ảnh và thư khen của thầy Huỳnh Tấn. Bức ảnh này tôi
đã cất giữ hơn nửa thế kỷ qua.
Thầy Tấn không dạy ở trường NTH-NT. Nhưng
một số bạn Tam C và Phí Lan Hương có theo học lớp
"Văn Phạm Anh Văn Bất Khuất" của thầy. Những ngày
nghỉ Lễ hay Chủ nhật, chúng tôi thường theo thầy đi
thăm các Cô nhi viện, vào tặng quà và vui chơi với các
em. Thầy Tấn giờ đã về cõi vĩnh hằng. Cầu chúc
hương linh thầy an vui miền cực lạc.
Nhưng nhớ nhất vẫn là những kỷ niệm với thầy
Thái Huy Bào. Người thầy mà chúng tôi luôn quý trọng
và kính mến. Thầy là Giáo Sư Hướng Dẫn năm tôi học
Tứ 1 (1965-1966) và dạy tôi môn Sử Địa suốt 3 năm:
Đệ ngũ, Tứ, Tam. Thầy giảng bài rất hay, giờ học của
thầy không bao giờ buồn ngủ vì thầy thường kể những
câu chuyện lịch sử, liên quan đến bài giảng rất hấp
dẫn! Còn nhớ, có lần thầy cô ốm đột xuất, lớp được
nghỉ 2 tiết đầu. Tiết 3 là giờ Sử Địa, tiết 4 là giờ Sinh
hoạt lớp của thầy Bào. Tôi cùng Trần thị Thúy, Đỗ thị
Báu, Lê thị Hà, Trần thị Phương Mai rủ nhau đạp xe
qua Hòn Chồng để lượm vỏ ốc. Không may, cặp của
bọn tôi cột phía sau xe rơi xuống bãi cát, bị sóng đánh
ướt mấy trang đầu Sổ Ghi Đầu Bài của lớp. Đã vậy, lúc
về xe của tôi cứ đi được một quãng lại bị tuột xích, nên
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 93
đạp về đến trường, đã thấy các lớp đang xếp hàng ở
hành lang để vào học tiết 3. Vào tiết học, bọn tôi đem
sổ đầu bài lên để trên bàn và vòng tay xin lỗi thầy. Cả
lớp cứ nơm nớp lo sợ thầy sẽ giận dữ, lớn tiếng la rầy
chúng tôi. Nhưng không, thầy chỉ từ tốn khuyên bảo
chúng tôi lần sau phải cẩn thận hơn, chứ không nặng
lời.
Nhớ chị Trương thị Mỹ Hoàng, khá xinh. Chị cũng
là học sinh trường NTH-NT và học trên bọn tôi 1 lớp,
sau này là hiền thê của thầy Bào. Chị có dáng đi thanh
thoát và giọng nói nhỏ nhẹ, từ tốn giống thầy vậy.
Vui nhất là ngày 26-3-1966, lớp Tứ 1 của tôi tham
gia thi nấu cơm ở Trại Trưng Vương tổ chức tại sân
trường NTH mới. Nồi cơm sắp sôi, Phượng Y là trưởng
ban ẩm thực của lớp, mở nắp lên xem, cũng là lúc thầy
Hộ, thầy Bào, thầy Can đi ngang. Nghe thầy Bào nói
"Có vẻ nước hơi nhiều", Phượng Y múc bớt nước ra.
Nhờ vậy, lớp tôi được các thầy cô khen là nấu cơm
dẻo và ngon. Nhớ buổi chiều tan trại ra về. Có
mấy chàng Võ Tánh đứng chờ sẵn ở cổng, rồi cứ lẽo
đẽo theo sau, năn nỉ được xách hộ nồi niêu, soong
chảo, chén dĩa, ...
Nhớ con đường Phan Thanh Giản (nay là đường
Pasteur) với 2 hàng Phượng Vỹ, với hàng rào cây Tra
mọc phía sau viện Pasteur NT. Hàng ngày, tôi đi học
và về nhà với Trần thị Thúy, Đỗ thị Báu, Tăng Lệ Dung,
Lê thị Hà, Trần thị Phướng Mai, ... rồi cứ luống cuống
đạp xe, tim đập thình thịch khi nghe tiếng la ó, huýt sáo
của các anh chàng Võ Tánh đang đứng chờ ở gốc cây
Bàng. Có hôm hoảng quá, không dám về nhà ngay, lại
rẽ xuống đường Phan bội Châu. Đến nhà Phương Mai,
gặp anh ruột của Mai (anh Trần Quang Ngọc, học Võ
Tánh, trên bọn tôi 3 lớp) đứng trước cửa nhà, lúc đó
94 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
mới tan hàng. Một trong số các chàng huýt sáo ngày
ấy, nay là ông xã của tôi (Võ Tánh 59-66). Sau năm
1975, các Thầy Cô và các bạn cũ mỗi người một ngả,
người đã mất, người ở tận Mỹ, Đức, Canada, ... Chỉ
còn tôi và một số ít bạn, ở lại Việt Nam với nhiều hoài
niệm về ngôi trường thân yêu.
Tô Thư
Sài gòn 05/3/2020
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 95
Tôn Nữ Ngộ Khê
Thứ năm
ngày 30 tháng 9 năm 2021
Kính Thầy Cô Bùi Ngoạn Lạc,
Con là Tôn Nữ Ngộ Khê.
Con kính thăm Thầy Cô được sức
khỏe.
Lần chót con được gặp lại
Thầy Cô là năm 2010, năm có tổ
chức họp mặt Võ Tánh-Nữ Trung
Học Nha Trang tại San Jose. Lúc
ấy con đến ra mắt thầy cô và tự
giới thiệu:
- “Thưa, con là Ngộ Khê.”
Cô bắt tay và ôm con rồi lại
nói:
- “Con thầy Ưng Trung phải
không?”
- “Dạ thưa phải.”
Đôi lời thăm hỏi rồi ai nấy về
vị trí chỗ ngồi của mình. Buổi văn
nghệ hôm đó rất hay và vui vì có nhiều thầy cô hiện diện.
Học trò thì lăng xăng đi tìm bạn cũ, rồi ngỡ ngàng nhìn nhau
96 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
vì đã lâu không gặp, quên mất mặt nhau sau bao năm xa cách,
may nhờ có tên mình trên ngực áo mới nhận ra được.
Thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua với bao nhiêu việc phải lo
cho gia đình. Tuy nhiên, nhóm bạn chúng con thỉnh thoảng
cũng họp mặt khi có dịp, gặp lại một ít bạn bè, trong đó có
Ngọc Bảo, Lê Vân, Bích Thủy, Tùng Diệp, Nguyễn Trần
Tấm, Thu Mỹ Kim, Phương Nga, Hương Texas, Đặng Anh,
Quỳnh Như Ý, Quỳnh Anh, Tuyết Ba, Phương Phú, ... mỗi
khi con được vinh dự mời đến tề tựu cùng bạn bè ngày xưa,
niềm vui thật không kể xiết.
Xưa, chúng con là những măng non, bây giờ măng đã
già hết rồi, nhưng khi gặp nhau, tình bạn bè thân thiết của
ngày nào vẫn đong đầy như thuở kẹp tóc. Nhắc lại những
chuyện cũ thời còn đi học, chúng con vẫn nhớ chuyện các cô
học trò xinh xinh đã làm các thầy độc thân để mắt tới. Các
vị thầy trẻ ấy chỉ hơn học trò mười tuổi là nhiều. Bây giờ
nhớ lại, chúng con thấy vui vui, học sinh NTH tuổi mới lớn,
đa số đều xinh đẹp lại lễ phép, mới nhìn đã thấy dễ thương
rồi. Khoảng thời gian đó, thầy Lê Trọng Ngưng có “thả” hai
câu thơ mà các em nữ sinh chuyền miệng với nhau:
“Em cài nơ trắng, nơ hồng hay nơ tím,
“Tìm mắt em khi vừa bước vô trường.”
Riêng con, phần nhiều lại thích hỏi thăm về thầy cô. Con
luôn nhớ gương mặt rất nghiêm nghị của cô, nhưng lại có nụ
cười rất tươi, và cô luôn có xâu chuỗi ngọc thạch rất đẹp.
Hình ảnh của cô con vẫn còn cất giữ trong tim.
Hôm giữa tháng 9-2021, Tự Tân từ San Francisco gọi
về Westminster nơi con trú ngụ, yêu cầu đóng góp bài vở
cho đặc san lần cuối. Con phân vân không biết có còn viết
được hay không, nhưng tự nhiên con lại chợt nhớ đến thầy
cô, nên đã nói với Tự Tân rằng, có lẽ Ngộ Khê sẽ viết theo
dạng lá thư gởi...
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 97
Nay con xin gởi lá thư này với tất cả tấm lòng nhớ đến
Thầy Cô. Con là đứa học trò học dở ẹt, dở ẹt! Đã có lần, thầy
Vũ Mậu Lâm phê vào học bạ của con là: “Cần cố gắng thêm
nữa”, vì con không thuộc bài vạn vật con chuồn chuồn, nên
vẽ con chuồn chuồn thiếu một mắt, rốt cuộc là bị zéro điểm.
Nhắc lại vài chuyện nho nhỏ để Thầy Cô đọc cho vui và
lượng thứ nếu con học trò dốt ni viết tào lao quá. Thôi thì
con không dám dài dòng nữa.
Kính thăm Thầy Cô và quý quyến được an khang, và
con xin kèm theo vài dòng thân thương gởi lời hỏi thăm đến
tất cả các Thầy Cô cũng như bạn hữu gần xa trên khắp thế
giới, những người đã từng là học trò của trường Võ Tánh,
Nữ Trung học/Huyền Trân Nha Trang được vạn sự an lành.
Con xin kính chào,
Tôn Nữ Ngộ Khê
T/B: Con đã đi qua nhiều thành phố, nhưng vẫn thương
nhất là thành phố Nha Trang, nơi đã cho con và các bạn
những ngày vui, trong những lần đi dạo biển, ăn gỏi đu đủ
bò khô, uống nước dừa, chè lục tầu xá, sữa đậu nành, ăn
paté chaud, v.v… Ô là la, một thời niên thiếu đầy kỷ niệm,
làm sao mà quên được.
Xin thầy cô thông cảm cho phần tái bút xí xọn này của
đứa học trò dốt ni, chỉ mong sao đem đến cho Thầy Cô một
nụ cười khi đọc lá thơ này.
98 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Kính thương tưởng nhớ Thầy Hà Như Hy
Nguyễn Thị Thanh Tùng
Thấm thoát mà Thầy xa học trò để về chốn an lành
đã một năm. Tháng 11 năm nay, con nhớ Thầy, nhớ tháng
11 năm ngoái ...
Con đủ duyên để về thắp nén hương và tiễn đưa
Thầy. Chuyến bay cuối ngày vẫn còn chỗ cho hai mẹ con
kịp về Sài Gòn lúc 8g tối ngày 16/11. Sáng hôm sau con
có mặt để cùng GQ đón khách viếng Thầy.
Năm giờ sáng ngày 18/11, trời Sài Gòn cuối năm còn
tờ mờ, con đón xe đến Chùa Bồ Đề, quận Bình Thạnh để
tiễn đưa Thầy về nơi an nghỉ.
Lần cuối không còn được nhìn thấy ánh mắt hiền từ,
yêu thương của Thầy, không còn được ôm Thầy, nắm chặt
tay, cùng các bạn dìu Thầy ra phòng khách để ngồi với
chúng con. Thầy yếu nhưng vẫn muốn ra ngồi với học trò.
Thầy ngồi ghế dựa, ôm bó hoa hướng dương của học trò
tặng, cùng chúng con xúm xít chụp hình.
Nhớ những lần Thầy còn khỏe, đến thăm, Thầy nhớ
rõ tên từng đứa, nhắc từng kỷ niệm trên lớp ngày xưa, hỏi
han chúng con chuyện gia đình, con cháu.
Nhớ năm Thầy cùng Cô Hiệu trưởng và các Thầy Cô
khác tổ chức thi MẪU THIẾU NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY.
Từ ngày xa xưa ấy mà cuộc thi đã có đủ các phần: thí sinh
trình diễn áo dài Việt Nam, thi năng khiếu (đàn, cắm hoa,
hát, …) và thi hùng biện bằng ngoại ngữ. Thầy đã dạy
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 99
chúng con hiểu rằng người phụ nữ không chỉ đẹp ở dung
mạo bên ngoài mà còn phải có trí tuệ, tài năng và đủ đầy
công, dung, ngôn, hạnh.
Kỷ niệm 10 năm thành lập trường, chúng con được
cắm trại, thi văn nghệ và nhiều hoạt động khác. Thầy Cô
đã dạy chúng con hiểu ngoài tri thức trong sách vở, còn
cần biết nhiều kỹ năng cần thiết trong cuộc sống như việc
trang trí, dựng lều, nấu ăn, tham gia các trò chơi tập thể,
…
Trong tuần lễ sinh hoạt học đường, trong các buổi lễ
kỷ niệm Hai Bà Trưng, với kinh nghiệm nhiều năm làm
hiệu trưởng các trường Trần Quốc Tuấn (Quảng Ngãi),
trường Trung Học Diên Khánh trước khi về trường Nữ
Trung Học Nha Trang, Thầy đã giúp trường mình rất
nhiều. Tất cả các hoạt động bổ ích đó cũng là hành trang
giúp chúng con bước vào cuộc sống sau này.
Tuy nghiêm khắc nhưng giờ học của Thầy rất vui và
kiến thức Thầy dạy chúng con còn nhớ mãi đến ngày nay.
Có lần con được Thầy gọi lên bảng viết các từ Thầy đọc
theo qui tắc phát âm đã học, con viết đúng cả và được
Thầy khen, con bé mừng rỡ về khoe cả nhà. Rồi Thầy dạy
bài học về các bữa ăn. Trả lời câu hỏi:
- Qu'est-ce que vous prenez au petit-déjeuner ?
- Các bạn đua nhau nói: Je mange du pain avec du
beurre, Je bois du café, Je bois du lait, …
- Có bạn lúng túng, Thầy đã đùa “ Je mange cơm nguội
avec nước mắm” làm cả lớp cười vang.
Gặp lại Thầy, chúng con hát bài hát Thầy dạy hồi còn
nhỏ: “Sur le pont d'Avignon, l'on y danse, l'on y danse; Sur
le pont d'Avignon, l'on y danse tout en rond, …” rồi còn cầm
chéo áo, nghiêng đầu, nhún chân rất “đầm” dù đứa nào
cũng hơn sáu mươi tuổi, để Thầy trò cùng cười rộn rã.
100 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Thầy kể chuyện lớp, chuyện trường, chuyện Thầy trò
chuẩn bị thi văn nghệ, thi thể thao, thi thanh lịch, … Học
trò chăm chú ngồi nghe và tranh nhau nhắc lại kỷ niệm
với Thầy. Chỉ có vậy mà sao thấy ấm áp tình Thầy trò, thấy
niềm vui cứ dâng tràn, thấy hạnh phúc cứ ắp đầy trong
mắt, … Rồi cứ mong có dịp lại rủ nhau cùng đi chuyến xe
lửa về thành phố thăm lại Thầy Cô giáo cũ.
Con nhớ lần cuối cùng các bạn thăm Thầy năm 2018.
Thầy không nói nhiều như mọi lần, Thầy trò cứ nhìn nhau
lặng lẽ, ăn miếng bánh kem cũng thấy nghẹn ngào. Thầy
không ra được balcon để nhìn chúng con ra về. Bầy học
trò bước xuống cầu thang mà lòng cứ rưng rưng, đứa này
quay mặt đi giấu đứa kia giọt nước mắt cứ chực trào qua
khóe… Tụi con biết đây có thể là lần cuối…
Vậy mà thật, tháng 11/2019 Thầy đi. Nghe GQ báo
tin, dù đã nghĩ đến, tụi con vẫn bàng hoàng. Thầy ơi, kiếp
này chúng con được làm học trò Thầy, được Thầy giảng
dạy bao điều không chỉ có trong sách vở, học ở Thầy đạo
đức làm người, học nhân cách sống, học chia sẻ yêu
thương, …
Rồi tụi con cũng sẽ đến nơi Thầy đã đến. Chắc chắn
Thầy trò mình sẽ nhận ra nhau, lại trùng phùng vui vẻ.
Rồi tụi con sẽ lại là học trò Thầy, lại được Thầy yêu
thương dạy bảo và mãi mãi Thầy vẫn là Thầy giáo kính
yêu của chúng con – nữ sinh Trường NỮ TRUNG HỌC
NHA TRANG, Thầy nhé.
Tháng 11/2020
Học trò của Thầy
Nguyễn Thị Thanh Tùng – NTH 74
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 101
102 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nguyễn thị Thể Lý
Bà Bùi Ngoạn
Lạc được bộ Giáo
dục VNCH bổ
nhiệm vào tỉnh
Khánh Hòa thành
lập trường NỮ
TRUNG HỌC đầu
tiên tại thành phố
NHA TRANG,
khai giảng năm học
đầu tiên niên khóa
1961-1962 do bà làm Hiệu trưởng. Tôi được chuyển từ
trường trung học Võ Tánh sang học tại Nữ Trung Học. Năm
học đầu tiên đó tôi học lớp đệ Tứ.
Tôi ngồi đầu bàn đầu, kể từ cửa vào. Kế bên tôi là
Nguyễn thị Đào, tiếp theo là Trần thị Tấm, tiếp theo là Kim
Phượng và Bích Ngọc. Sau 3 năm học xong Tứ, Tam, Nhị,
tôi được chuyển qua trường cũ Võ Tánh học lớp đệ Nhất để
cuối năm thi Tú Tài 2 vì trường chúng tôi đang học chưa mở
được lớp đệ Nhất.
Qua Võ Tánh, nữ sinh Nhất C chỉ có khoảng hơn 30 nên
chúng tôi phải học chung với nam sinh cùng ban. May mắn
số nam sinh rất ít nên cộng chung lại vừa đủ một lớp. Học ở
đây, tôi nhớ trường Nữ Trung Học Nha Trang vô cùng, vì số
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 103
bạn cũ học chung lớp với tôi ở đây rất ít. Tôi nhớ bà Hiệu
trưởng Bùi Ngoạn Lạc và các giáo sư từng dạy tôi bên đó
như cô Nguyễn Hữu Thứ, cô Cung, cô Thu Vân, cô Thanh
Tâm v.v…
Nói đến bà Bùi Ngoạn Lạc mà không nói đến vẻ đẹp của
Bà là một thiếu sót lớn. Bà đẹp, dáng vóc mảnh mai thanh tú
với mái tóc búi gọn sau gáy, không trang điểm nhiều, nhưng
càng nhìn càng thấy nét đẹp dịu hiền, duyên dáng của người
phụ nữ Việt Nam. Đám nữ sinh chúng tôi nhìn ngắm Bà vừa
kính mến vừa thán phục, nhưng trên khuôn mặt Bà tàng ẩn
nét đoan trang nghiêm nghị, nên tuyệt đối chúng tôi không
đứa nào dám hó hé thói “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”
trước mặt Bà. Có đứa bạn tôi nói sau này lớn lên tóc nó sẽ
búi cao sau gáy như Bà để được đẹp như Bà!!!
Rời trường Võ Tánh niên khóa 1964-1965 với tấm bằng
Tú Tài 2, tôi xin việc làm và năm sau tôi lập gia đình. Với
thời cuộc và đời sống gia đình bận rộn, bạn bè và trường lớp
đã dần dần phai nhạt trong trí nhớ tôi. Cho đến năm 2002,
tại tang lễ một người thân trong gia đình ở Oak Hill
Memorial, San Jose, Califonia, tình cờ tôi gặp lại bà Hiệu
trưởng thân kính của tôi ngày còn học trung học. Bà Bùi
Ngoạn Lạc gầy hơn xưa, mái tóc đã điểm bạc gần phân nửa
nhưng nét đẹp vẫn còn. “Tóc mây ngã trắng tàng duyên kín,
Vóc liễu còn mềm ẩn nét hoa”. Bà đứng lẫn trong những
người đi dự tang lễ nhưng tôi vẫn nhận ra ngay. Bà đứng đó,
dáng vóc mảnh mai, giữa hai người thiếu phụ trẻ đang tỏ vẻ
quan tâm săn sóc Bà. Tôi thấy khuôn mặt Bà đầm đìa nước
mắt, tôi đến trước mặt Bà, lễ phép cúi chào vấn an Bà rồi
hỏi:
- Thưa Cô, con là một cựu nữ sinh trường Cô làm Hiệu
trưỏng tại Nha Trang. Xin lỗi, Cô liên hệ ra sao với người
đang nằm xuống?
104 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
- Đó là một cựu nữ sinh trường cô, cũng là con gái của
một đồng nghiệp với cô là ông Thanh tra Tiểu học Trần Ngọc
Hai.
Nhìn thấy mặt tôi cũng đầm đìa nuớc mắt, Cô hỏi:
- Rứa em tên chi, quen biết ra sao với người đang nằm
xuống?
- Thưa Cô con cùng tên với người đang nằm đây, chỉ
khác họ. Con và cô ta là chị em dâu. Con kết hôn với người
anh, cô ta kết hôn với người em.
Thấy nói chuyện lâu ở đây không tiện, tôi ngỏ ý muốn
được đến nhà Cô thăm hỏi vấn an Thầy Cô khi có dịp. Tôi
xin được biết số phôn và địa chỉ nhà Cô, Cô vui lòng ngay.
Cô kê một mẫu giấy nhỏ trên nền một bia mộ gần đó viết
nhanh vài hàng chữ rồi đưa cho tôi.
Tôi đến nhà thăm thầy cô Lạc vào cuối tuần sau đó. Anh
Thể hào hứng đi cùng tôi vì anh cũng là học trò cũ của thầy
Lạc trong nhiều năm ở Võ Tánh. Anh học lớp Đệ Nhất B2
ban Toán, lớp thầy Lạc giảng dạy niên khóa 1960-1961.
Thầy trò lâu ngày gặp lại tay bắt mặt mừng chuyện trò vui
vẻ. Đang vui câu chuyện thì một thiếu phụ trẻ đẹp bước ra
chào chúng tôi với khay nuớc trên tay. Vừa nhìn thấy mặt cô
ta, tôi khựng lại vài giây. Thấy vậy thầy Lạc nói: “Đây là
con dâu của thầy cô, Kim Châu cũng dân là Nha Trang đó”.
Thấy khuôn mặt cô Kim Châu quen quen, lại nghe thầy Lạc
nói cũng dân Nha Trang, tôi là dân Nha Trang “chính hiệu
con nai vàng”, sinh sống ở đó từ bé đến lớn, tôi nhìn kỹ Kim
Châu rồi hỏi:
- Xin lỗi, Nha Trang cô ở khu vực nào?
- Dạ, nhà cháu ở Phường củi, gần cây cầu gỗ nối qua
xóm Hộ.
Nghe đến đây tôi “à” lên rồi hỏi: Có phải cô là con của
ông… và bà… không? Kim Châu xác nhận đúng. Sau một
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 105
hồi “sưu tra lý lịch”, tôi nhận ra Châu là cháu gọi tôi là dì.
Tôi là dân Phường Củi, học xong lấy chồng sớm, theo chồng
đi xa thỉnh thoảng với về quê nhà, thăm bà con họ hàng. Lúc
đó các cháu còn nhỏ nên tôi không nhận ra Châu từ đầu.
Thầy cô Lạc nghe Kim Châu và tôi nhận họ hàng vai dì cháu,
Thầy Cô cũng vui lây. Cô Lạc nói cho chúng tôi biết không
những Kim Châu là dâu mà em gái của Châu là Ánh Nguyệt
cũng là con dâu của Thầy Cô.
Sau đó tôi thường xuyên gặp cô Lạc vào mỗi cuối tuần
tại chùa Liễu Quán, gần nhà Cô. Liễu Quán là một ngôi chùa
nhỏ, các Phật tử mến mộ Phật pháp thường tới chùa vào ngày
Chủ Nhật để cùng tụng kinh Pháp Hoa dưới sự chủ lễ của
thầy trụ trì Thích Pháp Chơn. Ở đây, tôi là “lính mới” còn cô
Lạc là “cựu trào” nên được thầy Pháp Chơn cho giữ chức thư
ký trong ban thư ký, ghi chép sổ sách cho Chùa. Cô Lạc còn
là “lớp trưởng” trong khóa Thọ Bát Quan Trai của chúng tôi
vào ngày thứ Bảy mỗi đầu tháng. Tôi là lính mới nhập trường
nên để tránh sai lầm, nhất cử nhất động tôi nhìn cô Lạc rồi
làm theo. Lần đầu dự khóa tu Thọ Bát Quan Trai tại Liễu
Quán, tại chánh điện, tôi quỳ sau lưng Cô để dễ thấy Cô mà
làm theo. Khi thầy Pháp Chơn xướng đến tên Trần thị Ngọc
Thạch pháp danh Tâm Nguyện, tôi thấy Cô đứng lên lạy 3
lạy rồi lại quỳ xuống như cũ. Nhờ vậy đây là lần đầu tôi biết
khuê danh của cô Lạc là Trần thị Ngọc Thạch, có pháp danh
là Tâm Nguyện. Khoảng vài phút sau, tôi nghe thầy Pháp
Chơn xướng tên tôi: Nguyễn thị Lý pháp danh Chơn Niệm
Thanh, tôi vội vàng đứng lên chấp tay lạy 3 lạy rồi quỳ xuống
giống như Cô. Có lẽ đây là lần đầu cô Lạc biết pháp danh
tôi.
Trước, tôi biết tánh cô Lạc đoan trang, hiền lành, dịu
dàng, có trách nhiệm. Nay được gần gũi tiếp xúc với Cô
nhiều hơn tôi càng kính trọng và thương mến Cô hơn nữa
qua nhiều đức tính. Cô khiêm nhường, nhẫn nhịn, quan tâm
giúp đỡ người khác. Ngày thọ bát quan trai là ngày cô
“trưởng lớp” bận rộn và vất vả nhất. Nhiều Phật tử tới chùa
106 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
thọ bát, kẻ hỏi điều nọ, người xin giúp đỡ điều kia, cô Lạc
đều vui vẻ giúp đỡ. Trong chùa ít người biết dưới chế độ
VNCH cô Lạc từng thành lập rồi giữ chức Hiệu trưởng một
trường nữ trung học lớn nhất tỉnh Khánh Hòa trong suốt 13
năm. Và sau đó được bổ làm Trưởng Ban Giám Đốc Thanh
Tra Trung Tiểu Học và Kỹ Thuật.
Mỗi lần cô Lạc và tôi tới chùa Liễu Quán thọ Bát Quan
Trai vào ngày đầu tháng, anh Thể ở nhà một mình cũng buồn
nên anh thường tới nhà thầy Lạc đàm đạo về Thiền học với
Thầy. Anh Thể đang nghiên cứu và thực hành môn này. Hai
thầy trò đàm đạo tương đắc lắm. Thầy Lạc là một nhà toán
học. một giáo sư đạy Toán trong mấy mươi năm, nhưng ít ai
biết Thầy là một đại thi hào của Việt Nam. Thầy chuyên làm
thơ Đường luật, làm thơ từ năm 1940 đến nay, tính có hơn
1000 bài. Tổng số thơ đó được in thành 5 tập. Thứ tự: Tư
Nguyên Thi Tập 1 đến Tư Nguyên Thi Tập 5. (Tư Nguyên là
bút hiệu của thầy Lạc). Thơ Đường niêm luật rất chặt chẽ
khó làm nhưng với Thầy, dễ dàng như ăn một miếng bánh
ngọt. Thầy làm dễ nhưng lời thơ và ý tứ rất tuyệt vời. Trong
một bài thơ tặng hiền thê vào tuổi xế chiều, Thầy buông 2
câu thơ đẹp như hương trong gíó lướt nhẹ qua một vườn hoa
đã tỏa hương sắc nhiều ngày:
“Tóc mây ngã trắng tàng duyên kín,
Vóc liễu còn mềm ẩn nét hoa.”
Chúng tôi vui mừng và hãnh diện có đủ 5 tập thơ từ Tư
Nguyên Thi Tập 1 đến Tập 5 do thầy Lạc tặng. Thi tập 5 tôi
được thầy cô Lạc tặng cùng một lúc với hơn 100 thân hữu
bạn bè và cựu học sinh của Võ Tánh và Nữ Trung Học Nha
Trang trong lễ kỷ niệm 50 năm thành hôn của Thầy Cô vào
năm 2007 tại nhà hàng Thành Được, San Jose. Tập 5 này
trình bày và in ấn rất đẹp do con trai cả là anh Bùi Minh Mẫn
design.
Cô con gái duy nhất của thầy cô Lạc là Ngọc Trâm cũng
là một người con gái đặc biệt, thích nghiên cứu về Thiền và
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 107
thực hành Thiền. Thầy cô Lạc từ khi qua Mỹ ở chung nhà
với Trâm để Trâm tiện bề chăm sóc. Thời gian gần đây sức
khoẻ Thầy Cô yếu, lên xuống thang lầu nhà Ngọc Trâm
không tiện nên Minh An và Kim Châu mời Thầy Cô về ở
chung nhà. Nói chuyện với Kim Châu, tôi thường nhắc nhở:
“Kim Châu và Ánh Nguyệt, hai cháu có phước lắm mới được
vào làm dâu nhà ông bà Lạc, một gia tộc trí thức, hiền lành
đạo đức, đạo hạnh ai ai cũng kính phục. Các cháu phải biết
phận dâu con mà ăn ở cho phải đạo, cho ông bà Lạc vui lòng
nghe.” Kim Châu nghe vậy cười nói: “Dạ, con cám ơn lời
nhắc nhở của Dì. Con cám ơn Dì”.
Lễ 50 năm ngày thành hôn của Thầy Cô Lạc
Nói đến bà Hiệu trưởng Bùi Ngoạn Lạc mà không nói
đến các thầy cô giáo trong trường cũng là một thiếu sót lớn.
Hồi mới thành lập, đa số các giáo sư là nữ giới. Chỉ có vài
thầy là nam như thầy Đốc, thầy Châu, thầy Ấn. Những năm
tôi học ở đó, tôi có rất nhiều kỷ niệm đẹp về các thầy cô
nhưng lưu lại trong ký ức tôi nhiều nhất là các cô Nguyễn
Hữu Thứ, cô Thu Vân, cô Cung, cô Thanh Tâm, cô Diên Chi,
v.v…
108 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Cựu học sinh VT & NTH tham dự lễ Kim Khánh của Thầy Cô Lạc
Cô Thanh Trí không dạy lớp tôi ngày nào nhưng tôi rất
thích ngắm Cô và nhớ Cô mãi đến bây giờ vì Cô rất đẹp. Cô
Thu Vân và cô Thanh Trí, theo tôi, là hai nữ giáo sư đẹp nhất
trường. Hai Cô đều có nét đẹp dịu dàng thanh tú và trẻ trung.
Hai Cô mỗi người một vẻ đẹp, mười phân vẹn mười. Hai Cô
như hai đóa hoa vừa mới nở, đẹp lung linh dưới ánh nắng
Xuân. Nếu hai Cô đi thi hoa hậu và tôi được làm giám khảo
thì tôi sẽ tuyên bố cô Thu Vân và cô Thanh Trí đều Hoa Hậu
đồng hạng. Nếu thi thêm về tài năng, tôi chắc hai Cô cũng
bằng điểm nhau vì cô Thanh Trí có tài vẽ thì cô Thu Vân có
tài “làm thầy bói” coi chỉ tay đoán hậu vận.
Người tôi muốn nhắc đến tiếp theo là cô Cung dạy Anh
văn. Hồi Cô vào lớp dạy chúng tôi, Cô thường la rầy chúng
tôi vì Cô chấm bài thấy điểm trung bình chúng tôi thấp. Cô
ít cười, nghiêm nghị lại hay đôn đốc la rầy chúng tôi phải
siêng năng chăm chỉ học hành thêm nữa, nếu không, đi thi
sẽ rớt hết. Hồi đó chúng tôi sợ Cô lắm. Nhưng sau kỳ thi Tú
Tài 1, tỷ số thí sinh thi đậu ở những lớp do Cô dạy dỗ tương
đối cao. Lúc đó chúng tôi mới thương và biết ơn Cô.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 109
Sau ngày 30/4/75, mỗi lần tôi về Nha Trang thăm gia
đình ba má, tôi thấy cô Cung thường lui tới nhà thăm chơi
với chị Ba tôi. Tôi chẳng biết hai bà quen nhau từ lúc nào mà
thân nhau lắm. Chị Ba tôi cũng là cựu học sinh trường Võ
Tánh thời ông Lê Tá làm hiệu trưởng, bạn học cùng lớp với
cô Phan Anh, cô Hải, thầy Phan Đình Tần v.v… Chị Ba tôi
không có điều kiện học cao như các bạn cùng lớp nên sau
khi rời Võ Tánh, chị vào Sài Gòn làm việc trong ngành
truyền thông. Năm 1963, chị mới được chuyển về làm việc
tại Ty Thông Tin Nha Trang. Chị Ba tôi và cô Cung thường
rù rì to nhỏ với nhau về việc tìm đường đi vượt biên. Thật ra,
chị lo cho cô Cung đi chứ chị không đi vì chị còn nặng gánh
gia đình.
Tại Cam Ranh, khoảng đầu thập niên 1980, tôi đang
đứng bán hàng tại tiệm sách Nam Cường của tôi thì cô Cung
bước vào. Tôi khựng lại vài giây đồng hồ rồi chợt hiểu. Tôi
mời Cô ngồi uống nước nghỉ mệt. Cô không nói gì mà tôi
cũng không dám hỏi Cô vào đây làm gì. Tôi mời Cô trưa nay
về nhà tôi ăn cơm, Cô gật đầu với nét ưu tư trên khuôn mặt.
Tôi đóng cửa tiệm về nhà sớm hơn mọi khi. Lũ con tôi thấy
có khách lạ cùng về với mẹ, chúng khoanh tay: “Con chào
Bác ạ.” Lúc đó cô Cung mới quay sang nhìn tôi, cười: “Lý,
mi phải bảo chúng nó kêu tau bằng bà ngoại chứ!” Tôi phì
cười theo Cô. Cơm nước xong, tôi mời Cô lên giường nằm
nghỉ. Một lúc sau, Cô nhìn đồng hồ rồi Cô từ giã tôi ra đi.
Cô không nói Cô đi đâu và tôi cũng không dám hỏi Cô câu
nào. Cô và tôi tuy không nói mà cũng hiểu rõ lòng nhau. Sau
đó tôi không biết chuyến vuợt biên tại Cam Ranh đó có thành
công không, hay phải vài chuyến nữa Cô mới tới Mỹ được.
Nghe nói trước khi ra đi Cô Cung đưa một gói đồ cho chị Ba
tôi, rồi nói: “Mi giữ gói này giùm tau. Nếu đi lọt tau cho mi.
Nếu tau bị đi tù, mi bán dần những thứ này lấy tiền thăm
nuôi tau. Cám ơn mi trước.”
Cô Nguyễn Hữu Thứ là giáo sư chỉ đạo lớp đệ Nhị C
của tôi niên khóa 1963-1964. Khuê danh của Cô là Thân thị
110 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Giáng Châu dạy môn Pháp văn. Cô dạy giỏi, có phương pháp
nên chúng tôi tiến bộ rất nhanh. Cô hiền và quý mến học sinh
nên tôi thường đến nhà Cô chơi. Sau khi tốt nghiệp ra khỏi
trường, thỉnh thoảng tôi cũng đến thăm Cô. Ngày Tết tôi đi
cùng một nhóm bạn thân đến nhà Cô chúc Tết để được nhận
bao lì xì. Cô đưa ra một hộp đựng nhiều bao đựng tiền lì xì
bên trong. Mỗi đứa bốc một bao. Đứa nào may mắn bên
trong có tờ tiền giá trị cao như $5 hay $10, đứa nào kém may
mắn thì bên trong chỉ có tờ $1.
Cuối năm 1966, tôi đến nhà cô Thứ đưa Cô tấm thiệp
báo hỷ chứ không đưa thiệp mời tới nhà dự tiệc vì sợ mất thì
giờ Cô. Cô mở thiệp ra xem rồi nhìn tôi, vui vẻ nói:
- Học sinh trường Nữ Trung Học Nha Trang này, Lý
là người thứ 5 tới nhà đưa cô thiệp cưới đó!
- Thưa Cô mấy đứa kia “ham vui” nên lấy chồng sớm,
còn em thì học xong, có việc làm rồi mới lấy chồng nên em
đưa thiệp cưới đến trình Cô hơi muộn. Thưa Cô tụi nó, nếu
em nhớ không lầm, theo thứ tự là: Nguyễn thị Hiền kết hôn
với giáo sư Bửu Thả, Phan thị Hồng Phước kết hôn với giáo
sư Trần Thanh Lý, Lê thị An kết hôn với giáo sư Trương
Hồng Sơn, Đoàn Trinh Thục kết hôn với giáo sư Nguyễn Bá
Tiết phải không Cô?
- Sao em biết rõ vậy?
- Thưa Cô, tụi nó là bạn học cùng lớp với em mà. Hiền
và Hồng Phước là học cùng lớp từ tiểu học. Lê thị An thì
cùng lớp năm đệ Nhị C, Cô dạy nó cùng lóp với em, Cô biết
mà. Đoàn Trinh Thục thì dân trường Pháp mới chuyển qua
trường Việt học cùng lớp đệ Nhất C với em tại Võ Tánh. Thầy
Nguyễn Bá Tiết dạy Anh văn là sinh ngữ chính nhóm em và
Thầy cũng là giáo sư chỉ đaọ lớp em. Lớp Nhất C vào thời
điểm đó có 2 nhóm: Anh văn sinh ngữ chính và nhóm kia là
Pháp văn sinh ngữ chính. Giờ sinh ngữ, 2 nhóm tách ra 2
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 111
phòng và học với 2 giáo sư khác nhau. Cuối năm, sau kỳ thi
tú tài 2 thầy Tiết cưới Đoàn Trinh Thục.
Đến đây, cô Thứ nhìn tôi, cười nói:
- Và Lý là người thứ 5 đến đây đưa thiệp cưới cho cô
như cô vừa mới nói đó, đúng không?
Cô và tôi cùng cười.
Cô Thanh Tâm trước khi qua dạy trường Nữ Trung Học,
Cô dạy tại trung học Võ Tánh. Năm đó anh Thể học lớp Đệ
Nhất B2 ở Võ Tánh niên khóa 1960-1961. Cô Thanh Tâm
mới tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, được bổ về Võ Tánh dạy
môn Vạn Vật cho các lớp đệ nhị cấp. Mấy anh lớn học lớp
Nhất A, B hay C đa số ở lứa tuổi trên dưới 20. Mấy anh cao
lớn khỏe mạnh. Có anh cao hơn cô Thanh Tâm cả cái đầu.
Cô Thanh Tâm lúc đó khoảng tuổi 24 hay 25. Vóc người Cô
nhỏ nhắn xinh đẹp nên Cô thường bị mấy anh “nhất quỷ nhì
ma thứ ba học trò” chọc phá. Có lần trong lớp Nhất B2, giờ
Vạn Vật học, cô Thanh Tâm đang giảng bài thì một anh nam
sinh hỏi Cô một câu gì đó khiến cô mắc cỡ giận đỏ mặt, bỏ
ra khỏi lớp, đứng tựa lan can nhìn xuống sân trường. Cô
đứng đó cho đến khi có tiếng chuông reo báo giờ tan lớp Cô
mới về văn phòng giáo sư.
Mùa Hè Đỏ Lửa, 11 năm sau giai thoại đó, tại Quảng
Trị một Thiếu tá TQLC khuôn mặt rám nắng dày dạn phong
sương, từ tuyến đầu đánh nhau với Việt Cộng, anh có chuyến
công tác về Huế. Trong một tiệm ăn, tình cờ anh gặp lại cô
Thanh Tâm đang dùng bữa cùng chồng tại đó. Anh đến chào
hỏi và tự giới thiệu anh là học trò cũ của Cô khi Cô dạy môn
Vạn Vật lớp Nhất B2 tại Võ Tánh. Cô cảm động và vui mừng
khi Cô biết người học trò cũ của Cô ngày nào bây giờ đã trở
thành một quân nhân cấp Tá trong hàng ngũ Quốc gia, đang
đánh nhau với Việt Cộng, để bảo vệ miền Nam VNCH. Anh
nhắc lại chuyện Cô bị anh học trò cùng lớp chọc phá khiến
Cô mắc cỡ, giận đỏ mặt bỏ ra khỏi lớp. Nhưng anh không kể
112 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
chuyện đó với cô Thanh Tâm mà kể với người đang đọc Bút
ký chiến trường Trị-Thiên do anh viết, Thiếu tá TQLC
Huỳnh văn Phú. Anh Phú là bạn cùng lớp với anh Thể trong
suốt 3 năm tại Võ Tánh: Tam B, Nhị B và Nhất B2 tại Võ
Tánh. Anh Phú cũng là tay chọc phá bạn bè có tiếng, nhưng
rất may anh không nhúng tay trong vụ này. Mỗi lần anh Phú
ra mắt sách tại San Jose, anh Thể và tôi đều có mặt ủng hộ
anh. Anh Phú cũng là bạn cùng khóa 19 Võ Bị Đà Lạt với
anh Trương Khương.
Viết về trường cũ mấy ngày nay tôi cảm thấy mệt mỏi
chân tay và trí óc. Mỏi chân thì ít, mỏi tay thì nhiều vì mấy
ngón tay phải gõ liên tục trên keyboard. Nhưng mệt nỏi nhất
là trí óc. Hồi ký này xin coi như tấm lòng biết ơn và thương
kính gởi đến thầy cô hai trường Võ Tánh và Huyền Trân.
Cũng coi đây là món quà mọn gởi đến các đồng môn xa gần
trong và ngoài nước đọc cho vui trong mùa dịch Covid này.
Nguyễn thị Thể-Lý (VT-65)
(Viết xong tại San Jose, California ngày 9/9/2021)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 113
Lê văn Ngô & Hà thị Hùng KÍNH CHÚC MỪNG
90 TUỔI THỌ
CÔ BÙI NGOẠN LẠC
CỰU HIỆU TRƯỞNG
NTH/HT
NHA TRANG
XUÂN CANH TÝ
2020
Đại thọ mừng cô tuổi chín mươi,
Gia đình thân hữu nụ cười tươi.
Năm xưa trường nữ công xây dựng,
Hiện tại môn sinh danh sáng ngời.
114 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Giáo dục vun bồi luôn đúng mức,
Ân tình đền đáp mãi không ngơi.
Chúng em cùng chúc cô trường thọ,
Bên cạnh lang quân đẹp tuyệt vời.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 115
116 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Giờ Toán
với thầy Hồ Viết Đốc
Hồ thị Ky
Năm 1960, tôi đậu
vào lớp Đệ Thất 1 Võ
Tánh, đó là năm cuối
cùng trường nhận thêm
nữ sinh mới. Qua năm
sau 1961, toàn thể nữ
sinh được đưa sang
trường Nữ Trung Học
vừa thành lập. Học hết
Đệ Nhị B năm 1966, tôi
lại khăn gói quay về Võ
Tánh vì lúc đó trường Nữ
Trung Học chưa có các
lớp Đệ Nhất. Như vậy
đầu đuôi tôi là dân Võ
Tánh, khúc giữa là dân Nữ Trung Học, thấy cũng hay hay.
Tận đáy lòng, tôi rất thương kính các thầy cô giáo của
tôi: cô Anh, cô Mộng Tường, cô Lý, cô Ngọc Mỹ, cô Hoàng
Yến, cô Thứ, cô Thanh Trí, thầy Đốc, thầy Châu, thầy Bào,
… nhưng hôm nay tôi chỉ muốn nói một chút về giờ toán
năm Đệ Tứ 1 với thầy Đốc, một vị thầy khả kính và là một
người anh thương quý trong gia đình Phật tử của tôi.
Thầy Đốc ra đi rất trẻ, vào năm 1970, ở tuổi 32, đã để
lại một niềm thương tiếc lớn lao vô cùng cho trường NTH,
toàn thể giáo sư, nhân viên trường và cựu học sinh chúng tôi.
Có một chuyện bí mật ít có em học trò nào biết được về thầy
Đốc. Đó là mỗi khi thầy Đốc mặc bộ complet đi dạy học, thì
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 117
hôm đó 1/3 số học sinh lớp thầy dạy lãnh con zero. Nhận xét
nhiều lần như vậy, một hôm tôi đánh bạo hỏi thầy:
- Em để ý mỗi lần anh mặc complet thì nhiều trò bị ăn
trứng vịt? Tại sao vậy anh?
- Tại vì anh bỏ trứng vịt trong 2 túi áo vest.
Tôi biết đó là câu nói đùa của thầy mà thôi. Vì tôi quan
sát nhiều lần và thấy rằng hôm nào thầy mặc áo vest thì
không cầm phấn, không giảng bài mới, mà chỉ dò bài thôi.
Chắc có bạn hỏi tại sao Ky dám kêu thầy Đốc bằng anh? -
Tại vì thầy là huynh trưởng trong gia đình Phật tử của Ky.
Trong lớp thì gọi ‘thầy’ xưng con, ra khỏi lớp thì gọi ‘anh’.
Thầy còn có lối dạy môn Toán cho học sinh Ban B lớp
chúng tôi rất khác lạ. Chắc các bạn cùng lớp Đệ Tứ với tôi
còn nhớ giờ Toán với thầy Đốc không? Năm đó tôi (Hồ thị
Ky) giữ sổ điểm của lớp vì vậy thầy dặn tôi: “Mỗi khi thầy
nói ĐÚNG sau một câu hỏi thì ghi 20 điểm cho trò đó. Nếu
trả lời sai, và thầy biểu ngồi xuống thì trò đó ‘ăn’ trứng vịt
tức là zero.” Mỗi trò chỉ có một câu hỏi. Dù trả lời ĐÚNG
hay SAI, người bạn đó sẽ chỉ tiếp người bạn khác để thầy đặt
câu hỏi mới và cứ tiếp tục kiểm tra bài theo cách này cho đến
hết giờ học.
Theo tôi, giờ trả bài toán học theo cách này giống như
chơi trò chơi trong hướng đạo, học trò phải hiểu câu hỏi và
phải trả lời rất nhanh, nếu không sẽ bị phạt một cách vui vẻ,
nhưng ở trong lớp học toán thì được lãnh trứng vịt hay trứng
ngỗng!!! Thật là căng thẳng, lãnh con zero thật sao quá dễ
như vậy! Cho nên, người chỉ bạn khác để tiếp trả bài được
nhận những tia nhìn năn nỉ của “phe ta” hầu thoát khỏi câu
hỏi của thầy. Cũng nhờ vậy, những khối óc giỏi toán trong
ban B chúng tôi ngày càng chăm chỉ, lanh lẹ và tiến bộ hơn.
118 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Thầy Hồ Viết Đốc và lớp Đệ Nhị B, niên khóa 1965-1966
Tôi cũng nhớ rất rõ và rất thích thú vào những buổi học
thầy Đốc cho làm toán chạy “5 ăn 5 thua”, chỉ 3 người nhanh
nhất ai trúng được 20 điểm. Ai trật lãnh số zero. Có gan thì
chạy, mà tôi là một trong những đứa gan nhất lớp. Đã vậy
tôi còn may mắn ngồi đầu bàn cho nên chân trong chân ngoài
phóng rất lẹ, bây giờ nghĩ lại, thấy cũng còn vui và hào hứng
như đá banh.
Ngoài môn Toán, môn Lý Hóa cũng quan trọng không
kém. Thầy Châu cũng là một giáo sư dạy rất giỏi, thầy rất
nghiêm trang nhưng hay mắc cỡ và hiền từ, chúng tôi kính
thầy và không dám chọc phá. Mấy năm sau, nghe tin thầy
kết hôn với cô Phan thị Anh, là giáo sư chỉ đạo của lớp chúng
tôi năm Đệ Thất 1, niên khóa 1960-1961 tại Võ Tánh. Thầy
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 119
Cô thật đẹp đôi và hạnh phúc. Thưa Thầy Cô, chúng em rất
vui mừng khi biết tin này.
Thầy Bào có lẽ là vị thầy trẻ nhất tại Nữ Trung Học hồi
đó, dạy chúng tôi môn Sử Địa suốt ba niên khóa Đệ Tứ, Đệ
Tam và Đệ Nhi B. Học trò rất vui trong giờ Sử của thầy.
Thầy say sưa trong bài giảng khiến tôi thấm hiểu và ghi nhớ
bài học dễ dàng, ví dụ như môn Lịch Sử oai hùng của Việt
Nam qua nhiều thời đại khiến tinh thần yêu nước của tôi bắt
đầu từ đó. Phải nói, chúng em rất thương kính thầy. May mắn
làm sao, tôi có được bức hình chụp với hai vị thầy giỏi cùng
với bạn Liên Châu. Bức hình tiếp theo đây ghi lại lúc hai
thầy ghé qua xem Liên Châu và tôi đang nấu món gì cho
cuộc thi gia chánh trong một buổi cắm trại tại ngay sân
trường Nữ Trung Học cũ nằm 1965. Cô Bạch Vân chấm
điểm cho buổi thi gia chánh hôm đó. Hai đứa tôi nấu chè nên
không được giải nhất vì các bạn khác nấu ăn giỏi hơn tôi rất
nhiều.
Thầy Trần văn Châu, thầy Thái Huy Bào chấm thi môn Gia
Chánh, Bạn Liên Châu và Hồ thị Ky (Lớp Đệ Tam B, năm
1965)
120 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Để giúp vui cho những bạn học ban B, tôi mến gởi hai
bài toán đố do thầy Đốc đặt ra. Đã gần 60 năm qua rồi mà
tôi vẫn nhớ mãi hai bài toán phương trình của thầy. Tôi muốn
ghi lại để bạn nào muốn thử xem trí nhớ của mình thì tham
gia cho vui.
Bài 1 *:
Vách tường nghe tiếng nói đông đông
Hóa ra cô cậu kén vợ chồng
Một thiếp, 2 chàng, thừa 7 thiếp
Một chàng, 2 thiếp, 4 chàng không
Hỡi người quân tử tài suy nghĩ
Mấy cậu, mấy cô kén vợ chồng?
Bài 2 **
Cam 3 đồng 1
Quít 1 đồng 3
Thanh yên giá 5 đồng 1 quả
Có 1 tiền, mua lấy 100
Hỏi nàng mỗi thứ bao lăm?
Ghi chú: 1 (quan) tiền bằng 60 đồng.
Mời các bạn già tham gia cho vui. Giải trúng được 20
điểm, không trúng, cười cho đời an lạc.
Đáp số như sau:
* Bài số 1: 10 chàng 12 thiếp. (Áp dụng phương trình bậc 2)
** Bài số 2: 93 trái quýt $31, 4 trái thanh yên (trái Phật thủ)
$20, 3 trái cam $9. Tổng cộng: $60 (Áp dụng phương trình
bậc 3).
Kính chúc tất cả quý Thầy Cô và quý bạn dồng môn
được nhiều niềm vui vô tận và trẻ lại khi nhớ về những kỷ
niệm với trường Nữ Trung Học Nha Trang xưa.
Hồ thị Ky (VT-67)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 121
MOÄT THÔØI ÑEÅ NHÔÙ
Trần Yến
Để đóng góp vào đặc san kỷ niệm
60 năm thành lập Trường, Yến cũng
xin tản mạn vài câu chuyện vui và kỷ
niệm của lớp.
Năm lớp 6 lớp được học Pháp
Văn với thầy Trần Phạm Hiếu, cũng là
giáo viên chủ nhiệm lớp, Thầy mang
cặp kính dày cui đặc trưng. Riêng Yến
có lần được Thầy "ban" cho viên phấn, cụ thể là ném viên
phấn Thầy đang cầm để rèn nết cho đứa học trò nhỏ, vì…
con gái gì mà không sự, há mồm ngáp trong lớp học . Giờ
vẫn nhớ và thương Thầy vì thầy hay gọi học trò mình bằng
Con…
Năm lớp 7, lớp được học Văn với cô Hồ Tường Ngọc
Diệp. Cô người miền Nam (hình như là Sài Gòn), theo chồng
ra Nha Trang công tác. Cô cho lớp viết chính tả, hình như
bài "Sông trăng" thì phải; mà bắt đầu bằng câu sau (nguyên
văn phát âm của cô nhé):
“Dzải chúng tôi bằng ánh sáng…”
Câu đúng là: “Vẫy chúng tôi bằng ánh sáng…”
Wow…, vậy là gần hết cả lớp viết sai, mà Yến chỉ nhớ
có mỗi Xuân Trang viết đúng thì phải !!! Mỗi lần Cô vào lớp
là bị học sinh cười và nhại giọng miền Nam của Cô… Cho
chừa hen !!! Nhớ hoài cái thuở học trò nghịch ngợm ấy…
Yến còn nhớ năm lớp 9, cả lớp hoảng hồn vì bạn Thu
Ngâm la làng muốn xỉu vì bị…dơi đu áo bên trường Nữ cũ.
Nhớ cô Giao dịu dàng, quý phái, dạy Pháp Văn lớp 7;
Cô Kim Thư thật là sôi nổi năng động dạy Sử Địa lớp 6, rồi
Pháp Văn lớp 9. Những chuyến tham quan thực địa bài học
122 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Pháp Văn của các cô rất vui, thú vị, khích lệ học sinh ham
học bộ môn…
Nhớ cô Thanh Trí dạy Vẽ xinh đẹp như tranh, nhanh
nhẹn, lúc nào cũng đầy màu sắc tươi vui bên học trò…
Họp mặt 9/1, nhân dịp Trưởng Lớp Xuân Trang về thăm quê hương. Từ
trái qua phải:
- Hàng trên (đứng): Minh Trang, Ngô Thái Hoà, Băng Tâm, Đào Quài,
Phương Lan, Ngọc Liên, Hoàng Anh, Trần Dân, Thanh Minh, Trần Yến,
Nguyễn Trang (A), Ngọc Tước.
- Hàng dưới (ngồi): Kim Oanh, Lê Nhơn, Thanh Nga, Xuân Trang, Thu
Ngâm, Kim Hằng.
Nhớ cô Bạch Vân và cô Hồng Lạc (vợ thầy Súy dạy Thể
Dục), dạy Nữ Công Gia Chánh, rèn đường kim mũi chỉ, bánh
trái (bánh bao, bánh hạnh nhân, bánh chuối) cho chúng ta.
Nhờ đó, Yến nhớ là đã tự may được áo dài bằng gấm Hồng
Hoa cho mình để mặc đi học sau năm 1975 nữa đấy.
Góp nhặt cho vui, ngăn ngắn vậy thôi, để các bạn khác
còn nhiều chuyện vui góp vào nữa chứ.
Nhớ… để làm hành trang cuộc sống cho mỗi chúng ta.
Các Cô,các Thầy của chúng ta,dầu nay một số đã ra người
Thiên cổ,nhưng chúng ta vẫn mãi nhớ và Tri ân các Thầy cô.
Trần Yến (9/1; 10/75)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 123
Thô PHAN LEÃ
Nữ Trung Học Huyền Trân
Đứng trước trường xưa dạ thẫn thờ
Nhớ thời áo trắng tuổi còn thơ
Thái Nguyên bảng hiệu ôi hoành tráng *
Phòng ốc cầu thang mỏi đợi chờ
Trò cũ ngày nào nay vắng bóng
Thầy cô hiện vẫn tiếp ươm tơ
Sáu mươi năm… góp bao công sức
Trường Nữ Huyền Trân khó xóa mờ …
* Nữ TH Huyền Trân bây giở là THCS Thái Nguyên
Nha Trang
124 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Áo Trắng Trường Xưa 125
Áo trắng trường xưa thoáng hiện về
Nhớ thời cắp sách lắm đam mê
Bon bon ngựa sắt từng ngày học
Quậy phá ham chơi hết chỗ chê…
Tuổi trẻ giờ này có còn đâu
Sân trường phượng đỏ đẫm sắc màu
Cô Thầy tuổi hạc còn hay mất
Bạn hữu thân thương xa vắng nhau…
Ngựa chứng sân trường bao vấn vương
Giờ này tung vó khắp muôn phương
Nhớ lời giáo huấn còn văng vẳng
Xao xuyến tâm can tiếng trống trường
Huyền Trân Trường Nữ bặt cánh chim
Ơn thầy nghĩa bạn biết đâu tìm
Phấn bảng ngày nao bao luyến nhớ
Thôi đành câm lặng ép vào tim …
Áo Trắng Sân Trường
Sân trường áo trắng khó kềm cương
Nghịch phá nhiều khi đến dại cuồng
Nhốn nháo dường ong giờ đã điểm
Nhôn nhao tựa kiến trống vừa buông
Hành vi ngỗ nghịch thời niên thiếu
Tính nết hồn nhiên tuổi học đường
Hẳn chắc thầy cô như thấu hiểu
Sân trường áo trắng khó kềm cương…
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Ngựa Chứng Sân Trường
Sân trường ngựa trắng khó kềm cương
Đạp đất tung mây hét dại cuồng
Tính nết học trò vui quậy phá
Thói đời tật chứng dễ nào buông
Nghĩa nhân vội nhét đầy tâm não
Kiến thức chưa tiêu vẫn xuống đường
Thầy dạy nào yên trên lưng cưỡi
Sân trường ngựa trắng khó kềm cương…
Lá Đủng Đỉnh Buồn
Tà áo trắng thêu mấy nụ hồng
Tóc thề lượn gió thả mênh mông
Phượng rơi trường cũ hoài thơ ấu
Kẻ ngắm bờ xưa nhớ bến sông
Dạ xót tơ duyên đò vẫn đợi
Lòng đau số phận khách còn trông
Đưa người tình nhỏ sang bờ mới
“ Đủng đỉnh mùa đi em lấy chồng ”
“ Đủng đỉnh mùa đi em lấy chồng ”
Cánh tàn rơi rụng héo giàn bông
Tóc bay tha thướt theo làn gió
Dáng đứng mơ màng cạnh bến sông
Trường vắng điù hiu sầu khắc khoải
Đèn khuya đơn lẻ nhớ mênh mông
Mây giăng lối mộng hoàng hôn tím
Cô lái đò xưa ! mặc áo hồng …
PHAN LEÃ
126 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
GS PHẠM LIÊU
1. Từ Võ Tánh – Nữ Trung Học đến 45 Nguyễn Trãi
Từ năm học 1961 – 62, ngoài trường Trung học Võ
Tánh, Nha Trang có thêm trường Nữ Trung học Nha Trang,
là trường Nữ Trung học đầu tiên tại Miền Nam Trung phần.
Nữ sinh ở trường Võ Tánh, từ lớp đệ thất đến lớp đệ nhị,
được tách qua học trường Nữ Trung học (đệ nhất chưa đủ sĩ
số còn học tại Võ Tánh). Các nữ giáo sư Võ Tánh được
chuyển qua Nữ Trung học cùng một số nam giáo sư, thêm
mười giáo sư vừa tốt nghiệp khóa đầu tiên tại Đại học Sư
phạm Huế.
Thêm trường tất phải thêm nhiều giáo sư. Đông đảo giáo
sư trung học từ các tỉnh xa (Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Đà
Lạt,…) được bổ nhiệm về dạy tại Nha Trang đều phải ở nhà
trọ.
Khoảng năm 1963, một nhóm giáo sư hai trường Võ
Tánh và Nữ Trung học cùng nhau thuê chung một ngôi nhà,
dạng villa, tọa lạc tại góc ngã tư đường Ngô Đức Kế và
Nguyễn Trãi (nay là đường Võ Trứ), nhà hướng ra đường
Nguyễn Trãi, số 45. Phía Ngô Đức Kế được rào kín, sát sau
nhà là nhà bác Nguyễn Cường, nhân viên văn phòng trường
Võ Tánh, số 01 Ngô Đức Kế, tiếp đến là nhà giáo sư Nguyễn
Tri Phương, số 03 Ngô Đức Kế.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 127
Nhóm giáo sư gồm có Hồ Viết Đốc, Trần Văn Châu,
Thái Huy Bào của trường Nữ Trung học, và Nguyễn Bá Tiết,
Đinh Gia Hoài, Trần Văn Tây của Võ Tánh. Tôi là người
cuối cùng gia nhập nhóm, giai đoạn năm học 1965 – 1966.
Tổng cộng 7 thành viên. Việc ăn ở được cô em họ của anh
Đốc, chị Bé chu toàn.
Mọi người mặc nhiên xem anh Đốc như người trưởng
nhóm. Trầm tĩnh, giản dị, đôn hậu, anh luôn nghiêm cẩn đối
với đồng nghiệp, nghiêm minh đối với học sinh, nghiêm túc
trong công tác.
Sau những buổi giảng dạy căng thẳng ở trường, về nhà
rất cần được thư giãn giải trí: không ngày nào thiếu những
ván cờ tướng hoặc domino “bôi lọ nồi”, hay những câu đố
vui, những cuộc bình truyện Kim Dung, truyện Kim Vân
Kiều. Thỉnh thoảng còn có sự ghé chơi góp mặt của các thầy
Hồ Đăng Châu, Bùi Ngoạn Lạc, Nguyễn Trung Can, Hoàng
Thuyên, Nguyễn Đức Minh…
Nổi bật trong việc đùa vui là anh Đốc và Trần Văn Tây,
hai người với hai cá tính đối chọi nhau: Anh Đốc càng nhẹ
nhàng thâm trầm thì anh Tây càng ồn ào náo nhiệt. Anh Đốc
bên cạnh anh Tây trông như bậc đại sư bên cạnh nhân vật
Lão Ngoan Đồng của Kim Dung. Khi biết tôi đã đính hôn
với Út, chuyện đùa thường lấy tôi làm đề tài trêu chọc; có
lần anh Đốc hỏi: “Đố các cậu yêu lút là chi?”. Mọi câu trả
lời đều tìm cách giải chữ “lút”: nào là yêu “hết mình”, yêu
“say đắm”, người thì nói yêu “điên dại”, kẻ thì trả lời yêu
“tha thiết”… Cuối cùng anh Đốc mỉm cười và chậm rãi nói:
“Các cậu dở quá. Yêu lút là Út Liêu mà cũng không biết!”,
rồi quay sang tôi: “Phải không anh Liêu?”
Lẽ thường có hợp thì có tan, 45 Nguyễn Trãi cũng không
thoát khỏi thông lệ đó. Nhưng “tan” ở đây không phải vì bất
đồng nội bộ, trái với tinh thần đoàn kết tương thân tương trợ
giữa các thầy cô của hai trường Võ Tánh và Nữ Trung học,
mà vì quy luật sinh tồn của tạo hóa: Bảy chàng trai của 45
128 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nguyễn Trãi không thể chỉ biết đến trường giảng dạy rồi về
nhà vô tư thư giãn, mà còn phải biết nghĩ đến trách nhiệm
nối dõi tông đường đối với gia đình và tổ tiên. Mỗi chàng
phải lo tìm một Nàng làm Người Bạn Đường cho đời mình.
Phải “tan” để hình thành những cuộc “hợp” mới.
Bắt đầu là việc tôi làm phụ rể tiễn đưa Trần Văn Châu
lên xe hoa về nhà vợ Phan Thị Anh vào tháng 9 năm 1965.
Phòng ở chung với Trần Văn Châu dư chỗ nên anh Đốc về
Huế rước chị Vương Thúy Hoa vào làm thành viên mới,
cũng là giáo sư mới của trường Nữ Trung học. Trần Văn Tây
lại noi gương Trần Văn Châu theo Thu Hương về làm rể
Trường Mẫu giáo ở đường Yersin. Nguyễn Bá Tiết thì đón
Đoàn Trinh Thục về làm dâu 45 Nguyễn Trãi. Phần Đinh
Gia Hoài, sau nhiều năm kiên trì làm trạm chuyển tiếp đưa
đón giữa Huế và Long An, cuối cùng cũng thuyết phục được
cô giáo Hường chịu chọn miền thùy dương cát trắng làm bến
đỗ hạnh phúc.
Những ngày đầu năm 1968, tôi tất tả tìm thuê nhà để tổ
chức đám cưới với Út. Ngày tôi rời 45 Nguyễn Trãi, nhà còn
lại vợ chồng anh Đốc, vợ chồng Nguyễn Bá Tiết, chú em út
Thái Huy Bào, cùng với mẹ con chị Bé. Tuần trăng mật của
chúng tôi tại quê nhà Đà Lạt, trong dịp Tết Mậu Thân, đã
biến thành một cuộc chạy loạn chiến sự, đáng nhớ!
Trở lại trường sau kỳ nghỉ Tết bất thường kéo dài đến
gần cả tháng, thầy trò Võ Tánh vui mừng được gặp lại nhau
đầy đủ. Giờ học trò ra chơi, trong phòng giáo sư, thầy
Nguyễn Tri Phương ghé tai tôi nói nhỏ: “Học trò hỏi tớ: Thầy
Liêu mà cũng biết cưới vợ hả Thầy, cậu trả lời sao?” Tôi chỉ
biết đưa ngón tay đeo nhẫn lên và mỉm cười!
Suy nghĩ của học sinh cũng ngộ thiệt, đặt cho tôi đủ thứ
biệt danh: Nào là thầy “cô liêu”, thầy “một năm cười hai nụ”,
nào là thầy “lạnh lùng”, thầy “không biết cưới vợ”, … Cách
đây vài năm, nhân một lần chuyện trò với một cựu học sinh
Võ Tánh, tôi có hỏi đặt biệt danh cho thầy cô là có mục đích
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 129
gì, anh ấy thú thật: “Dạ cũng là để thỏa mãn tính tinh nghịch
của tuổi học trò thôi ạ, chứ tuyệt nhiên không có ý xúc phạm
thầy cô đâu. Học sinh chúng em vẫn luôn kính mến và nhớ
ơn thầy cô.”
Trở lại chuyện thầy Nguyễn Tri Phương, bậc đàn anh
mà tôi vô cùng ngưỡng mộ. Chính thầy đã cùng với các thân
hữu Phạm Thụy, Ngô Đức Diễm, Hoàng Thuyên, và Nguyễn
Đức Minh, làm sống lại tên trường tư thục Kim Yến nổi danh
một thời. Một cựu học sinh Võ Tánh, anh Hồ Văn Tâm, đã
viết về thầy như sau: “(…) Tuy rất bận rộn trong việc điều
hành ở một trường khác nhưng phong cách giảng dạy của
thầy tại Võ Tánh vẫn thu hút sự ngưỡng mộ của học trò như
xưa (…). Vẫn tấm lòng nhân ái và ân cần với học trò. Vẫn
những lời giảng trầm hùng. Vẫn kiến thức toán mênh mông
như biển cả. Vẫn vắt cả tim óc để ứng khẩu những bài toán
khó. Vẫn những nét phấn như rồng bay phượng múa … Thầy
vẫn mãi mãi là người nghệ sĩ trên bục giảng trong lòng của
bao lớp học trò (…)”. Người thầy dạy toán tài năng và đức
độ ấy đã đi vào cõi vĩnh hằng vào tháng 1 năm 2011 tại Mỹ.
Tro cốt của thầy đã được gia đình đưa về nghĩa đường Nhà
thờ Thanh Hải Đồng Đế Nha Trang.
Đầu năm 1970, một sự cố trọng đại xảy ra tại trường Nữ
Trung học, một tin nghe như sét đánh ngang tai: bệnh tật
nghiệt ngã đã cướp đi mạng sống của anh Hồ Viết Đốc! Anh
Đốc đã trả nợ trần quá sớm, đã lìa bỏ chốn trần ai để ra đi
mãi mãi, mới ở tuổi 32, trong nỗi tiếc thương vô vàn của gia
đình, đồng nghiệp và học trò, bỏ lại vợ còn quá trẻ và con
gái còn quá thơ dại!
Không thể sống trong khung cảnh gợi nhớ quá nhiều kỷ
niệm đau buồn, chị Hoa sau đó đã xin chuyển về dạy tại Sài
Gòn để sống cùng người thân bên ngoại.
Năm 1972, thành viên thứ bảy của 45 Nguyễn Trãi, chú
út Thái Huy Bào, cuối cùng cũng được cô Mỹ Hoàng rước
về cùng nhau xây tổ ấm tại đường Lê Quý Đôn.
130 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Cũng trong năm 1972 này thầy Lê Nguyên Diệm nghỉ
hưu, kết thúc nhiệm kỳ làm hiệu trưởng lâu đời nhất của Võ
Tánh: 13 năm. Năm học 1972 – 1973, với hiệu trưởng mới,
đã có những đổi mới vô cùng ấn tượng:
- Bầu Ban Đại diện học sinh.
- Tổ chức Tuần lễ Sinh hoạt học đường với các cuộc thi
tài (về văn nghệ, thể thao, hoạt động xã hội,…) giữa các
trường trung, tiểu học trong toàn tỉnh Khánh Hòa.
- Thực hiện Giai phẩm Sinh Nhật để chào mừng Lễ Kỷ
niệm 20 năm thành lập trường Võ Tánh Nha Trang (1952 –
1972).
Năm học 1973 – 1974 , đến lượt trường Nữ Trung học
thay đổi hiệu trưởng và trường cũng có tên mới: Nữ Trung
học Huyền Trân Nha Trang.
Cuộc sống yên bình cho đến một ngày năm 1975: Đất
nước lâm vào cảnh đất bằng dậy sóng, vật đổi sao dời! Gia
đình ly tán, bạn bè bặt tin! Trường đổi chủ, đường thay tên!
Những cái tên thân thương như Võ Tánh, Nữ Trung học
Huyền Trân, 45 Nguyễn Trãi, … không còn hiện diện trong
nhịp sống khó khăn hằng ngày nữa!
Năm 2003, nhân một chuyến đưa nhà tôi vào Sài Gòn
chữa bệnh, chúng tôi đã lần tìm gặp lại được chị Vương Thúy
Hoa ở quận Gò Vấp, sau hơn 30 năm mất liên lạc. Chị đã
nghỉ hưu , ở nhà dạy kèm tiếng Anh, hiện chị sống với hậu
duệ của 45 Nguyễn Trãi: Cháu Tịnh Thủy còn nằm nôi ngày
nào nay đã là mẹ của một bé trai kháu khỉnh khoảng 8, 9 tuổi.
Hai năm sau, lần thứ hai đến thăm chị, được biết Tịnh Thủy
đang sống ly hôn! Chị thì đang bị bệnh thấp khớp và tim
mạch hành hạ. Buồn! Lần thứ ba đến thăm cách đây khoảng
tám năm, thấy chị yếu hơn. Tịnh Thủy cho biết đang làm thủ
tục xuất cảnh. Cháu ấy nói: “Thưa hai bác, con chỉ làm theo
phương châm ‘hy sinh đời bố để củng cố đời con’ của mấy
ổng thôi ạ.” Thủy thì hy sinh đời mẹ để bảo vệ đời con. Tịnh
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 131
Thủy bị bế tắc trong cuộc sống khó khăn, nên đành kết thân
với một người nước ngoài, mong có cơ hội ra đi tìm đường
gây dựng tương lai cho con trai, và tìm điều kiện tốt nhất
chữa bệnh cho mẹ già.
Anh Đốc đặt tên Hồ Tích Tịnh Thủy cho con gái đầu
lòng chắc là mong cho con mình sẽ có được cuộc sống êm ả,
phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Nhưng thực tế lại là thân
gái dặm trường, còn trẻ mà đã phải trải qua nhiều sóng gió
trong đời sống tình cảm thiếu hạnh phúc!
Lúc chia tay chị Hoa chúng tôi bồi hồi, bịn rịn, có linh
cảm như đây là lần cuối gặp nhau. Mà đúng vậy, sau đó liên
lạc qua điện thoại thưa dần rồi mất hẳn. Có lẽ gia đình ba
người thuộc ba thế hệ đã ra đi và đến được miền đất hứa rồi.
Cầu mong chị Vương Thúy Hoa và con, cháu được vạn sự
an lành nơi đất khách quê người.
## #
2. “Răng mi dám…”
Năm 1997 tôi được nghỉ hưu sau 35 năm phục vụ trong
ngành giáo dục. Quyết định cho nghỉ hưu khiến tôi một
thoáng buồn lòng: thâm niên lên bục giảng của tôi chỉ có 5
năm, từ 1975 đến 1980, là thời gian tôi còn ở lại trường Lý
Tự Trọng. Từ 1980 đến 1997, 17 năm làm việc văn phòng
tại Sở Giáo dục và Công ty Sách – Thiết bị Trường học
không được tính thâm niên giảng dạy. Còn 13 năm làm việc
tại Trung học Võ Tánh trước 1975 – 13 năm hạnh phúc nhất
trong đời làm thầy của tôi, đầy ắp tình đồng nghiệp nghĩa
thầy trò, 13 năm biết bao ân tình – không có trong suy nghĩ
của chế độ mới!
Dù sao thì tôi cũng đã được tự do, được giải thoát khỏi
những công việc hành chánh nặng nề nhàm chán: không còn
nữa những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Thư viện dài hằng tuần
lễ, những đợt kiểm tra chuyên môn và cơ sở vật chất thư viện
trường học ở Cam Ranh, Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Nha
132 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Trang, Ninh Hòa, Vạn Ninh, đến tận Tuy Hòa, Tuy An,
Đồng Xuân (lúc còn tỉnh Phú Khánh); không còn nữa những
đợt sơ kết, tổng kết về phong trào xây dựng thư viện, về công
tác in ấn và phát hành sách giáo khoa tại các phòng Giáo dục,
các sở Giáo dục các tỉnh Tiền Giang, Long An, Đà Lạt, Sài
Gòn, Đà Nẵng, Hà Nội. (Có được chút an ủi ấm lòng là khi
về công tác tại các trường ở xã, huyện tôi được gặp lại nhiều
học trò cũ của Võ Tánh, nay đã là giáo viên, hiệu trưởng, cán
bộ phòng Giáo dục, …)
Được nghỉ hưu là được ở nhà thường xuyên với gia đình,
phụ giúp vợ tôi theo dõi việc học tập của các con, chăm sóc
nhà cửa, … những công việc mà bao nhiêu năm qua tôi đều
khoán hết cho người vợ hiền ốm yếu nhưng rất đảm đang, để
chỉ biết tập trung làm tốt công tác của nhà nước! Giờ đây,
mỗi ngày tôi có thể đưa đón con đi học, đưa đón vợ đi chợ.
Những chiều đẹp trời có thể đưa cả nhà ra phố, dạo biển.
Hạnh phúc vô cùng!
Có một lần tôi đưa nhà tôi đến chợ Xóm Mới. Vừa dừng
xe gần góc đường Võ Trứ - Ngô Gia Tự, bỗng nghe sau lưng
có giọng nữ lên tiếng: “Này Út, răng mi dám giành độc
quyền thầy của bọn ni, hử?” Tôi quay người lại. Người vừa
lên tiếng chào tôi: “Dạ chào thầy”, rồi chỉ nhà tôi nói tiếp:
“Út giành độc quyền thầy của lớp tụi em đó thầy”. Tôi chưa
kịp phản ứng thì Út đã cười, nói: “Diệu Phước! Chào thầy
rồi, sao không chào cô hả, đồ quỷ?” Rồi hai cô bạn cũ vui
vẻ xáp lại chuyện trò.
Thật lòng, lúc đó tôi chỉ thấy Diệu Phước trông quen
quen, đã gặp đâu đó. Về nhà, tôi lục “Hồ sơ mật” ra tìm hiểu
(hồ sơ được thu thập từ năm 1962, năm tôi vào trường Võ
Tánh, đến năm 1980, năm tôi rời Lý Tự Trọng), mới nhớ:
Năm học 1965 – 1966 tôi có phụ trách lớp đệ nhất A3 gồm
24 nữ sinh và 30 nam sinh; Diệu Phước thuộc nhóm 6 học
sinh giỏi Pháp văn nhất lớp nhất A3 là Võ Thị Diệu Hằng,
Đặng Thị Minh Nguyệt, Phan Thị Diệu Phước, Lê Thị Hồng
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 133
Nữ, Đỗ Thị Lê Vân và Trần Thị Yến (toàn nữ sinh). Cần nói
thêm: Nhất A3 năm đó còn có một thành viên đặc biệt, rất
có cá tính, sau này dạy văn cấp 2 nổi tiếng, là chị Vũ Thị
Mỹ, phu nhân của giáo sư triết Võ Túc.
Về đối tượng khiếu nại của Diệu Phước là Huỳnh Thị
Út, tôi có được trích ngang như sau: Út đã thi vào học lớp đệ
thất Võ Tánh từ năm 1959, cũng như Diệu Phước; sau đó
chuyển qua Nữ Trung học mới thành lập, học đến năm 1964
thì chuyển lên Đà Lạt học trường Bùi Thị Xuân và đậu tú tài
tại đây. Năm 1967 Út trở về Nha Trang, đã xin được việc
làm tại Đài phát thanh, nhưng mẹ Út bảo ở nhà, lo rèn luyện
nữ công gia chánh để chờ ngày lấy chồng! Sau này, lúc đã
về với tôi, và cha mẹ Út đã quy tiên, mỗi lần nhớ về mẹ, Út
thường bùi ngùi tâm sự: “Bà già kỳ lắm, cứ nhắc hoài câu
nói: ‘Con gái đến tuổi cập kê mà giữ trong nhà cũng giống
như giữ trái bom nổ chậm, lo lắm!’, như mạ muốn đuổi em
đi vậy!” Chúng tôi không có con gái, nên không sợ có bom
nổ chậm trong nhà!
Út ở nhà, rảnh rỗi quá đâm buồn, bèn cùng nhóm bạn rủ
nhau học thêm ngoại ngữ. Ông Tơ Bà Nguyệt khéo dẫn lối
chỉ đường cho họ ghi tên vào danh sách học viên lớp đệ nhất
ABC trường Văn hóa Quân đội, hoạt động vào ban đêm và
ngày chủ nhật tại trường Nam Tiểu học (nay là trường Trung
học Phổ thông Nguyễn Văn Trỗi), là lớp tôi phụ trách. Duyên
số cho tôi gặp được Út và đã thuyết phục được cô ấy trở
thành người bạn đồng hành cùng tôi đến trọn đời.
Trở về năm học 1965 – 1966: Út không học lớp nhất A3
Võ Tánh, nên không thể nói Út giành độc quyền thầy của
nhất A3 Võ Tánh như lời Diệu Phước khiếu nại. Theo ngôn
ngữ tòa án, có thể kết luận: Tội danh (giành độc quyền)
không thành lập.
Điều đáng ghi nhận là sau lần khiếu nại không thành
công, tình bạn thời áo trắng giữa Diệu Phước và Út ngày
càng sâu đậm, thắm thiết, thể hiện qua nhiều lần thăm viếng
134 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
và tặng quà. Xin cám ơn Diệu Phước về những thẩu me chua
hay xoài chua ngọt, những hộp bánh dẻo thập cẩm gợi nhớ
quê Huế, về những lần thăm hỏi động viên tinh thần và hỗ
trợ vật chất lúc Út ốm đau, và nhất là những lời tiếc thương
vĩnh biệt lúc Út vĩnh viễn ra đi:
“Thôi thế từ nay vĩnh biệt rồi!
… Đau xót vô vàn hỡi Út ơi!
Người đã đến nơi cõi vĩnh hằng
Xa lìa khổ ải chốn trần gian
Thắp hương con nguyện cầu chư Phật
Dẫn dắt bạn con đến Niết Bàn.” (Diệu Phước)
Út đã vĩnh viễn rời xa cõi tạm hồng trần lắm gian truân
để kết thúc những tháng năm đau đớn thể xác vì bệnh tật
hành hạ, kết thúc những chuyến vượt đêm dài, như con thoi,
giữa Nha Trang và bệnh viện Sài Gòn, kết thúc cuộc đồng
hành đồng cam cộng khổ cùng với tôi trong suốt 50 năm 3
tháng 5 ngày qua!
Phạm Liêu
Tháng 1.2019
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 135
GS Nguyễn Khắc Mão
Tôi theo nghiệp phấn trắng
bảng đen từ năm học 1952 tại
trường Phụ Huynh Học Sinh,
Nam Định, một năm sau tại
trường Trần Quốc Tuấn, Quảng
Yên, năm 1955 tại trường Phan
Bội Châu, Phan Thiết, và tháng
8 năm 1964 tôi được thuyên
chuyển về trường Võ Tánh,
Nha Trang. Tại đây tôi phụ
trách Toán Lý Hóa trong hai
năm học 64 và 65. Từ năm học 1966 trở đi, vì nặng gánh gia
đình, tôi không đứng lớp nữa, mà chuyển qua Trưởng phòng
Thí nghiệm, thay thầy Bùi Văn Chọng, để có nhiều thời gian
dạy tư ở hai trường Bồ Đề và Văn Hóa. Vì thế, học sinh Võ
Tánh ít biết về tôi, và ngược lại tôi cũng không có nhiều kỷ
niệm với các em. Cho đến năm học 1973 tôi nhận sự vụ lệnh
đổi về trường Nguyễn Trãi quận 4 rồi trường Đoàn Thị Điểm
quận 3, Sài Gòn, và hưu trí năm 1989. Ba năm sau, tôi định
cư ở Virginia theo diện đoàn tụ gia đình. Từ đó tôi mất liên
lạc với đồng nghiệp và học sinh Võ Tánh. Cho đến những
ngày cuối năm 2019, tình cờ một cựu học sinh Võ Tánh –
anh Trần Mạnh Hùng – làm cùng sở với con trai và con rể
tôi, trong một buổi thăm viếng, đã biết và đến thăm tôi.
136 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Thầy trò mừng mừng tủi tủi, hàn huyên tâm sự cả buổi.
Anh còn tặng tôi mấy cuốn đặc san hội ngộ Võ Tánh Nữ
Trung học Nha Trang. Tôi hết sức vui mừng vì biết từ nay
lại được kết thiện duyên với thầy trò hai trường trên, qua các
đặc san hội ngộ phát hành mỗi năm một số. Tôi xin lan man
tản mạn về một số rất nhỏ bài viết trong gần ba trăm bài trong
các đặc san, khác nào một hạt muối bỏ vào đại dương.
Nói chung, các đặc san có bề dầy từ 500 trang trở lên,
dầy nhất đặc san năm 2015 (Bắc Cali) có 600 trang, giấy thật
trắng cỡ 13.5x21 cm (5.5x8.5 inches). Hình thức tranh bìa
trang nhã, đẹp mắt gây ấn tượng cho người xem. Rất nhiều
hình ảnh thầy cô và các học sinh. Nội dung các bài đủ thể
loại rất phong phú, chủ đề chính là tình nghĩa thầy trò, trường
sở và thành phố Nha Trang. Một số bài kèm theo hình ảnh
sống động. Nhiều cây bút quen thuộc hiện đang đóng góp
cho làng báo ở Mỹ. Có người đã xuất bản tản văn và thi văn.
Cầm một đặc san tôi tìm ngay những trang có hình quý
thầy cô để nhận diện nhưng chẳng nhận ra người nào. Nếu
có lời chú thích bên dưới, tôi rất vui mừng, lục lại ký ức để
nhớ lại những kỷ niệm xa xưa.
Đọc đặc san hội ngộ tôi biết được ai ở ai đi, ai còn ai
mất. Trong đặc san 2015 (Bắc Cali), Hồ Văn Tâm và Hồ Văn
Thiện cho biết:
- quý thầy đã ra đi: Lê Nguyên Diệm, Nguyễn Văn
Dành, Ưng Trung, Vũ Hữu Nghi, v.v… xin cầu nguyện quý
thầy cô sớm tốc xả mê đồ siêu sanh Lạc quốc;
- quý thầy cô đã hiện diện tại khách sạn Hải Yến Nha
Trang năm 2014: Nguyễn Đình Cho, Nguyễn Quang Gĩ,
Trần Đăng Lộc, v.v… xin kính chúc quý thầy cô thân tâm an
lạc, ấm no đầy đủ;
- quý thầy cô đang sống nơi đất khách quê người:
Nguyễn Đức Giang, Nguyễn Thanh Trí, Bùi Ngoạn Lạc,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 137
Ngô Đức Diễm, v.v… xin kính chúc quý thầy cô bách niên
giai lão, kiết tường như ý.
Thầy cô giáo truyền kiến thức chuyên môn và đạo đức
cho học sinh hiểu cách xử thế để thành người con hiếu thảo,
người dân lương thiện. Thầy trò cùng nhau chia sẻ niềm vui
nỗi buồn, coi nhau như người trong một nhà. Tình thầy trò
còn là tình cha mẹ với con cái. Câu chuyện dưới đây có thể
là một minh chứng.
“Một chuyến thăm Mai”, Đặc san 2019 (Florida), cô Hồ
Thị Phương Lan gặp Như Mai – bút hiệu Mai Sa Mạc – trong
kỳ hội ngộ năm 2017 (Nam Cali), biết Mai vừa thoát tử thần
nhưng nay căn bệnh quái ác lại tái phát đến giai đoạn cuối
cùng. Gần hết năm đó, cô Lan đã qua cả ngàn cây số, từ thành
phố Jacksonville, Florida, đến Albuquerque, New Mexico,
thăm hỏi, an ủi, massage, động viên, chăm sóc Mai, dù biết
rằng đây là dịp cuối cùng được gặp Mai.
Buồn thay! Mai đã ra đi ngày 7 tháng 6 năm 2018 trong
vòng tay ấm áp của chồng và các con. Cô Hồ Thị Phương
Lan đã ngàn thu vĩnh biệt Võ Thị Như Mai và cầu nguyện
Mai sớm về cõi tịnh: “Mai, em đã về nơi ấy, Xin em đừng
vướng bận cõi trần ai.” Cô giáo Hồ Thị Phương Lan là một
người mẹ hiền.
Ca dao có câu “Chữ rằng bằng hữu chi giao, Một ngày
gá nghĩa lẽ nào lại vong.”
Ngày xưa ông Dương Tiêu Sơn là bậc trung thần bị
Nghiêm Tung chuyên quyền làm bậy bắt bỏ ngục. Các quan
đều sợ hãi không ai dám vào thăm, chỉ có ông Từ Tử Dũ
ngày ngày “cho cơm rượu.” Dương Tiêu Sơn can ngăn e sợ
bị liên lụy. Ông Từ Tử Dũ nói “Anh cứ để tôi thăm anh, dù
có sao tôi cũng chẳng cần gì quan chức đâu” (Quốc văn giáo
khoa thư).
Ngày nay, cũng trong Đặc san 2019 (Florida), Phạm
Phan Lang trong một lần gọi điện thoại thăm bạn Võ Thị
138 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Như Mai được biết Mai đang thập tử nhất sinh, rên rỉ đau
đớn. Lòng Phạm Phan Lang đau xót vô cùng.
Thương bạn hiền vật vã
Trong cơn đau vô vàn
Nghe tiếng rên quằn quại
Tim tôi như nát tan
Ơn trên xin cứu rỗi
Cho bạn được bình an.
(Trích thơ “Thương Bạn”, Phạm Phan Lang)
Bạn hữu với nhau chỉ quý khi giúp đỡ an ủi nhau lúc gặp
tai ương ách nạn. Đạo lý của người Việt Nam trọng lòng
trung nghĩa. Đạo bằng hữu phải cho có thủy chung. Đáng
khen thay Phạm Phan Lang đã giữ trọn đạo bằng hữu.
Con người ta ai cũng chịu ơn sanh thành dưỡng dục của
cha mẹ nên phải lo cho tròn chữ hiếu. Thầy cô là người thay
quyền cha mẹ dạy dỗ mở mang trí tuệ cho ta nên người tử tế,
hữu ích cho xã hội. Vậy ta phải biết ơn thầy cô cũng như nhớ
ơn cha mẹ.
Hè năm 1962, Đỗ Lai Vỵ gặp hai Thầy Thạch Trung Giả
và Hoàng Tường tại trụ sở Air Vietnam ở Đà Nẵng, đã lật
đật đến thăm hỏi, đòi hai thầy đưa xắc cặp cho anh mang,
dẫn hai thầy đến tiệm cơm và đưa hai thầy đến hội đồng thi
Tú tài. Thầy Hoàng Tường đã mất năm 1972. Rất đông học
sinh đưa đám thầy. Thầy không có con, cô ở xa, nên từ năm
1976, hàng năm đến ngày giỗ (24 tháng 9 âm lịch) Đỗ Lai
Vỵ đã lên làm lễ trên mộ thầy (“Thầy xưa”, Đặc san 2019,
Florida).
Từ xứ lạnh Bắc Âu, Phạm Tín An Ninh đến thăm Thầy
Trần Thanh ở Xóm Mới Nha Trang. Khi ra về, anh lấy trong
túi áo một bì thư để trên bàn rồi khẩn khoản “Con có chút
quà mọn biếu thầy, xin thầy nhận cho như là một tấm lòng
của con nhớ ơn thầy cũ” (“Thầy trò”, Đặc san 2013, Nam
Cali).
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 139
Hai anh Đỗ Lai Vỵ và Phạm Tín An Ninh đã tỏ lòng biết
ơn và đền ơn thầy chẳng khác chi một ông quan tư nước Pháp
tên Carnot đã về làng chào hỏi lễ phép vị thầy dạy mình lúc
bé (Quốc văn giáo khoa thư, cours préparatoire, lớp 2).
Nha Trang có hai giáo sư rất nổi tiếng, Ông Bà Bùi
Ngoạn Lạc. Ông Bùi Ngoạn Lạc dạy môn Toán tại lớp cuối
bậc trung học được trò thương bạn mến. Thầy đã viết nhiều
bài cho các đặc san hội ngộ. Thầy còn làm thơ thất ngôn bát
cú. “Sân khấu thời gian”, Nữ Trung học Nha Trang 50 năm,
“Cảm nghĩ về Phật Đản” (ĐS 2010, Bắc Cali), “Mở lối” (ĐS
2019, Florida), nói lên giáo lý và phương pháp tu hành của
người con Phật. “Người xưa” đã dạy: đời là bể khổ. Vì tham
sân si, mạn con người gây bao ác nghiệp, tổn người hại vật,
phiền não vô cùng nên quanh quẩn trong vòng lục đạo.
Cuộc sống trần gian lắm đoạn trường
Buồn lo sướng khổ ngậm đau thương. (Mở lối)
Phiền não thân tâm lại chất chồng
Địa ngục niết bàn trong khoảnh khắc. (Cảm nghĩ về
Phật Đản)
Muốn thoát khỏi luân hồi sanh tử con người phải tinh
tấn chân chính tu hành “mở lối” đi vào cõi tịnh. Pháp môn
không kể xiết chỉ nên tiêu dao với hương thiền Phật pháp.
Đạo pháp tư duy tìm lối thoát
Thiền môn giác ngộ mở con đường. (Mở lối)
Thầy Bùi Ngoạn Lạc là một nhà mô phạm, một thì nhân
và một phật tử tinh thông giáo lý Phật đà.
Dân chúng Nha thành ai cũng biết bà Bùi Ngoạn Lạc,
Hiệu trưởng trường Nữ Trung Học Nha Trang. Bà đã lao tâm
khổ trí, vượt qua muôn vàn khó khăn trắc trở để thành lập
trường. Có thể nói: nếu không có bà, chưa chắc đã có trường
Nữ Trung Học Nha Trang (“Sự hình thành trường Nữ Trung
Học Nha Trang”, Đặc san 2010, Bắc Cali).
140 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Bà kể lại: mùa hè nọ bà làm Giám thị ở Huế, đã nhắc
nhở một thí sinh lớn tuổi “anh cất đi, anh cất đi, không thì
phiền lắm.” Khi bác ta bỏ lại tờ giấy vào túi quần, bà thở
phào nhẹ nhõm như vừa trút được một gánh nặng trên vai.
Bà đã mở rộng lòng thương với một bác thí sinh đi thi chỉ
cốt lấy bằng nộp hồ sơ tăng lương để nuôi gia đình (Đặc san
năm 2010 “Đôi dòng kỷ niệm khó quên trong đời nhà giáo”).
Lại một lần nữa khi bà làm Chủ tịch Trung tâm Đinh
Tiên Hoàng ở Sài Gòn, một buổi sang vị Phó Chủ tịch đòi
lập biên bản một thí sinh gian lận, đến chiều lại xin hủy bỏ
vì thí sinh này là em gái một người bạn, nhưng sự việc đã
rồi, không thể thay đổi. “Về nhà bà thấy khó chịu trong
lòng.” Khó chịu vì thí sinh gian lận hay vì Phó Chủ tịch
không chí công vô tư (Đặc san 2010)?
Nhân đây, tôi cũng xin kể những kỷ niệm coi thi mà tôi
còn giữ trong lòng.
Tôi có một bạn cùng trường Phan Bội Châu, Phan Thiết,
dạy Anh văn, sống trong nhung lụa, giàu có, rụt rè e lệ trước
mặt nữ giới. Một năm làm thư kỳ hội đồng thi ở Đà Lạt. Trêu
anh, tôi đã xếp anh và một nữ giáo sư thường xuyên cùng coi
thi chung một phòng. Kết quả, hè năm sau hai anh chị đã
cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình. Không biết hai người
nay ở nơi nao?
Lại một lần làm Thư ký hội đồng thi Tú tài một ở Đà
Nẵng, tôi được một giáo sư Võ Tánh giới thiệu một người
bạn đến xin đổi một bài thi và luôn nhắc đi nhắc lại “xin hậu
tạ.” Tôi hiểu ý và thầm nghĩ “không vì tiền mà làm điều phi
nghĩa” nên đã khéo léo từ chối. Đến nay tôi vẫn nghĩ: nếu
tôi nhận lời thì tâm tôi có được thanh nhàn, an nhiên tự tại
như ngày nay không?
Ngoài chủ đề tình nghĩa thầy trò, trường sở, đặc san hội
ngộ còn có rất nhiều bài nói về cảnh trí Nha Trang:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 141
- Nha Trang cảnh đúc nên người (Ngô Đức Diễm, Đặc
san 2017, Nam Cali).
- Nhớ mưa Nha Trang xưa (Nguyễn Thị Ngọc Vân, Đặc
san 2019, Florida).
- Nha Trang dấu chân kỷ niệm (Hồ Thị Phương Lan,
Đặc san 2014, Minnesota).
Thành phố Nha Trang không phải là thành phố của
thương gia mà là nơi dành cho du khách với những thắng
cảnh thiên hình vạn trạng của thiên nhiên và nhân tạo. Thật
vậy, bãi biển Nha Trang nổi tiếng đẹp nhất nước, kéo dài từ
Xóm Cồn đến Chụt, vừa dài vừa rộng. “Nói về biển, không
nơi nào đẹp, hiền hòa, dễ thương như biển Nha Trang” (Trân
Châu, Đặc san 2019, Florida).
“Những ngày nắng, trời êm gió lặng, ban ngày mặt trời
hào quang chói lọi, ban đêm ánh trăng vàng lóng lánh, cát
vừa trắng vừa mịn, rờ vào nghe mát rịn, nước trong xanh,
mặt biển êm đềm, sóng vỗ lăn tăn” (Nguyễn Thanh Ty, Đặc
san 2011, Wash-DC).
Nha Trang còn có những món ăn đậm đà, bình dân,
không thể quên được. Cháo lòng, bún bò, bánh canh, mực
nướng, tiết canh vịt ăn với bánh tráng nướng.
Đợi chờ gì hãy vào chợ ăn chơi
Nơi hàng cháo lòng bà Kim nước ngọt
Nếu còn đói bụng xin ghé vô hàng mẹ Thăng bún bò
Có giò, có huyết, tuyệt diệu thơm ngon, còn ai hơn nữa.
(Nguyễn Thanh Ty, Đặc san 2014, Minnesota).
Nha Trang còn có nhiều vùng đất. Ngoài những địa danh
thông thường như Mả Vòng, Cầu Đá, Xóm Bóng, Phường
Củi, v.v… còn có rất nhiều nơi nữa, mà tôi làm rể Nha Trang
đã 63 năm mà chưa nghe, biết, hay thấy, như: Hộ, Lư Cấm,
Hòn Tằm, Vũng Ngang, v.v… (Nguyễn Viết Trung, Đặc san
2019, Florida).
142 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT