The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2021-12-26 06:42:30

Đặc San MỘT THỜI ÁO TRẮNG

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

Chuyeän... Chieác AÙo Daøi

Đinh Thị Kim Dung

ấế ệ

ắ ủ ổọ



ắọ ắ ớ ươ

ờ ẫế ế ệấ
ẫ ẫ ư ầ
ớớ
ế ẫ
ẫ ẹ

ờ ườ ờ ươ ẳ
ế ẫ ướ ưư

ẫ ẫấ ẹ ớ
ượ ị



Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 293

THÖ TÌNH
GÖÛI LAÏI

Cho tôi giữ lại thư tình cũ
Thuyền xưa lỡ chuyến chốn sương mù
Dáng ai lay động sầu miên khúc
Phải bóng em về theo gió thu
Ngày ấy xa rồi sao vẫn nhớ
Đinh Tiên Hoàng dẫn lối tình thơ
Mắt nai vóc ngọc ngày vương vấn
Phố Nguyễn Tri Phương mãi đón chờ

294 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Nắng sớm rộn ràng bao áo trắng 295
Nón chẳng che ngang nét nguyệt hằng
Thiên nga ríu rít hoa hàm tiếu
Tôi ngẩn ngơ nhìn nhớ ánh trăng

Rồi mỗi ngày theo ai đến lớp
Khiến hồn tôi rộng lối lang thang
Thư chưa gởi gác buồn không ngủ
Đêm trăng ngời khắc nỗi miên man

Ngày qua phố nắng tràn con ngõ
Chợt mưa buồn dáng nhỏ co ro
Em chẳng biết ai chờ ướt áo
Để lại mình tôi lỡ chuyến đò

Em có về nơi tôi ngóng đợi
Tóc thả dài buông mấy sợi thương
Chiều xưa cũ gió lùa hương tóc
Mang tôi vào giấc ngủ còn vương

Mộng mị ấy trăng sao cũng ngỡ
Tiếng em cười khúc khích trong mơ
Thôi tôi khép lại thư tình cũ
Giữ hết cho tôi một cõi chờ.

Hà Nhung – NTH 7/75

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Thuyeàn Xuoâi Mieàn Nhôù

Hà Nhung

Thỉnh thoảng có lúc ta cứ trôi tuột về một miền nào đó
như thuyền xuôi gió theo giòng hoài niệm, lắng đọng với yêu
thương rồi tràn bao cảm xúc khi tìm thấy chính mình trong
miền nhớ. Chiếc vé về ngày xưa chẳng ai mua bán nên không
có cái giá của nó mà chính ta có tự tìm về hay không. Cuốn
phim cuộc đời, dù chỉ trong một giai đoạn nào đó, sẽ được
quay lại nhẹ nhàng, để thấy sao ta có quá nhiều kỷ niệm vui
buồn, có cả nụ cười và nước mắt nhưng đẹp, đẹp lắm để thấm
để thương chứ không phải để tiếc nuối.

Tôi lúc này cũng đang ngập tràn nỗi nhớ trường xưa,
nhớ cả Nha Trang xưa khi biết được có sự hưởng ứng lời kêu
gọi từ cô cựu hiệu trưởng Bùi Ngoạn Lạc để thực hiện Đặc

296 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

San Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập Trường Nữ Trung
Học/Huyền Trân - Nha Trang với chủ đề “Một Thời Áo
Trắng” của các anh chị trong Ban Biên Tập. Nhớ lắm!

Khi còn đang học ở trường Nữ Tiểu Học Nha Trang trên
đường Trưng Nữ Vương, tôi đã tưởng tượng mình được trở
thành cô bé nữ sinh trường Nữ Trung Học Nha Trang, một
ngôi trường quét vôi trắng nổi tiếng được xây trên một mảnh
đất trống rộng trên 12.000 mét vuông có ba mặt hướng ra
đường Lê Thánh Tôn, Đinh Tiên Hoàng và Nguyễn Tri
Phương. Hình ảnh được mặc áo dài bước đi giữa hàng dương
xanh hay dọc theo hành lang dãy nhà chơi nhìn thẳng ra mặt
đường Đinh Tiên Hoàng cứ thôi thúc tôi cố gắng học. Để có
thể đậu vào trường, Ba tôi xin cho tôi học thêm lớp luyện thi
vào Đệ Thất ở trường Hóa Khánh gần nhà, ngay góc đường
Nhà Thờ và Trần Quý Cáp. Hai năm liền, tôi chăm chỉ học
hành, rèn luyện dưới sự hướng dẫn của Thầy Thúc, một
người Thầy mà tôi vô cùng kính yêu.

Năm 1973, trường ta chính thức có tên mới là trường
Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang, tôi mới đủ tuổi và thi
đậu để được trở thành cô nữ sinh lớp đệ thất bé bỏng, háo
hức bước vào cánh cổng ngôi trường mơ ước. Hồi đó, để
được vào trường, học sinh phải trải qua một kỳ thi thật khó.
Nên khi kết quả được công bố, cả ngày hôm trước nhà tôi cứ
hồi hộp dù tôi tin tưởng mình làm bài tốt. Sáng hôm đi xem
danh sách đậu, tôi dậy thật sớm chờ Ba chở đến trường, tim
đập loạn xạ giữa lo lắng và hy vọng rồi vỡ òa bật khóc những
giọt nước mắt mừng vui và tự hào khi thấy tên mình nằm ở
vị thứ 55 trên mấy trăm thí sinh đủ điểm vào trường.

Hôm ấy, một ngày quá đặc biệt nên tôi nhớ rất rõ, Ba
Má tôi vui và hãnh diện lắm khi hàng xóm xung quanh biết
con gái của Ba Má đậu vào một ngôi trường danh tiếng của
Nha Trang, cả nhà cứ cười nói huyên thuyên rôm rả, Má tôi
đãi cả nhà một bữa ăn chúc mừng thật ngon. Những ngày kế
tiếp, nào là được theo Má đi mua vải để Ba may đồ mới cho

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 297

tôi nhập học, theo hai anh trai lựa mua đồ dùng đi học và
được chị tôi móc cho chiếc mũ mới. Người tôi cứ lâng lâng
khó tả với suy nghĩ “Ôi! Mình hết là học sinh tiểu học rồi,
sắp làm người lớn rồi!” mà quên mất mình chỉ vừa chớm
tuổi ô mai.

Bao bỡ ngỡ của những ngày đầu ở trường mới cũng qua
nhanh khi tôi cùng các bạn đồng khóa được dạy dỗ dưới sự
nghiêm khắc nhưng bao dung của Thầy Cô và sự thân thiện
của các chị lớp trên. Con bé tóc ngắn tôi dần biết mơ mộng,
bớt nhảy lò cò và rượt đuổi chọi nhau với bọn con trai hàng
xóm, tôi chăm chỉ để có thể hiểu được hết các môn học tôi
chưa hề gặp khi còn ở trường Tiểu Học. Thầy Cô cũng nhiều
hơn, tôi như lạc vào một thế giới hoàn toàn khác rồi tôi bỗng
chững chạc, ra dáng hẳn sau hai năm học ở trường.

Trên lớp giờ Nữ Công, cô Bạch Vân dạy bảo tỉ mỉ từng
đường may mũi chỉ, cách cắt ráp áo quần, về nhà chỗ nào
chưa thuận tay tôi lại nhờ Ba tôi chỉ vẽ thêm cho đến khi tôi
tự cắt ráp được bộ quần áo đơn giản nhất, lòng vui như mở
hội.

Tôi thích giờ Việt Văn nhiều lắm, nhớ những lần tham
gia các buổi thuyết trình văn học, tôi cùng các bạn tự chọn
tác phẩm theo chủ đề của cô Cúc đưa ra, cùng viết bài và lên
thuyết trình trước lớp, chúng tôi dạn dĩ hơn nhiều.

Học môn Vạn Vật với cô Thanh Mai và cô Đàm, chúng
tôi được hòa mình vào thiên nhiên như khi cùng rủ nhau qua
điểm trường cũ trên đường Lê Văn Duyệt để tìm bắt châu
chấu, cào cào hoặc hái lá dương xỉ để minh họa cho bài học.

Giờ Anh Văn chúng tôi được học bộ sách English for
Today với thầy Dũng và cô Đăng Hà, nhớ lắm những lúc
nhập vai đóng kịch trước lớp, được Thầy Cô sửa âm sửa ngữ
điệu cho đúng cho hay.

Tôi nhớ có lần vì vừa muốn lập công, vừa nghịch ngợm,
tôi trèo từ hành lang trước lớp xuống mái che bê tông để quét

298 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

rác, đang cẩn thận nhặt từng cọng rác, tôi nghe tiếng đằng
hắng bên dưới. Ôi chao, nhìn xuống, tôi thấy ngay cô Tổng
Giám Thị Nguyễn Ngân đang nhìn chằm chằm vào tôi nhưng
Cô vẫn nhỏ nhẹ bảo tôi cẩn thận leo lên rồi Cô lên tận lớp
gặp tôi. Khi nghe tôi trình bày tôi chỉ muốn dọn rác ở đó, Cô
dịu giọng và nói đúng sai cho tôi hiểu. Hú hồn tôi cứ tưởng
mình sẽ bị phạt và báo về gia đình.

Chuyện của tóc ngắn tóc dài có muôn trùng điều để nhớ.
Tôi nhớ có lần tình cờ nghe các chị lớp trên rúc rích cười kể
lại chuyện luồn tay kéo áo lót không dây trong áo dài, chuyền
nhau để đối phó những lúc các cô Giám Thị đi kiểm tra trang
phục, và tôi còn hiểu được cách nói “Chia động từ TO BE”
của các chị là gì, cả chuyện ăn vụng trong giờ học.

Có lần trong giờ học Địa của thầy Tiên, các bạn ngồi ở
dãy bàn phía sau lột quýt ra ăn, cứ nghĩ nhai thật nhẹ Thầy
sẽ không biết vì Thầy đang đứng viết bảng, quay lưng lại
lớp, ai dè Thầy quay ngay lại, đi thẳng xuống giữa phòng
học nói một cách tự nhiên “Trò nào ăn quýt đó, chia cho
Thầy ăn với!” Thôi xong, ăn vụng mà quên mất vỏ quýt có
hương thơm, giấu làm sao được. Thế là cả nhóm lên văn
phòng gặp cô Giám Thị! Đúng là... thứ ba học trò, vui vui
làm sao.

Đến bây giờ tôi vẫn còn giữ được cuốn sổ chép thơ bằng
giấy pơ luya mỏng đủ màu mà tôi tự đóng. Thời đó con gái
cứ chuyền tay nhau chép các bài thơ tình dễ thương rồi học
thuộc, rồi mơ mộng một bạch mã hoàng tử nào đó. Một số
như các bài:

- Trẫm Nhớ Ái Khanh Không, Hoa Học Trò (thơ Nhất
Tuấn);

- Hai Sắc Hoa Ti Gôn, thơ TTKH;
- Paris Có Gì Lạ Không Em, Tuổi Mười Ba (thơ Nguyên

Sa);
- Đồng Khánh Năm Xưa, Lá Tương Tư (thơ Mường

Mán);

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 299

- Ghen (thơ Nguyễn Bính);
- Bài Học Thuộc Lòng Thứ Nhất: Yêu Chàng.

Những lúc dự giờ chào cờ hay ngắm nhìn các chị sinh
hoạt ngoại khóa, tôi vẫn trông mình lớn nhanh để được giống
các chị, nhưng mọi việc dừng lại dở dang vào tháng Tư,
1975. Bao kỷ niệm nhớ thương của tôi với trường chỉ gói
vỏn vẹn trong hai năm Đệ Thất và Đệ Lục, trong đó lớp Đệ
Lục chưa tròn chín tháng nhưng cũng đủ để tôi luôn tự hào
mình là học trò của trường Nữ Trung Học/ Huyền Trân-Nha
Trang. Tôi không thể quên được hình ảnh giờ tan trường, đàn
thiên nga trắng ùa ra cổng ríu rít chuyện trò hay e thẹn với
người đón chờ bên kia đường.

Tôi chưa một lần được dự Hội Trại của trường tổ chức
nhưng tôi đã mục kích ngày hội diễn hành tưởng nhớ Hai Bà
Trưng có chị Phương Hạnh đóng vai Trưng Trắc, chị Hoàng
Mơ đóng vai Trưng Nhị, tôi nhớ lắm. Tôi nhớ cả hàng keo
dọc theo bờ tường Quân Y Viện Nguyễn Huệ đường Đinh
Tiên Hoàng. Hàng keo xưa đã chứng kiến bao khung cảnh,
bao câu chuyện một thời hoa mộng của những tà áo dài trắng
tung bay trước giờ vào lớp và giờ tan học. Tôi yêu cả ngã ba
thương nhớ Đinh Tiên Hoàng – Nguyễn Tri Phương, nỗi nhớ
ấp ủ dịu dàng mỗi khi quay về chốn cũ.

Tôi nhớ những ngày lang thang hái hoa phượng đỏ ép
khô tẩn mẩn dán vào lưu bút, nhớ cả lúc đi nhặt lá bàng sao
cho đủ bốn màu từ xanh mướt đến vàng, qua đỏ rồi đỏ nâu.
Hình ảnh các nữ sinh lụi cụi đập trái bàng khô rồi cùng nhau
nhâm nhi nhân bàng thơm bùi, cười nói ríu rít vẫn nằm một
góc trong tôi để khi nào có điều gợi nhớ, tôi lại lấy ra để mà
thương mà thấy lại con bé Hà Nhung tóc ngắn đang cùng bạn
bè lăng xăng dưới gốc bàng xưa.

Ký ức của tôi với ngôi trường dấu yêu còn liên quan đến
các rạp xi nê ngày ấy, nghe có vẻ lạ nhưng đó lại là điều
thương nhớ trong tôi. Nhà tôi nằm trên đường Nhà Thờ, đối
diện với doanh trại MP của lính Mỹ. Đường Nhà Thờ hiền

300 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

lắm, không nhộn nhịp nhưng nối với những con đường một
thời là phố lớn và ở giữa các rạp xi nê của Nha Trang. Chính
điều này làm tôi biết đến có một ngôi trường rất nổi tiếng
dành cho nữ sinh tại Nha Trang.

Hồi đó khi ngồi trước nhà chơi, tôi thường thấy các chị
mặc áo dài trắng đi xem phim ở rạp Tân Tiến hoặc Tân Tân,
các chị vui lắm, đi thành nhóm. Khi tan xuất chiếu, có chị
còn ghé vào nhà tôi để thuê truyện hoặc mua đồ dùng học
tập. Nhà tôi là tiệm sách và cho thuê truyện Nga, tôi đọc thấy
tên trường Nữ Trung Học Nha Trang trên huy hiệu vải may
trên áo dài các chị. Tôi hỏi Ba tôi và anh trai đang học Võ
Tánh để tìm hiểu, thế là từ đó trong tôi nung nấu ước mơ
được trở thành nữ sinh trường Nữ Trung Học Nha Trang.

Từ nhà tôi hướng về đường Độc Lập, qua ngã tư một
chút, bên tay phải là rạp Tân Tiến hoặc rẽ trái từ ngã tư, băng
qua bên kia đường, qua khỏi nhà thuốc Nam Sanh Đường tí
xíu là rạp Tân Tân. Muốn đi tới rạp Nha Trang, tôi chỉ cần
hướng về đường Hoàng Tử Cảnh, rẽ phải đi lên một chặp là
gặp. Cũng ngã tư Nhà Thờ – Hoàng Tử Cảnh, tôi đi thẳng
đến nhà thờ Tin Lành, rẽ trái qua đường Lê Lai đến cuối
đường sẽ thấy ngay rạp Minh Châu trên đường Công Quán,
nhà Ngoại tôi gần ngay đó.

Từ nhà tôi còn có thể đến rạp Tân Quang, Tân Thanh và
Hưng Đạo vì rất gần. Chính vì điều này tôi mới thường thấy
những tà áo dài trắng rủ nhau đi xem phim, chắc chắn rất
nhiều lần các chị cúp cua để đến rạp, đa số là các chị của
trường Nữ Trung Học. Mỗi lần ghé vào tiệm nhà tôi, tay các
chị vẫn còn cầm các tờ program giới thiệu phim mà chúng
tôi vẫn gọi gọn là “tờ ram”.

Mà hồi đó, được đi xem xi nê là cả một nỗi thèm thuồng
không hề nhỏ với tôi. Còn bé nên có mấy khi được Ba Má
hay anh chị cho đi xem phim, toàn phim dành cho người lớn,
đã vậy anh chị tôi cứ bàn tán về bộ phim vừa xem hay các
chị trường Nữ Trung Học tan xuất chiếu về ngang nhà cũng

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 301

rôm rả khen tài tử đẹp trai, xuýt xoa cảm động vì tình yêu
ngang trái... nói chung làm tôi thèm lắm luôn một ngày nào
được đàng hoàng tay cầm tấm vé bước vào rạp, được coi từ
đầu đến cuối một bộ phim nào đó. Nhà gần mấy rạp xi nê,
tôi hay rủ cô em kề và hai bạn hàng xóm chạy ra quầy bán
vé xin mấy tờ ram về xem nội dung tóm tắt hay xem ai đóng
vai, cũng đỡ ghiền.

Chưa hề được coi phim nào nhưng tôi biết một số tên
tuổi các minh tinh màn bạc như Alain Delon, Richard
Burton, Marilyn Monroe, Vương Vũ, Khương Đại Vệ, Địch
Long, Trịnh Phối Phối, Trần Quang, Thẩm Thúy Hằng... Rồi
đến lúc tôi cũng được chị tôi dẫn cho đi xem phim ở rạp Tân
Tân, tôi nhớ hai bộ phim tôi được coi ở rạp này là Nữ Hoàng
Cleopatra do Elizabeth Taylor đóng, Mùa Thu Lá Bay với
Chân Trân và Đặng Quang Vinh thủ vai. Tôi được coi thêm
phim Con Ma Nhà Họ Hứa có Bạch Tuyết đóng vai Thúy
Hồng ở rạp Minh Châu và một vài phim kiếm hiệp ở các rạp
khác nữa nhưng tôi không nhớ tên.

Một điều thú vị khác nữa liên quan đến các rạp xi nê là
khi rảnh chúng tôi lại rủ nhau đến các rạp gần nhà nhất để
xem vẽ pano quảng cáo phim. Không biết trí nhớ của tôi có
nhầm lẫn chi không nhưng tôi nhớ có nghe Ba tôi kể rạp đầu
tiên có quảng cáo phim là rạp Tân Tân, sau đó là rạp Minh
Châu rồi mới đến các rạp khác. Tuy nhiên có một điều tôi
nhớ rõ là tên của người thợ vẽ quảng cáo cho rạp Minh Châu
là ông Chín, mọi người thường gọi là Chín Minh Châu. Nhà
Ngoại tôi ở gần rạp, lại có xe nước mía bán bên hông phía
trước rạp, tôi xuống Ngoại chơi nên vẫn nghe mọi người gọi
tên ông như thế. Một góc ký ức nhỏ nhưng lại không thể
thiếu trong cuốn phim cuộc đời của tôi.

Cứ vậy mà tôi hoài, tôi thương ngày xưa ấy theo chiếc
thuyền xuôi về miền nhớ của tôi...

Hà Nhung – NTH 7/75

302 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

...

Công Huyền Tôn Nữ Hạnh Thuần

Trước đến nay
đã có rất nhiều bài
viết - qua đủ các thể
loại văn, thơ, nhạc,
họa - về thành phố
Nha Trang, về mái
trường Nữ Trung
Học Nha Trang
(NTHNT)... Bản
thân tôi cũng đã
từng đóng góp hai
bài viết để gởi
những niềm thương
nỗi nhớ của mình về
Thầy Cô, bạn bè nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Trường
(2010), và nhân Hội Ngộ tại Nha Trang (8/2019). Thế nhưng,
mới đây đọc được bức tâm thư của Cô Bùi Ngoạn Lạc kêu
gọi việc xuất bản Đặc San Kỷ Niệm 60 năm của Trường, sao
cho kịp trong năm nay (2021), tôi không khỏi bồi hồi xúc
động. Lời thư của Cô quá đỗi thống thiết, lay động lòng
người khi Cô viết: “Lần này có lẽ là Đặc San cuối cùng nói
lên tình đồng môn, nghĩa thầy trò mà các Thầy Cô sẽ được
đọc vào cuối đời...” Làm sao mà một học trò cũ như tôi
không khỏi rúng động tâm can khi nghe Cô đề cập đến một
thực tế hiển nhiên như vậy! Quý Thầy Cô đều đã cao niên,
bao nhiêu vị đã lần lượt đi về nơi rất xa và ngay cả những

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 303

học trò cũ của Trường NTHNT nay cũng đều “thâm niên”

trên cõi Ta Bà này.

Vậy thì, tôi không thể chần chừ trước lời kêu gọi của Cô
đáng kính. Một lần nữa tôi phải trải lòng để chia sẻ với quý
Thầy Cô, các chị và các bạn đồng môn những điều chưa nói.
Vả lại, tôi tự nhủ, sẽ không bao giờ thừa khi có cơ hội gởi
gắm tâm tình của một học trò dành cho ngôi trường cũ, Thầy
Cô và bạn bè ngày xưa... Đâu cần phải văn chương bóng bẩy,
chỉ là diễn đạt trung thực những tâm tư tình cảm mà dường
như lúc nào cũng nguyên vẹn trong trái tim khối óc của mình.
Sau đây là vài kỷ niệm mà tôi luôn nhớ về quý Thầy Cô
thương kính – những ký ức ít ỏi của một năm lớp 12 tại
Trường NTHNT, vì những năm trước đó tôi theo học tại các
trường tư thục.

* Tôi không được vinh hạnh học với Thầy Cô Bùi
Ngoạn Lạc nhưng nhớ về Cô, trong tâm trí tôi luôn khắc ghi
hình ảnh một cô Hiệu trưởng có nét đẹp quý phái. Bây giờ ở
tuổi cao, Cô vẫn đẹp và đoan nghiêm. Về Thầy, vì Thầy quen
với Cậu tôi (ông Nguyễn Hữu Dưỡng) nên sau năm 1975, có
lần tôi được hầu chuyện với Thầy, được phép gọi Thầy bằng
“chú” khi Thầy đến nhà thăm Cậu tôi.

* Lên lớp 12C, học trò chúng tôi được làm quen với môn
Triết. Cô Tôn Nữ Diệu Trang dạy môn Tâm Lý Học, và thầy
Ngô Công Tân phụ trách môn Siêu Hình Học và Đạo Đức
Học. Tôi nhớ mình thường hồi hộp chờ cô Diệu Trang (lúc
đó là Hiệu trưởng của Trường) xuất hiện để ngắm bộ áo dài
của Cô hôm đó, lắng nghe Cô giảng về những điều còn lạ
lẫm qua giọng Huế nhẹ nhàng, trầm bổng của Cô.

Thầy Ngô Công Tân là anh của một cô bạn thời tiểu học
của tôi, Thầy là “anh Hai” trong gia đình. Tôi nhớ Thầy rất
ít nói, mà hình như nói nhỏ nữa (?). Hồi nhỏ thỉnh thoảng
đến chơi với cô bạn, tôi thấy Thầy đang thắp hương bàn thờ
ông bà. Không biết lúc dạy lớp tôi, Thầy có nhớ ra tôi không.
May quá, lúc Thầy cho làm bài kiểm tra trong lớp (sau đó thi

304 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Tú Tài thì chỉ làm bài trắc nghiệm), tôi được điểm trên trung
bình. Trong học bạ, Thầy phê cho tôi: “Chăm. Rất nhiều cố
gắng.”

* Nhắc đến Trường NTHNT, hầu như học trò các thế hệ
đều nhớ ngay đến cô Cúc, mà học trò không dám gọi tên, chỉ
kêu bằng “bà Tổng Giám Thị”. Cô rất uy nghi, là nỗi lo sợ
cho bất cứ nữ sinh nào, từ lớp nhỏ đến lớp lớn, nếu không
may bị Cô bắt gặp đi học trễ hoặc quên mặc áo lót… Tôi
cũng không học với Cô mà lại là học trò của Thầy (Nguyễn
Ngân). Mấy năm cuối đời của Thầy Cô, tôi từ Sài Gòn về lại
Nha Trang sinh sống nên thỉnh thoảng đến thăm Thầy Cô.
Có lần Cô thân tình “tra hỏi” tôi: “HT nhìn đẹp gái vậy mà
sao không lập gia đình, khó tính lắm hả?” Khi thì Cô nói
như tâm sự: “Ta dạy ở một trường có cả ngàn học sinh nữ,
vậy mà không sinh được đứa con gái nào!” Thầy nghe thấy
chỉ im lặng mỉm cười. Trong lúc chuyện trò lần sau cùng tôi
đến thăm, Thầy có khuyên tôi: “Nếu có điều kiện đi du lịch
ngoại quốc, con nên đi lúc còn khỏe mạnh. Đừng để đến lúc
tuổi già, đi không nổi đâu.” Bây giờ thì Thầy Cô đã dắt tay
nhau đi, thung dung tự tại trong cõi An Lành.

Tôi cũng nhớ đến những Thầy Cô khác với vô vàn sự tri
ân. Hầu như Thầy Cô nào cũng thu phục sự kính trọng của
học trò qua tác phong mô phạm, trao truyền kiến thức bằng
sự tận tâm và học vấn uyên bác:

* Thầy Nguyễn Hoàng Sanh, vừa là Giáo sư các môn
Pháp Văn và Công Dân, vừa là Giáo sư Hướng dẫn lớp
chúng tôi. Nếu tôi nhớ không lầm, vào lớp Thầy rất nghiêm
nghị, trong khi ngược lại, bề ngoài Thầy lịch sự, phóng
khoáng như một “tài tử điện ảnh Pháp.” Suốt năm lo học
hành chăm chỉ nên cuối năm, tôi đã nhận được lời phê tổng
quát của Thầy: “Học lực vào hạng giỏi. Hạnh tốt.”

* Thầy Nguyễn Văn Chương dạy môn Anh Văn. Thầy
thường nhắc nhở chúng tôi không được nói to, ồn ào làm
phiền lớp bên cạnh. Ngoài những bài vở trong sách English

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 305

For Today, thỉnh thoảng Thầy dạy chúng tôi những bài hát
tiếng Anh, và có lúc Thầy cho làm rồi chấm điểm những bài
thơ dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt nữa.

* Cô Trần Thị Ngọc Hương dạy Vạn Vật, nhớ đến Cô
với nụ cười thật hiền. Nghe kể bây giờ Cô yếu, ít khi đi ra
khỏi nhà. Không được đến chùa lễ Phật, chắc là Cô buồn
lắm.

* Đối với các tiết học của quý thầy Trần Văn Châu (môn
Lý Hóa), Đỗ Khế (môn Toán), Đinh Thành Tiên (Sử Địa),
tôi cũng đã ra sức học tập chăm ngoan, do đó đều được
những lời phê tốt đẹp của quý Thầy Cô. Ngay cả với môn
Thể Dục, dù không thích mấy, tôi cũng từng một lần được
thầy Ngụy Như Bàng thưởng cho cây kẹo, hình như do tôi
ném được quả bóng vào rổ.

Thật là hạnh phúc khi được sống ở thời đại công nghệ
ngày càng tân tiến. Những máy móc, những mạng thông tin
hiện đại giúp con người trở thành “thiên lý nhãn, thiên lý
nhĩ”, nhìn được xa, trông được rộng. Tôi muốn cảm ơn cuộc
sống hiện đại này, vì nhờ nó lâu nay tôi vẫn thường xuyên
“được thấy, được nghe” về quý Thầy Cô dẫu rằng các vị
đang ở các quốc gia rất xa xôi so với đất nước Việt Nam. Tôi
cũng xin cảm ơn các chị, các bạn đồng môn trong Ban Liên
Lạc (trong nước và hải ngoại) đã làm cầu nối thương yêu để
quý Thầy Cô và học trò cũ dù ở đâu trên trái đất này cũng
luôn thấy gần gũi, chia sẻ kịp thời với nhau những buồn vui
của kiếp người.

Trong truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du viết: “Cảo thơm
lần giở trước đèn / Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.”
Còn tôi, hôm nay tôi xin phép lần giở những mẩu chuyện
xưa – gần 50 năm trước trong ký ức của mình, mong làm
chút quà vui tặng quý Thầy Cô, các chị và các bạn đồng môn.
Kính chúc quý Thầy Cô an khang trường thọ. Mến chúc các
chị và các bạn đồng môn khắp mọi nơi thật nhiều sức khỏe,
bình an. Cầu mong mọi người tiếp tục vui sống trong tinh

306 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

thần hòa ái, dưới mái nhà của trường NTHNT mãi mãi lưu
danh.

Công Huyền Tôn Nữ Hạnh Thuần, (NTH 12C2–1974)

(Ảnh kèm theo bài viết:
Tờ biên nhận đóng tiền niên liễm đầu năm học 1973-1974)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 307

Nguyễn Trân Châu

Anh Võ Tánh, quần xanh áo trắng
Tóc phiêu bồng thả gió mây bay
Nàng Huyền Trân ấp úng thẹn thùng
Miệng cười bẽn lẽn khi nhìn thấy anh
Áo ai thấp thoáng bên rào
Tim ai thổn thức như người tình si
Đêm về thổn thức mơ màng
Gửi em một đóa hoa hồng
Màu hoa tình ái cho người tình thương
Ai kia đừng nỡ hững hờ
Để anh đau xót con tim vô bờ.
Gặp nhau tay bắt mặt mừng

308 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Để rồi ai nấy mỗi người một nơi

Năm nay thu tới lạnh lùng
Sáu mươi năm kỷ niệm đong đầy
Nhìn nhau thoáng chốc đã thành lão niên
Thời gian thắm thoát trôi nhanh
Ước gì ngày đó nên duyên
Để mình trọn kiếp bên nhau suốt đời

Một đàn cò trắng tung bay
Bay về xứ Vạn* năm xưa
Biển hồ lai láng như ‘hòn vọng phu’
Bồng con đứng đón trông chồng
Chàng ơi chàng hỡi nay chàng ở đâu
Lòng người thiếu phụ Nam Xương**

Vẫn là than oán cho người tình xưa
Một lòng chung thủy với chồng
Tiếng ghềnh thác đá lao đao
Nghìn năm chưa dễ đã quên cõi lòng.

Nguyễn Trân Châu (NTH 69)

* Xứ Vạn: Vạn Ninh, Khánh Hòa. Tại đây có Hòn Vọng
Phu, một thắng cảnh nổi tiếng cho khách du lịch.

** Điển tích Thiếu Phụ Nam Xương, biểu tượng của lòng
thủy chung khi chồng đi chinh chiến phương xa.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 309

Công Huyền Liên Diệu

Tôi nhớ ngày đầu tiên Thy Mai từ
Huế chuyển về trường Nữ Trung Học
Nha Trang, phải nói là sự hiếu kỳ của
những người bạn tôi thật kinh khủng
vô cùng. Trong ngôi trường nhỏ, tiếng
đồn đi quá nhanh. Hầu như gần cả lớp
bao quanh cô gái ấy, đứng chen chúc
nhau ngoài sân trường để “coi mặt”
Thy Mai. Tôi cũng vậy. Thy Mai đẹp
lắm. Đôi mắt to, đen nhánh, lông mi
dài cong vút, đôi môi nhỏ mọng. Nếu gặp Mai trong chiếc
áo đầm, tại một nơi nào đó, tôi có thể nhầm lẫn nghĩ Mai là
người Pháp. Đây là nét đẹp quí phái của một cô gái Tây
phương.

Khi chúng tôi lên Đà Lạt, cùng ở trong đại học xá Kiêm
Ái, Thy Mai theo đuổi ngành Chính Trị Kinh Doanh, tôi theo
Văn Khoa môn Anh Văn. Rồi Nhung, người bạn thân của
tôi, rời Đà Lạt để vào Sài Gòn học Sư Phạm. Tôi khá bơ vơ,
trống vắng. Thy Mai và tôi lại đến với nhau, thân thiết hơn.
Cả hai đều xa nhà, cả hai đều cần một tình bạn chân thật,
sưởi ấm lòng nhau. Trong những ngày cuối tuần tôi và Thy
Mai hay ra ngoài phố Hòa Bình mua đồ ăn vặt, đi bộ ngắm
cảnh đẹp xung quanh hồ. Thời tiết lạnh, hàng cây thông xanh
cao trên những ngọn đồi yên tĩnh thật thích hợp cho những
sinh viên sống xa nhà. Đúng 4 năm sau, chúng tôi ra trường
với văn bằng Cử Nhân.

Sau biến cố 30 tháng tư, tôi được Nhung cho biết Mai
lập gia đình và sau đó qua Đức sống tại một thành phố ngoại
ô nhỏ. Tôi về California. Chúng tôi đã liên lạc với nhau.

310 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Không hiểu tại sao đến bây giờ tôi vẫn chần chừ chưa muốn
hỏi Mai, những câu hỏi mà tôi để trong lòng từ lâu. Mai là
người Huế, ở tại một thành phố nổi tiếng với trường Đồng
Khánh. Trường có nét cổ kính duyên dáng theo lối kiến trúc
Pháp, phòng ốc cao lớn uy nghi. Màu sơn tường và mái ngói
đỏ nổi bật nằm giữa sân trường rộng rãi, với những hàng cây
phượng đỏ đầy bóng mát kia, Mai đã có những cảm xúc, ý
nghĩ gì khi Mai đến thành phố biển, học tại một ngôi trường
bé nhỏ nằm trên đường Lê văn Duyệt. Ngôi trường thật
khiêm nhường với 12 phòng học, sân trường thường hay lầy
lội nước trong mùa mưa, ồn ào luôn với tiếng xe hơi chạy
vùn vụt trên đường cái nằm sát bên.

Gần đây những câu hỏi lại đến với tôi. Mai có thất vọng
không? Mai có khóc và nhớ những người bạn thân của mình?
Nhất là Mai có nhớ xứ Huế, ray rứt muốn trở lại trường Đồng
Khánh thân yêu của Mai không? Nhưng rồi câu trả lời đã
nhận được, thật đơn giản bất ngờ. Nhung cho tôi biết với
những dòng chữ trên iPhone, texting... Thy Mai không đến
từ Huế. Mai không học trường Đồng Khánh, Mai đến từ
trường Trần Quốc Tuấn, Quảng Ngãi.” Được tin này, thay vì
thất vọng trong sự sai trật của mình, tôi lại thở phào nhẹ
nhõm cả người. Ồ, vậy là bạn mình, Thy Mai không có
những giọt nước mắt nhớ nhung trong ngày đầu chuyển
trường! Tôi mỉm cười, khi thấy nhiều khi mình thật mơ
mộng, vội vàng cho rằng, người con gái nào tôi gặp trong
chiếc áo dài trắng, với dáng người thanh thanh, nói giọng
Huế, người đó chắc chắn đã có một thời là nữ sinh Đồng
Khánh! Điều này thật kỳ lạ vô cùng. Tôi không thể giải thích
được...

Tôi nghĩ đến bà Bùi Ngọan Lạc. Bà từ Huế vào. Bà là
cựu giáo sư dạy tại trường Đồng Khánh. Người bà nhỏ nhắn,
mong manh như Thy Mai. Bà không có nét đẹp Tây phương.
Nhưng nét đẹp của Bà rất đặc biệt, rất Huế. Trong vai trò của
Bà, Bà luôn luôn mang một vẻ uy nghiêm nhưng vẫn dịu
dàng, đôn hậu. Dáng đi của bà nhẹ nhàng, khoan thai lắm.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 311

Tôi tin là trái tim của bà đã thắt lại, lòng thật hoang
mang khi Bà nhận được sự vụ lệnh từ Bộ Giáo Dục. Trong
vòng một tuần, Bà phải thu xếp hành trang để vào Nha Trang
làm việc, để thành lập một trường nữ trung học đệ nhị cấp.
Chuyện đã xảy ra vào năm 1960, khi bà đúng 29 tuổi! Tôi
cũng tin là trong suốt chặng đường rầy, trên chiếc xe lửa chạy
từ Huế vào Nha Trang, cùng với phu quân, thầy Bùi Ngoạn
Lạc, với hai con mọn ngồi cạnh bên, Bà không thể ngờ cái
núi cao mà Bà phải leo, cái gánh nặng mà Bà phải gánh trên
vai, tất cả đòi hỏi cả sự chịu đựng vô biên, lòng kiên trì sắt
đá, sự khôn ngoan sáng suốt của một người lãnh đạo, đang
chờ đợi mình ở cuối bến tàu kia.

Tôi có dịp phỏng vấn Bà. Một hân hạnh lớn lao. Qua
điện thoại, tôi xúc động nhiều với những câu trả lời của Bà.
Mạnh mẽ, dứt khoát, đầy nhiệt huyết. Thung lũng đã được
lấp đầy, đồi cao đã được san bằng, những con đường cong,
khúc khuỷu đã làm cho thẳng thớm. Ở đây tôi muốn nói đến
cái quá trình và sự thành hình trường Nữ Trung Học Nha
Trang. Trường đã được xây dựng và hoàn thành không phải
chỉ qua một tháng một năm, mà ở đây chúng ta đang nói đến
một trường Nữ Trung Học toàn diện, đầy đủ lớp học từ đệ
thất đến đệ nhất. Tất cả bắt đầu từ một con số không, kéo dài
từ năm 1960 cho đến năm 1971. Và con số không đó đã bắt
đầu với một tấm lòng dũng cảm, một ý chí bất khuất, thua
keo này bày keo khác, với tình yêu tuôn tràn không ngừng
từ nơi bà Bùi Ngoạn Lạc.

Với bà Bùi Ngoạn Lạc, trường phải xây với những
phòng ốc, những bức tường, những ngọn mái kiên cố. Một
dẫy, rồi hai dẫy. Phòng để xe, rồi phòng gia chánh. Các lớp
phải rộng, phải thoáng với những hàng ghế dài. Mọi lớp học
phải luôn có mặt các nữ sinh. Bà tin vào một gia đình ấm êm,
một xã hội vững chắc. Bà đã dàn dựng một kho tàng kiến
thức văn hóa, một hệ thống quy tắc đạo đức luân lý với giá
trị công dung ngôn hạnh. Tất cả đã được bày trên bàn, sẵn
sàng trang bị, dạy dỗ các em. Bà chỉ cần các em đến với Bà,

312 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

đến với thầy cô với một tâm hổn trong sáng, lòng vâng phục
và tin cậy tuyệt đối.

Thật vậy, với Bà khi nhu cầu giáo dục được cung ứng
trong tình yêu thương, trong sự nhẫn nại, kiên trì thì không
có một ngọn núi cao nào mà không thể san bằng được. Làm
sao tôi biết điều đó? Vì bà Bùi Ngoạn Lạc đã đến, Bà đã làm
những việc mà có lẽ nhiều người đã bỏ cuộc. Bà đã gõ cửa,
gõ nhiều lần lắm, và cửa đã mở. Bà không bao giờ khàn
giọng trong những lần thương lượng với người này người
kia. Nhìn mục đích trước mặt, Bà kiên trì thẳng tiến, không
bồn chồn, không do dự, và Bà thắng được giải!

Với tôi, ngôi trường Nữ Trung Học được xây dựng trên
một mảnh đất rất đắt và rất quý. Tại sao?

 Rất đắt và rất quý vì mảnh đất trống nằm trên đường
Đinh Tiên Hoàng, bên cạnh Quân Y Viện Nguyễn Huệ thuộc
về bà Cố Vấn ở Sài Gòn. Và bà Bùi Ngoạn Lạc đã để mắt
đến nó từ lâu!

 Rất đắt và rất quý vì chính sự kiên trì, tế nhị, khôn
ngoan đã giúp Bà có những cuộc gặp mặt nhiều lần với Đại
Tá Nguyễn Vĩnh Xuân. Bà được đất và giấy phép xây
trường, nhưng Bà cũng không bao giờ quên được câu nói của
ông Đại Tá luôn văng vẳng bên tai: “Không biết tôi cấp cho
Bà có ai kiện tôi không?”

 Rất đắt và rất quý vì mảnh đất nằm ngay trung tâm
thành phố Nha Trang. Bà nghĩ đến sự đi lại dễ dàng, và an
toàn cho các nữ sinh trong mùa nắng cũng như mùa mưa.
Nếu trường xây tại Chụt, như Bộ Giáo Dục chỉ định, thì các
em đi học quá xa, rất nguy hiểm trong những buổi chiều tối,
nhất là trong những ngày gió bão.

 Rất đắt và rất quý vì mảnh đất này đem đến một niềm
hãnh diện, vui mừng cho những người dân trong thành phố
Nha Trang. Họ đã nhận thức được một điều là không có một
xã hội, một quốc gia nào có thể phát triển tiến bộ tốt đẹp nếu
con người không có cơ hội được trang bi đầy đủ, dạy dỗ

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 313

trong lối suy nghĩ, trong sự cảm nhận, cùng cách ứng xử của
họ với mọi người chung quanh, và nhất là đem đến cho họ
một niềm tin, môt thái độ sẵn sàng đương đầu với mọi kinh
nghiệm trong mọi tình huống, áp lực trong đời sống hàng

ngày.
 Rất đắt và rất quý vì mảnh đất này nói đến bà Bùi

Ngoạn Lạc với kế hoạch, trách nhiệm, tình thương nồng
nhiệt của Bà đối với những người con mà các phụ huynh đã
đem đến gởi gấm cho Bà.

Những ngày đầu tiên khi Bà đến Nha Trang, nơi mà
không có một người bà con thân thuộc, một bạn hữu thân
thiết bên cạnh, Bà đọc những bản tường trình, quan sát mọi
thứ, và đã biết mình phải làm gì. Áp lực bắt đầu đến vì Bà
tin rằng nếu Huế có trường Đồng Khánh thì Nha Trang phải
có trường Nữ Trung Học. Tất cả phải được xây dựng trên
một nền tảng vững chắc, đó là mối liên hệ thân tình, kính
trọng giữa thầy cô và học trò, giữa nhà trường và cộng đồng.

Với bà Bùi Ngoạn Lạc, trường Nữ Trung Học Nha
Trang được thành hình không phải vì một mối lợi riêng tư cá
nhân, một danh vọng hão huyền, một cái “tôi” cần được đánh
bóng. Không, Bà tâm niệm “vạn pháp vô thường, công danh
tiền tài nay còn mai mất.”

Trong Đặc San Hội Ngộ năm 2010 Võ Tánh và Nữ
Trung Học Nha Trang, Bà đã viết: “Cảm ơn chân thành đến
các quý bạn đồng nghiệp, quý vị Phụ Huynh Học Sinh, tất
cả các em cựu học sinh năm xưa đã cộng tác chặt chẽ với
nhà trường trong việc giáo dục để cùng nhau xây dựng nên
nhà trường thân thương và đầy tình cảm như ngày hôm
nay...”

Để kết thúc cuộc phỏng vấn, tôi đã xin phép Bà hỏi một
câu hỏi cuối cùng,

- “Thưa Cô, Cô có thể cho em biết có phải trường Đồng
Khánh đã đem đến cho Cô nhiều nhiệt huyết, tâm tư, cũng

314 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

như những giá trị về đạo hạnh mà Cô tin rằng tất cả nữ sinh
phải có trong đời sống họ?”

Bà Bùi Ngoạn Lạc đã trả lời rất nhanh, không do dự:

- “Không. Cô nhận được do sự dạy dỗ từ người cha của
Cô. Về đạo hạnh ông rất nghiêm khắc với con cái trong nhà.
Nếu có một người đàn ông, một người khách bước vào nhà,
lập tức ông ra dấu cho con gái mình bước vào phòng bên
trong ngay.”

Thân sinh của Bà, tôi được biết, là một kỹ sư công chánh
làm việc tại Huế.

 Bà tin rằng nam sinh và nữ sinh không thể ngồi học
chung một lớp. Vì trong môi trường đó, nhà trường sẽ không
thể để ý, quan tâm nhiều đến các nữ sinh.

 Bà cho rằng đồng phục nữ sinh là phải áo dài màu
trắng. Không thể mặc khác màu, như một số phụ huynh đề
nghị. Bà khẳng định, vì mặc áo màu với các loại vải khác
nhau, các nữ sinh sẽ dễ có sự tranh nạnh, so sánh với nhau.

 Bà ra chỉ thị nữ sinh đi học không được mang đồ
trang sức. Vì có thể bị mất trong lớp, các nữ sinh sẽ đổ lỗi

cho nhau.
 Bà tuyệt đối từ chối không để các thầy cô và nữ sinh

tham dự trong các bữa tiệc, đêm dạ hội khiêu vũ kỷ niệm lễ
ra trường của các trường huấn luyện Không Quân, Hải Quân
địa phương. Thiệp mời được gởi đến nhà trường mỗi năm
đều luôn bị từ chối.

 Bà không cho phép bất cứ ai, ngoại trừ phụ huynh,
đến thẳng trường xin phép cho con em mình khi có sự vắng
mặt trong buổi học, vân vân và vân vân…

Tôi muốn nói lên điều này, trong cuộc sống chúng ta sẽ
gặp những người bạn rất thành công, rất danh tiếng. Nghe
những gì họ nói chuyện về gia đình riêng của họ, nhất là về
mối liên hệ vợ chồng, cách giáo dục con cái, hay những suy
nghĩ và phản ứng của họ trong những cơn hoạn nạn thử

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 315

thách, tôi luôn muốn nhìn họ với một cặp mắt kính đặc biệt.
Cặp kính giúp tôi thấy được những gì xảy ra trong quá khứ,
khi họ còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong lớp học tôi muốn
thấy những dấu ấn gì mà các thầy, các cô đã để lại trong lòng
họ.

Tôi nhớ đến cô Thanh Trí. Tôi rất kính mến Cô. Cô dạy
Vẽ. Cô rất kiên nhẫn và thương học trò. Trong trường hợp
của tôi, thì tôi phải dùng 2 chữ “bao dung”. Tuần đầu tiên,
trong bài tập về nhà, tôi phải vẽ một bức tranh về cảnh vật
thiên nhiên. Tôi cầu cứu cha tôi. Cha tôi vẽ đẹp lắm. Ngày
hôm sau, tôi đem bài tập trình lên cô. Cô khen bức tranh. Tôi
không nói là cha tôi vẽ. Trên trang giấy, cha tôi vẽ hình mặt
trời. Thật đỏ và thật tròn. Rực rỡ nổi bật trên mặt biển xanh
biếc. Tôi nhớ nụ cười rất đẹp và hài lòng của Cô khi Cô nhìn
bức tranh đó.

Những lần kế tiếp, cha tôi không giúp tôi vẽ hình nữa.
Tất cả bài tập trình lên Cô, có thể nói, không có một bức
tranh nào ra hình, ra nét... Cô biết tôi không có khiếu vẽ. Và
Cô biết bức tranh đầu tiên mà Cô khen đẹp, không phải chính
tay tôi vẽ. Tôi tưởng là Cô sẽ nói lên những lời rầy la, diễu
cợt, hay châm biếm khiến tôi phải sượng sùng xấu hổ trước
mặt các bạn mình trong lớp. Nhưng không, cô vẫn cho tôi
những nụ cười đẹp nhất.

Những năm sau trong nghề đi dạy của tôi, chính dấu ấn
“khoan dung” này đã giữ gìn môi miệng của tôi biết bao
nhiêu lần trong lớp học. Tâm hồn các em học sinh mong
manh lắm, nhạy cảm lắm. Dễ dàng nứt vỡ như những chiếc
vỏ trứng khi đụng nhẹ. Những vết thương lòng các em không
cần phải mang trên người khi bước vào đời...

Tôi cảm ơn các thầy, các cô đã cộng tác làm việc chung
với nhau, đặt lòng tin cậy nơi sự lãnh đạo của bà Hiệu
Trưởng Bùi Ngoạn Lạc. Tôi tin là tình yêu thương, lòng nhẫn
nại, khoan dung, sự gầy dựng, uốn nắn mà tôi nhận được tại
ngôi trường đã giúp tôi rất nhiều để giờ đây tôi trở thành một

316 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

người có một đời sống với mục đích rõ ràng, lòng hướng về
người nhiều hơn là hướng về mình, và đời sống tâm linh được
cẩn thận săn sóc nhiều hơn.

Đặc biệt trong 40 năm qua tôi có mối liên hệ mật thiết
với Chúa Jesus Christ. Lòng thật vui mừng phước hạnh biết
bao khi nhận được sự cứu rỗi từ nơi Ngài.

Tôi cám ơn bà Hiệu Trưởng Bùi Ngoạn Lạc, người đã
xây dựng một ngôi trường đẹp, cao và lớn, đầy ắp tình
thương của các thầy, các cô. Chính trên “mảnh đất hiếm quý”
này, tôi đã khôn lớn, trưởng thành và đã có được những
người bạn tuyệt vời: Nhung, Nhã, Loan Anh, Anh Loan,
Tâm, Thy Mai, Phan Lang, Quy Hồng, Ánh, Bình, Tuyết,
Định, ... Còn nhiều, nhiều bạn nữa mà tôi không thể viết hết
ra đây vì có sự giới hạn trang giấy. Tôi thành thật xin lỗi. Đó
là những người bạn luôn sát cánh bên tôi, họ sẵn sàng đem
đến những lời khích lệ, an ủi, xây dựng. Tấm áo họ mặc được
thêu dệt với khiêm nhường, yêu thương, thành thực, tha thứ.
Những món đồ trang sức của họ là ánh mắt thiện cảm, những
nụ cười khoan dung.

Tôi có được tình bạn “muôn màu muôn sắc” vượt cả
thời gian và không gian. Họ là bức tranh mà tôi treo trên
tường. Nếu dùng tiêu chuẩn Công, Dung, Ngôn, Hạnh làm
mức thước đo lường, thì những người bạn của tôi, nếu họ
cùng đứng bên nhau, thì tôi thấy tất cả những điều đó đều có
ở trong họ. Đó là nhờ công lao đào tạo, giáo dục mà chúng
tôi nhận được từ ngôi trường Nữ Trung Học Nha Trang.

Để kết thúc bài này, tôi xin được mượn một câu nói của
một tác giả mà tôi không nhớ tên, để tri ân bà Bùi Ngoạn Lạc
với những việc làm phi thường, công trình khó nhọc, ý chí
và tài lãnh đạo của bà.

“A woman with a vision empowers an empire of women
to do more, see more and be more.”

Công Huyền Liên Diệu (NTH/VT-69)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 317

Thô Ngoâ Thò Phöông

DẤU XƯA

Tôi đi tìm lại dấu xưa
Một thời hoa mộng cho vừa nhớ nhung.
Phố phường lạ lẫm bước chân
Quanh co mấy ngã đến gần trường tôi
Hàng cây hoa nắng bồi hồi
Thời gian vật đổi xa rồi bóng hoa
Dáng em một thuở thướt tha
Hương xưa một thuở phôi pha theo dòng
Kìa hàng phượng vĩ chờ mong
Cổng trường rộng mở ngóng trông người về
Phượng hồng hé nụ sum xuê
Ve ngân rộn rã gọi hè xuyến xao.
Bâng khuâng ngày ấy năm nào
Dấu xưa trường cũ biết bao nỗi niềm.

NGÔ THỊ PHƯƠNG
( Nữ Trung học 1974 )

318 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

Thướt tha áo trắng nắng hồng mai
Cặp sách ôm nghiêng vai sánh vai
Phượng vĩ say tình che bóng mát
Gió mơn cành lá tóc mây dài.

Tung bay tà áo rẽ muôn phương
Nón lá nghiêng nghiêng khắp nẻo đường
Trong trắng tinh khôi trang vở mới
Tương lai vun đắp dưới ngôi trường.

Thầy cô tận tụy suốt bao năm
Vươn tới ước mơ trò học chăm
Đạo hạnh làm người ghi nhớ mãi
Đò đưa từng chuyến vẫn âm thầm.

Trường lớp thân thương rộn tiếng cười
Thu se, đông lạnh, nụ xuân tươi
Hè sang phượng thắm ve sầu gọi
Lưu bút trao nhau tạm biệt người.

Trường cũ bạn xưa mãi luyến thương
Một thời áo trắng vẫn tơ vương
Ấm lòng nơi chốn xa xăm ấy
Hẳn có ai kia cũng nhớ trường.

NGÔ THỊ PHƯƠNG
(Nữ Trung học 1974 )

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT 319

Ế ƯỜ

Sáu mươi năm, một dòng trôi
Sáu mươi tuổi, lập trường tôi ngày nào.
Sân trường phượng vĩ xôn xao
Chị hàng dương liễu ngọt ngào vi vu
Gọi người tuổi lá sang thu
Nhớ người khuất bóng sương mù xa xăm
Nha Trang biển vẫn lặng thầm
Dạt dào sóng vỗ ngàn năm chờ người
Người về cánh phượng hồng tươi
Người về nỗi nhớ ngậm ngùi phôi pha.
Dòng trôi bạt cánh chim xa
Mừng ngày thành lập kết hoa mái trường.
NGÔ THỊ PHƯƠNG
( Nữ Trung học 1974 )

320 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

TAMÁ AÛNH

Tấm ảnh nào đưa ta về kỷ niệm
Cho vần thơ cất cánh nỗi niềm riêng
Tưởng chìm sâu trong giấc ngủ triền miên
Thời áo trắng hồn nhiên tình nồng thắm.

Ngày tháng năm ngày mang nhiều dấu ấn
Dòng đời trôi xuôi ngược bước thăng trầm
Cánh phượng hồng rơi rụng dạ bâng khuâng
Dâng cảm xúc trải hồn thơ lai láng.

Con suối thơ nghe âm vang tình bạn
Người khơi nguồn dòng chảy vượt thời gian
Trong mơ ta ngụp lặn ánh trăng vàng
Bầu trời tối ánh lên điều kỳ diệu.

Ngô Thị Phương 321
( NTH- 1974 )

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT

DAUÁ CHAÂN BÔØ CATÙ

Mưa bụi bay se se lòng phố biển
Sóng rì rào thầm thĩ tiếng yêu thương
Chiều bâng khuâng trên phiến đá hàng dương
Bờ cát trắng dấu chân người lưu luyến.
Mênh mang tìm cánh én vọng trời xa
Người về đây tay đan ngón ngọc ngà
Cho biển hát khúc ca ngàn sóng vỗ
Cho đường chiều rạng rỡ bóng xuân sang.

Ngô Thị Phương
( NTH - 1974 )

KHOANÛ G LANË G

Vàng thu qua ô cửa
Nhẹ nhàng tiếng thoi đưa
Ôm lòng vào kỷ niệm
Giăng mắt buồn cơn mưa.
Xuân hồng tươi một thuở
Nắng bên đời bỡ ngỡ
Mộng ước tràn thơ ngây
Chìm trong chiều nhung nhớ.
Với trời xanh vời vợi
Níu tay người vội xa
Buốt giá hạt sương sa
Giấc mơ nào vẫy gọi.

Ngô Thị Phương
( NTH- 1974 )

322 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

Cung Thị Lan - NTH 75

Trong suốt cuộc đời, tôi đã trải
qua khá nhiều ngưỡng cửa vào các
trường công lập ở Việt Nam và Hoa
Kỳ, nhưng ngưỡng cửa vào trường
công lập Nữ Trung Học Nha Trang
là ngưỡng cửa ghi lại trong ký ức tôi
nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhất.

Để được nhận vào trường Nữ
Trung Học Nha Trang, các nữ sinh
từ các trường Nữ Tiểu Học Nha
Trang và các trường công, tư thục
khác phải trải qua một kỳ thi rất khó
gồm Tập Làm Văn, Toán, và Câu Hỏi Thường Thức. Kỳ thi
này được gọi nôm na là kỳ thi vào lớp Đệ Thất (tương đương
lớp 6 sau này). Đậu kỳ thi Đệ Thất để được học trong trường
Nữ Trung Học Nha Trang là niềm vui lớn đối với chúng tôi
và là niềm hãnh diện của cha mẹ chúng tôi, bởi vì khi được
nhận vào trường, phụ huynh học sinh không phải trả học phí,
còn chúng tôi được học ở một trong những ngôi trường nổi
tiếng nhất của thành phố biển Nha Trang.

Do giới hạn số học sinh thâu nhận vào lớp Đệ Thất của
trường Nữ Trung Học Nha Trang, phụ huynh của các gia
đình nghèo, không có điều kiện cho con học kèm, ít có hy
vọng con của họ có thể thi đậu. Bác cả của tôi, bác Cung Giũ
Nguyên, có lẽ cũng có cùng ý nghĩ này, nói với má tôi nên
cho tôi ghi danh vào học lớp Đệ Thất của trường Lê Quý

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 323

Đôn, một trường bán công khá tốt, trong khi chờ kết quả thi
của trường Nữ Trung Học Nha Trang. Bác muốn phòng
trường hợp tôi thi rớt, nhập học trễ trong trường tư thục sẽ bị
mất bài hay có thể mất một năm học. Má tôi nghe có lý, đồng
ý ngay. Thế là má đặt may cho tôi hai cái áo đầm bông hoa
rất sặc sỡ. Tôi không quen đi học với áo bông hoa màu mè,
đoán rằng má muốn tôi có vẻ “sang trọng” xứng đáng là cháu
của một hiệu trưởng trường bán công trung học Lê Quý Đôn.

Năm 1968, mái tóc dày và dài đến lưng của tôi thường
được tôi thắt bím thành hai con rết gọn gàng. Hai bím tóc
con rết này tạo cho tôi một khuôn mặt có vẻ hơi quê mùa
kém tươi tắn. Bác cả của tôi, người mà tôi thường gọi “bác
trai”, có lẽ cũng nghĩ mái tóc của tôi ảnh hưởng đến dáng vẻ
bề ngoài của tôi nên trước khi cho tôi nhập học vào trường
Lê Quý Đôn, bác gọi tôi vào phòng sách của bác để bác cắt
tóc cho. Tôi rất kinh ngạc vì tôi chưa hề thấy bác cắt tóc cho
ai, nhưng không thắc mắc gì, ngoan ngoãn nghe theo lời. Sau
khi bảo tôi ngồi trên một cái ghế gỗ, bác choàng quanh cổ
tôi một miếng vải trắng rồi lấy kéo, lược và tỉ mỉ cắt tóc cho
tôi với nét mặt hết sức chăm chú. Đây là lần đầu tiên tôi được
cắt tóc như ở trong tiệm cắt tóc. Chỉ khác là xung quanh tôi
không phải là bàn gương của tiệm hớt tóc mà kính phản
chiếu của tủ đựng sách và cái bàn có nhiều cuốn sách và máy
đánh chữ ở trên. Tôi không hình dung mái tóc mới của mình
như thế nào và cũng không quan tâm lắm vì tôi đang thú vị
với lần đầu tiên được ngồi trong phòng đọc sách của bác trai.
Đây là nơi bọn trẻ chúng tôi không bao giờ được phép bước
chân vào. Bác trai tôi có thói quen làm việc trong yên tĩnh.
Bác thường đánh máy hay đọc sách với sự tập trung cao độ.
Hiểu ý bác, những đứa trẻ trong nhà hiếm khi đi ngang, nói
lớn hay gây tiếng động gần nơi phòng đọc sách.

Nhìn những tủ kính cao nghệu với những gáy sách dày
mỏng xung quanh, tôi cảm thấy như đang ở trong một hàn
lâm viện trang nghiêm. Một lúc sau, tôi bỗng giật mình khi
thấy một khuôn mặt “ngô ngố” trong chiếc kính của tủ sách

324 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

gần đó. Hết hồn, tôi định
lấy tay sờ mái tóc mình
nhưng gượm lại bởi đôi mắt
ngắm nghía đầy căng thẳng
của bác. Cúi xuống nhìn
dưới chân mình, tôi thấy vô
số mớ tóc đen nhánh đang
nằm chồng chất, ngổn
ngang. Trời ạ! Thì ra bác
trai tôi đã cắt xén toàn bộ
mái tóc dài của tôi với ý
định cho tôi có mái tóc Tây
phương tên Đơ-mi gác-
xông hay Bum-bê gì đó
nhưng bây giờ kiểu gì
không ra kiểu gì. Trước đó, tôi đinh ninh bác cắt tóc tôi ngắn
đến ngang vai như kiểu tóc thề của mấy chị điệu đà thục nữ
của các trường trung học là đã quá “khả năng” của bác rồi
chứ có ngờ đâu bác cắt “quá đà” đến nỗi mái tóc của tôi trở
thành ngắn ngủn cả đến tôi cũng không nhận ra tôi! Buồn
quá mà tôi không biết nói sao ngoài ba chữ “Cảm ơn bác”
trước khi ra về.

Về nhà, thấy hai cái áo đầm “hoa hòe, hoa sói” của má
đặt may cho tôi, tôi càng buồn hơn. Tôi đâu có dè sau khi
học hết bậc tiểu học, tôi bị “đổi đời” một cách kinh khủng
như vậy. Dù sao, ngày khai giảng của trường Lê Quý Đôn
đã đến, tôi đành phải theo ý của người lớn, chứ không thể
làm gì khác hơn.

Bác trai chở tôi đến trường bằng xe ô tô của bác. Bác
thường đến trường sớm rồi vào phòng hiệu trưởng làm việc
gì đó nên tôi thường ngồi trong văn phòng chờ đến khi vào
lớp. Văn phòng trường chỉ có cô Long Ái cũng hay đi làm
sớm nên chỉ có cô và tôi. Cô rất thương tôi. Mỗi khi cô cần
về nhà sát cạnh trường, để lấy gì đó, cô thường dắt tôi theo
và giới thiệu tôi với gia đình. Tôi cũng được nhiều thầy cô

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 325

trong trường quan tâm, để ý, cho nên, tôi thường mạnh dạn
phát biểu ý kiến và hầu hết các bài kiểm tra của tôi đều đạt
điểm cao. Tôi còn được bạn bè trong lớp Đệ Thất Một yêu
mến, nên tôi cảm thấy an vui với trường bán công trung học
Lê Quý Đôn mà mình đang học. Dù là thế, thỉnh thoảng, tôi
vẫn nghĩ đến chuyện được thi đậu. Tôi mong ước được vào
trường Nữ Trung Học để được học với bạn chỉ toàn là nữ, và
được mặc đồng phục áo đầm trắng như thời học trong trường
Nữ Tiểu Học Nha Trang.Tuy nhiên, tôi lại cảm thấy đó chỉ
là chút hy vọng xa vời. Làm sao tôi có thể “địch lại” bao
nhiêu đứa con gái lớp Năm học giỏi trong toàn thành phố
Nha Trang để được vào ngôi trường nổi tiếng này.

Tôi nhớ như in ngày thi vào lớp Đệ Thất. Tối hôm trước
ngày thi, tôi nôn nao chuẩn bị cẩn thận giấy nháp, viết mực,
viết chì, đồ gọt, gôm và thước kẻ, nhưng trằn trọc mãi không
chợp mắt được. Rồi tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết… Tờ
mờ sáng hôm sau, tôi đã thức dậy. Vệ sinh, ăn sáng do má
tôi làm xong, tôi ngồi chờ chị Thanh Hải chở đến trường Nữ
Trung Học. Chị Thanh Hải tuân theo lời bác trai giúp đưa tôi
đi thi. Chị Thanh Hải là con của chú họ tôi, chú Thang, sống
ở Pleiku. Mặc dù trong quan hệ bà con, chị Thanh Hải vai
em nhưng vì chị lớn tuổi hơn tôi nên tôi quen miệng gọi chị
và chị cũng xưng chị với tôi luôn. Sau biến cố Tết Mậu Thân
năm 1968, chú Thang gửi gắm hai đứa con gái trong số bảy
người con gái của chú là chị Thanh Thủy và chị Thanh Hải
xuống Nha Trang nhờ hai bác cả tôi nuôi dạy và đưa vào
trường Lê Quý Đôn học.

Trong thời gian đầu, khi mới chuyển trường từ Pleiku
xuống Nha Trang, chị Thanh Hải học tạm thời trong trường
bán công trung học Lê Quý Đôn, sau đó chị nhất quyết tham
dự các cuộc thi tuyển để được vào học trường Nữ Trung Học
Nha Trang. Khác với sự an phận của chị Thanh Thủy, chị
Thanh Hải luôn lưu tâm đến chuyện vào trường nữ nổi tiếng
này. Chị nói với tôi là: “Nếu mình chú tâm học và có ý chí
thì dù kỳ thi có khó đến mấy cũng có thể đậu được!” Từ câu

326 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

nói này, tôi thần tượng chị lắm. Tôi nghĩ chị Thanh Hải có
tinh thần cầu tiến, thích những điều mới mẻ biểu hiện ở cách
ăn mặc đẹp đẽ và hợp mốt thời trang của chị. Khác với lối
trang phục quần Tây ống pát, áo thun dài tay, cổ chìa khóa
của chị Thanh Thủy, chị Thanh Hải thích mặc áo sơ mi hay
áo cánh tóm gọn vào váy ngắn, rất ngắn. Những chiếc váy
ngắn luôn khoe đôi chân thon và trắng nõn của chị. Thân
hình thanh mảnh với đôi chân trắng nõn nà luôn thoăn thoắt
tạo cho chị một vẻ đẹp ưa nhìn của cô gái phương Tây, ăn
mặc đúng mốt và hợp thời trang. Hơn thế nữa, chị nói năng
nhẹ nhàng với phong cách điềm nhiên và trầm tĩnh của người
hoàng phái, xứng đáng với họ Tôn Nữ của chị; thế mà, đến
ngày chị đưa tôi đi thi, tôi mới biết chị mê tín chẳng khác gì
những người lớn cổ hủ theo lối xưa.

Sau khi cài khoen của chiếc cổng gỗ trước nhà bác Cả,
chị Thanh Hải đẩy chiếc xe đạp xuống đường rồi bảo tôi ngồi
lên để chị chở đi. Chị chở tôi thẳng đến góc đường Hoàng
Tử Cảnh và Đào Duy Từ, rồi quẹo thẳng đến góc đường Đào
Duy Từ với Phan Chu Trinh xong thẳng đến ngã Sáu nơi rạp
hát Tân Quang, vòng sang đường Quang Trung và quẹo sang
đường Bá Đa Lộc. Khi quẹo sang đường Đinh Tiên Hoàng,
đi ngang trường Nữ Trung Học, nơi có vài học sinh lác đác
đứng với phụ huynh trước cổng, chị nói:

“Giờ còn sớm, họ chưa cho vào thi đâu! Em còn nhiều
thời gian lắm, để chị chở em sang quán chè trường Lê Quý
Đôn ăn chè đậu xanh, lấy hên để đậu.”

Vừa nói, chị vừa đạp xe rất nhanh, chở tôi băng qua con
đường lớn Lê Thánh Tôn đến quán chè cạnh trường Lê Quý
Đôn. Hai chị em tôi là người mở hàng của quán chè ngày
hôm ấy. Con trai ông chủ quán đang lục đục xếp đặt, lau dọn,
ngừng tay đem ra hai ly chè đậu xanh như lời yêu cầu của
chị Thanh Hải. Tôi không thích ăn ngọt vào lúc sáng sớm
nhất là không thích ăn loại chè đậu xanh có vỏ nhưng tin lời
chị, tôi ăn thật mau trong tâm trạng vui vẻ và chứa chan hy

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 327

vọng. Sau ngày ấy, khi học trường Lê Quý Đôn, đến giờ ra
chơi, tôi thường ra quán chè của ông cai trường Lê Quý Đôn
gọi chè đậu xanh để ăn. Những lần như thế, tôi thường mơ
màng nghĩ đến kết quả của kỳ thi Đệ Thất và cảm thấy thời
gian chờ đợi thật dài.

Rồi ngày trường Nữ Trung Học Nha Trang ra thông báo
kết quả kỳ thi Đệ Thất đã đến. Mấy đứa bạn hàng xóm cùng
lứa tuổi của tôi xôn xao, rủ nhau đi xem kết quả. Tôi cũng
nôn nao, rủ em gái tôi đi theo. Đây là lần đầu tiên tôi đi bộ
đến trường Nữ Trung Học. Khi đi trên xe đạp và ô tô tôi đã
thấy con đường này dài hơn con đường tôi đi bộ đến trường
Nữ Tiểu Học Nha Trang khá nhiều; vậy mà hôm ấy con
đường này như dài ra. Chúng tôi càng bước nhanh, con
đường như kéo dài xa hơn và thăm thẳm. Có lúc, hai chị em
tôi phải chạy thật nhanh mới đuổi kịp mấy đứa bạn trong
xóm đến cổng trường.

Những tia nắng chiều dịu dàng quét dài từ giữa lối đi
của cổng đến tận góc đường Đinh Tiên Hoàng và Lê Thánh
Tôn. Nhiều đứa con gái với y phục đủ loại đầm, quần dài, áo
ngắn đủ màu đi vào, đi ra trong không khí nặng nề. Nhiều
khuôn mặt buồn bã, thất vọng lặng lẽ đi ra khỏi trường khiến
tôi đoán là chúng không thấy tên trong bảng thông báo. Tuy
nhiên, có những khuôn mặt vui tươi mà bước lặng lẽ không
nói, không rằng khiến tôi không tìm được lý giải nào. Một
vài nhóm nhỏ tụm năm, tụm bảy bàn tán râm ran.

“Thi hỏng năm này thì năm sau thi tiếp, có gì đâu mà
lo. Miễn sao mình cố gắng là được.”

“Ừa, đúng rồi. Mình thi rồi, biết cách thi ra sao rồi,
năm sau thi lại là đậu thôi!”

“Có gì mình học tiếp liên ở trường Hóa Khánh! Trường
Hóa Khánh dạy Toán giỏi lắm.Ai vô đó học thêm cũng đậu!”

“Ồ thì ra mấy đứa này bị rớt hết rồi! Tụi nó đang tính
chuyện thi đậu sang năm!” Tôi vừa nghĩ thầm vừa lo lắng

328 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

bước nhanh đến bảng thông báo. Có khá nhiều đứa đứng
trước khung gỗ chữ nhật được đóng chắc vào hai trụ gỗ để
đỡ, dán mắt vào những tấm giấy in chi chít những con số thứ
tự và tên. Những đứa thấy tên mình reo lên inh ỏi. Tưởng
đâu chúng sẽ bước ra để cho người khác len vào xem, nhưng
chúng cứ vẫn đứng ỳ dán chặt mắt vào tên của chúng, cứ như
thể chúng sợ dòng chữ phai nhạt mất đi. Những đứa không
tìm ra tên thì càng tệ hại hơn. Chúng lần theo từng hàng chữ
trong mấy tờ giấy, đọc lầm rầm như đọc kinh.Cũng may là
khung chứa những trang giấy có danh sách học sinh trúng
tuyển được ngăn bằng tấm lưới thép cách xa hơn ngón tay
và được khóa kỹ bằng một ổ khóa dưới đáy; nếu không
những tờ thông báo này sẽ bị xé và lấy mất bởi những đứa
đậu hay không đậu.

Tôi nôn nóng len lỏi qua đám người đang bu thành hai,
ba lớp trước mặt rồi nhón chân, ngóc đầu cố gắng nhìn vào
các ô lưới. Những giòng chữ ngang ở các hàng trên cùng
không có tên tôi. Khi những đứa đứng trong lần lượt bước ra
với những tiếng reo hò, tôi được đứng sát gần tấm lưới để
xem kỹ. Tuy nhiên, đảo mắt đọc từng tên một, từng hang một
từ trên xuống rồi từ dưới lên, tôi không hề tìm thấy tên mình.
Dò thêm một lần nữa vẫn không thấy, tôi thất vọng quá định
ra về. Chợt thấy đám bạn hàng xóm đang bu quanh một
khung thông báo khác giữa hai rặng dương gần đấy, tôi phân
vân không hiểu trường đăng cùng một danh sách học sinh
trúng tuyển trong hai khung thông báo ở hai nơi khác nhau
nhằm tạo điều kiện cho người xem kết quả dễ dàng và thuận
tiện hay có thêm một danh sách tiếp theo. Đang tần ngần
trước đám đông dày đặc, bất chợt nhỏ Hòa, con bác Tám gần

nhà tôi, reo lên:

“Lan ơi! Lan đậu rồi!”

Tôi mừng rỡ, cố gắng len lỏi qua đám đông đến chỗ nó,
hỏi thật lớn:

“Thật không Hòa? Đâu? Đâu?”

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 329

“Đây nè! Tên Lan chỗ này nè!”

Con nhỏ kéo tôi vào tận tấm lưới, chọt tay vào trong lỗ
tròn nhỏ của khung, chỉ vào trong:

“Cung Thị Lan đây nè! Thấy chưa?”

Tôi lắp bắp:

“Đúng rồi! Trời ơi! Thật không ngờ!”

Tôi lắp bắp mãi hai chữ “Không ngờ! Không ngờ!”
trong lúc vẫn dí sát mắt vào tên của mình. Một lúc sau, tôi
mới định thần, quay ra ngoài, hỏi mấy đứa bạn hàng xóm:

“Mấy đứa đã tìm thấy tên chưa?”

“Rớt hết rồi! Nhưng mà rớt cũng không sao, sang năm
tụi tao thi tiếp.”

Con Hòa chép miệng:

“Lan học giỏi thật đó! Đậu Đệ Thất vào trường Nữ
Trung Học không dễ đâu.”

Mấy đứa khác cũng gật gù đồng tình, hớn hở với tin tôi
được thi đậu. Tôi nhìn tụi nó nhưng không nói gì. Tình bạn
đầy thương yêu tràn ngập trong lòng tôi. Mấy đứa bạn tôi thi
rớt không buồn mà còn chia vui với tôi. Chúng vui như thể
chúng là những người được thi đậu chứ không phải là tôi.
Nhất là con Hòa, nó cứ trầm trồ hoài về chuyện tôi thi đậu,
rồi vẽ ra biết bao nhiêu viễn ảnh huy hoàng khi tôi được vào
học trường Nữ Trung Học Nha Trang. Càng nghe nó nói, tôi
càng cảm nhận sự quý giá của tình bạn xóm giềng! Giá như
trước đây tôi ru rú trong nhà theo kiểu kín cổng cao tường,
không ra khỏi bức tường cổ kính của nhà nội tôi, thì có lẽ
chẳng bao giờ tôi đón nhận được tình bạn quý giá như lúc
này. Tôi nhớ những lần lén bà nội, bác trai và các cô leo ra
khỏi bức tường thành để chơi lò cò, nhảy dây, ô làng, giựt
cờ, kéo co với tụi trong xóm.

330 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Sau khi chơi đùa chán chê, chúng hay nói với tôi về
những trái cây xum xuê trong khu vườn của nội tôi và ước
ao được ăn thử vài loại trái cây ấy. Để chiều tụi nó và cũng
để khoe những trái cây trong vườn nội mình ngon thể nào,
tôi thường lén hái vài trái khế ngọt, vài trái sa bu chê, vài trái
nhãn, vài trái ổi sẻ hay vài trái mãng cầu chuyền qua những
ô trống của bức tường thành để cho chúng. Những lúc các
bác, các cô đi vắng, thì tôi “công khai” leo lên cây mận xanh
ở sát tường thành, hái nguyên chùm, cả cành lẫn lá, rồi
chuyền xuống cho từng đứa. Những lúc như thế, chúng
thường đứng dưới nhao nhao la lên “Hái chỗ này nè Lan!”
hay “Còn mấy chùm ở phía này nữa nè Lan!” “Cho tao thêm
nữa đi Lan!” “Tao nữa!Tao nữa!” Cũng may cho tôi là cây
mận xanh sai chi chít trái, cho nên, mỗi lần tôi hái trộm mận
cho bạn, những người lớn trong nhà không hề biết vì không
thấy “mất dấu”. Và cũng không ai nghĩ tôi can đảm trườn
theo cành ra tận phía ngoài đường để hái trái ở các đầu ngọn.
Bấy giờ, cảm nhận được tình thương chân thành của đám
bạn dành cho mình, tôi cảm thấy sự “hy sinh” và “chiều
chuộng” của mình đối với chúng trước đây là hợp lý.

Tôi nhìn Hòa nói với giọng hết sức tình cảm và thành
thật:

“Lan không học giỏi đâu Hòa! Tại vì Lan ăn chè đậu
xanh hôm đi thi nên được đậu đó!”

“Thật hả?”

“Thật!”

“Vậy thì sang năm Hòa cũng ăn đậu xanh để được đậu
vào trường Nữ Trung Học.”

Năm sau, không biết nhỏ Hòa có ăn đậu xanh trước khi
đi thi như tôi mách nước không nhưng con nhỏ hẳn sẽ thi
đậu Đệ Thất vào trường Nữ Trung Học Nha Trang như nó
đã dự định và quả quyết. Còn tôi đinh ninh “cái mẹo” như
thế sẽ linh ứng và hiệu nghiệm cho tất cả thí sinh nên khi đưa

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 331

em gái tôi đi thi, tôi cũng chở nó băng qua con đường lớn Lê
Thánh Tôn, đến quán chè của trường Lê Quý Đôn, “uy nghi”
gọi chè đậu xanh để em tôi ăn lấy hên. Hôm ấy, hai chị em
tôi cũng là người mở hàng như hôm tôi đi với chị Thanh Hải
nhưng ông cai trường không có chè đậu xanh mà chỉ có chè
đậu đen khiến tôi lúng túng không biết tính sao. Ngẫm nghĩ
một lúc tôi giải thích với em gái tôi là: “Thôi kệ đi! Xanh hay
đen gì cũng không sao miễn là có chữ ‘đậu’ thì Cúc sẽ được
đậu thôi!”

Con nhỏ em nghe có lý, ăn trong hớn hở. Thế nhưng,
đến khi trường ra thông báo kết quả, hai chị em cùng dò từng
tên một trong bảng danh sách trúng tuyển đến hai, ba lần mà
không tìm thấy tên của nó. Lúc đó, tôi mới nghiệm ra là đã
có chữ “đen” ắt phải có chữ “đủi” nghĩa là xui xẻo, và cũng
có nghĩa là chữ “đậu” trong chữ “đậu đen” không thể nào
“áp chế” chữ “đen” được. Tôi tự giải thích lòng vòng vì
buồn. Ước mơ hai chị em học chung một trường bây giờ đã
tan tành mây khói. Tuy vậy, tôi đã an ủi nhỏ em rằng: “Thôi
đừng buồn! Dầu sao em học trường Lê Quý Đôn sẽ được
nhiều thầy cô để ý và bạn bè gần gũi thương mến. Chứ như
chị đây, được học trong trường Nữ Trung Học nhưng trường
đông học sinh quá, học chung một liên lớp mà chưa biết nhau
hết, làm sao có chuyện gần gũi. Đến trường chỉ học rồi về
thôi chứ không thân thiết như ở trường Lê Quý Đôn đâu.Chị
nhớ bạn bè, nhớ những cánh cửa sổ rộng thấp có thể bước
qua lại dễ dàng và nhớ nhất những cây me Tây trong sân sau
của trường Lê Quý Đôn lắm. Mỗi trường có những cái đặc
biệt khác nhau. Sau này, có gì hai chị em mình kể cho nhau
nghe những gì mình biết. Vậy cũng lợi chứ!”

Cũng may cho tôi là dù tôi lý luận lòng vòng cỡ nào,
nhỏ em tôi cũng thấy tôi có lý và tin lời tôi. Và cũng may
hơn nữa là nó được thầy cô và bạn bè trong trường Lê Quý
Đôn thương mến như tôi dự đoán. Tuy nhiên, sau một năm
học, em tôi nhận ra là nó không biết nhiều thứ như tôi biết
khi học trong trường Nữ Trung Học Nha Trang. Trường bán

332 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

công trung học Lê Quý Đôn không có lớp Vẽ và cũng không
có lớp Nữ Công; cho nên, mỗi khi nó thấy tôi vẽ hình hay
thêu, đan, may, móc crochet nó thường nhìn với ánh mắt ao
ước và thèm muốn. Sau học lớp Đệ Lục (tương đương với
lớp 7 sau này) tôi đã biết vẽ truyền chân, biết đánh bóng nét
đậm nhạt các hình vẽ bằng bút chì đen, biết pha màu nước
và biết sáng tạo nhiều tác phẩm nghệ thuật liên quan đến thủ
công mỹ nghệ. Tôi còn biết thêu và may một số quần áo cơ
bản như áo cánh, quần ngắn, quần dài và còn biết ráp quần
chân què. Một loại quần rất phức tạp của các mệ ngày xưa là
một thử thách rất lớn đối với người may. Tôi còn biết đan tất
cả các mũi cơ bản như mũi xuống, mũi lên, bỏ lỗ để hoàn
thành một bộ đồ len của bé sơ sinh sáu tháng gồm một đôi
vớ, một cái mũ và một cái áo dài tay.

Cuối năm 1969, trường Nữ Trung Học tổ chức lễ Tổng
Kết cuối năm học với chương trình Văn Nghệ thi đua rất hào
hứng cho nên các lớp ra công tập luyện hết sức công phu.
Trước ngày ấy, cô Nguyễn Thị Thanh Trí, giáo sư Vẽ, và cô
Thái Thị Bạch Vân, giáo sư Nữ Công, còn chọn những tác
phẩm đặc sắc của học sinh để trưng bày trong phòng Triển
Lãm. Tôi được cả cô Thanh Trí và cô Bạch Vân chọn tác
phẩm để triển lãm. Cô Thanh Trí chọn bức hình Con Chó mà
tôi kết hợp màu nước và cát biển để diễn đạt một con vật
trung thành dễ thương với ánh mắt thông minh và sinh động.
Tôi đã dùng hình ảnh con chó Nhật tên Jack của cô Út tôi để
vẽ một con chó ngồi. Kế đó, tôi lấy cát biển do má tôi xúc từ
biển về, rửa sạch phơi khô, rang với màu nước màu xám
nhạt. Rồi tôi dùng keo trét đều trên thân hình con chó và rây
cát khô màu xám lên. Khi keo khô, con chó trong hình có bộ
lông xám giống y chang màu lông con chó của cô Út. Để làm
nổi bật thân hình con chó trong bức hình, tôi đã dùng màu
đen tô nền; đồng thời làm cho đôi mắt nó sinh động bằng
cách pha màu đen hòa với màu xám kèm chút xíu màu trắng.
Đôi mắt của con chó trong hình sinh động như ý muốn của
tôi khiến cho bức tranh rất có hồn; tuy nhiên, tôi không được

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 333

điểm tối đa 20/20 mà chỉ được 18/20. Có tất cả 5 lớp Đệ Lục
nên cô Thanh Trí có rất nhiều tác phẩm của học sinh của liên
lớp Đệ Lục, chưa kể các liên lớp khác. Cho nên, khi cô
Thanh Trí chọn bức ảnh Con Chó bằng cát của tôi để triển
lãm, tôi hết sức sung sướng vì biết cô chú ý đến khả năng
của mình. Tôi còn vui mừng hơn khi được cô Bạch Vân chọn
bộ đồ len bé sơ sinh và chiếc khăn choàng cổ mà tôi đan để
triển lãm. Từ lúc hai giáo sư Vẽ và Nữ Công sắp xếp trang
trí hai phòng triển lãm cạnh phòng cô Hiệu Trưởng và cô
Tổng Giám Thị, tôi thường ghé tạt qua trong những giờ ra
chơi với tâm trạng hết sức vui sướng. Để chia sẻ niềm vui
sướng ấy tôi muốn em gái tôi tận mắt chứng kiến thành công
của mình. Buổi xế chiều hôm ấy, tôi bảo em tôi mặc áo đầm
trắng như màu áo đồng phục của mình, rồi đến chỗ ở của ông
cai trường xin cho em gái tôi được vào trường xem những
tác phẩm của tôi trong phòng triển lãm. Ông cai đồng ý cho
tôi dắt em tôi vào trường vì ông thấy em tôi mặc áo đầm
trắng như tôi và như những nữ sinh lớp Đệ Thất, Đệ Lục của
trường; hơn nữa, ông biết phòng triển lãm đã khóa nên chúng
tôi đứng ngoài nhìn vào cũng không hề gì.

Lần đó là lần đầu tiên em tôi bước vào trường Nữ Trung
Học với áo đầm màu trắng như đồng phục của nữ sinh trong
trường. Nhìn khuôn mặt trầm ngâm của nó, tôi đoán nó đang
bâng khuâng với những ý nghĩ xung đột. Có lẽ nó đang so
sánh sự khác biệt giữa hai trường về đồng phục, và sự bắt
buộc giới tính. Và cũng có lẽ nó đang tự tìm ra câu trả lời về
những điều tốt đẹp của mỗi sự khác biệt trong từng hình thức
giáo dục khác nhau. Tôi không quan tâm đến những gì con
nhỏ nghĩ, hăm hở nắm tay nó dẫn đến dãy phòng học của lớp
Đệ Lục, dãy phòng học này song song và đối diện với dãy
văn phòng của trường. Tôi thường đến lớp học vào buổi
sáng, phòng học dành cho các chị lớn học buổi chiều nhưng
lúc bấy giờ các lớp chiều đã kết thúc nên các phòng học
không còn ai. Ngang qua các phòng, lướt mắt nhìn vào
những bục giảng, bàn giáo sư uy nghi trên cao và các dãy

334 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

bàn ghế học sinh thẳng hàng, ngay ngắn, nhỏ em tôi không
nói gì nhưng khuôn mặt rất sâu lắng. Đi hết dãy phòng học,
tôi dắt nó bước xuống những bậc cấp, qua chiếc sân cát có
hai hàng dương thẳng tắp để đến hai phòng Triển Lãm, nơi
mà tôi thường xuyên đến vào giờ chơi để xem có những
những tác phẩm nào mới được hai cô Thanh Trí và cô Bạch
Vân gom góp mỗi ngày để trưng bày. Hôm nay, hai phòng
Triển Lãm có rất nhiều tác phẩm đến nỗi tôi có thể nhìn cận
cảnh những vật dụng được trưng bày sát cửa sổ. Tôi mê hoặc
bởi những bộ bàn ghế làm bằng lon Coca Cola phế thải. Với
những đường cắt thẳng tắp, những vòng cuốn tỉ mỉ và uốn
nắn công phu, nữ “nghệ nhân” nào đó đã biến năm lon Coca
Cola thành một cái bàn với bốn cái ghế rất đẹp. Những
đường cong sang, đẹp và đầy tính nghệ thuật của các bộ bàn
ghế cho thấy rõ sự khéo tay và sáng tạo rất cao của nữ sinh
nào đó trong trường. Nhỏ em tôi cũng bị thu hút bởi nhiều
tác phẩm nghệ thuật khá đẹp trong hai phòng Triển Lãm. Dù
phải đứng ngoài phòng nhìn qua các ô cửa kính, nó trông rất
vui vì được chứng kiến tận mắt những điều mà nó chưa từng
thấy trong ngôi trường nó đang học. Tôi chỉ cho nó nơi trưng
bày bức hình con chó, bộ đồ len và chiếc khăn choàng cổ của
mình, rồi hớn hở nói:

“Ngày mai trường chị sẽ mở phòng Triển Lãm cho học
sinh vào xem! Để chị xin ông cai cho em vào xem để thấy rõ
hơn! Ngày mai cũng là ngày Tổng Kết cuối năm, trường chị
có phát phần thưởng và có cả Văn Nghệ nữa, em tha hồ mà
thích!”

Hôm sau, tôi dẫn nhỏ em vào trường mà không cần xin
phép ông cai. Hòa theo đoàn học sinh trong đồng phục áo
trắng, chúng tôi đi thẳng vào phòng Triển Lãm. Đợi nhỏ em
ngắm nghía các thứ trong phòng Triển Lãm cho thỏa, tôi dắt
nó đến phòng học của mình, xếp hàng cùng bạn trong lớp để
dự lễ Tổng Kết và thưởng thức Văn Nghệ. Khi chương trình
Văn Nghệ bắt đầu thì hàng ngũ các lớp không còn ngay ngắn.
Những đứa học sinh trong lớp khiêng cả ghế lẫn bàn ra sân,

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 335

chồng băng ghế trên bàn dài để xem cho rõ. Cô Hiệu Trưởng,
cô Giám Thị cùng tất cả các thầy cô chăm chú hướng mắt về
sân khấu nên không để ý chúng tôi làm gì phía sau. Cả ông
cai không biết bận gì, cũng không đến ngăn cản chuyện
chúng tôi ngồi chễm chệ trên dãy ghế chồng trên bàn. Hầu
hết bạn lớp tôi và em gái tôi biết nhau vì một số đứa trong
lớp đã từng đến nhà tôi họp bàn các đề tài thuyết trình hay
vẽ hình về sự tiến hóa các sinh vật cho lớp vạn vật. Nhờ thế,
em tôi tự nhiên và thoải mái nhập vào trong nhóm bạn của
lớp tôi. Hôm ấy, chúng tôi đã cùng nhau thưởng thức một
chương trình văn nghệ hết sức đặc sắc và phong phú. Có
nhiều tiết mục văn nghệ như: Đơn ca, song ca, tam ca, hợp
ca, kịch, hoạt cảnh và múa. Tiết mục nào cũng đẹp, cũng dí
dỏm và duyên dáng. Những chiếc đầm trang nhã, những
trang phục của ba miền Bắc, Trung, Nam rực rỡ và những
khuôn mặt giả nam với những nét vẽ “ria mép” hết sức ngộ
nghĩnh đặc biệt với những màn biểu diễn hết sức sinh động
và thu hút. Chương trình hay ngoài sức tưởng tượng của nhỏ
em tôi khiến trên đường về nhà, nó thú nhận với tôi rằng:
“Chương trình Văn Nghệ trường của chị hay quá! Trường
em không có tổ chức Văn Nghệ cuối năm. Nhưng nếu có thì
chắc cũng không hay như vậy đâu!”

Tôi nghe mà xót xa cho sự thua thiệt của em mình. Lúc
đó, tôi nhận rõ hơn sự may mắn mà tôi có được khi tôi bước
vào trường Nữ Trung Học Nha Trang. Đây là ngưỡng cửa
rất quan trọng trong cuộc đời của tôi. Qua ngưỡng cửa này,
tôi đã có cơ hội được tiếp thu nhiều kiến thức cơ bản và nhiều
lãnh vực để phát triển khả năng sáng tạo của mình; đồng thời,
ứng dụng trong cuộc sống của mình sau này. Nếu tôi không
may mắn được vào trường Nữ Trung Học thì những khả
năng phát triển và tính sáng tạo trong những công việc nữ
giới của mình sẽ bị ngủ yên hay bị triệt tiêu trong quên lãng.
Bởi thấu hiểu ngưỡng cửa học đường hết sức quan trọng đối
với sự giáo dục con trẻ, sau này khi sang Mỹ, tôi cố gắng tìm
hiểu rõ các trường khi ghi danh con mình vào học. Còn tôi,

336 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

ngôi trường Nữ Trung Học/Huyền Trân-Nha Trang là ngôi
nhà của thời niên thiếu và thanh xuân đầy những kỷ niệm vui
buồn mà mỗi khi nghĩ đến, tôi thấy lòng bâng khuâng tiếc
nuối lẫn biết ơn. Ngôi trường với truyền thống tôn sư trọng
đạo, kỷ luật nghiêm minh và đội ngũ giáo sư thực tài tâm
huyết đã giáo dục rèn luyện chúng tôi thành những nữ sinh
ngoan, hiền, tháo vát và có ích cho xã hội. Bạn tôi và tôi giờ
đây mỗi người một nơi, làm một công việc khác nhau nhưng
kiến thức, sự kiên nhẫn, tính sáng tạo, và ý thức kỷ luật vẫn
tiềm ẩn, không bao giờ phai nhạt. Suy cho cùng, tôi cảm ơn
Trời đã đưa đẩy tôi vào một ngưỡng cửa hết sức tốt đẹp để
sau này tôi có một hành trang vững chãi cho cuộc đời của

mình.

Xin chân thành cảm ơn trường Nữ Trung Học/Huyền
Trân - Nha Trang. Xin chân thành cảm ơn tất cả thầy cô
trường Nữ Trung Học/Huyền Trân - Nha Trang đã cho Cung
Thị Lan có một hành trang quý giá trong cuộc đời.

Cung Thị Lan

NTH 75

9/2021 – Cung Thị Lan, Phạm Phan Lang, 337
Nguyễn Ánh Nguyệt, Nguyễn Trần Tấm

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

NHA TRANG NOÃI NHÔÙ –
TUOÅÂI THÔ TOÂI - 1932

Duy Xuyên Tacoma

Nha Trang với những ngày ấu
thơ của tôi, vỏn vẹn chỉ có bờ biển
Nha Trang, nước trong xanh, sóng vỗ
thì thầm với bờ cát trắng như kim
cương, mỗi khi Ông Mặt Trời trồi
đầu thức dậy, từ Hòn Yến chiếu rọi
tràn lan trên bờ cát trắng lung linh
như một giải sông Ngân Hà khi bình
minh vừa ló dạng.

Nha Trang của tôi còn có dòng
sông Cái uốn khúc quanh co, nước
trong veo, chảy lờ đờ ra cửa biển xa tít mù khơi. Tôi không
biết lưu lượng của dòng sông chảy thế nào mà phù sa bồi đắp
để hình thành Cồn Giữa, rộng độ năm bảy cái sân vận động,
mà thuở nhỏ bọn con trai trong Xóm Cây Bàng thường rủ
nhau bơi ra đó, chia phe đá banh, bắt dã tràng, xe cát làm

hang.

Lớn lên lúc 7 tuổi, tôi biết thêm Nha Trang có trường
Sơ Học Yếu Lược Bình Minh của thầy Nguyễn Hạnh, đối
diện với Cải Hối Thất Nha Trang. Tôi nhớ rất rõ, ngày nhập
học, tôi rón rén, níu áo Mẹ, lòng khấp khởi, rảo bước theo
chân Mẹ dẫn tôi đến trường, ngày đầu tiên tôi đi học.

Ngày nhập học, tôi được thầy hiệu trưởng Nguyễn Hạnh
sắp xếp tôi vào lớp Đồng Ấu do thầy Cường giảng dạy. Sáng
hôm đó, tôi tập đọc ba chữ cái: A, B, C của vần Quốc ngữ.
Một tuần lễ sau, thầy Cường cho tôi học tập viết. Thầy dùng
bút chì, viết sẵn một trang giấy, chữ I để tôi đồ theo bằng bút

338 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

mực. Sáng hôm đó, tôi được phép dùng mực và viết của nhà
trường.

Bình mực được đặt trong một cái lỗ hổng, hình tròn,
được gắn chặt một bình mực tím, để bọn học trò chúng tôi lỡ
có lơ đãng khua tay múa chân cũng không bị đổ mực, làm
dơ áo người học trò ngồi bàn phía trước. Bài tập viết đầu tiên
của tôi trông giống như một hình bát quái, với mồ hôi tay,
nước bọt rơi xuống, vì miệng tôi phải xoe tròn để nước miếng
nhiễu xuống trang vở, lẫn lộn với ngòi viết lá tre bị xóc giấy,
mực búng ra tung tóe, làm lấm lem trang giấy. Khi Thầy thu
bài, tôi ngồi khép nép sợ Thầy khẻ tay, nhưng khi nhìn trang
tập viết của tôi, Thầy mỉm cười, an ủi: “Cố gắng nữa nghen
em!”

Trường Sơ Học Yếu Lược Bình Minh tọa lạc tại số 15
đường Rue de Prison, (đường Lao Xá) sau này đổi tên là
Nguyễn Công Trứ. Trường nằm đối diện với Cải Hối Thất
số 24 Nguyễn Công Trứ Nha Trang, sau này đổi tên là Trung
Tâm Cải Huấn nhưng giới bình dân, lao động vẫn gọi là Lao
Xá Nha Trang. Trường Bình Minh nằm trên một diện tích
hình chữ nhật, chiều dài khoảng 70 mét, nằm trên đường
Nguyễn Công Trứ. Chiều rộng khoảng 60 mét, tiếp giáp với
nhà thầy Tám Cường, em ruột của thầy Nguyễn Hạnh. Mặt
sau của Trường tiếp giáp với nhà bà Lỗ (bà cố nội của Mộng
Loan, thành viên trong Diễn Đàn VT&NTH NT bây giờ.)

Mặt tiền của Trường trồng một hàng bông bụt, hoa lồng
đèn nở đỏ thắm hồn lũ nhỏ học trò của chúng tôi. Khi tôi bắt
đầu đi học, Trường chỉ có ba lớp:

1. Lớp Đồng Ấu,
2. Lớp Vỡ Lòng và,
3. Lớp Dự Bị.

Thầy Hạnh dạy lớp Dự Bị ở phía trước. Học sinh khá
đông, sĩ số trên 50 học trò. Hồi đó, học trò nhỏ từ lớp Đồng

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 339

Ấu đến lớp Dự Bị thì được gọi là học trò, còn các lớp lớn
hơn thì được gọi là học sinh.

Mặt sau là 2 lớp Đồng Ấu và lớp Vỡ Lòng. Thầy Tám
Cường dạy luôn 2 lớp. Sĩ số học sinh của mỗi lớp còn quá ít,
nên thầy Cường kiêm nhiệm 2 lớp.

Lớp Đồng Ấu ngồi phía tay phải. Lớp Vỡ Lòng ngồi
phía tay trái. Cả 2 lớp chỉ có một cái bảng đen để thầy Cường
dạy cho học sinh lớp Vỡ Lòng. Còn lớp Đồng Ấu của chúng
tôi thì ê-a tập đánh vần hay đồ lại chữ I-T-L cho ngay hàng,
thẳng lối, nên chưa cần bảng đen.

Cuối lớp học là nơi cư ngụ của gia đình thầy Hạnh. Vợ
thầy Hạnh có cái quán nhỏ, bán đồ tạp hóa linh tinh cho dân
Xóm Nhà Lao như sách vở, vần Quốc Ngữ, bút mực, bánh
kẹo... Riêng các món mà bọn học trò chúng tôi thích nhất
vẫn là chè đậu đen ngọt lịm, thơm phức bờ môi hay me nạo
đường, bánh khoai mì nướng, có rắc dừa thái lát mỏng với
đường đen trên mặt bánh. Chao ơi! Ăn rồi ngày mai lại thèm,
vòi vĩnh tiền Mẹ cho đỡ cơn ghiền.

Tuy là Trường Sơ Học Yếu Lược, nhưng giữa sân chơi
lót gạch đất sét cũng có một cột cờ, đủ cao để cho bọn học
trò nhỏ của chúng tôi phải ngẩng đầu thật cao để chào cờ
Pháp (Xanh Trắng Đỏ) và nghe các anh chị lớp Dự Bị hát
vang bài Quốc Ca Pháp, mà hồi đó, tôi chưa hiểu ý nghĩa của
bài hát nhưng cũng cảm thấy lòng mình hớn hở vui vui!

Hình ảnh của 2 thầy tôi là tấm gương sáng cho lũ trẻ
trong Xóm Cây Bàng của chúng tôi. Thầy Tám Cường, tuy
chân trái bị tật, nhưng Thầy đi đứng rất khoan thai. Quần áo
của Thầy luôn luôn được ủi thẳng nếp. Áo được bỏ vào quần,
có dây nịt cài vào lưng quần hẳn hoi. Thầy luôn luôn mang
đôi sandale bằng da.

Còn thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Hạnh, thường thường
mặc áo 4 túi, bỏ ra ngoài quần, trông rất bệ vệ. Thỉnh thoảng
tôi cũng trông thấy thầy Hạnh, mặc áo sơ mì dài tay, áo bỏ

340 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

trong quần mang giầy thấp cổ, màu đen, đánh sia-ra láng
bóng, mỗi khi Thầy đi họp hay dự Lễ Thần Hoàng tại Đình
Xương Huân.

Nơi tôi sinh ra chào đời là làng Xương Huân cũng có
một ngôi đình được đặt tên của thôn xóm tôi là Đình Xương
Huân, nằm dọc theo dòng sông Cái mà chợ Đầm được hình
thành bởi phù sa và đất cát vun xới, bồi đắp thành ngôi chợ
Đầm, mà ngày nay được gọi là chợ Đầm Nha Trang.

Chợ Đầm nằm vuông vức như hình chữ nhật, chiều dài
nằm trên đường Phan Bội Châu, bắt đầu từ tiệm bán xe đạp
Vĩnh Hòa, chạy dài đến tiệm tạp hóa Ánh Sáng, rồi băng
ngang qua trụ đèn 4 ngọn, tiếp giáp đường Lò O sau này
được đổi tên thành đường Bến Chợ. Chiều rộng tiếp giáp với
đường Hàng Cá (Rue de Poisson).

Chợ được nhóm 2 buổi. Một nửa của chợ, dọc theo
đường Phan Bội Châu dùng để bán cá. Nửa còn lại bán guốc,
chén dĩa, và quần áo trẻ em với các hàng tạp hóa, mái che
bằng vải ka-ki. Giữa chợ được xây bằng gạch, lợp mái ngói,
để bán vải và các thứ đồ khô như đường đậu, gạo, và quần
áo người lớn. Phía bên phải, dọc theo đường Lò O, hay Bến
Chợ, bán rau hành, bún tươi, bắp, mít ở các vùng thôn quê
lân cận, mang xuống bán tại đây.

Hồi tôi còn nhỏ, nước của dòng sông Cái ven theo chợ
Đầm rất sâu, các ghe, bè tre còn cặp sát Bến Chợ để chuyên
chở chuối, mít, dưa hấu từ Thanh Minh, Thành, Phú Lộc về
đây buôn bán tấp nập nhưng chỉ vài năm sau, vì dân chúng
không có ý thức, nên rác rưởi, vật gì cũng vứt xuống sông,
nên dòng sông Cái ở khúc này, từ chợ Đầm đến cây cầu gỗ
bắc ngang qua Cồn Giữa bị nghẽn, nước không lưu thông
được.

Những ngày xa xưa đó, Nha Trang của tôi, quanh quẩn
chỉ có vài con đường ngang bắt đầu từ cuối đường Lò O, tiếp
giáp với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay cái quán nho nhỏ, lụp

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 341

xụp của vợ thầy Nguyễn Hạnh, phải dọn về đây ở tạm, khi
lô đất của Trường Sơ Học Yếu Lược Bình Minh bị tranh kiện
oan, mà chị Phượng thường hay ngồi trông nom quán cho
mẹ. Chị có đôi mắt buồn! Thật buồn! Bọn trẻ chúng tôi gán
cho chị là “Đôi Mắt Của Nữ Hoàng Sầu Muộn”. Tôi không
biết sau này, khi lớn lên, chị Phượng còn buồn như đôi mắt
của chị nữa không?

Mẹ chị Phượng đã sinh ra các cô con gái xinh như thiên
sứ, nên các thằng con trai trong xóm tôi, chẳng có đứa nào
dám mở lời làm quen.

Còn con trai của thầy Hạnh, ai cũng học hành thành
người hữu dụng của xã hội.

Tài hoa như anh Phượng, ở nhà đối diện, với ngón đàn
vĩ cầm điêu luyện, thổn thức lòng người. Tôi không biết
tiếng đàn rưng rức giữa đêm khuya có làm cho mắt của chị
Phượng rưng rức hay không?

Điều đó bọn trẻ chúng tôi không ai biết, nhưng về sau
này tôi chỉ thấy chị Phượng mỉm miệng cười với một quân

nhân trong Q.L.V.N.C.H.

Nói về Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp nối với đường
Bến Chợ, chạy dài đến Lầu Ông Tư (Bác sĩ Yersin, người
được Quân Đội Viễn Chinh Pháp đồng hóa Ngài với cấp bậc
Thiếu Tá [quan Tư], nên dân Nha Trang gọi nơi Ngài cư ngụ
là Lầu Ông Tư). Sau khi Bác sĩ Yersin qua đời, Ngài được
truy thăng lên Trung Tá (quan Năm - Lieutenant-Colonel)
nên Lầu ông Tư lại trở thành Lầu Ông Năm.

Song song với Nguyễn Bỉnh Khiêm là đường Nguyễn
Công Trứ. Con đường này bắt đầu từ nhà anh Ngô Văn Sung,
giáo sư Toán của Trường Trung Học Tư Thục Bá Ninh. Đối
diện phía bên kia đường là nhà của thầy Hoàng Văn Quyết,
thân phụ của cô Hoàng Ngọc Táo, giáo sư Trường Trung
Học Diên Khánh (hay Thành). Theo tôi được biết thầy Quyết

342 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT


Click to View FlipBook Version