là một trong những nhà giáo cựu trào, liêm khiết, tấm gương
sáng để bọn trẻ chúng tôi noi theo.
Lớn lên một vài tuổi nữa, tôi biết thêm Trường Tiểu Học
Tư Thục Hóa Khánh, trên đường Trần Quý Cáp, ngay chỗ
có con đường xuống Rộc Rau Muống. Trường do thầy Trực
làm Hiệu Trưởng. Con trai của Thầy là anh Hương, cũng dạy
ở đây.
Ngoài ra, trường cũng có thầy Lộc, dạy lớp Luyện Thi
vào lớp Đệ Thất.
Học sinh của lớp Luyện Thi vào Đệ Thất Võ Tánh, của
Trường Hóa Khánh do thầy Lộc giảng dạy rất đông học sinh
đã theo học vì sĩ số hàng năm trúng tuyển vào trường công
lập Võ Tánh và Trường Nữ Trung Học Nha Trang rất cao.
Hơn thế nữa, thầy Lộc thường đem học sinh xuống ruộng rau
muống tập làm toán chạy. Nơi đây rất thoáng mát.
Sau giờ học, Thầy đàn vĩ cầm cho học sinh thưởng thức
hoặc Thầy kể chuyện Vô Gia Đình, hay chuyện cổ tích, cho
học sinh nghe. Vì cốt truyện thật dài, nên Thầy chỉ đủ thời
gian kể một đoạn ngắn rồi ngày hôm sau Thầy lại kể tiếp. Do
đó, học trò của Thầy ít khi bỏ học, nên tỷ lệ trúng truyển năm
nào cũng cao, do đó phụ huynh học sinh rất tin tưởng vào
các lớp Nhất, lớp Tiếp Liên và lớp Luyện Thi của Trường
Hóa Khánh thật nhiều.
Lớp học, bàn ghế của Trường Hóa Khánh rất thô sơ,
nhưng chè đậu đen ngọt lịm với lát chuối chiên thơm phức
đã làm lòng lũ học trò nhỏ rất hưng phấn. Thầy Trực rất
thương học trò. Chưa bao giờ tôi thấy Thầy cau có với học
sinh nghèo, đóng học phí trễ. Trái lại, Thầy còn giảm học phí
cho học sinh nghèo hay cấp học bổng cho học sinh ưu tú của
trường.
Vào lứa tuổi của tôi Nha Trang chỉ có:
1. Trường Sơ Học Yếu Lược Bình Minh
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 343
2. Trường Tiểu Học Tư Thục Hóa Khánh.
3. Trường Tiểu Học Pháp Việt Nha Trang.
Sau hai năm miệt mài tại truờng Bình Minh, tôi được
chuyển lên lớp Tư (Cours Préparatoire), của Trường Tiểu
Học Pháp Việt, trên đường Hàn Thuyên Nha Trang.
Hồi đó, chương trình Tiểu Học gồm có 6 năm.
Lớp nhỏ nhất của chương trình Tiểu Học là lớp Năm
(Cours Enfantin) và lớp cao nhất là lớp Nhất (Cours
Supérieur).
Tôi cũng cần nói thêm, một vài điều mà các bạn trẻ ngày
nay chưa hề biết:
Hồi đó, học sinh Tiểu Học một tuần lễ được học 5 ngày.
Học từ ngày Thứ Hai, Thứ Ba và Thứ Tư. Học trò được nghỉ
trọn ngày Thứ Năm và tiếp tục vào ngày Thứ Sáu và Thứ
Bảy rồi lại được nghỉ học ngày Chủ Nhật.
Mỗi ngày học trò được học hai buổi: Buổi Sáng và Buổi
Chiều. Buổi sáng học từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa. Giữa
buổi, Thầy giáo và học trò được nghỉ 30 phút, gọi là giải lao
(récréation).
Đúng 12 giờ trưa, ba tiếng trống: thùng... thùng... thùng
vang dội, xóa tan bầu không khí mệt mỏi của 4 giờ học. Thầy
trò ra về, ăn cơm trưa, nghỉ ngơi một chút để 2 giờ trưa Thầy
trò lại tiếp tục đến 5 giờ chiều.
Một năm sau, tôi được lên lớp Ba (Cours Élémentaire).
Cần nói rõ, lớp Ba hồi đó, chỉ học toàn là tiếng Pháp, mỗi
tuần chỉ học được một bài Học Thuộc Lòng (Récitation)
bằng tiếng Việt của mình thôi. Ngoài ra, các bài học khác
như Sử Ký (Histoire), Địa Lý (Géographie), Luận Văn
(Rédaction), và Chính Tả (Dictée) đều bằng tiếng Pháp. Giờ
ra chơi, học trò đứa nào mà nói tiếng Việt sẽ bị mang vào cổ
một tấm bảng, biểu lộ học trò xấu, vô kỷ luật trong giờ ra
344 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
chơi. Hiện tượng này bị bãi bỏ, khi ông Đốc Học Đoàn
Thành làm Hiệu Trưởng.
Cuối lớp Ba, chúng tôi phải trải qua một kỳ thi Sơ Học
Yếu Lược. Bài thi gồm 3 môn:
1. Chính Tả tiếng Pháp
2. Toán Đố tiếng Pháp
3. Khoa Học: Gồm 3 môn Sử ký, Địa Lý và Cách Trí,
cũng bằng tiếng Pháp.
Học sinh trúng tuyển được cấp một văn bằng Sơ Học
Yếu Lược và được nhận vào lớp Nhì Nhỏ (Cours Moyen
Première Année).
Sơ Học Chứng Chỉ - Tỉnh Khánh Hòa - 1949
Trước năm 1950, bậc Tiểu Học có 2 lớp Nhì: Lớp Nhì
Nhỏ và Lớp Nhì Lớn. Do đó, bậc Tiểu Học kéo dài đến 6
năm.
Những rào cản trong học vấn:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 345
Việc học vấn của thời đó còn tùy thuộc vào chính phủ
Pháp mà chính sách thực dân luôn luôn muốn trì trệ sự học
vấn của chúng ta nên đã đặt ra những quy định, những luật
lệ để cố tình làm trì hoãn con em của chúng ta trong việc
theo đuổi học hành.
Về trường học: Thực dân Pháp theo đuổi chính sách ngu
dân để dễ trị nên không cho thiết lập nhiều trường học trong
tỉnh. Chỉ có những Phủ, Huyện lớn mới có 1 trường tiểu học
công lập.
Trước những năm 1935, tỉnh Khánh Hòa chỉ có 2 trường
tiểu học:
1. Tại Phủ Diên Khánh dành cho các nơi xa xôi hẻo lánh
như Đá Đen, Đồng Trăng, Đất Sét, Thanh Minh, Cửu Lợi,
Suối Dầu... phụ huynh muốn cho con em đi học phải về Phủ
Diên Khánh mới có trường để học. Phần thì phương tiện giao
thông thô sơ. Nhà nghèo muốn cho con đi học thật khó khăn
về nơi ăn, chốn ở... nên phần đông đành phải để con tại nhà
chịu dốt.
2. Tại Nha Trang cũng vậy, chỉ có một trường tiểu học
cho một vùng rộng khắp từ Lương Sơn, Bóng, Tháp Bà, Thị
xã Nha Trang, Cồn, Cầu Đá, Phú Vinh, Vĩnh Điềm, Ngọc
Hội, Chụt... Phương tiện giao thông trong thành phố lúc bấy
giờ chỉ có xe ngựa, xe kéo. Làm sao có phương tiện giao
thông cho học sinh dễ dàng đi học!
Về tuổi tác: Có nhiều gia đình cư ngụ xa xôi nên con lớn
đến 8 tuổi mới cho đi học. Vì chương trình Tiểu Học kéo dài
đến 6 năm, nên khi đậu được bằng Tiểu học thì anh nào chị
nấy cũng đã 14-15 tuổi rồi.
Các kỳ thi:
Từ lớp Năm tức lớp 1 ngày nay, muốn vào được Đệ Thất
trường công lập, tức lớp 6 ngày nay, học trò phải trải qua 3
kỳ thi gian khổ:
346 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
- Kỳ thi Sơ Học Yếu Lược: Cuối lớp Ba, học trò phải thi
lấy Bằng Sơ Học Yếu Lược. Đậu bằng Sơ Học Yếu Lược
mới được lên lớp Nhì Nhỏ.
Học trò nào bị rớt phải bị ở lại, để sang năm phải thi lại
bằng Sơ Học Yếu Lược.
Sĩ số học trò trúng tuyển văn bằng này chỉ đạt được từ
65 -75%. Số học trò bị rớt, phải ngồi lại học tiếp lớp Ba thêm
một năm nữa, để niên khóa tới thi tiếp, hoặc học trò phải ra
trường tư thục Hóa Khánh, để chờ sang năm. Anh chị nào
mà bị số phận học tài thi phận, tiếp tục rớt thêm một năm
nữa đành phải nghỉ học ở nhà giúp gia đình vì nếu tiếp tục
học lại lớp Ba, sang năm, nếu đậu được Sơ Học Yếu Lược,
cũng không thể nào xin vào lớp Nhì Nhỏ được (Cours Moyen
Première) vì lớn tuổi nên không đủ điều kiện xin nhập học
tại trường công lập.
Tiểu Học Văn Bằng - 1952 347
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Gia đình nào khá giả, cũng có thể cho con em mình học
tại Trường Tư Thục Hóa Khánh thêm 2 năm nữa để chờ thi
Văn Bằng Tiểu Học.
Nên nhớ, nếu không có Văn Bằng Tiểu Học, cũng không
được thi vào lớp Đệ Thất (tức lớp 6 ngày nay).
Ba kỳ thi Sơ Học Yếu Lược, thi Bằng Tiểu Học hay Thi
Tuyển vào lớp Đệ Thất, khó khăn nhất của học trò thời bấy
giờ. Hàng năm, học trò thi đậu Văn Bằng Tiểu học chỉ đạt
được từ 50-60%. Còn thi vào lớp Đệ Thất của Trường công
lập Võ Tánh còn khó khăn vạn lần.
Có năm học trò nộp đơn xin dự thi lên đến 2,500 mà số
trúng tuyển vỏn vẹn chỉ có 150 học sinh trúng tuyển được
vào 3 lớp Đệ Thất (niên khóa 1952-1953). Chính sách ngu
dân để dễ trị của người Pháp đã làm trì trệ sự học hành của
con em chúng ta.
Hơn thế nữa Người Pháp chỉ muốn đào tạo những người
theo học để sau này làm công cụ cai trị của họ. Họ chỉ muốn
đào tạo học sinh chỉ học đến Tiểu Học và Trung Học Đệ
Nhất Cấp mà thôi, để học sinh sẽ trở thành công chức, thư
ký, thông ngôn, thông dịch cho họ. Do đó, vào những năm
trước 1935-1949, học trò chỉ học bằng tiếng Pháp.
Học xong lớp Ba, dù đậu hay không đậu được Văn Bằng
Sơ Học Yếu Lược, ai ai cũng có thể làm đơn báo cáo bị mất
xe đạp, mất trâu bò, bị móc túi, bị hành hung... vì suốt năm
Lớp Ba đã phải tập viết những mẫu đơn theo các luận văn
mẫu đó, hơn thế nữa các bài mẫu đã được in thành sách để
bán cho học sinh. Học sinh chỉ cần viết theo mẫu đơn đó và
thay đổi chút ít một vài chi tiết như tên tuổi, địa chỉ, ngày
giờ bị mất trộm...
Hồi đó, học trò nhỏ từ lớp 1-3 thường thường được gọi
là học trò. Còn từ lớp Nhì trở lên thì gọi là học sinh.
348 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Mãi đến niên khóa 1952-1953, trường công lập Võ Tánh
được thành lập và mãi đến năm 1960, trường Nữ Trung Học
Nha Trang, đã đào tạo được nhiều nhân tài cho tổ quốc Việt
Nam...
Dân Nha Trang không ai mà không biết cô Tổng Giám
Thị Đoàn Thu Cúc và cô Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc. Tôi
biết cô Đoàn Thu Cúc từ ngày cô còn ở với gia đình, cư ngụ
tại dãy nhà 5 căn gần sân vận động Nha Trang, mỗi khi tôi
phải đi ngang qua nhà thầy Đoàn Thành, để xem các trận túc
cầu, mà sợ gặp thầy Đoàn Thành vô tình đứng trước nhà.
Hồi đó thầy Đoàn Thành dạy lớp Nhất A và cô Đoàn
Thu Cúc dạy lớp Nhất B. Sau này, vì Trường Nữ Trung Học
Nha Trang lại đồn trú trong khu vực phòng thủ an ninh mà
đơn vị của tôi phụ trách, do đó tôi phải gặp cô Hiệu Trưởng
hay cô Tổng Giám Thị để bàn luận các vấn đề có liên quan
đến an ninh khi học sinh cắm trại, đốt lửa trại hay những kỳ
thi được tổ chức tại đây.
Cô Lạc và cô Cúc là hai tấm gương vô cùng trong sáng,
đoan trang và đã kết hợp với cử chỉ nghiêm nghị, mực thước
mà phụ huynh học sinh Nha Trang rất nể phục. Học đường
ngày nay, khó có ai được kính phục như cô Bùi Ngoạn Lạc
và cô Đoàn Thu Cúc của Trường Nữ Trung Học Nha Trang
từ năm 1960-1975 và cho mãi đến ngày nay ở trong nước
cũng như ở hải ngoại như bây giờ.
Lớp học càng cao, các kỳ thi tốt nghiệp càng khó. Học
sinh học xong lớp 9 (Đệ Tứ) lại phải trải qua kỳ thi tốt nghiệp
Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Có bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp mới được thu nhận
vào Trường Trung Học Võ Tánh hay Trường Nữ Trung Học
Nha Trang.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 349
Bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp - 1956
Rớt Trung Học Đệ Nhất Cấp, muốn theo học tiếp lớp
Đệ Tam (lớp 10) phải theo học tại các Trường Tư Thục: Kim
Yến, Bá Ninh, Bồ Đề, Đăng Khoa... mà học phí cũng khá
cao, nên phần nhiều đành phải bỏ học mà không bao giờ có
được Chứng Chỉ Tú Tài Phần Thứ Nhất.
350 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Chứng Chỉ Tú Tài Phần Thứ Nhất - 1958
Nên nhớ Tú Tài 1, không gọi là Văn Bằng mà chỉ được
gọi là Chứng Chỉ. Vì lẽ trong các ngạch trật của công chức,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 351
thì Chứng Chỉ Tú Tài 1 cũng chỉ được xếp như Trung Học
Đệ Nhất Cấp mà bậc lương là Công chức Công Nhật B2.
Nhưng nếu không có Chứng Chỉ Tú Tài Phần 1, sẽ
không bao giờ dự thi được Tú Tài 2 (Tú Tài Toàn Phần).
Chứng Chỉ Tú Tài Phần Thứ Hai - 1959
352 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Tưởng cũng nên kể sơ lược qua các ngạch trật của nghề
dạy học của ngành giáo dục ngày trước như sau:
Từ thấp đến cao:
1. Hương sư Ấp Chiến Lược, dạy từ lớp 1 đến lớp 3.
2. Hương sư Phụ Khuyết, dạy từ lớp 1 đến lớp 5, cho
các Dinh Điền hay các Khu Trù Mật.
3. Giáo viên Công Nhật B3. Dành cho các giáo viên có
bằng Tiểu Học.
4. Giáo viên Công Nhật B2, dành cho giáo viên có bằng
Trung Học Đệ Nhất Cấp.
5. Riêng các giáo viên Công Nhật B2, nếu có Bằng Tú
Tài 2, sẽ được cải tuyển thành Giáo Học Bổ Túc. Giáo Học
Bổ Túc có 4 ngạch 1, 2, 3, và 4.
6. Đốc Học. Ngày xưa, Nha Trang chỉ có 4 Đốc Học là
Ông Đốc Như, Ông Đốc Đoàn Thành, bà Đốc Đoàn Thành
và ông Đốc Tế.
Bậc Trung Học:
1. Giáo sư Đệ Nhất Cấp
2. Giáo sư Đệ Nhị Cấp
Bậc Đại Học:
1. Giảng Nghiệm Viên
2. Giảng Viên, chỉ dạy đến năm thứ 2 Đại Học
3. Giáo Sư Đại Học
Chú ý 3 yếu tố sau đây để phân biệt chữ giáo sư:
Nếu dạy ở Đại học thì chữ giáo sư được để trước tên
như: Giáo Sư Vũ Quốc Thúc.
Còn dạy ở Trung Học: Nguyễn Văn Tiên, Giáo sư.
Duy Xuyên
Tacoma
17-8-2021
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 353
Bài 1:
(Tặng quý bạn bè VT & NTH NHATRANG)
Anh ở xóm Cồn em xóm Bóng
Cách nhau hai đứa một giòng sông
Con đò qua lại như hò hẹn
Níu cả đôi bờ nỗi nhớ mong
Mỗi ngày hai bữa em đi học
Anh cũng đưa em những chuyến đò
Chèo hết đò ngang sang đò dọc
Tóc huyền em trãi những giòng thơ
Anh biết em về bên Trường Nữ
Áo trắng trinh nguyên ửng má hồng
Hương má thơm ngây mùi hoa bưởi
Có bóng hình ai trong mắt trong?
354 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Rồi những mùa mưa dâng ngập nước
Lũ lụt tràn bờ cách đôi ta
Con đò năm xưa nằm héo hắt
Anh buồn chẳng thấy bóng em qua
Anh ở xóm Cồn em xóm Bóng
Muôn đời thương nhớ một giòng sông
Trời hỡi gây chi mùa chinh chiến
Để mãi thiên thu bặt cánh hồng!!!
*NXVạn (NVSanh VT68)
Bài 2:
Có một thuở ta làm thân viễn xứ
Vẫn nhớ về thành phố biển Nha Trang
Lòng mãi mơ một ngày về tắm nắng
Nhìn đêm thu vằng vặc ánh trăng vàng
Nào quên được dãy phố phường Độc Lập
Nào Duy Tân, nào phố biển thân quen
Ôi ngày tháng xua đi như bão táp
Giờ tìm đâu những đường phố lên đèn
Ta yêu quá Xóm Cồn đầy ghe nhỏ
Con đò đưa ta qua bến Hòn Chồng
Cầu Xóm Bóng có còn rung nhịp thở
Hay đành lòng để lại một trời không
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 355
Biển Nha Trang vẫn êm đềm sóng vỗ
Hay gào điên từ thuở bỏ ta đi
Ta tìm đâu dấu chân em ngày cũ
Sóng xua tan bao ước vọng thầm thì
Ta thương mãi mái trường xưa Võ Tánh
Hướng lòng về người em gái Huyền Trân
Những hàng cây phủ rợp trời che nắng
Hay che em dạo bước đã bao lần
Ta vẫn nhớ mùi hương em mái tóc
Chảy lượt là phủ cả lối về khuya
Ta dìu em bên dáng yêu ngà ngọc
Giờ em đâu bên những nỗi chia lìa
Em ra đi bỏ ta trời thương nhớ
Những hồn hoang cũng đầy nỗi khát khao
Chim gọi đàn réo nhau về xây tổ
Đêm tha hương ta dấu lệ phương nào!?
Tôi cùng anh, chị, em cùng chung bước
Tim cõi còm thao thức một quê hương
Mừng hạnh ngộ nguyện cầu mai đất nước
Hoa Tự Do thơm ngát mọi nẻo đường!
*NXVan (NVSanh VT68)
356 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 357
VEÀ TRONG NOÃI NHÔÙ
Lê Ngọc Túy
Ngô Xuân Trang hiệu đính.
(9/1, 10/75).
Tôi bắt đầu vào học trường Nữ Trung Học Nha Trang
giữa năm lớp 6/1, khi Ba tôi chuyển về nhận nhiệm sở tại
Nha Trang. Nhà tôi tương đối rộng, nằm trong khuôn viên
Bưu Điện, có balcon trên lầu đối diện biển. Đây là lý do
khiến nhóm bạn cùng lớp thường xuyên đến nhà tôi chơi, vì
vừa ra biển rất gần, vừa có thể giả danh gọi điện thoại chọc
phá thiên hạ mà không sợ bị phát hiện...
Nha Trang ngày ấy thật thanh bình với lũ nhỏ chúng tôi.
Buổi sáng, Ba tôi hay chở mấy chị em đi học trên chiếc xe
SUV màu xám. Tôi không thích theo xe Ba đón học về, mà
xin đi bộ với nhóm bạn cùng lớp. Trời Nha Trang mùa hè
nắng nóng, mặc áo dài, không mũ, nón, mồ hôi ướt cả áo,
358 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
nhưng không đứa nào thấy mệt. Những cái miệng tuy nhỏ
mà to, mở hết công suất tranh luận ầm ĩ, dù năng lượng tạo
được từ điểm tâm buổi sáng đã tiêu hao cho các trò chơi kéo
co, nhảy dây, cột đuôi áo dài… nhưng lúc tan học vẫn còn
đủ sức cho trò chơi khác nữa, là thay phiên nhau đá lon sữa
bò, từ đường Hoàng Hoa Thám cho đến Phan Châu Trinh
mới thôi.
Trong nhóm chúng tôi có Phương Mai, nhà ở đường
Phan Đình Phùng, dầu mưa lạnh hay nắng nóng, cũng khoác
chiếc áo len màu đỏ. Mấy chục năm sau, các bạn lớp tôi đều
có được tin tức của nhau, nhưng Phương Mai không biết
đang ở phương trời nào... Nhớ nhất là mỗi mùa biển động,
nhóm bạn trong lớp (Hoàng Anh, Xuân Trang, Ngọc Liên,
Phương Mai…), hay hẹn đến nhà tôi để cùng ra biển nhảy
sóng. Tôi trốn ngủ trưa, rón rén xách dép nhẹ nhàng xuống
cầu thang để không bị phát hiện.
Mùa mưa biển động, gió mạnh, có nhiều đợt sóng lớn
thì nhảy sóng mới vui. Thỏa thuận ngầm, nắm tay nhau, 1,
2, 3, cùng nhảy khi sóng đánh vào bờ; ai bị té là cả nhóm
phải cùng nắm tay kéo lên. Bài học công dân giáo dục về sự
đoàn kết từ thầy cô truyền dạy được chúng tôi áp dụng triệt
để, nên không đứa nào bị “oa-xịt” ra khỏi nhóm. Sau này,
mỗi khi đọc báo về các cháu nhỏ tắm biển gặp tai nạn, tôi
vẫn giật mình khi nhớ lại trò nhảy sóng nguy hiểm năm xưa.
Các bậc phụ huynh của chúng tôi ngày ấy có lẽ không hề hay
biết, vì chúng tôi vẫn hẹn ra biển chơi nhảy sóng thường
xuyên mùa biển động, mà không đứa nào bị nghiêm cấm...
Năm lớp 6, lớp tôi học bên trường Nữ mới, dưới lầu, gần
phòng Ban Giám Hiệu; lớp 7 đến lớp 9 phải chuyển sang
trường Nữ cũ. Năm đầu tiên lớp 6 vào trường, chúng tôi được
dự lễ kỷ niệm “Đệ Thập Chu Niên.” Tôi nhớ thầy hướng
dẫn và dạy Pháp Văn lớp tôi lúc đó là thầy Trần Phạm Hiếu,
dạy chúng tôi rất nhiệt tình và đeo cặp kính cận rất dày.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 359
Năm lớp 8, cô Thanh Mai dạy chúng tôi môn Vạn Vật,
mà trong trí nhớ của Trần Yến lớp tôi, “Cô giáo tên Thanh
Mai đúng nghĩa thanh mai luôn. Cô rất nhẹ nhàng và dịu
dàng với học sinh, mình rất yêu Cô.” Đôi mắt bồ câu rất đẹp
của Cô đã để lại một ấn tượng trong mắt tôi. Riêng tôi, không
hiểu vì nguyên nhân gì, tôi cứ nghĩ cô giáo mình chính là
nhân vật nữ Thanh Mai trong bản nhạc “Mai” nổi tiếng
khoảng năm 70 của nhạc sĩ Quốc Dũng, với giọng ca Elvis
Phương:
“Mai! Anh đã xa em thật rồi
Anh sẽ xa em trọn đời
Dù lòng thương nhớ khôn nguôi.”
Một hôm có dịp gặp Cô trong giờ ra chơi, tôi mạnh dạn
trình bày thắc mắc của mình: “Cô ơi, Cô là cô Thanh Mai
trong bài hát ‘Mai’ của nhạc sĩ Quốc Dũng phải hông Cô?”
Cô hơi ngạc nhiên, rồi cười trả lời: “Không phải đâu em.”
Tuy vậy, tôi vẫn hồn nhiên tự hào nhạc sĩ Quốc Dũng đã yêu
đơn phương cô giáo xinh đẹp của mình…
Lớp chúng tôi đều nhớ cô giáo Việt Văn lớp 7 là Cô Hồ
Tường Ngọc Diệp. Cô theo chồng là Không Quân từ Sài Gòn
ra Nha Trang công tác. Cô phát âm rặt tiếng Nam, nên cả lớp
chúng tôi hầu hết đều bị điểm chính tả thấp. Cô rất hiền, nên
đám học trò con nít lớp tôi còn cả gan xì xầm to nhỏ “nhái”
giọng Nam của Cô...
Bạn thân nhất của tôi những năm học Nữ Trung Học là
Xuân Trang. Chúng tôi may mắn giữ được tình bạn thân mãi
đến ngày nay, dầu lớp 10 đã học khác ban, khác trường, và
nay cũng sống ở hai quốc gia khác nhau. Duyên may dẫn đến
việc chúng tôi ngồi chung bàn thật buồn cười. Tôi không hề
nói chuyện với Trang năm lớp 6. Ngày khai giảng lớp 7/1,
cả tôi và Trang đều đi sớm, đều chạy ào vào lớp “giành chỗ”
khi trường vừa mở cổng. Không hẹn mà hai đứa đều “đặt cục
gạch” giành ngồi đầu bàn, bàn 2, phía bảng. Bất phân thắng
360 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
bại, cô hướng dẫn lớp 7/1 chúng tôi lúc đó là cô Lê Quang
Giao, phân xử mỗi đứa được ngồi đầu bàn một tháng.
Do Xuân Trang làm trưởng lớp, ngồi phía trong, ra vào
bất tiện mỗi khi ghi điểm danh hoặc lấy sổ đầu bài, tôi đành
ngậm hột thị để nhường Trang ngồi đầu bàn cả năm. Tôi bực
tức lắm, nên viết cho Trang một lá thư, đe dọa “trò” đừng
mừng vội, tháng sau sẽ phải trả lại chỗ ngồi cho “tui”. Nhưng
chúng tôi lại chơi thân với nhau từ đó. Cả 2 năm sau, lớp 8/1
và 9/1, tôi nhường cho Trang ngồi đầu bàn, vì nó vẫn lại
được bầu làm Trưởng Lớp! Trang học giỏi nhất lớp tôi;
những giờ toán chạy, Trang nộp bài của nó và cũng nhanh
nhẹn chạy nộp bài giùm tôi, nên tôi không còn gì phiền muộn
nữa.
Tôi và Trang đều nhớ rõ năm lớp 8, vì một lý do riêng
của lớp, cô Trần Thị Lý dạy Văn, đồng thời là giáo sư hướng
dẫn, có ý định chuyển tôi và Trang ngồi hai bàn khác nhau.
Hai đứa buồn quá, cầu xin ông Địa cho cô Lý đổi ý thì xin
cúng ông nải chuối. Thành tâm của chúng tôi được ông Địa
chứng giám, cô Lý sau đó quên luôn, không bắt chúng tôi
đổi chỗ nữa.
Năm lớp 9, lớp tôi học Việt Văn thầy Đoàn văn Sảng.
Vì nói chuyện quá nhiều, chúng tôi bị Thầy phạt đứng ngoài
sân trường, gần một giờ sau mới cho vào lớp. Mấy chục năm
trôi qua, nhưng hầu hết các bạn 9/1 lớp tôi đều nhớ kỷ niệm
này. Nhớ nhất là năm tôi học lớp 9, trường tổ chức lễ Hai Bà
Trưng rất lớn. Học sinh các lớp nô nức tham gia tranh tài,
thể thao, gia chánh, văn nghệ... Giáo sư chủ nhiệm lớp 9/1
chúng tôi là cô Ngô thị Tuyết dạy Công Dân. Tôi nhớ Cô tóc
uốn, người cao ráo, mặt đượm buồn.
Lớp 9/1 chúng tôi năm đó may mắn đạt rất nhiều giải
thưởng. Tôi cùng Xuân Trang ghi tên thi gia chánh, làm món
"gỏi bao tử", được giải Ba các món mặn. Đào Quài và Kim
Phượng thi đổ đông sương cũng được giải Ba các món ngọt.
Ngọc Phượng ẵm luôn giải Nhất bóng bàn Đệ Nhất Cấp, đại
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 361
diện trường đi thi bóng bàn Tỉnh. Xuân Trang, Lê Nguyệt,
Thái Hòa và tôi (cùng bạn nữa chúng tôi không nhớ tên), thi
"Đố Vui Để Học", được giải Nhất khối 9. Lớp tôi cũng giật
luôn giải Quán Quân môn kéo co, với những "lực sĩ" con
cháu Hai Bà, Hồng Loan, Phương Mai, Đào Quài, Thanh
Minh, Ngọc Liên, Ngọc Tước, Kim Hoa, Tuyết Lệ... Các bạn
Thanh Hằng, Thu Ngâm, Thanh Minh và Hoàng Mơ, cũng
góp mặt trong tiết mục múa “Bản Luân Vũ Mùa Mưa”,
duyên dáng và xinh tươi trong bốn chiếc áo đầm voan tím…
Đào Quài vui vẻ kể lại "nỗi oan Thị Kính", kỷ niệm nhớ
đời trong buổi thi kéo co năm xưa. Cả lớp chúng tôi đều nhớ
thầy Tước, Giám Thị, lúc ấy làm trọng tài giám sát 2 nhóm
kéo co chuẩn bị cuộc thi. Đào Quài bị Thầy la, khi nghe Quài
gọi "Ê, Tước, nói nè". Thật tình Quài bị la oan, vì Quài đang
gọi Ngọc Tước, cũng là thành viên trong đội kéo co; nên đã
giải thích, "em gọi trò Tước bạn em"! Đội 9/1 "lực sĩ" chung
cuộc, sau nhiều khó khăn, cũng được trọng tài thầy Tước cho
về nhất, nhưng lớp tôi cũng hơi buồn lòng, vì cho rằng Thầy
không công bằng với đội kéo co của lớp trong cuộc thi năm
xưa...
Cũng năm đó, kỷ niệm đẹp nhất của tôi là được giải Nhất
hùng biện khối Đệ Nhất Cấp của trường. Giải thưởng hiện
kim trị giá khá lớn thời đó, do vị khách mời danh dự của buổi
lễ là Đại Tá Tỉnh Trưởng Nha Trang trao tặng; đến mấy chục
năm sau tôi vẫn còn nhớ tên vị ấy. Còn chị Vũ thị Khấn được
giải Nhất hùng biện khối Đệ Nhị Cấp. Trong bài thuyết trình
hôm ấy, tôi có rao “ai ăn chè đậu xanh nước dừa đường cát
hông?” khi bàn luận về âm thanh trầm bổng và ngọt ngào
của tiếng Việt, rồi kết luận bài hùng biện với lời bài hát “tôi
yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời” của nhạc sĩ Phạm
Duy...
Năm lớp 10, lớp tiếng Pháp chúng tôi học chung với các
bạn từ Hàn Thuyên. Có hôm cả lớp cứ cười rúc rích, vì Tú
Anh và Như Tâm gắn giấy bạc của bao thuốc lá vào răng,
362 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
tạo thành một hàm răng bạc, cứ có dịp thì nhe ra cho cả lớp
cười…
Thỉnh thoảng, cô Tổng Giám Thị vào lớp tôi kiểm tra
nội quy mặc áo dài; tôi nhớ áo dài phải mặc áo lót, không
được hở bên hông. Khi Cô vào lớp, không tìm thấy học sinh
nào vi phạm nội quy; nhưng khi Cô vừa ra cửa, học trò mèo
vẫn hoàn mèo…
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh các Cô trong Ban Giám
Hiệu Trường Nữ Trung Học chúng tôi ngày đó. Cô Hiệu
Trưởng Bùi Ngoạn Lạc, phong cách đài các quý phái, "mặt
ngọc trang nghiêm", là hình mẫu lý tưởng của bọn học trò
chúng tôi; Cô Tổng Giám Thị Nguyễn Ngân, rất lịch thiệp,
nhưng vô cùng nghiêm khắc, đã dạy dỗ đưa chúng tôi vào nề
nếp; Cô Giám Học Lê Gia Hương nhẹ nhàng, duyên dáng và
trang nghiêm. Đa số học sinh trường Nữ chúng tôi đều thuộc
lòng bài thơ Công Dung Ngôn Hạnh trong tập Gia Huấn Ca,
tương truyền của Nguyễn Trãi, mà các bạn nam Võ Tánh
chắc không được học:
"Công là đủ mùi xôi thức bánh,
Hạnh là đường ngay thảo kính tin.
Dung là nét mặt ngọc trang nghiêm,
Ngôn là dạy trình thưa vâng dạ…"
Mấy chục năm sau, khi tôi ngồi viết những dòng này
cho đặc san kỷ niệm 60 năm trường xưa, đám học trò lí lắc
chúng tôi đều đã qua tuổi lục tuần, gọi nôm na là U70. Lý do
kêu gọi hội ngộ luôn là “gặp nhau cho vui đi tụi mày ơi, U70
rồi.” Có tiếng càu nhàu, “gì mà 70 ghê dzậy mày, tụi mình
mới 6 bó chớ nhiêu”, “ừa, chưa tới 70 đâu nha”, nên khi nghe
gọi U70 (under 70, dưới 70), vẫn thấy nao nao trong dạ...
Thôi thì xin sáng tác “từ” mới, thay vì U70, xin gọi chúng
tôi là O60 (Over 60, trên 60) cho nó trẻ trung, cho nó ‘khí
thế’ (như người Huế thường gọi các cô "tre trẻ" là O) để "các
O60" còn có dịp trở về thời mộng mơ của tuổi học trò:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 363
“Tà áo O làm chi nên tội,
Răng cứ vò nhăn cả bàn tay,
Sáng vàng thu trời mưa nho nhỏ,
Chờ ai chăng, O nớ mưa ngâu?” (1).
Xin tri ân Quý Thầy Cô của tôi ở Nữ Trung Học Huyền
Trân xưa, cám ơn các bạn một thời tuổi nhỏ tràn đầy kỷ
niệm… Gió Đông qua sẽ có nắng Xuân về, hoàng hôn xuống
cho bình minh chiếu sáng. Uớc mong sao chúng ta vẫn:
“Ân cần, trân quý khi còn gặp,
Biết vẫn còn chung một đoạn đường ... ”(2).
Có những kỷ-niệm-một-thời, nhưng nhớ-nhung-một-
đời là có thật, phải không các anh chị và các bạn?
Lê Ngọc Túy
(Ngô Xuân Trang hiệu đính).
Ghi chú:
(1) Thơ Mường Mán.
(2) Thơ Như Nhiên TT Tuệ .
Xuân Trang, Ngọc Túy
364 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
CHUYEÄN HOÀI NAÊM NAÚM
ÔÛ NHA TRANG
Lê Thị Hoài Niệm
Những ngày còn bé, mỗi lần về thăm Ba ở Nha trang,
tôi “mơ” có thể tung tăng bước chân vào trường Nữ Trung
Học Huyền Trân lắm lắm, ngôi trường toàn là nữ sinh và nữ
sinh, mỗi khi tan trường ôi thôi nhìn đẹp quá. Những tà áo
trắng tung bay, có chị kẹp tóc thẹn thùng, có em cắt tóc “đờ
mi gạc xông” liến thoắng, có cô tóc thề e thẹn nhu mì, để khi
vừa ra cổng, đã có người mặc quân phục ngồi trên chiếc
Honda chờ sẵn, tà áo trắng chỉ vén nhẹ ngồi lên yên sau là…
dzọt, hay e ấp đi bên cạnh chàng sinh viên sĩ quan hải quân,
không quân, thả bộ về nhà mà không lo mẹ mắng mỗi chiều
thứ sáu, hay chiếc xe jeep quân đội của ông lớn nào đó có tài
xế chờ đón tiểu thơ, chẳng có tên tóc húi cua nào theo phá
phách hay chọc ghẹo trong lớp, trong sân trường, … Ôi
những cô học trò xinh xắn, bên những cô giáo cũng đẹp dịu
dàng không kém và những vị giáo sư khả kính, nghiêm trang.
Tôi mơ và nghĩ mình cũng có thể lắm chứ, vì tôi chỉ cần xin
tờ giấy “chuyển trường” và quyển học bạ là được thôi.
Nhưng, chữ nhưng quái ác cản bước chân tôi, vì má tôi …
ngại con nít vào trường lạ, bạn bè chưa có sẽ bơ vơ, sẽ ảnh
hưởng việc học hành, Ba tôi không thể lo chu toàn cho một
lúc mấy đứa con chỉ biết cắp sách đến trường, đành để con
bé nhà quê tôi phải tiếp tục học tại trường cũ chung với bạn
gái và có lắm nam sinh, với mấy ông thần to đầu, thường
nhằm cái đầu con bé con tôi mà cú, nhưng không nên nhắc
lại kẻo nó hại … tình thân.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 365
Nhưng tôi được ngang nhiên bước vào trường Nữ Trung
học để làm “Giám thị” cho kỳ thi Tú tài hai mới là oai chứ.
Bởi Nha trang có rất nhiều trung tâm thi, nhưng số giáo
sư lại thiếu, nên Ty Giáo dục bèn “bốc” thêm một mớ thầy
cô “giáo học bổ túc” để… bổ túc vào… canh cửa phòng thi.
Oai dữ nha! Trường chúng tôi có 4 cô giáo mới… ra lò được
chọn (các bạn còn đang ở tại Nha trang) và phân chia mỗi
đứa một trường cho….đúng luật, và tên tôi đúng ngay trung
tâm Nữ Trung Học, nơi chỉ dành cho thí sinh “Tự Do” mà
hầu hết là những quân nhân tại ngũ.
Không như những lần làm thí sinh, bước chân đến
trường thi với tâm trạng hồi hộp, sợ sệt. Lần này tôi… hiên
ngang bước qua cổng trường Nữ, đi thẳng vào phòng giáo sư
trình giấy tờ cho vị chánh chủ khảo. Ông là hiệu trưởng từ
một trường Trung học tận Tây ninh, đổi ra Nha trang làm
nhiệm vụ. Nhìn thấy cô giáo… non mà làm giám thị cho mấy
ông lính, ông có vẻ ngại ngùng dùm hay sao đó, mà ngày đầu
ông cho tôi… ngồi lại văn phòng làm… lon ton với mớ giấy
tờ hành chánh, thỉnh thoảng làm… hướng dẫn viên du lịch
hàm thụ cho ông vài nét về Nha trang. Gì chứ mục này tôi
cũng có nghiên cứu từ lâu, trước khi cả gia đình chọn Nha
trang làm quê hương chính thức, nên tha hồ trải tầm nhìn
theo sóng biển Nha trang, hít thở nhiều hơn khi leo lên dốc
Cầu đá, khoái chí nhìn theo cá đẹp trong Hải học Viện, tả …
sơ sơ về Dinh Bảo Đại mà… quen lớn lắm mới được bước
qua cổng rào chạy xe lòng vòng lên trên đó xem nhà rồng.
Rồi ngồi xe lam ra Tháp Bà xin xăm, ra Hòn chồng leo dốc
đá uống nước dừa. Viết ra thì lâu mà nói vài câu thì… hết,
nên đâu có tốn nhiều thì giờ giới thiệu, nhưng ông Giáo sư
cũng… tỏ vẻ khoái lắm. (Nhờ vậy khi gặp lại ông bên Mỹ,
nhằm ngay thành phố tôi ở, mới nhắc sơ sơ, ông đã nhớ ra
liền vì… ấn tượng ngày đi coi thi năm ấy, có cô giáo non
hướng dẫn viên du lịch hàm thụ vui tính, lanh chanh, …)
366 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Dĩ nhiên trong văn phòng cũng còn vài Thầy Cô giáo
khác và lần đầu tiên tôi gặp chính cô giáo Thái Bạch Vân.
Trời! cô giáo đẹp chi mà đẹp quá. Cô nói năng nhỏ nhẹ, mái
tóc chải cao, khuôn mặt đầy đặn, nhìn là bị hớp hồn liền dù
tôi là con gái. Sở dĩ tôi nhớ cô kỹ là vì ngồi trong văn phòng,
trên bàn nước kế bên là cái bánh bông lan kem to tổ chảng,
cô mang từ nhà đến, khi cô cắt ra tôi cũng được… chia phần,
ngon ơi là ngon. Thì ra Cô là giáo sư dạy nữ công gia chánh
của trường Nữ Trung Học này. (Sau này ở Mỹ, thỉnh thoảng
tôi gặp Cô và đưọc cô tặng cho những tập thơ, những CD với
những giọng ngâm truyền cảm những bài thơ của Cô, … vì
tôi và Cô cùng sinh hoạt chung trong một trung tâm chữ
nghĩa.)
Ngày thứ hai tôi được sắp xếp đi làm… giám thị hành
lang. Có gãi đầu gãi tai cũng không thoát số. Thì thôi cứ một
giờ đồng hồ thì đứng lên đi hết mấy dãy hành lang rộng thênh
thang của trường, mà guốc sắt thì nhọn hoắc, cứ cồm cộp
cồm cộp tới phòng nào hơi… ồn ào thì thò đầu vào… xem
thử, gặp ngay mấy ông lính la ó rầm trời, mấy ngài Giáo sư
giám thị chả dám… cười vì ngại bị “phê bình” là coi thi
không… nghiêm chỉnh.
Cuối cùng thì tôi cũng… được làm giám thị hai trong
phòng thi toàn những người đàn ông mặc quân phục đủ loại.
Có ông thì quần áo ủi thẳng nếp, tóc tai thẳng thớm, mặt mũi
sáng trưng. Có ông thì vẻ phong trần, khắc khổ hiện trên nét
mặt, quân phục nhàu nhè một chút mà vai áo thì dấu vết còn
hằn, chứng tỏ mới lấy… lon ra. Chúng tôi đến phòng thi sớm,
và ký tên trên những tờ giấy làm bài và cả giấy… nháp.
Những vị thí sinh lính cứ nhè cô giáo tôi mà… mè nheo, hỏi
thăm đủ chuyện, có người còn… phá phách hỏi địa chỉ nhà,
chứ tên thì đã biết. Có người còn… cà rỡn kỳ này trúng mối
lớn vì sẽ được cô giáo đọc bài cho chép, vì trông cô… hiền
lành tử tế. Hôm đó trúng giờ thi Vạn vật, mèn ơi vui thì thôi,
cả phòng thi như đang… đếm giấy bán, cứ sột soạt sột soạt
bên dưới hộc bàn khi đề thi vừa được phát ra, vị Giáo sư
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 367
giám thị một đề nghị chúng tôi đi… thu gom sách dưới hộc
bàn, không để họ… tự do quay cóp, dù ông rất “thông cảm”
và quý trọng sự hy sinh của họ. Nhưng mục này hơi khó cho
tôi, vì đi đến bàn nào cũng nghe một câu… thần chú: “Chỉ
có 7 ngày phép thôi cô ơi! khó mà chi!” Nhưng không… thu
sao được? Thế là cái bục để giáo sư và học sinh đứng giảng
bài, giải toán hằng ngày, đã có từng chồng sách vạn vật cao
nghệu…
Tôi bước về phía cửa và đứng đó nhìn về phía các thí
sinh đang cặm cụi… làm bài, tự nhiên trong tôi dâng lên một
niềm cảm mến vô hạn. Họ là những người lính mà, vì hoàn
cảnh chiến tranh đã không thể tiếp tục cắp sách đến trường,
nhưng ở họ vẫn có một ý muốn vươn lên, có thể một trong
số họ là những người lính thực sự và đang muốn có một
mảnh bằng để chuyển sang học khóa Sĩ quan (?). Có thể
trong số họ muốn vào học tại một đại học nào đó mà vì không
vượt qua nổi kỳ thi năm trước, đành phải “xếp bút nghiên”
thẳng tiến quân trường vì lệnh động viên, bây giờ đã “ổn
định” đơn vị nên quyết chí ghi tên thi tiếp. Có thể họ đang ở
chiến trường sôi động, muốn tìm một ngày phép nghỉ ngơi
hơi… khó, nên cố gắng nạp đơn thi để tìm lại chút hương vị
phố phường...?
Tôi lại liên tưởng đến những người lính thường hay xuất
hiện ở nhà tôi mỗi cuối tuần, họ quá may mắn so với những
người lính ngoài trận mạc, dù đôi lúc chị em tôi chọc phá họ,
nhưng là trong tình yêu thương chia sẻ trách nhiệm với người
trai thời loạn.
… Từ khi ba má tôi dời nhà về ở Phù Đổng Nha trang,
và kể từ khi ông anh cả của tôi tốt nghiệp trường “KBC bốn
thằng một ca-rê” về làm huấn luyện viên ở trung tâm huấn
luyện Lam Sơn (Dục Mỹ), thì ba má tôi có thêm đám con
nuôi bất đắc dĩ. Những người lính xa nhà rất cần một mái ấm
gia đình để an ủi, để... lủi về tá túc sau những giờ hét khan
cổ: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu!” Và
368 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
nhất là những khi cạn túi hết tiền lương (thường thì nửa tháng
đã cạn sạch rồi).
Bởi vậy nhà tôi cứ y như là “Cư xá SĨ QUAN VÃNG
LAI!” Không giống như Cư Xá Vãng Lai góc đường Lý
Thánh Tôn-Bá Đa Lộc ngay ngã sáu Nha trang, cư xá nhà tôi
được thành lập mà không có trợ cấp của chính phủ, lại chẳng
nỡ thu tiền cơm tháng của sĩ quan trú ngụ, ăn nhờ. Và cũng
bởi nhà tôi bỗng dưng biến thành cư xá vãng lai, mà mấy chị
em chúng tôi không thuộc loại cà nhỗng, lại chưa quá đát,
nhưng lại bị ế ngang xương, ế chùm ế đụp, ế thảm thương.
Chị em chúng tôi có xuống đường phản đối ông anh tôi,
nhưng ba má tôi lại bênh vực cho “Tình quân dân cá nước”.
Và má tôi, sau những giờ đấu tranh với khói lửa trong
bếp để tạo những bữa cơm ngon, bà hay thắp hương khấn vái
bốn phương, tụi tôi cứ ngỡ bà khấn nguyện Phật Trời phù hộ
để có tên con trai nào đem trầu cau tới rước đám con gái của
bà, bà sẵn sàng tống xuất chứ giữ làm gì mấy trái bom nổ
chậm. Nhưng hú vía, khi hỏi ra mới vỡ lẽ, má tôi khấn vái là
xin Đất Trời, Phật, Chúa, Thánh Thần, Cô Năm, Chú Bảy,
các oan hồn Tử Sĩ khuất mặt, khuất mày về phù hộ cho cái
đám con lính tráng của bà, dù con ruột hay con hờ đều mãi
mãi được bình an, vô sự, đừng để bị đạn... hun, hay lựu đạn
xơi tái để rồi... phủi chân lên nóc tủ ngồi nhìn gà khoả thân
thì tội lắm.
Mà thật, từ khi có mấy ông anh nuôi bất đắc dĩ, mấy cây
si vừa mới trồng trước cửa xanh mơn mởn bỗng bị hạn hán
chết queo, mấy cái cột đèn cũng bứng gốc đổi chỗ tự bao giờ,
dù có lúc tụi tôi cũng có nghe lời than thở, tiếc nuối: “Lối đi
qua nhà em, nghe nồng nàn mùi... thịt nướng thật thơm!”
Tuy tiếc thì tiếc nhưng coi bộ chả có tên con trai dân sự nào
dám bước qua cái đám “Kỳ đà cản mũi” cứ ra vô hà rầm,
nhứt là vào những ngày cuối tuần - với giày sô, quần áo trận
chỉ thiếu có súng ngắn, dao găm và cái ba lô buộc lỉnh kỉnh
soong nồi.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 369
Ngay cả cái đám bạn gái chúng tôi, có đứa cũng có ý
ganh thầm, ngỡ rằng chị em chúng tôi là hoa đã có chủ!
Nhưng khổ nỗi “tình ngay mà lý gian”, dù thuộc nằm lòng
câu răn của người đi trước “Trai khôn tìm vợ chợ đông, Gái
khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”. Rõ ràng là chỗ nhà tôi
– “Cư xá Sĩ Quan vãng lai” tạm – chỗ có không những ba
quân mà có khi lên cả chục quân, là chỗ thuận lợi cho đám
con gái mới lớn dễ dàng tìm ý trung nhân, nhất là khi các cô
nào có quan niệm: “Thà chết cạnh rừng mai hơn là chết trên
vai anh... cánh gà!”
Ấy vậy mà bọn chị em tôi tưởng chừng như bị ế! Không
phải vì câu răn đe của ông anh tôi: “Đứa nào léng phéng với
em gái tao, coi chừng tao!” Và cũng chẳng phải mấy ông anh
hờ của bọn tôi thuộc loại thánh thiện, hay theo môn thiền,
hoặc thêm dấu sắc trên chữ thiên để thành hoạn quan gì cả,
mà mấy anh cũng thuộc loại phàm phu tục tử, cũng tham sân
si đầy người, có khi tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Nhưng khổ nỗi, vì quá biết về “thân thế và sự nghiệp” cũng
như thói quen, gia cảnh, v.v... nên bọn tôi bị dị ứng với
hương vị tình yêu của các anh, nhất là những khi trái nắng
trở trời, nắng gay nắng gắt mà phải tiếp nhận mùi tình yêu từ
bộ đồ trận mấy ngày chưa giặt…
Lại nữa, có mấy ai dại khờ nhắm mắt đưa chân vào
vùng... tử địa, khi mà đã biết được lá bài tẩy của đối phương.
Này nhé; một anh H, người Bến Tre, leo dừa cứ như là sóc,
tróc dừa cũng nhanh chẳng kém gì leo, chỉ cần ba nhát dao,
xẹt qua, xẹt lại, phạt ngang, là mỏm trái dừa trọc lóc, lộ
nguyên cơm dừa trắng trắng mềm mềm, chỉ cần chọc nhẹ
mũi dao là có quyền đưa lên miệng... tu nước dừa tươi vừa
trong vừa mát. Anh lại có tài nấu bếp, nếu thời đó có ai trao
giải “Mr MOM!” chắc anh sẽ là người thắng cuộc. Bởi thế
anh rất có tâm hồn đa sầu đa cảm kiểu... LÍNH CHÊ! Nên
suốt ngày cứ nghe anh vào ra rên ư ử cài gì mà “Tôi vốn
nghèo, em cũng nghèo như tôi, hai đứa từ lâu mơ ước một
nhà lầu...”, lại có khi thấy anh ngồi sững nhìn vào vách mà
370 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
than thở, ước ao: “Ước gì mình đừng ngăn cách, ước gì nhà
mình chung vách hai đứa mình... khoét vách chui qua!” thậm
chí có lúc anh còn xuống câu xề ai oán, ta thán cảnh “Lương
Sơn Bá... đá Anh Đài”. Nghe xong thì phải vỗ tay, nhưng mà
lại ngán, sợ có ngày thành nghệ sĩ cải lương bất đắc dĩ.
Nhưng anh là một huấn luyện viên khoa chiến thuật rất giỏi!
Anh Ph., bạn bè anh tặng cho anh danh hiệu “Dân chơi
xứ Nẫu!” Nhìn anh rất giống tài tử Trần Quang Thái của
phim võ hiệp Tàu. Mỗi lần về Nha Trang, anh hay đem theo
một bộ đồ civil gồm quần xẹc, áo hoa (bộ đồ vía), nếu kết để
đi phố với anh thì bắt mắt vô cùng. Nhưng khổ nỗi, nhờ có
bộ mã đẹp trai, nói khéo mà anh đã thành con nợ của rất
nhiều người. Má tôi biết, la rầy anh hoài nhưng chứng nào
tật nấy. Đã bảo cặp kè đi rước đèn thì được, chứ về nâng
khăn sửa tráp cho anh thì chắc chẳng có gì để nâng để sửa,
vì suốt ngày chỉ nghe anh kể chuyện: “Nhắm mắt chỉ thấy
một chân trời... xập xám, lại thấy tiền nó bay đâu mất, rồi
tiếc nuối, rồi chịu đói...!” Bởi thế “tiền lính là tính liền,
nhiều khi nghèo như điên", lại thêm “cờ bạc là bác thằng
bần” mà lị.
Còn anh Th., người dân P.Y. nên chọn đơn vị về Nha
Trang cũng gần. Ai cũng phải công nhận anh có ngón đờn
Classic Guitar tuyệt diệu. Vì anh là “đại đội trưởng khóa
sinh” nên anh có nhiều cơ hội để trổ tài và luyện ngón đàn
nhuần nhuyễn. Những đêm trăng sáng lung linh, gió đưa nhè
nhẹ mà ngồi nghe anh ôm đàn vuốt phím bản “Hoài Cảm,
Ngọc Lan, Nguyệt Cầm, Mắt Biếc, v.v...”. Những âm thanh
réo rắt, du dương, dìu dặt dễ nối liền nỗi lòng người nghe
đến với kẻ chơi đờn. Nhưng khổ nỗi, ngoài sở trường âm
nhạc để trở thành thần tượng của những tâm hồn đa sầu đa
cảm, thì giờ còn lại chỉ thấy anh: “Tay cầm điếu thuốc phì
phèo hút. Tay bợ lon bia khề khà tu!” Còn mọi chuyện khác
thì anh tỉnh bơ, phớt tỉnh như dân Ăng-lê. Nhờ vậy mà anh
có nhiều bạn, kể cả ông anh tôi, nhưng con em tôi thì vẫn cứ
hát đùa: “Đời nghệ sĩ lăn lóc xuống mương, ba ngày đêm vớt
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 371
lên sình chương, sình thì sình em vẫn cứ thương, thương thì
thương anh vẫn... sình chương!” Còn má tôi thì tuyên bố
một câu xanh dzờn: “Mai mốt đứa nào lấy nó có nước... bốc
mắm mà ăn!” (Mà thiệt, về sau chị H. làm vợ anh rất khổ vì
máu nghệ sĩ của anh).
Và anh Kh., “...quê hương anh cái mùng mà kêu cái
màn, trên đồng xanh, bên ruộng sâu Anh trồng toàn cây rau
muống!” Nhưng khi di cư vào Nam, hình như gia đình anh
đã định cư gần kho đạn Long Bình, bởi vậy anh nổ bạo. Anh
nổi tiếng huấn luyện giỏi ở môn... vũ khí, viên đạn nào qua
tay anh cũng không sợ hư, sợ thúi, anh nổ có khi không cần
tiếp tế đạn, nhờ vậy mà cả nhà tôi có dịp cười bò lăn bò càng.
Nổ cho... dzui mà! Nhưng đi cạnh kho thuốc nổ, không khéo
có ngày bị trúng miểng…
Căn phòng nhộn nhạo hẳn lên lôi tôi về thực tại vì có thí
sinh lên nộp bài để ra về, và chúng tôi phải ký tên trên bài
thi. Nhìn chung quanh, hình như có người chưa trả lời được
câu nào hoàn chỉnh cả, nên mấy ngài tự động đi lên bục lấy
sách của mình đem về bàn và từ từ lật ngay trang sách mà…
chép. Vị giáo sư ra hiệu cho tôi… thoải mái để cho họ chép
vài trang, ít ra trên giấy làm bài có chữ viết vì sắp hết giờ
rồi…
Chúng tôi ra về khi đã hoàn tất những thủ tục cho những
bài thi. Chúc cho những thí sinh được sớm “có tên trên bảng
vàng”. Qua lần làm giám thị trường thi, mà thí sinh toàn là
những người lính, đã gieo vào lòng tôi một tình cảm quý
mến, trân trọng những người lính hơn nữa, quên đi những
giờ phút bị... huýt gió, chọc phá từ những người… vui tánh,
ba gai. May mà không xảy ra một tai nạn đáng tiếc nào trong
những ngày thi đó, một kỷ niệm để đời ngay trong trường
Nữ Trung Học, nơi mà ngày xưa xa lắc tôi mơ được làm nữ
sinh nơi ấy…
Lê thị Hoài Niệm
372 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nhôù Veà Xoùm Môùi,
Nguyễn Bá Dĩnh
Trung tâm thương
mại của thành phố
duyên hải Nha Trang là
chợ Đầm và hai con
đường Phan Bội Châu,
Độc Lập tiếp nối nhau
tại một ngã năm, chạy
từ đông sang tây. Tận
cùng con đường Phan
Bội Châu, phía bờ biển
là tòa Hành Chánh Tỉnh
còn đầu kia, cuối đường
Độc Lập là Mã Vòng. Trên hai khúc đường nầy và những
khúc đường cắt ngang là tiệm buôn và nhà của những người
giàu có đã đến lập nghiệp tại đây vào những buổi đầu.
Lúc ấy, Nha Trang vẫn còn thưa dân. Sau 1954, chánh
quyền muốn phát triển dân cư nên khuyến khích những
người dân từ các tỉnh phía bắc như Phú Yên, Bình Định,
Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên... vào lập nghiệp và
chia cho mỗi gia đình một lô đất rộng 500 mét vuông trên
một nghĩa địa phía nam thành phố. Gia đình nào nhận đất
phải thuê người xới đất, lấy những hài cốt mang chôn phía
cực nam thành phố và cứ thế, một khu dân cư mới ngày càng
phát triển, được gọi là Xóm Mới.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 373
Gia đình tôi là một trong số ma mới nầy. Trước đó gia
đình tôi ở tại Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Thật ra, ông nội tôi là
người Điện Bàn, Quảng Nam. Nội học chữ nho và cũng một
thời cực khổ với lều chõng, thi cử. Sau đó, Nội bỏ gia đình,
theo nhà cách mạng Trần Quí Cáp. Đến khi Trần Quí Cáp bị
giặc Tây chém tại cầu Thành, Nha Trang, Nội trốn ra Phú
Yên, thay tên đổi họ và lập nghiệp tại đây bằng nghề dạy
học, dạy thuốc. Đó là duyên do tại sao tôi được sinh ra ở Tuy
Hòa.
Khi gia đình tôi đến định cư ở đây, Xóm Mới vẫn còn là
một bãi tha ma ngút ngàn trên đó rải rác vài chục căn nhà
của những gia đình mới đến. Đêm đêm, tôi thường mở he hé
cửa sổ, say mê nhìn những bóng ma trơi nhảy múa. Tôi nhớ
khi mới đến, nhà tôi ở ngay góc đường Hồng Bàng và tên
con đường cắt ngang, hình như là Ngô Đức Kế. Phần lớn
những con đường lúc bấy giờ chỉ được trải đá sơ sài. Bên
cạnh và chung một hàng rào là nhà thầy Trần đức Long, thân
phụ của Vân Khanh. Thầy Long ít nói, nghiêm nghị, không
qua lại với hàng xóm láng giềng nên chẳng có anh chàng nào
dám hó hé nhìn vô để xem nhà thầy có bao nhiêu bông hồng
biết nói.
Ba tôi vốn là một nhà nho và nhà nho nào cũng là một
thầy thuốc Bắc. Lúc đầu, ba tôi phải đến nhà bệnh nhân để
xem mạch, kê toa, bốc thuốc nhưng sau đó, ông không còn
đủ thì giờ để đi đến từng nhà. Ba tôi bèn bán căn nhà đầu
tiên nầy, mua một căn nhà khác ngay góc đường Trần
Nguyên Hãn và Đống Đa để gần nơi thị tứ, ông đi qua bà đi
lại mà mở một phòng mạch thuốc Bắc. Và tại đây, tôi đã lớn
lên cho đến tuổi trưởng thành.
Tôi theo bậc tiểu học tại trường Giu-Se-Nghĩa-Thục gần
nhà. Hai người bạn học thân quen với tôi thời đó là Nguyễn
Văn Quang và Nguyễn Tiến Việt. Về sau, Quang tốt nghiệp
trường Luật Sàigon, động viên, khi ra trường Trừ bị Thủ
Đức, được bổ nhiệm làm phụ thẩm toà án Quân Sự Nha
Trang. Việt thì oai hơn, tình nguyện vô Võ Bị Đà Lạt, ra
374 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
trường chọn binh chủng Nhảy-dù, đến 1975 mang quân hàm
đại-uý. Sau Giu-Se-Nghĩa-thục, cả 3 chúng tôi đều thi đậu
vào đệ thất trường Võ Tánh. Dĩ nhiên là khi ấy, đối với tôi,
không gì hạnh phúc cho bằng. Tôi còn nhớ ngày đầu tiên tôi
đi học ở Võ Tánh, mẹ tôi may cho một cái quần short và một
cái áo chemise trắng. Tôi không có xe đạp nên lội bộ mỗi
ngày suốt đoạn đường Trần Nguyên Hãn đến đường Lê
Thánh Tôn, quẹo mặt vài trăm mét rồi quẹo trái trên đường
Nguyễn Công Trứ, đi dọc theo bức tường rào của Quân Y
Viện cho đến khi gặp đường Bá Đa Lộc thì quẹo mặt là xong.
Vào mùa tựu trường đầu tháng chín, một vài chú ve sầu lạc
bầy còn trên những ngọn me cao thấy tôi đi qua cũng reo lên
inh ỏi.
Cái Xóm Mới của tôi là nơi tập trung rất nhiều giai nhân.
Giai nhân ở đây thực sự là người đẹp chứ không phải là
người nói dai như hoạ sĩ Vũ Hối thường đùa. Trên đường
Trần Nguyên Hãn, góc Hồng Bàng là nhà dì Đỉnh, mẹ của
chị Vân Anh, bà con với mẹ tôi. Dì Đỉnh là em ruột của nhà
cánh mạng Trương Tử Anh. Ba của dì là Cụ Trương Bội
Hoàng, cũng người tỉnh Phú Yên, có họ hàng với bên ngoại
của tôi.
Chị Vân Anh là con một của dì Đỉnh. Dì Đỉnh là một
trang nữ lưu anh kiệt, vừa đẹp người vừa chính chuyên, cả
đời ở vậy nuôi con, vui vẻ với cuộc sống. Cách nhà chị Vân
Anh không xa lắm, cũng trên đường Hồng Bàng, là nhà của
nhà văn Võ Hồng, khi đó dạy học tại trường Lê Quí Đôn mà
thầy Cung Giũ Nguyên là hiệu trưởng. Tình cảnh của thầy
Võ Hồng là gà trống nuôi con. Thật ra thầy Võ Hồng rất
xứng với dì Đỉnh của tôi nhưng tôi chẳng hiểu sao hai người
không cùng nhau bước thêm bước nữa, mặc dù không xa lạ
gì nhau.
Chị Vân Anh có mái tóc thề chấm ngang lưng trông dễ
thương lắm. Chị có đôi má lúm đồng tiền, da hơi ngăm ngăm
một chút, trông có duyên và quyến rũ một cách kín đáo. Tôi
để ý thấy rất nhiều anh chàng sĩ quan hải quân, không quân
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 375
đi theo chị mỗi khi chị đi học về. Những khi đó, chị không
dám đi một mình và phải chờ tôi trước cổng trường để cùng
về chung. Cuối năm 2007, nhân dịp chị Vân Anh và chồng
(Hoàng Gia Việt, cháu của Tổng đốc Hoàng Diệu) qua Mỹ,
ghé thăm Cảnh Tịnh ở New Hampshire, tôi đã rủ Phạm Khắc
Long lái xe qua thăm.
Vật đổi sao dời nhưng tim gan của con người vẫn tha
thiết với nhau! Biết Long và tôi qua nhà Cảnh Tịnh, Dương
Đức Ngọc cũng lái xe, mang đồ nhậu đến, họp với Nguyễn
Ngọc Y từ Atlanta bay lên, Cẩm Vân, anh Vũ Quang Ninh,
Nguyễn Văn Quang và Lệ Hằng từ Cali, Nguyễn Ngọc Đức
và Liên, Phùng Văn Nguyên và Sanh từ D.C., Phụng từ
Connecticut, Nhan đạo Lộc, Liễu và cháu Hòa từ
Massachusetts, … làm buổi họp mặt bỏ túi, quậy tơi bời hoa
lá trắng đêm tại nhà Cảnh Tịnh đến 2 giờ sáng thì chuyển
sang nhà Lộc-Liễu, cạn hết mấy chai Cognac, Champagne
trong tiếng cười, tiếng hát, tiếng đờn hòa cả tiếng ngáy của
nhiều tên chạy làng… để rồi ngày hôm sau, từng người ra
về, trong tiếc nuối và mang theo gan ruột đìu hiu của những
kẻ về sau…
Giữa nhà tôi và nhà chị Vân Anh là nhà của Thân Thị
Ngọc Phố. Ngọc Phố học sau tôi vài lớp, khi đó còn nhỏ
nhưng xem cũng có nhiều triển vọng lắm. Tôi xem Ngọc Phố
như một cô em tương đối thân tình vì gia đình Ngọc Phố
thuê nhà của ba tôi. Khi tôi trở về Nha Trang sau thời gian
dài du học thì gia đình Ngọc Phố đã dọn đi nơi khác và mất
liên lạc sau đó. Mãi đến gần đây, qua Phùng Văn Nguyên,
tôi đã liên lạc và gặp lại Ngọc Phố ở Washington D.C., được
biết trước 75 một hay hai năm gì đó, Ngọc Phố được học
bổng, qua Singapore học và sau biến cố 75 đi Mỹ luôn, lập
gia đình với bạn đồng môn thời đại học.
Nói đến Ngọc Phố thì không thể quên Đặng Thị Lan,
cũng là một người đẹp. Gia đình chị Lan cũng thuê nhà của
ba mẹ tôi. Đặng Thị Lan học hơn tôi một lớp mà với tôi như
có tình chị em nên tôi không e dè lắm, nhiều khi hứng, lúc
376 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
còn nhỏ dại, hai đứa còn rủ nhau ra giếng xối nước tắm ngon
lành. Cũng trên đường Hồng Bàng có nhà của Từ Tuyết Nga.
Nga hồi đó cũng để tóc thề, hơi gầy và có đôi mắt đen lay
láy, bí ẩn như những nàng trong chuyện cổ tích xứ ngàn lẻ
một đêm. Nga ít nói và ít đạp xe rong chơi như chị Vân Anh
và tôi. Tuy cùng học nhất C Võ Tánh nhưng Nga theo ban
Anh Văn còn tôi theo ban Pháp văn nên có rất ít kỷ niệm
chung với nhau, về sau, gặp lại vẫn thấy Nga bí ẩn như xưa.
Trong lúc viết những dòng ký ức nầy thì Tuyết Nga đã thành
người thiên cổ. Tuyết Nga, sau Cẩm Vân, đã ra đi một cách
đột ngột, để lại cho bạn bè bao xót thương tiếc nuối.
Một người đẹp khác ở trên đường Đống Đa, cùng bên
và cách nhà tôi mấy căn mà tôi thường gặp nhiều nhất nhưng
chẳng bao giờ hỏi han nhau mặc dù cùng học một lớp Nhất
C là Bích Khuê, em cô Túy Trúc, con gái của cụ Trương
Đôn. Cụ Trương Đôn là một thầu khoán có tiếng ở Nha
Trang, có xe Peugeot 203 màu đen, chiều chiều hay lái ngang
qua nhà tôi. Nhà Bích Khuê kín cổng cao tường. Trên cánh
cổng có dán hình con chó Berger to chàm quàm. Có lần tôi
chọc Luyến (con trai thầy Võ Dự): Mày hay dòm lén vào nhà
nên ông Trương Đôn phải nuôi chó đề phòng mày đó! Không
ngờ tôi chỉ nói chơi mà sau đó, Luyến không thèm đi ngang
nhà Bích Khuê nữa!
Bích Khuê cũng thuộc loại gầy. Da mặt Bích Khuê
ngăm ngăm và đôi mắt hơi tinh nghịch, đen lánh. Chiều nào
Bích Khuê cũng tản bộ qua lại nhà tôi với cô Túy Trúc. Một
hôm thầy Võ Hồng đang ngồi nhâm nhi rượu thuốc với ba
tôi thì hai chị em Bích Khuê tà tà đi qua đi lại. Thấy tôi, thầy
Võ Hồng hỏi đùa:
- Sao em không cùng người đẹp tản bộ?
Má tôi vừa đi ra nghe vậy hoảng kinh:
- Thầy để nó còn học hành chớ quen với mấy cô sao
được!
Thầy Võ Hồng cười khan:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 377
- Bà thầy sao lo xa quá vậy!
Nói xong, thầy cầm ly rượu thuốc cụng ly ba tôi:
- Dzô thầy Sáu!
Đợi ba, má tôi vô trong nhà, tôi nói nhỏ thầy Võ Hồng:
- Thầy không thấy có anh chàng kia đang ngồi trên xe
đạp, nhìn theo hai người đẹp không chớp mắt hay sao mà xúi
con ra để lãnh thẹo? Còn thầy, sao thầy không rủ dì Đỉnh của
con đi dạo mỗi chiều cho vui?
Thầy Võ Hồng vỗ đùi cười:
- Thằng nhỏ nầy ghê thiệt! Thầy cũng rất sợ bị lãnh
thẹo!
Bích Khuê còn có nhiều chị em lắm. Nhỏ hơn cô Túy
Trúc là chị Tường Vân và nhỏ hơn Bích Khuê có Luân, Bích
Hoàng. Bích Khuê còn có hai người bà con là Trương Mỹ
Linh và Trương Mỹ Hoàng ở trong Xóm Mới, cũng xinh xắn,
nhu mì. Bích Hoàng, Mỹ Hoàng là bạn của Thiện, em gái
của tôi.
Nói đến thầy Võ Hồng thì phải nhớ đến người con gái
đầu của thầy: Võ Thị Diệu Hằng. Chắc chắn một điều rằng
Diệu Hằng là một nụ hồng cao nhứt Xóm Mới của tôi. Nàng
thường thắt 2 cái bím tóc, đầu đội một cái mũ trắng và đi học
bằng xe đạp. Tôi không biết là Diệu Hằng vì chiều cao của
nàng hay vì thầy Võ Hồng không có tiền đổi xe cao hơn cho
nàng mà nàng dùng mãi một chiếc xe đạp thấp lè tè. Dù sao
thì Diệu Hằng cũng không giấu được đôi chân dài mà khi ấy
có thể đã làm nàng khó chịu nhưng trong xã hội ngày nay thì
chắc chắn chân dài rất được các chàng trai ưa chuộng!
Tôi rất ít khi thấy Diệu Hằng đàn đúm với ai như đám
học trò chúng tôi, dù là với bạn gái. Nàng như một loài thiên
nga cao cổ duyên dáng qua lại giữa những lao xao. Thầy Võ
Hồng rất gần gũi với gia đình của tôi nhưng chưa bao giờ
Diệu Hằng ghé qua nhà tôi một lần! Và, cả đời tôi, chưa bao
378 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
giờ tôi có dịp nhìn thẳng vô mắt của nàng hay nói với nàng
một câu bình thường dù là vô nghĩa!
Gần đây, ở hải ngoại, tôi mò vào cái site Vietsciences
mới biết được Diệu Hằng là một trong những người chủ
trương chính của cái site nầy. Vietsciences có một nội dung
rất xúc tích và bổ ích, trong đó, chúng ta có thể sưu tầm rầt
nhiều tài liệu về khoa học, y học, văn học, thường thức… và
rất nhiều tác phẩm của thầy Võ Hồng cũng như của nhiều
nhà văn khác. Sau đó, chúng tôi có gởi cho nhau vài cái email
qua lại. Thế thôi. Thế rồi cách nay mấy năm, tôi nhận một
cú điện thoại viễn liên. Người bên kia đầu giây hỏi:
- Biết ai không?
Tôi trả lời, không suy nghĩ:
- Diệu Hằng. Võ Thị Diệu Hằng!
Đúng thiệt là Võ Thị Diệu Hằng. Diệu Hằng kinh ngạc:
- Sao biết hay vậy?
- Vì thấy phone gọi từ Pháp và vì tôi biết Diệu Hằng ở
bên Pháp nên nói ngay như thế.
Tôi bèn trả lời một cách huề vốn.
- Thì biết mà!
Đó là lần đầu Diệu Hằng và tôi nói chuyện với nhau
trong đời.
Một hôm, trong lúc nói chuyện, tôi cho Thầy Tôn Thất
Tuệ biết là tôi có liên lạc với Diệu Hằng, Thầy cho biết:
- Diệu Hằng có học với tôi. Diệu Hằng ngoan, thông
minh và học giỏi lắm. Anh Dĩnh khi nào có dịp nói chuyện
với Diệu Hằng, cho tôi gởi lời thăm hỏi.
Có một điều buồn cười là hồi đó sống gần nhiều người
đẹp như thế mà tôi lại không thân mật với ai (trừ chị Vân
Anh), chỉ nhìn từ xa xa mà thôi. Đó là tôi chưa kể đến một
nàng trong lớp Nhất C của tôi mà hồi đó tôi có cảm tình
nhưng chưa bao giờ dám lại gần để nói đôi lời. Mỗi lần nhìn
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 379
thấy nhau thì mặt nàng bừng bừng đỏ làm tôi cũng ngại.
Huỳnh Tự Tân. Tự Tân dáng dấp thanh thoát pha chút thẹn
thùng, thường đi chung với 2 cô bạn thân là Trần Thị Nguyệt
và Thanh Thủy. Sau 75, Tự Tân qua Mỹ còn Nguyệt và
Thanh Thủy vẫn ở lại trên quê hương, cũng như một đôi bạn
thân khác là Bích Tùng và Thảo. Còn Vũ thị Minh Dung thì
định cư ở Seattle như Bích Khuê, Ngô văn Hóa ở Spokane,
Xuân Hương, Hoàng Anh thì ở Dallas, Như Ý (Thanh Cần)
thì ở North Carolina, Khánh Nhung ở Houston, Thu Hương
ở Las Vegas, Bạch Võ ở Connecticut, ...
Các bạn Nhất C Võ Tánh gặp nhau tại Washington, DC.
Hình chụp trước nhà Nguyễn Ngọc Đức.
Nha Trang là một thành phố của các học sinh hiếu học
nên có nhiều lớp học kèm ban đêm hay cuối tuần. Về Pháp
Văn, Xóm Mới có lớp của Thầy Võ Dự vào cuối tuần, ngay
cạnh nhà ba má của tôi. Xa hơn, ở Phước Hải, có lớp của
Thầy Hoàng Tường. Tôi học cả hai nhưng thích nhất là lớp
của Thầy Hoàng Tường ở Phước Hải. Thầy tổ chức 2 lớp.
Lớp cấp I vào các tối thứ hai và thứ tư. Lớp cấp II, thứ ba và
thứ năm. Nơi học được tổ chức trong nhà của Thầy. Thầy
380 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
dạy về văn phạm rất hay và chính xác nhờ vậy mà học sinh
của Thầy ai cũng vững về Pháp văn.
Trong lớp tôi theo học có Lê Thanh Sơn, cũng học ban
C Võ Tánh nhưng trên tôi 1 lớp. Sơn học giỏi, từng chỉ tôi
viết tốc ký, sau học Luật, đậu vào ngành Thẩm phán, được
bổ nhiệm làm Dự Thẩm tỉnh Ba Xuyên. Trong lớp của Sơn
có ba dì cháu Hồng Ngọc, Bích Đào và Lê Phương, ba người
đẹp của đất Thần Kinh và đều là ba bà chị tinh thần của Sơn
và tôi. Nhà văn đang được độc giả mến mộ nhất hiện nay
(trong đó có tôi) là Phạm Tín An Ninh cũng học Nhất C Võ
Tánh, trước tôi nhưng không biết có chung lớp với Lê Thanh
Sơn và 3 bà chị của tôi hay không thì tôi không biết.
Cũng trong lớp của Sơn có thêm một nhà thơ trẻ, Sương
Biên Thùy với tác phẩm xuất bản thời đó là Nỗi Buồn Nhược
Tiểu. Tên thật của nhà thơ là Lê Văn Chính. Sau nầy, khi qua
Mỹ, Chính làm báo, viết văn với bút hiệu mới là Lê Mai Lĩnh
mà tác phẩm đã được Cộng Đồng Montreal, qua sự giới thiệu
của tôi, tổ chức ra mắt nhiều lần. Sau 75, chị Bích Đào, trong
lần vượt biển, đã gởi thân lại cho biển cả. Một người đẹp
khác của đất thần kinh trong lớp của Thầy Hoàng Tường là
Quỳnh Như Ý. Nàng ít nói, nghiêm trang nên tôi không dám
làm quen, mãi sau nầy gặp lại bên Cali trong những lần họp
mặt tôi mới có dịp chuyện trò. Lớp cấp I thì có Cúc Thanh
Cần, Cúc Mỹ Kim, Cẩm Tâm… và nhiều cô nàng xinh đẹp
khác. Gần nhà Thầy Hoàng Tường là nhà của ba mẹ Thái
Mai Chi. Mai Chi là cháu của nữ sĩ Tương Phố và cũng là
bạn học trong Nhất C với tôi. Một người bạn Nhất C nữa
cũng gần nhà Thầy Hoàng Tường là Bùi Ngọc Thưởng. Sau
Võ Tánh, Thưởng du học bên Úc.
Những người bạn không học lớp đêm của Thầy Hoàng
Tường mà tôi cũng chơi khá thân là Hồ Yêm, Phùng Văn
Nguyên, Nguyễn Ngọc Đức, Võ Luyến, Nguyễn Hoàng
Hiệp, Nguyễn Đức Thạnh… Trước 75, Yêm là Giám học
trường trung học Cao Lãnh và bây giờ vẫn còn ở đó, yên bề
gia thất. Nguyễn Hoàng Hiệp vẫn ở tại Sài Gòn và có tài kinh
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 381
doanh nên trở thành “đại gia”. Đức, Nguyên định cư ở D.C.,
Luyến ở Orlando. Nói chung, bạn nào cũng nhà cửa con cái
đề huề, yên bề gia thất.
Bạn bè thuở Nha Trang của tôi bây giờ mỗi người mỗi
nơi nhưng chúng tôi vẫn nhớ đến nhau, vẫn tìm cách gặp
nhau qua các cuộc họp mặt, khi thì họp mặt trường, khi thì
họp mặt lớp, khi thì họp mặt bỏ túi. Và điều làm tôi ân hận
đến bây giờ là khi Hoàng Ái cùng với Phùng Văn Nguyên
và Nguyễn Ngọc Đức tổ chức họp mặt lớp Nhất C Võ Tánh
65-66 tại D.C., tôi lại không đi dự. Sau đó Hoàng Ái đột ngột
ra đi vĩnh viễn. Nhớ đến Hoàng Ái thì tự nhiên tôi cũng nhớ
đến Cao Đồng Phước. Đồng Phước học trên tôi một lớp, ban
B, từng được mệnh danh là Nữ Hoàng xuống đường năm
1963. Lúc đó thỉnh thoảng tôi cũng đi theo Đồng Phước
trong những lần bãi khóa xuống đường. Đồng Phước có cá
tính sôi nổi, không biết khuất phục trước bạo lực, là một
người ngay thẳng. Than ôi, cũng như Hoàng Ái, Đồng Phước
cũng đã ra đi vĩnh viễn.
Viết về bạn bè tuổi thơ thì viết cả ngàn trang giấy vẫn
còn chuyện để nhớ, để viết, để thương, làm sao hết được, và
thế nào cũng thiếu sót. Tuổi thơ thời trung học là tuổi của
trong sáng, sôi nổi, vui chơi. Ôi Nha Trang của tôi! Ôi, Xóm
Mới của tôi! Ôi Võ Tánh của tôi! Và của tôi bao nhiêu thứ
nữa. Biển xanh. Cát trắng. Hàng dương... Thôi, chỉ còn biết
ngậm ngùi tưởng nhớ trong hạnh phúc, xót xa. Xin chép lại
4 câu trong tập thơ Ngọt Ngào Nỗi Nhớ mà Thủy-Trang và
tôi đã nhờ Sông Thu ấn hành để tạm biệt quý bạn và mong
được gặp lại quý bạn trong một ngày không xa.
Mới đó mới đây mà chừng xa tít
Lưu lạc xứ người ai nhớ thương ai?
Thầy, bạn thân quen, tưởng chừng mất hết
Ta cũng lạc ta… mấy dặm đường dài!
Nguyễn Bá-Dĩnh
Montréal, tháng 9 năm 2021
382 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Duyên Nợ
Nguyễn Thị Kim Anh
Trên con đường đến trường,
ngày này qua ngày khác, nó và mấy
đứa bạn cùng xóm sáng nào cũng í ới
rủ nhau đi học. Cơn gió mùa thu lướt
qua se lạnh, những chiếc lá vàng theo
nhau rơi xuống mặt đường nằm ủ rũ.
Bầu trời còn trong vắt, những tảng mây bồng bềnh trôi trông
như đàn cừu đang cùng nhau gặm cỏ, theo sau là dáng ngưòi
cầm gậy lặng lẽ chăn dắt. Có khi đám mây lại giống như ông
Tiên râu dài có đôi mắt hiền từ nhìn chăm chú vào đàn học
trò ồn ào trên con đường áo trắng. Chỉ cần lơ đễnh một chút,
quay lại đã thấy là một cô gái nằm xõa tóc liêu trai. Các tảng
mây cứ thoắt ẩn thoắt hiện ra bao nhiêu là hình thù kỳ lạ.
Mùa Thu đầy thi vị, dưới chân thềm hoa cúc nở vàng tươi,
đôi chim sẻ ríu rít trong chiếc tổ xinh với mấy cái mỏ non
nớt đòi ăn. Đôi người trẻ tuổi sánh vai nhau trên đường thì
thầm to nhỏ. Vậy mà ở cuối sân, cây phượng già còn ôm ấp
trong lá một chùm hoa nở muộn, lẻ loi mà kiêu kỳ đến lạ. Nó
đưa mắt tìm trong những hàng rào ti-gon hay hoa dạ lý
hương bóng dáng một chú ve nào đó còn sót lại sau mùa hè,
vẫn ẩn nấp đâu đó mà tiếng ve ve cứ ray rứt tiếc nuối suốt
ngày. Bọn bạn nó cứ bưng tai mà nguyền rủa cái tiếng kêu
sao quá đinh tai nhức óc. Nó thì lại thích tiếng ve trái mùa
đến mê muội.
Một buổi chiều, nó đến nhà bạn mượn sách. Tình cờ đi
ngang qua ngôi nhà nhỏ có cây xoài trĩu quả, cũng rất tình
cờ, nó nở nụ cười với cậu trai trẻ đứng trước nhà. Đó là người
mà trước đây nó ghét cay ghét đắng dù cậu ta khá đẹp trai,
nhưng cái đầu nghênh nghênh làm nó ác cảm. Thêm cặp đít
chai đạo mạo và nét mặt khó đăm đăm, thật sự không thể mê.
Ngược lại, nó biết hắn cũng ghét nó không kém vì cái tội xấu
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 383
mà kiêu. Nó chẳng hề chú ý gì đến gã trai lơ ấy. Cũng như
nó chẳng hề chú ý gì đến bọn con trai nói chung. Chỉ là khi
hắn bị tai nạn xe lửa mất hết hai chân thì nó mới thấy mình
vô lý. Sao lại ghét người ta như vậy chứ? Giờ mới mười sáu
tuổi, rồi tương lai sẽ ra sao? Tin dữ truyền khắp xóm, nó cảm
thấy trong lòng thật xót xa, nhưng có thể làm gì được cho
hắn, nó cũng chỉ mới mười sáu tuổi như hắn, vẫn còn cơm
cha áo mẹ , nó chỉ là một đứa con nít không hơn không kém.
Mấy đứa bạn rủ nó vào thăm hắn trong bệnh viện. Nó không
đi vì nó không quen biết. Lũ bạn đi xong về kể lại rằng đã
không cầm được nước mắt. Nó cay đắng "Tao nói rồi mà
không nghe, thăm để an ủi người ta không hết, tụi mày lại
vào để khóc than làm người ta thêm buồn tủi". Trong lòng
nó chợt thấy thương cảm vu vơ. Bẵng đi một dạo, nó ngập
chìm trong sách vở, hàng ngày vẫn đi học ngang qua ngôi
nhà ấy, và dường như quên mất câu chuyện buồn dạo nọ.
Cũng lại một buổi chiều, nó lại về ngang và nghe từ
trong ngôi nhà ấy tiếng đàn buồn vọng ra, nó liếc nhìn và
thấy hắn ngồi trên chiếc xe lăn, gầy gò ôm đàn nghêu ngao
hát. Cũng gương mặt đó, trước đây luôn rạng rỡ, cặp kính
lấp loáng với nụ cười mỉm kiêu ngạo, nay sao u uất vậy. Nó
cúi đầu bước đi mà lòng trĩu nặng. Vậy mà chiều nay, khi
thấy hắn bước ra, tay cầm gậy đang tập bước vụng về trên
đôi chân giả, nó lại mừng vui mà cười với hắn và được hắn
cười đáp lại… Nó bẽn lẽn, tim đập rộn hơn trống trường, gò
má nóng bừng. Tối ngồi xem lại bài vở mà cứ nhớ nụ cười
của hắn, thương cái dáng nhẫn nại khó khăn tập đi trên con
đường cát lún. Sáng hôm sau nó đi học trễ, khi đi ngang qua
dãy lớp C, nó chợt khựng lại khi thấy hắn đang bước vào lớp.
Tự nhiên thấy vui vẻ một cách thái quá. Mỗi ngày nó đều đi
ngang lớp hắn, có khi thấy hắn đứng bên cửa sổ, đôi mắt
buồn sau làn kính trong veo, khi thấy nó thì lại mỉm cười, nó
cười đáp lại, trái tim có chút chông chênh... Mùa xuân năm
đó bà nó mất. Nỗi buồn theo nó đến trường với vành khăn
tang trên mái tóc, nó không nhìn ai, bước đi lặng lẽ, mắt như
384 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
luôn đong đầy nước. Bà là người nó luôn yêu thương nhiều
nhất, từ bé bà đã chăm bẳm, dạy dỗ nó mọi điều. Đi đâu bà
cũng dắt nó đi cùng. Đã nhiều năm bà bị bệnh, phải nằm một
chỗ, đi học về nó lại vào nói chuyện với bà, đút cơm cho bà
ăn, thay quần áo cho bà khi mẹ bận. Giờ bà đã bỏ nó lại, căn
phòng vắng lặng và lạnh lẽo. "Kim." Nó ngập ngừng nhìn
lên, là hắn đang đứng chờ bên hiên, hắn rụt rè đưa cho nó
một tờ giấy xếp gọn, nói nhỏ "Đừng buồn nữa." Nó nhìn
sững vào mắt hắn, đôi mắt dịu dàng và ấm áp biết bao. Nó
đi như chạy lên dãy lầu cổ kính, lớp học còn vắng, nó ngồi
vào chỗ, tay vẫn còn run rẩy. Nó nhìn quanh rồi mở tờ giấy
ra đọc, nét chữ mềm mại như nhòe trước mắt "Năm nay 12
rồi, đừng buồn nữa. Cố gắng học để còn thi đậu chứ. Tương
lai đang chờ phía trước. Bà sẽ mỉm cười khi thấy Kim thành
công trong cuộc đời." Đi kèm với tờ giấy là tấm bảng nhỏ có
tên của nó. Tình cờ hôm ấy là ngày nó được má đưa vào đời,
cất tiếng oe oe vào một buổi sáng trời trong cách đây 18 năm.
Nó cười một mình, nhìn lơ đãng ra ngoài cửa sổ, từ chỗ nó
ngồi nhìn ra ngoài sẽ thấy vòm cây xanh ngắt, những ngày
gió, đôi khi một chiếc lá vô tình bay vào đậu trên mặt bàn
loang dấu mực. Nó đón lấy và tỉ mẩn viết tên mình lên đó rồi
ép vào trang vở. Lũ bạn lại ồ lên trêu ghẹo con nhỏ lãng mạn.
Những ngày mưa, nó đứng nhìn ra sân sau, trên cái máng
nước cũ kỹ, trong chiếc tổ con con, đôi chim sẻ nép vào nhau
tránh những hạt mưa vô tình tạt qua. Bây giờ mới qua tết,
bầu trời luôn xanh trong, nắng lan trên lá cây, trên mái thư
viện ngói còn tươi mới. Nó lại mở tờ giấy ra đọc, ừ, hắn nói
đúng, mình phải chăm chỉ học hành để trở thành cô giáo như
bà luôn mong đợi. Từ đó thỉnh thoảng hắn và nó lại trao nhau
những mẩu giấy nhỏ xíu với rất nhiều câu chuyện. Có khi nó
kèm cho hắn một cái kẹo me hay kẹo cà phê nho nhỏ. Những
lần ấy, bọn con trai lại hò reo giành giật chiếc kẹo bé tí. Có
đứa còn khoác lác rằng được hắn cho ăn kẹo chung. Có đôi
khi hắn bi quan về tương lai của mình vì đôi chân thương tật.
Nó gởi cho hắn một tờ giấy nhỏ vỏn vẹn mấy chữ Vouloir c'
est Pouvoir và một thanh sô-cô-la rất ngọt. Nó vui khi thấy
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 385
hắn cười và ủ ê khi hắn trầm ngâm. Suốt gần một năm học,
hai đứa chỉ trao cho nhau những lá thư tí hon như thế mà
chưa một lần nào nói chuyện. Bạn bè thì cứ mặc định rằng
hai đứa nó bồ nhau. Nó chỉ cười không nói, nhưng mỗi lần
hắn đưa thư nó nhìn thấy ánh mắt hắn đã ít nhiều khác lạ. Có
lần hắn kể cho nó nghe những ngày khó khăn trong bệnh
viện, đó là những phẫu thuật đau khủng khiếp mà hắn đã trải
qua không dưới mười lần. Nỗi đau tinh thần còn dễ sợ hơn
nếu hắn không đủ nghị lực vượt qua. Đó là những ngày tập
đi gian khổ, mỗi bước đi như có ngàn mũi kim đâm vào hai
đầu chân cụt. Hắn còn viết "nhưng giờ thì Linh đã vượt qua."
Nó đọc và đau cùng với hắn, từ thương rồi cảm phuc người
bạn quá nghị lực này. Lần đầu tiên hai đứa thật sự nói chuyện
với nhau là những ngày tập văn nghệ ở địa phương trong dịp
hè. Hắn đàn cho mọi người tập hát một bài trường ca khó.
Nó solo đoạn chính, có hôm mệt hát chẳng ra hơi. Lúc nghỉ
giữa giờ, hắn rót cho nó một ly nước và hỏi nhỏ "Mệt lắm
hả?" "Ừ, mệt." Nó uống vài ngụm nước và đặt ly xuống bàn,
hắn tự nhiên cầm chiếc ly đó và uống hết chỗ nước còn lại.
Nó ngẩn người nhìn hắn, sao lại uống nước thừa vậy chứ?
Sau này hắn bảo chính vì vậy mà hắn đã yêu nó tới già.
Rồi cũng đến ngày ra trường, nó học sư phạm và trở
thành cô giáo. Hắn vào Sài gòn học Mỹ thuật. Những ngày
xa nhau là lúc nhận ra rằng nó nhớ người ta. Hắn viết thư nói
lời thương nhớ. Vậy là mỗi ngày đều viết thư và nhận thư
đến nỗi quen mặt nhân viên bưu điện. Có lần hắn lơ đãng bỏ
lộn thư của nó và má hắn. Lúc nó đem thư xuống nhà lại
nhận được thư của mình từ em hắn. Con bé cười cười làm nó
muốn độn thổ. Cứ như vậy suốt mấy năm trời xa nhau, nỗi
nhớ cứ đong đầy theo thời gian. Hắn thường mở đầu thư
bằng "sparrow, hôm nay có gì vui không..." nó sẽ mỉm cười
và chăm chú đọc. Hắn kể chuyện về quê một cô bạn cùng
học, ba má nàng ngắm nghé hắn làm con rể mà hắn từ chối,
nói là đã có vợ ở nhà rồi. Không biết ông bà có tin không
chứ cái mặt non choẹt mà vợ con cái gì. Nó thừa biết hắn
386 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
đang trêu chọc mình vậy thôi chứ nó biết hắn rất chung tình.
Có lần nó đi học nghiệp vụ, hai đứa gặp nhau vội vã ăn hai
ly kem sầu riêng mát lạnh giữa cái oi nồng của Sài gòn. Đưa
nhau đến thăm dì hắn cũng vội vội vàng vàng rồi nó phải về
lại chỗ học. Sáng mai nó sẽ vẫy chào thành phố này, lại xa
hắn. Mỗi năm hắn chỉ về nhà vào dịp Tết. Nó theo má và
mấy đứa em hắn ra bến xe chờ hắn về, khi hắn từ trên xe
bước xuống, nó chỉ dám đứng sau nhìn hắn qua mấy cái đầu
loi choi của bầy em nhỏ, và rồi ai về nhà nấy, lo phụ Tết với
gia đình. Đến mùng chín tết, hai đứa mới được gặp nhau,
cùng nhau đạp xe dạo biển, hắn cứ nhìn nó hoài làm nó mắc
cỡ. Hai bên đường nhà nào cũng vàng một màu hoa mai, xác
pháo ngập tràn khắp lối đi. Mùa Xuân đang làm lòng nở hoa
tưng bừng hạnh phúc. Hai đứa về nhà hắn, ngồi dưới hiên
nhà ngắm sao trên bầu trời nhờ nhờ tối. Hắn nắm lấy tay nó
làm nó giật mình, hắn hỏi nhỏ "Chờ nhé, hứa đi”, nó không
trả lời. Lâu lắm mới hỏi "Sao lại gọi người ta là chim sẻ?"
Hắn cười "vì nhỏ như chim sẻ, cứ nhảy nhót trong sân nhà
mà không nói gì cả, rồi lại bay mất làm anh phải tìm hoài."
Trước đây hai đứa toàn xưng tên hoặc nói trống không nghe
rất kỳ cục. Kỳ cục nhất là còn vài ngày nữa là rước dâu rồi
nó vẫn để hắn một mình xưng anh, đến nỗi hắn phải ngồi
dưới giàn hoa giấy nhà nó để chờ nó gọi một tiếng anh suốt
mấy tiếng đồng hồ. Nói không ai tin, quen nhau 5 năm mới
dám nắm tay, ngày cưới không dám ôm vai mà chụp ảnh.
Có những tình yêu chỉ nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại rất
sâu đậm. Chỉ cần nhìn nhau là đủ thấy đời tươi đẹp. Chỉ cần
một ánh nhìn đã hiểu được điều người kia muốn nói. Chỉ cần
được tựa vai nhau ngắm hoàng hôn trong tuổi xế chiều đã là
vương giả. Cũng có giận hờn tranh cãi để sau đó lại thấy
thương nhau hơn. Rồi lại thầm cảm ơn ông tơ bà nguyệt đã
cột hai số phận vào nhau và ném xuống dòng đời nhiều giông
tố. Quan trọng là họ đã chịu nắm tay nhau để vượt qua muôn
vàn gian khổ của cuộc đời.
Nguyễn Thị Kim Anh (10/75 Nữ Trung Học Nha Trang)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 387
CHOØM THÔ MÖÔØI TAÙM
Nguyễn Thị Kim Anh
BIỂN MÙA THU
Mùa Thu về rồi trên thành
phố biển
Hàng cây thì thầm hòa nhịp sóng triền miên
Đường chân mây kia biển ngát xanh viền
Bãi cát trắng trải dài trong nắng gió
Mùa Thu ở đây trong thành phố biển
Những nhớ thương gom ở cuối con đường
Những ngày xanh ngan ngát hàng dương
Và buổi tối dòng đèn đường rực sáng
Trời ở đây đã bắt đầu tháng tám
Sóng ngập ngừng những buổi nắng mai lên
Tiếng chim vang trong nhánh lá dịu hiền
Như áo trắng ấm sân trường mỗi sáng.
Ngày đang tới bầu trời trong tháng chín
Phố đông người với nhè nhẹ mây bay
Em đến trường không biết có ai hay
Vô tình để lá bên đường vàng lại.
Bãi cát trắng cùng dã tràng trò chuyện
Mai xa trường chân không nỡ bước êm
Mưa nhẹ bay cũng không thể lãng quên
Mùa thu về rồi trên thành phố biển...
388 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
NGÀY CUỐI
Sáng đến trường con chim hiền quên hót
Bước chân đi trên nệm lá ngỡ ngàng
Đôi bàn tay vẫy một chuyến xe ngang
Hồn run rẩy sợ tháng ngày qua hết.
Sáng rời lớp con chim buồn không hót
Dãy hành lang , bài hát cũ, chân ai?
Khung cửa êm, bàn ghế lặng im hoài
Và đâu đó âm vang đều tiếng guốc
Sáng ra sân mây buồn như vừa khóc
Chiếc lá vàng đậu lại giữa bàn tay
Những nỗi buồn vẫn mãi chẳng nguôi ngoai
Nên đôi mắt nụ cười như héo hắt
Trưa rời lớp cánh cửa hồng khép lại
Phấn bảng sầu còn nét chữ của ai
Ghế bàn kia cùng dấu mực bao ngày
Rồi yên vắng với bụi thời gian đến
Trưa rời trường xa hàng cây thương mến
Con chim buồn cất tiếng hót nồng say
Lần cuối cùng với chiếc lá khô bay
Để mai nữa biết khi nào gặp lại.
------------------------------------------------------------------------
NGẬP NGỪNG
Mùa Thu em qua ngõ Mùa Thu em qua ngõ
Lá nhà anh đi theo Có một người hỏi chào
Nắng hanh vào cửa nhỏ
Trăng dịu dàng đưa gió Tim em run nỗi nào
Tóc bay về mấy chiều
Mùa Thu lại mùa Thu
Mùa Thu em qua ngõ Anh đưa em qua ngõ
Đan tay năm ngón nhỏ
Hoa nhà anh xôn xao Giữ phố chiều mây ru.
Trái tim thầm bỡ ngỡ
Cách ngăn một lối vào
Nguyễn Thị Kim Anh (NTH-HT 10/75) 389
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Yêu em chờ đợi rừng âm u
Lãng đãng trôi qua chiều mịt mù
Em đến khi tim đầy mỏi mệt
Em về cạn hết cả thiên thu!
Mà thôi ai biết đời dài ngắn
Dù cố tập tành thân tĩnh tu
Không có hương bay trên xứ lạ
Sao còn tiếng hát tựa lời ru?
NTTanh
210926
390 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)
Giọt nắng vàng rơi trên tóc ai
Nhìn ra thu thoáng vẻ trang đài
Long lanh hương sữa chiều êm ái
Thắp thoáng bên rừng đôi mắt nai!
Mây thấp thuyền trôi, hồ gợn sóng
Sương mờ chim hót, suối mù phai
Thu về mới quá nên còn lạ
Có tiếng ai cười giữa nắng mai!
NTTanh
210930
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 391
Nguyễn Thị Thanh Điền
Năm tôi vào học lớp Sáu
(Đệ Thất) trường Nữ Trung
Học, giáo sư hướng dẫn lớp tôi
là cô BT. Đến kỳ đệ nhị lục cá
nguyệt thì phải giao lớp cho cô
MN để Cô sinh em bé. Đầu
năm lớp Bảy, Cô trở lại dạy
chúng tôi trong suốt niên học.
Như vậy, lớp tôi đã được Cô
hướng dẫn học tập sinh hoạt
đến ba kỳ lục cá nguyệt của hai
niên khóa nên Cô trò đã có rất
nhiều kỷ niệm vui buồn với
nhau trong suốt thời gian ấy.
Căn nhà nhỏ nhắn của gia đình Cô nằm trên đường Lữ
Gia, nơi tôi thường xuyên đến để phụ Cô làm sổ sách, cộng
điểm, xếp thứ hạng cho các bạn trong lớp. Con trai của Cô
lúc ấy mới chưa đầy một tuổi, tôi vẫn hay bế bồng. Còn Thầy
T, chồng của Cô là giáo viên chủ nhiệm của tôi năm lớp 11
ở trường cấp ba LTT.
Lớp học trò nhỏ hơn năm mươi nữ sinh của tôi hồi đó
rất ngoan hiền, luôn kính nể tôn trọng và ít dám làm cho
Thầy Cô giáo buồn lòng. Những giờ Kim Văn, Cổ Văn, Cô
BT lên lớp giảng dạy, tôi đều hứng thú học nên những bài
luận tôi thường được điểm cao. Thầy Cô giáo thời xưa
thương yêu học sinh và luôn dạy dỗ ân cần. Nhưng tôi nhớ
có một chiều đi trực, tôi và bạn H lỡ ăn xoài trong giờ trực
bị thầy D đi ngang bắt gặp và Thầy đã phê xấu trong sổ điểm,
nên sau đó hễ thấy Thầy D với đôi kính đen bí ẩn ở đâu là
tôi lo chạy trốn!
392 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT