnh nhân ra xếp
hàng thay phiên nhau ngồi rặn è è, ôm bụng rên đau quằn quại.
Còn ban đêm, cửa các phòng bệnh bị khoá trái bên ngoài y như
các láng giam, nên có một thùng gỗ để nơi góc phòng cho mọi
người tiện dụng. Lúc nào cũng có 4, 5 người ngồi chồm hổm ôm
bụng, chụm đít quanh thùng nhăn nhó rặn, cổ bạnh ra mặt mũi
đỏ gay.

Tại Bệnh xá, có anh Tù Hình Sự được Cán bộ tế dùng làm
“Thi ua” cho ở thường xuyên ngày đêm trong Bệnh xá, để
kiểm soát bệnh nhân thay Cán bộ. Nếu bệnh nhân nào không gọi
anh ta là Bác sĩ hoặc không khéo lời tâng bốc anh ta, thì dù bệnh
tình chưa thuyên giảm cũng sẽ bị đề nghị cho xuất viện ngay để
nhường chỗ cho người khác. Ai biết điều và nịnh bợ anh ấy, thì
dù đã hết bệnh rồi cũng vẫn được ở nghỉ thêm vài 3 ngày mới
phải rời Bệnh Xá.

Theo tin tức thâu lượm được qua những anh em nằm tại Bệnh xá
trước Tôi, và phối kiểm qua những lời ba hoa của anh ta trong
thời gian Tôi nằm tại Bệnh xá, biết được anh Tù Hình Sự này bị
án tù trung thân vì tội “làm giấy bạc Cụ Hồ giả”. Hồi còn ở
ngoài xã hội anh ta làm nghề Chăn Nuôi chuyên trách về thiến
Heo, thiến Gà trống, nên anh ta tự coi mình là Bác sĩ Thú .

Có một chuyện ly kỳ liên quan đến anh “Thi ua” này, làm anh
em ội chúng tôi hoảng sợ không bao giờ quên được. Số là, ại
tá Tô văn Vân phụ trách nấu nước ngoài “hiện trường lao động”

211

của ội chúng tôi, một đêm kia tự nhiên bị đau bụng giữ dội
phiá bên Phải, nghi là sưng ruột dư phải kêu cấp cứu và được
đưa vào Bệnh xá.

Sáng hôm sau là ngày Chủ nhật nghỉ lao động, ội chúng tôi bị
tập họp lên Hội trường để nghe anh “Thi ua” này cùng Cán bộ

tế nói cho nghe về tình trạng nguy kịch của anh Vân, cần phải
giải phẫu gấp nếu không thì chết. Họ đưa ra “phương án hành
động khẩn trương, thực hiện ca mổ ngay tại Phân trại”, vì thời
gian chuyển qua K5 (Trại trung ương) làm thủ tục đưa ra Tỉnh e
không còn kịp. Họ tỏ ra rất tự tin nhờ có rất nhiều kinh nghiệm
về mổ sẻ súc vật (cũng chẳng khác gì người ta), nên rất bảo đảm
không có gì phải lo ngại. Họ yêu cầu chúng tôi góp ý kiến quyết
định, đồng thời hỏi ai có lưỡi dao bào râu còn mới thì cung cấp
cho họ xử dụng làm dao mổ.

Chúng tôi ngỡ ngàng, dứt khoát xin miễn góp ý kiến vì mạng
sống của anh Vân không thuộc phần trách nhiệm của chúng tôi
quyết định. ây là việc thuộc quyền quyết định của Nhà nước và
thân nhân của anh ấy. Hơn nữa, trong chúng tôi không ai có lưỡi
dao bào râu còn mới để cung cấp.

Buổi trưa ngày hôm sau là Thứ Hai, khi anh em đi lao động về,
anh Trực Buồng cho biết hồi sáng lúc đi ngang qua khu Bệnh
Xá xuống bếp lãnh thực phẩm cho bữa trưa, đã gặp anh Vân
đứng bên bờ rào Bệnh xá. Anh Vân cho biết đã hết đau nhờ hồi
hôm mửa ra mấy nùi giun đũa, trước khi mửa có con đã chui ra
từ lỗ mũi. Thật khủng khiếp !!!

Sau khi hết đau bụng, không biết anh Vân làm cách nào được
“biên chế” vào Bệnh xá phụ giúp anh “Thi đua” nấu thuốc, cháo,

212

và nước uống chín cho Tù nằm điều trị tại đây chớ không phải ra
ngoài lao động theo ội nữa.

Trong thời gian nằm tại Bệnh xá, Tôi còn phải chứng kiến một
anh bị kiết lỵ và phù thũng nằm chung giường chết rất thương
tâm. Anh ấy được đưa vào nằm cạnh Tôi sau giờ khám bệnh
buổi chiều, đến nửa đêm thì chết. Ngay sau khi được vào Bệnh
xá, anh ấy mở túi xách đựng dụng cụ ăn và mấy thứ lặt vặt cần
dùng như bàn chải răng khăn mặt… ra xem, lấy mấy bức thư và
ảnh của Vợ Con ra khoe Tôi và chăm chú đọc lại rất vui vẻ yêu
đời.

Tôi thấy trong túi có hộp sữa bò đặc hiệu con chim và một hộp
bánh quy. Tôi nói chúng ta bị bệnh là do thiếu dinh dưỡng mà
ra, sao anh không dùng sữa và bánh mà “bồi dưỡng” cho nó
khoẻ để dành làm gì, lỡ chết vì đói kiệt sức cơ thể không chống
nổi bệnh hoạn thì chẳng phụ lòng Vợ Con lắm sao? Anh ấy cười
trả lời chưa cần, Tôi còn đủ sức chịu đựng mà!

ến khuya anh ấy lên cơn sốt nóng như lửa, rồi mê man, Tôi
phải kêu cứu và xuống đất nằm để nhường nguyên chiếc giường
cho anh ấy. Anh “Thi ua” nằm ở phòng khám bệnh kế bên nói
vọng sang trả lời:

“-Để sáng sẽ tính”.

ến gần sáng, anh Tù bệnh lịm dần không nghe tiếng rên rỉ nữa,
anh ấy đã ra đi vĩnh viễn. Anh ấy là một Sĩ quan cấp Úy thuộc
Công binh, Tôi không nhớ tên và đơn vị.

Phải đợi đến kẻng báo thức sáng, Cán bộ Trực Trại vào mở khoá
cửa phòng giam bệnh và Cán bộ tế đến lập biên bản xong,
chúng tôi mới được lệnh Cán bộ Tế để anh chết nằm vào

213

chiếc chăn dạ riêng của anh ấy, rồi khiêng ra bỏ tại túp lều tranh
chứa xác giữa bãi cỏ hoang cách Bệnh xá khoảng một trăm mét.
Một lúc sau anh “Thi đua” vào lấy tứi đựng đồ riêng của anh tù
chết trong đó có hộp sữa và hộp bánh quy, không biết đem nộp
cán bộ hay giữ làm chiến lợi phẩm riêng? Người ta đem anh tù
chết đi chôn lúc nào không ai thấy, chắc là ban đêm.

Tôi nằm Bệnh xá được một tuần lễ thì bệnh kiết lỵ thuyên giảm.
Không biết nhờ 2 bát nước thuốc Nam và 60 viên Xuyên Tâm
Liên mỗi ngày, hay nhờ 2 bát cháo gạo lỏng nêm muối của Bệnh
xá cho Tù bệnh ăn hàng ngày thay vì “sắn duôi”, hay nhờ được
nghỉ không phải lao động?

Theo quy định của trại, Tù bệnh nằm điều trị tại Bệnh xá được
phát mỗi bữa 3 muổng đường để ăn với cháo, nhưng anh “Thi

ua” chặn lấy dùng riêng và nói rằng kiết lỵ mà ăn đường bệnh
sẽ tăng chữa không được. Chẳng ai dám tố cáo vì sợ bị anh “Thi

ua” hại ngầm thì thiệt thân. Tôi biết được là nhờ anh Tô văn
Vân nói nhỏ cho nghe lúc anh em gặp nhau tại bếp của Bệnh xá.
(Anh Vân và Tôi biết nhau từ năm 1967, khi anh ấy còn là Thiếu
tá được đưa về làm Chánh văn phòng cho Đại tá Hoàng Gia
Cầu đang làm Tổng cục Trưởng Địa phương quân và Nghĩa
quân tại Bộ Tổng Tham mưu thay thế Đại tá Trương văn Xương
thuyên chuyển đi Vùng 4 Chiến thuật ở Cần Thơ. Lúc đó Tôi là
Trung Tá đang giữ chức vụ Tổng cục Phó.)

Những người nằm điều trị kiết lỵ trước Tôi, khi nào họ hết hẳn
không đi cầu ra máu nữa thì mới phải ra viện. Nhưng phần Tôi,
không biết vì sao bệnh chỉ mới thuyên giảm chưa dứt, ngày đêm
vẫn còn đại tiện ra mũi và máu khoảng 6, 7 lần, gầy ốm hốc hác,
mệt đi bộ xa chưa nổi, thế mà Cán bộ tế nói là Cán bộ Quản

214

giáo ội đến yêu cầu phải cho Tôi ra khỏi Bệnh xá theo ội đi
lao động để bảo đảm ngày công quy định.

Tôi ra theo ội đi phát cỏ và vun gốc sắn. Trong thời gian này,
các anh Phạm Tài iệt, Trần văn Thăng (2 người đều là An ninh
quân đội), Nguyễn văn Phúc (Chính huấn Tổng cục Chiến tranh
Chính trị) vì lao động lơ là kém năng xuất, và Tôi (Phụ tá Tổng
cục trưởng Chiến tranh Chính trị, Chủ nhiệm Nhật báo Tiền
Tuyến) với cái tội nằm Bệnh xá lâu không bảo đảm đủ ngày
công, nên bị phạt giảm mức ăn hàng tháng xuống còn 11 kí lô.
Hai người khác trong ội “lao động năng nổ” được thưởng tăng
mức ăn lên 14 kí lô là Mục Sư Dương Kỳ và anh Tôn Thất
Hùng.

Bốn người bị phạt giảm mức ăn để tăng mức ăn cho 2 người lao
động giỏi được thưởng, thật là bất ngờ làm mọi người xửng sốt.
Người bị phạt buồn đã đành, người được thưởng cũng xốn xang
áy náy.

Thoạt đầu các vị này chỉ muốn cố gắng “năng nổ lao động” để
được coi là “ cải tạo tiến bộ” sớm được tha, đâu ngờ Cách Mạng
lại thâm độc áp dụng luật bù trừ lấy của người bị phạt thưởng
cho người “lao động năng nổ” để tạo thù hận chia rẽ giữa anh
em Tù với nhau.

Việc xẩy ra rồi 2 người được thưởng mới tỏ ra hối hận, vì biết
đã bị lừa mắc bẫy của “Vẹm” (Vẹm là chữ lóng dân chúng miền
Bắc dùng để ám chỉ Việt Minh từ hồi 1946). Anh Tôn Thất Hùng
thỉnh thoảng đưa nguyên phần ăn một bữa của anh ấy tăng
cường cho chúng tôi để tỏ lòng hối hận. Còn Mục sư Dương Kỳ
thì không dám, ông nói qua trung gian cho anh em biết là sợ làm
như anh Hùng chằng may Cán bộ biết được sẽ buộc tội vi phạm

215

Nội quy iều lệ của Trại, nguy hiểm cho cả người nhận lẫn
người cho!!!

Mới tới K1 Tân Lập được khoảng hơn 3 tháng, mà ai nấy đã hốc
hác nhất là sau dịch kiết lỵ phù thủng, mọi người suy xụp rõ
ràng chỉ còn da bọc xương bơ phờ. Ai cũng sụt đi phân nửa cân
nặng của mình, trông chẳng khác nào những hình “nộm bù nhìn”
trong những bộ quần áo tế thần lụng thụng. Ngày đi trình diện
tập trung Tôi cân nặng 67 Kí lô, đến lúc này chỉ còn được 30 kí.
Chiếc thắt lưng da mang theo, bây giờ muốn dùng để giữ quần
cho khỏi bị tụt xuống, phải đục thêm lỗ cách lỗ cũ khoảng 20
phân. Biết chắc là mình chỉ còn nặng đúng 30 kí lô, vì thời gian

ội chúng tôi phụ trách phơi đong cân thóc cất vào kho, anh em
đã lén đứng lên chiếc cân bàn để cân cho biết trước khi cân các

bao thóc.

Lúc nào cũng đói, lại phải lao động vất vả với “chỉ tiêu” cao,
thiếu dinh dưỡng trầm trọng, nên trong khi lao động ở ngoài
đồng hễ thấy sinh vật nào nhúc nhích ăn được là vồ ngay, ngoé,
nhái, ễnh ương, chằng hiêu, cóc, thằn lằn, rắn, cào cào, châu
chấu, rế cơm, rế mèn, chuột nhắt, gì cũng chộp hết ngoại trừ điả
và giun. Mặc dù biết làm như vậy là vi phạm iều lệ Nội quy
Trại giam, mọi người đã phải học thuộc lòng nhưng vẫn làm.
Thà mưu sinh để sống còn cho tới ngày được cứu thoát, còn hơn
tôn trọng Nội quy để chết trước khi thấy “ánh sáng ló dạng nơi
cuối đường hầm”.

Thoạt đầu, bắt được nhái ngoé còn bỏ túi chờ tới giờ giải lao mò
đến chỗ nấu nước, giả bộ hút thuốc lào để bỏ vào đống than
nướng chín rồi mới ăn. Nhưng về sau, anh nấu nước sợ vạ lây
không cho, đành lột da ăn sống tại chỗ hoặc nhét vào túi đem về
ngâm nước muối trại phát 3 thià canh mỗi bữa để ăn với “sắn

216

duôi”. Ăn vào thấy cũng rất ngon ngọt chẳng khác gì thịt gà cá
gỏi.

Có lẽ trong số anh em mưu sinh linh tinh bất hợp pháp này Tôi
là người “năng nổ” nhất, nên thường được anh Tổ trưởng (trước
30 tháng 4 năm 1975 làm Tỉnh trưởng Bình Dương) thương lo
lắng cho sức khoẻ của Tôi, chiếu cố xây dựng hoài trong các giờ
họp “kiểm thảo, phê và tự phê” trong ội ban đêm, luôn luôn có
sự rình nghe của “Thi ua” và Quản giáo ội từ phiá ngoài cửa
sổ phòng giam.

Anh ấy cũng thường xuyên bị anh em bắt gặp lén mưu sinh như
Tôi và nhiều bạn khác, nhưng chẳng ai góp ý kiến “xây dựng”
anh ấy bao giờ. Có lẽ anh ấy làm như vậy, vì phải thi hành trọn
vẹn trách nhiệm do Quản giáo giao phó cho các Tổ trưởng và

ội trưởng, là phải theo sát anh em trong ội để báo cáo thì mới
được coi là “cải tạo tiến bộ”. Tuy nhiên anh ấy cũng rất thông
minh và khôn lỏi, mỗi lần “xây dựng” cho Tôi về vụ mưu sinh
linh tinh, anh ấy luôn luôn “tự phê” trước để tự nhận rằng bản
thân cũng có vi phạm nhưng hứa sẽ “khắc phục” không tái
phạm. Anh ấy cũng phân bua, sở dĩ phải “xây dựng” cho anh em
vì thương và muốn anh em giữ được sức khoẻ tốt “cải tạo cho
mau tiến bộ” để về với Vợ Con.

Qua mùa Thu năm 1979, ội chúng tôi bị chuyển về K5 nằm
gần bên Trụ sở Ban Giám Thị chỉ huy toàn Trại Tân Lập, thì anh
ấy bị cảm sốt nặng được vào Bệnh xá điều trị, ít ngày sau bị biến
chứng ho sưng phổi rồi chết vì ngộp nước trong phổi tắc thở cứu
không được. Người ta phải đâm kim vào ngực rút nước ở buồng
phổi ra để cứu nhưng vô hiệu.

217

Vấn đề vệ sinh cá nhân ở K1, mỗi tuần lễ Tù chỉ được đưa ra
sông cách trại khoảng 2 cây số để tắm rửa giặt giũ quần áo có
một lần, vào sau giờ lao động chiều thứ bẩy. Ngày thường sau
buổi lao động chiều, Tù được đưa tới hồ nước bên ội Gạch
cách trại 2 cây số để tắm rửa. ây là hầm lấy đất làm gạch, lâu
ngày sâu dần xuống và rộng ra thành hồ chứa nước mưa tù đọng,
rong rêu cỏ rác đủ thứ xà bần dơ bẩn hôi tanh thế mà vẫn phải
nhào xuống tắm rửa cho sạch mồ hôi bụi bặm và bùn đất bám
đầy chân tay mặt mũi sau cả ngày lao động vất vả. Cả ngàn con
người chờ đợi nối đuôi nhau, mỗi đợt chỉ cho 2 ội cỡ 80 người
xuống trong vòng 5 phút là phải lên. Những người xuống sau
bao giờ cũng phải tắm rửa nước bùn đục ngầu vì phải đứng gần
ven bờ, ra xa một chút là hụt chân ngập đầu không đứng được.

Làm xong các ruộng sắn, ội chúng tôi đổi công tác đến kho
phụ trách việc đập vò đạp các bó luá cho thóc rơi ra, ban mỏng
trên sân gạch phơi cho khô, dồn vào bao cân và cất vô kho.
Trước khi dồn thóc vào bao, còn phải quạt bỏ thóc lép. Một
người xúc thóc vào thúng, nâng để lên một bên vai rồi từ từ
nghiêng thúng cho thóc chẩy xuống đất, người khác đứng kế bên
2 tay cầm chiếc mẹt quạt liên tục cho thóc lép bay ra khỏi dòng
thóc mẩy đang chẩy xuống. Công việc phải làm giữa sân gạch
nắng chang chang cả ngày, bụi bặm bám đầy người phải dùng
khăn bịt mồm mũi để bảo vệ buồng phổi. Những bó rơm đã rụng
hết thóc phải đem chất thành đống cao cả chục mét ở góc sân
gọi là cây rơm, sau này dùng làm gì không biết.

Lúa thóc do Tù reo, cấy, trồng, gặt, đập, phơi khô, xay xát ra
gạo để Cán bộ canh Tù ăn hàng ngày, còn Tù thì quanh năm ăn
toàn sắn, bắp. Trong mùa thâu hoạch ồ ạt sắn, bắp, thì một phần
cấp cho Tù ăn tươi hàng ngày, phần còn lại, bắp thì phơi khô

218

tách hạt ra khỏi cùi, sắn thì lột vỏ sắt lát mỏng hoặc chặt thành
những khúc ngắn sấy khô, xong xuôi đem cất kho phát ra ăn dần
về sau.

Sau khi hết lúa để đập để phơi, ội chúng tôi được chỉ định vào
quét dọn hót cám lẫn trấu trong nhà máy cà xát lúa ra gạo để
nhồi vào bao tải. Cả ngày chìm đắm trong bụi bậm mịt mù, vất
vả hơn đập phơi lúa ngoài sân rất nhiều, nhưng được cái may
hàng ngày mỗi người được “bồi dưỡng” một túi cám lẫn trấu
đem về sàng rây bỏ trấu đi, còn lại cám lẫn tấm nấu chín mà ăn.

Quản giáo ội cho phép anh đun nước giúp anh em nấu chín
trong giờ lao động. Ai muốn nhờ thì đổ tấm cám và nước vào
Gô riêng, giao cho anh nấu nước vào lúc đầu giờ lao động, đến
giờ nghỉ giải lao giữa buổi là có cháo bột tấm cám chín sền sệt
để ăn. Mùi vị hơi đăng đắng hôi hôi khó ăn, nhưng phải ráng mà
nuốt cho cơ thể có thêm chất bổ của bột gạo tấm và cám để
chống phù thũng và cái đói triền miên vô tận.

Một tai họa thảm thương đã xẩy ra, làm ai nấy đau đớn và lo sợ
vô cùng. Có anh ở một đội khác bị trướng bao tử, nghẽn ruột và
chết vì ăn cám, trong khi anh em chúng tôi cũng ăn mà chưa có
người nào làm sao cả. Sau này có tin từ Bệnh xá loan ra cho
biết, anh bạn tử nạn vì không rây bỏ trấu vụn lẫn trong cám tấm,
cứ để nguyên như vậy nấu ăn cho được nhiều, trấu không tiêu
làm nghẽn đường tiêu hoá bể ruột chết. Cũng kể từ đấy, Tù
không được mót cám về “bồi dưỡng” nữa.

Kho vừa hết “sắn duôi” cung cấp cho Nhà Bếp thì vừa đúng mùa
thâu hoạch sắn tươi, mọi người được ăn sắn tươi luộc dài dài
ngày 3 bữa. Sắn tươi dùng thay gạo theo tiêu chuẩn 4 kí lô sắn
còn cả vỏ bằng 1 kí lô gạo. Ăn sắn tươi có một số người bị say.

219

Nghe anh em nói, sắn trồng trên đồi tranh củ nào bị rễ tranh
xuyên qua, ai chẳng may ăn phải những củ này thì khoảng 2
tiếng đồng hồ sau khi ăn là bị say. Khi say sắn, cơ thể cảm thấy
nao nao buồn tiểu đại tiện, nôn khan, hoa mắt chóng mặt, người
bải hoải như bị trúng gió, say nặng có thể ngất xỉu vài phút sau
mới tỉnh lại.

Tôi chẳng may bị say sắn tới 2 lần.

Lần đầu vào khoảng 9 giờ đêm, lúc mọi người chuẩn bị đi ngủ,
Tôi mót đại tiện, mò vào góc nhà nơi để thùng cho Tù đi vệ sinh
ban đêm đứng xếp hàng chờ. Tự nhiên Tôi thấy ánh sáng ngọn
đèn dầu đổi mầu từ vàng trong sang vàng đục rồi đỏ và tối xầm
đi, ngã qụy xuống đất không biết gì nữa. Anh bạn đứng sau, thấy
Tôi đang đứng bỗng dưng xỉu và ngã gục xuống đất, phải xốc
nách bế đặt đại lên một chỗ nằm kế đó, hô hoán kêu mọi người
xúm lại cạo gió cấp cứu, vài phút sau thì tỉnh lại.

Lần thứ 2 nguy hiểm hơn, nó xẩy ra vào khoảng quá nửa đêm.
Chỗ ngủ của Tôi ở sàn gỗ trên cao cách mặt đất 2 mét, đang ngủ
tự nhiên thấy bụng quặn đau mót đại tiện,Tôi chui ra khỏi mùng
bò men theo bià sạp phiá chân của 3 bạn nằm bên để tới cái cột
có các cục gỗ nhỏ làm thang bấu chân vào tụt xuống đất. Sau khi
đạp được đầu bàn chân trái lên mẩu gỗ thứ nhất, bắt đầu xoay
người tụt xuống để đặt đầu bàn chân phải lên cục gỗ kế theo, thì
thấy choáng váng chân tay bủn rủn không kiểm soát được và rớt
xuống đất cái rầm, rung động cả nền nhà làm mọi người giật
mình thức giấc tưởng có động đất.

Tai nạn này đã làm cổ chân phải của Tôi sưng vù, đau đớn
không đứng được bằng 2 chân, và cũng không leo lên chỗ ngủ ở
tầng sạp trên cao của Tôi được. Anh ội trưởng đã phải nói đi

220

nói lại 2, 3 lần với các bạn nằm ở sạp dưới, vui lòng đổi chỗ cho
Tôi nằm tạm qua đêm.

Sau mấy phút im lặng, có một bạn tốt bụng đã đáp ứng lời yêu
cầu khiến Tôi vô cùng cảm kích, và nhớ ơn bạn ấy đến bây giờ
vẫn chưa quên. Sáng ngày hôm sau, bạn ấy còn quyết định cho
Tôi nằm tạm trên chiếc nệm cao su bơm hơi của bạn ấy thêm
mấy ngày, đến khi Tôi chống gậy đi và leo lên sàn cao được mới
thôi. Người tốt bụng này là ại tá Nguyễn văn Hãn (An ninh
Quân đội), Tôi chưa có dịp quen trước 30-4-1975. Anh Hãn
không những bị cận thị nặng hơn Tôi nhiều, mà lại còn bị loạn
thị nữa, thật vất vả làm gì cũng phải sờ sờ mò mò gần như người
khiếm thị vậy.

Mỗi buổi sáng, ngay sau khi cửa phòng giam được mở, Tôi phải
2 tay vịn chiếc đòn gánh dư của anh trực nhà cho mượn, co chân
phải lên cà nhắc nhẩy từng bước một với chân trái để xuống
Bệnh xá khám bệnh. Khám xong lại vội vã cà nhắc nhẩy về sân
tập họp, trình sổ khám bệnh cho anh ội trưởng biết là mình
được nghỉ lao động ngày hôm đó.

Những Tù bệnh được nghỉ không phải theo ội ra ngoài lao
động, sau khi các ội xuất trại hết phải tập trung vào một nhà
giam riêng ở cuối sân bên khu Hình Sự, cửa khóa trái bên ngoài
cho đến hết giờ lao động các ội trở về nghỉ mới được mở cửa

cho ra.

Khoảng 2 tuần lễ sau, tình trạng chân của Tôi hết sưng có thể đi
lại với chiếc gậy nạng, Cán bộ tế coi là lành không cho nghỉ
nữa phải theo ội đi lao động. Cũng may, lúc này ội không
còn làm Nông Nghiệp nữa mà phụ trách Cưa xẻ và Lò rèn, ở sát
ngay bên cạnh ội Mộc (đóng giường, tủ, bàn, ghế...) cách cổng

221

Trại giam chừng 500 mét. Chúng tôi xẻ những cây gỗ to tướng
ra ván cung cấp cho ội Mộc, và nung sắt làm cuốc, xẻng, dao...
theo “yêu cầu” của Trại. Tôi được cử vào toán Rèn do anh ại
úy gốc Cảnh sát làm Toán trưởng, anh Trịnh ình ăng phụ tá
quai buá tạ, và Tôi được giao cho việc nhóm Lò, kéo Bễ thổi lửa
cho than đá lúc nào cũng hồng đủ độ nóng để nung sắt.

Ít lâu sau, cổ chân của Tôi bình thường trở lại, Tổ Rèn không
còn nhiều việc để làm, Tôi được chuyển qua Tổ Cưa xẻ gỗ đứng
cặp với anh Phan Trọng Thiện. Vì anh Thiện đã làm lâu rành kỹ
thuật kéo cưa xẻ gỗ, nên đứng trên cao để giữ mực cưa đi được
thẳng tắp và bề dầy của tấm ván đều đặn, còn Tôi mới vào nghề
nên phải đứng phiá dưới, phụ nâng cưa lên và kéo cưa xuống
cho được nhịp nhàng đều đặn. Cái khổ của người đứng phiá
dưới xúc gỗ đang xẻ là, từ lúc bắt đầu kéo cho đến khi ngưng,
lúc nào cũng bị mạt cưa rớt ra bay phủ đầy người từ đầu xuống
đến chân, miệng và mũi phải dùng khăn quàng bịt kín để lọc cho
bụi không lọt vào phổi nên rất khó thở và mau mệt.

Từ ngày làm trong xưởng, không còn dịp mưu sinh linh tinh các
sinh vật ngó ngoáy ngoài đồng nữa, Tôi chờ giờ giải lao giữa
buổi lao động chạy ra các bãi cỏ sát hàng rào quanh sân để mót
rau má, rau tầu bay đem về ăn độn với “sắn nút chai”. ây là sắn
nguyên củ, sau khi lột bỏ vỏ chặt thành từng khúc ngắn cỡ 2 đốt
ngón tay đem phơi hoặc sấy khô rồi cất vào kho. Những mẩu
sắn khô đổi mầu từ trắng lúc còn tươi sang nâu xám khi đã khô,
trông như những mẩu xốp người ta thường dùng để làm nút
miệng chai, do đó anh em đặt cho cái tên “sắn nút chai”. Muốn
làm “sắn nút chai” chín để ăn, người ta rửa sạch rồi bỏ vào chảo
nước luộc như luộc bắp luộc khoai. Thấy ngoài mặt các cục “sắn

222

nút chai” luộc đổi mầu từ đục sang trong tưởng là đã chin,
nhưng lúc ăn mới thấy trong lõi cục nào cũng còn sống nguyên.

Mùa Hè năm 1978, có lẽ là mùa tử vong cao nhất tại K1 trại Tân
Lập-Vĩnh Phú. Có hôm, trong khi các ội ngồi phơi nắng cả
tiếng đồng hồ chờ gọi xuất trại lao động buổi chiều, có đến 3, 4
người ngất xỉu vì say nắng giữa sân tập họp, được anh em xốc
nách đem vào Bệnh xá cấp cứu. Chiều tối lao động về nghe tin 1
người đã chết. Một buổi khác, một anh ội trưởng Nông Nghiệp
cũng cải thiện linh tinh ăn thịt Cóc và trứng Cóc vào bữa trưa,
đến chiều ra tập họp đi lao động bị ngất xỉu, anh em cõng vào
Bệnh xá cấp cứu không được nên anh ấy đã vĩnh viễn ra đi trước
mọi người.

i lao động bị tai nạn chết tại K1 Tân Lập-Vĩnh Phú có trường
hợp Trung tá Hưng (trước 30-4-1975 làm Tham mưu trưởng
Trường Đại học Chiến tranh Chính trị ĐàLạt). Nghe anh em
bạn cùng đi với anh Hưng theo xe tải của Trại công tác ngoài
lãnh thổ trại giam trở về kể lại:

“-Xong công tác, lúc quay trở về trại trời đã tối mịt, Xe phải
chạy băng qua khúc sông cạn đá lổn nhổn, chẳng may bánh
xe bị kẹt đá ở giữa dòng sông nước chảy xiết không nhúc
nhích được. Anh em Tù phải xuống xúm chung quanh đẩy cho
xe tiến tới, anh Hưng chẳng may bị hụt chân chìm mất tích.
Mãi mấy ngày sau dân chúng mới báo cho trại biết là thấy
xác anh Hưng nổi lên tắp vào bờ sông ở phiá hạ lưu”.

Trại loan tin anh Hưng không biết bơi nên bị chết đuối.

Nữ Văn sĩ Bích Huyền là vợ Trung tá Hưng hiện đang định cư
tỵ nạn tại Nam California đã viết một tuyển tập “Lối cũ chẳng

223

sao quên”, trong đó có đoạn kể lại chuyện đi thăm nuôi anh
Hưng tại K1 Tân Lập- Vĩnh Phú, phải lặn lội gian nan khổ cực
như thế nào. Ít lâu sau có người nhắn tin về nhà cho biết là anh
Hưng đã chết, chị ấy lại phải đi cùng 3 người anh ở Hà Nội
(theo Cách mạng từ 1945) trở ra Tân Lập để kiểm chứng. Khi
đến Phân Trại nơi gặp anh Hưng lần trước, người ta nói anh
Hưng đã chuyển trại nhưng không cho biết tên trại mới. Mấy
anh em phải chạy ngược chạy xuôi qua hết các Phân trại, chẳng
nơi nào nhận đang “quản lý” anh Hưng. Sau cùng phải đến Ban
chỉ huy Trại Tân Lập tại K5, mới được xác nhận là anh Hưng đã
chết thật và đã xin được Trại cho phép bốc hài cốt anh Hưng
đem về cải táng.

Vào đêm thứ Sáu mồng 7 tháng 1 năm 1994, Bà Bích Huyền đã
được Tổng Hội Ái hữu Chiến tranh Chính trị Quân lực Việt
Nam Cộng hoà Hải ngoại tại Nam California bảo trợ tổ chức
“Ra Mắt” cuốn sách “Lối cũ chẳng sao quên” lần đầu tiên tại Vũ
trường Ritz ở Quận Orange. Lúc đó Trung tá Nguyễn Ngọc
Thông là Chủ tịch Tổng hội, Nhạc sĩ Nguyễn Hiền làm Phó Chủ
tịch Nội vụ (hai Vị này đã qua đời ít năm sau đó) và Tôi làm
Phó Chủ tịch Ngoại vụ của Ban chấp hành Tổng hội. Nhân dịp
tổ chức Dạ Vũ Ra Mắt sách này, Tôi đã cảm đề một bài Thơ
tặng Bà Bích Huyền như sau:

DÒNG KỶ NIỆM ĐẸP

Bích Huyền “Lối cũ chẳng sao quên”,
Lẻ bóng duổi dong một chiếc thuyền.
Xã hội nhiễu nhương lòng sắt đá,
Tình đời trao đảo dạ trung kiên.
Chồng đền nợ nước gương anh dũng,

224

Vợ giữ gia phong tiếng nữ hiền.
Trí sáng khéo ghi dòng kỷ niệm,
Bút tài giỏi họa khúc chuân chuyên.

Little Saigon, Quận Orange, Nam California, 7-1-1994
KHIẾT CHÂU NGUYỄN-HUY HÙNG.

Vào năm 2011, bà Bích Huyền đã cùng anh em cựu Sinh viên Sĩ
quan hội Ái hữu Trường ại học Chiến tranh Chính trị tổ chức
Lễ tưởng niệm tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ ỡ thị xã
Westminster quận Orange Nam California, và sau đó đưa di ảnh
cố Trung Tá Hưng vào thờ tại chùa iều Ngự do Văn phòng II
Viện Hoá ạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải
ngoại tại Hoa Kỳ quản trị ở số 14472 Chestnut St. Westminster,

CA 92683 USA.

Anh em Tù chết bệnh tại K1 trại Tân Lập thì nhiều, nhưng cấp
bậc ại tá chỉ có anh Phạm văn Sơn tác giả cuốn “Việt Nam
tranh đấu sử Cận đại”. Anh Sơn chết vì bệnh tiểu đường biến
chứng. Trước 30-4-1975 anh Sơn là một trong những người có
công lớn trong việc nghiên cứu, biên soạn cuốn “Quân Sử Việt
Nam Cộng hoà” gồm 4 Tập, và Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu
Quân Lực Viêt Nam Cộng Hoà đã ấn hành để phổ biến rộng rãi
trong toàn Quân ội. Hồi những năm đầu thập niên 1990 khi
Tôi và gia đình mới tới định cư tỵ nạn tại quận Orange Nam
California, thấy mấy tập Quân sử này được in lại và bầy bán tại
các nhà sách trong Khu Little Saigon Quận Cam Nam
California, Tôi đã mua lưu giữ để tham khảo khi cần.

Vào khoảng mùa Hè năm 1978, rất nhiều Tù bị giam tại các
vùng Sơn La, Lào Kay, được chuyển về K1 Trại Tân Lập, nhờ
thế Tôi có dịp được gặp Trung úy Nguyễn Trung Hoà bút hiệu

225

Huy Vân Chủ bút tờ Nhật báo Tiền Tuyến thời Tôi làm Chủ
nhiệm trước 30-4-1975. Ít ngày sau, Huy Vân cùng một số
người mới đến bị chuyển sang Phân trại khác cũng thuộc trại
Tân Lập. Qua khoảng cuối năm 1979, ội các ại tá chúng tôi
cũng bị chuyển sang K5 nơi có Ban Giám thị chỉ huy toàn trại
Tân Lập. Tại nơi trại mới này, Tôi có dịp gặp một số anh em
trước 30-4-1975 cũng từng phục vụ tại Tổng cục Chiến tranh
Chính trị cho biết, anh Huy Vân đã qua đời trong mùa Hè chết
chóc kinh khủng vừa qua vì bệnh không thuốc chữa.

NỖI LÒNG TÙ KHÔNG ÁN

Hùng Vương Quốc Tổ thấy không ?
Đồng bào cùng giống Tiên Rồng diệt nhau.
Vì không thần phục Nga Tầu,
Không theo Bác Đảng làm trâu kéo cầy.
Sa cơ bắt nhốt vào đây,
Hoà mình chịu nhục cùng bầy ác gian.
Đọa đầy cực khổ cơ hàn,
Sức mòn lực tận tiêu tan xác phàm.
Người vì Chính nghĩa chịu giam,
Bọn vô nhân đạo lên làm Chủ dân.
Giang sơn gấm vóc tiêu lần,
Nhân tài yêu nước chung thân ngục tù.
Đình, Chùa, Lăng, Miếu, Nhà Thờ,
Hoang tàn vì thuyết Tam Vô bạo tàn.
Nhân dân đói khổ lầm than,
Bởi bầy Cộng sản ác gian lọc lừa.
Nỡ nào Quốc Tổ làm ngơ,
Để cho lang sói dòng Hồ hại dân ?

226

K1-Tân Lập-V nh Phú, Mùa Đông 1978

Chương 21.
TƯ PHÁP KIẾU CỘNG SẢN,
TÙ PHẢI VIẾT BẢN LUẬN TỘI ĐỂ LÊN ÁN MÌNH

Sức khoẻ Tù suy xụp tới mức cùng cực. Mọi người đang sống
trong hoàn cảnh thất vọng, đợi chờ ngày đến lượt mình nhắm
mắt xuôi tay rũ sạch nợ trần. Bỗng dưng, có phái đoàn tế
Trung ương Cộng sản tới K1 Trại Tân Lập, khám sức khoẻ cho
Tù, tìm nguyên nhân vì sao sĩ số tử vong hàng tuần lại cao đến
thế?

Sau kỳ kiểm tra của oàn tế, Trại phát cho Tù mỗi người một
Phiếu Bưu Kiện gửi 5 Kí lô thực phẩm khô qua đường Bưu điện,
và được phép viết thơ để trại chuyển về cho gia đình xin tiếp tế.
Ai đang bị giam trong nhà kỷ luật hoặc bị phạt giảm mức ăn
hàng tháng, thì không được hưởng đặc ân này. May mắn cho
bọn 4 người chúng tôi (Trần văn Thăng, Phạm Tài iệt, Nguyễn
văn Phúc, và Tôi) đã hết hạn phạt giảm mức ăn, nên cũng được
nhận Phiếu Bưu Kiện, và viết thư gửi về cho gia đình xin tiếp tế,
như mọi người trong ội.

Cũng kể từ đấy, Trại giam không muối ngọn sắn (đọt cây khoai
mì) làm dưa chua, phát cho Tù ăn thay rau hàng ngày nữa.
Trước đó, Trại giam đã dựa vào một bài báo của một Kỹ sư
Nông nghiệp Giáo sư tại ại học Cần Thơ, phổ biến trên Nhật
báo “Nhân Dân” của ảng và Nhà Nước, phân tích xác định
rằng “bốn kí lô lá đọt sắn” có “chất lượng dinh dưỡng” tương
đương với “một kí lô thịt bò”.
Cây sắn do Tù trồng để lấy củ nộp cho Trại. ọt sắn cũng do Tù

227

đi cắt về giao cho nhà bếp. Nhưng trên bản kê công khai thu chi
tiền thực phẩm hàng ngày tại nhà bếp, đọt sắn muối dưa cũng
tính vào mục chi. Như vậy mỗi kí lô đọt sắn cho Tù ăn được tính
tiền 3 lần :

1/- tiền công lao động hàng ngày của Tù đi trồng sắn ;

2/- tiền công Tù đi cắt đọt sắn đem về nộp cho nhà bếp ;

3/- tiền công nhà bếp muối thành dưa chua cung cấp cho Tù
ăn hàng ngày.

Cũng kể từ ngày này, địa chỉ Trại giam được ghi rõ ràng, tên
Trại, quận hạt và Tỉnh nơi Trại tọa lạc, không dùng ám số như
hồi ở bên Trại Quân đội quản lý. Thư phải dán tem cước phí đầy
đủ mới được chuyển đi. Nhờ vậy, khoảng một tháng sau, trong

ội ại tá chúng tôi có bạn được thân nhân ở Hànội, làm cách
nào không biết, được phép đến Trại “thăm nuôi”, đem theo cả
chục kí lô thực phẩm khô tiếp tế cho mà “bồi dưỡng”. Anh bạn
Tù được “thăm nuôi” cho biết, người anh Vợ tốt bụng đến thăm
em rể này, trước năm 1954 cũng là một Hạ sĩ quan trong lực
lượng võ trang chống Cộng sản của phe Quốc gia. Anh ấy đã ở
lại Hànội, không di cư vào Nam theo quy định của Hiệp định
Genève tháng 7 năm 1954. Vì thế anh ấy đã bị đưa đi “tập trung
cải tạo”, suốt từ cuối tháng 7 năm 1954 cho đến sau ngày 30
tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất, mới được thả
ra cho làm người công dân Xã hội Chủ nghiã.

Báo “Nhân Dân” của ảng và Nhà Nước, loan tin Trung Cộng
xua quân đánh chiếm một số Tỉnh biên giới Bắc Việt. Một số Tù
miền Nam bị giam trong các Trại cải tạo ở các Tỉnh miền biên
giới như : Lào Kay, Lai Châu, Sơn La, Lạng Sơn… bị Trung
Cộng đánh chiếm, được di chuyển về K1-Tân Lập với chúng tôi.

228

Ít ngày sau, Trung ương ảng Cộng sản Hànội cho Phái đoàn về
tổ chức học tập. Cũng vẫn những điều đã nhồi sọ đi nhồi sọ lại
từ mấy năm qua, về “bản chất phản động” của ế quốc Mỹ, của
Ngụy Quân, Ngụy Quyền, và những “điểm son thành công to
lớn” của Cách mạng Vô sản và ảng Cộng sản Việt Nam, dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của “Liên xô Cộng sản vô địch” và “Bác
Hồ vĩ đại”. ặc biệt lần học tập này, đoàn Cán bộ dùng hình học
lý giải bài toán Tiểu học về Lực, Thời gian, và Khoảng cách, để
dẫn chứng cho Tù hiểu rõ hơn về ý nghiã câu nói cửa miệng, mà
các Cán bộ Trung ương cũng như ịa phương thường xuyên lập
đi lập lại với Tù là:

“Thời gian cải tạo mau hay lâu, tùy thuộc vào thiện chí và
tinh thần cố gắng, của chính bản thân mỗi người trong các
anh tự quyết định. Cách mạng chỉ tạo môi trường cho các
anh thực hiện thôi.”

Khi giới thiệu đoàn Cán bộ Trung ương, Thiếu tá Công an Nhân
dân Nguyễn Thùy Trại trưởng trại Tân Lập, đã khôn khéo lợi
dụng dịp may hiếm có, để khoa trương tài ăn nói và “lập trường
trung thành cao độ” của mình đối với Bác, ảng. Với hy vọng
các “đồng chí đàn anh” từ Hànội đến, sẽ “quan tâm chiếu cố đề
bạt” cho “thăng hàm” (lên cấp bậc) nhanh hơn. Có lẽ nhờ thế,
năm 1980 Thùy đã được thăng cấp Trung Tá, để đưa một số
chúng tôi vào Huyện Như Xuân, Tỉnh Thanh Hoá thành lập Trại
Thanh Phong gần Trại Thanh Cầm, trong vùng rừng núi âm u
hẻo lánh giữa lòng dẫy Trường Sơn. Nơi mà Cộng sản Việt Nam
dự tính đem tất cả gia đình chúng tôi, vào lập Vùng Kinh Tế
Mới định cư vĩnh viễn.

Thùy đã trích cả thơ trong chuyện Kiều của Cụ Nguyễn Du, lẫn
thơ bợ đỡ đề cao Bác, ảng, và các ông Tổ Cộng sản Liên xô

229

của bồi bút Tố Hữu, để mạt sát tinh thần người dân miền Nam là
vong bản, sợ Mỹ, phục Mỹ, bắt chước Mỹ, lệ thuộc Mỹ..., chê
sự phồn vinh của nền Kinh tế miền Nam Việt Nam là “phồn
vinh giả tạo”. Hắn ta đơn cử những thí dụ rất điển hình mộc mạc
như : “- ất nước ta thiếu gì tre, giang để đan rổ rá, bện giây
thừng, mà phải làm rổ rá, giây nhợ đủ cỡ bằng chất nhựa nilông
của nước ngoài. -Chúng ta thiếu gì đất đai để trồng bông hoa đủ
loại, để nặn nung ra bát điã, tách uống nước, bình cắm hoa,
chum vại chứa nước, mà phải làm các thứ này bằng nhựa nilông
mầu mè loè loẹt, nhập khẩu từ các nước ế quốc Tư bản...”

ấy là những lời phát biểu như vẹt, dựa theo các bài học nhồi sọ
của ảng và Nhà Nước đã phổ biến, cộng với tầm nhìn không
xa quá sống mũi của Thùy trong năm 1978.

Qua năm 1979, trong một dịp nói chuyện với Tù tại Hội trường
của Trại, có sự hiện diện các Cán bộ trực thuộc, Thùy khoe là
mới đi tham quan các Trại Cải tạo bên Liên xô và Nam Bộ Việt
Nam về. Có dịp được thấy tận mắt thực tế tại miền Nam Việt
Nam, Thùy lại có những lời phát biểu khác hẳn với những gì hắn
đã nói trong năm 1978.

Hắn khen “ ường xá trong Nam rộng rãi, tráng nhựa bằng
phẳng, ngồi trên xe di chuyển trên Xa lộ êm như ngồi trong
phòng khách, không gập ghềnh nhồi muốn gẫy xương sống
lưng, như đường của chúng ta ở ngoài này (tức là ngoài Bắc).”

Hắn khen

“Nhà vệ sinh trong Trại cải tạo ở Nam Bộ sạch sẽ văn minh.
Người ta đại tiện vào lỗ hầm có nước giật, cho trôi ra hầm
chứa phân kín. Không dùng những thùng gỗ để lộ thiên, như

230

của chúng ta ở đây, lúc nào mùi hôi thối cũng theo gió xông
nồng nặc cả ngày lẫn đêm, làm ô nhiễm không khí, làm ổ cho
ruồi bọ sinh sôi nẩy nở gây bệnh truyền nhiễm.”

Hắn khen

“Phụ nữ ở trong Nam, mặc quần áo may bằng những loại vải
ni lông mềm, có in hoa lá, mầu sắc hài hoà, trông thấy dịu
dàng vui con mắt. Còn Nữ giới của chúng ta ở ngoài này,
quanh năm đi đâu cũng bộ quần áo cánh nâu xồng thâm
đen...”

Mục đích chính của đợt học tập kỳ này, là để buộc Tù “tự giác”,
“thành khẩn” khai mọi chi tiết lý lịch 3 đời, dòng họ Nội, họ
Ngoại của mình và của Vợ. Liệt kê tất cả mọi hoạt động của mỗi
người theo sự hiểu biết của mình, phân tích và quy trách xem
những hành động nào có hại cho Nhân dân, và làm cản trở Cách
mạng trong việc xây dựng Xã hội Chủ nghiã. Phải ghi ra rõ
ràng, ai thương mình nhất, mình ưa ai, ghét ai nhất, tại sao? Kể
cả đối với riêng từng người con của mình.

Về phần “bản thân”, phải kể đầy đủ chi tiết mọi hoạt động, từ
khi mới lọt lòng Mẹ cho đến ngày 30-4-1975, và tự quy trách
những lỗi lầm của mình đối với Cách mạng và Nhân dân như thế
nào? đáng xử tội gì?

Ngoài ra, còn phải dựa theo những việc làm đã vạch ra trong các
bài học tập, được coi là “phản động đối với Cách mạng và Nhân
dân”, để tố cáo rõ tên, tuổi, hành động, và nơi ở hiện tại của
những người quen.

Mỗi người phải viết tối thiểu, đầy một cuốn vở học sinh 100
trang do Trại cung cấp. Trong dịp này, cũng có người “thành

231

khẩn” đến nỗi viết đầy cả cuốn vở, mà vẫn còn thấy thiếu giấy
cần phải xin thêm. Nhưng cũng có người viết chữ thật lớn, cố
nặn óc cả tuần lễ mà chẳng tìm được gì nhiều để khai cho đặc
hết một cuốn vở.

Sau thời gian viết “Bản tự khai, tự luận tội và tự lên án” chính
mình xong, là thời gian từng ội ngồi tập chung, để mỗi người
phải đích thân đọc nguyên văn “Bản Tự Khai” của mình, cho
anh em trong ội cùng nghe. Sau khi nghe, anh em phải thay
phiên nhau góp ý kiến, xem viết như vậy đã “thành khẩn” đầy
đủ chưa? Có điều gì cần phải làm sáng tỏ thêm không? Cái án
mà người khai tự quy định cho mình, có nhẹ quá đối với tội lỗi
đã tự nhận không?...

Các ội khác được tập trung thực hiện tại Láng ngủ của họ.
Riêng ội ại tá chúng tôi, Láng giam chật hẹp nên phải lên
Hội trường để làm công việc này, dưới sự giám sát của Quản
giáo ội. Các Cán bộ thuộc đoàn Trung ương và Cán bộ canh
gác Tù tại Trại, có thể thoải mái đứng ngoài cửa quan sát và lắng
nghe, bất cứ lúc nào họ muốn..

ến lúc này, những anh em nông nổi nhẹ dạ cả tin nhất, cũng đã
thấu hiểu rõ ràng cái ác tâm của Cộng sản, nên chẳng ai “thành
khẩn” khai thật cũng như góp ý kiến “xây dựng” nhau khắt khe
nữa.

Trong thời gian viết ai cũng đăm chiêu suy nghĩ, cố gắng sáng
tác ra một tác phẩm tưởng tượng hợp tình hợp lý nhất, cho phù
hợp với “thành kiến đại ngoan cố” và “độc đoán cố hữu” của
Nhà Nước Cộng sản về “Ngụy quân Ngụy quyền”, cho nó xong
chuyện.

232

ến lúc góp ý kiến “xây dựng”, bạn bè thân cũng ngầm thoả
thuận với nhau từ trước. Lần lượt “sốt sắng” thay phiên “xung
phong” phát biểu ý kiến. Nào là “thành khẩn”, đã nhận rõ được
lỗi lầm của mình đối với Cách Mạng và Nhân Dân... theo đúng
với “yêu cầu” của ảng và Nhà Nước đã đề ra. Rất xứng đáng
được hưởng Chính sách Khoan hồng Nhân đạo của ảng và Nhà
Nước, tha cho tội chết để cải tạo mau tiến bộ, trở về đoàn tụ với
gia đình…

Trong thời gian học tập này, đoàn Cán bộ Trung ương muốn tỏ
cho Tù thấy “lượng khoan hồng nhân đạo của ảng và Nhà
Nước trước sau như một”, đã chỉ thị Ban Chỉ huy Trại giải toả
thư của gia đình gửi tới cho Tù nhận đọc. Tôi cũng may mắn
nhận được một bức thư, do cô con gái thứ viết và gửi đi từ hồi
cuối năm 1977. Bức thư gởi tới điạ chỉ Liên trại 1 bên Quân đội
quản lý trước kia, được chuyển tiếp sang đây chẳng biết từ lúc
nào, bây giờ mới được nhận để đọc. Có lẽ những tháng trước
Tôi bị phạt giảm mức ăn, nên Quản giáo không phát cho.

Sự kiện này cho phép kết luận rằng, mấy bức thư có kèm Phiếu
Bưu kiện Tôi được viết gửi về nhà theo quy định, chưa bao giờ
đến tay gia đình Tôi cả. Chẳng biết là Trại giam vứt không gửi
đi, hay là Chính quyền ịa phương nơi gia đình Tôi cư ngụ
không phát thư cho, sau khi họ rạch phong bì lấy thư đọc để
kiểm tra.

Sau này khi được tha về “đoàn tụ” với gia đình, Vợ Con của Tôi
mới cho biết là thỉnh thoảng 3, 4, 5 tháng không chừng, nhà mới
nhận được một thư của Tôi gửi về, viết từ mấy tháng trước. Tất
cả mọi thư do Tôi gửi về, đều bị Công An Phường cắt ra đọc
kiểm tra trước, rồi mới đem đến phát cho gia đình.

233

Tại Trại giam cũng vậy, bao giờ thư gia đình gửi tới cũng đều bị
Quản giáo ội cắt phong bì, lấy đọc kiểm tra trước rồi mới phát
cho Tù. Nếu trong thư có điều gì không phù hợp với đường lối
của Nhà Nước, hoặc có điều gì Cán bộ thắc mắc không hiểu,
không những Tù không được nhận đọc, mà còn bị gọi lên làm
việc để Cán bộ hạch hỏi đủ điều, và buộc phải viết “tờ kiểm
điểm”.

Những trường hợp như vậy, Tù chưng hửng chẳng biết phải
“kiểm điểm” cái gì? Nhưng vẫn phải tự nặn óc dựa theo những
điều Cán bộ hạch hỏi, đoán xem mình và thân nhân ở nhà có làm
điều gì sai trái, để mà viết “bản kiểm điểm” với lời hứa sẽ “sửa
sai” và không bao giờ tái phạm nữa. Không viết thì bị kết tội
“ngoan cố”, bị kêu tới kêu lui hoài. ã có trường hợp Tù bị
giam vào Nhà Kỷ Luật, cho đến khi chịu viết “tờ kiểm điểm”
nộp xong, mới được xét xem có đáng được tha ra hay không.
Những vụ việc như vậy, biết được là nhờ hàng ngày, trước giờ
gọi các ội xuất trại lao động, những Tù bị bắt giam vào Nhà
Kỷ Luật, đều được Cán bộ Trực Trại đọc lệnh ghi rõ tội danh vì
sao bị tống giam.

Trước khi chấm dứt đợt học tập “Tự luận tội và lên án mình”,
Tù còn được yêu cầu bầy tỏ lòng yêu Nước, yêu Cách mạng Xã
hội Chủ nghiã, bằng cách viết “Tờ Thỉnh Nguyện” xin gia nhập
Lực lượng Võ trang để ra biên giới chiến đấu chống quân Trung
Hoa xâm lăng đất nước Việt Nam thân yêu, nếu ai muốn.

Một số bạn trong đó có Tôi, mặc dù biết là sẽ chẳng bao giờ
được chấp thuận, nhưng vẫn viết và nộp “tờ thỉnh nguyện” cầu
may. Không biết khi viết “tờ thỉnh nguyện” các bạn khác nghĩ
sao? Riêng phần Tôi tính rằng, một khi được ra mặt trận, dù chỉ
được xử dụng làm lao công tiếp tế chiến trường không cầm súng

234

chiến đấu, sẽ có nhiều cơ hội để trốn khỏi cái nhà tù lớn là toàn
cõi nước Việt Nam Cộng sản này, để có lại được Tự do cho bản
thân. Hơn là cứ ở trong tù, đợi cái chết lần mòn khổ nhục đến
với mình, theo Chính sách tiêu diệt giai cấp đối nghịch của Cộng
sản. Hơn nữa, nếu được quyền chọn lựa, giữa cuộc sống mãn đời
làm người “Tù tập trung không án”, và việc dấn thân nơi chiến
trường bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, nhận cái chết vì
hòn tên mũi đạn của Trung Cộng xâm lăng, thì hành động thứ
hai có ý nghiã hơn.

Theo bình luận trên báo “Nhân Dân” của Nhà Nước, và lời giải
thích của đoàn Cán bộ Trung ương thì, “việc Trung Cộng huênh
hoang là chúng xua quân chiếm một số Tỉnh biên giới Bắc Bộ,
nhằm mục đích cho chúng ta (tức là Cộng sản Việt Nam) một
bài học, về tội dám đưa quân sang Cămpôchia làm nghiã vụ
Quốc tế do Liên Xô chỉ đạo, để hạ đàn em tay sai của Trung
Cộng, đưa đàn em của Việt Cộng tay sai Liên Xô lên cằm
quyền, là tuyên truyền láo khoét bịp bợm. Cuộc xâm lăng của
Trung Cộng đã bị Quân đội Nhân dân anh hùng của chúng ta
chặn đứng. Chính chúng ta mới là người cho Trung Cộng một
bài học đích đáng, để chúng thấy rõ tinh thần chiến đấu can
trường gan dạ của Quân Dân Việt Nam như thế nào, sau khi đã
đánh thắng cả 2 ế quốc Pháp và Mỹ.”

Nhưng theo suy nghĩ của riêng Tôi, những lời rao truyền này
của Trung Cộng chỉ là cái cớ nổi bề ngoài. Cái mục đích thật sự
ngầm bên trong, của Trung Cộng là dùng “bạo lực rằn mặt”
buộc Cộng sản Việt Nam, phải ngoan ngoãn nghe lời, tham dự
tích cực vào cuộc họp tại Genève do Liên Hiệp Quốc triệu tập,
theo đề nghị của Hoa Kỳ, giải quyết vấn đề Tù nhân Chính trị

235

miền Nam Việt Nam, đã bị Cộng sản Bắc Việt đem ra Bắc giam
cầm đầy đọa vô thời hạn, không tuyên án suốt từ sau 30-4-1975.

Những thái độ thay đổi bớt khắt khe hơn của Cán bộ trong trại
giam đối với Tù, và đặc biệt nhất là việc Nhà Nước chính thức
chỉ thị cho các ịa phương, phải triệt để thi hành việc cho phép
thân nhân Tù gửi thực phẩm tiếp tế bằng đường Bưu điện cho
Tù tẩm bổ lấy lại sức khoẻ, là những sự kiện rõ ràng cụ thể xác
nhận tin đồn đang có hội họp tại Genève, để giải quyết vấn đề
thả Tù Chính trị miền Nam là có thực.

Các sự kiện trên đây, phối kiểm với những tin tức thâu lượm
được qua các mẩu tin, do thân nhân lén viết rải rác trên những
mẩu báo cũ dùng gói quà gửi đến cho Tù bằng đường Bưu điện,
hoặc do thân nhân đến trại thăm nuôi ghi trên những mẩu giấy
vo tròn vứt lén cho Tù nhặt lúc gặp dọc đường. Cho phép tin
tưởng rằng, tia ánh sáng đầu tiên ở cuối đường hầm, đã hiện ra
chọc thủng màn đêm thăm thẳm giữa ban ngày, đang bao trùm
anh em Tù miền Nam trên đất Bắc Xã hội Chủ nghiã. Nhờ vậy,
tinh thần anh em Tù lên trở lại, ý nghĩ muốn chết quách đi cho
rồi trong những ngày vừa qua, không còn lởn vởn trong suy nghĩ
của một số người nữa.

Các Bưu kiện do thân nhân từ miền Nam gửi ra cho Tù bồi bổ,
được Trại lên Tỉnh lãnh về phát hàng tuần, đã tạo ra một bầu
không khí háo hức mong đợi, y như lao công chờ đón kỳ phát
lương vậy. Ai có quà thì mừng hí hửng. Ai chưa có thì buồn đôi
phút, nhưng vẫn hy vọng là Vợ Con không quên mình, hoặc
không cùng cực đến nỗi không có khả năng tiếp tế cho mình
chút đỉnh, để đỡ tủi thân trước các bạn bè đồng Tù.

236

Một phong trào vui nhộn bắt đầu nẩy sinh, lôi cuốn nhiều người
quên cả nghỉ ngơi sau những giờ lao động vất vả hàng ngày.
Hầu như tất cả mọi người trong ội chúng tôi, bất cứ lúc nào
rảnh rỗi, cũng lo cặm cụi ghi chép cách biến chế các món ăn, do
anh bạn cựu ại úy Cảnh sát phụ trách Tổ Lò Rèn, kể lể chỉ dẫn
một cách rất thành thạo. Hình như trước tháng 4 năm 1975, Bà
Vợ anh ấy là chủ một nhà hàng bán các đồ nhậu thì phải. Ngoài
ra, anh em cũng còn nhờ anh ấy cố vấn, nên yêu cầu gia đình
“biến chế” thịt heo, thịt bò… như thế nào, để có thể dành được
lâu ăn dần không bị hư hỏng.

Một hiện tượng khác thường nữa, cũng lan tràn trong cả Trại.
Mỗi khi anh em ở các ội khác nhau, có dịp tiếp xúc bất cứ ở
đâu, cũng thì thầm trao đổi những tin tức mới nhất ghi nhận
được từ bên ngoài đưa vào, về cuộc thảo luận giải quyết Tù
Chính trị miền Nam, giữa Hoa Kỳ và Cộng sản Việt Nam tại
Genève tiến triển đến đâu? Như thế nào?...

ĐẤT TỔ HÙNG VƯƠNG.

Núi đá rừng chồi đất Tổ đây,
Bao năm Cách mạng vẫn như vầy.
Xóm làng xơ xác, dân nghèo đói,
Đồng ruộng khô cằn, thú lất lây.
Ven núi cheo leo Làng Thiểu số,
Dọc sông san sát Trại Tù đầy.
Quanh năm cặm cụi trồng ngô sắn,
Suốt tháng còng lưng ép miá gầy.

HẬU QUẢ
CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.

237

Nước Nam khởi phát tại đây,
Trải bao dâu biển ngày nay vẫn còn.
Nhờ dòng giống Việt tinh khôn,
Không tham danh lợi cúi luồn ngoại bang.
Không vì quyền tước cao sang,
Dẫn đưa Dân tộc nhập hàng vong nô.
Như bầy bán nước họ Hồ,
Vinh danh Qủy Đỏ Liên Xô nạ dòng.
Quên đi gốc gác Tổ Tông,
Chạy theo Thế giới Đại đồng Tam vô.
Xoá tan ranh giới cõi bờ,
Buộc toàn dân Việt tôn thờ Mác-Lê.

K1-Tân Lập-V nh Phú, mùa Đông 1978.

Chương 22.
MUỐN TRAO ĐỔI LẤY ĐÔ LA,
CHO GIA ĐÌNH NUÔI TÙ MẬP

Nhiều đợt phát Bưu kiện thực phẩm từ miền Nam gửi ra, đã
được Trại ra tỉnh lãnh về phát hàng tuần. Hầu hết các bạn trong

ội, ai cũng có phần. Mỗi tháng Trại chỉ cấp cho mỗi người một
Phiếu Bưu Kiện để gửi về gia đình, thế mà ội chúng tôi có vài
anh, kỳ nào phát Bưu kiện cũng được gọi tên lãnh. Có người còn
được nhận 3, 4 Bưu kiện một lúc.

Sau 2 tháng các Bưu kiện ào ạt tới Trại, trong ội chỉ có tôi và
khoảng 5 bạn khác nữa, chưa nhận được một Bưu kiện nào. Mấy
bạn quen thân, thấy tôi cũng mới nhận được thư của gia đình,
gửi đến trong đợt học tập vừa qua, mà sao không có Bưu phẩm,

238

thắc mắc, đến gần thủ thỉ hỏi xem gia đình có gặp trở ngại gì
không? Tôi buồn, lo lắng, lấy thư của con đem ra đọc đi đọc lại,
cố tìm cho ra manh mối, chẳng thấy tin gì khác lạ. Ngoài cái tin
con gái lớn, được đi làm ở Bệnh viện Nguyễn văn Cội vùng Củ
Chi, cách Saigon vài chục cây số, và tin người con trai kế, trước
30-4-1975 học Khoa Minh ức, được Phòng tế Phường cử
đi chăm sóc sức khoẻ cho đồng bào của Quận, đang công tác tại
khu Thủy lợi Lê Minh Xuân.

Mọi người đoán già đoán non, an ủi rằng : “đi làm xa Saigon”,
“đi công tác tại khu Thủy lợi”, không chừng đây là những lời
bóng gió báo tin là 2 người con của tôi, đã gặp được mối tổ chức
“đi vượt biên” rồi. Nếu đúng thì là điều đáng mừng, vì nhiều bạn
trong chúng tôi, cũng từng được gia đình gửi thư nói như vậy, để
báo tin con đã “vượt biên” ra khỏi Việt Nam. Chắc là vợ của tôi
ở nhà bận bịu lo cho con như vậy, nên chậm trễ trong việc đi gửi
Bưu kiện, không có gì đáng lo, trước sau gì rồi cũng có quà. Có
người đề nghị cho tôi mượn mì ăn liền “bồi dưỡng” đỡ, khi nhận
được quà trả lại sau. Tôi từ chối không nhận, vì chẳng biết hoàn
cảnh thật của vợ con ra sao, lỡ không có quà lấy gì để trả nợ.

Tôi kiên nhẫn chịu đựng, tiếp tục mưu sinh linh tinh cho qua cơn
đói khổ. Anh Tổ trưởng của tôi không còn quan tâm góp ý kiến
“xây dựng” cho tôi, trong những buổi kiểm thảo ban đêm của

ội nữa. Vì chính bản thân anh ấy cũng chưa nhận được Bưu
kiện nào như tôi, và đang mưu sinh linh tinh còn bạo hơn tôi.
Qua những mẩu chuyện tâm sự của anh ấy, tôi cảm đoán được
hình như trước 30 tháng 4 năm 1975, anh ấy có chuyện gì lủng
củng trong gia đình, giữa 2 bà vợ lớn vợ nhỏ sao đó, nên bây giờ
chẳng ai lo cho. Thật tội nghiệp!

239

Ngày rồi lại ngày cứ lặng lẽ trôi qua. Bỗng một hôm, một cơn
mưa thật lớn đổ xuống suốt cả buổi nghỉ trưa. ến giờ tập họp đi
lao động chiều mưa mới dứt. Nước úng không rút kịp, tràn ngập
đầy sân tập họp, lõng bõng cao tới mắt cá chân. Không ngồi
chồm hổm trên mặt đất được, mọi người phải đứng chờ đợi lệnh
xuất trại. Ánh sáng mặt trời le lói hun đốt, làm cho mảng sân tập
họp bốc hơi, nồng nồng mùi mốc mốc tanh tanh. Tự nhiên nghe
thấy anh em Tù, đồng loạt phát ra một âm thanh vui vẻ ồ.ồ.ồ!!!,
làm tôi giật mình chú ý nhìn về phiá Cổng trại. Cán bộ phụ trách
phát Bưu kiện xuất hiện, đọc tên những người được nghỉ lao
động ở nhà lãnh quà gia đình gửi tới.

Có tên tôi, mấy bạn quen thân reo mừng nhắc gọi, sợ tôi không
nghe được. Tôi rời hàng ra đứng ở cuối sân chờ các ội xuất
Trại xong, cùng một số Tù khác đến Hội trường, đợi lệnh gọi lần
lượt vào ký lãnh Bưu kiện. Sau khi ký tên vào sổ, phải đem Bưu
kiện của mình mới nhận tới một bàn dài, trải tấm ni-lông che
mưa của mình trên mặt bàn, mở gói quà ra, bầy tất cả mọi thứ
lên trên, rồi đứng đợi Cán bộ tới xét từng món một.

Cán bộ không đích thân tới xét, mà là anh “Thi ua” (tù Hình
Sự) làm thay. Những bịch nào chưa kịp mở banh ra sẵn sàng cho
anh ấy coi, anh ấy lấy con dao nhọn dọc rách bao ni-lông, rồi
bới tung ra tìm tìm kiếm kiếm vật gì chẳng biết. Gặp bịch mì ăn
liền vụn còn đỡ, chẳng may gặp bịch sữa bột hay bịch đường
cát, coi như tiêu mất hết phần tư. Bột sữa và đường, còn dính
tùm lum sang các bịch khác bê bết, sẽ là mồi cho kiến đánh hơi
bu đến làm tổ trong bao đựng quần áo, nơi cất thực phẩm tại đầu
xạp ngủ chỗ mình nằm.

Hộp sữa đặc, có nhãn hiệu ghi bằng chữ Việt Nam rõ ràng, anh
“Thi ua” cũng lấy dao đâm thủng một đầu hộp, thọc đũa vào

240

ngoáy ngoáy tìm kiếm xem có vật gì lạ khác dấu ở trong không.
Keo mắm ruốc xào khô với thịt bằm và xả ớt, anh “Thi ua”
cũng đổ ra bới bới để kiểm tra.

Nước mỡ chẩy tùm lum, mùi mắm kho thơm nồng nặc, làm con
tỳ con vị trong bao tử nôn nao phát ứa nước miếng nuốt không
kịp...

Sau khi kiểm tra kỹ càng tất cả mọi món xong, anh “Thi đua”
đến báo cáo Cán bộ là không có gì. Cán bộ gật đầu cho phép thu
vén lại “khẩn trương” đem đi, nhường chỗ cho người khác trình
quà của họ. Nếu có thư gia đình để trong gói quà, phải nộp để
Cán bộ giữ lại kiểm duyệt.

Vài ngày sau Quản giáo ội mới phát cho, nếu được phép nhận
để đọc.
Thời gian đợi đến lượt vào ký nhận quà thì lâu, chớ thời gian
kiểm tra chẳng bao lâu. Bưu kiện chỉ có 5 kí lô, 2 hộp sữa đặc là
1 kí, nửa kí đường thẻ, nửa kí đường cát vàng, 1 kí mì vụn loại
ăn liền để trong 2 bọc, 1 kí bánh mì xấy khô cũng để trong 2
bọc, nửa kí bột đậu xanh hay đậu nành, còn nửa kí đồ linh tinh
như thuốc đánh răng, xà bông tắm giặt, khăn mặt, tem thư, giấy
viết thư, bút nguyên tử, âu dược chữa bệnh, thuốc bổ tăng cường
các loại sinh tố...là hết. Chỉ những người được lãnh 2, 3 Bưu
kiện một lúc, lỉnh kỉnh lắm thứ mới mất nhiều thời giờ. Ngoài
mấy thứ chính như mì ăn liền, bánh tổ, cốm dẹp, cơm sấy khô,
biscot, còn nào là thịt chà bông, lạp xưởng, các hộp thịt bò, thịt
heo, thịt gà, cá mòi ngâm dầu hoặc sốt cà chua, kẹo, bánh ngọt,
bơ, margarine, phó mát, trà ướp hoa lài hay hoa sen, cà phê,
thuốc lá thơm...

241

Thường anh em chỉ xin gia đình cung cấp cho những thứ có chất
bột, chất đạm, chất béo và chất ngọt, đang là nhu cầu chính yếu
cần thiết nhất cho cơ thể. Còn thuốc lá thơm, trà, cà phê thuộc
loại xa xỉ phẩm, đang ở trong tù có hay không cũng được.
Nhưng đối với những bạn ghiền nặng, gia đình dư giả tiền, thì
các món đó cũng là nhu cầu cần yếu không thể thiếu được.
Ngoài ra các món đó còn là những thứ cần có, để mua cảm tình
của Quản giáo ội, để được đối xử dễ dãi hơn các bạn bè, trong
việc gửi nhận thơ đều đặn hàng tháng...

Mãi về sau, một vài bạn tốt bụng mới rỉ tai riêng cho nhau biết
là, ở Saigon người ta in Phiếu Bưu Kiện đúng hệt như mẫu
phiếu do các Trại phát cho Tù gửi về nhà, bán công khai ngay
trước sân nhà Bưu điện Saigon, gần bên Nhà Thờ ức Bà.
Người ta cũng bầy bán đầy đủ những gói, những keo, những hộp
thức ăn khô đủ loại, được Bưu điện chấp nhận cho gửi, để thân
nhân Tù mua tại chỗ cho tiện đỡ mất công làm lấy.

Nếu ai mua toàn bộ đủ 5 kí lô những thứ họ bán để gửi đi, họ
còn gói cột chắc chắn đàng hoàng, mình chỉ việc ghi Tên địa chỉ
người gửi và người nhận xong, là họ đem vào gửi giùm đỡ phải
đứng xếp hàng chờ đợi cả ngày. Dĩ nhiên khách hàng phải tỏ ra
sởi lởi, chi tiền đầy đủ theo đòi hỏi của họ. Hẳn là họ phải có
đường dây riêng làm tay trong, do Cán bộ Bưu điện Nhà Nước
cầm đầu, mới dám công khai hành động như vậy.

Không phải bà vợ nào cũng dư giả tiền, và dám thử liều gửi lậu
như vậy.

Vì sợ chẳng may bị lừa, hoặc bị Công an gài bẫy bắt thì nguy.
Ngoài ra còn e ngại sợ gửi nhiều hơn quy định, không biết Trại
có cho nhận không? Lỡ quà ra đến nơi, Trại không cho nhận,

242

còn hạch hỏi làm sao ở nhà có nhiều phiếu gửi quà như vậy? Rồi
phạt không cho Tù nhận quà nữa, mới là khốn nạn khó gỡ.

Sau này khi được tha về, vợ của tôi cho biết là ở nhà cũng biết
chuyện ấy, nhưng vì hoàn cảnh kiếm sống hàng ngày nuôi các
Con rất chật vật. Nên mỗi tháng chỉ lo chắt bóp gửi cho tôi được
1 gói quà 5 kí lô, đã là một cố gắng hết sức rồi.

Khoảng sau Noel năm 1978, nhóm ại tá chúng tôi được lệnh
rời K1 di chuyển về K5, nơi có Ban Chỉ huy Trại Tân Lập. ồ
đạc được chất lên xe chuyên chở, còn người đi bộ theo sau. Cán
bộ cảnh vệ đeo súng đi dẫn đầu và tập hậu để áp tải, đề phòng
Tù lủi trốn vào rừng. Trên dọc đường, tại những khúc quanh
không nhìn thấy được từ xa, còn có thêm cảnh vệ ôm súng đứng
phục sẵn trong sâu để canh chừng.

Con đường đá rộng 4 mét, dẫn vòng vèo theo sườn núi, thoai
thoải xuống dốc từ từ. Dưới khe, nước suối chảy rì rầm đều đều
như tiếng cối xay lúa. Cây rừng cao dầy đặc 2 bên đường.
Những cây thấp nhỏ, phải nghiêng mình vươn nhô ra mặt đường
trống, để đón nhận ánh sáng mặt trời.

oàn Tù gầy ốm chỉ còn da bọc xương, mặt hốc hác, lầm lũi,
mũi thở ra khói, co ro run rẩy nối đuôi nhau 2 hàng dọc, lê bước
di chuyển bên lề phải đường. Thỉnh thoảng đôi con chim đang
còn ngủ trong tàn lá, nghe tiếng động của đoàn người đi ngang,
giật mình bay vụt lên cao, rồi biến mất trong rừng già.

Chín giờ sáng mà không khí vẫn còn lạnh cóng. Sương mù còn
phủ đặc rừng cây. Hương thơm của hoa rừng thoang thoảng, hoà
lẫn với mùi mông mốc của lá mục, làm tôi tưởng nhớ lại thuở ấu
thơ theo oàn Hướng ạo Sinh đi cắm trại, tìm hiểu thiên nhiên

243

vạn vật vào mùa ông ở Lạng Sơn. Một tỉnh địa đầu miền
thượng du Bắc Việt, ráp ranh với Trung Hoa, nơi có di tích lịch
sử Ải Nam Quan, Chợ ồng ăng, Phố Kỳ Lừa, núi Nàng Tô
Thị với Chùa Tam Thanh.

Mê mải nhìn cảnh vật, chìm trong màn sương đang lộ dần dưới
ánh mặt Trời ban mai, suy nghĩ miên man quên cả hiện tại. Tôi
vấp chân nhằm một hòn đá lớn, lồi trên mặt đường ngã chúi về
phiá trước, lăn quèo mấy vòng trên đất làm mọi người ngạc
nhiên. Tỉnh mộng, tôi lồm ngồm đứng lên vừa đi vừa phủi quần
áo dính đầy đất và lá khô vụn, nhoẻn miệng gượng cười thẹn đỏ
gay cả mặt mũi, 2 tai nóng bừng bừng.

Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau khi rời K1, chúng tôi ra khỏi
các khúc quanh của núi rừng. Một thung lũng chừng 3 cây số bề
dài, 1 cây số bề rộng hiện ra trước mặt, có con sông lòng đầy sỏi
đá lớn nhỏ uốn khúc rì rầm chảy ngang. Xa xa bên kia sông có
một phân trại (tôi không biết đó là K mấy). Phiá bên này cách
đường lớn khoảng 1 cây số, sát ngay bên bờ sông là K5. Ban chỉ
huy Trại Tân Lập trụ tại đây, với tấm bảng hiệu Công An Nhân
Dân to tướng. Chúng tôi đã có dịp nhìn thấy cả năm về trước,
khi đoàn xe Quân đội đưa chúng tôi chạy ngang không dừng lại.

Cách ngã ba đầu đường dẫn vào K5 chừng 300 mét, về phiá tay
phải có một khu nhà lá gồm 3 căn nho nhỏ cất riêng rẽ, vây
quanh miếng sân vuông chục mét mỗi cạnh. Sau này mới biết là
Nhà Thăm Nuôi, nơi Tù và thân nhân được phép đến thăm gặp

nhau.

Phiá trước khu Nhà Thăm Nuôi, ngay sát bên đường vào K5 là
một nhà canh, có Cán bộ ngồi kiểm soát việc ra vào Trại. Cán bộ
áp tải chúng tôi đến tiếp xúc, rồi dở cần tre cản ngang đường lên

244

cho chúng tôi đi qua. Hai bên con đường đất rộng 4 mét, dài
khoảng một cây số dẫn vào K5 là ruộng để trồng luá.

Trụ sở của Ban Chỉ huy Trại Tân Lập và K5, ở phiá sau chiếc
cổng có bảng hiệu Công An Nhân Dân, gồm nhiều nhà mái ngói
mái tôn lẫn lộn, với những đường đi nhỏ cắt dọc ngang như một
xóm dân cư ngụ. Khu gia binh cho Công an có gia đình ở tít
phiá sau gần bờ sông. Chúng tôi được dẫn đi đến khoảng còn
chừng vài trăm mét, trước khi tới chiếc cổng treo bảng hiệu
Công An Nhân Dân, thì rẽ sang phải theo con đường dẫn vào
trại giam K5.

Bên trong Trại giam K5, thiết trí kiến trúc cũng tương tự như
trại giam K1, nhưng rộng lớn và nhiều nhà giam hơn. Chung
quanh cũng có tường rào bằng gạch cao 4 mét, thêm hàng kẽm
gai trên đỉnh. Sườn hướng ông của Trại nằm dọc theo sông,
cách bờ chừng 100 mét.
Vào qua cổng sắt lớn là một sân tập họp vuông rộng. Cuối sân
có một vườn hoa và Hội trường chứa được cả ngàn người, với
một cây cổ thụ xum xuê cành lá xanh tươi quanh năm. Chung
quanh gốc cây cổ thụ là nơi Tù được phép tới đó vào ngày Chủ
nhật nghỉ lao động, để nấu nướng, hâm xào lại các thực phẩm
khô do gia đình gửi tới cho ăn dần khỏi bị hư thối.

Ngay sau cổng vào, ở phiá bên trái sân tập họp là một dẫy nhà
tường gạch mái tôn, khu biệt giam Tù Hình Sự. Dẫy nhà này có
tường rào bằng gạch cao 3 thước bao quanh, và phân cách từng
ngăn riêng không thông thương được với nhau. Mỗi ngăn chứa
được khoảng 30 người. Nhóm ại tá chúng tôi bị giam vào ngăn
áp chót trong dẫy nhà này. Các Linh mục và ại đức Tuyên úy
Quân đội bị giam ở ngăn kế bên chúng tôi.

245

Các ngăn không thông thương được với nhau ở dưới đất, nhưng
bức tường trong nhà để phân cách các ngăn, nơi sát mái nhà có
chừa một lỗ tò vò người chui lọt, không biết để làm gì. Từ nền
nhà lên đến mái để trống hốc, không làm trần cản hơi nóng.
Ngay lỗ tò vò và dọc dài trên dàn kèo nhà sát mái tôn, có căng
giây kẽm gai. Sau này, bọn Tù Hình Sự thường lẻn chui qua ban
đêm, lúc anh em ngủ say, lấy trộm quần áo và thực phẩm của
chúng tôi để ở trên giàn sát mái nhà.

Chỉ những người nằm ở sàn ngủ tầng trên cao mới bị mất trộm.
Tôi bị móc mất chiếc áo len cao cổ dài tay mầu hoa cà còn mới
tinh, do vợ tôi đan theo kiểu riêng, ngoài chợ không có bán, nhất
là ở ngoài Bắc thì không thể nào có được. Nhiều bạn khác cũng
mất quần áo và còn mất cả thực phẩm khô. Có thể là bọn Hình
Sự đã chui qua ăn trộm nhiều lần, nhưng anh em không biết, vì
không ai ngờ chúng dám cả gan làm như vậy.

Nhờ một hôm vào khoảng quá nửa đêm, có anh bạn đang ngủ
thấy có chất nước nhờn xền xệt, rớt qua đình mùng ni-lông
xuống mặt làm giật mình ngồi nhỏm dậy. Mở mắt nhìn thấy
thoáng có bóng người, chạy chuyền trên các đà gỗ sát mái nhà
về phiá cuối phòng, nơi để chiếc thùng cho Tù giải quyết vấn đề
vệ sinh ban đêm. ây là điểm ráp ranh giữa phòng giam chúng
tôi và phòng giam bọn Tù Hình Sự. Quan sát kỹ thêm, anh ấy
thấy một vật gì nặng làm võng đình mùng nên chui ra lấy xuống,
mới biết đó là hộp sữa đặc bị đục thủng lỗ và sữa ở trong đã cạn
gần hết. Túi đựng quần áo và thực phẩm khô của anh ấy để trên
giàn bị mở tung.

Sáng hôm sau, sự việc được báo cáo anh ội trưởng báo động
cho anh em đề phòng, và rình để bắt quả tang nếu chúng tái
diễn.

246

Một tuần sau, có bạn nằm tầng trên sát bên tường, đi tiểu đêm
vào lúc gần sáng xong vừa trèo trở lên chỗ nằm, nghe tiếng động
trên giàn kèo nhà, ngẩng lên thấy bóng người đang chui qua lỗ
tường, anh ta vùng ra khỏi mùng chụp lấy chân kẻ trộm. Hắn
dẫy mạnh chân vuột ra khỏi tay anh bạn, và chui tuốt qua bên
kia tường luôn, nhưng chân của hắn bị kẽm gai gây thương tích
rất nặng, máu chảy ra dính đầy trên tường và trên kèo gỗ.

ến sáng, ngay khi Cán bộ Trực Trại đến mở cửa phòng giam
cho chúng tôi ra, anh ội trưởng vội vã báo cáo ngay sự việc đã
xẩy ra lúc ban đêm. Cán bộ ghi nhận và khi sang mở khoá phòng
giam Hình Sự bên cạnh, đã khám xét từng người trước khi bước
ra khỏi cửa. Ông ấy đã bắt được người có vết thương nơi chân
còn mới nguyên. Ông ấy giữ tất cả bọn Hình Sự trong phòng
giam, rồi lần lượt bắt từng đứa một đem tư trang ra sân khám
xét, và cho chúng tôi những ai biết là mình bị trộm, tới nhận
diện những vật đã bị đánh cắp để lấy lại.

Qua khỏi khu biệt giam chúng tôi, là một khoảng đất trống đang
trồng rau, rồi đến mấy dẫy nhà vách gỗ mái tôn, giam anh em Tù
miền Nam. Phòng giam dành riêng cho Ban Thi ua nằm ở
ngay nhà đầu của khu này, có thể trông được toàn cảnh vật
chung quanh khu sân tập họp ra tuốt đến cổng trại giam.

phiá cuối khu là nhà vệ sinh công cộng, cho Tù xử dụng trong
ban ngày, được xây cất bằng gạch mái lợp tôn, có cửa lửng che
trước mỗi ngăn ngồi đại tiện, có hàng hiên dài phiá trước để
không bị hắt ướt vào mùa mưa, trong khi ngồi làm nghiã vụ nộp
phân bón hàng ngày cho Trại.

Bên phiá đối diện, tức là phiá bên phải sân tập họp đứng từ cổng
nhìn vào, là khu Bệnh xá và Nhà bếp. Kế theo là một khu bao

247

quanh bởi bức tường gạch cao, với một lối ra vào duy nhất, gồm
nhiều nhà gỗ mái tôn cũng dùng để giam Tù miền Nam. Vào
tháng 1 năm 1980, nhóm ại tá chúng tôi được chuyển từ khu
biệt giam Hình Sự sang khu này ở một ngày một đêm. Trước khi
chúng tôi bị áp giải lên đường đi Trại Thanh Phong, trong vùng
rừng núi Trường Sơn thuộc huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá,
miền Trung Việt Nam.

Thoạt mới tới K5, nhóm ại tá chúng tôi được chỉ định là ội
Nông Nghiệp, có một số thứ tự riêng để gọi nhưng Tôi không
nhớ.
Mùa ông năm 1978, Bắc Việt có một đợt lạnh chết người.
Theo lời các Cán bộ già, hiện tượng này chưa từng xẩy ra trong
vòng mấy chục năm qua, trên đất Bắc Xã hội Chủ nghiã.

ể làm mùa vụ ông Xuân, Trại có khu ruộng mạ giống, ngay
bên đường phiá trước Nhà Thăm Nuôi, cần phải nhổ gấp cho
khỏi bị chết cóng. ội chúng tôi được huy động làm “khẩn
trương”. Buổi sáng khi ội ra tới “hiện trường lao động”, thấy ở
phiá bên kia đường, một con trâu trẻ mập nằm gục chết cóng
ngay giữa ruộng. Thế mà anh em chúng tôi vẫn phải bỏ giầy,
vắn quần đến đầu gối, vén tay áo tới cùi chỏ, lội xuống ruộng
nhổ mạ, bó lại đem về ủ trong nhà kho cho mạ khỏi chết. Dưới
nước, điả cũng cóng thun vòi bám vào gốc mạ, không tung tăng
bơi đi tìm chân người hút máu như những lúc trời ấm áp.

Giao việc cho ội xong, cả Quản giáo ội lẫn Cảnh vệ đều co
ro cúm rúm mò đến ngồi bên bếp lửa, hơ tay xoa mặt, hút thuốc
lào, và chờ anh phụ trách nấu nước của ội pha trà Tầu, nấu mì
cung phụng cho ăn để hâm nóng cơ thể.

248

Chúng tôi tự động thay phiên nhau, xuống ruộng làm trong 5
phút rồi lại lên, đến bên lò nấu nước để hơ chân tay cho khỏi
cóng. Và cứ tiếp tục như vậy trong suốt buổi lao động, không
cần xin ý kiến của Cán bộ. Ông ta nhìn thấy, cũng lẳng lặng
đồng tình không nói năng gì.

Thật là một đầy đọa vô cùng dã man, may mà không ai trong
chúng tôi chết cóng tại chỗ. Nhưng ngày hôm sau, hầu như cả

ội bị cảm hàn, ho, sổ mũi, khản đặc nói không ra tiếng. Nhiều
người bị sốt cao, đau cổ họng phải xin đi khám bệnh. Ngặt nỗi,
mỗi ngày Trại chỉ cho phép mỗi ội ghi tên 2 người đi khám
bệnh, nên anh em phải tùy trường hợp nặng nhẹ mà nhường
nhau.

Cũng rất may tại Trại này, âu dược do gia đình gửi trong các
Bưu kiện không bị tịch thu, nên ai nấy dùng thuốc riêng điều trị
cả chục ngày mới qua khỏi. Riêng anh Tổ trưởng của tôi ( ại tá
Nguyễn văn Của, trước 30-4-1975 làm Tỉnh trưởng Bình
Dương) bệnh không thuyên giảm. Mỗi ngày anh em phải
nhường cho ghi tên đi khám bệnh, và được nghỉ lao động ở
trong Trại cả tuần lễ vẫn không hết. Sau cùng anh ấy được vào
nằm điều trị tại Bệnh xá, một thời gian tương đối lâu.

Một hôm, vào sáng Chủ nhật cả Trại nghỉ lao động, anh ấy ghé
về Láng ở của ội thăm anh em, hớn hở khoe rằng ở Bệnh xá
được ăn cơm trắng thay vì ăn sắn. Thấy sắc diện anh ấy cũng
khá hơn trước, bạn bè ai cũng mừng chúc anh ấy mau lành để
sớm trở về với ội. Mục đích chính anh ấy về thăm anh em là
để xin âu dược Streptomicine trị bệnh, vì bệnh xá không có.
Nhưng thật đáng tiếc là anh em cũng không có. Anh ấy buồn bã
ỉu xìu trở lại Bệnh xá trong lo lắng. Hai ngày sau, một tin đau

249

lòng đã đến với anh em chúng tôi, anh Của chết vì sưng phổi
làm ngộp thở, cứu không được.

Sau vụ làm mùa ông Xuân, ội chúng tôi được điều động đi
phát cỏ khu đất cao dọc bên bờ sông, để trồng khoai rong giềng
(trong Nam gọi là củ bột mì tinh). Các công tác tiếp theo là dọn
cỏ ruộng miá, rồi đi đốn miá, chất lên xe nộp cho Lò ép lấy nước
nấu “mật đường”, để cất rượu trắng cho Trại bán.

Trong số 5, 6 người chưa có quà của thân nhân, hoặc mới chỉ
nhận được một gói như tôi, vẫn phải lén cải thiện linh tinh.
Chẳng may vào một buổi sáng trời mây ảm đạm âm u, anh ại
tá Trần Kim Hoa (trước 30-4-1975 làm tại Văn Phòng của Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm) bị Cán bộ cảnh vệ bắt gặp, đang ngồi
trong giữa ruộng ăn lén một khúc miá. Cảnh vệ nạt nộ, dẫn anh
ấy ra giữa đường đi trong ruộng miá, nơi anh em đang ngồi nghỉ
giải lao, bắt phải ngồi ăn và nuốt hết cả bã lẫn nước khúc miá,
đã lấy trộm của Xã hội Chủ nghiã và Nhân dân trong khi lao
động.

Thật tàn bạo hết chỗ nói.

Anh Hoa ngồi ì ra đó, nhất định không làm theo lời buộc vô lý
của Cảnh vệ, tuổi còn non choẹt cỡ con của chúng tôi. Anh Cảnh
vệ tức tối hăm he dùng đủ mọi thứ tiếng tục tằn, để sỉ nhục
chung cả chúng tôi chớ không riêng một mình anh Hoa. Nào là :

“-Đồ bán nước, cặn bã của Xã hội. -Cha mẹ chúng bay
không biết dậy dỗ, để chúng bay đi làm Ngụy tay sai cho Đế
quốc. -Chúng bay ăn gì mà ngu thế... Trong khi đó Quản giáo
Đội chúng tôi chẳng nói gì, bỏ đi chỗ khác, hình như không

250


Click to View FlipBook Version