The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2021-12-26 06:42:30

Đặc San MỘT THỜI ÁO TRẮNG

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

Thành phố Nha Trang còn có nhiều danh lam thắng cảnh
thu hút khách mười phương. Người mộ đạo hãy quá bộ đến
các cơ sở tôn giáo : chùa Hải Đức, chùa Long Sơn, nhà thờ
Chính tòa, tu viện La san (Hồ Văn Tâm, Đặc san 2010, Bắc
Cali). Bạn thích bơi lội, tắm mát, hóng gió, hãy ra biển.
Người ưa khảo cứu hãy đến các cơ sở khoa học, viện
Pasteur, Hải học viện, Tháp Bà Ponagar. Ai thích cảnh thiên
nhiên hãy thăm Hòn Mun, Hòn Én, Hòn Chồng, v.v… Hòn
Chồng là một bãi đá tự nhiên với những khối đá to lớn chồng
chất thành hòn non bộ khổng lồ tuyệt đẹp. Bà cô nào hay
mua sắm, shopping, hãy vào Chợ Đầm, Chợ Mới. Bạn trẻ ưa
leo núi hãy đến Cồn Tiên, Cù Lao, Hà Ra, Hoàng Ngưu,
v.v… (Nguyễn Viết Trung, Đặc san 2019, Florida). “Người
Nha Trang hiền lành chất phác sống giản dị với mảnh vườn
rau đủ loại, hay thửa ruộng xanh tươi quanh năm” (Trân
Châu, Đặc san 2019).

Nha Trang đó! Đẹp lắm! Người ơi! Hãy về với Nha
Trang! Hãy chọn đất Nha Trang làm quê hương!

Nha Trang ngày ấy! Chuyện cũ đã qua mấy chục năm
rồi. Nay đang sống ở nơi đất tạm dung này, vạn trùng xa
cách, thầy trò đã nhuốm hai màu tóc, chỉ gặp nhau mỗi năm
một lần, qua đặc san hội ngộ. Bao nhiêu hoài niệm những
ngày sống ở Nha Trang như đang còn đó, thi nhau quay về
trong tâm thức khiến lòng nhớ tiếc, đau buồn.

Xa mặt cách lòng, hãy chúc nhau:

Thọ tỷ Nam Sơn
Phước như Đông Hải
Hạnh phúc tăng long
Tùy tâm mãn nguyện.

Hẹn kiếp sau cùng sanh về Nha Trang.

Tâm Khương Nguyễn Khắc Mão

(GS/VT 64-73)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 143

Thô Song Anh

MÁI TRƯỜNG DẤU YÊU

Mái trường yêu dấu của tôi
Chứa bao kỷ niệm của thời nữ
sinh
Thơ ngây chan chứa bao tình
Với đôi tà áo đẹp xinh trắng
ngần.

Trường Nữ Trung Học Huyền
Trân
Sáu mươi năm đã tương thân
giúp đời
Cùng Thầy Cô dạy hết lời
Công Dung Ngôn Hạnh từ nơi học đường.

Dạy bao nhân ái yêu thương
Ra đi tôi vẫn nhớ trường dấu yêu
Thầy Cô, xin cám ơn nhiều
Bao nhiêu chữ nghĩa bấy nhiêu ân dày.

Bài thơ mộc mạc tôi đây
Lời tuy ngắn ngủi nhưng đầy chứa chan
Kỷ niệm Trường Nữ Nha Trang
Vang danh đào tạo những nàng Huyền Trân.

Tố Anh (NTH-74)
Kỷ niệm 60 năm trường Nữ Trung Học Huyền Trân

144 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

GIỮ MÃI TRONG KÝ ỨC

Kỷ niệm nào bằng thuở học sinh
Thầy Cô bè bạn những ân tình…
Mái trường, lớp học, hè hoa phượng …
Vẫn sống trong tôi bóng với hình.

Xa trường yêu dấu bước vào đời
Kỷ niệm mang theo khắp mọi nơi
Như gói hành trang nuôi ký ức
Nâng niu năm tháng chẳng buông lơi.

Xa rồi mới tiếc chuỗi ngày thơ
Muốn níu thời gian ở lại chờ
Ngày sẽ ra đi thành quá khứ
Bỏ tôi lạc lõng giữa bơ vơ.

Giờ trường kỷ niệm sáu mươi năm
Làm kẻ tha hương tiếc nuối thầm
Trường cũ còn đây trong ký ức
Hẹn ngày quay bước trở về thăm.

Thương Anh
(Rể NTH-74)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 145

(Viết tặng những giai nhân trường Nữ, và để tưởng nhớ một người..)

Phạm Tín An Ninh
(Nhất C/ VT63-64)
“O sinh ra tận mô ngoài Huế
Hà cớ gì trôi giạt tới Nha Trang
Để một “thằng Võ Tánh” phải lang thang
Đem cây si trồng trước sân trường Nữ.”
Nhờ bài thơ với bốn câu mở đầu không đâu vào đâu này,
tôi bất ngờ nhận được điện thư của một người có tên Van
Loubet từ một nơi nào đó gởi ngợi khen và hỏi tôi có phải là
cậu bé nhà quê ngày xưa vào Nha Trang, có thời trọ học ở
một con hẻm lớn trên đường Phương Sài. Tôi khá ngạc
nhiên, vì bài thơ tôi viết vội chỉ để gởi đăng trên Đặc San Võ
Tánh & Nữ Trung Học Nha Trang, nhân dịp đại hội cựu học
sinh hai ngôi trường này tổ chức tại Houston hơn hai năm

146 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

trước đó, mùa hè năm 2005; và cái tên người gởi, Van
Loubet rất xa lạ, có thể chỉ là một nick-name, không phải tên
thật. Thấy một số chi tiết trên mẫu điện thư ghi bằng tiếng
Pháp, tôi tò mò, tìm hiểu cái họ Loubet, được biết đó là họ
của ông Émile Loubet, thủ tướng thứ 45 của nước Pháp và
sau đó trở thành tổng thống (năm 1906)! Tôi giật mình, làm
sao tôi có thể quen biết với một người thuộc “danh gia vọng
tộc” tận bên trời Tây?

Hồi âm và hồi hộp đợi chờ. Mãi đến hai hôm sau, nhận
được thư trả lời, tôi mới vỡ lẽ, nhưng rồi lại có thêm nhiều
điều ngạc nhiên khác. Người viết thư cho tôi là chị Bích Vân,
bà chị cả của “O Huế” trong bài thơ tôi viết. Chị sang Pháp
vào những ngày Sài Gòn trong cơn hấp hối, và bảy năm sau,
lập gia đình với một người Pháp có dòng họ với ông tổng
thống từ năm 1906 này. Chị cho tôi biết đã vô tình đọc được
bài thơ “O Huế Ngày Xưa” của tôi trên diễn đàn của trường
Đồng Khánh, mà chị là một thành viên. Trước khi chuyển
vào trường Võ Tánh-Nha Trang, chị vốn là một nữ sinh
Đồng Khánh. Sau đó chị thử vào Google gõ tên tôi thì tìm ra
cả trang Web, có cả địa chỉ email của tôi trong đó. Chị còn
bảo, sở dĩ chị đoán ra tôi một phần là do nội dung bài thơ,
phần khác chính là nhờ cái tên của tôi đã làm chị dễ nhớ.
Điện thư chị viết khá dài, lại không có dấu nên khó đọc,
nhiều chữ phải đoán mò. Tôi cố đọc đi đọc lại vài lần mong
tìm xem có tín hiệu nào về “O Huế” của tôi, nhưng hoàn toàn
không thấy. Phía dưới email, chị cho số điện thoại và dặn tôi
gọi cho chị vào cuối tuần, khoảng sau bốn giờ chiều thứ bảy,
để chị em tâm sự nhiều hơn.

Còn ba ngày nữa mới đến thứ bảy, nhưng ba ngày với
tôi bây giờ có cảm giác còn dài hơn ba tháng!

Ký ức đưa tôi quay trở về một thời xa lắm, khi thành
phố Nha Trang đang mở ra cho tôi cả một bầu trời xanh bao
la trước mặt. Năm lớp đệ tứ, tôi đang trọ học ở nhà ông chú,
nằm góc đường Lê Lợi – Hoàng Tử Cảnh. Ngôi nhà nằm ở

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 147

một vị trí không thích hợp và cũng không đủ rộng cho việc
kinh doanh, nên phải bán đi để xây một ngôi nhà lớn hơn tại
khu đất mới. Chú tôi phải thuê tạm một căn phố gần rạp ciné
Moderne của ông Bác Ái ở đầu đường Độc Lập để làm văn
phòng, rất bất tiện cho tôi trong việc ăn ở học hành. Tôi phải
dọn lên ở tạm nhà một người bạn thân của ba tôi, chú Thân
Trọng Lý, trên một con hẻm lớn ở đường Phương Sài,
Phường Củi. Hẻm khá rộng, hầu hết nhà cửa đều rất khang
trang, yên tĩnh.

Khoảng hai tuần sau, một gia đình dọn đến thuê ngôi
nhà lớn nhất ở cuối con hẻm. Nhà có bảy người, ông bà chủ,
bốn người con và một chị giúp việc. Bà chị đầu, hai cậu con
trai trạc tuổi tôi rồi đến cô gái út. Ông bố là trung úy ngành
Quân Cụ, từ xa thuyên chuyển đến làm Chỉ huy phó trại
Quân Cụ, nằm góc đường Phương Sài – Trần Quý Cáp.
Trông tướng mạo oai phong nhưng ông rất hiền từ. Cả hai
ông bà rất mộ đạo Phật, ngày rằm nào cũng đi lễ chùa. Gia
đình gốc Huế, nhờ vậy, chỉ sau một thời gian, ông bố trở
thành bạn đồng hương, đồng đạo với chú Thân Trọng Lý,
chủ nhà của tôi, một sĩ quan cơ khí Không quân, và cũng là
một Phật tử thuần thành. Vợ chú đã qua đời từ mấy năm
trước, để lại cho chú một đứa con trai khoảng 6, 7 tuổi. Chú
Lý có họ Thân Trọng, một tộc họ nổi tiếng ở Huế, nhưng lại
được chôn nhau cắt rốn tại Vạn Giã, quê tôi. Bởi thân phụ
của chú từ Huế đến Vạn Giã làm ngành Hỏa Xa cho Pháp
khi còn trai trẻ, lấy vợ rồi lập nghiệp ở đây luôn. Gia đình
này nổi tiếng giàu có nhất ở quê tôi lúc ấy. Cùng ở quê vào
trọ học với tôi có hai chị em, chị Thân Thị Hảo và anh Thân
Trọng Sỹ, cháu ruột, con ông anh cả của chú Lý, học ở Võ
Tánh, trước tôi mấy lớp.

Tình bạn gốc Huế của hai ông chủ nhà đã bắc một nhịp
cầu khá thênh thang cho anh Thân Trọng Sỹ và tôi dễ dàng
làm thân với bốn đứa con của ông trung úy. Hai cậu con trai
khá hiền lành và hai cô con gái cô nào cũng thùy mị, xinh
đẹp. Sau đó chị cả Bích Vân vào học đệ nhị trường Võ Tánh,

148 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

cùng lớp với anh Sỹ, còn cô út Bích Hà học lớp đệ lục trường
Nữ Trung Học vừa mới mở. Hải và Sơn, hai anh con trai lại
học bên trường bán công Lê Quí Đôn. Anh Sỹ may mắn được
học cùng lớp, nên ngày càng thân thiết với cô chị, còn tôi thì
“phải lòng” cô em, bởi giọng nói “rất Huế” nhỏ nhẹ dễ
thương, đôi mắt nai tơ hiền lành và nhất là mái tóc thề bay
bay trong gió mỗi lần chúng tôi đạp xe song song trên một
đoạn đường dài trước khi rẽ về hai hướng để đến trường mỗi
đứa.

“Tôi phải lòng O, khi O còn đệ lục
Nón trắng, áo dài – trắng cả mùa thu
O đạp xe đi hồn nhiên quá đỗi
Cuốn hồn tôi theo vào cõi sa mù”

Đều là Phật tử, nhưng anh Sỹ và tôi hiếm khi đi chùa.
Vậy mà từ ngày có gia đình Bích Hà, bọn tôi không bỏ sót
ngày rằm nào. Ông bố thường chở chú Lý cùng vợ và hai cô
gái đến chùa bằng xe Jeep, còn anh Sỹ, tôi và hai anh con
trai thì đèo nhau trên hai chiếc xe đạp, chạy theo con đường
tắt qua hướng Mả Vòng. Chú Lý quen biết từ lâu với Thầy
Trụ trì Chùa Hải Đức, nên tất cả chúng tôi thường đi lễ ở
chùa này, hơn nữa ở đây không đông đảo như bên chùa Tỉnh
Hội, chỉ cách đó vài trăm thước. Khi lạy Phật, bọn nhỏ
thường quỳ sau mấy người lớn. Tôi thường quỳ bên cạnh
Bích Hà. Không biết nàng lâm râm khấn nguyện điều gì, còn
tôi thì chỉ xin đức Phật cho hai đứa được gần mãi bên nhau.
Và dường như từ nhỏ đến giờ, tôi chưa từng cầu xin đấng
linh thiêng nào một cách thành tâm như thế.

Khoảng sáu tháng sau, chú tôi đã xây xong ngôi nhà mới
ở đầu đường QL 1, nằm bên ngã tư Trần Quý Cáp, cạnh Ty
Thông Tin. Ông đến nói chuyện với chú Lý để đón tôi về,
nhưng tôi năn nỉ quá nên được cho ở lại đến cuối niên học.
Sau này, mặc dù về ở nhà chú, nhưng sáng nào, tôi cũng đạp
xe theo đường Trần Quý Cáp và đợi ở góc đường Phương
Sài, trước sân phòng mạch của Bác sĩ Nguyễn Văn Tý để

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 149

chờ Bích Hà, rồi chúng tôi cùng đạp xe song song trên những
con đường Gia Long, qua Ngã Sáu Nhà Thờ, đến Lê Thánh
Tôn. “Hộ tống” nàng đến trường Nữ, tôi mới rẽ sang đường
khác để đến trường tôi. Đặc biệt, những ngày trời mưa lớn,
Bích Hà không đạp xe mà nhờ anh Hải chở đi. Lúc ấy tôi
phải năn nỉ “lấy lòng” thằng bạn, ông anh rất hiền lành của
Bích Hà, cho tôi thay nó chở nàng ở phía sau. Đạp xe dưới
trời mưa gió lạnh mà tôi thấy cả người ấm lên và mong sao
con đường cứ dài thêm ra mãi.

Anh Sỹ và chị Bích Vân sau khi đậu Tú Tài 2, đều
chuyển vào Sài Gòn học tiếp. Và cuộc tình của hai người
cũng kết thúc sớm, sau khi chị Bích Vân được sang Pháp du
học.Tôi có cảm giác họ chỉ là hai người bạn thân chứ không
hẳn là đôi tình nhân. Mặc dù tôi biết anh Sỹ rất mê chị Bích
Vân, nhưng tính tình hoàn toàn khác nhau. Anh Sỹ lúc nào
cũng đùa cợt, vui vẻ hồn nhiên, còn chị Bích Vân thì trầm
lặng và sâu sắc.

Khi tôi vừa thi đỗ Tú Tài 1, Ba tôi từ quê nhân có việc
gia tộc, cần gặp chú tôi bàn bạc, nên đã vào Nha Trang khao
mừng và đón tôi về quê nghỉ hè với ông luôn. Khi ấy Bích
Hà cũng vừa thi đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp. Có thể lúc này
cả hai đứa tự xem mình đã là người lớn… hơn một chút.
Trước khi về quê nghỉ hè, tôi rủ Bích Hà đi ăn kem ở một
tiệm bên cạnh rạp ciné Tân Tiến. Tôi tặng một cây bút màu
xanh khá đẹp, có khắc đậm bốn chữ “Hoàng Thị Bích Hà”.
Lần đầu tiên trong đời nắm tay một người con gái mà lòng
thấy lâng lâng, man mác buồn. Bởi “chỉ mới nắm tay em hôm
nay mà đã nghĩ đến chia xa ngày mai.” Lúc nói lời chia tay,
cô bé không nhìn tôi, cúi xuống, giọt nước mắt tình yêu đầu
đời của tôi rơi xuống hai bàn tay nàng. Đọc trong sách, thấy
người ta thường nói đến giọt nước mắt hạnh phúc, nhưng với
tôi thì dường như đó lại là dấu hiệu của chia ly. Về quê chưa
được hai tuần, tôi nhận thư của Bích Hà, bảo gia đình sẽ phải
chuyển vào Cần Thơ, vì ông bố được thăng cấp lên đại úy và
không hợp cung cách làm việc của vị chỉ huy trưởng, vả lại

150 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

ông rất thích miền Tây sông nước, nên xin thuyên chuyển về
đây, giữ một chức vụ cao hơn. Cả nhà sẽ di chuyển trong
mùa hè này, bằng phi cơ quân sự, nhưng chưa biết ngày nào,
có thể còn khá lâu vì ba cô phải chờ người đến thay thế. Tôi
viết thư, hứa nhất định sẽ trở lại Nha Trang để tiễn Hà và gia
đình. Nhưng rồi tôi đã không có cơ hội để thực hiện được lời
hứa này. Một hôm nhận được lá thư khác của Bích Hà, bảo
là gia đình đã đi Cần Thơ, vì bất ngờ, nên cô bé không hề
biết trước. Khi tôi đọc được những dòng chữ xinh xắn quen
thuộc này, thì Bích Hà đã rời khỏi Nha Trang hơn một tuần
rồi! Bỗng dưng tôi thấy cả đất trời và mọi thứ chung quanh
mình trở nên trống rỗng. Chỉ còn có nỗi buồn đầy ắp trong
lòng. Không ngờ chuyện tập tễnh yêu đương cứ tưởng chỉ là
ngây ngô vụng dại, vậy mà đã làm trái tim tôi nhói đau như
thế. Mất mẹ từ nhỏ, nên tôi rất gần gũi thân thiết với Ba tôi.
Bất cứ điều gì tôi cũng tâm sự, kể lể với ông, có khó khăn gì
tôi đều tìm đến ông để được nghe ông giải thích, chỉ dạy tận
tình, nhưng lần này khi thấy tôi buồn, không còn đàn địch ca
hát líu lo như mọi ngày, ông dò hỏi, nhưng tôi chỉ vờ nhoẻn
miệng cười, lảng sang chuyện khác. Chẳng lẽ tôi lại ngu ngơ
khai với ông rằng, thằng con yêu quí của ông còn đang học
hành, chưa kịp lớn mà đã biết si tình? Vả lại, chính cả tôi
cũng đang bâng khuâng không biết đó có phải thực sự là tình
yêu hay không nữa!

Sau mùa hè, khi niên khóa mới sắp khai giảng, tôi khăn
gói trở lại Nha Trang, nhưng không còn cái háo hức của
những năm tựu trường trước đó. Thành phố biển xinh đẹp
này với tôi bỗng dưng chẳng còn chút thơ mộng nào nữa. Tôi
đạp xe lên nhà chú Thân Trọng Lý và vội vã chạy sang nhìn
ngôi nhà của Bích Hà. Bây giờ đã có chủ mới, nhưng tôi vẫn
cố ý kiếm tìm bởi cảm giác bóng dáng Bích Hà vẫn còn thấp
thoáng quanh đây, và tai tôi phảng phất dư âm giọng nói rất
Huế của nàng.

Tôi bắt đầu năm học mới với tâm trạng buồn và đầu óc
mang mang như thế!

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 151

Lớp Đệ Nhất C của tôi khai giảng đúng vào những ngày
biến động của chính trường miền Nam với liên tiếp những
cuộc bãi khóa, biểu tình chống chính quyền Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, nhưng bù lại có thêm nhiều khuôn mặt mới,
đa số là những giai nhân đến từ các trường Pháp và một số
trường tư thục sau khi đã đậu Bac 1 hay Tú Tài 1. Lúc ấy
Trường Nữ Trung Học Nha Trang vừa mới thành lập, chưa
có các lớp đệ nhất, nên các nữ sinh “được” tiếp tục ở lại học
chung với đám “ma quỷ” bọn tôi.

Thời ấy, nếu bên các lớp Đệ Nhất A, Nhất B có những
tên tuổi đình đám, nổi bật như Trần Xuân Hoa, Nguyễn Thị
Danh, Tôn Nữ Ngọc Hà, Thu “Mỹ Kim”, Phạm Phong Nhã,
… thì bên Nhất C của bọn tôi vang lừng với nhiều cái tên
khác: Thúy Liệu, Minh Châu, Kim Anh, Kim Thoa, Túy
Ngọc, Bạch Lan, Như Bá, … Bọn tôi cũng hãnh diện khi
cùng lớp với mình có quá nhiều người đẹp, nhưng như ông
bà ta thường nói “ Bụt nhà không thiêng”, hơn nữa khi bằng
tuổi nhau, đám con gái có khuynh hướng nhìn lên, chứ chẳng
mấy cô chịu nhìn ngang, nhìn dọc, nên đa phần là hoa đã có
chủ, vì vậy hầu hết đám con trai bọn tôi đều đem cây si trồng
bên trường Nữ, tìm đối tượng ở một vài lớp nhỏ hơn mình.

Thời ấy, nữ sinh bên Trường Nữ Trung Học, có lẽ nhờ
qui tụ từ khắp bốn phương nên hầu hết đều là những đóa hoa
ngát hương, muôn màu muôn vẻ, làm khốn khổ trái tim của
biết bao anh hùng hào kiệt, đặc biệt những chàng Sinh viên
sĩ quan Hải Quân, Không Quân hào hoa từ khắp nơi tập họp
về đây để sẵn sàng quỳ gối trước một giai nhân trường Nữ,
xin rước những “cánh hoa biển” hay “cánh sao trời” về để tự
giam hãm cuộc đời mình.

Có rất nhiều cái tên vẫn luôn đi mãi cùng năm tháng.
Riêng tôi chỉ biết (trong hạn hẹp) một vài người: Mỵ Cơ,
Hồng Nữ, Xuân Thùy, Quỳnh Như Ý, Trung Thu, Bích
Khuê, Như Ý (Thanh Cần), Lệ Son, Mỹ Hảo, … Trong số
những giai nhân này có mấy nàng từng làm cho vài thằng

152 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

bạn của tôi đã phải điêu đứng, khốn khổ đến tự hủy hoại cả
một đời. Riêng tôi, chỉ có duy nhất mỗi hình bóng cô nữ sinh
gốc Huế vừa mới giã biệt ngôi trường Nữ này, dù rất kín đáo,
thầm lặng, không có tên trong số những giai nhân ấy, nhưng
đã đủ choáng ngợp tâm hồn tôi, đã cho tôi cái cảm giác thế
nào là “chết ở trong lòng một ít” của ông nhà thơ Xuân Diệu,
mà khi ấy tôi rất mê thơ của ông…

Bây giờ Sài Gòn - Cần Thơ trở nên xa cách muôn trùng,
Bích Hà và tôi chỉ liên lạc nhau qua thư từ, và cũng chỉ dám
nói đôi điều đùa cợt vu vơ, vì sợ ba, măng (mẹ) nàng kiểm
soát. Ông bà không phải là người quá nghiêm khắc, nhưng
tất nhiên lúc nào cũng mong cô con gái út chăm chỉ học hành
theo chân bà chị cả Bích Vân.

Khi vào Sài gòn học thêm, tôi có rủ anh Sỹ đi Cần Thơ
một chuyến nhân dịp Tết Nguyên Đán. Ông bà cụ và cả nhà
Bích Hà vui mừng đón tiếp chúng tôi. Khi ấy chị Bích Vân
còn ở bên Pháp. Ở đây chỉ có hai hôm, nên bọn tôi không có
nhiều thì giờ riêng tư. Buổi tối cuối cùng, ông bà cụ bảo các
con đưa bọn tôi đi bộ ra bến Ninh Kiều hóng gió và nhìn
dòng sông Cần Thơ buổi tối lung linh dưới ánh đèn. Trên
đường về, tôi kéo tay Bích Hà đi lùi lại phía sau, và bất ngờ
hôn nhẹ lên má nàng. Đó cũng là nụ hôn đầu đời của tôi.

Tôi nhập ngũ khi Bích Hà vừa vào Đại Học Văn Khoa.
Ra trường, tôi được chuyển ra một đơn vị tác chiến lưu động,
hành quân liên tục khắp Vùng 2 Chiến Thuật. Có khi buổi
sáng còn ở Quảng Đức, Lâm Đồng, buổi chiều đã có mặt ở
Tuy Hòa, Phan Thiết. Có điều, đi đâu và lúc nào tôi cũng
luôn mang theo bóng dáng của Bích Hà. Sau mỗi cuộc hành
quân tôi đều viết thư, nhưng hộp thư KBC lại nằm ở hậu cứ
tận Ban Mê Thuột, nên ba, bốn tháng ông thượng sĩ già bưu
tín viên mới có phương tiện mang thư ra đơn vị một lần. Sự
liên lạc ngày một nhạt dần. Sau đó không còn nhận được lá
thư nào nữa của Bích Hà. Tôi hình dung Bích Hà bây giờ
không còn là cô học trò bé bỏng của trường Nữ ngày xưa

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 153

nữa, đã qua rồi cái thời mộng mơ, yêu đương khờ khạo. Một
năm sau, tôi bị trọng thương ở chân trái, trong một trận đánh
phản phục kích ở ngã ba Dak-Song, Quảng Đức, phải nằm
nhà thương gần ba tháng. Rất may là không bị cưa chân.
Những ngày nằm treo cái chân băng bột cứng đơ lên thành
giường, nghe những đồng đội thương binh bên cạnh rên xiết,
tôi càng nhận ra mình chỉ là một thằng lính mạt hạng, năm
tháng chỉ còn biết có đồng đội, súng đạn, chiến trường và
ranh giới giữa sống-chết còn mong manh hơn sợi tóc, thì đâu
có dám mơ gì đến chuyện tương lai hay công hầu khanh
tướng. Tôi cố quên dần rồi mất hẳn liên lạc với Bích Hà.

Sau tháng 4/75, trong những tháng năm bị tù tội từ Nam
ra Bắc, tôi chỉ còn biết chút cảm giác của hạnh phúc khi mơ
màng tìm về quá khứ, hình dung lại thành phố Nha Trang
xưa, thời tôi mới lớn, những ngày cắp sách đến trường với
từng khuôn mặt bạn bè vô tư trong sáng, nhìn đất trời và mọi
người ai nấy cũng hiền hậu dễ thương. Và từ trong ký ức ấy,
hình ảnh của Bích Hà lúc nào cũng hiện lên đậm nét. Tôi
thầm cầu mong cho “O Huế” của tôi sẽ luôn có tròn hạnh
phúc. Một cô con gái xinh đẹp, hiền lành phúc hậu như Bích
Hà phải xứng đáng để được ông Trời dành cho vòng tay nâng
niu, che chở, yêu thương.

***
Từ khi đọc được email của chị Bích Vân, tôi nao nức
đợi chờ, mong sớm đến chiều thứ bảy để gọi cho chị. Giọng
nói của chị vẫn không hề thay đổi, cho dù đã hơn 45 năm tôi
mới có dịp nghe lại giọng nói nầy của chị. Ấm áp, thân tình,
làm tôi nhớ tới giọng nói của Bích Hà. Tôi thường trêu “cái
giọng Huế của bồ làm khổ tôi rồi, bồ nói mà sao cứ như ru
hồn người ta!”

Bỗng tôi bàng hoàng khi chị im lặng một vài giây, rồi
xuống giọng như muốn nói nhỏ với riêng tôi“Bích Hà đã
không còn trên cõi đời này nữa! Bài thơ em viết chị đã đọc

154 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

trước bàn thờ cho nó nghe trong ngày giỗ thứ 37 của Bích
Hà, đêm Giáng sinh tuần trước.”

“O Huế” của tôi đã lẳng lặng bỏ đi, chỉ sau một cơn nhồi
máu cơ tim. Bích Hà bất ngờ rời khỏi trần gian nhiều đớn
đau phiền muộn này đúng vào đêm Giáng Sinh năm 1970,
sau một buổi tiệc với bạn bè trở về nhà, chỉ sáu tháng sau khi
tu nghiệp một năm từ Tân Tây Lan trở về và dạy Anh văn
cho một Trung Tâm Việt Mỹ. Hải, anh trai lớn của Bích Hà,
người bạn hiền lành tốt bụng của tôi ngày ấy, sau này trở
thành sĩ quan Pháo Binh và đã tử trận (mất xác) vào khoảng
tháng 4 năm 1972 trong một trận chiến đẫm máu tại khu vực
Cần Lê, gần An Lộc. Liên tiếp hai năm phải chịu hai cái tang
con, mẹ của Bích Hà gần như kiệt sức, Bà cũng đã ra đi vào
đầu năm 1975, sau một thời gian dài nằm trên giường bệnh,
đúng vào lúc tình hình chiến sự ở miền Nam trở nên tồi tệ
nhất. Điều uớc mong một lần trở về Huế, thăm lại quê hương,
mồ mả mẹ cha, gia tộc, cuối cùng ông bà cũng không thực
hiện được.

Nhờ giữ một chức vụ khá lớn trong Banque Nationale
De Paris (BNP), ngân hàng lớn nhất của Pháp tại Sài Gòn
lúc ấy, nên trước ngày 30 tháng 4/75 chị Bích Vân đưa được
ông cụ và Sơn, anh trai kế của Bích Hà sang Pháp. Ông cụ
đã về hưu từ đầu năm 1970. Cũng kể từ đó ông bà dọn nhà
về sống ở Sài Gòn. Khi đến Pháp ông đã khá lớn tuổi, cộng
thêm nỗi buồn mất vợ, hai con và mất cả quê hương, ông trở
nên trầm cảm, mất dần trí nhớ, rồi qua đời không lâu sau đó.
Sơn thì kết hôn với cô bạn cũ, vượt biên cùng gia đình sang
Úc, nên chàng ta cũng đã chọn Úc là quê hương cuối của đời
mình. Riêng chị Bích Vân, lúc còn ở Sài Gòn, cũng vì hai
cái tang em và gánh nặng phải lo toan cho bệnh tình của mẹ,
tuổi già của cha, chị đã không lập gia đình. Mãi sau này, khi
sang Pháp được bảy năm, chị mới kết hôn với một người
Pháp, là bạn cũ của chị khi hai người cùng theo học ở Hautes
Etudes Commerciales (HEC) de Paris, từ những năm đầu

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 155

thập niên 1960. Anh ta đã ly dị với người vợ trước và có một

cô con gái.

Tối hôm ấy, khi được nói chuyện khá lâu với chị Bích
Vân qua điện thoại, nghe tâm tình của chị, tôi có cảm giác
những mất mát lớn lao của chị cũng là nỗi mất mát, đau đớn
của chính tôi. Tôi trách ông Trời sao nỡ bất công với những
con người phúc hậu dễ thương như ông bà cụ, như bạn Hải,
và nhất là “O Huế”của tôi xưa.

Tôi đốt ba nén nhang, mở cửa bước ra balcon. Na Uy
đang mùa đông, tuyết rơi trắng xóa, trời đất và cả trong lòng
tôi cũng ngập đầy băng giá. Hướng về phương Đông, tôi cầu
nguyện và cám ơn Bích Hà đã để lại trong tôi hình bóng đẹp
đẽ cùng giọng Huế dễ thương nhất của nàng.

***
Mùa Hè năm 2009, vợ chồng đứa con trai lớn mua vé rủ
chúng tôi cùng đi tour năm ngày sang Nice, một thành phố
biển nổi tiếng ở miền Nam nước Pháp. Tôi hăm hở nhận lời,
mặc dù tôi đã từng đến đây vài lần rồi, nhưng vì biết chị Bích
Vân đang sống ở đây, và tôi mong muốn có cơ hội được gặp
lại chị. Chị rất vui mừng khi nghe tôi gọi, báo cho chị biết là
chúng tôi đang có mặt tại Nice, và chỉ còn ở đây ba hôm nữa.
Chị hỏi tên khách sạn chúng tôi ở và bảo là mười giờ sáng
ngày mai anh chị sẽ lái xe đến đón. Nhà chị ở không xa lắm,
khoảng một tiếng đồng hồ lái xe. Bà xã và đám con cháu tiếc
nếu phải bỏ một tour du thuyền đến Monaco, nên chỉ có mình
tôi nhận lời.

Anh chị ở trong ngôi nhà cổ, khá rộng. Đặc biệt anh
chồng nói được tiếng Việt, dù không thạo lắm. Tóc của chị
đã hoa râm, nhưng vẫn còn nguyên mái tóc thề ngày trước,
khuôn mặt vẫn đầy đặn hồng hào và cả dáng dấp của chị vẫn
phảng phất nét xinh đẹp, thanh lịch một thời. Sau khi ăn trưa
bằng món bún bò Huế do chính chị nấu sẵn, tôi theo chị lên
tầng trên. Nguyên một căn phòng lớn dùng để thờ Phật, nơi
chị tụng kinh niệm Phật mỗi ngày, và một bàn thờ phía sau

156 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

dành cho những người thân quá cố. Thoáng nhìn bốn tấm
ảnh phóng lớn có cùng một kiểu khung trên bàn thờ, tôi nhận
ra Bích Hà. Vẫn khuôn mặt khả ái, đôi mắt hiền từ ngày nào,
đặc biệt với cái miệng rất duyên. Tôi xin phép thắp mấy nén
hương. Đứng trước bàn thờ, lâm râm vài lời trong niềm xúc
động. Nhìn thật lâu vào đôi mắt của Bích Hà, tôi có cảm giác
như nàng đang nhìn tôi mỉm cười, tai tôi văng vẳng một
giọng Huế rất dễ thương, quen thuộc một thời.

Trước khi đưa tôi về lại khách sạn, chị Bích Vân nhắc
tới anh Thân Trọng Sỹ. Tôi cho biết là sau khi tốt nghiệp ở
trường Luật, anh Sỹ được thực tập tại văn phòng một vị luật
sư lớn tuổi, cũng là cậu họ của anh, nhưng chỉ một thời gian
sau thì anh bị động viên vào Thủ Đức. Anh được chọn về
phục vụ trong Ngành Quân Pháp. Lương ba cọc ba đồng và
đời sống quân ngũ dường như không thích hợp, nên sau đó
anh thi vào Khóa 1 Tham Vụ Ngân Hàng và ra làm Phó Giám
Đốc, rồi sau đó là Giám đốc Ngân Hàng Phát Triển Nông
Nghiệp Châu Đốc cho đến ngày mất nước. Anh vượt biển
khi tôi còn đang ở trong tù, Được tàu Nhật vớt nên phải sang
Nhật định cư một thời gian, rồi chán nản quá nên anh xin
sang Mỹ. Trải qua nhiều khó khăn mới được Cơ quan Di Trú
Mỹ chấp nhận. Hiện anh sống ở San Jose. Có điều, không
biết có phải thất tình ai đó mà anh không chịu lấy vợ. Mãi
một lần về Việt nam thăm gia đình, bị bà già la quá, hối phải
lập gia đình để bà có cháu nội mà an lòng nhắm mắt. Sau đó,
khi xuống Châu Đốc tìm thăm lại những nhân viên ngân
hàng cũ của mình, anh làm đám cưới luôn với cô thư ký ngày
xưa, vẫn ở vậy chưa chồng. Nghe nói lúc trước dường như
hai người từng đã có tình ý với nhau. Lúc đám cưới anh đã
gần năm mươi, nhưng may mắn hai vợ chồng có được một
cháu trai. Cha già con mọn. Mỗi lần nói chuyện với tôi anh
cứ than “lỡ nay mai tao đi sớm thì không biết ai lo cho thằng
bé.” Nhưng chị vợ là người hiền hậu đảm đang, và bây giờ
cháu cũng vừa lên High School rồi!

Để làm vơi đi không khí buồn bã, tôi trêu chị:

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 157

- Ngày xưa chị đẹp quá chừng. Em nghĩ là anh Sỹ si
tình, chắc đã hứa cả một đời tôn thờ hình bóng chị. Sau ngày
chị đi du học, anh ấy bắt đầu sống bất cần đời. Chị có nghĩ
vì vậy mà anh ấy không chịu lấy vợ không?

Chị nở một nụ cười thật tươi. Lắc đầu.

***
Khi tôi ngồi viết lại những dòng này thì chị Bích Vân đã
không còn trên cõi đời này nữa. Chị không có con, anh chồng
tốt bụng thì cũng đã khá già, nhưng còn có đứa con gái riêng
lo lắng cho anh. Tôi hình dung đến cái bàn thờ, có di ảnh
Bích Hà trên đó. Không biết bây giờ ra sao, có ai thắp cho
nàng một nén hương mỗi ngày và gõ cho nàng một hồi
chuông vào tối những ngày rằm. Riêng tôi, nén hương đặc
biệt ấy vẫn được đốt cháy mãi trong lòng mình.

Anh Thân Trọng Sỹ thì cũng vừa ra đi năm ngoái, sau
một thời gian dài bị tai biến mạch máu não, và sống cả một
cuộc đời vô ưu, thanh bạch. Anh mất âm thầm trong mùa
dịch Covid-19, nên tang lễ chỉ tổ chức rất hạn hẹp trong gia
đình. Tôi lại thêm một lần nữa nợ anh. Không có mặt để xin
lỗi anh nhiều điều, và tiễn anh rời xa nhân thế. Anh ra đi bỏ
lại người vợ hiền và đứa con mới chập chững vào đời. Anh
cũng bỏ lại biết bao kỷ niệm buồn vui của hai anh em tôi,
một thời đẹp đẽ nhất của Nha Trang. Cầu nguyện hồn anh
được thanh thản, và ở một nơi xa xăm nào đó, nếu có dịp ngó
lại trần gian này, xin anh vẫn nở nụ cười bao dung vui vẻ
như ngày nào, cho dù thế gian này đã không mấy sòng phẳng
với chính anh.

Cuối cùng, cũng sẽ đến lượt tôi. Rồi tất cả sẽ gặp lại
nhau ở một thế giới khác, bình yên, không còn chiến tranh,
hận thù, khổ đau, chia lìa mà chỉ còn có tình yêu thương,
chân thành, miên viễn.

Phạm Tín An Ninh

(tháng 9 /2021)

158 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

MÖØNG NGAØY NHAØ GIAÙO

Diệu Phước

Hân hoan chào đón Ngày
Nhà Giáo

Cựu học sinh "ân báo thọ
đền"

Ngày vui hội ngộ không
quên:

Thầy Cô thêm tuổi sức thêm yếu dần,

Tình sư phụ ân cần thăm viếng
Trọn nghĩa tình thể hiện ghi ơn
Thầy Cô vất vả sớm hôm
Truyền thụ kiến thức từng môn từng giờ,

Nay trò cũ cập bờ danh phận
Đã qua rồi lận đận bôn ba
Học trò tóc đã muối pha
Bên cô ôn những ngày qua tuyệt vời.

Biết nói gì hơn lời cầu chúc
Mong Thầy Cô hạnh phúc ngập tràn
Tình thương mãi đẹp vô vàn
Cao niên mạnh khỏe, an khang đủ đầy

Nâng cao tuổi thọ từ đây
Để con đền đáp ơn dày Thầy yêu.

Diệu Phước

Đệ Nhị A - NTH - NT/64

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 159

Võ thị Thanh Tùng

Có những kỷ niệm sẽ theo
dòng thời gian rồi mất hút nhưng
đôi khi chỉ là một thoáng mà mãi
mãi ở lại cùng ta trong tâm tưởng.

Sau biến cố kinh hoàng của
Tết Mậu Thân, ba mẹ tôi quyết
định chuyển gia đình từ Huế vô
Nha Trang sinh sống, khi đó tôi
vừa mới đậu đệ Thất trường Nữ
Trung Học ở ngoài Huế. Ngày đầu
năm học, hai chị em (tôi và chị Tâm Thanh) bỡ ngỡ đứng
trước ngôi Trường Nữ Trung Học Nha Trang và người đầu
tiên chúng tôi được gặp là cô Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc.

Trong trí tưởng tượng của tôi lúc bấy giờ, cô Hiệu
Trưởng phải là người nghiêm khắc và có phần xa cách với
học sinh nhưng chị em tôi đã không khỏi bất ngờ vì sự dịu
dàng, gần gũi của Cô. Với dáng người nhỏ nhắn, mái tóc
được búi gọn ôm gương mặt thanh thoát, Cô nhìn chúng tôi,
điểm nụ cười hiền hòa, rồi với giọng Huế nhẹ nhàng, Cô đã
làm cho hai chị em tôi thật yên lòng. Ngay từ lúc đó hình ảnh
của cô Bùi Ngoạn Lạc luôn gắn bó với chị em tôi cùng ngôi
Trường Nữ Trung Học Nha Trang thân yêu. (Con xin cám
ơn Cô thật nhiều đã chưa quên ngày đầu tiên mà hai chị em
con đến gặp Cô và Cô vẫn hay nhắc lại mỗi khi con có dịp
ghé thăm Thầy Cô.)

Đã có biết bao kỷ niệm vui nhiều ở ngôi Trường này với
mỗi sáng đi bộ đến Trường cùng hai người bạn thân, những
buổi sáng mát rượi trong không khí ướp đầy gió biển. Vừa

160 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

đi vừa nói chuyện râm ran với giọng cười trong suốt. Lớn
hơn chút, cũng bước chân đó nhưng hôm ấy bỗng trở nên
khoan thai và giọng nói cũng nhẹ nhàng hơn khi có bóng ai
đó bên trường Võ Tánh cùng bước nhịp theo sau lưng.

Cám ơn anh bên "tê" đã gởi cho O bên "ni" những tờ thư
màu xanh có bốn câu thơ thật dễ thương cùng lời nhắn: “gởi
người gió thổi mây bay”... thật sự đến bi chừ tôi vẫn chưa có
dịp hỏi: vì sao là người gió thổi mây bay???

Lại nhớ thật nhớ có lần cùng nhóm bạn "cúp cua" hai
giờ sau môn Vạn Vật để chạy như bay ra rạp Tân Tân coi
cho kịp phim "The Sound of Music" vì đó là ngày cuối của
phim. Những kỷ niệm thật ngọt ngào, dễ thương nên dù qua
bao khoảng cách của cuộc sống và thời gian, nó vẫn còn hoài
trong ký ức!

Sau năm 1975, mọi thứ đều thay đổi hoàn toàn. Chúng
tôi không còn được học ở ngôi trường Nữ Trung Học mà
phải nhập chung cùng nhiều trường về trường Võ Tánh (đã
bị đổi tên). Với tuổi 15 lúc đó, chúng tôi cảm thấy vui khi
được bước chân vô trường Võ Tánh cũ nhưng kỳ thật những
bước chân ấy không còn vô tư, hồn nhiên và những tà áo dài
trắng thướt tha mơ mộng đã không còn như ngày nào khi
mọi cảm xúc, mọi sinh hoạt đã hoàn toàn khác xa.

Ngày tháng rồi cũng qua đi... Sau khi định cư ở Mỹ, tôi
đã liên lạc được với người bạn thân thiết là Hương Huyền
đang ở Nam California nhưng cũng ít khi có dịp gặp mặt vì
cả hai đều bận rộn với đời sống thường nhật. Khoảng hai
năm sau đó, sự thôi thúc muốn tìm lại bạn bè cũ đã bắt đầu
nhen nhúm trong tôi. Tôi sống ở thành phố Fremont, ít ra
ngoài, chỉ biết đi làm rồi về nhà... Thế rồi, một ngày nọ tôi
nhận được cuộc điện thoại từ San Jose:

- Hello, cho hỏi có Châu Hồng ở nhà không em? (Châu
Hồng là tên người em chồng của tôi.)

- Dạ, Châu Hồng đi làm chưa về, chị có nhắn lại chi

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 161

không?

- À... em nói với Châu Hồng là có chị Sương Mai gọi
nhen, nhớ nói Châu Hồng gọi lại cho chị Sương Mai đó!

Tôi nín lặng một giây khi nghe tên và nghe lại giọng nói
của năm xưa, không thể nhầm lẫn được, tự nhiên tôi bật cười
lớn... Tôi nghe bên kia cũng im lặng một chút, rồi tôi nghe
giọng nói như lẩm bẩm một mình: Ai mà tự nhiên cười dữ
vậy... chời !

Tôi vừa trả lời bạn mà vẫn không ngưng được tiếng
cười:

- Dạ, thưa chị Sương Mai, em là Thanh Tùng đây chị...

Có tiếng reo lên:

- À... Thanh Tùng Huế răng khểnh đó phải không?

Ôi chao, cả hai đứa cùng reo mừng rồi nói cười vang
trong điện thoại. Bao nhiêu chuyện ngày xưa như ập đến lẫn
chuyện ngày nay tưởng như không bao giờ chấm dứt.

Kể từ ngày đó, qua Sương Mai tôi đã gặp lại nhiều bạn
cũ và lại có thêm những người bạn mới nữa. Chúng tôi bây
giờ là một "group" thường đi chơi, găp nhau mỗi weekend.
Đặc biệt khi có bạn từ phương xa tới là dịp để chúng tôi tụ
tập mấy ngày đêm nhắc lại chuyện cũ thời còn đi học... nhất
là tranh nhau nói, hát karaoke rồi lên chương trình đi chơi,
ăn hàng... và bao giờ câu chuyện cũng chỉ tạm ngưng lúc…
nửa đêm!

Rồi cũng từ những cuộc gặp lại bất ngờ đầy thú vị này
tôi có dịp cùng Sương Mai góp tay với các Anh Chị của hai
trường Võ Tánh – Nữ Trung Học trong Hội Ngộ 2010, rồi
tiếp theo Hội Ngộ 2015 tại San Jose. Tuy có bận rộn, vất vả
nhiều nhưng cũng thật vui, thật trọn vẹn, và tôi tin chắc là đã
để lại kỷ niệm đẹp trong lòng mọi người. Viết đến đây tôi
chợt thoáng buồn; Nếu không có đại dịch Covid-19 thì Hội
Ngộ Võ Tánh – Nữ Trung Học 2020 đã được tổ chức tại San

162 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Jose rồi. Điều này thật sự vui và có ý nghĩa biết bao vì đúng
vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày thành lập của Trường thân yêu
của chúng tôi: Nữ Trung Học Nha Trang.

Ngoài những Hội Ngộ của hai Trường còn có điều thật
vui là trong những ngày đầu năm, chị Lài, Sương Mai, Cảnh
Ninh và tôi cùng vài người bạn đã thường tổ chức buổi lễ
Chúc Tết Thầy Cô. Đó là những giây phút thật ấm áp, đầy
cảm xúc và nhiều niềm vui mà quý Thầy Cô và học sinh dành
cho nhau. Thật là cảm động khi nhiều Thầy Cô đã già yếu
hơn xưa nhưng vẫn cố gắng tham dự như là một sự cảm mến
tấm lòng của các em học sinh cũ. Ngoài ra còn có sự hiện
diện của các Anh Chị ở xa cũng rán về như muốn tìm lại
những hình ảnh của Thầy Cô ngày xưa.

Chúng tôi vừa vui, vừa rưng rưng cảm động cùng ước
gì sẽ tổ chức được hàng năm để có dịp thăm hỏi sức khỏe
của quý Thầy Cô kính yêu. Bao năm qua rồi, nghĩ lại vẫn
cám ơn Đời đã cho tôi gặp lại những người bạn cũ, nhờ vậy
cuộc sống cảm thấy như vui hơn, tươi đẹp hơn. Thỉnh thoảng
những kỷ niệm của thời còn đi học ở trường Nữ Trung Học

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 163

Nha Trang như một cuốn phim được quay chậm, thật trong
sáng, nhẹ nhàng và êm đềm biết bao và nó cũng sẽ ở lại mãi
trong tôi như những tháng ngày đẹp nhất.

San Jose, tháng 8, 2021
Võ thị Thanh Tùng (NTH-10/75)

Thanh Tùng và các bạn thường đi chơi, găp nhau mỗi weekend

Buổi lễ Chúc Tết Thầy Cô tháng 2 năm 2019

164 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Một Kỷ Niệm Tuổi Ô Mai

Văn Xuân Thùy

Bây giờ là tháng chín ở
miền bắc California, trời vừa
chớm Thu. Tính đến hôm nay,
gia đình chúng tôi đã định cư
nơi quê người gần bốn mươi
năm, dài hơn nhiều so với thời
gian sống nơi chôn nhau cắt
rún. Mùa Thu đang dần đến,
trong sự yên tĩnh chung quanh,
tôi chợt nhận ra đời mình giờ
tuổi cũng đã xế chiều. Tôi tiếc
nhớ những ngày tháng đã đi
qua quá nhanh. Kỷ niệm thì rất
nhiều, nhưng có một kỷ niệm
mà tôi vẫn còn nhớ rõ nhất vào
tuổi ô mai để hôm nay ghi lại
những dòng này mà cảm xúc vẫn còn đong đầy trong tâm
khảm.

Năm ấy (1959-1960), tôi học lớp Đệ Thất 2 tại trường
Võ Tánh. Tuy vậy, tôi mắc tật thèm ăn vặt, ngay cả ăn vặt
trong giờ học, thế mới “chết”. Thứ gì cũng thích nhai nhóp
nhép luôn miệng, đến nỗi con trai học cùng lớp cũng biết,
cho nên lúc ra chơi khi vào lớp là dưới hộc bàn cũng đầy
bánh kẹo nhất là kẹo Nougat, một loại kẹo sữa có trộn đậu
phộng mà tôi thích nhất, không cần biết ai bỏ vào là cứ nhận.
Nhưng tặng quà là không dám nhận đó nha! Mạ tôi thường
hay dặn các con gái chớ nhận quà của ai hết, kẻo mang nợ
phải trả và vấn vương tình hờ!

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 165

Trong lớp mà có được đồ ăn mình thích là phải vội "phi
tang" ngay, tôi tự nhủ như vậy. Tôi nhớ một kỷ niệm khó
quên, lúc học lớp Đệ Thất ở trường Trung học Võ Tánh năm
1960, ai học cùng lớp với Xuân Thùy chắc biết chuyện này.
Về sau khi đi dạy mới sực nhớ, mình cũng đã gặp một trường
hợp tương tự như thuở còn đi học.

Lần ấy, hình phạt cho chuyện ăn vặt trong lớp của tôi và
một người bạn thân là một điều rất khác thường và khó quên
đến nỗi không bao giờ tôi tái phạm nữa. Tôi rất cảm ơn cô
giáo đã cho tôi một bài học sửa sai. Chuyện như thế này, một
ngày nọ trong giờ Việt Văn lúc nào tôi cũng ngồi nghiêm túc
nghe giảng bài nhưng tình cờ thấy một cái bịch ném sang,
nhìn quanh thì nhỏ bạn Nguyễn thị Kim Tiếng ra hiệu cho
tôi giấu món đồ ấy đi, tôi vội lượm bỏ vào hộc bàn nhưng
tay bóp xem thấy trái gì lép lép, tôi đoán là me non và gói
muối ớt. Tự nhiên cơn thèm ăn dữ dội dâng tràn, nước miếng
chảy ra không cầm được, tôi bèn cúi xuống, mở ra, lấy một
miếng cho vào miệng. Ui chao, cảm giác mạnh vừa cay vừa
chua đến chảy nước mắt rơm rớm. Có ai cảm nhận được ăn
lén trong giờ học thích thú và ngon dường nào không?
Nhưng thật không may, từng cử chỉ, hành động ăn lén của
hai đứa chúng tôi đã bị cô giáo theo dõi, cô liền gọi:

- Trò Tiếng và trò Xuân Thùy, đem tất cả đồ ăn vặt lên
đây.

Thôi rồi, bị bắt quả tang ngay tại trận có bằng chứng
không thể chối cãi hay biện hộ gì được nữa! Bạn Tiếng và
tôi cùng đứng dậy, mặt tái xanh, chầm chậm bước lên, sợ sệt
đứng khép nép bên Cô, tay run run cầm tang vật, thiếu điều
muốn độn thổ mà không được. Phải chi có chút thần thông
như Tề Thiên Đại Thánh để giải quyết trường hợp này thì đỡ
khổ biết bao! Tôi thầm than thân trách bạn “Xui ơi là xui!
Tiếng ơi là Tiếng! Có “thoái” cũng không được nữa rồi, mi
đem cái đồ tau thích vào đây làm chi để bây giờ gây khổ cho
cả hai đứa như thế này!”

166 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Hai chúng tôi đang bấn loạn tâm thần thì giọng cô giáo
lanh lảnh vang lên:

- Hai em phải ăn cho hết gói gì đó rồi mới xuống lớp.
Mau lên, nhai lẹ rồi đi xuống.

Ối trời đất quỷ thần ơi! Hình phạt gì thật kinh khủng
quá! Hai đứa chúng tôi lúc ấy nhìn nhau với ánh mắt sợ hãi.
Trời ơi, làm sao mà nhai và nuốt cả một gói me chua và bịch
muối ớt cay xé lưỡi như thế này? Ôi! Nếu đời là bể khổ, thì
bấy giờ quả rất là khổ thật vì phải nếm và nuốt cả chua cay.
Với tính gan lỳ, tôi bèn tự nhủ: Mà thôi! Làm lỗi thì phải
chịu hình phạt dẫu hình phạt có gắt gao. Nhưng thật sự đối
với tôi, đó là một dấu ấn khó phai đã học được ở tuổi ô mai:
Hình ảnh của hai đứa con gái nhỏ vừa nhai từng trái me chua
thấm muối ớt cay xé, nước mắt chảy quanh, đang diễn tuồng,
và khán giả là đám bạn vừa nam vừa nữ đang nhìn chúng tôi.

Cả lớp yên lặng và nhìn hai chúng tôi với ánh mắt tội
nghiệp, đầy cảm thông như muốn chia sẻ và an ủi. Tôi mãi
không quên hình ảnh này và tin rằng những lúc khó khăn
trong đời mình thế nào cũng có những tấm lòng nhân ái của
những người thân quen và ngay cả của những người xa lạ
sẵn lòng dang tay nâng đỡ. Thi hành xong hình phạt, hai đứa
tôi được phép trở về chỗ ngồi. Chẳng biết tâm trạng của Kim
Tiếng lúc ấy ra sao, riêng tôi thì thẹn thùng với các bạn cùng
lớp, mặc dù biết mình có lỗi nhưng lòng cũng có chút chút
“giận” cô giáo.

Dĩ nhiên, suốt buổi học hôm đó, tuy rằng hai mắt tôi
chăm chú nhìn lên bục giảng nhưng tôi chẳng thu nhận được
gì, tâm trí bị ám ảnh bởi hình phạt! Mà thôi, tôi biết lỗi của
mình, chính sơ sót này đã là nguyên nhân cho một “tấn
tuồng” chẳng muốn đóng trong lớp hôm ấy. Một ý nghĩ chợt
đến trong tâm trí tôi lúc đó, phải chi cô giáo đừng phạt nặng
chúng tôi vì một lỗi “thật dễ thương” của tuổi ô mai, chắc tôi
sẽ mang ơn Cô rất nhiều.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 167

Có lẽ ý tưởng này
đã là một tia sáng
của sự bao dung
cần thiết chợt ươm
mầm trong tôi. Cả
lớp vẫn còn yên
lặng cho đến khi
nghe tiếng cô giáo
nghiêm nghị nhắc
nhở mọi người tiếp
tục nghe Cô giảng
bài. Thật lòng tôi
cũng chẳng nhớ
hôm ấy Cô giảng
bài bài gì. Cũng từ
đó, tôi không còn
ăn vặt trong lớp
nữa. Về sau, tôi
nghiệm ra rằng
những kiến thức
mà thầy cô truyền
trao sẽ được thâu
nhận và tích tụ,

chìm sâu trong tâm
trí học trò tùy theo sự tiếp thu của từng người. Nhưng cách
thức của thầy cô trong lối giảng dạy sẽ để lại nhiều ấn tượng
trong tâm hồn học trò về sau.

Thời gian rồi cũng dần trôi. Mười mấy năm sau khi rời
trường, tôi theo học sư phạm và cũng đã trở thành cô giáo.
Câu chuyện ngày xưa còn bé bỗng dưng đã trở lại với tôi
trong một tình huống gần như tương tự với chuyện vừa kể
trên, nhưng nhân vật đáng bị khiển trách không phải là tôi
mà là một cô học trò, còn tôi lại là cô giáo. Một hôm, đang
dạy học, bất chợt tôi thấy một em gái đang len lén ăn trong
lớp, thế là cả một trời dĩ vãng ngày ấy hiện về trong tôi, tôi
thấy tôi nhỏ bé lại như em gái ấy đang nhìn cô với ánh mắt

168 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

thẹn thùng, ăn năn và mong được thứ tha. Tôi đã đọc được ý
nghĩ ấy qua ánh mắt chứa đựng cả ngàn lời. Phút chốc, tôi
biết tôi nên xử sự ra sao trong lúc em đang bối rối. Tôi chỉ
nhìn em như một lời nhắc nhở bằng ánh mắt. Nhưng đến giờ
chơi, khi các bạn em đã ra ngoài sân rồi, tôi bảo em ấy ở lại,
tôi ngồi xuống bên em và nói nhỏ nhẹ:

- Em có biết em phạm lỗi gì không? Chỉ mình cô nhìn
xuống thấy thôi. Em ăn trong giờ học chẳng tập trung nghe
cô giảng bài, hôm sau hỏi lại là em thua các bạn trong lớp
rồi đó, cô tha cho em lần này, nhớ đừng tái phạm nữa nha!

Từ đó em học trò ấy rất ngoan ngoãn, học hành chăm
chỉ, thỉnh thoảng lại đến nhà tôi xin lỗi, thân thiện và vui vẻ
với tôi nhiều hơn trước. Kỷ niệm ở tuổi ô mai và lúc bước
chân vào đời làm cô giáo ngày ấy đã xa lắm rồi. Bây giờ mới
ghi lại thì mái tóc cũng đã điểm sương thật nhiều.

Kim Tiếng, bạn của tôi ơi, nếu bạn đọc được những
dòng này, hãy biết rằng tôi nhớ bạn thật nhiều và mong mọi
điều tốt đẹp luôn đến với bạn cùng gia quyến.

Thưa cô giáo kính mến của em, em cảm ơn Cô thât nhiều
đã cho em bài học rút ra những kinh nghiệm sống với đời.
Hình phạt của Cô ngày ấy dành cho lầm lỗi của hai đứa
chúng em như một viên thuốc bổ đã chữa dứt tật ăn lén trong
lớp và chẳng bao giờ em tái phạm nữa, em thành kính cám
ơn Cô.

Cô ơi! “Em học trò Xuân Thùy bị Cô phạt ngày xưa”
kính tặng các Thầy Cô bức hình ghi lại màn vũ do chính em
tự chọn và tập cho các bạn. Trong vòng một buổi chiều thứ
bảy, chúng em đã cố gắng hoàn thành để sáng hôm sau trình
diễn trong buổi lễ Chúc Tết Thầy Cô (2019). Tuy lớn lắm rồi
(70+) nhưng không sao, em có thể đem niềm vui nhỏ đến
Thầy Cô. Không biết giờ này Cô đang ở đâu, nhưng em
mong Cô và toàn thể quý Thầy Cô an vui, mạnh khỏe và luôn
được Ơn Trên che chở.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 169

Màn vũ Cánh Thiệp Đầu Xuân chúc Tết Thầy Cô năm 2019

Tiện đây, tôi muốn nói lời cám ơn đến em Diệp Bình,
đã vượt qua mọi trở ngại để giúp cho màn vũ Chúc Tết Thầy
Cô được hoàn hảo.

Ngoài kia hoàng hôn và sương chiều đang dần buông,
tôi phải ngưng những dòng kỷ niệm này để trở về thực tại
của cuộc sống, nhất là vào hoàn cảnh đương thời khi lo âu
vẫn đang bao trùm gần như khắp toàn cầu vì cơn dịch còn
đang hoành hành. Nguyện mong cơn đại dịch sớm qua mau
và mọi người được bình an.
California, một chiều chớm Thu 2021.
Văn Xuân Thùy (VT-66)

170 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Thử Hỏi Mùa Sau Trong Trái Tim

thử hỏi mùa sau trong trái tim 171
đã bao trầm bổng những nghẹn ngào
tuổi thơ chân bỏng từ cát trắng
trải suốt đời ta qua khắp nơi

nắng chốn quê xưa, tìm vết lại
những hàng keo lủng lẳng hôm xưa
theo phố nhỏ bắt đầu hiu hắt gọi
bàn chân đưa theo dấu vết ngậm ngùi

Nha Trang có bóng bàng che mái lộng
đàn chim câu ngúc ngắc đón nhau về
theo tiếng gọi ngày đi, ngày đi khuất
vươn vai đời chia lại những niềm vui

ngày tháng đó, theo nhau làm chuỗi ngọc
tuổi thơ ngây, tuổi trẻ sóng dập dềnh
con dốc sỏi Hòn Chồng chông chênh ngóng
trải yêu thương chồng chất đá phơi mình

hay ra phố, trong tay người yêu dấu
lẩn quanh hoài vườn sứ đỏ rưng rưng
quanh nụ hôn hoảng hốt sóng chập chùng
quanh trường Nữ áo bay mầu trắng toát

hỏi đời qua còn có tuổi hoa niên
khi Biệt Điện riêng cùng người thổn thức
tay trong tay ngày thơm vai chùng mỏi
hai chúng ta, còn đó tuổi thơ ngây

ngoan đi nhé sóng đời bao trùng điệp
cũng không đầy như ánh mắt trong nhau
mùa hạ cũ đón chào trong huy niệm
hương thời gian còn tóc xõa chào mời

nguyễn đăng tuấn
(ngày 29 tháng 9 năm 2021)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Công Huyền Sương Mai

Xoay tới xoay lui…nhìn mình trong gương lạ lẫm? Tôi
thấy mình như không phải là mình như mọi khi. Thay cho
chiếc áo đầm trắng thường nhật là chiếc áo dài trắng mềm
mại đang “bị” tôi mặc trên người, hình như có gì đó không
ổn so với chiều cao khiêm tốn của người phụ nữ Việt Nam
thuần túy cùng với số cân không nhẹ như tôi nên lũ bạn
thường gọi tôi là “Hột Mít” và với hai bím tóc hai bên như
tai voi tôi lại có thêm một biệt hiệu nữa “Voi Con”! Áo dài
trắng thướt tha vậy mà vẫn không làm cho dáng tôi mảnh
mai như cái tên Ba tôi đã chọn: Sương Mai! Tôi vùng vằng
ôm cặp lao vội ra khỏi nhà, phóc lên chiếc xe đạp mini đạp
một hơi đến trường mà quên tuốt tà áo dài bay phất phới!

Vì Trường Nữ Mới chưa hoàn chỉnh nên khối lớp 9
chúng tôi tạm thời học bên Trường Nữ Cũ ở góc đường Lê

172 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Thánh Tôn và đường Lê văn Duyệt. Sau khi cất xe đạp, rón
rén... ngó trước ngó sau, nấp yên một chỗ, tôi quan sát cẩn
thận trước khi đi đến lớp của mình... chà chà một dãy phòng
dài, chứa 8 lớp từ lớp 9/1 đến 9/8 mà cái lớp ở giữa của mình
sao hôm nay xa tít vậy ta? Tôi đã “canh me” đến trường sớm
hơn mọi khi để “lũ quỷ” không biết tôi mặc áo dài nhưng sao
mọi thứ không giống như tôi nghĩ, tôi nghi ngờ sự thờ ơ của
tụi nó lắm. Hít một hơi thật sâu để chuẩn bị, chân tôi hơi run
giống như lần đầu tôi được đại diện trường đi thi điền kinh
với các trường khác trong thành phố, lấy can đảm chạy vù
thẳng đến lớp 9/4 của mình, chỉ có vài giây thôi mà chân tôi
như quíu lại, đã vậy tôi còn như nghe thấy những tiếng cười
nhạo, la ó của đám bạn bè xung quanh: “A ha…hột mít mặc
áo dài ta ơi… Voi Con mặc áo dài…haaaa.” tôi “tá hỏa” ào
vô lớp, chưa kịp hoàn hồn đã bị những bàn tay trờ tới kéo tà
trước, lật tà sau la í ới, mặt tôi nóng bừng chắc giống trái gấc
đỏ gay, có lẽ chưa bao giờ tôi xấu hổ như thế; chỉ vì cái nội
quy “mắc toi” bắt mặc áo dài “đồng phục” của nhà trường
mà tôi “bị” một ngày khổ sở nhớ đời và cũng chưa bao giờ
tôi thấy ngày học nào dài như hôm ấy!

Nhớ lần đại diện cho trường đi thi điền kinh với các
trường khác tại trường Vinh Sơn tôi đang là học sinh lớp 8,
thầy Nam dạy môn Thể Dục, Thể Thao của chúng tôi đưa
các vận động viên đi tranh tài. Nhiều học sinh các trường
cũng đi theo để cổ võ cho “gà nhà”. Không khí thật ồn ào,
náo nhiệt theo từng bộ môn: Nhảy cao, nhảy xa, ném tạ, leo
dây, chạy cự ly ngắn, cự ly dài cũng được chia từng lô riêng
giống như đi thi Olympic.

Trong số các vận động viên của các trường có lẽ tôi là
người hơi “đặc biệt” bởi vóc dáng khiêm tốn của con bé “hột
mít’ với hai bím tóc như tai voi đong đưa, trong chiếc áo
thun trắng quần short màu đỏ chói, lại luôn luôn có mặt trong
các bộ môn hầu như trái ngược với hình hài của nó: nhảy
cao, nhảy xa, chạy cự ly ngắn. Và rồi bao giờ tôi cũng hãnh
diện mang chiếc “cup” chạy vô địch về trường trong tiếng

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 173

reo hò, la ó cổ võ của bạn bè. Tiếng vang ấy tôi chẳng thể
nào quên được và luôn phì cười mỗi khi nhớ lại “Hình như
tiếng gió của viên đạn vừa ra khỏi nòng thôi, mày đã phóng
như “hỏa tiễn” - lời bạn tôi kể lại) “Hột Mít, Hột Mít …lăn,
lăn, lăn nhanh, Voi Con, Voi Con chạy nhanh, nhanh lên…”
Bỗng có những giọng cười òa vỡ thật lớn rồi vang xa, cũng
là lúc tôi đến đích. Quay lại, tôi ngạc nhiên khi thấy mình bơ
vơ thì ra những đối thủ của tôi chưa tới đich, có những người
đang chạy hết hai phần đường, có một người không chạy
(sau này tôi mới biết chị đã từng đoạt giải nhất toàn thành
phố, chị nói khi xuất phát, tôi phóng quá nhanh là chị đã biết
kết quả nên đã bỏ cuộc); té ra đôi chân tôi đã được thầy Nam
“rèn luyện” quá kỹ lưỡng đến nỗi nó mọc tai luôn… Không
biết hôm nay Thầy như thế nào, nếu đọc được đoạn này chắc
chắn Thầy sẽ cười khoái chí cho mà xem… Phải không Trâm
Anh? (Trâm Anh là con gái của thầy Nam, là bạn cùng khối
và trong nhóm thể thao với tôi) cũng tự dạo ấy tôi trở thành
một “đối thủ đáng gờm” với các vận động viên của những
Trường khác. Bây giờ mỗi lần xem các vận động viên thi
Olympic tôi thật thấy thương cho các vận động viên của
trường mình khi xưa, chắc là vì Trường Nữ có Công, Dung,
Ngôn, Hạnh đặt lên hàng đầu nên các môn Thể Thao không
được chú trọng lắm hay tại bây giờ mình đang ở thời kỳ
“high tech” nên mới có cơ hội nhìn thấy sự “cổ hủ” của
trường mình lúc bấy giờ? Dù sao thì cũng nhờ những buổi
tập thể dục ở trường tôi được quen biết thêm nhiều bạn bè và
các chị.

Với dáng người nhỏ nhưng Trời lại phú cho tôi một
giọng đọc khá to và rõ. Cho đến bây giờ, mỗi lần gặp nhau
là các bạn hay nhại lại giọng đọc bài của tôi, cho tôi cái cảm
giác như có mười thành công lực trong đó. Nói vậy không
biết có tự tin lắm không nhưng đó là sự thật bởi vì trong lớp
học, mỗi lần Thầy, Cô đọc bài cho học trò chép thì bao giờ
tôi cũng là người lập lại cho các bạn. Giọng “oanh vàng
không thỏ thẻ” của tôi mà cất lên thì ôi chao, nó lanh lảnh

174 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

vang xa. Lớp 9/4 của tôi nằm giữa dãy khối lớp 9 mà cái
giọng con gái mới lớn vừa cất lên như được xoải cánh vươn
ra hai bên rồi bay thẳng vô các lớp bên cạnh đã khiến cho
các bạn trong lớp ấy bị hoang mang vì không thể chú tâm
đến lời giảng dạy của giáo sư trong lớp! Kết quả là sự phàn
nàn sau đó của mọi người. Bây giờ gặp lại nhau, nhắc thời
đi học thì câu chuyện này không bao giờ thiếu trong “những
mẫu chuyện cười thời học trò” của chúng tôi.

Rồi cái gì cũng quen, chiếc áo dài không còn làm vướng
bận nữa. Nhảy dây, u mọi, kéo co…thì tà áo dài luôn bị cột
một cục sau lưng hoặc hai tà được nhét vào lưng quần một
cách gọn ghẽ. Có những cuộc chơi không chịu dừng đã để
lại hậu quả là hai tà áo sau của hai bạn bị cột, bị xé toạc khi
cả hai quay lưng đi trong tiếng cười lẫn tiếng la oai oái. Và
đó cũng là một trong những lý do tại sao tôi cương quyết
không chịu mặc áo dài dù đã bị cô Giám Thị Gia Hương cảnh
cáo hai lần. Cái ngày hạn chót cuối cùng cũng đến, tôi đành
phải chia tay với những chiếc áo đầm gọn gàng của mình
trong ấm ức.

Năm 1973, một sự thay đổi lớn đối với học sinh chúng
tôi. Cô Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc rời trường Nữ Trung
Học và sau đó được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Thanh Tra
Sở Giáo Dục Trung Tiểu Học và Kỹ Thuật. Cô Tôn Nữ Diệu
Trang tiếp nhận chức Hiệu Trưởng trường Nữ Trung Học
Nha Trang và trường Nữ Trung Học/Huyền Trân có tên từ
đây.

Niên khóa 1974-1975 nhà trường muốn thành lập Ban
Chấp Hành Học Sinh Nữ Trung Học/Huyền Trân nên mỗi
lớp cử một người làm đại diện. Đây là lần đầu tiên trường
chúng tôi tổ chức bầu Ban Chấp Hành Học Sinh và đã thành
công rực rỡ. Liên danh của chúng tôi trúng cử nhưng tất cả
các chị trong 4 liên danh ra ứng cử đều được nhận vô Ban
Chấp Hành và tôi là một thành viên nhỏ nhất với chức vụ Đệ

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 175

Nhị Phó Tổng Thư Ký của Ban Chấp Hành Học Sinh niên

khóa 1973-1974.

Bắc Califorina của tôi lúc này đang ráo riết việc recall
Thống Đốc Newsom nên tôi chợt nhớ đến những ngày tháng
năm đó, chúng tôi cũng tất bật họp hành lên kế hoạch cho
liên danh mình. Sự sinh hoạt càng sôi nổi hơn mỗi khi chúng
tôi đến từng lớp để mời gọi sự ủng hộ. Trong cái đầu nhỏ bé
của tôi lúc đó cũng đã biết hứa hẹn sẽ cố gắng mang lại
những điều thật tốt đẹp mà mọi người đang mong chờ nếu
chúng tôi đắc cử… Tiếc thay, những lời hứa ấy chưa kịp thực
hiện đã mãi mãi đi vào hư không vì sự đổi thay của đất nước.

Năm 1975, một thể chế đã bị thay đổi, tuổi ô mai của
chúng tôi chưa kịp nếm qua thì cả vùng trời tự do không còn
nữa. Những cuốn sách Tuổi Hoa, hình bìa ViVi ngày nào tôi
ôm ấp, những cuốn Hoa Tím mới vân vê chưa thỏa mãn,
những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Tự Lực Văn Đoàn
(truyện của Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam...) mà các
Chị Liên Diệu, Kiều Liên, Kiều Nhị ưa thích, cùng với
những cuốn sách học làm người của Nguyễn Hiến Lê (như
cuốn Đắc Nhân Tâm) và nhiều cuốn Sélection, Paris Match,
Spirou, TinTin của Pháp mà Ba tôi thường đặt mua trước
năm 1975 đã lần lượt bị Mạ tôi gạt nước mắt gom hết bán ký
cho người ta theo dòng xã hội lúc bấy giờ!

Tôi không biết tuổi mộng mơ của các chị tôi như thế nào
nhưng tôi đoán chắc là đẹp lắm vì tôi và Titi, em gái tôi, luôn
có những món quà mình ưa thích từ các anh mỗi khi ghé nhà
chơi. Còn tuổi ô mai của chúng tôi chưa kịp có vị, mà đã thấy
chát rồi. Xã hội không còn như xưa nên những ước mơ của
chúng tôi chỉ có thể thực hiện trên thành quả của sự gặt hái
bởi những luống khoai lang, khoai mì mà thôi. Tuổi mộng
mơ của chúng tôi đơn giản như thế đó!

Năm 1989, chúng tôi vượt biên đến đảo Palawan -
Philippines nhưng vì ra đi trong thời gian Cao Ủy Tị Nạn

Liên Hiệp Quốc đóng cửa nên bị buộc phải ở lại Palawan để

176 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

thanh lọc. Mãi đến năm 1993, chúng tôi mới được sang Mỹ
giống như những thuyền nhân may mắn khác. Thời gian lạnh
lùng trôi, mọi thứ bình thản qua đi như vô cảm nhưng kỳ
thực những kỷ niệm của thời học trò như đã thấm dần, thấm
sâu vào tiềm thức của tôi tự khi nào. Cho nên, mỗi lần tổ
chức Hội Ngộ hai Trường Võ Tánh-Nữ Trung Học, tôi như
được trở về thời áo trắng ngày xưa mặc dù những tháng ngày
mơ mộng ấy đã qua.

Một thoáng chút mong manh
Lòng chạnh lòng tiếc nuối
Mong thời gian ngừng trôi
Mang tôi về bên ấy (8/2004)

Xã hội mới không dễ dàng như tôi tưởng, tôi không nhớ
những gì của thời học sinh vì mãi bương chải lo cuộc sống
hàng ngày trong thời gian đầu mới định cư. Vài năm sau có
dịp gặp lại cô bạn thân Kiều Băng (học chung lớp 11B1,
12B1 sau ngày 30/4/1975). Bạn đến Mỹ trước tôi gần mười
năm. Ngày tôi đến thăm Kiều Băng là ngày đầu tiên gặp lại
các bạn: Thu Nguyệt (đang bế con trai) Thu Lan, Túy Vân,
Trần Chấn Trí, Lại Kim Hồng, Kiều Băng và tôi, Phan Diệu

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 177

Huyền không biết chạy đi mô? Chúng tôi ôn lại những
chuyện cũ để rồi có những trận cười thật vô tư, y như ngày
nào cùng cắp sách đến trường.

Sự thoải mái khi gặp lại cô bạn thân và những bạn qua
Mỹ trước đã cho tôi một cảm nhận an lành. Tôi thầm cảm ơn
mọi người đã giúp tôi giũ bỏ được nỗi lo âu của kẻ qua sau.
Cũng nhờ vậy mà sau này tôi thường tạo những buổi gặp mặt
bạn bè, nhất là các bạn mới qua Mỹ khi đến Bắc Cali thì nhà
tôi luôn là nơi gom hết những khuôn mặt của một thời áo
trắng.

Rồi dần quen với cuộc sống cơm áo gạo tiền, đã có lúc
mệt mỏi, tôi liệng mình trong tâm tưởng tự an ủi:

Vương vấn trong ta nỗi ưu phiền
Cõi đởi là tạm chẳng triền miên
Sống qua ngày tháng mong êm ấm
Chen chúc nhau chi một chữ Tiền
Sáu mươi năm chẳng còn chưa thấm
Vẫn mãi dầm mưa nắng bụi trần
Mong cho ai đó quên ngày tháng
Quên cả thân ta một số phần (2018)

178 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Hơn ba mươi năm xa quê hương, lòng những tưởng đã
quên nhưng kỳ thực tôi đã không quên mặc dù tôi chẳng hề
nhớ! Vì mỗi khi có dịp gặp lại bạn bè, lòng tôi lại như sóng
vỗ... ồn ào, nôn nao, và tôi lại thấy cô nữ sinh tròn như hột
mít với hai bím tóc đong đưa trong đó.

Bài viết tạm xong, tôi thở phào nhẹ nhõm chuẩn bị vô
giường để ngủ thì đồng hồ điểm một giờ sáng, Không gian
tĩnh lặng, tôi nhắm mắt trong mệt mỏi tưởng ngủ được. Ai
dè trăn qua trở lại thì đồng hồ báo hai giờ sáng, biết mình sẽ
mất ngủ tôi cố gắng thiền định để mong có một giấc ngủ
ngon, nhưng mắt thì nhắm mà đầu không chịu yên, nó lôi hết
bao nhiêu chuyện từ xửa xưa, chen chúc hiện ra khiến tôi
phải lồm cồm dậy lấy viết ghi lại những dữ kiện vừa chợt
nhớ để ngày mai viết thêm, vừa nằm xuống tôi lại ngồi dậy
hai ba lần, cuối cùng tôi đành phải ra tủ thuốc lấy một viên
thuốc ngủ Trazodone uống hy vọng ngày mai sẽ đỡ mệt hơn.
Đây không phải là lần đầu tôi mất ngủ vì bài làm văn “hóc
búa” này, có những đêm quá giấc ngủ tôi phải uống thuốc
ngủ thì nửa ngày hôm sau (11g) tôi mới thức dậy được, thế
là vai trò vợ hiền mẹ đảm đang không thể thực hiện được.

Tối qua nói chuyện với Kim Anh, bạn học cùng lớp là
hiền thê của Ngọc Cường, người họa sĩ thường vẽ tranh bìa
cho đặc san của hai Trường Võ Tánh-Nữ Trung Học, nó cho
biết đã gởi 2 bài và thêm mấy bài thơ… mèn ui, mình mới
kêu nó viết đây mà, nó uống nước thay cơm chắc? Nhỏ Ngọc
Túy cũng viết gần xong và vài người bạn khác đã đồng ý viết
bài cho đặc san sau khi nghe tôi ca bài “con cá sống vì nước”,
“trọ trẹ” Thanh Tùng cũng đã gởi bài đi làm tôi quýnh cả lên,
chắc vì vậy mà giấc ngủ của tôi lắc lẻo không yên, đã thế
sáng nay đọc bài của nhỏ Tống Nha Trang lại càng làm cho
tôi thêm nôn nao; thương nhất là ông bạn Trần Chấn Trí, hai
đứa nhắc chuyện xưa vì Chấn Trí đã có thời gian học chung
trường Nữ Trung Học với chúng tôi... lời “chiêu dụ” đã thành
công, chàng ta đồng ý liền tù tì để rồi tôi lại thêm nỗi “sốt

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 179

vó” vì bài văn của mình chưa hoàn chỉnh. Ôi thật nhiêu khê
khi muốn làm văn sĩ!

Thở phào nhẹ nhõm vì bài viết đã xong, lòng tôi lâng
lâng như trút được gánh nặng ngàn cân, cái “gánh” này nếu
trong thời áo trắng thì chẳng có gì để nói… nhưng vì cái
“gánh” hôm nay thật đặc biệt nên tôi phải cố hoàn thành,
phải ráng để góp mặt với các chị em NTH cho đặc san kỷ
niệm sáu mươi năm ngày thành lập trường, mong mang lại
niềm vui đến Thầy Cô và bạn hữu, để cảm tạ công ơn quý
Thầy Cô đã dạy dỗ dù nay tóc tôi đã hai màu, chân đã chồn,
gối đã mỏi. Viết xong bài văn này, đúng là một kỳ công với
tôi, cảm giác sung sướng vô cùng tận như len lỏi vào từng
thớ thịt vì nhiều lý do mà điều quan trọng là tôi sẽ được trở
về vai trò người vợ, người mẹ “đảm đang” hàng ngày. Cám
ơn chị Tự Tân, chị Phan Lang đã động viên tinh thần, khơi
dậy trong tôi những kỷ niệm của thời học trò tưởng đã ngủ
yên.

Cám ơn Trời, cuối cùng thì tôi cũng viết xong tâm sự
của một Tuổi Hoa-Tuổi Hoa Tím trong thời giao tranh của
đất nước mình!

Công Huyền Sương Mai (NTH-10/75)

180 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Thô Phaïm Phan Lang

Coâ giaùo em thöông

Hội Ngộ vừa qua lòng em vui quá
Gặp lại Cô, người thầy cũ em thương
Và kính yêu những ngày tháng đến trường
Thời trung học với bước chân chập chững

Nét mặt Cô ôi hiền từ độ lượng
Nụ cười Cô sao thương mến bao dung
Ngắm nhìn Cô em cảm động vô cùng
Vì bỗng thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản

Xin cầu chúc Cô những ngày cùng tháng
Luôn trẻ vui, khỏe mạnh bên gia đình
Tâm an lạc không vướng bận nhân sinh
Sống nhàn hạ trong chuỗi đời còn lại....

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT 181

Tinh Hoïc Troø

Trời đầy sao sáng mông lung
Nhớ ngày xưa ấy ta cùng sánh vai
Bay bay những vạt áo dài
Miệng cười khúc khích nắng mai

thẹn thùng
Ô kìa ai đứng canh chừng
Chờ nàng qua ngõ chàng mừng

theo sau
Trải qua bao cuộc bể dâu
Huyền Trân, Võ Tánh vẫn câu

đợi chờ...

182 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

Ñi

Nghe bạn đi tim tôi như rướm lệ
Trời đau buồn nên khóc mãi hôm nay
Ngọn liễu gầy cũng nức nở thương vay
Tiễn bạn đi trong một ngày mưa gió

Thuở cắp sách thời gian như mới đó
Bạn đẹp xinh với tia mắt hồn nhiên
Môi hồng thắm luôn nở nụ cười hiền
Nhưng có chút thẹn thùng trông thật "ngộ"

Thôi bạn hỡi cứ tin là duyên số
Đến và đi là định mệnh do Trời
Chốn non bồng xin bạn hãy nghỉ ngơi
Hết bận bịu những trầm luân cõi thế...

(Sań g tác trong cơn cam̉ xuć khi hay tin bạn
Trâǹ Thị Hoaì , VT/NTH-69, một baṇ thân thơì
trung học, đã tạ thế taị Perth, Tây Úc ngày

15/7/2018).

phamphanlang 183
(NTH/VT-69)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT

184 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Cung Thị Lan

Là nữ sinh của
trường Nữ Trung Học

Nha Trang, tôi luôn
mặc những chiếc áo dài
trắng đơn sơ mộc mạc
của mình trong suốt
thời gian học từ lớp Đệ
Thất cho đến lớp Đệ
Nhất (sau được gọi là
lớp 6 và lớp 12). Tuy
nhiên, tôi không hề có ý
nghĩ xa xôi gì về đặc
tính hay ý nghĩa của tà áo dài trắng thường xuyên mặc trong
suốt thời gian đến trường. Đối với tôi, áo dài trắng (và quần
trắng) là bộ đồng phục bắt buộc theo nội quy nhà trường mà
tôi và tất cả nữ sinh trong trường phải tuân theo. Chỉ thế!

Sau biến cố tháng tư năm 1975, những chiếc áo dài trắng
của chúng tôi hoàn toàn biến mất. Ngôi trường Nữ Trung
Học Nha Trang thân ái ngày xưa của chúng tôi không còn
những tà áo dài trắng thấp thoáng trong những hàng dương.
Thay vào đó là những bộ y phục nhiều màu, đủ kiểu đã vô
tình phá vỡ khung cảnh trang nghiêm đẹp đẽ của ngôi trường
chúng tôi. Dường như trường tôi bị khoác lên một vỏ bọc
mới vừa rối loạn vừa kém mỹ thuật. Điều này đã khơi dậy
trong tôi niềm đau xót và thương nhớ thời áo trắng cùng bạn
bè trong suốt thời trung học.

Một chú sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa quen
thân với gia đình tôi, kể rằng ông đã từng được điều trị tại
Quân Y Viện Nguyễn Huệ, tọa lạc trên con đường Đinh Tiên
Hoàng, song song với trường Nữ Trung Học Nha Trang.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 185

Trong suốt thời gian chữa trị và dưỡng thương tại Quân Y
Viện Nguyễn Huệ, ông thường nhìn về phía trường Nữ
Trung Học Nha Trang để ngắm các cô nữ sinh trong những
tà áo dài trắng. Hình ảnh ngoan hiền của những tà áo trắng
với tập sách, nón lá, hay xe đạp đã làm dịu nỗi cô đơn và
giảm bớt sự đau đớn từ những vết thương mà ông phải chịu
đựng. Ông cho rằng hình ảnh khi tan trường về của học sinh
Nữ Trung Học Nha Trang là hình ảnh thú vị mà ông không
thể nào quên.

Ông nói: “Mỗi lần nghe những tiếng kẻng báo giờ tan
học và thấy hai cánh cửa sắt của ngôi trường Nữ Trung Học
Nha Trang mở rộng thì những thương binh chúng tôi ở Quân
Y Viện sẽ được chứng kiến hằng trăm nữ sinh túa ra cổng
trường như những đàn bướm trắng thật đáng yêu! Cho nên,
thương binh chúng tôi thường có thói quen ngồi ở các khung
cửa sổ của các phòng trong Quân Y Viện chờ giờ tan trường
ở bên đó để ngắm nhìn. Đến bây giờ, lưu lạc trên xứ người,
xa quê hương Nha Trang ba, bốn chục năm trời, mỗi khi
chứng kiến cảnh tan trường của học sinh trung học, tôi
thường nhớ đến những nữ sinh của trường Nữ Trung Học
Nha Trang ngày nào.”

Tôi đã tinh nghịch hỏi ông rằng người bạn đời của ông
có phải là một trong những nữ sinh của trường Nữ Trung
Học Nha Trang không thì ông trả lời không. Nhưng ông tiếp
tục huyên thuyên về những nhạc phẩm và những bài thơ có
liên quan đến những tà áo trắng để khẳng định mỹ cảm của
ông về những chiếc áo dài trắng ngày xưa của nữ sinh trường
Nữ Trung Học Nha Trang. Dường như ký ức đẹp đẽ ấy mãi
mãi là dấu ấn khắc sâu trong tâm hồn ông mà qua bao năm
tháng ông không tìm lại hình ảnh nào khác có thể thay thế
được.

Tôi hiểu lời tâm sự của ông. Chẳng khác gì ông, tôi đã
từng nhớ quay quắt những tà áo trắng ngày xưa. May mắn
thay, sau một thời gian dài vắng bóng, đến năm 1987 những

186 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

chiếc áo dài trắng từ từ xuất hiện trong các trường học của
Việt Nam cho mãi đến ngày nay. Tuy nhiên, chúng chỉ xôn
xao làm tôi xúc động trong vài năm đầu, rồi sau đó xao nhãng
dần. Và mỗi khi tôi nghĩ lại những tà áo trắng ngày xưa và
những cá tính của những nữ sinh chúng tôi khi khoác những
chiếc áo trắng xa xưa ấy, tôi cảm thấy chạnh lòng.

Nhiều lần tôi tự hỏi: “Tại sao ta đặt sự phân biệt trong
nhận thức?”, “Tại sao ta không cởi mở với ý nghĩ rằng: Mỗi
thời có một kiểu cách riêng biệt, không thể so sánh cái cũ
với cái mới?” và “Tại sao ta không thừa nhận thực tế rằng ở
mỗi thời đại khác nhau, tính cách của sự việc khác nhau?”
Nhưng, cho dù tôi tự đặt ra những biện luận để giải thích
quan niệm “Chiếc áo không làm nên thầy tu”, tôi vẫn không
thể nào tìm thấy cái “hồn” trong những chiếc áo trắng ngày

nay.

Tuy rằng áo trắng của các nữ sinh trung học ngày nay
cũng mang ý nghĩa của trinh nguyên, và trong trắng nhưng
chúng không thực sự toát nên vẻ thùy mỵ và nết na của người
mặc như các nữ sinh ngoan hiền và đoan trang của thời trước
năm 1975. Khác với nữ sinh áo trắng trong trường công lập
toàn là nữ sinh trước đây, các em áo trắng ngày nay học
chung với các em nam sinh và thường giao tiếp hàng ngày
với các bạn nam trong lớp. Sự quen thuộc và gần gũi giữa
nam và nữ đã tạo nên sự dạn dĩ trong giao tiếp đến mức có
khi các em nữ đối đáp thẳng thắn và hành xử bình đẳng bất
chấp giới tính. Trong lúc các em nữ không có sự e dè và các
em nam không có sự giới hạn về khoảng cách, sự phải lòng
nhau hay tán tỉnh dễ dàng xảy ra.

Cũng vì thế các em nữ sinh áo trắng thời nay không có
những cảnh: “trồng cây si trước cổng trường”, “Em tan
trường về anh theo Ngọ về”, “những bức thư tình hẹn hò gửi
vội, những ngón tay run run vân vê tà áo, những đôi má ửng
hồng khuất dưới những vành nón lá bài thơ…” như thời xa
xưa của chúng tôi.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 187

Bởi vì nữ sinh của các trường nữ trung học công lập
trước năm 1975 không có điều kiện giao tiếp với nam sinh;
cho nên, hầu hết các nữ sinh áo trắng trong thời chúng tôi
đều e dè trước những người khác phái bất kỳ là người lớn
hơn hay cùng trang lứa. Thêm vào đó, những bài giảng trong
các lớp học Nữ Công Gia Chánh, Công Dân Giáo Dục, Việt
Văn, Triết học và sự kỷ luật nghiêm minh của trường luôn
rèn luyện chúng tôi bốn phẩm chất “Công, Dung, Ngôn,
Hạnh” của người phụ nữ Việt Nam đoan chính.

Sự hướng dẫn trong những giờ học Nữ Công Gia Chánh
đã giúp chúng tôi biết may vá thuê thùa, biết nấu vài món ăn
thông thường, biết làm các món bánh mứt và nhất là giúp
chúng tôi hiểu được giá trị của công việc tề gia nội trợ. Ngoài
ra, trong những buổi chào cờ, chúng tôi luôn được nhắc nhở
chuyện trau dồi bản thân qua những câu chuyện ý nghĩa và
luôn có cơ hội quan sát phong cách gương mẫu của cô hiệu
trưởng và tất cả các cô giáo trong trường. Cô hiệu trưởng Bùi
Ngoạn Lạc luôn mặc những chiếc áo dài nhạt màu, cao cổ,
tóc bới gọn với cử chỉ khoan thai. Giáo sư Nữ Công Gia
Chánh Thái Thị Bạch Vân hay mặc những chiếc áo dài bông
nền nã, nói năng dịu dàng, thân ái. Giáo sư hội họa Nguyễn
Thị Thanh Trí thường có những chiếc áo dài mới đủ màu với
những đóa hoa lớn nhỏ rực rỡ hay hình lập thể lạ mắt và đầy
tính nghệ thuật. Hầu hết các nữ giáo sư trong trường đều có
phong cách đặc biệt nhất định với những chiếc áo dài màu
đặc biệt nhưng tất cả đều toát lên hình ảnh mẫu mực với vẻ
đẹp cao quý khiến cho những nữ học sinh chúng tôi luôn để

ý, noi theo.

Người ta thường nói: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”
Và đúng thế! Là học trò, chúng tôi cũng có những lúc nghịch
ngợm nhưng không bao giờ quá trớn. Nhiều nhất và “lớn”
nhất là “chuyện ăn vụng trong lớp”, “Nói chuyện trong lớp
bằng những mẩu giấy viết truyền tay”, “cột các tà áo dài
đến nỗi rách toạc nửa tà áo”, … những chuyện nghịch ngợm
này thường biến mất sau các “vũ khí” lạnh lùng sương khói

188 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

của những khuôn mặt giận dỗi, và những cuộc chiến tranh
lạnh của những cái quay lưng, không nhìn mặt nhau hay im
lặng. Nhưng sau đó, những bài học trong giờ học Công Dân
Giáo Dục đã làm mờ nhạt những giận hờn của những ngày
trước đó. Sự giáo dục chu toàn đã giúp chúng tôi trở thành
những cô gái áo trắng thực sự ngoan hiền và trong trắng như

mục đích đào tạo của trường nữ
Trung Học Nha Trang nói riêng
và những trường nữ trung học
có đồng phục áo dài trắng của
hầu hết các trường nữ trung học
của miền Nam Việt Nam trước
năm 1975.

Có lẽ vì những chiếc áo
dài trắng của các trường nữ
trung học trước năm 1975 có
“hồn” nên đã “hớp hồn” khá
nhiều họa sĩ, thi sĩ, và nhạc sĩ
thời ấy. Đã có khá nhiều bức vẽ
các cô nữ sinh với những tà áo
trắng thướt tha minh họa trong các cuốn Đặc San của các
trường kể cả các trường nam trung học. Nhiều nhạc phẩm và
thi phẩm mang “hồn áo trắng” như:

“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng.”

(Nguyên Sa)

Hay
“Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài...”

(Phạm Thiên Thư)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 189

Hay
“Em tan trường về
Ðường mưa nho nhỏ
Ôm nghiêng tập vở
Tóc dài tà áo vờn bay …”

(Phạm Duy)

Dù là thế, nữ sinh áo
trắng thời ấy không phải
là những cô gái nhàm

chán. Chúng tôi không
phải chỉ luôn cúi đầu tuân
thủ mọi thứ do được sắp
xếp trước bởi thầy cô giáo
hay răm rắp làm theo ấn
định của nội quy và kỷ
luật trường.

Chúng tôi còn biết
sáng tạo trong những tiết
mục Văn Nghệ, hợp tác
tốt với nhau để cùng nhau
thực hiện các chương
trình thi đua do trường đề
ra cho các lớp như trang
hoàng cổng trại, bích báo
của lớp, nấu ăn, làm hoa giấy, hay cắm hoa. Ngoài ra, chúng
tôi còn tham gia nhiều cuộc thi đấu bóng bàn, bóng chuyền,
bơi lội với các trường khác trong thành phố hay với các tỉnh

khác.

Mấy chục năm qua, những tà áo trắng ngày xưa đã chìm
vào quên lãng nhưng linh hồn của chúng vẫn còn lưu đọng
mãi trong từng cựu học sinh Nữ Trung Học chúng tôi. Chúng
tôi vẫn cố gắng sống tốt và giữ phẩm chất Công Dung Ngôn
Hạnh như đã từng được giáo dục trong trường Nữ Trung Học

Nha Trang.

190 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Cho dù chúng tôi bận rộn với công việc làm để mưu sinh
kiếm sống, sẵn sàng tham gia công tác cộng đồng, chúng tôi
vẫn là những phụ nữ đảm đang, nội trợ giỏi, nuôi dạy con cái
nên người và giữ gìn văn hóa Việt Nam. Chúng tôi biết cách
sử dụng thời gian đúng đắn, biết tháo vát mọi việc trong nhà,
biết giữ gìn vẻ đẹp hài hòa của tâm hồn và hình thể bên ngoài
và luôn ăn mặc lịch lãm khi ra đường. Chúng tôi biết ứng xử
phải phép, lịch sự và thông minh để có thể thuyết phục người
nghe đồng thời hạn chế những tranh cãi vô ích.

Có lẽ độc
giả cho rằng tôi
khá chủ quan
khi đề cập vấn
đề này. Những
nhận định trên
của tôi từ kinh
nghiệm thực tế
khách quan, từ
những câu
chuyện thật và
từ những cuộc

quan sát rõ ràng
và chính xác từ những người bạn gần gũi của tôi. Cho dù,
đôi lúc tôi thầm nghĩ những tà áo trắng ngày xưa giống như
trong chuyện cổ tích, không ai tin được. Nhưng, tôi tin những
“nhân vật” trong truyện cổ tích ấy vẫn còn giữ “linh hồn”
của chiếc áo trắng ngày xưa. Dù họ không có dịp chia sẻ ý
nghĩ - quan niệm cá nhân về những tà áo trắng ngày xa xưa
ấy, họ đã từng suy nghĩ tương đồng và từng hành xử đúng
mẫu mực về “công, dung, ngôn, hạnh.”

Cung Thị Lan
Nữ Trung Học Huyền Trân – Nha Trang (12C/1975)
Ngày 23 tháng 9 năm 2021

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 191

Còn Mãi Trong Tôi

Huỳnh Tự Tân

Tôi may mắn
được vào lớp Đệ
Tam trường Nữ
Trung Học (NTH)
năm 1963 và sau khi
đậu Tú Tài I năm
1965 thì được
chuyển sang trường
Võ Tánh. Tính đến
nay tôi đã rời NTH
56 năm, nhưng trong
ký ức vẫn còn in đậm
nhiều kỷ niệm êm
đẹp về mái trường
thân yêu, bạn bè
thương mến và các
Thầy Cô đáng kính.

Rồi khi vận
nước của quê hương đổi thay, lịch sử sang trang vào năm
1975, bạn bè của tôi và các Thầy Cô đã từng dạy dỗ chúng
tôi ở NTH giờ mỗi người mỗi ngả, tưởng chừng như khó có
ngày gặp lại. Nhưng cơ trời chia phúc cho nhiều người trong
chúng tôi đã nhiều lần gặp lại nhau nơi đất khách quê người,
chan chứa biết bao kỷ niệm. Và khi viết những dòng chữ này,
tôi sung sướng nói lên rằng những kỷ niệm ngày ấy và bây
giờ còn mãi trong tôi.

Chiều nay, một mình nơi căn phòng yên vắng nhìn
mông ra vườn, có vạt nắng thu gầy hiu hắt vắt ngang khung
cửa, miên man với chút trầm tư, tôi giật mình nhận ra đời

192 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT


Click to View FlipBook Version