Trường Xưa Vẫn Còn Đây
Sáu mươi năm ra đời, trưởng thành, trường Nữ Trung
Học Nha Trang -cũng như bao nhiêu trường hợp khác- đã
chứng kiến bao trò dâu bể, đã vẫn đứng vững nhờ lớp lớp
cựu môn sinh dắt díu nhau, cùng tiến lên, “dấn bước thăng
trầm” đi vào tương lai. Tương lai ấy là đây, ở chốn quê nhà
cũng như nơi hải ngoại, là những dịp gặp gỡ, thăm hỏi, là
những kỳ hội ngộ lớn nhỏ, tại điạ phương này, hay thành phố
khác. Tất cả không ngoài ý hướng thắt chặt thêm mối thâm
tình giữa Thầy với Trò, giữa đồng nghiệp, đồng môn với
nhau. Nếu không thể hội ngộ bằng xương bằng thịt, thì cũng
còn các phương tiện kỹ thuật hiện có... để có thể tìm lại được
những kỷ niệm cũ, qua bóng dáng trường xưa.
Đặc San kỷ niệm 60 năm thành lập trường đã là đại diện
cho tất cả các khuôn mặt thầy cô, bạn bè, về nhiều phương
diện. Và là cả một hội ngộ lớn, về tinh thần, với những bài
viết, những tâm tình thay cho tiếng nói. Hội ngộ ngay-tại-
chỗ, trên trang giấy, nơi xứ người. Cũng là cả một đền bù.
Nha Trang tuy xa, nhưng tình người lại rất gần: Ở đâu có
thầy trò trường Nữ Trung Hoc Nha Trang, ở đó có bóng dáng
trường xưa. Gặp gỡ cả quê hương trong lòng đất Mỹ… qua
cuốn Đặc San 2021 kỷ niệm 60 năm thành lập trường. Còn
gì tuyệt vời hơn? Để không còn ai ngỡ ngàng:
“Phải chăng mình có nên ngờ” (***)
Sáu mươi năm ấy, bây giờ là đây?
Nguyễn thị Ngọc Dung
Vancouver, một chiều mưa
Khi chớm Thu về, 2021
(*) Tên một bản nhạc của Phạm Đình Chương
(**) Hai câu hát trong bản nhạc “Trở Về” của Châu Kỳ
(***) Một câu thơ trong Truyện Kiều, của Nguyễn Du
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 43
*** Một vài hình ảnh quá khứ
Buổi cắm trại toàn trường
Bạn đồng nghiệp khi đi coi thi
44 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Bà Bùi Ngoạn Lạc
Sinh ra trong một gia đình trung
lưu như các trẻ khác lúc bấy giờ, chỉ
biết ăn học, vui đùa một cách hồn
nhiên và cứ thế ngày qua ngày cho
đến một hôm. Tôi nhớ rất rõ, chiều
19-08-1945, ngoài đường từng đoàn
người, nam, nữ, mặc áo quần đen, đàn
bà cắt tóc ngắn, tay cầm dáo mác, gậy
gộc hô to các câu “Hoan hô … Đả đảo
…”
Ba chúng tôi nghe đài BBC biết
là Việt minh cướp chính quyền. Một chuyện buồn cười là
Trung ương ra chỉ thị “Phụ nữ cấp tốc biểu tình” thì địa
phương đọc là “Phụ nữ cắt tóc biểu tình” cho nên phụ nữ các
tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định cắt tóc ngắn hết.
Hôm sau tất cả các trường học đóng cửa “xếp bút nghiên
lên đường tranh đấu.” Thanh niên, sinh viên, học sinh vào
bộ đội. Các công sở theo lịnh Trung ương tản cư về nhà quê
rồi tiến dần về miền Bắc. Gia đình chúng tôi từ miền trong
phải tản cư về Huế, rồi ra Quảng Bình. Đến đây, các ông trí
thức như bác sĩ, kỹ sư, giáo sư,… bị đi theo ủy ban.
Mất liên lạc với Ba tôi, gia đình về theo ngoại và các
cậu, dì, tản cư về nhà quê. Năm 1947, Pháp chiếm lại Việt
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 45
Nam, ngày ngày đi ca nô lên các làng mạc lùng Việt minh,
vì vậy ban ngày chúng tôi phải chạy sâu vào rừng. Ban đêm,
Việt minh về tuyên truyền. Quá nguy hiểm, gia đình lại chạy
tiếp lên miền thượng du.
Bảy tháng sau, chú lao công đi theo Ba tôi về cho biết
“ông ở Hà Tĩnh”, thế là cả nhà lên đường ra Hà Tĩnh. Chúng
tôi phải leo qua một ngọn đèo gọi là đèo Cao Mại, đi một
ngày mà mới lên tới đỉnh đèo, dưới chân thì sên, vắt bám
đầy; chúng tôi gọi đó là đèo “Cao Mãi.” Đến Hà Tĩnh, gia
đình mới được đoàn tụ, nhưng cơ quan ba tôi đóng làng này
5 tháng, làng nọ 3 tháng, chỗ nào có trường thì đi học, chỗ
nào không có lại nghỉ. Hàng ngày chúng tôi phải làm việc để
sống, làng nào có nghề gì thì mình học nghề đó: làm nón,
kéo sợi, đan áo thuê,… Lần lần ra đến Thanh Hóa, chúng tôi
được gặp gia đình bác sĩ Bửu Du, gia đình Thầy Bửu Cân,
các Thầy dạy ở collège Võ Tánh ở Qui Nhơn,… Được mấy
tháng lại phải theo ủy ban về Nghệ An.
Tại đây, Me chúng tôi tìm được người đưa đường vào
thành (tức vượt biên mà danh từ lúc bấy giờ gọi là “dinh tê
vô tề”). Một đêm trời tối, không trăng sao, gia đình chúng tôi
xuống thuyền lúc 2 giờ sáng. Đêm đi, rạng sáng, thuyền tấp
vào mé núi mà họ biết là an toàn để ẩn núp rồi chiều xuống
lại đi tiếp; cứ thế khi thì đi thuyền trên sông, khi thì đi thuyền
độc mộc lên thác, xuống ghềnh. Hai người chống thuyền lên
đỉnh với hai cây chống vào vách đá. Khi xuống, họ cho
thuyền trượt như patin và giữ lại dần dần cho đến chân thác.
Cứ thế 22 ngày thì về đến sông Gianh, Quảng Bình, làng
Quảng Khê. Tại đây thuê ca nô vào tỉnh Đồng Hới. Đến nơi,
chỉ một mình Ba tôi gặp chef de bureau nói chuyện và một
giờ sau thì cả nhà được vào thành phố.
Từ đó, Ba tôi lại được đi làm việc, chúng tôi được đi học
lại. Ra trường, chúng tôi đi dạy ở trường Đồng Khánh, Huế.
Tưởng thế là từ nay lại được sống nhẹ nhàng với nghề dạy,
nhưng một duyên mới, một tờ giấy đưa chúng tôi vào cuộc
46 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
sống mới. Đó là Sự vụ lệnh số 90 ĐDGD ngày 20-08-1960
cử chúng tôi vào Nha Trang tách riêng nữ sinh ra khỏi trường
Võ Tánh. Tiếp tục, nghị định Thành lập trường Nữ Trung
Học ngày 14-12-1960, và một nghị định ngày 27-01-1961 cử
tôi làm Hiệu trưởng và bà Nguyễn Ngân làm Tổng giám thị.
Vào Nha Trang, sau khi thuê nhà cho gia đình, chúng
tôi đến trường Võ Tánh mượn một phòng học để làm việc
trong khi chờ đợi bà Ngân dạy cho hết niên khóa. Làm Hiệu
trưởng mà không qua một lớp quản trị học đường nào cả, nên
chúng tôi mượn hồ sơ về hành chánh, kế toán, nhân viên …
để xem qua cho biết. Ngày 01-04-1961, bà Ngân và tôi, hai
chị em mượn sổ điểm danh của Võ Tánh để tách riêng danh
sách nữ sinh từ Đệ thất đến Đệ nhị. Nhờ sự giới thiệu của
các vị ở địa phương, chúng tôi mời quý vị có con, cháu sẽ
học ở trường sau này như ông Tôn Thất Toại, Nguyễn Vỹ,
Doãn Văn Hy, Nguyễn Văn Tạo, và bà Ông Văn Kỉnh vào
chi hội Phụ huynh học sinh đầu tiên của trường Nữ, sau khi
báo cho quý vị biết là chúng tôi được cử vào Nha Trang để
thành lập một trường Nữ Trung học và đưa bản nội quy cho
quý vị ấy xem. Có lẽ quý ông, bà thấy tôi còn trẻ tuổi, nhỏ
con, với đầu tóc bối trong khi thời đại bấy giờ các bà, các cô
thì tóc uốn, tóc xoăn nên sau khi đọc nội quy xong, họ quay
hỏi chúng tôi rất nhiều như:
- Tại sao phải mặc đồng phục trắng?
- Tại sao học sinh nghỉ, phụ huynh phải xin phép?
- Tại sao đi học không được mang đồ trang sức?
- Tại sao và tại sao …
Chúng tôi nhẹ nhàng trả lời từng điểm một:
- Đoàn thể nào có đồng phục của đoàn thể đó, và màu
trắng rất hợp với tuổi trong trắng của nữ sinh và không cách
biệt với các hàng vải khác nhau.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 47
- Phụ huynh phải xin phép để học sinh không tự ý trốn
học đi chơi.
- Không mang đồ trang sức để đỡ nguy hiểm khi ra
đường, hay không gây sự ham muốn của các em mà gia đình
không đủ điều kiện mua sắm …
Sau khi đã thông cảm, quý vị phụ huynh rất nhiệt tình
giúp đỡ chúng tôi khi chúng tôi cần đến.
Để xây trường, Tỉnh cho một đám đất ở Chụt, quá xa
thành phố, chúng tôi thấy bất tiện cho việc đi lại của nữ sinh
nên chúng tôi phải xin một địa điểm khác và ông Tỉnh trưởng
Nguyễn Văn Lý cấp cho nhà để xe GMC của Bảo an ở đường
Lê Văn Duyệt. Bộ cho tiền xây 15 phòng học, chúng tôi phải
cho xây ở Chụt mặc dầu không sử dụng, vì hết niên khóa
không xây thì sẽ mất số tiền đó. 15 phòng học được xây sau
này để lại cho trường Kỹ Thuật. Nhà để xe ở Lê Văn Duyệt
được xây 12 phòng học do sự kêu gọi qua Đài phát thanh,
mượn trước tiền hiệu đoàn của học sinh sau này sẽ học tại
trường, tiền mượn của Tỉnh, của các vị mạnh thường quân
trong khi chờ đợi Bộ Giáo dục cho để hoàn lại.
Đó là bước đầu hình thành trường Nữ trung học cũ.
Trường nhìn như một trại lính mà thầy Đốc và thầy Châu khi
vào nhận việc dứng trước trường đã nói “Đây là trại lính chứ
đâu phải trường!”
Thuở ban sơ trường chúng tôi như thế đó, sơ sài, nghèo
nàn, trời mưa thì sân ngập nước vì trường thấp hơn đường
cái; trời nắng thì chói chang, nóng bức, nhưng đó là giang
san đầu tiên của thầy trò trường Nữ Trung Học Nha Trang.
Cứ thế lớp tăng dần, thiếu phòng, phải xây thêm 2 phòng
ở sân sau trường.
Đến năm 1963, một duyên mới đưa chúng tôi xin được
đám đất bỏ trống từ nhiều năm gần trường Võ Tánh và Quân
Y viện Nguyễn Huệ ở đường Đinh Tiên Hoàng. Liên lạc với
48 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
trường Kỹ Thuật chúng tôi lấy lại được số tiền đã xây 15
phòng học khi trước, nhưng do vật giá leo thang nên số tiền
này chỉ xây đủ 10 phòng học nằm ở dãy lầu thứ nhất của
trường Nữ trung học mới.
Hai địa điểm cách nhau 200m mà chỉ có 1 Hiệu Trưởng,
1 Tổng giám thị, và 1 giám thị nên chúng tôi phải qua lại
thường xuyên hàng ngày.
Niên khóa 1965-1966, trường xây thêm dãy lầu 2, cũng
trong năm này, chúng tôi liên lạc với Khu Công chánh xin
cát, sạn, và 200 bao xi măng mới xây được tường rào xung
quanh trường mà trước kia chỉ kéo kẽm gai nên vẫn có người
đi chợ băng qua sân trường.
Niên khóa 1966-1967 trường mới có 1 Giám học là bà
Phạm thị Trang.
Niên khóa 1967-1968 đánh dấu sự tăng trưởng toàn diện
của một trường trung học đệ II cấp, đã có các lớp đệ nhất.
Niên khóa 1970-1971, trường xây thêm dãy lầu thứ 3,
và liên lạc Bộ chỉ huy 100 tiếp vận Đại Hàn để nhờ xây một
nhà chơi nối liền các dãy lầu.
Từ khi vào thành lập trường đến nay, đã 4 lần chúng tôi
gởi đơn xin thôi làm Hiệu trưởng và trở lại với đời giáo sư
nhưng không được chấp thuận.
Năm 1973, chúng tôi vào Sài Gòn và lên Nha Trung học
gặp ông giám đốc Đàm Xuân Thiều và đưa đơn xin thôi thì
được ông ấy trả lời “Bây giờ bà giới thiệu cho Nha một giáo
sư người Huế và làm việc nhiệt tình như bà thì chúng tôi để
bà thôi.” Chúng tôi không biết trả lời ra sao thì vừa lúc ấy
anh tùy phái của Nha đưa hồ sơ vào trình. Ông giám đốc vừa
mới mở ra, tôi nhìn vào thấy đơn xin thuyên chuyển của bà
Tôn Nữ Diệu Trang. Tôi mừng quá nói ngay “Bà này cũng
là người Huế lại trẻ hơn tôi nhiều, chắc bà ấy sẽ làm việc
nhiệt tình hơn tôi”, và ông Giám đốc chấp thuận cho tôi trở
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 49
về dạy tại trường. Tuy nhiên, vừa về đến Nha Trang thì được
biết Bộ Giáo dục cho thành lập ở các tỉnh Sở Giáo Dục Trung
Tiểu học và Kỹ thuật thuộc Khu Học Chánh của từng Quân
khu, và tôi lại được điều qua làm Trưởng Ban Thanh tra
Trung Tiểu học và Kỹ thuật của Sở.
Vào Nha Trang từ trước đến giờ chỉ biết có trường, nay
qua Ban Thanh tra tôi mới được biết nhiều về Khánh Hòa:
Diên Khánh, Diên Sơn, Vạn Ninh, Vạn Giã, Ninh Hòa, Ninh
Diên, Bích Đầm, Trí Nguyên,… và biết được thêm con
người hiền hòa, chân thật, chí tình của Khánh Hòa mà chúng
tôi xem như quê hương thứ hai của mình.
Sau 1975, chúng tôi được trở lại với nghề dạy học nhưng
không thuần túy dạy kiến thức và đạo đức làm người, mà dạy
cách đối phó với thời cuộc, với chế độ nhiều hơn. Ngày dạy
lớp chính quy, tối dạy bổ túc, những buổi rảnh họp nhóm,
họp tổ, họp hội đồng. Chủ nhật thì đi bộ từ 6 giờ sáng lên
Đồng Bò để lao động trồng mì,… Hè thì học chính trị. Lúc
bấy giờ tôi chỉ còn 30kg, vào ra bịnh viện liên miên; tôi phải
xin ra Hội đồng Y tế để thôi dạy thì bị nói là “Bất hợp tác
với chế độ phải không?”
Nay gần 90 tuổi, ngồi nghĩ lại, cha mẹ dạy ở đời phải
chân thật, sống chân tình, ai nhờ gì giúp được là làm ngay,
không được nghĩ là người ấy có giúp lại mình không. Đến
trường thầy cô dạy tư cách làm người, bất cứ trong hoàn cảnh
nào cũng không được làm những điều xấu ác. Có câu chuyện
“một người nằm mộng thấy người thợ nề bảo ngày mai anh
tự xây nhà mà ở, người làm ruộng bảo anh tự trồng lúa mà
ăn, người dệt vải bảo anh tự dệt lấy vải mà mặc.” Ở đời, mọi
người đều phải nương tựa vào nhau để sống, giàu có đến đâu
cũng không thể tự lo cho mình mà không cần người khác
giúp đỡ.
Mỗi lần bị bịnh, tuy thân xác đau nhưng chúng tôi rất
lạc quan vì mình được diễm phúc là có ngay bác sĩ, y tá, máy
móc, thuốc men cứu chữa, và chúng tôi lại nghĩ đến nếu
50 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
những người bịnh ở Việt Nam thì sao? Nghĩ mà đau xót lắm
phải không các bạn.
Nay nhân ngày kỷ niệm 60 năm thành lập trường Nữ
Trung học, chúng tôi có đôi lời tâm sự cùng các bạn và các
em để thấy ngoài gia đình, học đường, chúng ta được học
bao nhiêu điều hay, ý đẹp, nhưng trường đời là trường dạy
cho chúng ta những bài học vừa sâu sắc, vừa ngọt bùi, đắng
cay để giúp chúng ta được sống an thân qua mọi hoàn cảnh,
chế độ mà không mất nhân phẩm, tư cách làm người.
Vạn pháp vô thường, công danh, tiền tài nay còn mai
mất, nhưng tình cảm còn tồn tại mãi mãi.
Chúng tôi ước mong giữa chúng ta, nếu bạn mình có lỡ
đối xử với mình bất như ý trong thời gian qua thì nên bỏ qua
cho nhau, để trước là tâm hồn mình được thanh thản, và sau
này nếu kẻ đi trước, người đi sau thì mình không có điều gì
ân hận.
Hương của hoa, dầu thơm ngát mấy cũng chỉ bay theo
chiều gió hay trong phạm vi nhỏ hẹp xung quanh, nhưng
hương của người đức hạnh bay được ngược gió, tỏa khắp
muôn phương, và còn mãi mãi với thời gian phải không các
bạn.
“Trăm năm trước nào ta đâu có
Trăm năm sau có lại hoàn không.
Cuộc đời có có không không,
Trăm năm còn lại tấm lòng với nhau.”
Xin thành thật chúc Đại hội 2020 thành công mỹ mãn
và cầu mong cho “Tình Nữ Trung Học Nha Trang” mãi mãi
tồn tại trong tâm hồn của chúng ta.
Trân trọng thân chào quý bạn và các em.
Bà Bùi Ngoạn Lạc
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 51
Chút kỷ niệm về Nha Trang dấu yêu
GS Thanh Trí
(9/9/2021)
Chiều nay mở tập album xưa, nhìn tấm hình của chính
tôi, tôi bỗng rất nhớ Nha Trang, nơi tôi đã dạy học nhiều năm
tại trường Nữ Trung Học.
“Nhớ miền nắng đẹp chan hòa,
“Cát vàng sóng vỗ chập chùng bờ dương.”
Bờ dương chính là Bãi Dương bên Đồng Đế, gần nơi gia
đình chúng tôi sinh sống, thuận tiện cho nhà tôi đi làm. Một
ngày hè, Thầy Ngân và Cô Cúc đến thăm chúng tôi. Thầy
Ngân đã chụp bức ảnh này cho tôi và cháu Minh Tâm, con
gái của chúng tôi.
52 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nhìn tấm ảnh, tôi nhớ Thầy Ngân và Cô Cúc quá. Hai
người bạn quý đã đi rất xa, chắc chắn đã về nơi không còn
muộn phiền, lo lắng nữa. Thuở đó, chỉ có hình trắng đen và
Thầy Ngân đã nổi tiếng về chụp ảnh nghệ thuật. Tôi thầm
cám ơn Thầy Ngân đã để lại tấm hình này như một món quà
quý giá.
Thời gian trôi mau, trường Nữ Trung Học Nha Trang
xưa tính từ ngày thành lập nay đã 60 năm. Mỗi khi nhớ đến
ngôi trường này, tôi cũng nhớ Nha Trang vô cùng, một nơi
chốn trời nước mênh mông, có hàng thùy dương bên bờ
Thanh Hải, luôn để lại trong tôi một ký ức êm đềm, suốt đời
chẳng bao giờ quên.
“Quê hương trời nước mênh mông,
“Bên bờ Thanh Hải thùy dương mấy mùa...”
Bức tranh mới nhất của cô Thanh Trí 53
tặng Đặc San 60 Năm NTH/HT Nha Trang.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Buùt Kyù
60 naêm NTH/HT -NT
Nguyễn Trần Tấm
Ba tôi mất khi tôi chỉ mới 12
tuổi, mẹ thì hiền lành và thật thà,
một mình nuôi dạy đàn con 7
đứa, với đồng lương hưu ít ỏi của
bố mỗi tháng. Chúng tôi sống
trong căn nhà nhỏ trên đường
Đống Đa của khu Xóm Mới.
Mẹ hiền lắm, chả bao giờ la
các con, đứa nào có ý thích hay
ước mơ gì mẹ đều nhỏ nhẹ
khuyến khích:
“Rán đi con, cố lên, thế nào cũng được.”
Lời khuyến khích của mẹ đã ảnh hưởng đến cuộc đời
của tôi vả các anh chị em trong nhà khi chúng tôi đã có gia
đình. Riêng tôi, lấy lời mẹ khuyên làm châm ngôn với các
con, cháu. Tôi không chỉ đường muốn các con theo mình mà
thường là cho ý kiến và chiều theo ý các con. Các con tôi
cũng ảnh hưởng từ tôi nhiều, theo ý mẹ và khuyến khích mẹ
vui vẻ, đây cũng là một lý do để tôi được vui cùng các bạn,
làm công việc mình thích, trước và sau khi nghỉ hưu. Các
con nói, mẹ cứ làm việc mẹ thích, đừng để ý nhiều đến tiểu
tiết làm mình do dự, miễn sao mình vui là được.
54 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Chồng không cản, các con không ngăn, cứ thế mà vui
theo ngày tháng, kết quả là vì ham vui, góp tay tổ chức hội
ngộ này đến hội ngộ khác, tham dự các hội ngộ xa và bây
giờ bị các bạn kéo vào làm Đặc San 60 năm thành lập NTH
/HT, lúc đầu thì cũng không hưởng ứng hay thích thú tham
gia lắm vì ai đã bước qua cái tuổi thất thập cổ lai hi này rồi,
chắc hẳn sức đã mòn, lực đã cạn, ngồi gõ computer thì chưa
gõ được mấy dòng đã mỏi tay, lại thêm quên trước quên sau,
dễ đụng chạm lắm. Mình chưa viết, chưa ra quân mà đã bị
ông anh TK đánh giá thuộc hàng văn sĩ hạng bét thì còn viết
lách gì nữa. Kệ, lòng tự nhủ, nhớ lời mẹ dặn khó khăn cũng
phải rán vượt qua. Đúng thế, phải cho ông anh này biết tay,
sông cạn, núi thấp cũng rán vượt qua. Hơn thế nữa, nhìn đại
sư huynh đã ngót nghét ngoài bát thập mà còn hăng hái xắn
tay áo giúp các cô em thì mình cũng phải phục lăn mà noi
gương.
Thế là bbt thành hình, nhiệm vụ của tôi và Ánh Nguyệt
là đi xin tiền cùng hai Thủ Quỹ Thu Hương và Phương Thảo.
Chả biết tôi và ANguyet ca bài con cá thế nào mà chỉ
trong hai tuần cùng với PLang và hai Thủ Quỹ THương,
PThảo, tiền bảo trợ in đặc san đã được các thầy cô, ace đồng
môn gủi về bảo trợ như bươm bướm. Kết quả: đầy túi, đủ
tiền in đặc san.
Tiền kiếm thì dễ, nhưng mời các ace viết bài mới là khó.
Dân húi cua thì nói báo của dân kẹp tóc nên đánh bài lờ, quý
vị đó quên đi rằng thì là nếu không có dân kẹp tóc thì làm gì
có chuyện tình VT/NTH chứ nhỉ!
Làm đặc san thì cũng vui vì một hai tuần lạị kiếm cơ hội
gặp nhau, nhất là hôm cô TBBT Cung Lan và Phu Quân “Tây
tiến”, tụ họp nhau ở nhà cô phó PLang thì quá xá là quậy,
vừa đình đám, giả ngây thơ thời áo trắng, vừa được thưởng
thức tài nấu ăn của hai cô PLang và ÁNguyệt, tài làm bánh
của CLan, tài chụp ảnh của hai phó nhòm thứ thiệt PLang và
Hiệp Phạm.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 55
Sau hết là thưởng thức món chè của PLang ngọt ngào
ấm cổ để tiếp tục cười, nói, … chuyện trường xưa, chuyện
của mình, chuyện thiện hạ, … ôi… bao nhiêu là chuyện, kỷ
niệm dù đẹp hay xấu, vui hay buồn vẫn là kỷ niệm và khi ôn
lại kỷ niệm thì chỉ cùng nhau lăn ra cười chứ làm sao mà
khóc được.
Chỉ tiếc là khi CLan qua Nam Cali, cô em Covid vẫn
còn mè nheo nên bà con còn chưa dám đi chơi xa, do đó hai
gia đình Nam và Bắc Cali vẫn chưa thể đoàn tụ đầy đủ. CLan
và các bạn dưới Nam chỉ còn vui có một nửa, vì nửa kia thiếu
các bạn, thiếu nụ cười ròn rã của cô em Sương Mai nên…
thiếu vui…
Sau những ngày vui, mọi người lại trở về với công việc
và phần hành của mình. Mỗi người ngày nào cũng được nhắc
nhở, hối thúc các công việc từ nhỏ tới lớn, không được lơ là
để Đặc San được hoàn thành như dự định.
Chuyện nhỏ mà cũng sôi nổi là hình giới thiệu bbt, thôi
thì các cô nay muốn hình này, mai đổi hình kia, … thế mà
cuối cùng mọi người đều được vui vẻ hài lòng.
Khi tôi viết những dòng chữ này để hoàn tất bút ký cho
đặc san thì bài gửi vào đang tới tấp, ban biên tập, các cô
MTâm, HD, TTân làm việc, đọc bài mệt nghỉ, nhất là TTân,
làm việc quên ăn. Có những bài vì tình nghĩa, vì cả nể nên
không thể cho ý kiến, hoặc nói tác giả sửa lại những phần có
thể gây đụng chạm, chao ơi là khó vì tác giả cũng tự ái, lại
có những bài, không dính dáng tới trường NTH, hay VT/
NTH tí nào mà bbt vẫn phải đọc cho hết, rồi tới phần trả lời
không đăng thì mới là khó, chả ai muốn đảm trách công việc
trả lời này vì tác giả đã bỏ biết bao thì giờ, tâm tư làm những
vần thơ, những câu truyện thật cũng như hư cấu, chỉ tiếc là…
không phù hợp với chủ đề… biết làm sao… làm sao trả lời…
cuối cùng họp lại toàn bbt để lấy ý kiến và bỏ phiếu…
56 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Bên phe húi cua thì chắc là nghe lời khuyến khích của
phe kẹp tóc rằng thì là kỷ niệm sẽ không được theo gió bay
xa nếu không viết bài ngay và nếu vuột mất thời hạn cuối
nộp bài sẽ thành ra công cốc nên thấy các chàng cũng đang
từ từ gửi bài vào, than ôi… chỉ còn vài ngày không biết gió
có ngút ngàn chuyên chở dùm những tình cảm muộn không?
Mong là bbt sẽ thông cảm mà gia hạn thêm vài ngày để các
chàng có dịp moi ký ức tìm kỷ niệm… kỷ niệm dù ngọt ngào
hay cay đắng vẫn là kỷ niệm khó quên…
Tổ chức Hội Ngộ hay làm Đặc San đều có những khó
khăn, vui buồn hay lo lắng, mong sao mọi việc đều trôi chảy
nhưng mục đích chính vẫn là mọi người, từ bbt đến các tác
giả, độc giả có được trong tay một ấn phẩm giá trị với biết
bao kỷ niệm trong 60 năm qua. Có rất nhiều chuyện, nhiều
kỷ niệm để viết về đặc san, về bbt, về các bạn đồng môn
nhưng bài viết phải trong khuôn khổ giới hạn nên tôi đành
hậm hực ngưng tại đây. Kính chúc các thầy cô, ace đồng môn
hai trường VT/NTH vạn an và tình thân thắm thiết.
Trường xưa, phố cũ, biển xanh
Cho bao kỷ niệm của anh với nàng
Dấu chân trên cát ngập tràn
Lời yêu theo gió ngút ngàn bay cao
Sáu mươi năm tựa chiêm bao
Vẫn là hình bóng với bao ngỡ ngàng
Tiếc thay duyên nợ muộn màng
Hương xưa, kỷ niệm làm hành
trang thôi
Nguyễn TrầnTấm
09/26/2021
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 57
GS Ngô Đức Diễm
Cuộc đời là gạch nối giữa
tử sinh, từ tiếng khóc chào đời
đến tiếng khóc đưa tiễn, giữa
hợp tan, gần xa… Trong nỗi đau
ngăn cách đó, người đời đã tìm
về bên nhau, có khi bằng bước
chân tình nghĩa, nhưng nhiều
khi chỉ bằng tâm cảm nhớ
thương. Trong tâm tình thâu
ngắn ngăn cách đó, các chàng
trai Võ Tánh và các nàng Nữ
Trung Học Nha Trang, cũng đã trải niềm mơ “ngày xưa
Hoàng Thị” vào các cuộc hội ngộ, tìm nhau, tìm nhau…
Hữu duyên thì “tương ngộ”, vô duyên thì “bất tương
phùng.” Gặp hay không thì tình nghĩa vẫn đậm đà qua
những vần thơ ướt át gửi về người ấy “bên kia con
đường” thuở nào, nay tuy cách xa nhưng bóng dáng vẫn
còn nguyên đó với tà áo trắng, với tóc dài vờn bay…
Xin mở đầu với Nguyễn Đăng Tuấn qua bài thơ “Và
buốt tim người ngọn gió bay.” Cậu học sinh Võ Tánh
ngày nào đã trải hết nỗi lòng thương nhớ cho người yêu
Nữ Trung Học thuở ấy, với giấc mơ giao ngộ trong làn
gió thoảng. Ngày nào, Thôi Hộ đã gửi niềm nhớ thương
vào ngọn gió đông “Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa
y cựu tiếu đông phong”, thì hôm nay Nguyễn Đăng Tuấn
cũng trải lòng nhớ thương vào thoảng gió. Chỉ có chút
khác biệt là ngọn gió trong lòng tác giả ở trời Đông là
58 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
gió bấc (Bắc) trong khi làn gió từ trời Tây của người yêu
cũ lại là gió đông! Đây quả là một ý thơ thâm sâu diễn
tả một hiện thực bi đát với niềm hy vọng chứa chan.
Thực vậy, từ trời đông buốt giá tại quê nhà, anh vẫn chờ
ngọn “đông phong” của Thôi Hiệu là gió xuân từ trời
Tây đất khách, với mai đào nở rộ, với tình người đằm
thắm thổi vào hồn anh, làm ấm Iại giấc mơ nồng, khi
nơi đây đã vắng bóng mùa xuân!
người ở trời Tây ta trời Đông
phải trong giao mộng giấc mơ nồng
mùa bay gió bấc hay gió nổi
phương nào người dựng lại gió đông
Trong làn gió thoảng, nhà thơ đã nghe như văng
vẳng tiếng gọi của em từ đâu đó vọng về. Tiếng gọi như
tiếng xưa, chỉ thì thầm đủ nghe thôi, không biết vì quá
xa hay vì tiếng gọi quá nhỏ? Dầu lớn hay nhỏ thì cũng
đủ làm cho giấc chiêm bao của anh ngời sáng lung linh:
trời ở phương xa hay gọi nhỏ
một tiếng xa người lại qua người
ta cũng như người xa lạ cũ
một giấc chiêm bao một giấc ngời
Vẫn gọi, vẫn nhớ, dù đã xa cách bốn mươi bảy năm!
Em vẫn về trong chiêm bao, trong từng hơi thở như thể
tình ta đã kết tinh thành khối trăm năm. Trương Chi
Mỵ Nương đã hòa vào nhau, kết thành khối đá. Ở đây,
Nguyễn Đăng Tuấn và ai đó cũng đã nối kết trong tình
khối, còn mãi trăm năm qua những nổi trôi của kiếp vô
thường. Dẫu “trăm năm bia đá thì mòn”, thì tình ta vẫn
nguyên vẹn.
Nếu chàng trai Võ Tánh Phạm Tín An Ninh đã dành
cho “O Huế” Nữ Trung Học Nha Trang một khối tình
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 59
kim cương đến nỗi khi xa nhau, phải lê gót đi tìm ròng
rã trên 40 năm mà hình như vẫn chưa gặp! Những kỳ
hội ngộ vẫn lạc lõng trống vắng:
O sinh ra tận mô ngoài Huế
Hà cớ gì trôi dạt tới Nha Trang
Để một thằng “Võ Tánh” phải lang thang
Đem cây si trồng trước sân trường Nữ
Và Lê Mau, cũng nhập bọn Võ Tánh đa tình, trải nỗi
lòng vào những vần điệu thật truyền cảm. Qua bài thơ
“Tôi Vẫn” được Cung Đàn phổ nhạc, Lê Mau đã thổ lộ
“Yêu mà chỉ lén nhìn, không dám nói lời yêu”… Có một
chút nhút nhát đó, nhưng rất dễ thương. Cái đẹp của
tình yêu thời áo trắng là e ấp rụt rè và thầm kín:
Tôi chưa quên những ngày thật bối rối
Chỉ lén nhìn không dám nói lời yêu
Tình lặng câm em đâu biết những chiều
Theo bước em rồi cả đêm thẫn thờ.
Ở đây, Nguyễn Đăng Tuấn cũng dành cho người
em gái Nữ Trung Học một khối tình trăm năm. Dù
giòng đời nổi trôi như hơi thở thoi thóp thì hình bóng
em vẫn hiển hiện trong giấc mơ như thể ghi dấu trăm
năm:
hội ngộ ta người còn lắng đọng
bốn mươi bảy năm tràn giấc vùi
nổi trôi như thở tràn bao kiếp
còn dấu trăm năm cũng ngậm ngùi
Tình ta vẫn mãi vẹn nguyên, bởi lẽ hình bóng yêu
kiều của em đã in dấu trên cát trắng biển xanh, trên
từng ngọn sóng nhấp nhô. Tà áo trắng thư sinh thuở
nào trên đường Duy Tân Bá Đa Lộc vẫn còn bay bay
60 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
trong gió, làm nặng chĩu bước chân anh nơi chốn cũ xa
xưa như chuyện cổ tích:
nắng mưa có còn như cổ tích
bãi cát biển xanh sóng nhấp nhô
Nha Trang kỷ niệm tà áo trắng
còn gọi trong ta từng bước chân
Dẫu xa xưa như cổ tích, nhà thơ vẫn thấy rõ mồn
một hình bóng cũ hiện hình như mới hôm qua. Thuở
ấy, ta và nàng chẳng cách nhau bao xa. Nàng Phước Hải,
ta Máy Nước đã gần, mà ngày ngày ta và nàng còn được
giáp mặt nhau ngay tại góc đường sát cạnh như thể
chung trường! Đó chính là chốn ngày thơ, có cát bay
như mộng mơ len lén vào hồn, dù không hẹn hò, vẫn
mãi đậm đà:
người ở Phước Hải ta Máy Nước
Võ Tánh cùng ngang góc Huyền Trân
Trường Nữ cát bay vờn tâm tưởng
ở chốn ngày thơ vẫn đậm đà
Trở về với những tháng ngày hoa niên dấu ái, nhà
thơ có cảm tưởng như thời gian trở gót. Hẳn nhiên,
không ai có thể níu cành thời gian, dù có kêu gào xin xỏ
như thi sĩ Lamartine trong bài Le Lac: “Thời gian ơi!
Hãy xếp cánh lại” (O temps suspends ton vol). Nhưng
trong nỗi nhớ quay quắt, Nguyễn Đăng Tuấn đã quay
ngược thời gian, mở lại gói kỷ niệm thời hoa mộng, với
những lời yêu thầm dấu trong trang sách, hòa trong
tiếng sóng rì rào. Hình như tác giả đã cảm thấy trẻ lại,
dù chỉ trong mơ ước, tìm thấy tuổi thơ ngày nào trong
tiếng sóng ru lời yêu thỏ thẻ, trong bước chân chim rón
rén, dù hôm nay tóc đã đổi màu, chân đã thấm mỏi…
phải ta, tuổi trẻ vẫn còn xanh
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 61
như trong sách cặp lời chân thành
tiếng sóng còn ru lời yêu nhủ
đừng vỡ trăm năm rón rén quanh
Các chàng trai Võ Tánh nhớ mãi những mối tình
học trò ngày xưa là chuyện dĩ nhiên, nhưng các nàng Võ
Tánh-Nữ Trung Học-Huyền Trân cũng luôn luôn canh
cánh bên lòng hình ảnh mái trường xưa với một thời
“Ôm nghiêng tập vở”, tóc dài tà áo vờn bay.” Này nhé,
Phan Lang, nữ sinh Nhất C Võ Tánh 69, mãi vẫn ôm ấp
hình ảnh trường xưa bạn cũ, và chỉ ao ước bước đi trên
những nẻo đường kỷ niệm, những ngõ ngách thân
thương với tà áo trắng vờn bay thuở nào:
Sẽ về qua con phố
Đi dạo những con đường
Những ngõ ngách thân thương
Của một thời sách vở
Còn Phan Thị Ngôn Ngữ lại trải lên thơ hình ảnh
“O Huế” ngày nào mà Phạm Tín An Ninh đã một thời
“trồng cây si” nơi cổng trường Nữ Trung Học. Hoàn
cảnh đã ngăn cách. O Huế đã bay xa. Ta đã mất nhau.
Cuộc tìm kiếm kéo dài gần nửa đời người. Có người tò
mò muốn hỏi O Huế của Phạm Tín An Ninh và O Huế
của Phan Thị Ngôn Ngữ là hai hay chỉ là một? Không
biết đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên, hay là dấu chân kỷ
niệm có thực của một thời hoa mộng? Nhưng thay vì
thổ lộ lòng mình như Phạm Tín An Ninh, Phan Thị
Ngôn Ngữ lại mang guốc đi vào lòng người, mượn thơ
diễn tả nỗi lòng ai đó (?) đã từng đau nhói đến khờ khạo
vì bị đánh động bởi mái tóc dài xõa xuống tà áo trắng
của o quai nón tím:
0 con gái tóc dài - quai nón tím
chiều ni về - 0 có nhớ ai không?
62 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
guốc khua chi - cho đây nhói cả lòng
áo trắng quá - khiến hồn đây khờ khạo
Khỏi cần biết ai nhói cả lòng đến khờ khạo, chỉ cần
biết là tình thật tuyệt vời! Kinh qua bao khổ ải trong thế
giới hư vọng vẫn được gọi là phù vân huyễn hóa, như
thoảng gió lướt qua làm buốt tim người, các chàng trai
Võ Tánh như Nguyễn Đăng Tuấn, Lê Mau, Phạm Tín An
Ninh, và các nàng Nữ Trung Học như Phan Lang, Phan
Thị Ngôn Ngữ… đã tìm lại được cái trường cửu trong
cõi người ta nơi chính tâm thân của mình. Đó chính là
tình yêu, được thể hiện qua hình bóng yêu kiều của em
Huyền Trân/Nữ Trung Học, gắn bó với chàng trai hùng
Võ Tánh Nha Trang, dù đó chỉ là yêu thầm nhớ trộm:
tóc xanh ngày cũ đôi mắt mộng
còn ở trong ta, thế giới này
kinh qua khổ ải từng hư vọng
và buốt tim người ngọn gió bay
Thế đó! Hằng năm, cứ vào khoảng tháng tám tháng
chín, lại có ngày Hội Ngộ Võ Tánh-Nữ Trung Học/
Huyền Trân tại quê nhà cũng như tại hải ngoại. Đó là
những dịp các thầy cô và cựu học sinh hai trường gặp
nhau, tay bắt mắt mừng, trao nhau những cái nhìn thật
thân tình. Đó cũng là dịp để cùng nhau gợi nhớ mái
trường xưa, tìm lại tà áo trắng của O Huế, của em
Phước Hải. Nay trường đã mất tên và người cũng xa
vắng, nhưng kỷ niệm mãi còn nguyên. Riêng với nhà
thơ Nguyễn Đăng Tuấn, ngày hội ngộ là ngày sống lại
tuổi thơ, dù cách xa ngàn dặm, vẫn nguyên vẹn tình
em… “Tóc xanh ngày cũ đôi mắt mộng. Còn ở trong ta
thế giới này.”
Em còn trong ta. Võ Tánh còn trong em. Nữ Trung
Học/Huyền Trân còn trong anh. Tất cả còn nguyên vẹn
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 63
đó. Chúng ta còn mãi những gì chúng ta đã mất… Xin
kết lời chia sẻ tâm tình Hội Ngộ bằng 4 câu thơ của
người viết đã được Lê Văn Thành từ quê gửi ra bằng
nét bút nguyên thủy, và Tố Anh gợi nhớ tại hội ngộ
Florida: “Em mang mùa thu vào lớp học. Phấn trắng ngỡ
ngàng trên tay anh. Mây trời bỗng hạ xuống thật thấp.
Chữ nghĩa vỗ cánh bay rất nhanh…” Chữ nghĩa vỗ cánh
thuở ấy, nay đọng lại như dấu chân chim ghi khắc trong
tim trong đời…
Ngô Đức Diễm
64 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Cuoäc Ñôøi Moät Coâ Giaùo
GS Trần Thị Mộng Tường
Các em học sinh thân
mến của tôi,
Có vài lần tôi đã nghe
nhiều em hỏi thăm và muốn
biết thêm tin tức về Cô Trần
thị Mộng Tường. Tôi rất cảm
động vì tấm lòng của các em
còn nhớ đến cô giáo ngày
xưa, tôi rất muốn kể cho các
em nhưng chưa có dịp thuận
tiện. Và đến hôm nay, cơ hội
tốt nhất để đóng góp trong
những trang đặc san kỷ niệm
sáu mươi năm của trường Nữ
Trung Học, tôi sẽ vắn tắt ghi lại những chặng đường sống
cùng với nhiều kỷ niệm từ thuở ban đầu bước lên bục giảng
cho đến bây giờ khi mái tóc đã ngả trắng màu sương và sắp
sửa bước vào tuổi cửu tuần. Hy vọng những dòng tâm tư này
sẽ được gửi đến các em học sinh quý mến của tôi.
Sau khi tốt nghiệp Sư Phạm vào năm 21 tuổi, một năm
sau, tôi được bổ nhiệm về dạy học tại trường Trung Học Võ
Tánh. Có một kỷ niệm thật khó quên của những ngày đầu
bước chân vào đời làm cô giáo ở tuổi 22, còn quá trẻ chưa
giã từ hết những thơ ngây để trở thành môt nhà mô phạm.
Tóc của tôi vẫn để dài quá lưng, lại còn kẹp hai bên như thuở
còn đi học. Chính vì thế tôi đã phải thẹn thùng đến rơi lệ vì
các nam sinh lớp Đệ Nhị và Đệ Nhất hay đứng trên lầu nhìn
xuống và gọi to: “Cô giáo tóc dài dễ thương ơi!”
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 65
Mấy ngày đầu tôi đều bị trêu ghẹo như thế, buồn, tủi
thân và khóc, chẳng biết tỏ với ai. Cuối cùng, tôi quyết định
vào thưa với thầy hiệu trưởng Lê Nguyên Diệm rằng tôi
không muốn đi dạy nữa. Thầy ngỡ ngàng nhìn tôi hỏi tại sao,
tôi chỉ nói vắn tắt vì các học sinh nam lớp lớn hay trêu tôi.
Ông hiệu trưởng nói với tôi: “Chị đi theo tôi.” Tôi đi theo
ông và chỉ các lớp ở trên lầu. Ông vào nói với các cậu đó
rằng: “Tụi bây lớn mà không biết mắc cỡ, người ta nhỏ đã đi
làm ra tiền rồi, sao tụi bây trêu ghẹo người ta.” Từ đó các
nam sinh hết chọc ghẹo tôi. Cám ơn Thầy hiệu trưởng, chỉ
nhờ vài câu nói của thầy mà các cậu học sinh lém lỉnh đã thôi
không còn trêu tôi nữa.
Nhưng tôi vẫn chưa biết phải làm gì với mái tóc dài, chỉ
hơi đổi kiểu một chút, thắt bím và kẹp đôi lại mỗi khi đi dạy
mà thôi. Cho đến một ngày nọ, tôi gặp lại thầy cũ của tôi từ
Sài Gòn ra Nha Trang chấm thi. Thầy trò gặp nhau nơi sân
trường ngày xưa lúc tôi còn là một nữ sinh kẹp tóc vậy mà
bây giờ đã thành cô giáo. Vừa nói chuyện, thầy vừa nhìn tôi.
Hình như qua ánh mắt của thầy có điều gì muốn nói nhưng
chẳng thành lời, tôi không đoán được ý thầy, có điều gì khiến
thầy quan tâm hay muốn khuyến khích cô giáo trẻ mới vào
đời. Sau đó, thầy nói muốn đến nhà tôi thăm ba má tôi một
chút, tôi sẵn lòng đưa thầy về nhà ngay. Thì ra, sau một vài
câu thăm hỏi xã giao, thầy xin phép ba má tôi cho tôi đi uốn
tóc để ra vẻ người lớn một tí. Ba má tôi bằng lòng. Và rồi,
khi mái tóc của thời học trò đã trả lại cho thơ ngây, thay vào
những gợn sóng của các lọn tóc được uốn ép gọn gàng xinh
xắn, từ đó tôi đã trở thành người lớn thực sự.
Thật ra, không phải mọi nam sinh nào của trường cũng
lém lỉnh muốn trêu ghẹo cô giáo trẻ, chỉ có một vài cậu lớp
lớn vượt qua những giới hạn của mối tương quan giữa học
trò với Thầy Cô mà thôi, nhưng sau khi được thầy Hiệu
Trưởng trách nhẹ, mấy cậu ấy chẳng còn vấp phạm nữa.
Ngược lại, tôi vẫn nhớ nhiều nam sinh tôi dạy 3 lớp đệ lục,
các em này rất đứng đắn và ngoan ngoãn, chăm chỉ học hành,
66 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
đặc biệt là những em như Mạc Công Hiếu (hiện ở Canada),
Vũ Quang Minh (Houston, USA) và Đỗ Quang Phiệt
(Australia). Tư cách và hạnh kiểm tốt của những em này đối
với các bạn cùng lớp và cô giáo vẫn còn đậm ghi trong ký ức
của tôi đến hôm nay khi tôi viết những dòng chữ này. Cám
ơn các em.
Một năm sau, tôi được chuyển qua dạy trường Nữ Trung
Học do bà Bùi Ngoạn Lạc làm Hiệu Trưởng. Bà rất đẹp và
thanh nhã. Ở trường Võ Tánh, tôi đã gặp một vài lần thật khó
chịu nhưng rồi vận hạn cũng qua đi, nhưng đến khi về trường
Nữ, tôi cảm thấy may mắn và hạnh phúc vì các em thật dễ
thương và tôi cũng thương yêu các em vô cùng. Phải công
nhận trường Nữ Trung Học nổi tiếng rất kỷ luật, học sinh
ngoan ngoãn và kính trọng các Thầy Cô. Đây là một trong
những điểm son mà Bà Hiệu Trưởng cùng ban Giám Hiệu
đã gầy dựng.
Về tính hơi khác biệt trong việc dạy học của riêng tôi,
để khích lệ và tưởng thưởng lớp nào các em học và làm bài
tốt, tôi thường kể chuyện cho các em nghe vào cuối giờ,
những câu chuyện lý thú thường là những tác phẩm văn học
hoặc những chuyện lịch sử nổi tiếng. Các em rất thích và bảo
nhau chăm chỉ học hành để được nghe cô kể chuyện. Thêm
nữa, ngoài việc chú trọng vào giáo trình dạy học, để khuyến
khích các em đọc những sách được chọn lọc, tôi gợi ý thành
lập một “tủ sách Đệ Lục 1-2-3” tức là tủ sách dành riêng cho
3 lớp do tôi phụ trách.
Tôi khuyến khích nhà em nào của 3 lớp này có cuốn
sách nổi tiếng về văn chương hay lịch sử, hãy đem lên để
vào tủ sách đến cuối niên học thì sẽ trả lại. Em học sinh thuộc
về 3 lớp Đệ Lục này đều thay phiên nhau mượn sách về đọc,
đọc xong đổi cuốn khác. Chính phương pháp này giúp các
em ưa thích đọc sách, nhờ vậy rất tiến bộ trong môn Việt
văn. Tôi thật sự vui khi thấy các em ham thích học hành và
đọc sách. Tôi lại bày ra những buổi thuyết trình chung 3 lớp
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 67
với nhau. Tôi lựa đề tài, cho 1 lớp phụ trách buổi thuyết trình
và mời vài em ở hai lớp còn lại tham dự. Cứ như vậy luân
phiên nhau để học hỏi và rút kinh nghiệm từ các bạn khác.
Đôi khi, tôi còn tổ chức cho các em diễn tuồng. Các em
phải đọc cho thật hùng hồn như trong bài Hội Nghị Diên
Hồng, hoặc bi ai, áo não, hùng tráng trong bài thơ Hổ Nhớ
Rừng. Thỉnh thoảng, hôm nào xong bài giảng sớm, tôi đọc
thơ có tác động giáo dục cho các em nghe, ví dụ như bài
“Khóc Cha”. Tôi biết chắc em Hồ thị Ky còn nhớ và thuộc
lòng bài thơ này. Vui hơn nữa, với sự cho phép của Bà Hiệu
Trưởng, thỉnh thoảng tôi còn tổ chức những cuộc cắm trại ở
Bãi Dương bên Thanh Hải, có khi cắm trại ngay tại sân
trường vào thời điểm thuận tiện. Những sinh hoạt ngoài trời
thật nhộn nhịp với những trò chơi, ca hát khiến các em vui
vẻ nhiều và phát huy tinh thần đồng đội mạnh mẽ hơn.
Nếu ở trường Võ Tánh tôi kể tên của những nam sinh
ngoan ngoãn, thì ở tại trường Nữ Trung Học tôi không thể
quên các nữ sinh thật xuất sắc như Lương Lệ Mỹ Hảo, môn
học nào cũng giỏi, đứng nhất hay đứng nhì trong lớp và tánh
tình rất dễ thương. Rồi em Hồ thị Ky học giỏi các môn, xuất
sắc nhất là môn toán. Mỗi ngày đi học, em đều đi ngang qua
nhà tôi, thỉnh thoảng cuối tuần ghé thăm tôi. Nhà tôi có cây
ổi bên hè, đến mùa rất sai trái, em Ky được phép leo lên hái
trái, em vui và cô giáo cũng vui. Còn nhiều em khác nữa rất
ngoan ngoãn, chăm học như Cao thị Liên Phòng, em Kim
Thoa (ở Houston), em Mai thị Chín v.v... nhiều lắm, không
nhớ hết vì tuổi đời bây giờ đã cao, mong các em thứ lỗi cho
Cô.
Tôi dạy tại Nữ Trung Học được mười năm, đến năm
1970, vì một lý do riêng tư, tôi xin thuyên chuyển vào Sài
gòn và dạy tại trường Trung Học Tân Định, quận 3, Sài Gòn
mãi cho đến năm 1985. Định mệnh thường sắp xếp cho tôi ở
những nơi xa lạ lại được gặp người thân quen, như tôi đã gặp
người thầy cũ mà tôi rất kính trọng vào những ngày đầu bước
68 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
chân vào ngành giáo dục. Tại trường mới này, tôi lại may
mắn gặp một cô giáo trẻ, rất đặc biệt, đã từng là một trong
những học sinh tôi quý mến tại trường Nữ Trung Học ở Nha
Trang, em Hồ thị Ky, đã trở thành cô giáo và dạy chung
trường với tôi. Giờ đây tôi có người để chia vui sẻ buồn, nhất
là trong lúc ban đầu giao thời đổi thế của hai chế độ hầu như
hoàn toàn khác biệt về chính trị cũng như văn hóa. Những
khó khăn trong hành trình hội nhập vào cuộc sống mới của
những người miền nam vào lúc ấy và ngay cả về sau và về
sau nữa nhiều kể sao cho hết.
Riêng tôi, tôi có một tâm sự về tình cảm ở thuở giao thời
ấy nơi mái trường mới về này. Các Thầy Cô, không kể thuộc
cấp một, cấp hai hay cấp ba đều được gọi là giáo viên, khác
với ngày trước, giáo viên khác với giáo sư v. v... Một hôm,
có vài thực tập sinh sư phạm ở trường đến năn nỉ tôi cho
‘ông-thầy-người-miền-bắc’ của chúng được làm quen với
tôi. Lúc ấy, tôi vẫn còn độc thân, vì miệt mài với nghề nghiệp
nên chưa nghĩ đến chuyện gia đình, hết sinh viên này đến
sinh viên khác xin tôi cho thầy chúng được gặp mặt. Không
biết đây có phải là một cách của các cô cậu thực tập sinh làm
để lấy điểm với thầy không?
Cuối cùng, vì lịch sự nên tôi đành ái ngại bằng lòng mời
ông giáo viên ấy đến nhà. Tôi thấy mặt mày ông ta cũng sáng
sủa. Bà chị của tôi cùng ra tiếp khách với tôi, vì thấy ông ta
là khách lạ. Nhưng sau một hồi trò chuyện về những-chuyện-
chẳng-ra-chuyện của ông này, chị tôi như có một linh tính xa
xôi nào đó về người khách lạ ấy, chị bèn đến bàn thờ ba tôi
khấn vái với ba tôi rằng: “Ba ơi, ba đuổi ông đó đi giùm em
con, vì ông ta không hợp với gia đình chúng ta đâu.” Cuối
cùng chị tôi vẽ chuyện nhắc tôi cần phải đi thăm một người
thân như đã hứa vì sắp đến giờ hẹn, và có lẽ ba tôi linh thiêng
đã mời ông khách lạ kia rời khỏi nhà một cách nhẹ nhàng...
Tôi tiễn ‘cơn gió lạc’ này đến tận cửa và lịch sự xin lỗi rồi
vào trong. Hai chị em mỉm cười nhìn mông ra ngoài cửa, gió
ơi hãy bay đi, hãy bay thật xa, bay luôn đi. Con cảm ơn Ba
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 69
đã bảo vệ con khỏi những vướng mắc tình cảm nghịch duyên
mà chẳng bao giờ con có thể thuận theo.
Dạy học tại trường Trung Học Tân Định đến năm 1985,
lúc làn sóng người Việt mình dập dồn bỏ nước ra đi, bất kể
những hiểm nguy trên biển cả, hay băng rừng vượt núi đến
vùng đất mới tìm tự do. Nhiều người may mắn bình an đến
được bến bờ nhưng cũng không ít người đã bỏ mình trên
hành trình đầy muôn ngàn gian khổ. Phần tôi, sau một
chuyến vượt biển đầy vất vả bằng thuyền, tôi may mắn đến
được đảo Galang, Indonesia.
Vì phải tạm sống xô bồ trong trại tỵ nạn với nhiều điều
kiện vật chất thiếu thốn, cộng với một tâm trạng hoang mang
buồn nhớ, tôi ngã bệnh nặng phải nhập viện của trại để được
cấp cứu. Lại một lần nữa, định mệnh cũng sắp xếp cho tôi
gặp được một người quen cũ, một bác sĩ của bệnh viện dã
chiến này tự nhận là học trò của tôi lúc tôi dạy tại trường Võ
Tánh, vị bác sĩ ấy đã tận tình săn sóc chữa trị bệnh tình của
tôi cho đến khi tôi được an ổn mới cho xuất viện. Cám ơn
em, cám ơn tấm lòng nhân nghĩa, tôi sẽ chẳng bao giờ quên
được, mong có ngày gặp lại em để tôi được nói thêm nhiều
lần nữa với em lời cám ơn chân thành.
Một năm sau,1986, tôi được định cư ở Mỹ, một quốc gia
đã mở rộng vòng tay đón nhiều người tỵ nạn từ khắp nơi trên
thế giới, trong số ấy, người Việt mình định cư tại Mỹ không
phải là ít. Với tôi, hành trình hội nhập vào cuộc sống mới
này thật không đơn giản, tôi đã cố gắng và cố gắng thật nhiều
dù vất vả để mưu sinh, ổn định cuộc sống. Tôi đi làm và đã
thay đổi nhiều công việc ở nhiều công ty khác nhau, tổng
cộng 19 jobs. Dần dần, cuộc sống của tôi an ổn hơn, trong
khi em của tôi, cô Mộng Lan, chỉ làm một công việc cho đến
tuổi về hưu. Quả thật, trong hành trình của kiếp nhân sinh thì
mỗi người một ngã đời riêng biệt.
Về cuộc sống hôn nhân, phải thành thực mà nói, duyên
của tôi đến cũng muộn màng sau những thăng trầm của cuộc
70 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
sống. Vào năm 1992, tôi đã tìm được một bờ vai để tựa,
chúng tôi đã kết hôn và đám cưới có anh Nguyễn Lương
Thuật và Trương Bích Khuê làm MC, cùng với sự tham dự
của một số bằng hữu. Chúng tôi đã có những năm tháng hạnh
phúc sống tại Ohio.
Cho nên, tôi cảm nhận được rằng ơn đời và ơn người đã
giúp tôi vượt qua được những sóng gió của cuộc sống, dẫn
đưa tôi đến bến bình an. Hơn thế nữa, trong những nguồn ơn
vô tận ấy, tôi đoan chắc luôn có vòng tay che chở của Đấng
thiêng liêng. Năm nay tôi đã tám mươi tư tuổi rồi!
Một lần nữa, các em học sinh thân mến của tôi, viết đến
đây Cô nghĩ đã đủ để trả lời những câu hỏi của các em về Cô
giáo Mộng Tường năm xưa. Trăm năm một đời người có rất
nhiều điều đã trải qua, nhớ sao cho hết, viết sao cho vừa.
Thôi bằng ấy nha!
Chào các bạn đồng nghiệp, tôi cũng xin chúc các bạn
đồng nghiệp nhiều sức khoẻ và may mắn trong cuộc sống
nơi xứ người.
Chào các em, Cô thăm các em và chúc các em và gia
đình thật nhiều hạnh phúc và sức khoẻ. Cô lúc nào cũng
thương yêu các em vô cùng tận.
GS Trần Thị Mộng Tường
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 71
Vui tìm laïi chuyeán ñoø xöa...
Lời Thưa Của Ban Biên Tập
Sứ mạng được định nghĩa là nhiệm vụ quan trọng phải thực
hiện và hoàn tất. Đối với nhà giáo, dù ở bất cứ thời đại hay ở nơi
nào trên thế giới, sứ mạng cao cả của nhà giáo là dạy dỗ và truyền
đạt kiến thức cho lớp người đi sau - lớp trẻ hoặc những người đã
trưởng thành muốn trau dồi thêm kiến thức. Sự dạy dỗ của nhà
giáo được thể hiện qua mỗi cách khác nhau tùy vào cá tính riêng
của mỗi Thầy Cô, hoặc bằng tấm gương sáng của chính bản thân
mình, hay bằng cách gieo những hạt mầm tốt để đánh thức và phát
triển các tài năng của học sinh để họ giúp đời và xã hội tốt đẹp
hơn.
Đối với những nhà giáo, nhận thức và thể hiện sứ mạng của
mình thật rất đáng kính phục và ngưỡng mộ. Chỉ riêng với hai
trường Võ Tánh và Nữ Trung Học Nha Trang, các học sinh đã
thấy được nhiều tấm gương sáng của Thầy Cô qua sự thể hiện sứ
mạng này. Nhưng trải lòng qua những vần thơ, thì đây có lẽ là
một trường hợp thật đặc biệt.
Cách đây cũng gần một thập niên, trên một trang Đặc San
VT & NTH, chỉ hai câu thơ trong bài thơ ngắn của Giáo sư
Nguyễn Trung Can mà đã gây nhiều xúc động cho học trò của
Thầy:
“Vui làm một chuyến đò ngang
“Chở linh hồn nhỏ vượt sang sông đời…”
Năm nay, để kỷ niệm trường Nữ Trung Học 60 năm ngày
thành lập, cô Hiệu Trưởng mong ước có cuốn Đặc San đặc biệt
với sự đóng góp những áng văn, hoặc thi phẩm, hay bản nhạc ...
từ quý Thầy, Cô và cựu học sinh của trường. Tự Tân thay lời Ban
Biên Tập đã gửi lời mời Thầy qua hai vần thơ sau, xin Thầy:
“Vui tìm lại chuyến đò xưa
“Chở thêm kỷ niệm mãi chưa phai mờ.”
Và Thầy Nguyễn Trung Can đã sẵn sàng đem về cả một
khung trời kỷ niệm qua bài thơ mới nhất sau đây. Toàn Ban Biên
Tập chân thành cảm ơn Thầy thật nhiều.
72 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Vui tìm laïi Beán ñoø xöa...
Nguyễn Trung Can
Thân mến gởi đến Thầy Cô và các em Cựu Học Sinh NTH-
NT (1963-1970)
Ơn Trời gìn giữ đò xưa,
Trải bao mưa nắng, nắng
mưa, dãi dầu.
Tóc xanh nay đã bạc màu,
Nhưng sao quên được
những ngày ban sơ?
Có con đò mới ngu ngơ,
Tay chèo chưa vững, bến
bờ chưa thông!
Mà lòng luôn mãi dặn
lòng,
Phải luôn gắng sức mới
mong ơn Trời.
Cảm ơn thay những tâm hồn,
Chăm lo, quý mến, cậy trông, từng ngày!
Cảnh đời nay có đổi thay,
Mà tình thân mến như ngày đầu tiên!
Ngoài kia, khói lửa chiến chinh,
Bạn bè, có kẻ hy sinh tuyến đầu!
Quê nhà, giặc đến càng mau,
Mẹ cha vội vã qua cầu hiểm nguy!
Quý thay là những bạn bè,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 73
Vui buồn nâng đỡ, lắng nghe tâm tình.
Chuyện nhà, chuyện nước điêu linh,
Với lòng thông hiểu, nhiệt tình mến thương!
Nhớ Ban Giám Hiệu của trường,
Như người mục tử, yêu thương chiên lành.
Ngoài kia, nhiều sói rảo quanh,
Ngày đêm canh giữ chiên lành bình an!
Niềm vui thầm kín dâng trào,
Bao linh hồn nhỏ thủa nào sang sông.
Giờ đây, hồn vẫn sáng trong,
Như màu áo trắng trinh trong thuở nào!
Sáu mươi năm, có dài lâu?
Bao nhiêu dâu bể, bể dâu cuộc đời!
Mà lòng ghi nhớ không ngơi,
Ngôi trường nhỏ bé của thời ban sơ!
GS Nguyễn Trung Can
San Jose, ngày 24-9-2021
74 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Duyeân Laønh
GS Hồ Thị Phương Lan
Tôi xuất thân từ Võ Tánh (VT) và
rời xa mái trường thân yêu này từ năm
1961, khi trường Nữ Trung Học
(NTH) mới bắt đầu khai giảng niên
khóa đầu tiên. Trước đó mấy tháng,
ngày 14-12-1960, Bộ Giáo Dục đã ra
nghị định thành lập tại Nha Trang một
trường Nữ Trung Học Đệ Nhị Cấp.
Đến 27-1-1961, Bộ Giáo Dục ra tiếp
một nghị định khác, cử bà Bùi Ngoạn Lạc làm Hiệu Trưởng
và bà Nguyễn Ngân làm Tổng Giám Thị. Tuy nghị định
thành lập trường đã có, song trường sở chưa địa điểm, nên
mãi đến ngày 1-4-1961 hai vị này mới thực sự làm việc riêng
tại một phòng học của trường Võ Tánh với sự hỗ trợ đắc lực
của Ba tôi lúc đó đang phụ trách văn phòng của trường.
Sau một thời gian chuẩn bị, tất cả các nữ sinh từ Đệ Thất
đến Đệ Nhị gồm 17 lớp phải bùi ngùi tạm biệt mái trường
ngói đỏ với tường phủ rêu xanh cổ kính để sang học ở ngôi
trường mới. Theo lời kể của bà Hiệu Trưởng thì lúc ấy “Các
nữ giáo sư Võ Tánh được chuyển qua Nữ Trung Học và một
số nam giáo sư tự nguyện qua dạy giờ. Đồng thời, trường
cũng được tăng cường mươi giáo sư tốt nghiệp khóa đầu tiên
ở Đại học Sư phạm Huế vào dạy. Về phần trụ sở thì ban đầu
trường được cấp ngân khoản của Bộ Giáo Dục cho xây cất ở
Chutt. Vì địa điểm quá xa, mà học sinh thời đó chỉ đi bộ hoặc
xe đạp, rất bất an cho nữ sinh, nhất là về mùa Đông mưa gió
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 75
khi tan học buổi chiều lúc 6:30, nên các phụ huynh cùng với
lãnh đạo nhà trường đã lên Tỉnh đề nghị đổi địa điểm, và
được Tỉnh cấp cho dãy nhà xe lợp tôn của một trại lính ở đầu
đường Lê Văn Duyệt. Trụ sở lợp tôn này nguyên là nhà xe
của binh chủng Bảo An, được sửa chữa lại, ngăn chia thành
12 phòng học, thêm một văn phòng Hiệu Trưởng và một văn
phòng cho Tổng Giám Thị và hai nhân viên.” Một cựu học
sinh đã nhớ lại: “Bên ngoài được bao bọc bởi hàng kẽm gai,
bên trong là dãy phi lao được khoác chiếc áo màu xanh mơn
mởn của tuổi dậy thì. Dãy phi lao ngày ấy không được cao
cho lắm song cũng đủ tỏa bóng mát cho lũ chúng tôi vào
những giờ giải lao ngắn ngủi.” Đây là trụ sở đầu tiên của
trường Nữ Trung Học Nha Trang, còn gọi là Trường Nữ
cũ.
Tuy là “ngày ra riêng của một đứa con cùng Mẹ cùng
Cha” nhưng đồng thời đó cũng là một sự chia tay cần thiết
để cả hai trường cùng phát triển. Thật sự thì tôi cũng không
biết nhiều về ngôi trường trung học công lập dành cho nữ
sinh đầu tiên ở miền Duyên hải này trong suốt 60 năm qua
nhưng tôi đã được hân hạnh biết về thầy Bùi Ngoạn Lạc vì
Thầy là giáo sư dạy toán trong thời gian tôi học ở Võ Tánh.
Ngoài ra, tôi còn là bạn học của chị Ngọc Bích, em của cô
hiệu trưởng Trần Thị Ngọc Thạch, nên cũng hân hạnh được
biết về Cô từ những ngày trường chưa hình thành.
Theo dòng thời cuộc, tôi trở lại Mỹ theo diện tỵ nạn Boat
People vào đầu năm 1980. Sau nhiều năm vất vả đối mặt với
cuộc sống, tôi đã may mắn có được cuộc sống khá ổn định
và hai con đã nên người. Con gái đã yên bề gia thất từ cuối
những năm 1990. Con trai đang làm việc tại Washington
D.C. Hàng năm chúng tôi đều đến thủ đô thăm con và từ đó
tôi đã rất may mắn được kết nối với các em trong nhóm Hoa
Đô mà đa số các thành viên là các cựu học sinh NTH Nha
Trang và hầu hết các chàng rể đều là những cựu học sinh VT.
Dù đã không dạy các em một ngày nào ở trường Nữ nhưng
76 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
tôi đã được các em "adopt" vào trong nhóm trẻ trung, hoạt
bát và rất dễ thương này.
Cùng một số em trong nhóm Hoa Đô (April 2021)
Chúng tôi đã được biết thêm các em cựu học sinh cũng
nhờ các kỳ hội ngộ VT&NTH Nha Trang hàng năm, bắt đầu
từ năm 2004 tại San Jose, California. Vào thời điểm đó em
Bùi Thị Lài (VT 1970) - một cựu học sinh - đã cất công tìm
kiếm các thầy cô “thất lạc” để nối lại nhịp cầu thân ái cho
mãi đến ngày nay. Nếu tôi nhớ không lầm thì em Lài cũng
chính là người đã có công xây dựng group mail cho hai
trường và nơi này đã trở thành diễn đàn chung cho đến ngày
hôm nay.
Về chuyện riêng thì ở lễ Vu Quy của tôi, các em nam
lớp này đã giúp nhà trai (từ Saigon ra) bưng mâm quả sính
lễ. Các nữ sinh lo phần tiếp tân và hai em nữ lớp khác nhận
làm phù dâu. Các em đã tặng tôi một búp-bê xinh đẹp. Sau
này tôi đã nâng niu mang về nhà chồng như một kỷ vật vô
giá của một thời dạy học. Từ đó đến nay đã có một số Thầy
Cô và các cựu học sinh thật dễ thương của hai trường đã giã
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 77
biệt chúng ta, vĩnh viễn ra đi đến một chân trời mới không
có muộn phiền. Các Thầy Cô cùng một số cựu học sinh còn
lại của hai trường, nhất là trường VT, cũng đang bước vào
tuổi hạc với những tháng ngày mong manh phía trước.
Vui Giáng Sinh cùng các em NTH
Lần sau cùng được gặp lại nhau ở hội ngộ là những ngày
cuối tháng Chín năm 2019 tại Orlando, Florida với sự nỗ lực
hết mình của các anh chị em ở đó, nhất là em Tố Anh (NTH
74) với nhiệm vụ là trưởng ban tổ chức. Thầy trò và bạn hữu
vui vẻ được gặp lại nhau gần như hàng năm thì đùng một cái,
COVID quái ác xuất hiện khiến mọi người, mọi mơi đều phải
“bế môn tỏa cảng”.
78 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 79
Vào ngày 11 tháng Tư năm 2021, thật là cảm động khi
tôi đã được các em trong nhóm Hoa Đô đón tiếp tại nhà Vũ
Phan Anh. Khi đó hầu như tất cả chúng tôi đều đã được chích
đủ hai liều vaccine. Mọi người rất xúc động và vui mừng khi
được gặp lại nhau vào mùa Xuân ấm áp ở vùng Hoa-Thịnh-
Đốn sau một thời gian dài “cung cấm”. Buổi họp mặt này đã
được hình thành với sự cố gắng hết mình của hai em Phan
Anh & Hiển cùng tất các em trong nhóm như Cung Lan,
Ngọc Hoa, Bạch Mai Anh, Tuyết Lan, Linh Đỗ, Hoàng Anh,
Diệu Phương... với các phu quân và một số bạn hữu. Cũng
may là lúc đó chưa bị Co Vy Delta ám ảnh! Thiệt cảm ơn
Trời Phật đã cho chúng tôi được gặp lại nhau sau một quãng
thời gian mà đa số gia đình nào cũng có biến đổi và mất mát,
trong đó có tôi!
Giờ này bồi hồi nhớ lại quá khứ viết lên những dòng chữ
tâm tình này để cảm ơn các em cựu học sinh đã xem tôi như
một người thân trong đại gia đình VT-NTH Nha Trang. Thật
là một duyên lành! Người Nha Trang đi đến đâu cũng thường
tìm đến nhau để cùng nhớ lại những ngày xưa ngây thơ và
thân ái ở thành phố biển mà tôi cho là đẹp nhất trong tất cả
bãi biển. Thành phố thật hiền hòa và bình yên thuở ấy với
hai trường trung học công lập nổi tiếng đã đào tạo nên biết
bao thế hệ nhân tài. Và thế hệ trẻ hơn chúng tôi là các em
trường Nữ Trung Học.
Với sự hướng dẫn tận tình đầy lòng thương yêu của các
Thầy Cô, các em đã trở thành những thiếu nữ đầy đủ công,
dung, ngôn, hạnh và thành công về nhiều phương diện, đặc
biệt là chan chứa tình người như các em mà tôi đã gặp trên
quê hương thứ hai này. Nhân đây tôi cũng xin cảm ơn các
em Vũ Kim Yến (NTH-70), Tôn Thất Hồ (VT-73) & Thanh
Phương, Nguyễn Đức Mỹ (VT-70) & Thúy Anh, Dương Đề
(VT-73) & Dung, Lê Mâu (VT-68) & Hoàng Lan đã đến
thăm ở vùng Florida xa xôi và nhiều bão tố này. Thật là
những ngày Hè tươi mát và tràn đầy niềm vui đối với tôi!
80 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Sinh nhật cô Trương Thị Hòa và PL (Florida, August 2021)
Xin cảm ơn cô Trương Thị Hòa đã không quản ngại
đường xa đến chung vui cùng các em cựu hoc sinh Võ Tánh
tại St. Petersburg và cho đi du thuyền ở Clearwater Beach
khi các em đến thăm Florida. Đó là những ngày thật vui và
đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên. Xin cảm ơn anh Văn Hùng
Đốc và chị Ngọc Diệp đã mời đến thăm tổ ấm uyên ương của
anh chị với rất nhiều cây cảnh đẹp tuyệt vời ở St. Petersburg.
Và cũng xin cảm ơn em Trương Minh Ánh đã giúp tạo điều
kiện cho các khách đường xa hưởng được những ngày hè
nắng ấm rực rỡ cùng gió mát trăng thanh khi màn đêm buông
xuống ở Indian Rock Beach khi thăm viếng Florida. Cảm ơn
hai em Cung Lan và Nguyễn Trần Tấm đã khuyến khích tôi
ghi lại những dòng cảm nghĩ này nhân dịp có đặc san Kỷ
niệm 60 năm ngày có quyết định thành lập trường Nữ Trung
Học Nha Trang (1960-2020).
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 81
Xin kính chúc Quý Thầy Cô tiếp tục hưởng được những
ngày vui khỏe và bình an. Thân chúc các em cựu học sinh
tiếp tục con đường mình đã chọn để tiếp tục giúp đời và giúp
mình.
GS Hồ Thị Phương Lan
St. Petersburg, Florida
August 2021
@ Đại hội họp mặt VT-NTH-NT @ Orlando, Florida, USA,
6-7 tháng 9, 2019. Từ trái: HTP Lan, PP Lang, TT Hòa
82 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Tặng những bạn hữu Canh Tý của tôi 83
Lương Mỹ Trang
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Đôi khi trong những giấc mơ trùng lặp của mình,
tôi thấy tôi trở về bên hiên của ngôi trường thiếu nữ,
ngồi ở bậc thềm cao nhất nơi cửa lớp, ngắm lá dương
rơi đầy trên lối đi, thuở tôi vừa tròn trăng, trước cái
ngày binh biến đổi đời ấy. Tại sao không là những hình
ảnh khác, những chốn khác, mà lại chính nơi ấy, vào
cái thời khắc ấy, tôi không giải thích được. Hình ảnh
ấy như cái gạch nối giữa quá khứ, hiện tại, và tương
lai, như một khúc quanh mà tôi chỉ có thể ngoái lại nhìn,
mà không thể đi trở lại.
Chúng tôi, thế hệ tròn trăng vào năm 1975 có năm
sinh cùng với ngôi trường nữ trung học công lập của
thành phố biển. Qua một kỳ thi mang tên “thi Đệ Thất”,
chúng tôi từ khắp các trường tiểu học, được sàng lọc
tinh hoa qua các môn Văn, Toán và Khoa Học Thường
Thức, nghiễm nhiên trở thành nữ sinh ở một trường
công lập danh tiếng: trường Nữ Trung Học Nha Trang.
Năm ấy, khóa tôi có 9 lớp Đệ Thất, nhưng chỉ có
một lớp Pháp Văn 6/1 với gần 60 nữ sinh. Chúng tôi
được mặc áo đầm trắng, giầy săng-đan đi học trong
hai năm lớp 6 và 7. Không còn như bậc tiểu học chỉ
học với một cô giáo, bậc trung học với các giáo sư dạy
các môn học khác nhau và một giáo sư hướng dẫn.
Niên khóa 71-72 giáo sư hướng dẫn lớp 6/1 là cô Kim
Thư, cũng là giáo sư Pháp Văn của lớp. Suốt bốn năm
đầu đời trung học, chúng tôi đã được học với nhiều
Thầy Cô: Cô Kim Thư, Cô Bích Trâm, Cô Giao, Cô
Anh, Cô Bạch Vân, Cô Thanh Trí, Thầy Đoàn Văn
Sảng, Thầy Thái Huy Bào, Cô Ngọc Hương, Cô Thanh
Mai … Hình ảnh Bà Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc, Bà
Tổng Giám Thị Nguyễn Ngân, Cô Giám Học Gia
Hương … cùng những vị Giáo Sư xinh đẹp, khả kính
còn in đậm nét trong trí tôi cho đến bây giờ. Thời ấy
trường Nữ Trung Học Nha Trang có hai địa điểm:
Trường “mới” trên đường Đinh Tiên Hoàng, và trường
84 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
“cũ” (theo cách gọi phân biệt hai địa điểm) trên đường
Lê Văn Duyệt. Chúng tôi, khối lớp 7 và 8 chuyển sang
học ở trường “cũ”. Ngôi trường đơn sơ với dãy lớp dài
lợp mái tôn, mùa khô nắng đổ lửa, mùa mưa nước tràn
lụt sân chơi, chúng tôi rón rén đi vào lớp trên những
viên gạch khập khễnh ai đó xếp hàng từ cổng vào.
Quãng thời gian chuyển mình từ trẻ thơ sang tuổi thiếu
nữ của tôi trải dài nơi đây, yên ả, ngoan hiền đến nỗi
mỗi ngày đến lớp đều đặn, suôn sẻ như những ô vở
kẻ thẳng tắp. Quả thật tôi không hề có những kỷ niệm
sóng gió in dấu ấn sâu đậm nào trong suốt bốn năm ở
ngôi trường thiếu nữ.
Mong manh em xiêm áo lụa dài
Thơ ấu gói trong viên ô mai
Ngậm nghe yêu dấu từng mạch máu
Như phố êm đềm những sớm mai (lmt)
Niên khóa 74-75 chúng tôi trở về học tại địa điểm
trường mới trên đường Đinh Tiên Hoàng vì trường cũ
chuyển giao cho trường Sư Phạm. Trường Nữ Trung
Học Nha Trang với Bà Hiệu Trưởng Tôn Nữ Diệu
Trang người nhận nhiệm sở từ năm 1973, mang tên
trường Nữ Trung Học Huyền Trân, bảng tên ngày khai
trường còn thơm mùi sơn mới.
Trường chúng tôi thuở ấy mùa hè không có hoa
phuợng, chỉ có vài cây phuợng non xanh mướt, thấp
ngang vai, mới được trồng dọc theo nhà để xe phía
bên trái. Tạo bóng mát cho ngôi trường miền biển là
những hàng dương mảnh mai giữa hai dãy lớp học.
Tháng Chín tựu trường, những trận mưa đầu mùa
trang điểm từng chuỗi ngọc lấp lánh trên lá, sáng bừng
trong trí tôi thế giới ảo diệu của văn chương, của từng
con chữ nhảy múa trên lối vào tuổi thiếu nữ.
Đây là khoảng thời gian tôi từ sách truyện tạp chí
Thiếu Nhi, Thằng Bờm, Tuổi Hoa … tìm sang nghiền
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 85
ngẫm thơ Nguyên Sa, thơ Thâm Tâm, Quang Dũng,
báo Tuổi Ngọc, Ngàn Thông … lục lọi sách báo trong
tủ sách gia đình để rơi vào thế giới chữ nghĩa đầy
huyền hoặc khó hiểu của tạp chí Văn, Bách Khoa, Khởi
Hành …
Thời gian êm đẹp của những năm trung học không
dài, nó kết thúc gọn ghẽ vào tuổi tròn trăng của ngôi
trường và của chúng tôi, những vầng trăng lạnh ngắt,
méo mó, ngơ ngác trước ngưỡng cửa thời cuộc tháng
Tư 1975. Thầy trò tan đàn sẻ nghé, khi về lại gặp nhau,
người còn kẻ mất, có những … tạ từ là hết người ơi…
Và như một định mệnh của lịch sử, chúng tôi giã từ
trường trung học để sang tiếp tục ba năm cuối trong
ngôi trường cấp III mang tên của nhân vật mà chúng
tôi hết sức mù mờ. Giữa tuổi tròn trăng, ngôi trường
Nữ Trung Học Huyền Trân của chúng tôi cũng bị bức
tử.
Những ngày cuối của mùa hè lịch sử, sửa soạn
cho kỳ thi vào lớp 10, tôi thường ôn thi hai môn học
Toán và Văn dưới những gốc dương, ngồi trong cái
yên vắng bóng người giữa trưa sân trường, hoang
mang về một tương lai không rõ nét, dập dềnh theo
tiếng sóng biển, tiếng hàng dương chuyển mình, tưởng
như mình cũng chuyển qua một bước ngoặc của cuộc
đời như chính số phận của ngôi trường.
Nếu như những năm trung học đầu đời êm ả
không lưu lại dấu ấn nào trong trí nhớ, thì học đường
sau đó lại là nỗi ám ảnh khôn nguôi của những giờ học
tập chính trị, chủ trương, chánh sách, của kiểm điểm,
bình bầu, phê phán triền miên hàng tuần, hàng tháng,
hàng quý, hàng năm … Sự cạnh tranh, kèn cựa, kiểm
điểm khiến tôi ngộp thở, cằn cỗi, nghi ngại, nó như một
thứ post-traumatic stress disorder suốt những năm
cuối cấp III. Nếu như trước đây truờng lớp dạy cho
86 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
chúng tôi tri thức và yêu thương, là cái nôi, là tổ ấm
của tình thương, thì sau cuộc đổi đời, sự phê bình,
đánh giá, kiểm điểm, nghi ngờ và lằn ranh yêu ghét đã
chắn ngang mọi hồn nhiên trong sáng của học đường.
Những năm sau này, có nhiều dịp đi ngang qua
ngôi trường xưa, nhưng tôi chưa bao giờ bước vào
chốn cũ, để có thể tìm lại chính tôi, cô nữ sinh trung
học đệ nhất cấp. Tôi, cô học trò tóc demi-garçon năm
xưa lớn lên trong nhọc nhằn khốn khó, áo lụa trắng xếp
lại, đôi guốc mộc đứt quai lưu lạc chốn nào xa lắm. Tôi
cũng lưu lạc nơi xứ người, tôi được những bàn tay
nhân ái không cùng ngôn ngữ nhưng chung tấm lòng
mở ra đón chào, đưa tôi an nhiên đi lại từ đầu. Tôi xếp
lại những cay đắng đầu đời, (turn your wounds into
wisdom -Oprah-) và mở ra những bài học nhân đạo từ
ngôn ngữ, môi trường xa lạ. Tôi trở lại trường lớp, khi
hội nhập với cuộc sống mới, có lúc tự hỏi: Ngày xưa
Huyền Trân Công Chúa sang Chiêm Thành liệu có bỡ
ngỡ như mình ngày nay chăng! Không giống như số
phận của Huyền Trân, tôi đã viết nên trang sử của đời
mình bằng may mắn, bằng tri thức của những năm cắp
sách đến trường, bằng hổ trợ mạnh mẽ của con nguời
và quê hương mới, bằng tất cả lòng hướng thiện và
yêu thương.
Yêu thương trải, gặt nhân hoà
Trùng phùng mưa nắng nở hoa an lành (lmt)
Mưa nắng mấy mùa đi qua như một chớp mắt lục
thập tròn niên, chúng tôi, những nữ sinh tuổi Canh Tý
ngày ấy - lứa vịt gà chưa đủ lông cánh - bị xô vào đời
ngơ ngác, chông chênh, bằng tất cả mọi nỗ lực tồn
sinh, đã tròn “lục thập nhi nhĩ thuận”. Ngôi trường sinh
cùng năm 1960 của chúng tôi chỉ còn trong tưởng nhớ.
Trong những giấc mơ, không biết có Thầy Cô, có bạn
bè Canh Tý nào như tôi, tìm thấy hành lang dài thanh
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 87
thoát tà áo trắng, những hàng dương vi vu trong gió,
cửa sổ lớp học nhìn vào bảng đen phấn trắng, ghế bàn
hai dãy ngoan ngoãn nằm yên, thấy mình nguyên vẹn
là Thầy, là Cô, là Học Trò hơn bốn lăm năm xưa, với
trọn tâm hồn trong sáng, mở rộng tầm mắt tới những
chân trời tri thức trên nền tảng của yêu thương, nhân
nghĩa lễ trí tín.
Riêng trong tôi còn chấp chới đôi cánh lụa trắng,
trắng như màu mây của bầu trời ở Darling Harbour
hôm nay, một sớm mùa hè rực nắng, tôi mở lại giấc
mơ đêm qua, để gặp mình ngồi bên gốc cây cũ, nếm
lại viên ô mai dịu ngọt của quá khứ, thấy lại đàn chim
trắng bay về cõi trần, viết lại câu chuyện cổ tích của
ngôi trường xưa, bắt đầu bằng hai tiếng “Ngày ấy …”
Lương Mỹ Trang
NTH HT 9/75
*Bao nhiêu kỷ niệm hoa bướm ngày thơ
Vang trong nỗi niềm nhung nhớ
Có ai đi thương về trường xưa?
(Trường Cũ Tình Xưa - Duy Khánh)
88 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
TRÖÔØNG NÖÕ TRUNG HOÏC
TRONG KYÙ ÖÙC TOÂI
Tô Bích Thư
NTH-NT(1964-1967)
Trước năm 1975, cha tôi là công chức. Năm 1964,
từ Ban Mê Thuột, cha tôi được điều động về Nha
Trang, nên tôi đã theo học tại trường NTH-NT trong 3
năm: đệ ngũ, tứ, tam (lớp 8, 9,10 bây giờ)
Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in,
ngôi trường NTH cũ tọa lạc ở đầu đường Lê văn Duyệt
(nay là Nguyễn thiện Thuật) với tường gạch, lợp tôn.
Mùa mưa thì nước ngập cả sân trường.
Chúng tôi phải nhặt từng viên gạch để bắc cầu làm
đường đi. Nhớ mãi trường NTH mới, ở đường Đinh
tiên Hoàng có hàng dương liễu nên thơ với những kỷ
niệm đẹp về tình thầy trò, nghĩa bạn bè.
Quên làm sao! Hình ảnh cô Hiệu Trưởng Bùi
ngoạn Lạc, cô Giám Học Lê thị Gia Hương và cô Tổng
giám thị Nguyễn Ngân. Cả ba cô đều tài sắc và đức độ.
Cũng không quên những giây phút cả lớp say mê theo
dõi bài giảng Việt Văn của cô Lâm Thu Tuyết và thầy
Ngô văn Lại. Thầy dạy tác phẩm "Truyện Kiều" của
Nguyễn Du và "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn gia
Thiều rất nhẹ nhàng và lôi cuốn. Giờ đây, thầy và cô
Tuyết đã bình an nơi cõi vĩnh hằng, để lại bao thương
tiếc. Nhớ cô Ngọc Hương dạy Vạn Vật với giọng Huế
nhỏ nhẹ. Lúc nào cô cũng dịu dàng thướt tha trong
chiếc áo dài lụa. Cô Bạch Vân dạy Nữ Công với dáng
đi uyển chuyển. Cô Thanh Trí dạy Hội Họa, có vẻ đẹp
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 89
rất Tây Phương về nét mặt lẫn vóc dáng. Nhớ thầy
Trung Trinh dạy Toán năm Tam A/1. Cách dạy của
thầy ngắn gọn, dễ nhớ. Có lần tôi và Phí Lan Hương
rủ nhau đi xem phim "Nữ hoàng Cleopatra" ở rạp xi-nê
Minh Châu. Hết phim, đèn sáng, tôi ù té chạy nhanh ra
khỏi rạp, vì chợt thấy thầy Trinh đang ngồi cách mấy
ghế!
Sau này, tôi theo gia đình chuyển lên Đà lạt học
tiếp đệ nhị và đệ nhất (nay là lớp 11,12). tôi có gặp lại
thầy Trinh trong những lần gặp gỡ giữa 2 trường Nữ
Bùi thị Xuân và Võ Bị Đà Lạt (thầy bj động viên dạy ở
trường VBĐL). Thầy vẫn nói năng nhỏ nhẹ kèm theo
nụ cười với nốt ruồi ờ gần miệng. Không hiểu sao ngày
ấy, tôi lại sợ thầy đến thế! Nhớ thầy Trung Can dạy
môn Lý Hóa hai năm Tứ 1 và Tam A1. Thầy mới ra
trường, lại hiền quá, nên mấy bạn ngồi cuối lớp hay
chọc phá, thường đem xoài, me, chùm ruột, muối ớt
dấu vào hộc bàn. Thầy quay lên, chuyền cho nhau ăn
vụng. Thầy quay xuống, giả vờ chăm chú nghe giảng
bài. Có bạn định rải lông mắt mèo gây ngứa lên ghế
thầy ngồi, nhưng chỉ "định" thôi, chứ không dám. Tôi
không sợ môn Lý Hóa, vì tôi học khá môn này ở lớp
cùng với Trần thị Thúy. Không hiểu sao, có một lần làm
bài kiểm tra môn Lý, gần hết giờ mà câu cuối tôi làm
mãi vẫn chưa ra, mặc dù ngày thường tôi dư sức làm
được. Thúy ngồi sát bên, đưa bài qua và nói nhỏ "chép
đi" nhưng tôi không thể. Thầy Can thấy vậy tội nghiệp
tôi quá, bèn đi ngang qua chỉ bài. Khi vào Sài Gòn học
năm thứ 1 ĐH, tôi có gặp lại thầy. Lúc này, thầy đã
chuyển vào SG dạy để được gần gia đình. Thầy trò
cùng nhắc lại những kỷ niệm vui ở trường NTH-NT.
Nhớ ngày 6-5-1966, cả trường đi cắm trại ở Cù
Lao Ngọc Thảo. Tôi và Trần thị Thúy, Đỗ thị Báu,
Phượng Y, ... (Tứ 1) rủ nhau ra bờ sông chơi, loay
hoay thế nào, tôi làm rơi 1 chiếc guốc xuống nước.
90 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Trên đường về, gặp thầy Can, nghe thầy hỏi: "Bích
Thư sao vậy? Sao lại đi chân thấp chân cao vậy?" Ôi,
thật là xấu hổ!
Nhớ năm 1967, lớp Tam A1 của tôi có tham gia thi
hợp ca trong một dịp sinh hoạt Văn Nghệ ở Trường và
Thành Phố. Tôi với Trần thị Thúy, Đỗ thị Báu, Thân thị
Ngọc Trang, Võ thị Thu, Phạm thị Kim, 2 chị em
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 91
Trương thị Huê và Trương thị Hương, ... khăn gói lên
đường ứng thí. Được thầy Hóa (thầy bị động viên, làm
ở Tiếp Vận 5) chọn giúp bài hát và tập hát để vào đúng
nhịp. Tôi hát bè chính và được thầy chọn nói lời dạo
đầu. Thế rồi, tiết mục hợp ca bài "Những dòng sông
chia rẽ" của nhạc sĩ Phạm Duy của bọn tôi đoạt giải
nhất. Cả bọn bèn kéo nhau ra quán chè bên hông
trường để tự thưởng. Thật là vui và hãnh diện, bù đắp
cho những ngày khổ công tập luyện.
Cũng trong năm này, tôi cùng Tăng lệ Dung, Phạm
thị Kim, ... (Tam A1) cùng 1 số bạn Tam C: Anh Loan,
Nhã, Hòa Diên, Hồ thị Nhung, Trần thị Tuyết, ... tham
gia ngày "Quốc Tế người cùi" ở bãi biển Nha Trang.
Sau một ngày mệt nhoài, bọn tôi đã thu được kết
quả tốt đẹp. Thật sung sướng biết bao khi nhận được
92 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT