GIAÕ TÖØ...
Nguyên Thanh – NTH 74
Một ngày… bỗng bâng khuâng qua những non nớt vô
tư của tuổi học trò… Không phải bởi nếm vị ngọt mật của
tình yêu đầu đời như trong những áng văn chương lãng mạn,
mà từ những bất an trong cuộc sống đã thôi êm đềm, yên ấm.
Năm ấy, nhìn các chị lớp trên xôn xao với đám tang thầy
HVĐ, lớp đàn em ngơ ngác lo âu nhìn những vòng hoa tang
đặt ở dãy hành lang trắng. Có gì đó như nỗi đau cộng hưởng,
rất mơ hồ nhưng sâu lắng, cả ngôi trường Nữ Trung Học của
chúng tôi chìm trong im lặng. Lớp đàn em năm ấy chưa được
học với Thầy nhưng trong tâm trí học sinh, Thầy Cô luôn có
một vị trí tôn nghiêm, luôn được học trò yêu kính. Tin Thầy
mất là một nỗi đau chung. Vào lớp, chúng tôi lặng lẽ nhìn
nhau, trong mắt Thầy Cô là nỗi đau âm thầm, trong lòng học
trò là nỗi buồn thầm lặng. Lớp học bỗng im ắng lạ thường,
từng giờ học trôi qua chậm, giờ chơi không còn tiếng nói
cười, không còn tiếng guốc gõ lao xao dãy hành lang vắng.
Cũng những
năm ấy, chiến
tranh có mặt
trong thành phố
trên những đoàn
xe GMC chở đầy
binh lính, những
chiếc xe hồng
thập tự chở
thương binh về
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 443
Quân Y Viện Nguyễn Huệ, dồn dập những tin không lành từ
người thân, họ hàng, bạn hữu… Buổi sáng đến trường bất
chợt nhìn thấy vành khăn trắng trên đầu của vài chị lớp trên
để tang cho người thân vừa mất. Chúng tôi bắt đầu biết im
lặng với nỗi bất an thấp thoáng quanh mình và hiện rõ hơn
trong đêm thức học bài, pháo hỏa châu soi sáng một góc trời,
tiếng súng đâu đó vọng về, tiếng xe cứu thương đón Ba dừng
trước cổng nhà lúc nửa khuya và con bé mười ba tuổi lo lắng
nhìn theo Ba vội cầm túi thuốc lên xe để rồi thao thức cả
đêm, hình dung ba mình tất bật cả đêm để cấp cứu cho người
bị nạn. Giấc ngủ của con bé là tôi ngày ấy đã không còn bình
yên nữa.
Hồi ấy, hình ảnh người lính trong mắt những nữ sinh
ngây thơ là những chàng hải quân, quân phục trắng tinh
tươm, những chàng không quân lễ phục sáng ngời, rực rỡ cờ
hoa trong buổi văn nghệ kết giao với nữ sinh trường Nữ,
những chàng lính bộ binh oai phong, kiêu hùng mỗi cuối
tuần về phố. Cho đến sau này, khi chứng kiến những người
lính quân phục đầy bụi bặm chiến trường, những đôi giày
“bốt đờ sô” lấm láp, nhưng khuôn mặt khắc khổ, nước da
đen sạm nắng, súng ống trên vai chen chúc trên những đoàn
xe GMC chạy vội qua trường ngang đường Lê Thánh Tôn,
hắt cả nước bẩn lên tà áo dài của bọn học trò chúng tôi buổi
sáng đến trường. Lúc ấy, đã có khói mây giăng trong đôi mắt
trong veo, đã
len lỏi trong
hồn chúng tôi
cảm giác lo
lắng và sợ hãi.
Hình như
chúng tôi đã
giã từ tuổi thơ
hồn nhiên từ
những năm
tháng ấy để
444 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
những chiều tan học về biết nép mình trú mưa bên hàng hiên
đường Nguyễn Hoàng, lắng nghe những ca khúc Trịnh Công
Sơn vẳng ra từ hàng quán. Đại Bác Ru Đêm, Còn Có Bao
Ngày, Chìm Dưới Cơn Mưa… để đêm đêm nhìn hỏa châu
sáng rực, lắng nghe những tiếng động về đêm, lặng lẽ nghĩ
về điều mới thấy, mới nghe, mang nỗi lo âu mơ hồ vào giấc
ngủ, không biết điều gì sẽ xảy đến đêm nay, ngày mai…
Thời gian ấy không có chút thơ mộng của cái tuổi lẽ ra
đầy hoa mộng. Buổi tan trường của bầy nữ sinh trung học
không còn rộn ràng tiếng guốc, ríu ran tiếng nói cười. Năm
tháng ấy bao phủ đầy nỗi lo âu. Tuổi học trò lớp 9, lớp 10
của chúng tôi thay vào niềm vui, hạnh phúc thơ ngây là nỗi
bất an thường trực trong tâm trí.
Thời trung học của bầy nữ sinh chúng tôi đã qua đi như
thế. Từ đám tang thật buồn của Thầy giáo chúng tôi, từ
những ngày chiến sự tràn vào thành phố biển vốn nhỏ bé,
yên bình như những đám mây đen trên bầu trời trong xanh,
an lành, như cơn sóng dữ giữa hiền hòa biển lặng, đã làm
chúng tôi xao xác, ngác ngơ như bầy chim nhỏ trước biến
động của khu rừng thuở nay vẫn bình yên.
Nguyên Thanh – NTH 74
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 445
ỀỐŨ
Bầu trời chớm hạ đẩy mùa xuân
Cứ thế trang thơ lại nối vần
Dắt díu nhau về thăm chốn cũ
Đi tìm dấu vết những tình thân.
Trường cũ đây rồi bao luyến thương
Đưa chân lùng sục khắp sân trường
Từng ô cửa kính từng mong nhớ
Tưởng tiếng ai cười sau gốc dương.
Thầy Cô bè bạn ở nơi đâu
Thu đến đông đi bạc mái đầu
Rưng rức... mỗi lần thăm chốn cũ
Cung buồn xin gởi tận xưa sau.
Đỗ thị Kim Hải (NTH-72)
446 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Ể
Yêu thương chấp cánh ngút ngàn
Ta bơ vơ bước dưới hàng phi lao
Lặng nghe sóng biển rì rào
Hôn mê cứ tưởng chiêm bao vọng về
Trời khuya lạnh tỉnh cơn mê
Cô đơn trên bãi bốn bề đêm đen
Biển buồn ta gọi tên em
Dấu chân hoang lạnh qua miền cát xưa
Mưa đêm trĩu nặng ngọn dừa
Trong ta giấc mộng cũng vừa vỡ toang.
Đỗ thị Kim Hải (NTH-72)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 447
Hai Chuyená Ñi
Hồ Thanh Bách
San Francisco, 1 tháng 5 năm 1971
Ngày rời San Fran. anh đã để quên con tim…(Đức
Huy)
Năm 1971, tôi, 25 tuổi, được bộ Ngoại Giao Mỹ mời
tham dự chương trình “Du Hành Và Quan Sát Nước Mỹ"
trong 45 ngày.
Tôi được toàn quyền trong việc lập chương trình chi tiết
cho chuyến đi này: đi đâu, gặp ai, ngày nào... Bộ Ngoại Giao
Mỹ chỉ có việc góp thêm chút ý kiến và lo phương tiện.
***
Ngày 15 tháng 3, 1971, có lẽ tôi là hành khách người
Việt duy nhất bước ra khỏi chiếc máy bay Boeing 747 của
hãng Pan Am để đặt chân xuống phi trường Honolulu.
Hôm nay, ngày 1 tháng 5, 1971, sau 45 ngày một mình
lang thang trên đất Mỹ, tôi sẽ rời San Francisco trong vài
tiếng đồng hồ nữa.
448 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Như mọi buổi sáng trong mấy ngày qua, tôi xuống nhà
hàng ở tầng dưới cùng của khách sạn để dùng điểm tâm. Vẫn
không khí ấm cúng. Vẫn mùi café quen thuộc. Vẫn hương
thơm từ những ổ bánh mì nóng hổi. Và nhất là âm thanh
thánh thót qua những bản nhạc cổ điển của Johann Sebastian
Bach: Jesu, Joy of Man’s Desiring; Arioso…
Những hình ảnh, những kỷ niệm, những trải nghiệm vui
buồn... trong 45 ngày qua như một cuốn phim chiếu chậm
đang lặng lẽ quyện lấy hồn tôi. Từ những ngày đầu tiên háo
hức lẫn một chút lo lắng cho đến những giờ phút cuối cùng
trên đất Mỹ với cảm giác đầy bâng khuâng không biết ngày
nào mới trở lại được.
Tôi chưa muốn rời khỏi bàn ăn. Nhưng nhìn lại đồng hồ,
chỉ còn hơn 3 tiếng nữa là máy bay cất cánh, tôi ra hiệu cho
nhân viên nhà hàng đến tính tiền.
Cô tiếp viên, dáng vẻ cao sang, quý phái, khoảng 25 tuổi
và trên một ngón tay, lóng lánh một chiếc nhẫn xinh xắn
chứng tỏ cô đã có chồng: “Sáng nay ông rời nhà hàng sớm
thế!”
“Tôi phải lên phi trường."
“Xin phép, tôi có thể hỏi được không? Ông bay đi đâu?”
“Tôi bay đi Nhật."
“Ông là người Nhật?”
“Không, tôi là người Việt Nam."
Bỗng dưng cô tiếp viên có vẻ chú ý: “Vậy ông có biết
Cam Ranh Bay không?”
“Tôi ở Nha Trang, phía bắc của Cam Ranh Bay. Hai
thành phố cách nhau khoảng 50 km (#30 miles)”
“Nếu vậy, ông không phải trả tiền buổi ăn sáng hôm
nay."
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 449
“Sao vậy? Nếu không trả tiền thì tôi áy náy lắm.”
“Thứ nhất đó là món quà nhỏ vì ông giã từ thành phố
San Francisco, giã từ nước Mỹ của chúng tôi. Thứ hai – cô
tiếp viên tỏ ra hóm hỉnh nói tiếp – là tôi yêu Cam Ranh Bay
lắm.”
Giữa lúc đang bối rối không biết phải xử trí thế nào vì
cô tiếp viên không chịu tính tiền, tôi chợt nhớ trong túi áo
vest có một dây chuyền mà sáng nay tôi quên cất vào valise.
“Vậy thì tôi cũng có món quà nhỏ này biếu cô gọi là để
kỷ niệm “A wonderful morning in May.”
Gương mặt của cô tiếp viên vui hẳn lên nhưng bỗng tỏ
ra ngượng nghịu: “Cám ơn ông về sợi dây chuyền. Nhưng
cũng thú thật với ông, tôi đã 25 tuổi mà chưa hề biết một cái
tên của người Việt Nam. Vậy ông có thể cho tôi biết tên ông
được không? Có gì lạ không so với tên người Nhật, người
Đại Hàn, người Ấn Độ..?”
“Thì cô đã biết tên tôi rồi đó!”
“Ông nói cho vui chứ làm sao tôi biết được tên ông!”
“Tôi đã ăn sáng ở đây 4 ngày rồi.” Rồi với giọng bông
đùa: “Qua âm nhạc tôi đoán chắc là ngày nào cô cũng vô
tình, xin nhắc lại là vô tình, nhớ đến tên tôi!”
Cô tiếp viên, sau một lúc ngây người ra vì bối rối bỗng
òa lên: “Tôi biết rồi. Tôi biết rồi. Tên ông là Bach phải
không!?”
“Cô thông minh lắm. Nhưng có một sự khác biệt tuy nhỏ
mà lớn: Tên tôi, theo tiếng Việt, là Bách – có ý nghĩa là cây
tùng, cây bách: redwood tree – có dấu sắc chứ không phải
như Johann Sebastian Bach, không có dấu sắc."
“Lý thú quá.” Và câu chuyện trở nên bất ngờ hơn khi
cô tiếp viên nói tiếp: “Tôi đã đoán được tên ông rồi. Vậy thì
bây giờ, ông thử đoán tên tôi đi!”
450 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
“Cô làm khó tôi quá. Tôi chỉ mới ở Mỹ 45 ngày, chưa
biết cuộc sống nước Mỹ được bao nhiêu..! OK, cô ép thì tôi
đoán vậy, sai đừng chê nghen... Tên cô là Betty, có đúng
không!?”
“Trời ơi, sao mà ông biết được! Mấy hôm nay ông nghe
người trong nhà hàng gọi tên tôi phải không?”
“Tôi chưa bao giờ nghe người ta gọi tên cô trong nhà
hàng này!”
“Vậy thì sao ông biết được!?”
“Xin Betty đừng hiểu lầm nha. Sở dĩ tôi đoán như thế là
vì Betty là tên “người yêu của tôi!"
Cô Betty có hơi một chút đỏ mặt, hỏi: “Người yêu của
ông cũng có tên là Betty?”
Nhìn đồng hồ, tôi nói: “Câu chuyện hơi dài, nếu cô thích
thì tôi kể tiếp.”
Cô Betty, gật đầu, có vẻ thích thú: “Tôi nóng lòng nghe
lắm. Xin ông hãy nói đi!”
“Ở trường học, sinh ngữ thứ nhất của tôi, lẽ dĩ nhiên là
tiếng Việt. Sinh ngữ thứ hai, bắt đầu khi vào bậc trung học,
tôi chọn, là tiếng Pháp và đến năm đệ tam, tôi, 15 tuổi, bắt
đầu môn sinh ngữ thứ ba, tiếng Anh. Giáo sư Anh Văn thời
đó của tôi, thầy Trương Tiếu Oanh, có khuyên chúng tôi:
“Muốn giỏi Anh ngữ, tốt nhất là theo 3 phương pháp: a- Có
bạn gái hoặc bạn trai có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh. b- Nghe,
học thuộc và hát theo những bài nhạc tiếng Anh. Và c- Viết
nhật ký bằng tiếng Anh. Cứ viết không cần biết đúng hay
sai.
“Trên quê hương tôi lúc bấy giờ, khoảng năm 1961-
1962, hoàn toàn không có nữ giới là người ngoại quốc. Tôi
chỉ còn hai phương pháp: Cố gắng: nghe, học thuộc và hát
theo những bài nhạc tiếng Anh và, kể từ đó tôi bắt đầu tập
tễnh trong việc viết nhật ký bằng tiếng Anh.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 451
“ Cô Betty biết đó, thế là mỗi đêm “my dear Betty” đều
đến với tôi.”
Betty có vẻ thú vị với câu chuyện: “Nhưng tại sao lại là
Betty mà không phải là Bella, Mary, Patricia hoặc
Elizabeth?”
“Tôi được sinh ra đời sau thế chiến thứ hai. Nghe nói,
bên Mỹ hồi ấy, với baby boom generation, nhiều bé gái sinh
ra đời được đặt tên là Betty.
“Một lý do nữa. Đó là chữ Betty tiếng Anh đọc gần
giống hai chữ Bé Tí của tiếng Việt. “Bé Tí” là cái nickname
rất dễ thương, rất thông dụng; có thể trên dưới 20% cha mẹ
người Việt dùng cho con gái của mình.”
Betty: “Tôi rất cảm kích. Tôi cám ơn ông đã cho tôi biết
một vài khía cạnh rất đẹp của văn hóa Việt Nam.”
Bỗng dưng, nét mặt Betty có vẻ xa vắng và ưu tư. Rồi
Betty đột ngột hỏi tôi có một tấm hình nào của Nha Trang
hay không. Ra Đi Mang Theo Quê Hương của tôi là một bức
ảnh bãi biển Nha Trang mà tôi luôn luôn để trong cái ví.
Betty hỏi, tôi có thể tặng cô ấy tấm hình ấy không. Tôi là
người “lịch sự!" chẳng lẽ nói không! Rồi cô ta lại nói: “Điều
này chỉ hy vọng 1% thôi nha. Dieu seul le sait. Nếu có dịp
đến Nha Trang, làm sao tôi có thể gặp Bách?” Tôi trả lời:
“Tên tôi rất hiếm ở Việt Nam. Là người rất thông minh,
Betty sẽ kiếm được tôi!”
Nhìn đồng hồ, tôi nói: “Betty, tôi rất vui khi được
chuyện trò với cô sáng nay. Nhưng đã đến lúc tôi phải lên
đường rồi!”
Betty nói: “Cũng sắp hết giờ làm việc của tôi. Bách, tôi
có thể đưa ông lên phi trường được không?”
Trên đường đến phi trường, Betty có nhã ý, lái xe cho
tôi một vòng, đặc biệt là qua cầu Golden Gate, để chào từ
452 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
biệt thành phố đầy năng động, náo nhiệt nhưng cũng nhiều
đường phố lên đèo xuống dốc này.
Khi xe chạy xuống đường Lombard Street (khúc giữa
Leavenworth St. và Hyde St) Betty nói: “Mai sau, nếu có dịp
ông trở lại San Francisco thì nhớ tìm tôi ở nhà hàng hoặc căn
nhà riêng của vợ chồng tôi đâu đó ở khúc đường này nha.”
Trên đường đi, trong không khí ấm áp của mùa xuân
trên đỉnh bình yên (Từ Công Phụng), Betty bỗng cất tiếng
hát: “If you’re going to San Francisco”, “One Day When we
Were Young”...Và khi chúng tôi đến phi trường cũng là khi
bản nhạc “I Left My Heart In San Francisco” vừa chấm dứt..
Trên sân ga phi trường San Francisco chúng tôi đã ôm
nhau giã từ. Một vòng ôm của tình bạn hoàn toàn thanh khiết.
Muôn vàn cảm xúc dâng lên trong lòng tôi khi nghĩ lại
thời gian một tháng rưỡi vừa qua. 45 ngày, tôi một mình lang
thang trên đất Mỹ, đã có mặt trên sóng nước sông Mississippi
ở New Orleans; có dịp ngắm thác nước Niagara hùng vĩ từ
chiếc cầu biên giới giữa Canada và Mỹ; được đặc biệt thăm
viếng một phần của tòa nhà Tòa Bạch Ốc cũng như được đặc
biệt thăm viếng phòng chỉ huy của Cape Canaveral, nơi đã
phóng phi thuyền Apollo 11 để đưa Neil Armstrong, người
đầu tiên của nhân loại, đặt chân xuống mặt trăng năm 1969...
Bốn mươi lăm ngày đã qua đi như một giấc mộng, tràn
ngập những vui buồn. Có những lúc phải lo âu nhưng phần
lớn thời gian, có thể nói, tôi đã được hưởng nhiều giây phút
ngất ngây, hạnh phúc...
Vào khoảng 1 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 5 năm 1971 tôi
rời San Francisco trên chuyến bay nonstop của hãng hàng
không Japan Airlines để hướng về Tokyo, Nhật Bản.
Từ trên cao nhìn xuống thành phố San Francisco đang
rực rỡ trong nắng chiều, lòng tôi như thầm nghe giọng hát
của Kim Tước “Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm khi heo
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 453
may về, lòng khách tha hương vương sầu thương..(Giấc Mơ
Hồi Hương – Vũ Thành)” như đan quyện với giọng hát của
Betty “I left my heart in San Francisco. High on a hill, it
calls to me... Above the blue and windy sea... Your golden
sun will shine for me…”
Chuyến bay nonstop của hãng hàng không Japan
Airlines cần 11 tiếng đồng hồ để đưa tôi từ bên này bờ Thái
Bình Dương qua đến bờ bên kia của cùng đại dương!
Tôi đến Tokyo vào một buổi chiều dịu nắng, 5 giờ chiều,
ngày 2 tháng 5.1971. Từ trên máy bay, nhìn xuống, một cảnh
lạ hiện ra: những mái nhà của Tokyo thật là đặc biệt, đa số
có màu xanh da trời (dark blue), một điều kỳ lạ, hiếm hoi
nhưng rất đẹp.
Trong mấy ngày ngắn ngủi tôi đã có dịp thăm viếng vài
nơi danh tiếng của Tokyo: Hoàng Cung, nơi vua Nhật cư
ngụ; hai trong số những ngôi đền nổi tiếng nhất của Tokyo:
Meiji Shrine và Sensoji Temple; khu Ginza sầm uất; tháp
Tokyo Tower; Tokyo's Kabukiza theater; cũng như một hộp
đêm nơi mấy nàng Geisha – mặc áo kimono quốc hồn, quốc
túy – mời gọi khách du lịch chơi trò chơi oẳn tù tì (hoàn toàn
có tính cách giải trí, lành mạnh)... Ai thua, phải cởi áo. Nếu
Geisha thua, Geisha phải cởi áo. Thua đến đến 10 lần, phải
cởi áo 10 lần, họ vẫn còn áo! Chờ mỏi con mắt, vẫn không
được rửa mắt…!
Năm ngày sau khi đến Tokyo tôi đành nói Sayonara với
thành phố này. Lần này mi tôi không ướt vì tôi đang về lại
với quê hương Việt Nam. “Sayonara, Japanese goodbye.
Whisper sayonara but you mustn't cry… Irving Berlin.”
Sau 45 ngày ở Mỹ và sau 5 ngày ở Nhật, tôi chỉ học
được một điều: sự quan trọng của ngành du lịch. Đất nước
chiến tranh. Mộng ước không thành... Thời gian cứ trôi...
454 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nha Trang, một vài ngày tháng cũ (1971-1972)
Có những niềm riêng làm sao nói hết...(Lê Tín Hương)
Chiếc máy bay của Vietnam Airlines, bay về Sài Gòn
ngày hôm đó, chỉ có 13 người khách!
Sau khi rời Tokyo khoảng nửa tiếng, tiếp viên hàng
không thông báo cho hành khách biết: “Núi Phú Sĩ đang ở
phía bên mặt của quý vị."
Một nữ tiếp viên xinh đẹp tiến đến, hỏi tôi: “Ông thấy
núi Phú Sĩ có đẹp không?”
“Đẹp lắm nhưng người thì xinh hơn.”
Cô tiếp viên có vẻ khó chịu.
“Nghe tiếng nói, tôi nghĩ cô là người Nha Trang; có thể
là cựu nữ sinh Nữ Trung Học Nha Trang?”
Cô tiếp viên mỉm cười: “Rất có thể"
Biết đâu, người đẹp năm xưa, giờ này, 2021, đang ở Úc
Châu! Nếu đúng vậy, xin gởi lời thăm và chúc sức khỏe.
***
Trong thời gian ngắn ngủi tôi xa quê hương, nơi tôi đã
lớn lên thời tiểu và trung học, Nha Trang có nhiều chuyển
động lớn về phương diện hành chánh. Có thể có ý tốt: mong
muốn cho Nha Trang trở thành một thành phố văn minh hơn.
Có thể có một ý muốn khác: tập quyền.
Tôi trở lại Nha Trang, vào giữa tháng 5.1971, khi thành
phố này đang thay hình đổi dạng. Thị xã Nha Trang đang
trên đường được thành lập và biến thành một thị xã độc lập
(về phương diện hành chánh, tách biệt với tỉnh Khánh Hòa);
có hai quận: Quận 1 và Quận 2.
Vào giữa tháng 6.1971 tôi được bổ nhiệm làm Phó Quận
Trưởng đầu tiên của Quận 1 (anh Nguyễn Bá Cường làm Phó
Quận 2)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 455
Thế là tôi "được” trao quyền để giải quyết hết mọi việc.
Lẽ dĩ nhiên, trừ những việc có tính cách “nhạy cảm."
Từ “không không” biến ra “sắc sắc", việc thành lập và
điều hành một cái quận mới toanh không phải là chuyện dễ!
Căng thẳng về tinh thần. Mệt mỏi về thể xác.
Sau khoảng hai tuần lễ, vào một ngày dễ nhớ, ngày song
thất, 7.7.1971, giữa lúc đang họp với một số nhân viên, tôi
bỗng bị mất tiếng. Tiếng nói của tôi chỉ có thể nghe được
trong vòng 50 cm. Tôi sợ vô cùng! Ôi, tôi có thể bị tàn phế
suốt đời sao! Cũng may, sau hai tuần, tiếng nói của tôi bắt
đầu trở lại.
Một buổi sáng, một nhân viên vào văn phòng nói với
tôi, có một phụ nữ muốn vào gặp. Rồi một phụ nữ trẻ, đầu
đội khăn tang xuất hiện. Ngẩng nhìn lên, tôi sững sờ:
“BV...?” Vâng, người ấy chính là BV, em gái của ĐĐ, bạn
tôi và là con gái của thầy ĐT dạy Pháp Văn, người thầy đã
dạy cho tôi bài thơ rất trữ tình “Mignone, allons voir si la
rose, qui ce matin avait déclose… Pierre de Ronsard.”
Vẫn còn sững sờ khi nhìn cái khăn tang trên đầu BV,
giọng tôi đầy cảm xúc: “BV…?”
BV, mắt ngấn lệ, không cần xã giao gì hết – như khi vẫn
còn ở tuổi học trò, bao giờ BV cũng dùng chữ “ông" để nói
chuyện với một người bạn khác phái – : “Ông ký cái giấy
này cho tôi!”
Trời ạ! “Cái giấy này" là cái giấy khai tử của chồng BV
(Chồng BV, phi công trực thăng, vừa tử trận ở Hạ Lào trong
cuộc hành quân Lam Sơn đầu năm 1971).
Trong “cuộc đời" làm phó quận của tôi, tôi đã ký hàng
ngàn bản sao giấy khai tử. Mỗi lần phải ký những giấy tờ
như thế là mỗi lần cảm thấy con tim đau nhói. Nhưng đây có
lẽ là lần oái oăm nhất, là lần đau khổ nhất! BV, em gái của
một người bạn của tôi, là con của một thầy giáo của tôi và
456 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
cũng có thể là bạn học của tôi ở lớp Pháp Văn ban đêm ở nhà
thầy Hoàng Tường!
Một ngày khác, có một thanh niên tên T., cầm một lá
đơn của thầy Ngô Đức Diễm, đến xin tổ chức một đêm văn
nghệ trong một villa ở cạnh sân tennis, trước trường Nam
Tiểu Học Nha Trang. Tôi được mời như một khách danh dự.
Sau Tú Tài 2, tôi đã xa thành phố này có đến 7 năm rồi
nên chi không được biết những khuôn mặt mới nổi. Chỉ nhận
ra L. – một người đẹp mà tôi hân hạnh có chút quen biết năm
xưa – lúc ấy đang là sinh viên ở Đà Lạt. Đêm ấy, L. hát bản
“Gọi Người Yêu Dấu...Vũ Đức Nghiêm." Thật hay! Thật
xuất sắc. Dường như những người đẹp, như Mai Ngân Khố,
như Nhung Nhật Bản... đều biết hát bài đó. Và cả hai người
đẹp này đều hát thật hay. (Nhân đây, cũng xin cám ơn Hòa
Diên và anh Tuấn đã có nhã ý đón tiếp vợ chồng chúng tôi
nhân dịp chúng tôi ghé thăm vùng Washington DC vào cuối
tháng 10.2005. Nhớ mãi giây phút Hoa đã khóc khi bất ngờ
được các bạn mừng sinh nhật bằng 55 đoá hoa hồng màu
vàng tuyệt đẹp. Nhớ mãi giọng hát điêu luyện của anh Tuấn
với bản “Paris Có Gì Lạ Không Em?" Và cũng nhờ buổi hội
ngộ đó mà chúng tôi được gặp lại nhiều bạn bè của một thời
hoa mộng: Hiếu Anh, Khánh Linh, Phố - vắng em rồi – , ...
và vợ chồng L., người đã hát “Gọi Người Yêu Dấu" 34 năm
trước!)
***
Thời gian làm Phó Quận 1 của tôi ở Nha Trang kéo dài
không lâu. Đầu năm 1972 tôi được bổ nhiệm giữ chức
Trưởng Ty Kinh Tế thị xã Nha Trang. Người kế nhiệm tôi ở
Quận 1 là anh HQV.
Tháng 9.1971 tôi thi đậu và vào học cao học QGHC ở
Sài Gòn tháng 11.1972.
Xa Nha Trang, đến nay, tôi chỉ có một điều hối tiếc.
Trong thời gian gần 2 năm làm việc trên quê nhà tôi đã không
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 457
có dịp ghé thăm những thầy cô mà tôi hằng quý mến: cô
Đoàn Thị Thu Cúc, Tổng Giám Thị Trường Nữ Trung Học
Nha Trang, thầy cô Bùi Ngoạn Lạc và nhiều nữa...
Xin quý Thầy Cô tha thứ cho con điều sơ suất đó. Thời
gian ấy, con phải lo việc hôn nhân, phải chịu nhiều áp lực
của công việc và phải lo học để thi vào cao học. Thi thì phải
đậu. Ít nhất con cũng đã thành công trong việc đó.
San Francisco, 1 tháng 5 năm 2021
Năm (mươi) năm rồi không gặp. Từ khi... (Phạm Văn
Bình – Phạm Duy)
Thật ra trong 50 năm qua, kể từ khi rời xa San Francisco
lần thứ nhất vào ngày 1 tháng 5, 1971, tôi đã có rất nhiều dịp
trở lại thành phố này.
Lần thứ nhất, vào năm 1987, sau cuộc đổi đời 1975 và
sau khi định cư trên quê hương thứ hai, Cộng Hòa Liên Bang
Đức.
Rồi từ dạo ấy đến nay – nhất là kể từ 10 năm nay – sau
khi chọn nước Mỹ làm quê hương thứ ba để đoàn tụ gia đình
với gia đình con trai cũng như gia đình của hai em tôi, Thiệp
và Phong, tôi đã có rất nhiều lần quay trở lại San Francisco.
Trong những lần trở lại thành phố này, chủ yếu là vợ
chồng tôi đưa hai cháu Ella và Becket đi dạo hoặc tập đi xe
đạp trên Crissy Field, đi thăm sở thú San Francisco, đi thăm
Bay Area Discovery Museum, California Academy of
Sciences, Morrison Planetarium…
Chỉ thỉnh thoảng lắm, chúng tôi mới có cơ hội đi đến
khu buôn bán ở Union Square hoặc đi ngoạn cảnh. Không
phải là không có thì giờ. Nhưng có thể nói rằng “cái thời
thích shopping" không còn nữa!
Rất nhiều lần, khi đang đi trong thành phố ấy, tôi đã nghĩ
đến người phụ nữ năm nào, đã muốn đến thăm lại cái nhà
hàng năm xưa, nơi tôi đã có buổi ăn sáng cuối cùng trước khi
458 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
rời nước Mỹ sau 45 ngày một mình lang thang trên đất nước
mênh mông và xinh đẹp này.
Trong nhà hàng đó, tôi và Betty đã gặp nhau, làm quen
với nhau...Nhưng kể từ ngày ấy, không hiểu vì lý do gì, chưa
bao giờ nhận lại được bất cứ tin tức gì của nhau.
Trong tất cả các lần trở lại San Francisco, trở lại cái
thành phố mà “If you're going to San Francisco. Be sure to
wear some flowers in your hair...“, bên cạnh tôi bao giờ cũng
có vài người thân. Tôi rất vui và hãnh diện về điều này. Vì
thật sự hai đứa cháu của chúng tôi, Ella và Becket, về tình
cảm riêng tư, quả thật là những bông hoa tuyệt diệu. Nhưng
cũng phải xác nhận là điều đó, phần nào, là một lý do khiến
cái tình cảm của tuổi đôi mươi, cái trái tim lãng mạn của tôi
50 năm về trước không thể vượt qua được cái thực tế “anh
tay bế, tay bồng..."
Lòng hẹn lòng, rồi sẽ có một ngày. Nhà tôi, Hoa, cũng
khuyến khích tôi điều đó.
Năm nay, vì đại dịch Covid-19, San Francisco không có
Lễ Hội Hoa Anh Đào, Cherry Blossom Festival, vốn dĩ
thường được tổ chức vào tháng tư.
Nhưng ngày 1 tháng 5, 2021 Hoa vẫn hồng trước sân
nhà tôi. Chim vẫn hót sau vườn nhà tôi. Giọt nắng bâng
khuâng… Thanh Tùng.”
Nắng xuân sưởi ấm tình người. Với sự khuyến khích của
Hoa, tôi đã một mình lái xe lên San Francisco để sống lại cái
cảm giác “một chiều lang thang bên dòng Hương Giang...
Hoàng Nguyên.”
Sau khi đậu xe dưới hầm trong một parking gần Macy's,
tôi đi đến công viên Union Square rồi từ đó hướng về nhà
hàng năm xưa.
Phải nói là những bước chân của tôi mỗi lúc một chậm
hơn. Những bước chân như có vẻ ngại ngùng với những thực
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 459
tế – biết đâu rất ngỡ ngàng – có thể sắp diễn ra!
Xa xa, nhà hàng ấy đã hiện ra.
Ngày xưa còn có thể nói có chút quen biết.
Ngày nay “có gặp ai không để đợi chờ… Trần Tú
Xương.”
Nhà hàng, bên ngoài trông có vẻ như xưa. Vẫn vách đá
màu đen cổ kính như đại đa số những ngôi nhà bề thế ở khu
trung tâm này của thành phố. Vẫn những mái che có hình
cánh dù bằng vải màu đỏ.
Hiện nay, vì Covid-19, phần lớn thực khách chọn ngồi
bên ngoài, trên lề đường, dọc theo nhà hàng.
Nhờ vậy, bên trong nhà hàng còn nhiều chỗ trống và tôi
có thể chọn ngay cái bàn mà đúng ngày này, trước đây 50
năm tôi đã ngồi để có buổi ăn sáng trước khi lên phi trường.
Một sự trùng hợp kỳ lạ: 1 tháng 5, 1971 là một ngày thứ
bảy.
Năm mươi năm sau, 1 tháng 5, 2021 cũng là một ngày
thứ bảy.
Ngày và tháng không thay đổi. Nhưng số năm thì đổi
thay.
Và quanh tôi cũng như trong tôi có thật nhiều thay đổi.
Nền nhà của nhà hàng trước đây được lót gạch bông.
Nay được lót bằng gỗ cây sồi. Bàn ghế bằng gỗ thông trước
đây nay được thay thế bằng gỗ bạch dương trông có vẻ sang
trọng hơn. Âm thanh từ những chiếc radio trước đây nay đã
được thay thế bằng âm thanh nổi và hình ảnh từ những chiếc
HDTV phẳng thật to được treo trên nhiều góc của nhà hàng...
Năm mươi năm trước, tôi còn là một chàng trai tuổi 25,
trẻ trung, yêu đời, mộng mơ, nhiều lý tưởng...Năm mươi
năm sau, tôi, tuy chưa từng được gọi là "cụ" nhưng được gọi
460 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
là “chú" hoặc là “bác" khá là nhiều!
Tuy vẫn tự nhủ “mọi sự đều là sắc sắc không không" tôi
vẫn không thể giữ cho tâm hồn khỏi lâng lâng, vẩn vơ khi
vừa ăn sáng vừa nhớ đến cảnh cũ người xưa.
Những âm thanh và hình ảnh đang được phát ra trên các
màn ảnh truyền hình vẫn không vào được tai tôi, vẫn không
vào được mắt tôi. Trong tôi những âm thanh bài Ave Maria
hoặc Brandenburg Concertos No.6 trong Mood Bach -sáng
ngày 1 tháng 5, 1971 tôi đã được nghe trong nhà hàng này-
đang vọng về, thánh thót và êm đềm.
Trái tim tôi vẫn còn mong manh lắm. Vẫn còn có thể
thổn thức với những ký ức mờ nhạt.
Trong màn sương khói hão huyền ấy bỗng nhiên có
tiếng hỏi của cô tiếp viên: “Ông có muốn dùng thêm gì
không ạ?”
Ngẩng mặt nhìn về hướng phát ra tiếng nói, tôi bỗng
đứng bật dậy, đứng khựng vài ba giây rồi thốt lên: “Betty!
Betty…! Ôi, đây có thể là sự thật sao?!”
Tôi đã không thể tin nổi vào đôi mắt của mình khi nhìn
thấy dây chuyền cô tiếp viên, khoảng 50 tuổi, đang đeo trước
ngực. Cái dây chuyền bằng gỗ cây bách (redwood) mà tôi đã
mua ở công viên Muir Woods National Monument và “tình
cờ" tặng cho Betty ngày lìa xa San Francisco 50 năm trước!
Đến phiên cô tiếp viên ngạc nhiên: “Ông... Ông biết tên
mẹ tôi?”
“Betty... Betty, mẹ cô?” “ Chiếc dây chuyền... Chiếc dây
chuyền cô đang đeo trên cổ...”
Cô tiếp viên: “Ông tên là Bách?”
Đến phiên tôi giật mình: “Cô biết tên tôi?"
Cô tiếp viên: “Xin ông đợi cho một chút."
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 461
Thế rồi cô tiếp viên quay lưng bước về phía bàn làm
việc của cô ta. Một phút sau cô quay lại.
Cô tiếp viên: “Ông đọc cái này đi.” Cùng lúc cô đưa cho
tôi một cái postcard đã phai màu.
Tay tôi run lên khi nhìn thấy bức hình trên cái postcard.
Nào ai có thể đoán được bức hình trên cái postcard hình
gì?
Dù “Màu thời gian không xanh” (Đoàn Phú Thứ), thời
gian cũng đã làm loang lỗ nhiều nơi trên tấm hình đen trắng.
Nhưng “Hương thời gian thanh thanh” cũng còn cho phép
tôi nhận ra đó là bãi biển Nha Trang!
Không biết bằng cách nào (hồi ấy, năm 1971, kỹ thuật
về hình ảnh còn rất thô sơ) mà Betty đã lấy cái hình Nha
Trang ấy của tôi và phóng lớn lên làm postcard.
Màu trắng trên mặt sau của cái postcard đã biến thành
màu vàng ối cũ kỹ. Nét mực đã phai màu khá nhiều qua thời
gian. Nhưng những dòng chữ vẫn hiện ra và vẫn còn đọc
được: “Cam Ranh Bay 7.7.1971 – My beloved Katie, Hôm
qua sau khi gọi điện thoại thăm con, Mẹ đã gọi cho Ba con.
Sáng nay Mẹ sẽ đi thăm Ba con ở Pleiku bằng máy bay trực
thăng. Mẹ sẽ ở với Ba con 7 ngày. Tuần sau nữa Mẹ sẽ bay
ra Nha Trang để thăm ông Bách, người đã đến ăn sáng ở nhà
hàng – khách sạn của mình vào cuối tháng 4, đầu tháng 5
vừa qua. Con ở nhà vui khỏe nha. Mẹ sẽ về với con trong
khoảng 10 ngày nữa. Hôn con ngoan của Mẹ. Betty.”
Như thể đọc được những thắc mắc hiện lên trên khuôn
mặt của tôi, Katie, hay là cô tiếp viên, giờ đây ngồi đối diện
với tôi, lên tiếng: “Thế rồi Mẹ tôi lên máy bay trực thăng
sáng ngày hôm đó. Nhưng thảm kịch diễn ra thật là bất ngờ.
Máy bay gặp trục trặc kỹ thuật sau khi qua khỏi thành phố
Nha Trang khoảng 20 phút. Phi công cố gắng đáp xuống trên
quốc lộ số 1. Cách mặt đất khoảng 100 feet (khoảng 30 mét)
462 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
thì không còn giữ được thăng bằng và phi cơ đâm nhào
xuống đất! Đồng hồ trên chiếc máy bay lâm nạn chỉ đúng 10
giờ sáng.
“Mẹ tôi qua đời. Xác được đem về San Francisco 10
ngày sau đó. Thế là tôi bị mồ côi Mẹ từ khi 10 tháng tuổi.
“Ba tôi là đại úy, bác sĩ quân y; hồi đó đóng quân ở thành
phố Pleiku. Mẹ tôi là sinh viên y khoa sắp ra trường vào
những ngày gặp ông ở nhà hàng này. Gia đình Mẹ tôi là chủ
của khách sạn – nhà hàng mà ông đang ngồi ở đây và là một
gia đình tương đối có danh vọng ở thành phố này. Chính vì
thế mà Mẹ tôi, sau khi tốt nghiệp y khoa, được ưu ái đi Việt
Nam, dùng máy bay bay đến tiền đồn để thăm Ba tôi. Không
ngờ…
“Khi còn sống, Mẹ tôi vẫn thường ra nhà hàng này để
làm việc vào những ngày cuối và đầu tháng. Lớn lên, bắt đầu
với tuổi 15, tôi cũng theo gương làm việc của Mẹ tôi. Chính
vì thế mà ông gặp Mẹ tôi năm xưa và ngày hôm nay, gặp tôi
ở đây.
“Mẹ tôi có kể cho cả nhà nghe về câu chuyện kỳ thú,
qua đó Mẹ tôi và ông đã quen nhau vào ngày 1 tháng 5, 1971.
“Cái dây chuyền bằng gỗ bách mà tôi đang đeo là một
trong những di vật người ta tìm được từ nơi máy bay rơi. Tôi
cất giữ chiếc dây chuyền trong hộc tủ cái bàn làm việc của
tôi trong nhà hàng này. Mỗi lần ra đây làm việc, tôi đều lấy
chiếc dây chuyền ra mang lên người. Xem như là kỷ vật của
Mẹ tôi để lại.”
Katie và tôi cùng một lúc ngước mắt nhìn nhau. Hai đôi
mắt đều ngấn lệ.
Katie nhớ đến người Mẹ thân yêu của mình tuy rằng thật
sự, Katie có Mẹ chỉ trong vòng 10 tháng. Và tôi, nhớ đến
một người quen rất thân tuy rằng chưa quen biết nhiều.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 463
Khi chia tay, Katie đã nói: “Ông Bách, ông hãy hứa đi,
hứa rằng ông sẽ quay lại nơi này. Gia đình tôi sẽ hân hoan
chào đón gia đình ông.” “Vâng, tôi hứa với Katie. Tôi và gia
đình sẽ đến đây mỗi khi có thể và nếu đến, sẽ đến vào ngày
đầu tháng!”
Từ bên này đường Powell Street, tôi bâng khuâng nhìn
qua công viên Union Square. Những tấm bảng quảng cáo
thật là vĩ đại của những đại công ty ngày nào như Pan Am
hoặc TWA giờ đây không còn nữa! Những ban nhạc phản
chiến đã từng tụ họp ở công trường này để hát “Where Have
All the Flowers Gone?” – giờ đây cũng tự biến thành
“Where have all the flowers gone? Long time passing.
Where have all the flowers gone? Long time ago…”
Vật đổi sao dời. Thời gian vẫn âm thầm, lặng lẽ trôi theo
dòng đời. Và trong tôi lại có thêm một người thuộc về
“những người trăm năm cũ…”
Ra khỏi parking, với tâm trí lan man tôi không biết nên
lái về hướng nào. Và chiếc xe tiến đến đoạn đường nổi tiếng
Lombard Street lúc nào tôi chẳng biết. Những đóa hoa tú cầu
(hydrangea) của ngày xưa, hôm nay, vô tình, vẫn đang khoe
sắc trong nắng mai nhắc nhở cho tôi rằng nhà của Betty nằm
ở đâu đó trên đoạn đường này.
Khi xe qua cầu Golden Gate, mắt tôi ướt. Có thể do hơi
nước từ trùng dương thổi về. Nhưng có phần chắc, lòng tôi
đang đắm chìm trong giọng ca êm ái, cao vút nhưng rất mơ
hồ của Betty: One day when we were young. That wonderful
morning in May. You told me you’ve known me. When we
were young one day. (Johann Strauß II & Oscar
Hammerstein II) “Ngày ấy khi Xuân ra đời. Một trời bình
minh có lũ chim vui. Có lứa đôi, quen nhau rồi. Hẹn rằng
còn mãi không nguôi…Phạm Duy”
Hồ Thanh Bách (Võ Tánh 1957-1964)
464 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Taâm söï
vôùi thôøi gian
Thái Diệu Nga (NTH 69)
Chuyện thời gian là chuyện dài
nhiều tập làm sao kể hết vì thời gian
có bao giờ ngừng lại và dòng đời vẫn
âm thầm lặng lẽ trôi theo năm tháng.
Cho đến hôm nay, chiếc đồng hồ treo
tường trong nhà mỗi ngày vẫn cho tôi
tiếng “tích tắc” và ngôi trường thân
yêu của tôi nay đã có tuổi đời đến
mốc sáu mươi năm… Đám học trò
ngày xưa đã không còn trẻ nhỏ nữa,
mái tóc, làn da đã thay đổi theo thời
gian, và thầy cô cũng dần dần rơi rụng. Lá trên cây có xanh
tươi rồi cũng có lúc lá vàng, cơ thể chân tay theo tuổi đời
cũng bắt đầu thay đổi, yếu dần, không còn ngoan hiền hoạt
động theo ý muốn của mình, như chiếc lá khô héo, sắp lìa
cành. Chúng ta có muốn níu kéo thời gian cũng không được
vì thời gian qua đi sẽ không bao giờ trở lại. Nào ai có thể
mua được thời gian dù họ là bậc đế vương, tiền bạc trong tay
tiêu xài không bao giờ hết, hay oai hùng dũng mãnh, nhiều
quyền lực, uy thế nhất trên thế gian này cũng đành khuất
phục trước bước đi dần về phía trước của dòng thời gian.
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 465
Mùa xuân qua đi, mùa hè lại đến, thời gian tiếp nối, dòng
đời không ngừng trôi, mà đời người lại không dài lâu --- một
trăm năm là mấy nhưng mấy ai có được. Sáu mươi, bảy mươi
cũng là một may mắn cho một kiếp người. Thương quá là
thương và nhớ ôi là nhớ khi ở tuổi gần đất xa trời, tôi được
sống lại với những kỷ niệm của tuổi thơ như là tuổi đẹp nhất
của mình, và hy vọng đúng như có câu nói: “nếu trong suy
nghĩ của chúng ta vẫn có những ký ức của tuổi thơ thì tâm
hồn chúng ta sẽ không bao giờ già đi.”
Ngày qua ngày, hết sáng đến tối, tôi phải đối diện với
bao công việc lo toan trong cuộc sống. Nếu ngày xưa miệt
mài thi nơi trường học thì khi lớn lên ra khỏi trường, chúng
ta cũng phải thi nơi trường đời . Ngẫm nghĩ lại tôi càng thấm
thía nhiều về những dấu ấn thời gian của mỗi đời người qua
những thay đổi về thể chất cơ thể, tinh thần, tâm lý với nhiều
kỷ niệm đậm nét trong đời. Tuổi hoa niên, tuổi trung niên và
tuổi lão niên là những lứa tuổi ai cũng phải trải qua, nhưng
số phận mỗi người mỗi khác để rồi cuối cùng ai cũng đến cái
đích phải buông bỏ tất cả để mong tìm cho mình một sự bình
an trong tâm hồn, được sống vui, sống khỏe, kéo dài tuổi đời
với niềm vui bên con cháu. Ngày xanh đã theo thời gian qua
mất rồi, nhưng ở tuổi lão niên, trí nhớ lại ghi rõ những hình
ảnh với kỷ niệm ngày xưa rõ ràng hơn bao giờ hết. Thật là
hạnh phúc, ấm cúng biết bao khi trong đời có những ngày
tháng nhàn nhã ngồi ngắm bao hoa tươi khoe sắc nở rộ trong
vườn hay vào buổi chiều tà thả bộ bên dòng sông nhìn những
đám mây trôi lững lờ ở cuối chân trời và mỉm cười với thời
gian.
Tôi nhớ nhiều nhất về những kỷ niệm khi còn được sống
chung với gia đình có cha mẹ, anh em trong cùng mái gia
đình.Tôi thèm lắm những ngày xưa ấy, ngày có Cha, có Mẹ
bên cạnh, những người thân yêu nhất đời tôi giống như bao
người cha, người mẹ khác đã thương yêu con cái, dìu dắt và
nâng đỡ cho con ăn học để có một ngày mai tươi sáng. Tôi
nhớ lắm, nhớ và ước làm sao có lại được những bữa cơm
466 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
thân mật đông đủ những thành viên của gia đình, rạng rỡ
quây quần vui vẻ bên mâm cơm mà giờ đây hình ảnh ấy như
là giấc mơ xa vời. Tôi thương mẹ tôi, người phụ nữ truyền
thống nề nếp, sống vì chồng vì con. Tôi quên sao được nét
mặt lo âu của mẹ tôi mỗi khi con cái bị bệnh, hay vẻ mặt hớn
hở, trìu mến, vui mừng khi thấy cơn bệnh thuyên giảm và
con cái được hồi phục sức khoẻ. Tuy nhiên mẹ tôi lại không
may phải đi xa đột ngột vì tai nạn, bỏ lại chồng và 3 đứa con
khờ dại làm cho nếp sống của gia đình không còn những
tháng ngày êm ái như trước nữa.
“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào ,
Tình Mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.“
Tôi cũng nhớ nhiều nét mặt hớn hở của ba tôi khi được
nhà trường nhận đơn thuận cho tôi vào học trường Nữ Trung
học Nha Trang lớp đệ lục 3 sau khi tôi học hết lớp đệ thất ở
trường trung học Nguyễn Hoàng ở Quảng Trị. Tôi nhớ lắm
và thương lắm khi nghĩ đến cặp mắt của ba tôi dáo dác tìm
kiếm tôi trong đám nữ sinh nhỏ quên không mang áo mưa
đứng chờ ở hiên trường, và nét mặt mừng rỡ khi đưa cho tôi
chiếc áo mưa mà ba tôi đã dầm mưa đạp xe đến trường đưa
cho tôi, sợ tôi về nhà đẫm mưa mang bệnh .
-“ Tình cha ấm áp như vầng thái dương
Ngọt ngào như dòng nước trôi đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan
Ân tình đậm sâu bao nhiêu
Cha hỡi cha già dấu yêu.”
Kể làm sao hết những hình ảnh kỷ niệm tươi đẹp thuở
nào đã trôi dần theo thời gian, lặng lẽ lùi vào quá khứ để giờ
này khi có được đặc ân của thượng đế ban cho tôi có trí nhớ,
mà chỉ nhớ nhiều về những chuyện ngày xưa như được hiện
ra sống động trước mặt khi vào tuổi già như bao người cùng
lứa tuổi. Tôi lại được vui với những kỷ niệm ngày xưa thân
ái mà thời thơ ấu đã vô tư chỉ biết ăn, học, và nô đùa. Cho
đến hôm nay, trải qua lứa tuổi trưởng thành, tôi càng đậm
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 467
sâu nghĩa ân, sự hy sinh vô bờ bến của tấm lòng cha mẹ đối
với con cái. Các bậc cha mẹ không kỳ vọng sẽ nhờ đến con
cái khi tuổi già, chỉ mong làm được gì cho con cái để con
mình được nên người và tự lo cho bản thân khi không còn
cha mẹ trên đời. Tuy nhiên, cuộc đời mỗi người một số phận,
không ai muốn điều gì là đạt được. Nhiều lúc nhớ về ngày
xưa ấy, tôi càng nghĩ về sự đời, phải chăng trước những ngã
ba đường trong cuộc sống, trước những khúc quanh của cuộc
đời, mồ côi mẹ sớm là một sự thiệt thòi vì thiếu người bên
cạnh nhiều kinh nghiệm, cảm thông, thương yêu, nâng đỡ
giúp mình có những quyết định đúng đắn. Những lời dạy dỗ
của cha mẹ, cũng như những bài học ở trường ngày xưa như
là hành trang để con chim nhỏ bé tung cánh trên bầu trời rộng
lớn thật quý giá làm sao. Thêm vào đó, những bài học thiết
thực còn giúp con chim non khi xa lìa đôi cánh chở che của
cha mẹ, thầy cô bay xa về một phương trời theo số phận và
định mệnh an bài. Thế gian có nhiều điều hay, mới lạ hơn
trong sách vở, là thực tế phũ phàng phải va chạm mà đám
học trò dại khờ ngây thơ ngày xưa nào thấu hiểu. Ngỡ ngàng
thay khi bên cạnh những ưu ái của cuộc đời là những thử
thách, hiểm nguy, tranh dành, ganh tỵ, dối trá, luôn hiện hữu
ở đâu đây. Thật tội nghiệp cho những con chim bé nhỏ đã
mạnh dạn vươn đôi cánh non nớt, yếu ớt của mình, cố gắng
vượt qua những trở ngại để tồn tại trên đời. ---- “Trời mưa
đường ướt trơn tự mình bò dậy.” Sư kiên nhẫn, chịu đựng
với trách nhiệm cũng như bổn phận của mình trong đóng góp
cho xã hội, cố gắng xây dựng và gìn giữ một gia đình vững
chắc và trường tồn luôn là suy nghĩ của những người con gái
được sự giáo dục của Cha Mẹ và Thầy Cô ở trường. Nhưng
bên cạnh đó, thật thương và ngậm ngùi làm sao khi nghĩ đến
những con chim gãy cánh, xa lìa bầy, những con chim lạc
hướng trên bầu trời mây đen xám nghịt, nào ai biết, ai hiểu
được tiếng rên rỉ, đau thương để cảm thông cho một số phận
không may ...
468 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
… Nha Trang dễ thương đẹp đẽ vô cùng. Những thắng
cảnh, địa danh quen thuộc như Tháp Bà, Hòn Chồng, Cầu
Đá, Ninh Hòa, Vạn Giã, Thanh Minh, Vĩnh Xương, … luôn
khắc sâu trong tôi. Thêm vào đó, người dân Nha Trang với
bản tính chất phác hiền hòa, và nhiều tình cảm đã là nơi giữ
chân ở lại cho bao người. Nhưng tôi đã bỏ Nha Trang hay
Nha Trang đã vô tình đưa tôi xa dần những ngày tươi đẹp
của miền thùy dương cát trắng. Số phận, thời thế và hoàn
cảnh như là cơn gió mát, thuận buồm hay trận cuồng phong
xô đẩy mỗi người vào một bến bờ của định mệnh.
Nha Trang xinh đẹp của tôi còn được vang danh hơn khi
có sự hiện hữu của hai ngôi trường Võ Tánh và Nữ Trung
Học Nha Trang / Huyền Trân đã đào tạo nên những con
người tài năng nổi tiếng khắp thế giới, quốc ngoại và quốc
nội… Những con chim với tà áo trắng thướt tha như cánh én
bay lượn trong sân trường dưới vòm trời xanh thuở nào theo
thời gian đã làm nên những sự nghiệp lớn, mang niềm hãnh
diện cho trường. Đây là nơi tôi không bao giờ quên của một
thời học sinh tươi đẹp nhất trong đời tôi, tràn đầy vấn vương
và lưu luyến với bao nhiêu niềm vui buồn của tuổi nhỏ.
Thấm thoát cho đến hôm nay, trường Nữ Trung học Nha
Trang / Huyền Trân đã trải qua sáu mươi năm, ngày ngày
dầm mưa dãi nắng, “trơ gan cùng tuế nguyệt”, là nơi ghi dấu
ấn kỷ niệm ngày ngày thân quen như mái nhà tình thương
thứ hai vô cùng hạnh phúc êm ái của đám nhỏ ngây thơ học
hành. Công lao và sự hy sinh, chăm sóc dạy dỗ của quý thầy
cô mãi mãi chan chứa trong lòng những học sinh một thời
cùng chung niềm vui và ước mơ.
“ Quay về kỷ niệm lúc còn học sinh,
Tà áo trinh nguyên tô thắm bao tình,
Đời học sinh với nét đoan trinh,
Tươi đẹp như màu hoa xinh,
Có đôi khi thấy buồn một mình.”
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 469
Cuộc đời học sinh thật đẹp và trân quý làm sao khi tiếng
ve kêu hòa thành khúc nhạc, khi màu hoa phương đỏ nở rộ
khắp sân trường báo hiệu hè sắp đến. Những trang nhật ký
viết nắn nót trên trang giấy mỏng, đủ màu ghi dấu ngày chia
tay sau một niên hoc. Giã từ nhau trong ba tháng hè xa vắng
đâu có dài lâu nhưng các cô cậu học trò luôn bịn rịn, không
muốn xa rời, tay trong tay nghẹn ngào. Cuộc đời đâu biết
ngày sau sẽ ra sao, ai sẽ rời xa bạn bè cùng lớp, ai sẽ rời xa
mái trường, rẽ sang lối khác của cuộc đời.
“Hoa phượng rơi đón muà thu tới
Màu lưu luyến nhớ quá thu ơi,
Ngàn phượng rơi bay qua lối xưa
Giữa một chiều gió mưa,
Xác hoa hồng mênh mông…”
Ôi, đẹp làm sao những kỷ niệm một thời học sinh mà
trong cuộc đời tiếp nối ngày xa xưa đó tôi không biết rằng
đó là những giây phút trân quý nhất trong đời. Giờ này, qua
một quãng thời gian gần hết một đời người, khi tất cả đã an
bài cho số phận, chấp nhận định mệnh, ngẫm nghĩ lại đôi khi
tôi mỉm cười một mình.
“Này chàng, từ Ninh Hòa hay Thanh Minh
Nơi đây, chàng đến, áo vươn mực bình
Nhìn chàng là người trai, ôi, thật dễ tính tình
Tim tôi đã mến biết bao lâu rồi…
Chàng từ Cầu Đá hay nơi đâu
Nơi đây, dừng bước kết duyên ban đầu
Một lời, đẹp tình xin trao cho nhau
Tuy tôi chưa biết hỡi chàng là ai...”
Trải qua bao cuộc bể dâu, qua bao thay đổi, cuối cùng
không còn gì rộn ràng vui hơn khi bao kỷ niệm tuổi ngây thơ
một thời cắp sách đến trường như được sống lại qua các kỳ
Hội Ngộ hàng năm của hai ngôi trường thân yêu. Những con
chim tha phương khắp bốn phương trời có dịp bay về hội tụ
trong niềm hân hoan, làm cho những tâm hồn như cành cây
470 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
héo hon cằn cỗi theo năm tháng cũng phải đâm chồi nẩy lộc
vươn lên tìm sức sống. Những mùa Hội Ngộ đáng quý biết
bao khi tình bạn, tình đồng môn có dịp gắn bó với nhau. Đây
là những cơ hội để có dịp thầy gặp trò, bạn cũ gặp nhau, hay
kết thân thêm bạn mới, cùng trang lứa hay lớp đàn em. Tình
Thầy trò, trường lớp, bạn bè như có thêm liều thuốc hồi sinh,
như có dòng suối mát trong lành làm dịu êm mùa hè nóng
bức. Gặp lại nhau, khi đám con trai con gái học trò ngày xưa
khờ dại, e ấp và trong sáng, nay đã là ông bà nội, ông bà
ngoại. Tất cả đã quên đi tuổi tác của mình để được cười vui,
đùa giỡn, ôn lại chuyện ngày xưa…“Bao năm thầm kín, trót
thương tà áo trắng. Những đêm sương lạnh nghe trái sầu rót
vào tim.”
“Người về, người về đâu nhớ ta chăng,
Người ơi mỗi lá thu rơi làm ta bâng khuâng.
Như áng mây chiều lan trong sương,
Bước chân âm thầm lòng buồn như thời gian
Nghe chăng thu ơi để lá rơi chi hoài
Gợi lòng thương nhớ ai nhiều.”
Bao giờ trong tôi cũng luôn ngưỡng mộ, cảm kích, trân
quý tấm lòng vì trường, vì lớp, vì thầy cô, bạn bè, đã hy sinh
“ăn cơm nhà vác ngà voi” của các Ban tổ chức Hội Ngộ,
không quản ngại tiền bạc, công sức, thời gian mong đem lại
niềm hạnh phúc cho Thầy Cô và bạn bè khi tuổi đời đang
dần ngắn lại mà tình cảm gắn bó càng dâng cao.
----“ Trải qua bao cuộc bể dâu,
Tôn sư trọng đạo là câu nằm lòng
Ngày nay Hội ngộ tao phùng,
Thầy trò tóc bạc mình cùng cười vui.”
Mỗi lần có dịp tham dự Hội Ngộ, tôi thích thú nhất là
vô tình được lắng nghe một vài mẩu chuyện cười ra nước
mắt, cười dí dỏm, cười lăn cười lóc, ngả nghiêng, nghiêng
ngả của mấy chàng, mấy nàng thầm thì, rù rì kể cho nhau
nghe:
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 471
“Có khi đi nửa cuộc đời,
Cũng không tìm được một người mình yêu.
Lắm khi có một buổi chiều,
Mình gặp người ấy mình yêu rất nhiều.”
Tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật, nói nhiều cho lắm rồi
cũng vào thực tế, những câu chuyện cuối cùng của những
con chim ngày nay trở lại xoay quanh vấn đề chồng con,
cháu chắc, và chia sẻ nhau những kinh nghiệm để giữ gìn và
đẩy lui bệnh tật, nhằm có sức khỏe sống với tuổi già. Thật
vậy, ở tuổi lão hóa cơ thể, khi quỹ thời gian trước mặt của
một đời người không còn bao lâu nữa, chúng ta may mắn có
một thân thể khỏe mạnh, nhiều sức khỏe thì đã có những năm
tháng hạnh phúc cuối đời. Lúc này con cái đã lớn khôn, đã
trưởng thành, cho nên vật chất, tiền bạc chỉ là thứ yếu và tình
cảm mới là điều được trân trọng nhất. Tình bạn trở thành thứ
tình cảm vô giá khi tìm thấy sự đồng cảm bên cạnh tình phu
thê, tình tri âm tri kỷ, là liều thuốc tinh thần giúp chúng ta
sống vui sống khoẻ.
Tôi được may mắn gặp lại con chim xanh trắng trẻo,
tròn trịa ngày xưa ngồi cùng bàn từ lúc mới bước vào lớp đệ
lục 3, ngay cả khi phải chọn ban qua lớp đệ tam, hai đứa
cũng theo nhau vào ban A. Hồi đó, vào buổi học đầu tiên hai
đứa năm nào cũng tìm cách choán chỗ trước để được ngồi
bên nhau, cho đến khi tốt nghiệp ra trường trong suốt sáu
năm học, thỉnh thoảng có khi bị giáo sư đổi chỗ vì hay nói
chuyện nhiều trong lớp mà thôi. Cùng nhau tốt nghiệp, rời
xa trường mỗi đứa một nơi, Bình, tên bạn, lên Đà Lạt tiếp
tục vào học Đại học, còn tôi ra học ở Đại học Huế. Môi
trường sinh hoạt và cuộc sống của những năm đất nước chiến
tranh đã làm cho tình bạn xa rời, không có cơ hội liên lạc.
May thay nhờ vào dịp tham dự Hội Ngộ ở San Jose,
California 2004 tôi và Bình gặp lại nhau. Tay bắt mặt mừng
làm sao kể xiết. Từ đó, tình cảm càng đậm đà thắm thiết.
Bình ở Nam Cali, tôi ở Bắc Cali, lại thêm thời đại công
nghiệp phát triển qua phone, email với nhau, tôi và Bình
472 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
càng dễ dàng lui tới, liên lạc chia sẻ tâm tư tình cảm tuổi già
hơn. Vui hơn nữa khi bên cạnh Bình có người chồng, cũng
là học sinh Võ Tánh dễ tính và thông cảm . Hải Bình, hai tên
ghép lại cũng như cuộc sống hôn nhân của hai người. Gia
đình nào có sóng biển to, gió mạnh, chứ gia đình hai bạn
luôn bình lặng, biển yên, có chăng chỉ thình thoảng là những
làn sóng nhẹ lăn tăn như tô điểm thêm cho nét đẹp thần tiên
của biển.
Tâm sự với thời gian là niềm vui, niềm hạnh phúc kể
sao cho xiết, nói hoài không mỏi mệt. Chính trong những
tháng ngày xa quê hương, nhớ mồ mả cha mẹ, bà con, xóm
giềng, bạn bè ngày xưa nơi quê nhà, có được những hoài
niệm về những kỷ niệm là những giây phút hạnh phúc trong
đời tôi.
“Thời gian có ngừng đây bao giờ
“Thương tiếc rồi sẽ làm buồn vu vơ .
Nhiều lúc muốn quên để xoá mờ .
Nhưng mỗi lần nhìn xuân về thương nhớ.”
San Jose ngày 24 tháng 9 năm 2021
Thái Diệu Nga ( NTH 69)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 473
Meï laø gaùi Baéc
Diệu Nga (NTH 69)
(Thân tặng bạn thân Nguyễn
thị Bình [NTH 69] khi nhớ về
thân mẫu của bạn)
Mẹ là gái Bắc chính chuyên,
Nho gia, nề nếp, giữ luôn đạo tòng.
Thờ cha kính mẹ trong lòng ,
Nghĩa ân tình vẹn cho chồng cho con.
Trời dành may mắn hoa soan,
Xuân ba mươi tuổi có con ẵm bồng.
Mười năm vui sống bên chồng,
Năm nàng công chúa, ngũ long ra đời.
Mẹ là gà mẹ tuyệt vời,
Gió, mưa, sương lạnh tìm mồi cho con.
Bao năm gian khó mỏi mòn,
Mớm sâu, bưới thóc, nuôi con đủ đầy.
Đau thương lại đến một ngày,
Chồng thác bỏ lại mẹ bầy con thơ.
Thôi đành bỏ lại ước mơ,
Phu thê gắn bó, chẳng ngờ đựợc lâu ...
474 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Bốn mươi hai tuổi khổ sầu,
Thân cò lặn lội dãi dầu nắng mưa.
Lo con no ấm sớm trưa,
Học hành thăng tiến, chẳng thua bạn bè.
Dù cho công việc bộn bề,
Những lời giáo huấn luôn kề bên con.
“Ngũ long” công chúa lớn khôn,
Bình, Thanh, Hường, Lý, Cúc luôn ngoan hiền.
Xe hoa liền trước cửa thềm,
Con gái của mẹ thuyền quyên theo chồng.
Ngày mẹ đưa tiễn pháo hồng,
Mừng con xuất giá,chạnh lòng vấn vương.
Làm quen bè bạn khắp phường,
Cho vơi nỗi nhớ niềm thương trong lòng.
Bên tai bao tiếng khen thầm,
Mẹ cười nhân hậu, có tâm giúp người.
Rồi ngày tuổi hạc đến nơi,
Mẹ như bao mẹ, xa rời thế gian.
Về bên gối Mẹ khóc than,
Gia đình năm đứa con chan lệ đầy,
Nào ai sánh được ơn dày,
Lòng mẹ biển rộng tràn đầy cho con.
Dù cho con đã lớn khôn,
Bên đời vẫn có mẹ con theo cùng.
San Jose ngày 30 tháng 9 năm 2021
Diệu Nga ( NTH 69)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 475
Mây chiều trôi và tôi còn ngồi lại
Giữa mênh mông trải hết một phận đời
Gió nào đem con diều thơ ấu thả
Trả dùm tôi về lại bến xưa người
Tôi đi qua sóng ngày xanh chưa lặn
Người có tròn mơ ước những chiều đông
Con đường cũ vết hằn lên năm tháng
Lối nhà người chân bước lẻ buồn không
Mây chiều trôi vòng quanh qua ngã Sáu
Lòng người bao nhiêu ngã rẽ về đâu
Ai cất dấu tiếng chuông Nhà Thờ Núi
Thả từng hồi đồng vọng những mùa sau
476 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Con chuồn bé dấu răng còn trên rốn
Xoãi cánh dài tôi đã vượt khơi xa
Cuốn sách nhỏ, ngày tôi chưa kịp lớn
Dày thêm chương tự thuở cách quê nhà
Mây chiều trôi như màu xưa áo lụa
Đã bạc giòng trang vở Địa, Sử, Văn…
Thời khóa biểu quay theo đời bão lũ
Cos, Sin … lòng người giữ được bao ngăn
Huy hiệu ấy mùa bãi trường cổng khép
Mang đi đâu theo tiếng guốc trên đường
Mây chiều trôi, tôi trôi và chiều ấy
Bao nhiêu chiều nhuộm tím mảnh tà dương
Đừng xô nhé bọt bia chiều giữa sóng
Mây cứ trôi tôi lạc mất bên trời
Tôi đâu để hồn trong con ốc biển
Sao ầm ào tiếng dội mãi đời tôi
Tay khó giữ mây trôi hoài viễn xứ
Mẩu phấn gầy in mấy ngón về đâu
Từ độ trống tan trường người muôn hướng
Nên mây chiều mãi mãi lạc đời nhau.
Lương Mỹ Trang
9/75 NTH - HT
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 477
Mai Thái Vân Thanh
Đã là người,
chắc ai cũng có ít
nhất vài ước mong
và mơ mộng cho
tương lai. Tùy theo
sở thích, đam mê
mà hình thành
mộng ước cho
mình. Nhưng đạt
được hay không là
do ý chí một phần
và cũng do… hên
xui một phần.
Riêng nó, từ nhỏ đã thích đủ thứ nên có nhiều ước mơ mà
giờ đây nghĩ lại thấy mình chắc chẳng giống ai.
Hồi còn nhỏ cỡ năm sáu tuổi nó rất thích bong bóng.
Mỗi ngày nó đứng trước cổng nhà chờ thằng bé bán bong
bóng đi qua để ngắm chùm bong bóng đủ màu được thắt
thành hình chùm nho, trái táo, con thỏ… và nó ước mơ sau
này sẽ làm người bán bong bóng.
Nó còn thích ăn bánh kẹo nên lại mơ sau này lớn lên sẽ
làm chủ một tiệm bán đủ mọi loại bánh kẹo tha hồ vừa bán
vừa ăn thỏa thích.
Nó thích gì thì mơ lớn lên làm nghề đó như làm trong
tiệm sáng chế đồ chơi cho con nít, làm nghề bán kẹo kéo,
làm chủ tiệm bán sách, v.v…
478 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Nó mê đọc sách truyện lắm và rất ngưỡng mộ các văn
sĩ. Họ cứ như Thượng Đế có thể xây dựng và tạo nên một
thế giới nhỏ với nhiều nhân vật, nhiều sự kiện lý thú. Nó
cũng ước mơ mình sẽ là một văn sĩ nên vắt óc thử viết nhưng
được vài trang thì tắt tịt, và khi đọc lại sao mà ẹ quá nên giấc
mơ được làm văn sĩ lụi tàn ngay!
Cỡ 10 tuổi nó đọc được quyển Kiều Giang do Hoàng
Hải Thuỷ phóng tác từ tác phẩm gốc “Jane Eyre” của nhà
văn nữ Charlotte Bronté kể chuyện cô bé mồ côi Jane Eyre
đi làm gia sư quen và lấy ông chủ của cô. Mối tình rất gay
cấn hấp dẫn với kết thúc có hậu và cảm động khiến nó khoái
quá. Thế là mỗi khi bị ba mẹ la mắng nó lại mơ sẽ bỏ nhà ra
đi, sẽ làm gia sư và sẽ có tình yêu và cưới ông chủ. Hi hi!
Cũng may nó chưa bỏ nhà đi thiệt vì nó biết mình chưa được
học cao, chưa được thông thái, và chưa đủ lớn.
Rồi khi hơi lớn, được vào trung học và học trường Nữ
Trung Học Nha Trang, chắc vì đọc truyện kiếm hiệp nhiều
quá, nó mơ mình là một nữ siêu nhân võ công thâm hậu biết
bay như chim. Nữ hiệp nó sẽ xuất hiện bất ngờ trong những
trường hợp nguy cấp để cứu người và làm thiên hạ ngạc
nhiên, tán thưởng.
Nó cứ sống trong tưởng tượng ở tất cả mọi nơi, ngoài
đường, trong lớp học và ở bất cứ thời điểm nào. Ngồi trong
lớp mà hầu như lúc nào nó cũng để tâm trí lang thang trên
những ngọn thông, tưởng tượng mình có đôi cánh bay qua
bay lại và đám bạn của nó tha hồ mà trầm trồ tán thưởng, sẽ
không còn khinh thường và chọc ghẹo nó là một con chàng
hiu ốm nhom ốm nhách yếu như sên!
Nó ít khi nghe thầy cô giảng bài trừ môn toán là môn
học nó yêu thích. Nhất là lớp toán của thầy Bùi Ngoạn Lạc.
Thầy chơi ngẳng đặt ra luật cho lớp là đến giờ của thầy, trò
nào vào lớp trễ sau 5 phút sẽ bị quỳ 15 phút. Trong giờ thầy
giảng bài bất ngờ kêu đứa nào hỏi mà không trả lời được
cũng bị quỳ 15 phút. Đố nó dám tưởng tượng làm siêu nhân
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 479
trong giờ dạy của thầy vì lỡ thầy kêu hỏi bất ngờ thì làm sao
mà trả lời được. Và có lần nó đi trễ đã trốn học giờ của thầy
luôn. Gì chứ lớn đầu rồi và là siêu nhân mà bị quỳ trước mặt
bạn bè thì quê lắm lận.
Còn giờ toán của thầy Phạm Tấn Phước thì nó lại tưởng
tượng… mình sẽ rinh ông thầy to con này như cử tạ cho bạn
bè lé mắt chơi… Hoặc nó sẽ trói ông giám thị Tước dễ ghét
treo lên cột cờ kéo lên kéo xuống để trả thù đã cho bọn nó
con zero kỷ luật. Tưởng tượng sơ sơ mà khoái quá xá cỡ nên
nó cứ sống trong hoang tưởng suốt thời học sinh.
“Cũng may” là đến năm 21 tuổi khi đi vượt biển bị bắt
trong trại giam, nó không thể bay ra ngoài hoặc dùng nội
công để đấm vỡ tường gạch nhà giam thì bịnh hoang tưởng
này tự nhiên biến mất, nó tỉnh mộng nữ siêu nhân trở thành
người thường cái rẹt! Khỏi cần thuốc thang trị bịnh gì cả.
Vì cái tội mơ mộng tưởng tượng này mà nó ít khi nghe
thầy cô giảng bài, chẳng hiểu hay nhớ cô thầy nói gì cả.
Nhưng “nữ siêu nhân” nó còn biết sợ cha mẹ la và bạn bè coi
thường nên nó lo gạo bài như con vẹt. Đi đâu nó cũng na
theo quyển sách cứ như mình là con mọt sách vậy. Ăn không
ngon, ngủ không yên, khổ ơi là khổ!
Vì thế nó còn ước mơ sau này mình sẽ làm nghề giáo,
không phải học bài khổ sở mất thì giờ như thế này nữa mà
có quyền dò bài học trò. Í quên, nếu nó làm cô giáo, nó sẽ
không dò bài học trò và cũng không cho bài tập đâu vì tuổi
học trò là để ăn chơi. Con nít mà bị áp lực sẽ bị ám ảnh suốt
đời. Như nó sau này cứ thỉnh thoảng nằm ác mộng mơ thấy
đi học trở lại mà không thuộc bài hoặc không làm bài tập, sợ
cô kêu lên dò bài đến toát cả mồ hôi hột. Nghe nói một vài
người bạn của nó cũng bị ám ảnh y như vậy. Thật tội nghiệp!
Sau 75, nó vào học Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang
nhưng mộng làm cô giáo nửa chừng tiêu tan nó trở thành cô
giáo mất dạy. Là họa hay là phúc cho đám học trò hụt của nó
480 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
đây không biết? Từ đó nó hết mơ làm cô giáo mà lại mơ được
làm cánh chim bay đi xa thật xa. À mà quên, hồi nhỏ nó mơ
được bay như chim nên đã đứng trên lan can vừa vỗ hai cánh
tay vừa tập bay nhưng cứ té đùi đụi. May mà còn biết khôn
không đứng trên lầu cao mà tập bay chứ không chết là cái
chắc, còn không thì cũng què giò. Đến giờ thỉnh thoảng trong
mơ nó còn thấy mình được bay như chim nhưng thình lình
bị rơi xuống mắc vào hàng rào lủng cả ruột. Có ai nằm mơ
được bay như nó không nhỉ?
Tính ra những giấc mơ của nó chỉ đạt được một chuyện
là nó được làm chim bay nửa vòng trái đất đến một nơi rất
xa. Nhưng nó vẫn còn liên lạc được với nhiều bạn học cũ nên
giờ đây phải tập làm văn sĩ để góp bài cho Đặc San 60 này.
Chắc vì bị bệnh si khờ người già nên nó quên rất nhiều
chuyện thời đi học, đành mạn phép kể chuyện mơ mộng của
mình vậy.
Mai Thái Vân Thanh
(NTH-HT 12B/1975)
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 481
Thô Nguyeãn Traàn Taám
Theo em mỗi buổi, lúc tan trường
Chung lối đi về, xóm thân thương
Ngón tay thon nhẹ, vê tà áo
Vành nón che nghiêng … dấu thẹn thùng.
Em gái Huyền Trân của tôi ơi,
Từ khi nhìn trộm, thấy em cười
Là anh đã biết đời anh khổ
Tập tễnh làm thơ, nhớ thương người
Tim anh từ đó, bao vương vấn,
Một chút tình si em biết đâu
Thơ tình... nhiều lắm nhưng không gởi
Sợ vướng hồn ai … đêm rất sâu
Chỉ xin mãi mãi làm thi sĩ
Quanh quẩn trang thơ, cánh phượng hồng
Đường đời xa cách… ôi thương nhớ
Giữ mãi du hương, một nụ cười
Bao năm mờ nhạt, đời trôi nổi
Em ở nơi nào, em có hay
Hồn anh rộn rã, cuộc tình say,
Yêu em, ngày tháng không thay đổi
Thương nhớ về người... gởi mây bay.
Nguyeãn Traàn Taám
482 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Một sớm mai hồng, ta gặp em 483
Bỗng hồn xao xuyến, đến làm quen
Em cười bẽn lẽn... ôi duyên quá
Xuân đã về đây, tình ướp men
Áo trắng ngày xưa, em rất xinh
Anh về, theo gót ánh bình minh
Tim yêu rộn rã, hồn thương nhớ
Thả tiếng tiêu mơ... bóng với hình
Rồi những buổi chiều qua rất nhanh
Đôi ta ôm ấp mộng trong lành,
Mơ ngày xuống phố, vu qui hội
Lửa hồng soi sáng, mắt long lanh
Bình minh trên biển bao kỷ niệm
Xe đạp ngày xưa, … cánh phượng hồng
Ơn em nuôi nấng tình thơ cũ
Dù nắng, dù mưa, vẫn một lòng.
…
Tình thơ... nay đã thành tri kỷ,
Nguyện suốt đời này vá áo anh.
Nguyeãn Traàn Taám
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Duy Xuyên
Hòn Chồng nỗi nhớ xa xưa, do
đó tôi chỉ ước ao cho tôi thêm một
lần, cuối cuộc đời, xin được lặng
thinh, đứng ngắm lại Hòn Chồng của
tuổi thơ tôi, để trí nhớ khỏi bị nhạt
nhòa với những kỷ niệm đong đưa,
trong khe tim cứ mỗi khi Hòn
Chồng ... hiện về trong tâm tưởng thì
Hòn Chồng bao giờ cũng là những
dấu vết thân thương mà ở đó có lẽ
mãi đến bây giờ vẫn in đậm dấu tay, dấu chân tôi trong
những hang đá thật nhỏ, chỉ có thể hai đứa ngồi chung với
nhau, để khỏi nghe tiếng gió hú, tiếng sóng vỗ lõm bõm dưới
ghềnh đá và chỉ còn lại thanh âm trìu mến của hẹn ước chưa
bao giờ thành hiện thực.
Hồi nhỏ, tôi chưa bao giờ nghe nói đến Hòn Vợ như
những ngày gần đây. Chữ hòn ở đây có nghĩa là hòn đá, hòn
gạch, một mạo từ đứng trước một danh từ như trong Anh
ngữ là Article "a, an, the.” Còn trong tiếng Pháp là “le, la.”
Còn chữ “chồng” là một vật này chồng lên một vật khác.
Vậy Hòn Chồng là những hòn đá chồng chất lên nhau,
chứ không có nghĩa của chữ “chồng-vợ.”
Do đó, theo tôi chỉ có Hòn Chồng, chứ không có Hòn
Vợ. Tôi không tin có Hòn Vợ trong khu vực Hòn Chồng.
484 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Theo tôi nghĩ, ai đã từng cất tiếng khóc chào đời trên
thành phố Biển Nha Trang thì không một ai đã không một
lần xôn xao tìm đến thắng cảnh Hòn Chồng, Nha Trang. Hồi
nhỏ, cách đây 80 năm, lúc vừa tròn 8 tuổi, tôi cũng đã có cái
may mắn chạy theo các anh chị tôi đi thăm thắng cảnh hùng
vĩ của Hòn Chồng.
Chỉ vài ba năm sau, Hòn Chồng thường gọi tên tôi ra
với nó và tôi cũng ít khi nào khước từ lời quyến rũ, gọi mời
của những phiến đá sầu nằm chơ vơ, trơ trụi như những linh
hồn thầm lặng. Những tảng đá này, tưởng như không có linh
hồn, nhưng thật ra, chỉ những đêm trăng thanh tịnh, những
tâm hồn sỏi đá đó, cũng cần có nhau, nên mới ưỡn mình trỗi
dậy thì thầm, tình tự bên nhau. Những lời tỉ tê đó cũng sẽ lùa
theo gió thoảng, ngập ngừng trôi theo những đám mây hồng
bay thật thấp, lung linh ngã về khói hương nghi ngút của
dân chài Xóm Bóng đang nguyện cầu "Bà" Thiên Y, ban
phát cho mưa thuận gió hòa, để dân chài được thuận buồm
xuôi gió, dân ngư phủ ra khơi đánh bắt được nhiều tôm cá
hơn...
Lần nào cũng vậy, lũ trẻ chúng tôi. năm ba thằng con
trai, rủ rê thêm được vài ba đứa con gái tóc dài, trên đường
đến Hòn Chồng. Chúng tôi thuờng tập trung ở nhà thằng Trợ,
trên đường Quốc Lộ 1, làm điểm xuất phát.
Vào thời đó, khoảng năm 1940, Nha Trang làm gì có xe
Lam, xe mô-tô-bi-lết để đèo nhau, mà gia đình nào khá giả
mới mua được cho con một chiếc xe đạp Pờ-rô hiệu "con cá
vàng" như những năm sau này, mà các chàng trai đẹp trai,
học giỏi, con nhà giàu, mới được cha mẹ nuông chìu mua xe
đạp cho con ... 'đạp lòng vòng' đi học, đôi khi xe đạp cố tình
bị xì lốp, trật sên trước Kho Bạc Nha Trang (Ty Ngân Khố)
hay trước một nhà kín cổng cao tường, để nhìn Thiên Thần
đang ngồi đọc sách dưới gốc bông giấy tím...
Phương tiện lúc tuổi thơ tôi, chỉ có xe ngựa, chạy đường
Nha Trang - Đồng Đế. Thường thường chúng tôi đi chân đất,
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 485
đầu trần, tiết kiệm để có tiền mua thịt vịt, giao cho một con
bé tóc dài, ram thịt vịt, cay-chua-mặn-ngọt, và mua thêm 5-
7 ổ bánh mì 'ba-ghết' là đời cũng đã lên hương lắm rồi.
Chúng tôi mỗi đứa một gói-xách trên vai, vừa đi vừa
chạy đến mục tiêu. Chúng tôi khởi hành từ nhà anh Trợ, trên
đường Quốc Lộ 1, chỗ gần nhà Thầy Điểm lúc đó còn là
Hãng Vẽ ABC, chúng tôi phải đi qua cầu Hà Ra.
Khúc đường này ngày xưa rất vắng vẻ, bên phải con
đường là bãi đổ rác của thành phố, còn bên kia con đường đi
đến Hòn Chồng (phía trái) là Trung Tâm Huấn Luyện của
Quân Đội Viễn Chinh Pháp, sau này bàn giao lại cho Đại
Đội 7 Truyền Tin, làm nơi huấn luyện Hiệu Thính Viên/
Opérateur Radio.
Chúng tôi phải đi về hướng trước mặt, một khúc thật xa,
độ 1km mới đến cầu Bóng. Đi gần hết cầu Bóng, nhìn về tay
phải, có một Hòn Đá Chữ thật lớn, nằm trơ trụi một mình
giữa sóng nước mênh mông. Trên Hòn Đá Chữ có ghi một
hàng chữ theo lối viết A Rập thuở xưa, mãi đến hôm nay vẫn
chưa ai đọc được. Vì vậy dân chúng tại đây cho rằng, đó là
những chữ bùa. Tục truyền đó là bùa của Bà Thiên Y yểm
lên trên Hòn Đá Chữ để chận chiếc thuyền của Hoàng Tử
bên Tàu đi tìm Thiên Y. Trên Hòn Chữ cũng có một cái miếu
thờ với một ông Từ, lúc nào nhang đèn cũng nghi ngút... khói
hương.
Bên trái cây cầu Bóng là Tháp Bà linh thiêng, lúc nào
cũng có một khay ngũ quả, khói hương nghi ngút, thờ phụng
rất nghiêm trang.
Bọn trẻ chúng tôi phải lội bộ trên đường Quốc Lộ 1,
khoảng nửa cây số nữa, rồi rẽ phải để đi dọc theo con đường
mòn, khúc khuỷu quanh co, dưới chân đồi La San mới đến
khu vực Hòn Chồng.
486 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Giữa khúc đường quanh co này, nếu ai biết, ghé nhà anh
Cầm, uống nước trà đá, 5 cắc một ly. Anh Cầm sau này là
Trung úy phụ trách môn Quân sự Học Đường cho Võ Tánh.
Từ đây chúng tôi đã thấy một khối đá khổng lồ, nằm tựa
lưng trên một khối đá phẳng phiu khác. Muốn leo lên khối
đá này, chúng ta phải đi qua nhiều hang đá khác, nằm vắt
vẻo giữa hai khối đá khác. Khi đi dưới hòn đá chẹt, cho ta
cái cảm giác lo sợ, không biết hòn đá đang còn bấu víu mong
manh, cheo leo đó, hòn đá sẽ rơi xuống lúc nào, chôn vùi
thân xác mình dưới khối đá khổng lồ kia.
Nói về Hòn Chồng Nha Trang có rất nhiều sự tích dân
gian lý thú xoay quanh sự tích Hòn Chồng, lạ nhất là trên
một khối đá lớn nằm trên mỏm cao nhất của Hòn Chồng
còn in dấu một bàn tay khổng lồ, khắc sâu trên đá, in đầy đủ
cả lòng bàn tay với 5 ngón tay, khắc thật rõ các vân tay, chỉ
tay, y như thể thuở mới tạo thiên lập địa, đá chưa kịp đông
cứng lại, đã có một bàn tay khổng lồ nào đó, bấu víu vào, để
lại dấu vết đến ngày nay.
Vẻ đẹp bất tận của Hòn Chồng, gồm những tảng đá lớn
nằm chồng chất lên nhau tự bao đời mà đến nay vẫn còn y
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 487
nguyên như xưa cũ. Từ lâu, bãi đá này trở thành một địa điểm
khá hấp dẫn du khách của thành phố Nha Trang. Nơi đây du
khách có thể cảm nhận bãi đá Hòn Chồng như là nơi giao
điểm giữa đồi núi trùng điệp và biển cả mênh mông. Chỉ vài
bước chân du khách có thể chạm đến mặt nước biển hoặc chỉ
cần vài bước chân thêm nữa, ta sẽ đến ngay chân đồi, hay ta
sẽ bắt gặp dốc đá đứng đìu hiu.
Đến Hòn Chồng du khách còn được nghe nhiều câu
chuyện kỳ thú khác về sự tích bãi đá này giữa một phong
cảnh thiên nhiên hữu tình. Trên những hòn đá này, đã có ghi
bằng sơn hay được khắc sâu trên đá những hàng chữ như
Hiền và Vọi trong truyện Trống Mái của Tự Lực Văn Đoàn.
Tôi còn nhớ trên một hòn đá có ghi rõ ràng lời nhắn:
"Tôi yêu Mai-Thương" hoặc "TYMT" hay YGT họặc BKTA
... mà chúng ta mạnh ai đoán mò ý nghĩa của những chữ viết
tắt đó.
Hòn Chồng gồm 2 cụm đá lớn nằm bên bờ biển dưới
chân đồi La-san, có thể được tạo nên do bàn tay khéo léo của
tạo hóa ban phát cho dân cư hiền hòa của miền thùy dương
cát trắng.
Cụm đá lớn gọi là Hòn Chồng, gồm một khối đá to
vuông vức nằm trên một tảng đá khác bằng phẳng và rộng
lớn hơn, phía mặt đá quay ra biển có một vết lõm xuống, in
hình bàn tay khổng lồ.
Đứng trên đó, nếu ta nhìn về hướng tây, dãy Trường
Sơn nhô cao, ưỡn mình như một con Rồng chạy dài về xứ
Vạn, để mộng mị cùng Cung Đàn với Ngồi nghe Biển hát...
duy xuyên
tacoma
12/03/20
488 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
Hình Löu Nieäm
(Xếp theo thứ tự thời gian từ xưa tới nay)
Sưu tầm & sắp xếp: Phạm Phan Lang & BBT
1961 – Cô Bùi Ngoạn Lạc, Hiệu Trưởng Đầu Tiên
Trường Nữ Trung Học Nha Trang
1961 – Cô Nguyễn Ngân (Tổng Giám Thị) 489
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
1961 – Trước trường Võ Tánh : Nhị A3
Từ trái, Ngồi: Nguyễn Kiều Duyên, ?, Phan thị Nhơn, Trần thị Kalang,
Nguyễn Thúy Phương; Đứng: ?, Nguyễn thị Hoàng Trung, ?, Nguyễn
Khoa Diệu Yến, ?, Kiên, ?, Nguyễn Châu Bàng
1961 – Đi bộ từ trường Võ Tánh đến Cầu Đá Nha Trang
Hàng dưới: Nguyễn Kiều Duyên, Hà, Mỹ Hảo (em của Nguyễn Văn
An), Cao Thị Loan ,Phan Thị Nhơn và Nguyễn thị Hoàng Trung;
Hàng giữa : Nguyễn Thuý Phương, Nguyễn Khoa Diệu Yến và Diệu;
Hàng đứng: Nguyễn Châu Bàng và Nguyễn Văn Kiên
490 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT
1963-64 – Nhị C:
Ngồi, từ trái: ?,?, Cô Đặng Thị Thu Vân, Cô Võ Thị Cung, ?,?,?
1963-64 – Tam A : Đứng, bên trái: Thầy Nguyễn Trung Can;
Đứng, bên phải: Thầy Thái Huy Bào
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 491
1963-64 – Tam B
Đứng, bên trái: Cô Nguyễn Hữu Thứ
1963-64 – Tam C (Hình 1)
Hàng giữa, Ngồi, từ trái: ?,?, Cô Lê Thị Thu Vân, Cô Bùi Hũu Thứ, ?,?
492 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT