Từ trái: Cô Minh Nguyệt, Cô Bích Trâm, Cô Ngọc Hương,
Cô Cung, Thầy Dũng, Thầy Tuyền, Thầy Lễ, Thầy Tước
Sáng hôm sau có giờ của Cô BT, Cô vừa mở sổ định gọi
học sinh trả bài chợt khựng lại vì nghe tiếng thút thít ấm ức
từ dưới vọng lên. Cô ngạc nhiên nhìn xuống thì thấy hai em
học trò hàng ngày vốn ngoan ngoãn và chăm học của Cô
đang ngồi khóc! (Sự thật là khóc mãi từ chiều đi trực hôm
trước, qua cả đêm và đến sáng hôm sau đi học vẫn chưa
nguôi!) Cô hỏi han ân cần mới rõ chuyện, tuy rằng Cô không
thể xin thầy D xóa ‘lời phê xấu’ trong sổ, nhưng hai em học
trò sau đó hết khóc vì được Cô an ủi cảm thông. Khi lên lớp
9, gặp ngay thầy D với cặp kính đen bước vào lớp dạy môn
Anh Văn, tôi và bạn H vẫn còn nhớ cảm giác sợ và giận thầy.
Thế mà sau đó ít lâu, cả hai đứa tôi lại là những học sinh
chăm chỉ được Thầy thương nhất lớp.
Mấy chục năm sau với nhiều biến cố liên tiếp ập đến
cho biết bao người của buổi giao thời, trong đó có các Thầy
Cô và lũ học sinh chúng tôi. Mãi đến năm 2008, khi đã ổn
định cuộc sống phần nào, nhớ thầy xưa nghĩa cũ, bạn bè cùng
tôi mới có dịp lần mò đi tìm từng Thầy Cô để mời về họp lớp
lần đầu tiên. Tôi đã mời được cô BT, cô MN là hai giáo sư
hướng dẫn lớp Sáu và lớp Bảy, cùng một số Thầy Cô khác,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 393
đặc biệt có cô C dạy Anh Văn mà giờ ngoại ngữ với Cô luôn
vui vẻ và hứng khởi, có cả thầy D “điệp viên” mang kính đen
đã phạt tôi tội ăn xoài trong giờ trực năm xưa. (Giờ đây con
chưa quên chút nào hết Thầy ơi nhưng con không còn buồn
Thầy nữa.) Những lần họp lớp thật vui và cảm động như sống
lại thời Thầy Cô và học trò bên nhau cùng phấn trắng bảng
đen đầy yêu thương... Nhưng cũng chỉ được hai ba lần rồi
cũng không tổ chức hằng năm được nữa, thầy D, cô MN, cô
BT... đều đã đi về một nơi thật xa không còn muộn phiền
như chốn bụi hồng này!
Cách đây
bảy năm, 2014,
cô BT qua đời
vì một cơn đột
quỵ, cô nương
cánh hạc về
trời, để lại Thầy
một mình với
bao ngang trái
đường trần.
Năm 2018, khối
Từ trái: Cô Minh Nguyệt, Cô Bích Trâm cấp ba tổ chức
về lại trường xưa sau bốn mươi năm, lớp tôi đến nhà thăm
và mời Thầy về hội ngộ. Chiều khá muộn, chút nắng liêu
xiêu chiếu trên vai Thầy đang ngồi cặm cụi gọt khoai ở mảnh
sân nhỏ trước nhà. Thầy ngước đôi mắt mờ đục xa xăm nhìn
hai đứa học trò cũ, không nhận ra cũng không phản ứng gì.
Nhưng khi nghe đến tên bạn C và tên tôi thì nét mặt Thầy
mới có chút rạng vui. Có lẽ trong ký ức xa xôi nào đó, những
cái tên ấy với Thầy Cô đã có lúc rất gần, rất thương, và tôi
tin như vậy.
Chúng tôi lần theo những bước chân xiêu đổ yếu ớt như
muốn ngã khuỵu bất cứ lúc nào của Thầy bước chầm chậm
vào nhà. Nhìn quanh nơi Thầy ở... lòng tôi thêm đau xót!
Đứng trước bàn thờ Cô, Thầy đốt hai nén nhang và thì thầm...
394 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
“C và Đ đến thăm, thắp nhang cho em đây nè...” Tôi lặng
ngắm di ảnh Cô mà nghẹn ngào không cầm được nước mắt...
Tôi cũng thầm nói: Cô ơi, tuổi già của Thầy sao buồn và cô
đơn quá! Rồi một năm sau, tôi nghe tin Thầy cũng về với
Cô, giã từ một cuộc đời có lẽ vui ít buồn nhiều. Tôi tin chắc
Thầy Cô sẽ tương phùng ở một nơi nhiều màu xanh của tình
yêu thương và thêm đủ sắc màu của hoa thơm cỏ lạ.
Cô Ngọc Hương, Cô Cung và các học sinh lớp 9/2
Hôm nay, ngồi viết những dòng này, tôi rất thương nhớ
những Thầy Cô rất đáng kính trọng của mình, đã dạy dỗ
thương yêu tôi từ lúc còn chưa biết đọc, hoặc đã từng cầm
tay tôi tập viết, uốn từng nét chữ. Tình nghĩa ấy có bao giờ
cũ, lòng tôn kính đâu có lúc nào phai. Những người may mắn
thường được hưởng một tài sản tinh thần thật quý giá từ gia
đình và các Thầy Cô để mang theo gần như suốt cuộc đời.
Tôi có diễm phúc được là một trong số những người đó. Tận
đáy lòng, tôi vô cùng biết ơn các Thầy Cô đã dạy dỗ và dìu
dắt chúng tôi dưới những mái trường thân yêu.
Nguyễn Thị Thanh Điền (NTH-HT 9/75)
Nha Trang, tháng 9 năm 2021
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 395
Toâi ñaõ tröôûng thaønh
nhö theá ñaáy!
Phan Thị Ngọc Anh
Tôi! Một đứa trẻ mồ côi cha từ
lúc chập chững biết đi. Mẹ tôi đã dành
cho tôi tất cả tình yêu thương của
Người để bù đắp sự thiếu thốn tình
phụ tử. Được nuông chiều, tôi mải vui
chơi và không chăm học trong suốt
những năm tiểu học …
Nhưng thật may mắn, tôi được
đậu vào lớp 6 của trường Nữ Trung
Học Nha Trang. Ngày tôi nhập học, Mẹ tôi mừng đến rơi lệ!
Tôi vẫn vô tư và mải vui chơi trong ngôi trường mới…
Thế rồi, trời đất quanh tôi như sụp đổ, sự bất hạnh lại bủa
vây tôi!!! Than ôi! Mẹ tôi qua đời sau một cơn bạo bệnh…
Sau những ngày tang lễ của Mẹ, tôi đến trường với tâm
trạng hụt hẫng, bơ vơ và lạc lõng. Các bạn nhìn tôi đầy ái
ngại, nhưng những đứa trẻ con thì biết làm gì để giúp đỡ lẫn
nhau đây…
Một phần vì sức học không tốt lắm, phần vì nhớ thương
Mẹ nên tôi đã sa sút rất nhiều về sức khỏe, tinh thần cũng
như học tập. Thương cho thân phận của tôi, thầy hướng dẫn
lớp tôi, thầy Phạm Vinh đã dùng mọi cách để vực tôi đứng
dậy.
Thầy quan tâm đến tôi với tình thương yêu của một
người cha. Thầy luôn an ủi, vỗ về, động viên, và cả la rầy…
Thầy chăm sóc những điều cần thiết, chú ý điểm số của tôi
trong sổ đầu bài, những sinh hoạt của tôi với các bạn tại lớp,
396 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
tại trường. Không một hoạt động nào của tôi mà Thầy bỏ sót,
Thầy còn sửa cho tôi những bài viết văn nữa chứ…
Điều mà chắc ít có ai biết đến là mỗi khi tan học, nếu
Thầy có tiết cuối ở trường Thầy đều chở cho tôi về nhà. Trên
chiếc xe Honda 50 của Thầy, tôi và bạn Lương Thị Hồng
(bạn Hồng ở gần nhà tôi, hai đứa vẫn cùng nhau đi bộ đến
trường) thường giành nhau ai ngồi trong (sau lưng Thầy), ai
ngồi ngoài… Ai được ngồi trong thì thật là vui trong suốt
quãng đường về nhà.
Thầy hay cho tôi về nhà Thầy chơi trong những ngày tôi
được nghỉ học. Tôi rất thích thú và thật vô cùng hạnh phúc
khi được bà Nội (mẹ Thầy) và cô Cúc Hương (vợ Thầy là
một người phụ nữ duyên dáng, dịu dàng và rất nhân ái) yêu
thương như con cháu và được chơi với các em con của Thầy
(khi ấy các em còn bé lắm).
Điều tôi thích nhất khi đến nhà Thầy là được nhìn thấy
phòng đọc sách của Thầy, một thư viện nhỏ gói gọn những
tinh hoa, kiệt tác… Nhìn những quyển sách dày, bìa cứng,
gáy vàng bằng tiếng nước ngoài thẳng tắp, trật tự bên nhau,
tôi thầm thán phục Thầy mình sao mà giỏi quá, sao mà uyên
thâm, bác học đến thế… và tự hỏi mình, khi nào mình có thể
đọc được những cuốn sách ấy nhỉ? Lòng ham học để có thật
nhiều kiến thức trong tôi bắt đầu nhen nhúm từ đây…
Ngày qua ngày tôi được Thầy nâng bước với tất cả tấm
lòng và tình thương của một người Thầy dành cho đứa học
trò bé nhỏ bất hạnh và côi cút.
Tháng ngày dần qua đi rồi cũng đến kỳ nghỉ hè, Thầy
dặn dò tôi những điều cần thiết phải làm, phải nhớ, phải cố
gắng thật nhiều…
Khi tôi vào lớp 7, hai bác tôi đã đón chị em chúng tôi về
nuôi dưỡng. Gặp lại tôi sau hai tháng hè Thầy đã rất an lòng
khi biết được tôi đã có bác cưu mang, dạy bảo.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 397
Lên lớp 7, tôi khôn lớn hơn, hiểu được thân phận của
mình và tôi luôn nhớ đến tình thương của Thầy đã dành cho
tôi, Thầy cho tôi niềm tin, niềm hy vọng, điều này dã khiến
tôi ý thức nhiều hơn, chăm học và luôn giữ hạnh kiểm tốt để
không phụ ơn Thầy.
Với cái đà học tốt, những năm tiếp theo trong mái
trường thân yêu, tôi luôn là học sinh có nhiều thành tích.
Ngày tháng cứ dần trôi, biết bao thay đổi của thời cuộc,
biết bao nghịch cảnh của số phận và cuộc đời, tôi không hề
ngã gục, luôn đứng vững trong tâm thái bình yên.
Giờ đây tôi không phải là người thành đạt nhưng tôi biết
mình đã thành nhân, là người dân lương thiện với tấm lòng
rộng mở, biết thương yêu và giúp đỡ những mảnh đời bất
hạnh, biết chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Tôi thực
hiện những điều trên không một chút chần chừ, ngần ngại,
vì tôi thiết nghĩ chỉ có tình thương mới giải quyết mọi điều
và hóa giải được mọi cản ngăn… Nhờ tình thương của Thầy
chắp cánh mà tôi đã vượt qua mọi khó khăn ban đầu, giúp
cho tôi có nghị lực vượt qua mọi thử thách của cuộc đời khi
tôi còn quá nhỏ. Một đứa trẻ bơ vơ, ngỡ ngàng, tập tễnh bước
vào ngưỡng cửa trung học trong sự thiếu vắng mẹ cha nhưng
lại có tình thương và lòng bao dung nhân hậu của một người
Thầy.
Thầy ơi! Tình yêu thương của Thầy dành cho con, con
luôn ghi nhớ và khắc sâu… Vậy mà đã hơn 50 năm con chưa
có dịp bày tỏ sự biết ơn sâu sắc của mình đối với Thầy và cô
Cúc Hương. Xin Thầy Cô nhận nơi đây lòng kính trọng và
tin yêu của con cũng như lời tạ tội chân thành nhất về sự
thiếu sót của con trong thời gian qua.
Con mãi mãi tri ân Thầy - người Thầy và người Cha
tuyệt vời của con.
Phan Thị Ngọc Anh
(NTH – 6/71)
398 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nhöõng ngayø cuoiá cuøng
Song Hát
Tôi đến trường vào
những ngày cuối tháng Ba
năm ấy, năm mà tất cả học
sinh được bãi trường vào
tháng Ba thay vì nghỉ hè vào
cuối tháng Sáu như mọi
năm. Mới cách xa hơn tuần
mà tôi đã thấy nhớ trường,
nhớ lớp, nhớ thầy cô, nhớ
bạn bè.
Cái thành phố biển an
bình, từ cả tháng nay bỗng
dưng xôn xao, náo động hẳn lên. Đường xá đông đúc
tấp nập xe cộ ngược xuôi, những khuôn mặt lạ, những
tiếng trọ trẹ lạ tai mỗi ngày mỗi nhiều. Cả thành phố,
từ kẻ xa lạ đến dân ngụ cư ai nấy đều có chung một
khuôn mặt căng thẳng, lo lắng một cách bất bình
thường.
Đến gần cổng trường, đập vào mắt tôi là những
đoàn người kẻ gồng người gánh, kẻ ôm đồm khuân
vác, người tay xách nách mang lỉnh kỉnh, những bà mẹ
trẻ tay ẵm tay bồng, lũ trẻ con nhem nhuốc túm chặt
ống quần mẹ, kẻ đùm túm dắt díu nhau qua cổng để
vào sân trường. Họ, từ ông già bà cả đến đàn bà con
trẻ, tất cả áo quần lôi thôi, lếch thếch nhuốm đầy bụi
đường, mặt mũi bơ phờ, mệt mỏi.
Sân trường cách đây chưa tròn tháng tràn ngập
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 399
những tà áo trắng tinh khôi bay lượn trong gió; những
làn tóc mềm mại ôm bờ vai mỏng mảnh thiếu nữ;
những bước chân thong thả nhẹ nhàng thục nữ của
các cô điệu đà làm dáng; tiếng cười đùa khúc khích; to
nhỏ chuyện trò ríu rít như chim. Một bức tranh của một
rừng bướm trắng tung tăng bay lượn trong vườn ngập
nắng xuân.
Hôm ấy trong mắt tôi, mái trường thân yêu như một
toà nhà bỏ hoang lâu ngày bị phủ lên một màn bụi làm
nó trở nên cũ kỹ, tiêu điều. Tràn ngập nơi nơi; la liệt
nằm ngồi từ ngoài sân, các bậc tam cấp, các hành lang
đến cửa lớp rồi tràn vào trong phòng ốc tất cả như mặc
đồng phục màu bụi bặm đất cát. Cuộc hành trình
đường bộ qua bao nhiêu dặm đường gian nan nhiêu
khê đã nhuộm cho họ bộ đồng phục màu bụi đường;
da khét nắng; mái tóc cằn cỗi xác xơ; đôi chân trần nứt
nẻ rướm máu; khuôn mặt ảm đạm sỏi đá. Màu của dân
tản cư !
Những người đàn bà với những đôi chân trần nứt
nẻ, con thơ trong tay hờ hững, thẫn thờ bước những
bước vô hồn, áo quần xộc xệch. Những người phụ nữ
đầu tóc lưa thưa rũ rượi, cháy nắng như những cành
dương liễu lá lưa thưa rũ rượi không kém dưới những
làn khói của bếp củi tạm bợ vội đốt lên ngay bên gốc
mà củi là những cành thấp vừa tầm tay với. Khói bếp
mù mịt cũng làm héo úa những cây sầu đông gần bên
như những ông bà cụ nằm la liệt trên hành lang sau
cuộc bộ hành tưởng không bao giờ đến đích. Tất cả
không biết mình đã đuối sức kiệt quệ cho đến khi chen
chân dọn được một nơi làm chỗ nghỉ chân. Thân thể
rã rượi như không thể bước thêm một bước chân, giơ
một cánh tay, giương nổi mi mắt đờ đẫn khép.
Những đứa trẻ cũng không còn sức để chạy nhảy
nô đùa. Chúng ngồi yên lặng bên mẹ, bên ông bà
400 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
giương đôi mắt to ngơ ngác nhìn quanh dáo dác dò xét
khung cảnh lạ lẫm của chốn nghỉ chân. Chúng như
cảm nhận được đây không phải là lúc để làm phiền đến
mẹ. Chỉ có tiếng khóc oằn oặt của những đứa bé đang
khát sữa át đi những tiếng ho khô khốc của vài cụ già.
Các anh chị lớn lập danh sách người tản cư, danh
sách tìm thân nhân thất lạc và nhu cầu cấp thiết cho
từng gia đình. Nhóm tôi bốn đứa chúng tôi lo khu vực
văn phòng thầy cô trước kia, được chia công tác đi lau
rửa, xức thuốc các vết thương ngoài da cho đồng bào,
trông chừng nồi cháo lớn đang nấu ngoài sân và đồng
thời chờ nước sôi pha gấp sữa cho các em bé đang
gào khóc và cho các bô lão yếu đuối.
Ba mẹ tôi bận rộn lo toan cho cuộc sống gia đình
nên không một ai để ý đến sự vắng mặt của tôi. Hằng
ngày đến trường tôi phát bánh kẹo lén lấy từ cửa hàng
của mẹ cho những đứa bé. Những viên kẹo nhiệm mầu
như đem lại sức sống, sự hồn nhiên vô tư lự trở về với
bọn trẻ. Chúng líu lo, cười đùa với nhau nhưng vẫn còn
e dè sợ làm phiền đến người lớn vẫn còn hằn nếp nhăn
lo nghĩ ngổn ngang trên mặt.
Được gần tuần thì một hôm ba mẹ không cho đứa
nào được ra khỏi nhà hôm ấy. Mẹ bắt chúng tôi mỗi
đứa soạn ba bộ quần áo và vài thứ cần thiết bỏ chung
vào một va li lớn. Trưa hôm ấy xe của sở ba đến đón
chúng tôi sáu đứa cùng ba ra phi trường vào Sài Gòn.
Mẹ và các chị ở lại nhà và sẽ vào sau. Lũ con nít chúng
tôi háo hức lên xe mà không bao giờ ngờ là ngày cuối
cùng ở Nha Trang, một buổi chia ly không biết có ngày
trùng phùng.
Sài Gòn rất xa lạ với bọn trẻ chúng tôi và từng là
niềm ao ước được một lần ghé bến. Chúng tôi tạm trú
tại nhà một người bạn của ba, cư xá Lê Đại Hành gần
trường đua Phú Thọ. Dù không tập trung vào trại tạm
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 401
cư nhưng cả nhà tôi giờ là dân tản cư. Các anh em con
bác hằng ngày vẫn đến trường, bác trai thì ở luôn trong
trại thỉnh thoảng mới đáo về nhà. Bác gái và cô con gái
lớn bận rộn buôn bán ngoài chợ, chỉ còn bà nội ở nhà.
Ba tôi tất tả ra đi từ sớm sau khi dặn dò tôi lo cho các
em. Sáu đứa chúng tôi lủi thủi ngồi chơi ngoài hàng
hiên ngắm người qua lại.
Hai hôm sau ngày đến Sài Gòn, chúng tôi không
còn liên lạc được gia đình còn lại ở Nha Trang. Điện
tín không gửi đi được và chẳng còn cách nào biết tin
tức ở nhà. Thế là Nha Trang thất thủ. Những lo lắng
hằn rõ trên nét mặt của ba tôi. Lũ chúng tôi chỉ hiểu lờ
mờ chiến tranh đã đến hồi khốc liệt nhưng cũng chẳng
nghĩ ngợi gì nhiều.
Mỗi ngày ba tôi vẫn tất tả ra đi và chiều về nằm vắt
tay lên trán chợp mắt dăm ba phút nghỉ mệt. Chiều tối
hôm đó ba gọi tôi đến, giao tôi một số tiền lớn dặn tôi
ba đi vắng không ở nhà lo cho các con, tôi phải ở nhà
trông nom các em và phụ lo cơm nước cho cả nhà với
bác gái. Tôi mạnh mẽ nhận trách nhiệm dù tôi chẳng
biết mình sẽ phải làm gì và làm như thế nào. Tôi, một
đứa con gái ăn chưa no lo chưa tới, lơ đễnh, ham vui,
chưa biết chuyện chợ búa, bếp núc thì làm thế nào lo
cho một lũ nhóc. Tôi cũng chẳng biết đường xá, đi
đứng mà cũng chẳng quen biết một ai thì xoay sở ra
làm sao.
Tối nằm ngủ tôi trằn trọc thao thức mãi. Vừa nghe
tiếng bác và chị lục đục ra chợ từ năm giờ sáng khi cả
nhà còn an giấc. Tôi trở dậy và tỏ ý theo bác ra chợ
cho biết. Sau lúc bận rộn buôn bán phụ mẹ, người chị
con bác dẫn tôi ra hàng rau, hàng thịt cá đi chợ và
chúng tôi cùng nhau làm cơm trưa cho cả nhà và lo
toan bữa cơm chiều cho gần hai mươi người lớn bé.
402 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Tôi, một đứa học hành lơ tơ mơ, chểnh mảng lại
dễ dàng hội nhập chuyện mua bán, cơm nước lo toan
mọi việc mà ba giao phó. Lúc trước còn ở nhà mẹ sai
làm gì tôi còn ganh tỵ từng việc với các anh chị em mà
giờ tôi lại biết cố gắng chu toàn mọi việc.
Nhiều đêm nằm thao thức nhớ về Nha Trang tôi lại
nhớ đến những ngày cuối cùng ở trường bên những
người di tản, tôi lờ mờ nhận thức được cái tàn khốc
của chiến tranh. Nhớ đến những đau đớn, những mất
mát, chia đàn xẻ nghé, những ngổn ngang qua các câu
chuyện của mọi người tôi lại thao thức suy tư. Tôi nhớ
đến những bàn chân nứt nẻ, rướm máu, những vết lở
loét trên da thịt, những thiếu thốn cần thiết cá nhân của
người chạy loạn.
Trưa hôm sau, dọn dẹp xong chén bát tôi dọ dẫm
ra chợ tìm đến gian hàng của bác ngỏ ý muốn mua ít
thứ và nhờ bác giúp vì tôi không biết giá cả mua bán
như thế nào. Bác dẫn tôi đến những nơi thân quen tin
cậy để mua những thứ tôi cần. Tôi mua vải, mua chỉ,
Iodine, Vaseline, băng cá nhân, thuốc đau răng và một
số vật dụng cá nhân khác. Tôi mua cho mỗi người
thêm một đôi dép và không quên mua cho ba hai cây
thuốc Basto Xanh. Tôi tự tiện quyết định lo toan mọi
công việc mà tôi nghĩ cấp thiết cho thời buổi loạn lạc
này.
Từ hôm đó, trưa nào tôi cũng mày mò hì hục may
vá. Tôi may cho ba và bốn ông con trai mỗi người hai
cái quần đùi theo như cách may quần đáy giữa mà cô
Bạch Vân đã dạy ở trường năm lớp chín. Tôi lại mua
vải dày hơn để may bốn cái túi vải có ngăn nhỏ để
đựng tiền. Tôi lại chia đều những thứ đã mua xếp gọn
vào từng túi, gói một ít tiền và một tấm giấy ghi rõ tên
tuổi cũng như địa chỉ cha mẹ vào ngăn nhỏ cài kim
băng cẩn thận. Xong xuôi các thứ tôi tụ tập các em lại,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 403
chỉ bảo dặn dò. Chúng tôi sáu đứa chia làm ba cặp; tôi
với đứa em gái, một cặp; bốn ông con trai làm hai cặp.
Khi có biến cố thì cố gắng đi chung với nhau, cặp nào
theo cặp nấy trông chừng lẫn nhau. Nếu có lạc bầy thì
mỗi cặp phải tự lo lấy cho nhau, đứa bé phải luôn nghe
lời đứa lớn.
Tôi không biết các em tôi có hiểu và nhận thức
mức độ nghiêm túc những lời của tôi đến độ nào vì
đứa bé nhất mới lên bẩy. Biết làm sao khi không có
người lớn chị bảo. Ba thì đi vắng, mẹ và các chị giờ
không biết ra sao? Ba đã tin tưởng giao tôi trách nhiệm
lo cho các em mà không dặn phải làm những gì. Tôi tự
nhủ phải cố gắng chia bớt gánh nặng cho ba và để ba
được yên tâm.
Một hôm ba về nhà, có bác trai và các chú em bác
ngồi bàn bạc tình hình biến động trong nước một cách
nghiêm trọng. Hôm sau, ba gọi sáu đứa chúng tôi ra
sân nói chuyện di tản ra nước ngoài và nên đi hay ở.
Đó là một ngày gần cuối tháng Tư. Ba tôi là một người
rất là dân chủ luôn để các con có tiếng nói của mình.
Nhưng chuyện này thì quá tầm hiểu biết của chúng tôi,
chúng tôi chỉ biết nghe mà không biết góp ý như thế
nào. Ba kể chuyện ngày xưa ba mẹ di cư vào Nam và
ba mẹ chưa hề được gặp lại cha mẹ, anh chị em, họ
hàng hai bên nội ngoại. Trong trường hợp của chúng
tôi lúc này cơ hội gặp lại mẹ và các chị thật là vô vọng
và không biết sẽ sinh sống như thế nào ở xứ người.
Tôi thấy tội nghiệp ba tôi quá, quả là bài toán nát óc.
Con cái còn nhỏ đang tuổi ăn tuổi chơi mà lại không có
người đồng hành cùng chung tay gánh vác, làm gì để
sinh sống nơi xứ người với ngôn ngữ bất đồng.
Ba hỏi rồi ba tự quyết định, ra đi. Ba nhất quyết bỏ
lại quê hương, vợ và các con lớn vì tương lai của sáu
đứa bé chúng tôi. Những kinh nghiệm sống trước khi
404 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
di cư vào Nam đã mách bảo cho ba phải dứt bỏ những
yếu đuối, đau đớn, ray rứt trong lòng.
Ngồi trong lòng chiếc C-130 vận tải của quân đội
Mỹ rời phi trường Tân Sơn Nhất, nước mắt tôi tuôn rơi
không ngừng. Nghĩ đến ngày cuối cùng chia tay bạn
bè, thầy cô trường lớp; ngày cuối cùng quây quần bên
mâm cơm gia đình đầy đủ cả nhà; ngày cuối cùng trên
quê hương, trên nước Việt Nam thân yêu mà giờ phải
chia xa biết đến bao giờ trở lại, tôi lại nức nở. Mỗi cột
mốc ngắn ngủi của những ngày cuối cùng tôi lại mất đi
một phần đẹp đẽ nhất cuộc đời. Những ngày ấy nào ai
nghĩ sẽ là cuối cùng. Ngày cuối cùng chia tay với bạn
bè tôi vẫn nghĩ sẽ gặp lại tất cả vào niên học mới sau
những ngày nghỉ hè. Ngày rời Nha Trang tôi nghĩ mình
sẽ trở về, sẽ cùng cả nhà đoàn tụ như xưa. Duy chỉ có
ngày rời quê hương, tôi hiểu rằng, tôi mất tất cả.
Tôi chưa bước vào tuổi thơ mộng hoa bướm tươi
đẹp nhất của tuổi học trò đầy mộng mơ, nhiều ao ước.
Tôi chưa đủ khôn lớn mà tôi đã phải làm người lớn,
phải lo toan gồng gánh trách nhiệm. Các em tôi mất đi
bàn tay người mẹ chăm sóc thương yêu, dạy dỗ khi
còn quá bé. Chúng cũng như lũ trẻ chạy loạn mà tôi đã
gặp ở trường đã đánh mất tuổi thơ hồn nhiên vô tư
trong sáng. Chúng cũng như tôi phải tự học hỏi, phải
biết tự lớn lên qua biến cố đến trong cuộc đời, qua từng
nét ưu tư của người xung quanh.
Những đêm đầu tiên định cư trên xứ người, tôi trằn
trọc khó ngủ. Đêm thiếu tiếng đì đùng của đại bác từ
nơi xa xăm nào vọng về ru tôi vào giấc ngủ an bình.
Song Hát
Edmonton,
Ngày cuối cùng của tháng Chín, 2021
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 405
Biển Và Nỗi Nhớ
NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN
Tôi về thăm biển Nha Trang,
Đêm xanh ngơì , đêm diệu vợi,
Bôñ g nhớ những đêm răm̀ thơì thơ ấu,
Hai mẹ con ngôì bên biển,
Trăng nghiêng bát ngát môṭ maù ,
Con tựa đầu vaò vai mẹ,
Nghe ngoṭ ngào, ấm aṕ ,
Mẹ chỉ ngôi sao sáng nhât́ ,
Thì thầm,
406 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Trên kia, Ba đang cùng ngăḿ biên̉ ,
Se sắt, chạnh lòng,
Mẹ vâñ không nguôi thương nhớ,
Dù Ba đã đi thật xa,
Vẫn raṇ g ngời ań h hào quang trong Mẹ…
Chập chuǹ g sóng vô,̃
Chạm vào nôĩ nhớ ngày xanh,
Miên man ký ức,
Tôi lần theo dấu xưa,
Về miêǹ biển nhớ rưng rưng…
Nhớ ngày khai trường năm Đệ Ngũ,
Xuń g xiń h mặc chiêć aó dài đầu tiên trong đời,
Lâng lâng hit́ mùi thơm luạ mơí ,
Tà áo trắng tinh khôi,
Đôi guôć môc̣ có vẽ caǹ h hoa lan tim tím,
Maí tóc daì e âṕ bờ vai,
Thấy mình thật lạ lâm̃ trong gương,
Xanh mướt bước chân hoc̣ tro,̀
Naó nức, tự haò là nữ sinh trường Nữ Trung
Học Nha Trang,
Năń g sớm mai rưc̣ rỡ reo vui,
Như lòng tôi đang rôṇ ra:̃
“Phaỉ hoc̣ thâṭ giỏi,
Phaỉ thật ngoan,
Và biêt́ vươn đêń nhưñ g ước mơ cuả tuôỉ
thanh xuân.”
Trường lớp thân yêu,
Cùng Thầy Cô, bè baṇ ,
Hoc̣ tập, chuyêṇ tro,̀
Chia sẻ yêu thương.
Tôi ngôì bên cửa sô,̉
Ngăḿ sân trường aó trắng lung linh,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 407
Nhưñ g chú chim sẻ maĩ đuà vui cùng hạt nắng,
Tiêń g hót trong ngâǹ ,
Bướm râp̣ rơǹ goị gió cuǹ g rong chơi…
Cơn mưa đến vôị va,̃
Hồn tôi cũng đong đưa,
Haǹ g dương xanh thăḿ ,
Mấp mé bờ xuân,
Bụi phố trôi nhanh,
Trong veo ở lại.
Hôǹ nhiên tuổi học trò,
Mơí giâṇ đó, rồi bá vai chung bước,
Cuǹ g ngoeó tay, bỏ ghet́ thành thương,
Chia nhau nụ cươì ,
Có cả hương vị ngọt chua cuả xoài, me, coć … chấm
mắm đươǹ g,
Nhưñ g sớm mai hoa ngàn hé nụ,
Con đường Duy Tân lôṇ g gió,
Ngan ngát hương bàng,
Hàng cây rơp̣ bóng mát,
Lá xanh nghiêng vá năń g dịu dàng,
Cả nhóm như đaǹ chim ríu rít,
Xe đạp bon bon,
Luć naò cuñ g như lần đâù mới thâý biên̉ ,
Nghe dạt dào biển rộng,
Nghịch ngợm đuôỉ theo những chú dã tràng đang
cuống quyt́ chạy trôń ,
Hay tung tăng giơñ soń g,
Lao xao soń g xô vào bờ,
Sủi bọt trăń g xoá ,
Nghe làn nước mát lạnh ve vuốt baǹ chân trần,
Bồng bềnh, chơi vơi…
Nhưñ g tà áo dài thươt́ tha cánh bướm,
Giờ lâḿ lem, suñ g ướt,
408 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Thênh thang gió ngat́ soń g ngàn,
Lòng rộng mở và thắm xanh như biên̉ ,
Cuǹ g nhau cất cao tiêń g hát,
Tay trong tay, siêt́ chặt môṭ vòng tròn,
Những đôi mắt long lanh,
Những tiếng cười gioǹ giã,
Chỉ có yêu thương và niềm vui thơ ngây bất tận,
Thôỉ vơǹ tóc mây và những đôi má hồng hây hây
trong nắng,
Nắng thuỷ tinh sáng trong như tuổi học trò…
Giờ đây, tôi ngôì trước biên̉ Nha Trang,
Rì rào sóng vô,̃
Vẫn ań h trăng xưa,
Xao xuyêń maù trăng huyêǹ ảo,
Goị thơì gian một thoáng vô cùng,
Nước măt́ rơi hay sương đêm loang loáng,
Ký ưć mù khơi,
Thâỳ Cô, bạn cũ đâu rồi?
Vẫn đêm ngát xanh,
Thơm nôǹ g hương biển măṇ ,
Biên̉ mênh mông sâu lăń g,
Như Tiǹ h Mẹ dành cho con,
Tuôỉ thơ tôi lai láng, bôì hôì ,
Con nhớ Me,̣ Mẹ ơi, con nhớ Me,̣
Xa rồi ngày cũ ngây thơ,
Biển đêm vẳng khúc “âù ơ”Mẹ hiền…
NGUYỄN THỊ NGỌC VÂN
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 409
Nhớ Nha Trang Xưa!
Nguyễn Thị Ngọc Vân
Nha Trang,
Tiếng yêu đầu đời ảo diệu, kỳ bí,
Như tiếng sóng biển rì rào, thiết tha,
Dù lang thang ngàn dặm nẻo đường,
Ở nơi đâu,
Trong trái tim ta,
Vẫn êm ái khúc tình ca dịu dàng, âu yếm,
Làm ta thổn thức,
Làm ta mủi lòng.
Sáng nay, đóa ngọc lan nở muộn trong vườn,
Bỗng dưng níu ta về bờ thương ngày cũ,
Như con sáo bay về tìm bến xưa,
Nhớ ngôi nhà,
Và thềm hoa ửng nắng,
Hoa ngọc lan trắng muốt,
Từng đóa nồng nàn hương,
Có chú chuồn chuồn,
Hóng gió,
Bên giàn mướp vàng hoa nõn lụa,
Hương ổi thơm nồng,
Ve vãn chú ong con,
Mẹ lom khom trong nắng,
Hái cho con những trái mãng cầu ngọt lịm.
Mẹ cả đời khổ nhọc,
Gánh gồng bao ngày tháng gian nan,
Cho con đầy đặn mộng lành tuổi thơ…
Nhớ tháng ngày hồn nhiên tuổi học trò,
Nhớ ngôi trường Nữ Trung Học dấu yêu,
Nhớ những Thầy Cô khả kính,
410 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Hết lòng tận tụy, 411
Dạy dỗ, yêu thương.
Nhớ bạn bè xưa,
Ngây thơ, chơn chất,
Vui đó,
Rồi lại giận hờn,
Dăm ba ngày,
Thấy nhớ,
Lại làm quen.
Giờ ra chơi,
Nắng tỏa lung linh,
Hàng dương xanh thắm,
Em áo dài,
Thơ thẩn nhặt lá rơi.
Trong sân trường,
Tụm năm, tụm ba,
Những mái đầu xanh kề bên nhau,
Mắt sáng long lanh,
Chuyện trò vui vẻ,
Cùng chia nhau me, cóc , ổi, … chấm muối ớt,
Vị mặn chua,
Sao vương vấn mãi đến bây giờ !
Những ngày mưa rơi,
Hồn mãi chơi vơi,
Ngắm chú chim con,
Lạc loài trú mưa bên cửa sổ.
Giờ tan trường,
Những nữ sinh Nữ Trung học Nha Trang,
Như đàn bướm trắng, xòe đôi cánh óng,
Áo dài bay, lồng lộng gió chiều qua,
Có ai đó, trước cổng trường, lóng ngóng,
Chỉ mong nhìn, một thoáng, bóng hình xa…
Nhớ biển trời Nha Trang,
Xanh một màu diễm ảo,
Mênh mông,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Sóng vỗ ngút ngàn,
Cùng các bạn,
Chân trần đùa sóng,
Bọt tung trắng xóa,
Í ới, nghịch ngợm, tung tăng,
Lòng sáng trong,
Niềm vui thơ trẻ,
Những đôi má hồng ửng nắng,
Những nụ cười trong trẻo, giòn tan,
Chỉ có biển xanh,
Và gió lộng tóc em bồng,
Nghe tiếng hát tự lòng mình xanh chớm.
Nhớ con đường Yersin,
Ngày ngày đến trường,
Hiền hòa, thân thiết,
Ven đường,
Hàng cây muồng treo đầy những bông hoa vàng,
Nắng xuyên cành long lanh.
Nhớ con đường Gia Long,
Mỗi chiều đi học về,
Lá me bay xao xuyến,
Thương nhớ chùng chình,
Ngân nga,
Tiếng chuông nhà thờ Núi trầm mặc…
Nhớ Thành xưa,
Cánh đồng thơm nồng gió,
Dòng sông êm ả,
Soi bóng trời chiều,
Vắt nhịp cầu tre,
Lũy tre xanh,
Rợp nắng đầu làng,
Luống cải hoa vàng,
Rập rờn như bướm,
Bầy chim sẻ,
Nhặt của gió, chút xuân trong vườn thắm,
412 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Hiên nhà ai,
Hoa bưởi trắng đầy cành.
Thánh thót tiếng hót ban mai của loài chim lạ,
Và nao lòng với tiếng gà trưa…
Nhớ giỏ trái cây nặng trĩu mang về,
Ngọt ngào, thơm thảo như tình bà con.
Nhớ ngày Rằm,
Theo Mẹ đi lễ chùa Hải Đức,
Chùa trên núi cao,
Cây lá lao xao,
Trời mây vời vợi,
Bình minh rạng ngời,
Gót nhẹ tênh,
Niềm vui bát ngát,
Cửa thiền rộng mở,
Những tấm lòng xa xích lại gần,
Cội bồ đề tươi mát,
Ươm mầm yêu thương,
Vi vu ngàn gió ,
Trúc xanh hát thì thầm,
Khói trầm bay tĩnh mặc,
Khoan thai tiếng chuông chùa,
Ngày an nhiên!
Đến bây giờ,
Tôi vẫn mơ về Nha Trang xưa,
Nơi bình yên của biển trời bao la,
Và ngôi nhà xưa yêu dấu,
Có vòng tay ôm dịu dàng của Mẹ,
Ký ức dâng trào,
Quyện thành yêu thương.
Nha Trang ơi!
Níu tay như mới hôm qua,
Bỗng nghe xa lắc, biết là …ngày xưa!
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 413
Tôn Nữ Thu Hương
Tháng chín chợt thấy buồn
Mưa bong bóng vỡ tan
Cùng nhau ôn kỷ niệm
Những ngày vui đã tàn…
Tôi ngồi trên chiếc ghế xích đu dưới bóng cây to râm
mát sau vườn, kế bên là giàn bông giấy đầy những chùm hoa
tím thẫm, nhìn cây cối trong vườn xanh tươi với những bụi
hoa tím nở rộ dưới ánh mặt trời của những ngày vừa chớm
thu. Ở tuổi “thất thập cổ lai hy”, niềm vui thật khó kiếm.
Hạnh phúc khó tìm. Những kỷ niệm năm nào vọng về trong
vô thức, tôi theo dòng tư tưởng, lòng mênh mang một nổi
buồn nhè nhẹ như áng mây trôi lơ lững giữa lưng trời!
Năm nào một thời áo trắng…
Lớp Đệ Nhị C niên khóa 1963-1964 với cô Thu Vân và cô Cung
414 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Hình ảnh những cánh hoa phượng thắm rơi rụng đầy sân
trường, tung tăng bên bờ biển xanh cát trắng, những hàng
dừa nghiêng nghiêng bóng mát, tất cả cho tôi nỗi cảm xúc
buồn vui lẫn lộn. Một thời đã yêu, một thời đã sống: đó là
thời tôi có mặt bên bạn bè Thầy Cô trong hai ngôi trường Võ
Tánh, Nữ Trung Học thân yêu.
Nhớ đến tuổi xuân thời đó, phải nói đến các Thầy Cô.
Nào thầy Cung Giũ Nguyên, Thầy Cô Bùi Ngoạn Lạc, Thầy
Diễm, Thầy Nhẫn, Thầy Hà, Thầy Châu, Thầy Can, Thầy
Ấn, Thầy Gĩ, Thầy Thuyên, Cô Cung, Cô Thu Vân, Cô Yến,
Cô Ngọc Mỹ, cô Giáng Châu ... còn nhiều nữa. Trong số thầy
cô cũng có người đã khuất bóng. Tất cả như còn hiển hiện rõ
ràng!
Viết đến đây, tôi chợt nhớ nhóm bạn “ở tuổi mùa thu lá
rụng” mà chúng tôi hay gọi là “nhóm lục bà bà.” Chúng tôi
có sáu đứa hay tìm gặp nhau nếu hoàn cảnh cho phép. Bình
thường thì hay email qua lại để kể chuyện “trong nhà ngoài
ngõ”, thỉnh thoảng gởi hình hoa mới nở, hình mét cháu khoe
con, chuyển tải cho nhau những vần thơ vui, buồn, nhắc nhở
quá khứ. Một lần nào đó, khi nhắc đến hoa phượng đỏ trong
Đặc San VT-NTH có chủ đề "Phượng Vĩ Trường Xưa" đã
làm chúng tôi nhớ Nha Trang, Quỳnh Như Ý liền phóng bút
cao hứng:
Phượng sân trường cũ màu hoa đỏ
Phượng ở phương này hoa tím rơi
Biết có bao giờ về xóm nhỏ
Nghe tiếng ve sầu gọi ai ơi!
Tuy mình không gặp nhưng nơi đó
Ai nhặt dùm tôi cánh Phượng rơi
Tôi ở phương này nghe trong gió
Có tiếng ve về xa chơi vơi!
Sau đó, Tự Tân gởi hình khoe cây phượng tím
(Jacaranda) đã có bông và kèm theo mấy dòng:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 415
Phượng đỏ sân trường ngày xưa đó,
Xa tít mù khơi khó trở về,
Bên đây Phượng tím rơi theo gió,
Tưởng như an ủi nỗi nhớ quê.
Rực rỡ sáng tươi màu Phượng đỏ,
Hay tím dịu dàng O Huế xinh,
Khơi nguồn cảm xúc học trò nhỏ
Mộng mơ xao xuyến viết thành thơ.
Tôi liền bắt chước tiếp theo:
Phượng đỏ sân trường xa xôi quá,
Nơi này chỉ thấy phượng tím rơi!
Dĩ vãng trường xưa đâu còn nữa,
Ve sầu than vãn quá khứ thôi!
Tha phương khó gặp tình bạn cũ,
Ai về bên ấy nhặt dùm tôi,
Một cánh phượng rơi lòng bớt nhớ,
Ve sầu văng vẳng dạ bồi hồi!
Rồi Quỳnh Anh nói còn có hoa phượng vàng và gởi hình
làm bằng chứng. Hoa phượng vàng giống hoa phượng đỏ,
còn hoa phượng tím giống hoa kèn, chỉ có lá hơi giống.
Nhóm chúng tôi rất thích màu tím, hoa màu tím nào cũng rán
đem về trồng. Cảnh Tịnh lại viết: “Chắc bên nhà, không ai
nhặt cho mình cánh phượng rơi đâu, thôi thì cứ nhớ, nhớ và
nhớ khoảng thời gian êm đềm ngày xưa khi còn bé bước chân
vào NTH cho đến ngày bước ra, đã là cô gái xuân thì... Nhớ
Thầy Cô, nhớ những người bạn ngày xưa mình không còn
gặp nữa...” Lê Vân không tham gia làm thơ, nhưng luôn vỗ
tay tán thưởng, hay cũng vỗ, dở cũng vỗ để ủng hộ, cổ võ
cho ‘lục bà bà’ lên tinh thần. Trong số chúng tôi chỉ có CT,
TT, QNY và tôi là thích viết, thích “xuất khẩu thơ con cóc”
bâng quơ buồn, vui bất chợt đủ thể loại. Thơ tự do, 3 chữ, 4
chữ, 5 chữ, lục bát, thất ngôn ... để cùng nhau cười quên đi
tuổi già xế bóng.
416 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Một trong các Thầy Cô có
ấn tượng lâu dài với riêng tôi là
cô Võ Thị Cung dạy Anh văn
lớp Đệ Tam và Đệ Nhị. Vào
năm tôi học trung học Đệ Nhị
cấp với cô, tôi đã “… thi hỏng
Tú tài I… đau lòng tôi muốn
khóc…” Tôi đã muốn khóc vì
phải xa mấy con bạn thân quỷ
quái, nhưng bù lại tôi được
quen thêm bạn mới nhí nhảnh
như Bích Khuê, vui tính như
Cảnh Tịnh, hiền lành như Tự
Tân v.v… và có thêm niềm an ủi nữa là được tiếp tục được
học lại với cô Cung. Lớp học cô Cung luôn luôn nghiêm túc
nhưng đầy sống động hào hứng. Cô có một lối hành xử rất
hiệu nghiệm để “trừng trị” những đứa ngồi trong lớp mà óc
để ngoài đường, mộng mơ, hay những đứa lo ra, ngủ gà ngủ
gật phải coi chừng: bất cứ lúc nào các nàng ấy cũng có thề
bị gọi đứng dậy bất ngờ để trả lời câu hỏi bài vừa giảng. “Ú
ớ” là không xong với cô đó. Tôi cũng là một trong những
“nạn nhân” dưới sự chỉ giáo độc đáo của Cô Cung.
Thời gian trôi qua, biến cố đau thương năm 75 xảy đến.
Thầy Cô cùng những cánh chim non đang chập chững mới
bước ra khỏi ngưỡng của học đường, tan tác khắp mọi
phương trời. Kẻ ở người đi, kẻ còn người mất. Năm hai ngàn
lẻ bốn, tôi được tin cô Cung định cư tại miền Nam Cali nắng
ấm và đã tìm gặp được Cô vài lần. Và một thời gian sau tôi
lại nghe tin cô đã về định cư Việt Nam.
Vào năm hai ngàn lẻ tám, tôi và “người yêu” trong
chuyến du hành về thăm lại quê hương đã tìm gặp lại cô
Cung tại Nha Trang. Cô thật là may mắn được trở về lại miền
quê hương cát trắng, nơi một thời những tà áo trắng hai
trường Võ Tánh, Nữ Trung Học tung bay, lượn khắp mọi nẻo
đường như những cánh bướm vườn Xuân.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 417
Nhà cô Cung mới
xây dựng khang trang
đẹp đẽ, đối diện ngay
căn nhà lúc trước của
gia đình tôi trên đường
Hùng Vương. Đến
thăm Cô, tôi đứng nhìn
qua bên kia đường
thấy lại nơi tôi đã sống
hầu hết quãng đời học
sinh mới bước chân
vào hai trường Trung
học Võ Tánh và Nữ
Trung học. Gợi nhớ
trong tôi những đêm
ôm chiếu cùng với anh
em ra biển ngắm trăng
sáng vằng vặc nghe tiếng sóng rì rào vọng lại.
Hóa ra mộng thực đều giả tạm
Dẫu đời hay mộng đều hư không.
Một thời gian sau nghe tin Cô sang Hoa Kỳ chơi. Tôi và
hai đứa bạn Quỳnh Anh, Hương Diễm hẹn nhau đến nhà
Quỳnh Như Ý để được gặp Cô. Thật lạ kỳ, tới tuổi này rồi
mà trước mặt Cô, tôi cảm tưởng như chưa bao giờ trưởng
thành cả, vẫn vui đùa như khi còn là đứa con gái trung học
năm nào. Buổi họp mặt hôm đó thật là vui. Toàn là dân Huế,
cô “mi mi tau tau” với chúng tôi rất thân mật và nhất là kể
cho nhau nhiều chuyện “tiếu lâm” rồi cùng cười ầm ĩ.
Cô Cung hôm đó đã trổ tài làm món cơm Âm Phủ. Đây
là một món ăn tiêu biểu đậm nét văn hóa ẩm thực Huế, cơm
trắng được trình bày với sáu bảy món cắt sợi như nem, chả,
trứng tráng… dưa leo bóp muối… chan với nước mắm chua
ngọt chanh, ớt, tỏi, đường. Tuy đơn sơ nhưng thật độc đáo.
Nửa bình dân, nửa… cung đình! Lúc còn bé, tôi còn nhớ
418 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
được Ba Me dẫn đến ăn quán này tọa lạc đối diện sân vận
động Huế. Quán bày biện ở ngoài vườn cây thấp, treo những
ngọn đèn dầu lù mù, ban đêm nhìn âm u như dưới âm phủ.
Có lẽ đó là nguồn gốc tại sao nhân gian đặt tên như vậy.
“Muốn ăn cơm dĩa trữ tình,
Có quán Âm phủ ma rình phía sau.”
Thu Hương, Quỳnh Như Ý, cô Bùi thị Ngọc Mỹ, và Từ Tuyết Nga
Ngoài ra tôi cũng rất quý mến cô Bùi Thị Ngọc Mỹ, dạy
Vạn Vật. Mấy đứa tôi thường gặp Cô ở Santa Ana, Cali. Cô
đã mời chúng tôi ăn nhiều loại cây trái trồng sau vườn, tiếp
theo đó cô lại biểu diễn ngón đàn mà cô đã khổ luyện. Cô
còn hóa trang để múa những màn vũ Hawaii tuyệt vời, rồi
đọc cho chúng tôi nghe vài trang nhật ký ghi các chuyến du
lịch khắp thế giới. Chúng tôi ngồi đó mà ngẩn ngơ trong lòng
tâm phục khẩu phục. Cô là một con người đa tài, đa năng
trong một “hải đảo tự thân” (tự mình làm hết cho mình,
không phải nhờ ai hết).
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 419
Sau đó
không lâu,
đám bạn chúng
tôi gồm Lê
Vân, Quỳnh
Như Ý, Quỳnh
Anh kéo nhau
đến tư gia của
Cẩm Vân để
tham dự buổi
ăn tối với sự có
mặt Cô Mỹ. Cẩm Vân, cô Bùi thị Ngọc Mỹ, Lê Vân,
Nhưng không Quỳnh Anh và Quỳnh Như Ý (đứng)
ngờ đây là bữa
ăn hội ngộ cuối cùng với chủ nhân. Hai năm sau Cẩm Vân
đã đột ngột ra đi không kịp một lời từ giã.
Trong thú vui đã mở đường cho đau khổ.
Trong hội ngộ đã nẩy mầm chia ly!
Cô Thu Vân (ngồi và đeo kính đen) Cô Thu Vân và phu quân
Mùa Xuân kế tiếp, năm 2019 nghe bạn bè báo tin Cô
Thu Vân dạy Pháp văn đã mất để lại bạn đời lẻ bóng. Tôi
quá bàng hoàng xúc động! Tôi còn nhớ rõ chuyến đi về Việt
Nam năm 2002 với hai bạn Cẩm Vân, Q Như Ý có đến thăm
420 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
cô. Hình ảnh một cô giáo trẻ xinh đẹp, mái tóc dài xõa trên
khuôn mặt thanh tú vẫn còn hiển hiện như ngày nào.
Cô Vân cùng với Cô Cung
Pháp Anh ngôn ngữ chân truyền đẹp thay!
Tiếc rằng số phận an bài
Cô Vân vĩnh viễn xa rời thế gian.
Sau năm 2020, lại được tin cô Trần Thị Yến dạy Việt
Văn của tôi đã về nơi an nghỉ tại viện dưỡng lão Houston,
Texas. Rồi lại được hung tin cô Bạch Vân theo chân Cô Yến
chỉ vài ngày sau đó. Kế tiếp là bạn thân thương của tôi, Từ
Tuyết Nga cũng vĩnh viễn từ giã cõi trần. Tuyết Nga đã sống
một cuộc đời đơn độc và ra đi trong vắng lặng nhẹ nhàng đầu
Xuân 2021 tại miền Bắc Cali khi cơn đại dịch COVID-19
bao phủ khắp toàn cầu. Định luật vô thường không hề từ một
ai! Rồi tất cả chúng ta không sớm thì muộn cũng lần lượt
buông tay… Xin có vài dòng để tưởng nhớ đến những Cô
giáo và bạn bè đã khuất, nguyện cầu tất cả đều được siêu
thoát về chốn Bình An Vĩnh Cửu.
Cám ơn lá rụng chiều Thu
Lặng nhìn, đón nhận cánh thư vô thường
Cám ơn đời sống vui buồn
Một giòng mây nước xả buông, nhẹ cười!
Mỗi ngày ngồi ngắm cuộc đời
Tạ ơn sông núi, đất trời mênh mông...
Nghe đời mầu nhiệm, sắc không
Nghe nghìn hạnh phúc bên lòng biết ơn!
Nhân ngày kỷ niệm 60 năm ngày thành lập NTH, nhớ
về trường xưa, kính gởi cô Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc cùng
tất cả các Thầy Cô lòng cảm ân sâu sắc của một cựu nữ sinh
mà nước thời gian đã nhuộm tóc trắng phau phau.
Tôn nữ Thu Hương (NTH-VT 65-66)
Đầu Thu 2021
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 421
Trương Minh Nhựt
Nha Trang và Người Tình Si
Có lẽ mỗi người chúng ta ai
cũng có một cõi thiên đường để
thương yêu tưởng nhớ, để quay
lại tìm sự an ủi vỗ về... môt bến
mơ của quá khứ! Nha Trang
chính là thiên đường của ba tôi,
có thể nói ông là “người tình si
của Nha Trang.” Câu kinh nhật
tụng ưa thích nhất của ông luôn
là: “Nha Trang là thiên đường cuối cùng còn sót lại trên trái
đất này.”
Tôi không biết trong số những người đã sinh ra, lớn lên
và có thể đã nằm xuống gởi nắm xương tàn nơi thành phố
biển này, có ai yêu Nha Trang cuồng nhiệt và bền bỉ cho đến
cuối cuộc đời như ba tôi, một người Sài Gòn chính hiệu hay
không? Ba tôi sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, lúc bé ông có ở
Phnom Penh một thời gian khi ông nội tôi đổi lên làm việc ở
đó. Ba tôi đã hân hạnh được học chung trường với ông hoàng
tử bé của xứ Cao Miên (Cambodia), sau này là vua Norodom
Sihanouk.
Về lại Sài Gòn, ông theo học trường Chasseloup Laubat
cho đến khi đậu bằng Brevet (bằng trung học cuối năm học
Đệ Tứ). Lên bậc trung học đệ nhị cấp, ba tôi sang Pháp theo
422 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
học một trong năm ngôi trường trung học nổi tiếng ở Paris
thời bấy giờ. (Trước 1975, anh rể tôi đi công tác bên Pháp
có ghé thăm trường Henry IV, ngôi trường cũ của ba tôi.)
Lúc còn trẻ, ba tôi là một học sinh xuất sắc, thông minh hiếu
học, đam mê văn chương. Hồi đó ở Paris, hàng năm có cuộc
thi tranh tài giữa các học sinh ưu tú của năm ngôi trường nổi
tiếng đó, ba tôi được chọn đại diện trường đi dự thi.
Ông đã đoạt giải thưởng Danh Dự về môn văn chương
Pháp và Giải Nhất về môn lịch sử thế giới. Người bạn Pháp
học cùng lớp đoạt giải Danh Dự về môn này thấy ba tôi có
vẻ thất vọng, ông ấy an ủi: “Như à, anh đừng buồn, đáng lẽ
tôi không thắng nổi anh đâu nhưng vì cha mẹ tôi đều là giáo
sư dạy môn lịch sử ở trường đại học Sorbonne, tôi đã học
hỏi ở cha mẹ rất nhiều nên mới qua mặt được anh lần này.”
Hai ông bà giáo sư ấy có mời ba tôi đến nhà dùng cơm tối để
được gặp gỡ và tỏ lòng ngưỡng mộ người học trò xứ An Nam
này.
Thuở đó, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, đa số dân
Pháp vẫn xem thường dân mình nên khi ba tôi được gọi lên
lãnh thưởng, tất cả mọi người trong hội trường đều kinh ngạc
tròn mắt nhìn cậu học trò An-Nam-mít đã đánh bại các học
sinh ưu tú của “Mẫu quốc”, dành được hai giải thưởng lớn,
nhất là đã đoạt được giải Danh Dự về môn văn chương Pháp
ngay tại Paris, trái tim của nền văn học Pháp. Có lẽ họ còn
ngạc nhiên hơn nữa nếu họ biết cuối năm Đệ Nhất ba tôi đã
đậu Bac II ban Triết với hạng bình vào năm 1928. (Gần một
trăm năm trước học sinh Pháp thi đậu được bằng Bac II với
hạng thứ cũng đã vất vả lắm rồi!)
Ba tôi là người ít nói và rất khiêm nhường, ông không
hề nói với ai kể cả anh chị em chúng tôi về các thành tích
xuất sắc trong việc học và những thành tựu trong đời khi ông
còn trẻ. Chúng tôi không hề biết ba tôi đã được Hàn Lâm
Viện Pháp quốc phong cho ông tước hiệu "Officier De
L'Academie Française", một vinh dự mà thời ấy rất hiếm
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 423
người Việt Nam được nhận. Ba tôi chỉ kể lại cuộc đời của
ông cho tôi nghe trước khi tôi rời Việt Nam, có lẽ ông cũng
có linh cảm hai cha con sẽ không còn dịp trò chuyện với
nhau nữa. Tôi đi Mỹ năm 1984, ba năm sau ba tôi mất. Mỗi
lần nhớ đến Cha, tôi ngậm ngùi rơi nước mắt, thương cho ba
tôi đã không đạt được những điều ông mong ước trong đời,
có thể nói ông là một người bất đắc chí.
Khi theo học ngành Luật tại trường Đại Học Toulouse,
chí nguyện của ba tôi là sau này về quê hương đem sự hiểu
biết của mình để giúp dân giúp nước. Nhưng đến năm học
cuối cùng trước khi thi lấy bằng cử nhân, một việc không
may xảy ra làm cho giấc mơ của ba tôi tan theo mây khói.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, việc
kinh doanh của bà nội tôi bị sụp đổ, bà không còn tiền để lo
cho ba tôi nữa. Thay vì nói sự thật cho ông biết, thì ông có
thể vừa làm vừa học để tốt nghiệp cử nhân Luật trong năm
đó, bà nội đã dối gạt ba tôi gọi ông về ký giấy bán phần đất
đai rộng lớn của ông Cố để lại cho riêng ba tôi.
Khi về tới Sài Gòn, ông mới biết tất cả tài sản được thừa
hưởng đã bị mất hết, ông không thể trở lại Pháp được nữa.
Ba tôi có ra Bắc để theo học năm cuối ở trường Đại Học Luật
Khoa Hà Nội, nhưng có lẽ cách giảng dạy của các giáo sư
không đúng tiêu chuẩn theo trường Đại Học Luật bên Pháp,
ông chê họ dạy dở nên không chịu học nữa. Ba tôi lưu lại Hà
Nội dạy học ở trường Hồng Bàng được hai năm. Sau đó
không còn thấy có hy vọng trở lại Pháp, ông nghỉ dạy để bắt
đầu cuộc sống lãng du. Ba tôi qua Tàu, ở Thượng Hải rồi
Hồng Kông, đến lúc sắp qua Nhật Bản làm việc cho toà Lãnh
Sự Pháp thì ông bị bệnh nặng phải ở lại Hồng Kông hơn ba
tháng để chữa trị, thế là ông bị mất công việc làm tốt ở bên
Nhật.
Trở về Việt Nam, nghe nói kinh đô Huế phong cảnh hữu
tình, ông đến ở thử một năm nhưng thấy không hợp phong
thổ, ba tôi quyết định về lại Sài Gòn lập nghiệp. Trên đường
424 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
về Nam, khi ghé lại Nha Trang, thăm ông nội tôi đang làm
việc ở đó, ba tôi đã "fall in love" với miền quê hương cát
trắng này ngay buổi đầu gặp gỡ! Ông thường nói những vùng
biển đẹp nổi tiếng ở Pháp mà ông ông đã có dịp đến chơi vào
các kỳ nghỉ hè như Saint Tropez, Nice, Cannes… không có
nơi nào sánh bằng Nha Trang.
Thuở đó, Nha Trang còn giữ được vẻ đẹp đơn sơ mộc
mạc của một cô gái mới lớn chưa từng biết trang điểm nhưng
vẫn làm rung động lòng người. Người dân Nha Trang hiền
lành, thật thà, hiếu khách rất hợp với bản chất Nam Kỳ của
ba tôi. Ở lại Nha Trang một thời gian, ông đã gặp và đem
lòng yêu thương một người đàn bà trẻ xinh đẹp trông giống
như một thiếu nữ lai Pháp với làn da trắng, đôi mắt to mầu
nâu lợt, và mái tóc nâu hơi ngã màu vàng óng, dài tới tận gót
chân. Ông thầy giáo trẻ đó đã lập gia đình với người đẹp Nha
Thành này và từ đó nhận miền quê hương cát trắng làm nơi
dừng bước giang hồ.
Ba tôi là một người có tinh thần yêu nước, ông chọn
nghề giáo không phải chỉ để mưu sinh nhưng còn để đào tạo
lớp trí thức trẻ cho đất nước. Sau khi ở Pháp về, có dịp đi từ
Nam ra Bắc quan sát dân tình, ba tôi bàng hoàng nhận ra gần
như hơn một nửa dân số thời bấy giờ đều thất học. Nước VN
lúc đó còn ở dưới ách cai trị của thực dân Pháp, ba tôi nghĩ
với tình trạng dân trí như thế làm sao có thể dành lại độc lập,
và quan trọng hơn, làm sao có đủ nhân tài để vận hành đất
nước khi đạt được tự do. Vì vậy, ba tôi cương quyết giữ nghề
dạy học, mặc dù nghề này không đem lại danh vọng hay tiền
bạc nhiều bằng những việc làm khác trong lãnh vực chánh
trị mà chính phủ Pháp đề nghị cho ba tôi đảm nhận.
Ba tôi là vị hiệu trưởng đầu tiên của trường Collège De
Nhatrang (tiền thân của trường Võ Tánh) và đồng thời cũng
là hiệu trưởng trường trung học tư thục Kim Yến, trường
trung học đầu tiên ở Nha Trang và miền Nam Trung Phần.
Học trò của ba tôi hay thắc mắc về cái tên gọi Kim Yến này,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 425
nó chẳng có dính dáng gì tới ai trong gia đình tôi. Ba tôi là
người Nam kỳ chính hiệu với tính tình giản dị và dễ dãi, thích
việc đơn giản nên thay vì tự đi xin giấy phép để mở trường
mới, ông đã sang lại trường tiểu học Kim Yến của thầy Chất,
và xin phép chính quyền cho nâng cấp lên thành trường trung
học (việc này không khó vì thời đó ở tỉnh Khánh Hòa chỉ có
mình ba tôi có bằng tú tài Pháp và hai chứng chỉ cử nhân
Luật).
Ba tôi là người có lòng nhân từ, ông nghĩ nếu ông mở
thêm một trường tư thục mới để cạnh tranh với thầy Chất thì
sẽ làm cho thầy ấy khánh tận vì lúc đó dân cư Nha Trang còn
thưa thớt và ít người có tiền cho con đi học. Ba tôi không nỡ
lòng làm cho thầy Chất và gia đình thầy ấy lâm vào cảnh
khốn cùng. Làm hiệu trưởng trường công lập Collège De
Nhatrang được vài năm, ba tôi xin từ chức vì chính quyền
yêu cầu ông phải rời bỏ trường Kim Yến, ông không thể làm
hiệu trưởng hai trường cùng một lúc được. Ba tôi là người
thích tự do, không muốn bị ai điều khiển nên đã chọn giữ lại
trường Kim Yến từ đó cho đến khi trường bị sung công vào
năm 1975.
Trong hơn ba mươi năm làm nghề giáo, ba tôi đã tận
tâm tận lực dạy dỗ học trò và cũng đã giúp đỡ cho nhiều học
trò nghèo được đi học, nhất là những học sinh giỏi. Ba tôi
luôn để tâm chú ý đến các học sinh này, nếu có người nào bỏ
dỡ việc học, ông liền tới tận nhà thăm hỏi, nếu không thể
đóng tiền học thì được học miễn phí. Người nào ở vùng quê,
gia đình chật vật không có khả năng tiếp tục việc học, ba tôi
đem về nhà nuôi ăn học cho đến hết bậc trung học đệ nhất
cấp, lúc đó các anh có thể ra đời làm việc giúp cha mẹ. Ba
má tôi đều là những người có tấm lòng nhân từ thích giúp đỡ
người khác.
Má tôi là một thầy thuốc Đông Y, bà thường không lấy
tiền những bệnh nhân nghèo mà còn mua thuốc biếu cho họ
nữa. Đôi khi bà còn đem người bệnh nghèo ở xa về nhà nuôi
426 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
ăn nuôi thuốc cho đến khi hết bệnh. Tôi nhớ mãi lời má tôi
thường dạy: “Thấy ai giàu thì mừng cho người ta, thấy ai
nghèo thì nên thương xót, có thể làm gì giúp đỡ họ, phải làm
hết lòng.” Có lẽ nhờ tin vào nhân quả “ở hiền gặp lành” nên
ba má tôi đã vượt thoát được nhiều tai ách.
Khi xưa ba má tôi đã bỏ ra biết bao nhiêu công sức và
tiền bạc lập nên một vườn cây ăn trái ở Lương Sơn, phía bên
kia đèo Rù Rì. Ba má tôi đã trồng nhiều loại cây quý như
long nhãn, trái vải, xoài cát, ổi xá lị, mít mật, sapoche, sa-
kê... Ngoài ra còn có một hồ sen chạy dài từ giữa tới cuối
vườn. Giữa hồ, ba tôi xây một cây cầu nhỏ, chúng tôi thường
ra đó ngồi hóng mát, ngắm hoa, ăn hột sen tươi. Phía bên kia
hồ sen còn có một cây ngọc lan và một cây công chúa nở hoa
quanh năm tỏa hương ngào ngạt. Khu vườn được giữ sạch
sẽ, các lối đi đều được tráng xi măng. Ba tôi đặt tên vườn là
Trại Lư Thoa, tên của văn hào Jean-Jacques Rousseau - một
trong những thần tượng của ông. Nhưng vào tháng tư năm
1975, vườn cây ăn trái bị mượn làm nơi đóng quân và sau đó
bị sung công.
Ít lâu sau ba tôi lập lại một khu vườn mới ở Vĩnh Xuân,
nơi đó ông có 20 mẫu đất đã mua từ lâu nhưng không được
sử dụng vì nằm gần khu quân sự. Đường đi qua Vĩnh Xuân
là đường quê nhỏ hẹp, gồ ghề, trơn trợt, đi xe đạp cũng khó
khăn, đôi lúc ba tôi bị té trầy cả tay chân nhưng ông vẫn
không nản chí. Ông đã chịu khó đạp xe chở từng cây mít,
cây dừa v.v... đem qua đó trồng. Ông cụ ngoài bảy mươi tuổi
ấy đã trồng được hơn cả trăm cây ăn trái trong khu vườn mới
này.
Có người hỏi ba tôi: “Con cháu Thầy đi Mỹ hết rồi, thầy
trồng những cây này cho ai ăn?” Ông cười bảo: “Ai ăn cũng
được, miễn có người ăn là tốt rồi, không phải tôi chỉ trồng
cho con cháu tôi đâu.” Đúng như lời ba tôi, sau này khi thu
hoạch được trái cây rồi thì khu vườn và bao nhiêu đất đai
ông sở hữu quanh đó đều bị cướp hết. May mắn thay, giờ
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 427
đây vẫn còn lại một mảnh đất ông đã cúng dường cho thầy
Quảng Tâm để làm chùa. Ngôi chùa nhỏ mái tranh vách đất
năm xưa nay là chùa Linh Quang. Nhờ công lao của thầy
Quảng Tâm và đệ tử là thầy Nhuận Thanh, chùa đã được phát
triển tốt đẹp, giúp cho các Phật tử có nơi tới lễ bái và tu học.
Đó là niềm an ủi lớn cho ba má tôi.
Mặc dù không phải là một Phật tử thuần thành, chưa
từng đọc tụng bộ kinh nào nhưng ba tôi luôn áp dụng lời Phật
dạy: “Làm tất cả những việc lành, tránh tất cả những việc
ác, giữ tâm ý trong sạch” trong suốt cuộc đời của ông. Nhờ
giữ được tâm an bình, hiền hòa không thù hận, không ganh
ghét, không tham lam, và không tranh hơn thua với ai, luôn
sống yên phận, nên ba tôi được hưởng cái phước “Thiện
Chung” vào cuối đời. Một ngày đầu hạ năm 1987, ba tôi vĩnh
viễn rời xa cuộc đời mang theo trong tim “Nha Trang yêu
dấu, thiên đường cuối cùng” của ông. Có lẽ ba tôi đã mãn
nguyện được sống trọn một đời với Nha Trang nên ông ra đi
rất thanh thản nhẹ nhàng. Năm ấy ba tôi đã 82 tuổi nhưng
vẫn còn sáng suốt lắm.
Buổi sáng trước lúc ông mất có người bạn học cũ ngày
xưa học chung trường Đại Học Toulouse đến thăm, ba tôi
còn nói chuyện bằng tiếng Pháp với bác ấy. Đến trưa ông bỏ
ăn để đi nghỉ, vài giờ sau em tôi vào phòng định mời ông dậy
ăn xế thì mới biết ông đã ngủ yên tự bao giờ! Ba tôi đã bình
an “nằm chết như mơ”, một giấc mơ dài... rất dài! Trong giấc
mơ ấy, có lẽ ba tôi đang hân hoan đắm mình trong sự bình
yên của mặt biển mênh mông tràn ngập ánh sáng vào một
đêm trăng rằm và có lẽ ba tôi đang sảng khoái ngâm nga hai
câu thi kệ của ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ: “Trăng thu hiện
giữa trời cao rộng, đêm lặng trùng dương rạng chiếu xa…”
428 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nha Trang - Lời Tri Ân và Từ Biệt
Khi bạn Tự Tân rủ tôi viết một bài cho Đặc San kỷ niệm
60 năm ngày thành lập trường Nữ Trung Học Nha Trang
(NTH NT), tôi ngần ngại, vì hình như văn chương chữ nghĩa
trong tôi có lẽ đã trôi dạt đi nơi nao rồi. Nhưng nghĩ lại, nay
tôi đã bước vào độ tuổi “mùa thu chết”, chiếc lá vàng cuối
cùng trên cành cây cổ thụ đời tôi không biết giờ nào sẽ rơi
rụng nên tôi cố gắng đóng góp một chút cho bạn vui lòng.
Tôi rất quý Tự Tân vì trong những ngày đau buồn năm ấy,
bạn vẫn thường xuyên thăm hỏi, chia sẻ tâm tình với tôi làm
cho tôi được an ủi rất nhiều.
Tôi cũng mong nhân cơ hội này được gởi những lời tri
ân và từ biệt đến quê mẹ Nha Trang yêu dấu, nơi tôi được
sinh ra và lớn lên, đã cho tôi những năm tháng vui buồn bên
bà Nội, bà Ngoại, Ba Má, anh chị em và gia đình ông Nội
tôi.
Xin tri ân và từ biệt trường NTH thân yêu nơi đã ghi dấu
và chứa đầy những kỷ niệm của tuổi học trò thơ mộng.
Xin tri ân Bà Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc (thần tượng
của chúng tôi) và các Thầy Cô quý kính đã tận tâm dạy dỗ
chúng tôi với tất cả tình thương và lòng độ lượng dưới hai
mái trường Võ Tánh và NTH Nha Trang. Xin chân thành
kính chúc Bà Hiệu Trưởng cùng Quý Thầy Cô được hưởng
đầy đủ Phước Lộc Thọ và được sống những ngày tháng tuổi
hạc êm đềm an vui.
Xin tri ân các bạn thân thương đã cùng đồng hành với
tôi trên đường học tập và nghịch phá suốt những năm tháng
êm đềm dưới mái trường NTH thân yêu. Các bạn đã làm cho
khu vườn kỷ niệm của tôi thêm phong phú với những đóa
hoa đầy màu sắc. Cảm ơn các bạn hiền mấy mươi năm qua
vẫn bền bỉ cùng tôi giữ chặt mối dây thân ái: Bích Khuê,
Thúy Lan, Phương Phú, Bích Thủy, Ngọc Bảo, Tự Tân, Trần
thị Nguyệt, Thành Ánh, Hồng Loan, Linh Đỗ. Tình bạn quý
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 429
hiếm này làm cho tuổi già của tôi ấm áp hơn, hạnh phúc hơn.
Tận đáy lòng, tôi rất yêu thương các bạn.
Cuộc đời tôi đến đây đã mãn nguyện rồi, tôi có thể ra đi
bất cứ lúc nào không một chút tiếc nuối. Năm xưa tôi còn
nghĩ nếu không được chôn xác trên đất mẹ Nha Trang, chắc
tôi chết không nhắm mắt. Ngày ấy tôi có một mơ ước rất
lãng mạn là khi tôi chết, tôi mong chiếc quan tài của tôi được
đặt nằm trên một chiếc xe ngựa, gõ từng nhịp thật chậm trên
suốt con đường Duy Tân để cho tôi được ngắm biển Nha
Trang với trời xanh mây trắng, được nghe tiếng sóng vỗ rì
rào vào bờ cát, được ngửi mùi gió biển nồng nàn và nhất là
được thấy lại hình ảnh của ba tôi và tôi thời thơ ấu - đứa bé
gái sáu, bảy tuổi - đang yên lặng ngồi ngắm biển bên cạnh
người cha thân yêu.
Giờ đây, Nha Trang thân thương đã thay đổi đến độ trở
thành quá xa lạ đối với tôi, quê hương của tôi đã mất thật rồi!
Tôi không biết còn có ai ôm ấp giấc mơ “Nha Trang Ngày
Về” hay không, nhưng riêng tôi, tôi đã không còn có một
Nha Trang để trở về lại nữa rồi! Nghe thật ngậm ngùi, nhưng
nghĩ cho cùng, trong cái vòng sinh tử luân hồi dài bất tận
này, có nơi nào đích thực là quê hương
của tôi? … “Chẳng biết nơi nao là
chốn quê nhà...” Trong cuộc đời ngắn
ngủi này tôi đã được may mắn nhận
Nha Trang xinh đẹp hiền hòa làm chốn
tạm dung. Nhưng đời sau, rồi nhiều
đời sau nữa, quê hương tôi ở đâu? Ở
đâu nhỉ? Hay tất cả chỉ là những quán
trọ tôi tạm dừng chân một đêm, một
đêm rồi thôi!
Trương Minh Nhựt (NTH-VT 66)
Virginia, đầu thu 2021
430 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
N H Ớ !!!
Phạm Thị Yến
Nhớ ơi là nhớ… những dấu yêu…
Dù nửa... bên tôi vẫn sớm chiều
Lặng lẽ một mình, trang lưu ảnh
Nhẩm từng khuôn mặt, dáng thân yêu!
Bạn bè tôi đó, có xa đâu
Gần nửa năm rồi... cũng khá lâu
Nhiều bạn đã xa vài... năm lẻ
Ngày ngày face book, chỉ còm... nhau.
Nhóm Nữ Trung Học, bạn Nha Trang:
Đầu bếp Sương xinh, thật giỏi giang,
Hương Đài tươi tắn, gieo thi tứ,
Minh Hợp, Tuyết Trần mãi lo toan!
Tố Mỹ cười vui, lúng liếng duyên.
Nhị Hạnh, mặt tươi sáng như sen.
Chị Xuân đồng tiền, sâu đôi má.
Thoa, Phụng, Phương Mai chúm chím… hiền!
Thương Ban Liên lạc Nữ Nha Trang, 431
Tận tụy sẻ chia những khó khăn.
Bạn gửi tiền về, gom góp lại,
Trao tay người khổ... bớt gian nan:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Diệu Phước, Mai, Tùng, Thanh, Ngọc Lan,
Ninh, Hoàng, Hoa, Nguyệt, Thân, Đoan Trang,
Vân, Trinh, Hạnh Phúc, Hà, nhị Thủy,
Ánh Hồng, Hoàn, Tú, Khánh, Đức Ngâm.
Nga, Thoa , Tiết , Thúy, Loan… Văn nghệ,
Chung tay mỗi dịp Hội ngộ về.
Đà Lạt thông reo, thảo nguyên xinh
Một chuyến hè vui, đêm lung linh
Nhớ Nguyệt, Mary, Loan... anh Tánh
Từ đấy bạn đi mãi… “ Thiệt tình”!!!
Sài Gòn ơi! hòn Ngọc Viễn Đông:
Ngọc Yến, Mai Hương, Nguyệt, Bích Phan…
Tiếng cười, câu hứa... còn đâu đó?
Vượt qua covid, cố lên mong!
Chị em bè bạn... cách đại dương,
Nửa vòng trái đất, mộng hoài hương,
Đã bao lần lữa, mơ hò hẹn,
Mừng khoác vai nhau, bấy nhớ thương!
Bệnh đau đang phủ khắp trời Nam,
Vượt khó, bền gan chống dịch tràn.
Cầu nguyện ơn cao, xin ban phước,
An lành cuộc sống, để yêu thương!
2. 9 . 21.
PTY
432 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 433
Võ Tâm Thanh
Nơi này, một sáng
mùa Thu và khoảng trời
trong xanh vời vợi, thấp
thoáng màu nắng dịu
dàng trên hàng cây,
mùa Thu đang lặng lẽ
qua... Mùa Thu Nha
Trang chỉ ít cây đổ lá
vàng, không có góc phố
ngập gió heo may chỉ
thênh thang biển và gió
lao xao lên sóng nước,
biển như thơ mộng hơn
với gió Thu nhẹ ru sóng
êm đềm, biển vắng và
bình yên...
Đến một chừng tuổi
nào đó mình lại lắng lòng về những kỷ niệm ngọt ngào
trong sâu thẳm của ký ức... những cảm xúc nhớ về
như tưới mát tâm hồn nhiều tuổi đời của mình... Có
những mùa Thu đã xa rồi, từ một con đường có nắng
hanh hao và cảm giác lâng lâng háo hức đến trường
cùng trang vở mới với những mộng mơ của tuổi mới
lớn nơi ngôi trường phố biển này về một thời có hàng
dương xanh ngát, có bóng mát cây xà cừ hòa chung
niềm vui thật trong trẻo bên thầy cô và bạn bè ngày
ấy... Cứ ngỡ như thời gian đang ngừng lại... Thoáng
chốc, mình đã lớn hơn và đã xa ngôi trường ấy, Nữ
Trung Học Huyền Trân Nha Trang thân yêu.
434 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Và rồi một ngày mình lại trở về ngôi trường xưa
vào một sáng mùa Thu với sân trường ngập nắng
vàng... Về để làm công việc như thầy cô của mình ngày
nào... Những ngày mưa, ngày nắng đứng trên hành
lang của trường nhìn nắng lụa là trên hàng dương,
lắng nhịp thời gian trôi... đâu đó thấp thoáng kỷ niệm
xưa cùng các bạn và chợt ngẫm lời của nhà thơ Huy
Cận :
Dịu dàng áo trắng trong như suối
Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
Áo trắng giờ đã xa xôi... đã xuôi ngược với dâu bể
cuộc đời, có chăng còn gặp được nhau chỉ là những
thoáng vui vội vàng...
Vào mùa Thu năm ấy (2017), mình được gia đình
người em đón qua California dự Hội Ngộ hai trường
VÕ TÁNH & NỮ TRUNG HỌC HUYỀN TRÂN NHA
TRANG. Đêm Hội Ngộ thật trang trọng thật sắc màu và
nghĩa tình... Mình gặp được thầy cô cũ: cô Bạch Vân,
thầy cô Lạc, thầy cô Túy Trúc yêu quý ngày nào, mình
nắm chặt tay thầy cô như muốn giữ mãi những thân
mến ngày xưa... Người thân, anh chị bạn, bạn mình
và bạn của em mình đã đón nhận mình với bao tình
cảm thân thương. Một họp mặt thật thân tình, có lẽ
mùa thu vẫn là duyên của hội ngộ.
Mùa thu ở Cali ngập nắng ấm với những con
đường yên ả rợp bóng mát, tiết trời trong lành, cây trái
ngọt ngào như tình cảm ở đây như muốn níu chân
người ở lại... Cây lá thay màu trên những ngọn đồi
quanh co, những chiếc lá vàng lá đỏ tô điểm cho bãi
cỏ xanh và cả những con đường đi qua, tiếng xào xạc
của lá khô dưới những bước chân sẽ in dấu mãi trong
lòng những ai đã đến với khoảnh khắc mùa Thu nơi
đây... Mình nhớ về lời của nhà thơ Xuân Diệu :
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 435
Đây mùa Thu tới, mùa Thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Xin cám ơn đời, kính yêu đến thầy cô, thương mến
đến người thân, anh chị bạn, bạn bè và bạn của em tôi
đã cho tôi có được những ngày vui thật trọn ven nơi
đất khách trong mùa Hội Ngộ năm ấy, tình cảm đẹp
này tôi đã mang theo suốt đường về...
Ngồi đây, lòng chợt nghĩ về hai nơi: Mùa Thu Nha
Trang và mùa Thu Cali vẫn bàng bạc trong tôi những
cảm xúc không bao giờ cũ mãi ngọt ngào bình yên...
Chữ Tình thật đơn giản nhưng thật quý nếu lòng ta mãi
muốn giữ để còn tìm thấy được niềm vui hạnh
phúc trong cuộc đời bạn nhỉ ?
Nha Trang, tháng 10-2021
Võ Tâm Thanh
(NTH nk73)
436 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Töï söï
Moät thôøi ñeå nhôù
Tống cô nương
Ngồi xoay xoay cây viết
trên tay mà suy nghĩ không biết
viết gì đây... văn hoa lá cành thì
không phải “mon style” mà viết
bậm trợn táo bạo thì ngại các
độc giả bị “Sốc”. Em thiệt là ái
mộ chị Song Phượng, chỉ cựa
một cái là có ngay một bài thơ.
“Tùng ù” thì ách xì một cái là
có ngay một bài hát. Chị Ngọc
Vân thì với giọng hát nhẹ
nhàng, nét đẹp thanh tao, chị
sáng tác một bài thơ thật là dễ
dàng và sẽ được phổ nhạc ngay
bởi các chàng VT tài hoa. Chị
PLang giỏi giang việc nước việc nhà. Cũng thế, những bài
thơ chị sáng tác cũng hầu hết đều được phổ nhạc. Em Mỹ
Trang vừa đẹp vừa giỏi cũng vừa hát hay cũng rứa, sáng tác
thơ văn hay vô cùng. Chị Cung Lan xinh đẹp giỏi văn viết
sách và được nhiều người biết đến… Trong bài này em
không có viết tên mấy huynh VT đâu nha, khỏi mất công tìm
kiếm nhé. Em chỉ viết chung chung thôi... hì… hì… sơ sơ
chỉ nêu tên vài nữ sĩ thôi mà em đã chùng… viết rồi!
Em biết vẽ, vẽ tự do, viết chữ ‘Făng tơ zi’ thì khỏi nói
nha, cứ đến giờ học là em lại nắn nót đề bài thiệt là đẹp, mấy
đứa bạn cứ tranh nhau đưa vở cho em để em “phóng bút”.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 437
Hồi đó em nhỏ con nghịch ngợm chính hiệu “Nhất quỷ nhì
ma thứ ba học trò” và đặc biệt là… háu ăn. Em nhớ ở Trường
Nữ cũ, các Thầy Cô ở tại trường có một dãy phòng riêng
biệt, và một hôm em nhắm trúng một vườn Legumes có trồng
những cây gì mà lá tròn như rau môn, em lén đào lấy củ về
nhà rồi lén bố mẹ nướng ăn. Không biết vì nướng chưa đủ
chín hay sao mà sau khi ăn xong thì em trở lại giường giả bộ
ngủ. Không hiểu tại sao mà quai hàm cứng ngắc và nước
miếng nước dãi cứ thi nhau mà tuôn ra ướt cả cái gối, rồi
cũng ngủ thiếp đi (công nhận hồi đó sao mà mình vô tâm
quá), sau khi thức dậy thì mọi chuyện đều qua, hú hồn vì sợ.
Em còn nhớ thầy Nam dạy thể dục có cô con gái tên
Trâm Anh. Mỗi lần Thầy chơi đánh cầu lông và Trâm
Anh, em và các bạn há hốc mồm xem vì họ biễu diễn y như
múa vậy, xem mà mê tít luôn. Hồi đó em ngưỡng mộ nhỏ
Sma nó chạy giỏi, bơi giỏi lắm nha, nó nhỏ con tí xíu à (dĩ
nhiên là em cao hơn nó) mà mỗi lần xếp hàng để chạy khi nó
đề-pa thì y như một trái banh vèo một cái liền đến đích trước
hàng trăm cặp mắt hâm mộ. Chao ơi! Nói đến người tài và
người đẹp thì trường Nữ Trung Học của chúng em nhiều lắm,
chắc em phải viết đến sang năm vẫn chưa xong (nói phóng
đại theo kiểu Marseillaise).
Trường Nữ cũ nằm trên đường Lê Văn Duyệt, đằng sau
trường có kẻ ô dưới đất để đấu cầu lông, chúng em hay chơi
u mọi trên những ô đó. Cạnh đó có một cây keo to lắm, chúng
em hái lá keo cột lại làm cầu đá thích lắm nha, tiếng tanh
tách của quả cầu vang lên mỗi lần đá mạnh vào nó, nhất là
những khi bị phạt, người thua phải quăng trái cầu cho người
thắng đá, có khi tụi nó chơi hay, nó chuyền được cho người
cùng phe của nó là người bị phạt chạy theo mệt nghỉ luôn.
Nói đến chuyện chơi u mọi thì thật là hồi hộp, dễ sợ và
không kém phần violence như khi chơi thì cột tà áo dài lại
hoặc vắt vào lưng quần để khỏi vướng vít. Có hôm có đứa
khi hết giờ ra chơi trở về lớp với tà áo dài rách toạc từ eo bên
438 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
này qua tận bên kia... chắc chắc khi về sẽ bị bố mẹ cho ăn
đòn. Còn chuyện dành ô để chơi thì em được ăn một con
Zero kỷ luật to tướng do cô Phạm Thị Hải thưởng cho bởi vì
ham chơi mà ra. Hôm đó chuông hết giờ reo, sau đó là giờ ra
chơi, cô Hải đang sửa soạn cặp sách thì ‘vèo một cái’ em
nhảy phóc qua cửa sổ rồi chạy đi dành ô chơi bị cô gọi lại và
cho một con zero kỷ luật tròn trĩnh vô sổ. Em tiu nghỉu buồn
thiu chấp nhận vì 101% là lỗi của em mà, may mà hồi đó
ham chơi nhưng thông minh nên chuyện gỡ lại điểm để đạt
lại điểm trung bình tháng đó cũng chẳng khó khăn gì.
Hồi đó em mê môn Việt Văn ghê lắm chính vì thế mà
sau này em chọn ban C. Giáo sư hướng dẫn của lớp em và
cũng là giáo sư Việt Văn là thầy Trần Đình Diên. Thầy người
Huế, cao lớn và hiền như bụt nên chúng em gọi Thầy là Bố
Diên. Có một hôm, cô Thanh Trí dạy vẽ bận việc nên nghỉ,
chúng em mang máy cassette mở nhạc tập múa cho cuối
năm. Sau đó đến giờ của thầy Diên, nghe tiếng Thầy nói
chuyện từ xa, em chạy đến đóng chặt cửa lại và hối lũ bạn
đóng luôn cửa sổ để Thầy không vào được. Cả lớp ngồi im
trong bóng tối. Sau vài lần đẩy cửa, Thầy biết ngay là bị lũ
học trò nhốt ở bên ngoài. Bên trong thì em cùng vài bạn nữa
ra sức chận cửa. Tiếng Thầy giận dữ: “Đứa mô … đứa mô
nhốt tau, tau đi kêu cô Gia Hương cho tụi mi biết tay.” Một
lúc sau, Thầy trở lại cùng cô Gia Hương, lúc đó em mới thật
sự là sợ, trái tim tưởng như nhảy ra ngoài… cả lớp ngồi
ngoan ngoãn, cánh cửa ra vào cũng như các cánh cửa sổ đều
rộng mở, cô Gia Hương kêu lớp trưởng Nguyệt Nga lên văn
phòng. Thầy Diên sau một hồi giáo huấn cho cả lớp thì Thầy
cũng hết giận, thương Thầy gì đâu!
Lên lớp 10, chúng em chuyển qua Trường nữ mới là Nữ
Trung Học Huyền Trân, vừa học được vài tháng thì miền
Nam bị mất, bạn bè tan tác mỗi người mỗi nơi, người đi kẻ
ở lại, và rồi mỗi người mỗi cảnh, bạn bè cùng lớp của em
dần dần rời quê hương đi lánh nạn. Sau đó, trong lớp em có
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 439
học sinh nam đến từ các trường khác như Võ Tánh, Văn Học,
chủng viện Lâm Bích, chủng viện Sao biển.
Em tốt nghiệp phổ thông năm 1977, rồi mỗi người mỗi
hoàn cảnh, và em biết tin Thầy Diên mất, em có đến thắp
nhang kính lạy Thầy cùng nỗi ân hận vẫn chưa cho Thầy biết
chính em là thủ phạm lần đó… Năm 2019, em gặp lại lớp
trưởng Nguyệt Nga khi cùng chồng và các bạn đi du lịch trên
biển ghé thăm Marseille miền Nam nước Pháp. Em tò mò
hỏi nó về chuyện nhốt Thầy Diên sao nó không khai tên em.
Nó chỉ cười và trả lời nó không khai tên ai hết vì chuyện đã
làm rồi có nói tên ra cũng chẳng giúp được gì. Thiệt đúng là
lớp trưởng số một của em, cám ơn mi nghe Nguyệt Nga.
Năm 2015, em có về thăm Nha Trang và tham dự Hội
Ngộ Võ Tánh & Nữ Trung Học, lần đầu được tổ chức tai
Palace Hotel Nha Trang, gặp lại Cô cựu Hiệu Trưởng Diệu
Trang sau hơn 40 xa cách. Cô vẫn sang trọng và trẻ đẹp như
xưa. Em hân hạnh được chụp chung với Cô và phu quân,
cùng với các chị em đồng môn Nữ Trung Học.
2015 Hội ngộ VT-NTH đầu tiên tại Nha Trang - Có mặt Thầy Cô
hiệu trưởng trường NTH Huyền Trân, và Cô Thùy Trang.
440 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Lần gặp gỡ này đã để lại trong tâm khảm em một kỷ
niệm khó quên, đầy ắp tình thân. Cho nên, khi nghe được
VT&NTH tổ chức hội ngộ tại Nam California năm 2017, em
đã quyết định từ Pháp bay sang Mỹ để được gặp các Thầy
Cô và các chị em bạn học thời niên thiếu. Em sung sướng có
mặt trong hình chụp với cô Trương Túy Trúc.
Trong niềm vui hội ngộ, em trở về lại trời Tây, đem theo
rất nhiều hình ảnh dấu yêu của Thầy Cô và bạn hữu. Thời
gian trôi nhanh, đến hôm nay, trường Nữ Trung Học/Huyền
Trân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường, em xin gởi đến
Thầy Cô và các chị em trường Nữ lời tri ân và lòng cảm mến
chân thành.
Viết tại Auriol, France
Tháng 9 năm 2021.
Tống Cô Nương (NTH-10/75)
2015 Hình chụp ngẫu hứng với các bạn cùng mặc áo dài rồi xin
vô trường NTH để chụp hình
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 441
HN VT- NTH lần đầu tiên được tổ chức tại Nha Trang (Palace
Hotel) năm 2015, cô Đăng Hà đứng bên phải.
HN VT&NTH 2017 tại Nam Cali cùng các chị và các bạn chụp
chung với cô Túy Trúc
442 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT