The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2021-12-26 06:42:30

Đặc San MỘT THỜI ÁO TRẮNG

Kỷ Niệm 60 Năm Ngày Thành Lập trường Nữ Trung Học Huyền Trân Nha Trang

á hậu Khánh Nhung, Bạch Võ, Như Ý. Thật ra lớp tôi còn
rất nhiều giai nhân khác chẳng hạn như Mai Chi, Cẩm Vân,
Xuân Hương, Thanh Thủy, Hải Vân v.v… Dưới con mắt tôi,
tất cả các cô bạn đều đẹp, nếu không về vóc dáng, gương mặt
thì cũng về tâm hồn. Tức cười một điều là Bích Khuê, tuy
đoạt chức hoa hậu nhưng chẳng có chàng nào trong lớp trồng
cây si. Có lẽ vì biết nàng là hoa đã có chủ. Nghe nói bạn thân
của anh Trương Khương đang “nằm vùng” tại vườn hoa nhà
họ Trương để chờ hái hoa! Thảo nào!!!

Năm 2000 chúng tôi tổ chức họp bạn tại nhà Như Ý ở
Greensboro, North Carolina. Tôi còn nhớ mãi cái cảnh anh
Nguyễn Phụng, chồng Như Ý ngồi trong garage cặm cụi cưa
những cây súng gỗ để cho chúng tôi chơi trò bắn súng. Đúng
là mấy ông con nít… già đi tìm lại tuổi thơ! Hết chơi ở nhà,
rồi kéo nhau lên cottage của vợ chồng con gái Như Ý chơi
một hai ngày, đi thuyền, đốt lửa trại, chia ra hai phe, bên con
gái, phái Nga Mi, bên con trai, nhóm Cái Bang, bắn súng gỗ,
đấu gươm nhựa... Vui thì thôi, cười đến bò lăn, bò càng! Khi
về lại nhà, khổ chủ trổ tài nấu ăn, khoản đãi hết món này tới
món khác. Một kỷ niệm khó quên!!!

Thói thường trai gái học chung, mà lại đang ở vào cái
tuổi mộng mơ, thì khó tránh khỏi “say nắng” lẫn nhau. Trong
lớp chỉ có hai mối tình “công khai” của cặp Trần Thị Nguyệt,
Nguyễn Hoàng Hiệp và Mai Chi, Bùi Ngọc Thưởng. Còn
ngoài ra toàn là “trồng cây si”. Cây si trồng sớm nhất có lẽ
là tôi, và người đã làm cho cây si “ốm o gầy mòn” chính là
Cẩm Vân!

Cẩm Vân tuy không đẹp lắm nhưng ăn nói ngọt ngào dễ
làm mềm lòng người. Mới đầu khi nghe Nguyễn Văn Quang,
thằng bạn cùng lớp nói khoái Cẩm Vân, tôi còn cười chế
nhạo nó: “Trời đất, Cẩm Vân miệng móm sều, lớp mình thiếu
gì người đẹp sao mày không mê mà lại đi mê em ấy!?” Cổ
nhân có câu “cười người hôm trước, hôm sau người cười.”
Quả đúng vậy, cười Quang chưa bao lâu thì tôi ăn phải bả

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 243

của nó, mê Cẩm Vân tít thò lò hồi nào không hay. Chả biết
tại sao??? Phải chăng vì, như triết gia Blaise Pascal đã nói:
“Le coeur a ses raisons que la raison ne connaît point” (Tạm
dịch: Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết
được), hay như nhà thơ Xuân Diệu đã viết: “Làm sao cắt
nghĩa được tình yêu/Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/Nó
chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/Bằng mây nhè nhẹ gió hiu
hiu…” Khi viết bài Cây Si, nhắc lại câu chuyện si tình ngày
xưa, tôi chỉ cốt ý viết cho vui để bạn bè đọc cười chơi. Vài
năm sau tôi lại chơi ngẳng, viết thêm bài Hậu Cây Si. Trong
bài, tôi hư cấu câu chuyện tôi chết đúng vào ngày sinh nhật
thứ 99 và Cẩm Vân đã bay từ Cali qua thọ tang (wow!). Điều
này đã khiến cho một số bạn bè lầm tưởng là tôi vẫn còn yêu
Vân. Thật buồn cười thay!

Lúc Vân mất, có bạn yêu cầu tôi viết bài Hậu Cây Si 2.
Tôi cười: “Thôi đi, viết tầm bậy, tối ngủ, Cẩm Vân hiện hồn
về kéo chân. Sợ lắm!” Vân ra đi thật bất ngờ, vừa đi thăm
con cháu ở Ý về và đang chuẩn bị tụ họp bạn bè để đón tiếp
Cảnh Tịnh từ xa ghé chơi. Cái chết xảy ra không ai ngờ! Bạn
bè xa gần, ai nấy đều xót thương cho cô bạn vắn số. Tôi gặp
Vân lần cuối vào dịp qua Cali thăm gia đình bên bà xã. Hôm
ấy vợ chồng Vân ghé đến nhà chở tôi đi ăn sáng rồi ra bãi
biển Huntington Beach dạo chơi. Lội nước và đi bộ một đỗi
thì anh Vũ Quang Ninh than mệt, Vân nói chồng ngồi nghỉ
mệt rồi rủ tôi đi lên “pier” (cầu tàu) xem thiên hạ câu cá.
Thấy Vân vẫn còn nói giọng mía lùi như xưa, tôi bèn ghẹo:
“Vân cứ nói ngọt ngào kiểu này, trách sao mấy ông già
không bị tim đập sai nhịp!” Vân cười, hỏi lại tôi: “Thế tim
ông già Long có bị nhảy loạn không nhỉ?” Tôi đáp trả ngay:
“Dễ gì! Long đang bị cao đường nên kiêng cữ đường, hơn
nữa loại đường hóa học của Vân hết ép phê với Long rồi.
Hì… Hì.” Đó là những kỷ niệm cuối tôi có với vợ chồng Cẩm
Vân, vì một năm sau đó anh Ninh mất, rồi hai ba năm tiếp
theo thì đến lượt Vân.

244 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Các bạn trong lớp hay ghép đôi tôi với Bích Tùng bởi lý
do thời đó có bà Tùng Long, văn sĩ nổi tiếng viết truyện tiểu
thuyết trên các báo Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai.
Bích Tùng thấp người, dáng tròn trịa nên bị bạn bè gán cho
cái nickname “Tùng Hột Mít”. Tùng nói đặc giọng miền
Nam, hát khá hay, và tính tình rất dễ thương. Cô nàng có
cảm tình đặc biệt với tôi nên thỉnh thoảng trong giờ học hay
rủ ra hàng chè bà cai, có khi còn rủ cúp cua ra bãi biển ngồi
nói chuyện vu vơ. Những lần về VN năm 1990, 1995 và
2014, tôi đều ghé thăm cô bạn cũ.

Điều làm tôi cảm động là hôm ghé thăm nàng ở trường
trung học Cam Ranh. Khi được học trò báo có người đang
muốn gặp, lúc ra, ban đầu Tùng không nhận ra tôi, ngập
ngừng hỏi “Có phải Long đó không?”, khi thấy tôi gật đầu
thì ôm chầm lấy tôi ngay giữa sân trường, không cần biết có
học sinh nào dòm ngó hay không. Tùng hay đi chung với
Thảo và Khánh Nhung. Thảo cao và ốm nên bị gán cái tên
Thảo Sếu. Thảo rất tếu, nói chuyện dí dỏm, hay pha trò nên
trong giờ nghỉ tôi hay sáp lại nói chuyện. Thảo thích xoa tóc
và đè đầu tôi ra nhổ tóc ngứa. Tóc có ngứa đâu mà nhổ,
nhưng tôi vẫn khoái được đè đầu!

Khánh Nhung là cô bạn tôi chấm đẹp nhất trong các hoa
khôi lớp Nhất C. Khánh Nhung ăn nói chậm rãi, nhỏ nhẹ,
điệu đà. Chẳng hiểu sao hồi đó bất cứ chuyện gì, đôi khi
chuyện riêng tư, Khánh Nhung đều thố lộ cho tôi. Lúc Khánh
Nhung lập gia đình, đang ở nhà chồng trong Sài Gòn thì ba
đứa tôi, Quang và Hóa, kéo nhau đến nhà thăm. Thật đúng
là ba cái thằng cà quỷnh, vô ý vô tứ và vô duyên!!! Khánh
Nhung hiện cư ngụ tại Houston, Texas, trong những lần qua
thăm cô em gái, tôi đều ghé thăm và được Khánh Nhung và
chồng mời đi ăn uống rồi rủ về nhà chơi. Khánh Nhung vẫn
thế, vẫn ngọt ngào và thân tình với tôi như thuở nào.

Trần Thị Nguyệt là cô bạn năng động và có nhiều cá
tính. Tôi hay đi chơi chung với Nguyệt và Hiệp. Chuyện tình

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 245

của hai người tôi đều nằm lòng và là “nhân chứng” trong
suốt thời gian họ yêu nhau cho đến lúc chia tay.

Nguyệt và Tự Tân là cặp bài trùng. Tự Tân hiền lành, ít
nói và hay mắc cở, hễ nói chuyện với con trai là gương mặt
nàng đỏ ửng lên. Tự Tân chỉ giao tiếp với một vài bạn nam,
trong số đó có tôi. Trong lớp có một chàng rất si tình Tự Tân.
Nhà Tự Tân có trồng giàn cây bông giấy, vì thế bạn Phùng
Văn Nguyên khi biết được câu chuyện mối tình si, đã làm
bài thơ Giàn Bông Giấy để ghẹo anh chàng nọ (Nhà nàng
cổng kín tường cao/Có giàn bông giấy có rào chấn song/Có
chàng ngơ ngác đèo bồng/Sáng trưa xe đạp lòng vòng ngó
vô/Trời cao vẫn cứ hững hờ/Biển xanh sóng vẫn vỗ bờ cát
xa/Bây giờ lạc bước bôn ba/Mấy mươi năm lẻ như là mây
bay/Tường xưa còn với tháng ngày/Giàn bông giấy đó hao
gầy ra sao?).

Sau này khi gặp lại nhau ở bên đây, tôi nhận thấy Tự
Tân thay đổi hoàn toàn, nói năng mạnh dạn, đâu ra đó chứ
không còn e thẹn như xưa. Phải chăng vì đã từng làm cô giáo
dậy học và bao nhiêu năm nay làm trong ngành tài chánh tại
hải ngoại? Mấy năm trước tôi làm việc chung với Tự Tân
trong ban biên tập đặc san hội ngộ, hai đứa tôi phụ trách việc
sửa lỗi chính tả và rất ăn ý với nhau trong công việc. Kiều
Túy Vinh, ông xã Tự Tân là một người đa tài, đa năng và rất
dễ mến. Có lần chỉ nghe tôi kể chuyện đến trường thăm Bích
Tùng mà anh Vinh đã soạn ra ngay một bản nhạc tặng tôi.
Tiếc rằng tôi hát không được hay cho nên đã không trình bày
bài hát trong lần họp bạn ở Las Vegas tại nhà Thu Hương.

Tôi bắt đầu làm quen và kết thân với Ngọc Lâm kể từ
cái hôm nàng đứng lên phản đối đám học sinh biểu tình xông
vào lớp tôi ép buộc mọi người bãi khóa. Ngọc Lâm khá xinh
với gương mặt trắng ngần, đôi má lúm đồng tiền và mái tóc
thề mượt mà óng ả. Gia đình Ngọc Lâm ở Ba Ngòi, Cam
Ranh nên ba má nàng thuê riêng cho nàng một căn nhà trong
hẻm Huỳnh Thúc Kháng để tiện việc ăn học. Mấy tháng

246 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

trước ngày thi tú tài, Ngọc Lâm rủ tôi đến nhà học thi chung.
Tôi hay ghé vào những ngày cuối tuần, còn ngày thường, lúc
nào tôi rảnh rỗi, bất luận trưa, chiều, tối. Nhiều hôm học tới
tận khuya.

Thật ra, học thì ít, nói chuyện thì nhiều. Càng ngày
chúng tôi càng thân thiết với nhau, một tình bạn thuần khiết,
trong sáng, không vướng mắc tình yêu trai gái. Xong tú tài
Ngọc Lâm vào Sài Gòn học Văn Khoa nhưng không bao lâu
thì bỏ học vì mắc chứng bệnh ung thư. Ngọc Lâm qua đời
sau mấy tháng chống chọi với căn bệnh. Tôi cùng Nguyệt,
Hoàng Hiệp và vài bạn hướng đạo sinh vào Ba Ngòi dự đám
tang Ngọc Lâm. Tại nhà Ngọc Lâm, chúng tôi thức trắng
đêm bên cạnh quan tài, nghe anh Vĩnh Điện, anh của Ngọc
Lâm, đọc lại những vần thơ vĩnh biệt của cô em gái út, không
ai cầm được nước mắt. Tờ mờ sáng hôm sau chúng tôi tiễn
đưa quan tài ra nghĩa trang. Trước khi làm lễ hạ huyệt, nghe
Tú, đại diện hội Hướng Đạo Nha Trang đọc bài điếu tang,
chúng tôi đã khóc vùi, thương cảm cho người bạn đã ra đi!

Ngô Thị Hải Vân bằng tuổi tôi, tuổi con heo ủn ỉn, ấy
thế mà tôi lại gọi nàng bằng chị và xưng em ngọt xớt. Chung
quy cũng tại hai thằng bạn trong lớp, Quang và Hóa xưng hô
chị em với Hải Vân cho nên tôi bắt chước theo. Sau này dù
biết “chị” bằng tuổi “em” nhưng tôi vẫn giữ nguyên cách
xưng hô. Hải Vân có gương mặt đầy đặn, hàm răng trắng đều
và nụ cười tươi như hoa. Nhà Hải Vân ở trên đường Duy
Tân, trong khu nhà cạnh trường Bá Ninh. Nhiều hôm tan học,
thay vì về nhà, tôi hay ghé lại Hải Vân nghe nàng ba hoa
chích chòe. “Chị” thích nói, “em” chịu khó nghe, cho nên
chẳng mấy chốc “chị em” trở nên đôi bạn thân thiết. Vừa học
xong năm đệ nhất thì Hải Vân lấy chồng, còn tôi thì vào Sài
Gòn tiếp tục việc học hành. Cuộc sống cuốn trôi mỗi người
mỗi ngả, và từ đó tôi ít gặp lại nàng. Sau cuộc đổi đời, năm
78, sau khi đi tù cộng sản về tôi sống lang bạt kỳ hồ ngoài
Nha Trang, đi buôn hàng chuyến để kiếm sống, trong khi gia
đình bị đày đi vùng kinh tế mới trong Đồng Lác, Cam Ranh.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 247

Một hôm đang lang thang trên đường Duy Tân bất chợt
tôi gặp lại một người bạn tù cũ, anh rủ tôi đi uống cà phê tại
quán trước nhà bác sĩ Quýnh ngày xưa. Khi đến quán, không
ngờ cô hàng cà phê lại là “chị” Hải Vân của tôi! Gặp nhau
tôi và Vân mừng lắm. Khi tôi từ giã ra về Hải Vân ghé tai
nói nhỏ: “Chị đang tổ chức vượt biên, có thể tuần này hay
tuần tới sẽ đi. Long nên ở lại Nha Trang và liên lạc thường
xuyên với chị, chị sẽ cho Long đi theo.” Tuy cảm động trước
tấm lòng ưu ái cô bạn dành cho mình nhưng trong lòng tôi
không tin chuyện Hải Vân tổ chức vượt biên, bởi thế tôi vẫn
tiếp tục đi vào Sài Gòn buôn hàng.

Mấy ngày sau khi về lại Nha Trang, tôi được Sum, thằng
bạn học cũ cho biết Hải Vân đã vượt biên cùng cha mẹ, các
em và các con. Không có chồng đi theo vì đang bị tù “cải
tạo” ở A30. Nghe vậy trong lòng tôi tiếc hùi hụi vì đã bỏ lỡ
một dịp may. Nhưng vài tháng sau tôi lại nghe Sum loan báo
tin buồn: Cả nhà Hải Vân đã bị chết trên đường vượt biển,
ghe bị hư máy, trôi lênh đênh trên biển hơn hai mươi ngày
trời, được tàu đánh cá quốc doanh vớt, ngoại trừ hai thanh
niên sống sót, số còn lại đều chết khát và chết đói. Tôi lặng
người khi nghe cái tin quá đỗi thương tâm ấy!

Bạch Võ chẳng những nổi tiếng là một trong những
người đẹp của lớp Nhất C Võ Tánh, mà lại còn được ca tụng
nhiều trong giới sĩ quan Không Quân, Hải Quân. Tiệm sách
Văn Văn của gia đình Bạch Võ nằm trên con đường Độc
Lập, vào những ngày cuối tuần là nườm nượp các Sinh Viên
Sĩ Quan Không Quân, Hải Quân ra vào tiệm, không phải để
mua sách báo, mà chỉ để ngắm cô chị Bạch Võ, hay cô em
Thanh Võ, hoặc các cô em… Võ khác! Ít thấy Bạch Võ tham
dự các sinh hoạt ngoài trời với bạn bè như dạo biển, đi cắm
trại ở đảo, đi lội nước lụt ở Chụt, hay lên nhà thầy Võ Doãn
Nhẫn hái trái cây v.v… Bạch Võ ít giao tiếp với bạn bè trong
lớp. Tuy vậy, trong quyển Lưu Bút của tôi, nàng có viết như
sau: Người bạn trai “biết điệu” nhất lớp IC đã làm BV mến

248 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

và nhớ mãi. Nhất là hôm “cầu cứu” trên đường đến trường
đã trở thành một kỷ niệm khó quên và khá buồn cười …

Câu chuyện “khá buồn cười” như sau: Tối hôm ấy tôi
đang ngồi uống sữa đậu nành với hai đứa bạn tại một quán
bên lề, nơi góc đường Độc Lập – Quang Trung, còn Bạch
Võ đang cắp sách đến trường Anh văn Union. Nhìn thấy
Bạch Võ tay khư khư ôm sách, lộ vẻ hoảng sợ trước một
thanh niên đang đi kèm sát bên, tính giở trò sàm sỡ, tôi đoán
ra ngay tên này đang muốn gì, thế là tôi vội nhào ra đóng vai
người tình của Bạch Võ, đưa nàng đến trường.

Qua Mỹ năm 75, Bạch Võ thành công trong việc mở nhà
hàng, viết sách nấu ăn (Chez Bach), buôn bán, sưu tầm đồ
cổ và mở art gallery. Nhưng sau này vì lý do sức khỏe nàng
đã ngưng mọi hoạt động, chỉ ở nhà vẽ tranh làm thú tiêu
khiển. Tôi có đi thăm Bạch Võ hai lần cùng với Cảnh Tịnh
và Bá Dĩnh.

Có vài người bạn lúc đi học tôi không giao tiếp nhiều,
nhưng đến khi qua đây gặp lại thì trở nên gần gũi hơn, đó là
Hoàng Ái và Từ Tuyết Nga.

Tôi gặp Hoàng Ái lần cuối ở buổi họp bạn IC năm 2004
tại Virginia. Lần đó nàng làm “đạo diễn” cho màn “Hoa Hậu
Đực Rựa” và đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong vai trò Hoa Hậu
Pháp quốc, từ trang phục cho đến cái tên gọi. Màn trình diễn
đem lại cho khán giả những trận cười “đau cả bụng”. Một
hai tháng sau buổi họp bạn, Hoàng Ái đã mất vì trọng bệnh.

Từ Tuyết Nga thì tôi có gặp vài lần trong những lần họp
lớp, họp trường. Vài năm gần đây, do tình trạng sức khỏe,
Tuyết Nga ít xuất hiện và chỉ liên lạc với một vài người bạn
thân. Tuyết Nga đã ra đi để lại nhiều thương xót nơi bạn bè.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 249

Viết thay cho lời kết:

Hơn hai chục năm trước, do tình cờ, tôi bắt đầu vào
“nghề” viết lách. Đó là năm 2000, Bích Khuê và chồng là
anh Nguyễn Lương Thuật dự tính thực hiện một cuốn giai
phẩm Võ Tánh để ghi lại những kỷ niệm của thời đi học cũng
như về thành phố Nha Trang thân yêu. Bích Khuê yêu cầu
tôi viết bài. Vì nể bạn nên tôi nhận lời. Nhận bừa nên viết
bừa, nhưng không ngờ bài viết đầu tay của tôi đã được khá
nhiều độc giả đón nhận. Thừa thắng xông lên, tôi tiếp tục
viết bài cho đặc san hội ngộ của những năm kế tiếp.

Hai năm gần đây vì dịch Covid nên không tổ chức hội
ngộ liên trường, và do đó không có đặc san. Nhưng năm nay,
do lời kêu gọi của cô hiệu trưởng Bùi Ngoạn Lạc, một số cựu
nữ sinh đã đứng ra thực hiện Đặc San 60 Năm Ngày Thành
Lập Trường Nữ Trung Học/Huyền Trân Nha Trang với chủ
đề “Một Thời Áo Trắng”. Ban đầu vì sợ viết không đúng với
chủ đề nên tôi ngại ngùng không dám đóng góp bài vở,
nhưng sau vì có một số bạn bè thân hữu yêu cầu, và hơn nữa
tự cảm thấy mình cũng có một chút gì “dính dáng” đến ngôi
trường con gái: 1) Có các cô bạn học Nhất C Võ Tánh, niên
khóa 65-66 là cựu học sinh NTH; 2) Từng có người yêu học
ở NTH; 3) Hiện đang là “rể” NTH [do bà xã Tuyết Lê học
NTH từ 61-67]; cho nên tôi mới mạnh dạn viết bài.

Bài viết chỉ nói về các cô bạn học cũ, còn sống cũng như
đã mất. Với những bạn đang còn sống, xin gửi đến lời chúc
an lành. Với những bạn đã khuất bóng, xin thắp nén hương
lòng.

Riêng với các độc giả quen hay không quen biết, xin
được chia sẻ, và xin lỗi nếu có những sơ suất ngoài ý muốn
trong bài viết.

Phạm Khắc Long (VT 65-66)

250 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

VEÁT THÖÔNG ÑÔØI

quaù nöûa theá kyû!

letamanh

Những ngày gần với tháng Tư, sao
trong ta cứ như người đi trên sóng, với
con thuyền nhỏ tròng trành muốn lật úp
giữa cơn phong ba! Cái cảm giác bất ngờ
khó chịu ấy hình như đến với con tim
nhảy không đều nhịp khi ta nhớ quê
hương xa thật xa. Nhớ tuổi thơ, nhớ
những kỷ niệm chan hòa ánh nắng, nhớ
Tam Quan, nhớ Tăng Bạt Hổ, nhớ bãi cát
trắng Nha Trang những năm Trung Học Võ Tánh, nhớ Petrus
Ký, nhớ sân trường MPC - Văn Khoa... Nhưng nhất là bãi
biển mang nhiều kỷ niệm Nha Trang. Nhớ Tháp Bà, nhớ nem
Ninh Hòa, nhớ chè hạt đát, phở Hợp Lợi, bánh paté chaud
sữa đậu nành, xôi gà bên hông rạp hát Thành Xương...

Em Nha Trang với làn sóng mát lịm
Buổi chiều xuân tắm biển Hòn Chồng
Ngất ngây nhìn giọt nắng trong mắt em
Hòn Yến ngoài xa mỉm cười hang động!

Phải rồi, trong hồi ức chỉ còn nhớ những con đường cũ,
những ngõ ngách không tên; nhớ Hoàng Tử Cảnh, Phan Bội
Châu, Tân Tân, Minh Châu, Tân Quang, Bá Đa Lộc, Chợ
Đầm, Nhà thờ Đá, Chùa Long Sơn, Yersin, Cầu Đá, Hải Học
Viện, Hòn Tre, Hòn Thị, Tháp Bà, Xóm Bóng, Đồng Đế,
nhớ Phú Vinh, nhớ Thành, nhớ mả Yersin, nhớ cầu Hà Ra,
Cầu Xóm Bóng, nhớ những cây bàng trước Viện Pasteur,
nhớ những hàng dương liễu bên bờ cát trắng và tiếng sóng

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 251

biển rì rào khi ta cùng em ngồi bên nhau ngắm trăng lên, mái
tóc em thơm mùi nước biển ...

Những địa danh nhảy lộn mèo trong óc
Quân Trường Đồng Đế em nằm xõa tóc
Thao diễn một thời an giấc ngủ chưa?
Anh đứng đợi nhìn thời gian vụt khóc!

Có một thời ta đã từng vào ra cổng trường Võ Tánh, nhớ
đường Bá Đa Lộc, nhớ những em học trường Pháp kề bên,
nhớ Thầy Hiệu Trưởng Lê Nguyên Diệm, nhớ tiếng trống
trường, nhớ các bạn cùng lớp Huỳnh Thọ Huyên, Lâm Đạo
Đụng, Hoàng Kim Dũng... Nhớ Ban Văn Nghệ tập tành phát
thanh trên đài "Nha Trang là miền quê hương cát trắng”...
Nhớ đội bóng đá, nhớ anh bạn Vĩnh Thắng làm thủ môn ho
ra máu vì chụp những trái banh biểu diễn... Nhớ đạp xe qua
trường Nữ ngắm em...!

Ôi!

Chập chùng kỷ niệm xa xăm!
Nửa vòng thế kỷ con tằm sợi tơ
Anh Võ Tánh mối tình hờ
Ngắm em Trường Nữ bây giờ nơi nao!

Hồi đó, không hiểu tại sao những thằng học trò Đệ Nhị
Cấp, kể cũng ở tuổi biết yêu, thế sao chỉ nhìn em thôi mà
không dám tỏ lời! Có những đêm, 11 giờ khuya đạp xe qua
phố nhà em ở, chỉ cần thấy em ngồi bên cửa sổ học bài là đã
vui rồi, về ngủ yên giấc! Giờ ngồi ôn lại chuyện xưa, có lúc
gặp em trong các Hội Ngộ VT- NTH, em bây giờ với em
ngày ấy ra sao, giống như bài hát: "... Đôi khi trộm nhìn em,
xem dung nhan đó bây giờ ra sao, em có còn đôi má đào,
như ngày nào... kể từ khi vắng nhau, em như tấm vải lụa
nhàu..." Đã hơn nửa thế kỷ gặp lại, chưa bao giờ dám hỏi:
“... Em có bề nào ai đón ai đưa? cuộc đời là vách núi là
tường mây, quê hương nắng cháy đêm ngày..." Từng năm
tháng ấy, cả một cuộc bể dâu nghiệt ngã xô sập những ước

252 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

vọng tuổi trẻ của chúng ta. Thời gian thoát đã hơn sáu mươi
năm xa mái trường Võ Tánh thân yêu, mỗi cuộc đời là một
số phận.

Cuộc chiến tranh đã thổi những chiếc lá đời hai hướng.
Có những thằng bạn cùng lớp Võ Tánh, sau ngày 30 tháng
tư năm 75 làm đến chức Phó Tỉnh Trưởng Khánh Hòa, có
thằng làm Bí Thư các công ty hay các quận đường rất ư là
hách! Nghe nói những con đường xưa lối cũ giờ đã thay tên
đổi hướng. Mà cũng phải thôi! Bốn mươi bốn năm rồi phải
thay da đổi thịt chứ! Nhưng Nha Trang thay màu quá nhiều
với chữ nghĩa, tiếng nói và cách cư xử. Người ta có cảm giác
Nha Trang bây giờ là thành phố của Tàu. Bảng hiệu chữ Tàu
rất to và nhiều hơn chữ Việt! Tiếng xí xô xí xà giọng Quan
Thoại, Quảng Đông, Triều Châu... át cả tiếng người Việt rao
hàng. Có những nhà hàng chỉ tiếp người Tàu và từ chối cho
người Việt vào ăn... Có những con đường biệt lập không cho
người Việt Nam rảo bước!

Vùng trời mơ xưa đâu bóng dáng em
Khuất nẻo trời xa tìm mái tóc mềm
Ta ngục tù chất ngất đời trai trẻ
Nhớ em! nhớ em ánh sáng sao đêm!

Thời tuổi trẻ vụt tắt như làn chớp và tiếng sấm cơn
giông! Khi ta ngồi trong tù từ Nam ra Bắc với chính trên
giang sơn Việt và con dân Việt... ta mới nhận ra rằng em là
hiện hữu, là hy vọng mong manh của những đêm thao thức
ngục tù... Vì có em dõi theo bước chân cuộc chiến và bên
nhau những lúc khốn cùng mới thấy đời còn hương sắc:

Theo chân anh cả đời cùng khắp chốn
Nét thời gian in đậm nẻo thiên đường
Có những lúc gối chăn bùng tơi tả
Sóng vồ gió lốc quyện xoáy vết thương

Ta đã mài mòn gót chân, ta đã bao lần hai tay đầy những
vết thương rừng thiêng nước độc; nhớ những tình yêu thân

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 253

ái dạt dào, nuôi dưỡng hy vọng mong manh từ trong tù ngục
về em.

Em tự nguyện như tín đồ dâng hiến
Mắt lim dim khấn vái cõi huyền vi
Cùng quấn quít nỗi đau thời chinh thiến
Nghiệt ngã xa nhau giữa tuổi xuân thì

Có phải chúng ta sinh ra nhầm lúc, để cùng nhau rơi
xuống vực sâu hoang mê nghiệt ngã những tư tưởng tà thuyết
hận thù:

Câu ca dao con cò một thời lặn lội
Đi ăn đêm lỡ vướng phải cành mềm
Rớt xuống ao không tài nào bay nổi
Quê hương chiến trường nợ máu nặng thêm!

Đã qua rồi thời chiến trường Pleiku, Đức Cơ, Kontum,
Phú Nhơn, Thanh An, … đã qua rồi Trại tù Trảng Lớn, Long
Khánh, Long Giao, Hoàng Liên Sơn, Yên Báy, Vĩnh Phú…
Đã qua rồi vùng kính tế Long Điền Đồng Nai... Có những
ngôi mồ chưa bao giờ khói hương mấy mươi năm trời sau
chinh chiến:

Hết binh đao hơn bốn mươi bốn năm
Cỏ trên mồ anh cháy khô màu tủi hận
Giọt máu không hòa ướt âm rỉ sủi tăm
Giải khăn tang em mang đời lận đận!

Tấm thân ta giờ tàn theo năm tháng, ngó lại vùng trời
xưa như một thoáng chiêm bao. Nơi xứ người đôi khi ngạt
thở vì những đêm chập chờn ác mộng, ta tưởng như đời
ngưng bão tố cho tổ quốc vươn lên. Ta những mơ những
tưởng sẽ trở về Nha Trang ngắm lại vầng trăng thấp thoáng
vờn mây ngoài biển cát, với bóng những hòn đảo quen thuộc
xa xa. Ta vẫn mơ một ngày về!

letamanh
tháng tư một ngày mưa

254 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Thơ Song Phượng

1. SÁU MƯƠI NĂM VẪN NHỚ!!!

Xem hình* nhớ lại chuyện ngày xưa
Ta bỗng muốn về thăm cố quận
Trải biết bao thăng trầm lận đận
Bây chừ trường cũ đã thay tên

Nhớ ngày xưa bạn cũ kề bên
Được học với Cô Thầy kính ái
Kỷ niệm đó còn đây… Nhớ mãi !
Làm sao mình quên được, phải không ?

Nay xa rồi tuổi mộng mơ hồng
Nhắm mắt đi tìm ngày tháng cũ
Nhớ những hàng dương buồn ủ rũ
Khi mưa về ướt sũng buồn hiu

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT 255

Thầy Cô nay tuổi đã về chiều
Tỷ, Bạn hữu đồng môn cũng thế
Đời lắm thăng trầm nên khó thể
Gần nhau chia sẻ những buồn vui.

Đâu mất không còn nữa bạn ơi !
Bụi thời gian chất chồng sâu thẳm
Chặng đường SÁU MƯƠI NĂM qua rồi
Mà vẫn nhớ không sao quên được

Thời con gái dịu dàng tha thướt
Với chiếc áo dài màu trắng tinh
Hay điệu đà làm dáng chụp hình
Hàng dương liễu, biển xanh... thêm sắc!

SÁU MƯƠI NĂM … Ôi, dài đăng đẳng
Nhưng có thể nào bị nhạt phai
Trường cũ bạn xưa vẫn nhớ hoài
Niềm nhung nhớ khiến lòng ray rứt

Thời gian như bụi bay qua
May còn lưu bút chan hòa yêu thương
Đặc San Hội Ngộ của trường
Nghĩa tình thấm đậm làm vương lòng mình

Mỗi ngày niệm Phật cầu kinh
Mong Thầy Cô Bạn an bình phút giây

*Cảm tác từ album photo BBT HN ĐS 60 NTH-HT/NT
tại Nam Cali tháng 09/2021 của chị Phạm Lang.

256 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

2. XIN THỜI GIAN TRỞ LẠI

Nếu quay lại thời gian xưa anh nhỉ?
Em ước ao được quen biết với anh
Ta cùng nhau vui vẻ tháng ngày lành
Và khi xa cũng có nhiều hoài niệm...
Những ký ức mà anh từng mang đến
Nơi quê mình bao tình nghĩa thiết tha
Những chàng trai, cô gái rất thật thà
Với mối duyên quê hiền hòa êm ả...
Nhớ đêm trăng sáng đôi ta thong thả
Song bước dạo chơi hoa lá đón chào
Gió khẽ lướt qua nghe tiếng lao xao
Như lời ai thầm thì... êm tai quá !
Dẫu đã nhiều năm sống trên đất lạ
Tâm hồn em mãi hướng về quê hương
Mỗi lần nghĩ đến yêu mến lạ thường
Niềm vấn vương không làm sao nói được
Từ Pháp quốc xa luôn hằng mong ước
Có dịp về tìm lại kỷ niệm xưa
Tình yêu quê hương nói mấy cũng thừa
Nha Trang của em biển xanh cát trắng
Quá nửa đêm giữa không gian vắng lặng
Thấy hồn mình chìm lắng trong giấc mơ
Làm sao quay về kỷ niệm tuổi thơ
Em mong ước... xin thời gian trở lại!

Đặc San 60 Năm (1960-2020) VT-NTH/HT-NT 257

3. Mong Chút Nắng Vàng

Ánh nắng vàng mong chờ hoài chẳng thấy
Đến khi nào thì Người gởi cho em?
Paris xa lòng đang khát khao thèm
Một chút nắng từ Nha Trang gửi đến...
Khi trở về ai vòng tay trìu mến
Nụ cười tươi chào đón Parisienne?
Em thích biển xanh sóng vỗ êm hiền
Làn gió mát mơn man lên môi mắt
Nhớ ! Nhớ lắm ! Lòng em đang nhớ thật.
Biết bao giờ được trở lại quê xưa
Ngắm bãi dương cùng với những hàng dừa
Lá như quạt đong đưa ru em ngủ
Em nhớ anh, người anh hùng thủy thủ
Đưa em thăm khắp vịnh, phố... Nha Trang
Đây Hòn Chồng, Hòn Đỏ, bãi Ba Làng
Còn nhiều nữa... không làm sao kể xiết !
Dẫu đi xa nhưng mãi yêu nước Việt
Hồn dân quê đầy tình nghĩa hiền lành
Mơ mỗi ngày được đứng trước biển xanh
Tung tăng dưới ánh nắng vàng xinh đẹp.

Strasbourg/France - le 15/09/2021
Song Phượng - NTHNT_NK- 74

258 Đặc San NTH/HT-NT 60 Năm (1960-2020)

TƯỞNG NHƯ LÀ HÔM QUA

TRẦN C. TRÍ

Mối duyên

của tôi với trường
Nữ Trung Học Nha
Trang đã bắt đầu
rất lâu trước khi
ngôi trường này
có thêm một
khuôn viên mới
trên đường Đinh
Tiên Hoàng. Thuở
ấy, nhà tôi ở trong Khu 3, cư xá sĩ quan Lê Văn Duyệt, chỉ
cách trường “Nữ Trung Học Cũ” có một con hẻm nhỏ
(Khu 1 và Khu 2 nằm xa hơn một chút). Trong trí nhớ của
tôi, trường NTH cũ thuở ấy là một dãy lớp học nằm êm
đềm sau những cây dương xanh, cách con đường Lê Văn
Duyệt trước mặt bằng một hàng rào kẽm gai. Bọn trẻ
chúng tôi, nhiều khi đã chán chơi đùa trong khu xóm nhà
mình, thường kéo nhau qua trường chơi trò u mọi hay
chơi keo trên khoảng sân râm mát trước các phòng học
trong mấy ngày cuối tuần vắng bóng học sinh, hồn nhiên
dẫm lên những cọng lá hay những trái dương màu nâu có
hình dạng như trái thơm bé xíu rụng rải rác trên sân
trường.

Vào mùa hè cuối cùng của bậc tiểu học, tôi ghi tên vào
học các lớp hè dự bị trung học do một số thầy cô trường
NTH tổ chức. Các thầy cô này ở đằng sau khuôn viên
trường, đã mở các lớp học trong một căn phòng kế cận
chỗ các thầy cô đang cư ngụ. Tất nhiên, các lớp hè này là
ưu tiên dành cho các nữ sinh sắp vào lớp Sáu trong niên
học tới. Qua sự giới thiệu đặc biệt, chỉ có ba nam sinh

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 259

“may mắn” được vào khoá hè này mà thôi: đó là Tuệ (con
của Cô Hiệu Trưởng), Đạt (em bạn dì của tôi) và kẻ viết
bài này. Chúng tôi học lớp tiếng Anh với cô Cung, lớp Lý
Hoá với thầy Châu và lớp Toán với cô Anh, phu nhân của
thầy. Những lớp học nhập môn đó đã đưa tôi vào thế giới
mới mẻ của English for Today, của những khái niệm lạ
lẫm về các môn khoa học mà những học sinh vừa mới học
xong bậc tiểu học như chúng tôi chỉ mới bắt đầu ngỡ
ngàng khám phá. Trong thời gian học các lớp này, tôi có
dịp được biết một vài cô bạn cùng lớp. Lâu quá rồi (gần
nửa thế kỷ!), nên tôi chỉ còn nhớ được tên một vài cô như
Trang Hà, Hân, Muội... Đó là lần đầu tiên tôi học chung với
các bạn gái trong lớp. Hồi còn học tiểu học, con trai và con
gái phải học riêng nên đây cũng là một kinh nghiệm mới
trong hành trình đèn sách của tôi.

Sau mùa hè đó, tôi đậu kỳ thi Đệ Thất, vào học lớp
Sáu, trường trung học Võ Tánh. Nếu cư xá của tôi là hàng
xóm của trường NTH cũ, thì bây giờ ngôi trường trung
học của tôi cũng là láng giềng của trường NTH mới, hai
bên ngăn cách nhau bằng con đường Nguyễn Tri Phương
chạy thẳng ra biển. Năm tôi lên lớp Chín bên Võ Tánh,
trường NTH mới đổi tên thành Huyền Trân. Trong một
thời gian dài trước đó, cả hai khuôn viên cũ và mới của
trường vẫn hoạt động song song. Từ nhà tôi đến trường
Võ Tánh không xa lắm nên hằng ngày tôi vẫn đi bộ, qua
cả trường NTH cũ lẫn trường mới. Ngôi trường mới mở,
tôi còn nhớ, không khí lúc nào cũng náo nhiệt, các tà áo
trắng thướt tha ra vào cổng trường, ríu rít tiếng cười nói
của các nữ sinh vừa nhí nhảnh, vừa tinh nghịch. Trong
ngăn ký ức của tôi về khoảng thời gian đó, tôi vẫn còn giữ
lại, không những chỉ là hình ảnh mà còn cả âm thanh, của
một lần đi ngang trước trường NTH mới. Hôm đó có lẽ là
một ngày hội hè, hình như cả trường đang có liên hoan,
cắm trại và làm văn nghệ trong trường. Lúc tôi đang đi

260 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

trước cổng trường, tiếng loa phát từ bên trong vẳng ra
tiếng nhạc rộn ràng của một bài ca tiếng Pháp của
Christophe mà tôi vẫn còn nhớ lời, “Tu le sais, la vie, c’est
une histoire d’amour. I love you, I need you, pour
toujours...” Mấy mươi năm sau đó, mỗi lần có dịp thoáng
nghĩ đến ngôi trường Huyền Trân, hình ảnh sinh động
của khuôn viên và tiếng nhạc bay bổng của ngày hôm ấy
lúc nào cũng trở về cùng lúc trong trí nhớ của tôi.

Kỷ niệm của tôi với trường NTH cũ thì... đau lòng
hơn. Số là sau khi tôi học xong mấy lớp hè dự bị trung học
với cô Cung, cô Anh và thầy Châu, tôi đã trở thành một
khuôn mặt quen thuộc đối với những cô nữ sinh đã học
cùng lớp với tôi lúc ấy. Dưới mắt các cô, chắc tôi là một
nhân vật “đặc biệt”, có thể đem ra để làm đề tài cho các
cô chòng ghẹo. Tôi vốn bị cận thị từ thời còn ở tiểu học,
lúc nào cũng đeo một cặp kính dày cộm, mới có tí tuổi đầu
mà đã trông như một ông cụ non. Đã vậy, dáng đi của tôi
lại khòm khòm, nhìn chán lắm. Mỗi lần phải đi ngang
trường NTH cũ là một cực hình cho tôi. Tôi phải gần như
nín thở đi nhanh như bị ma đuổi để mong thoát khỏi
những cặp mắt tinh như cú vọ của các cô. Nhưng tôi có
mà chạy đằng trời, thế nào rồi cũng có một vài cô phát
giác ra mục tiêu đang di động ngay trước trường, rồi
không ai bảo ai, các cô cùng reo hò tở mở, “A, thầy đồ, thầy
đồ, tụi bây ơi!!!”

Rồi ngày 30 tháng Tư đến, cả trường Huyền Trân lẫn
trường Võ Tánh, cũng như tất cả những ngôi trường ở
khắp miền Nam thanh bình, bỗng trở thành như những
đàn ong vỡ tổ, túa ra muôn phương, theo gia đình trốn
chạy làn sóng Cộng Sản đang tràn đến như nước lũ. Nhiều
gia đình đã ra được nước ngoài, có kẻ không biết đi về
đâu, và cũng lắm người, sau một thời gian trôi nổi, đã trở
lại Nha Trang, tiếp nối những ngày cũ trong một giai đoạn
mới của một lịch sử buồn vừa sang trang. Gia đình tôi

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 261

cũng ở trong số đó. Sau hơn một tháng trời nương náu ở
Sài Gòn, cả nhà tôi về lại Nha Trang, kịp cho tôi xin vào
học lại cho xong chương trình lớp Mười còn dang dở
trước khi mùa hè bắt đầu.

Ngày đầu tiên bỡ ngỡ trở lại trường Võ Tánh, tôi gặp
lại thầy Đặng Như Đức, vốn là giáo sư Sử Địa của tôi. Lúc
ấy, thầy được cử làm trưởng ban điều hành lâm thời của
trường trong giai đoạn chuyển tiếp. Thầy Đức nhận ra
học trò của mình, cho tôi vào trường lại ngay. Tuy nhiên,
lúc đó ở trường không còn lớp Mười ban C mà tôi đã học
trước ngày chạy loạn nên Thầy đã gởi tôi cùng một số bạn
cùng lớp khác qua học “nhờ” ở trường Huyền Trân, cũng
đang ở trong thời kỳ chuyển tiếp đầy hoang mang trong
thời điểm đó.

Thế là mối duyên của tôi với trường Huyền Trân lại
được tiếp nối. Nhóm nam sinh... lưu vong của chúng tôi
(khoảng chục đứa trở xuống, trong đó tôi còn nhớ được
Đức, Tiềm, Huỳnh Nha Trang...) ngày ngày đi học ở ngôi
trường con gái, phải đứng đợi nhau ở ngoài cổng trường,
khi nào được ba bốn đứa trở lên mới đủ can đảm dắt díu
nhau đi vào trường, trước bao nhiêu cặp mắt soi mói của
đám nữ sinh gà cậy gần chuồng. Ngay đến tôi là kẻ đã
từng có chút kinh nghiệm học chung với con gái hồi mùa
hè năm nào mà vẫn còn... sợ chứ đừng nói chi tới mấy đứa
con trai khác trong lớp tôi.

Tuy vậy, dần dần chúng tôi cũng quen với không khí
học đường mới này. Tôi thấy bọn con gái cũng không đến
nỗi dữ dằn như mình tưởng, mà trái lại nhiều cô còn tử
tế, dễ thương nữa là đằng khác. Tôi bắt đầu làm quen với
một số cô ngồi cùng bàn hay gần đó như Xuân Lộc, Nha
Trang, Phương Mai, Thanh Tùng, Lành, Ái, Thái Hằng,
Kim Điền... Mỗi cô mỗi vẻ, nhưng đều có chung nét hồn
nhiên và nghịch ngợm của tuổi trẻ. Các cô thường chơi
cặp hay nhóm với nhau. Chẳng hạn như bộ ba Lộc–

262 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Trang–Mai hay bộ ba Lành–Tùng–Ái. Trong số các cô này,
Nha Trang lí lắc nhất, thích hát nhạc Pháp. Tôi vẫn nhớ cô
hay nhại lời hát trong bài Aline của Christophe, “Việt hóa”
câu “J’avais desiné” thành “Ra về đi xi-nê...” hết sức sáng
tạo và hóm hỉnh.

Về phần các cô, chắc các cô thấy tôi cũng khá “hiền”
nên có lần Kim Điền còn rủ tôi cùng với mấy cô bạn trong
lớp khác đến nhà chơi. Lần đó, tôi ghi lại một kỷ niệm nhỏ
mà không hiểu sao tôi không thể nào quên được. Hôm tôi
đến nhà Kim Điền, cô giới thiệu tôi với chị của cô là chị
Kim Kiểu. Chị nhìn tôi sững sờ, thấy tôi giống một người
nào đó (tôi đoán là người yêu cũ của chị, chắc cũng mang
kính cận thị như tôi - dân bốn mắt dễ giống nhau lắm!).
Chị ngó tôi chằm chằm, rồi quay sang một người bạn bên
cạnh, vừa nói vừa lắc đầu như không tin vào mắt mình,
“Thiệt chẳng khác gì trong chiêm bao!”

Hai tháng cuối cùng của năm lớp 10 qua đi chóng
vánh, học trò nghỉ mùa hè đầu tiên dưới chế độ mới.
Trong những tháng ngày đó, cố nhiên là người lớn lúc nào
cũng lo âu, sợ sệt, còn tuổi trẻ chúng tôi thì phần lớn là vô
tư trước những đổi thay của xã hội, kể cả trong học
đường. Năm học đầu tiên sau ngày mất nước chính thức
bắt đầu sau mùa hè. Lũ con trai “du học” chúng tôi được
trở về trường cũ, lúc này đã mất tên Võ Tánh. Trường
Huyền Trân cũng không còn nữa, cũng mang tên khác và
biến thành một trường chỉ dạy đến lớp Chín. Thế là như
được “trả lễ”, ngôi trường con trai của chúng tôi hân hoan
chào đón các cô nữ sinh từ trường Huyền Trân qua.
Trong số học sinh dồn về trường chúng tôi, còn có nhiều
bạn từ một số trường tư thục khác như Lê Quý Đôn, Bá
Ninh... hay chủng sinh từ các tiểu chủng viện đang dần
dần bị giải tán như Sao Biển, Giu-se... Lớp học trong thời
kỳ mới này lẫn lộn nam nữ chứ không còn riêng biệt như
ngày trước nữa.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 263

Trong một ý nghĩa nào đó, trường Huyền Trân và
trường Võ Tánh ngày xưa bấy giờ đã trở thành một.
Trong lớp học mới, tôi gặp lại một số bạn gái cùng lớp
năm ngoái như Xuân Lộc, Nha Trang, Thái Hằng, Thanh
Tùng, Lành, Ái... bên cạnh những cô “mới” như Sương
Mai, Hoài Châu, Ngọc Phương, Kiển, Hà, Kim Anh, Kim
Hồng, Chí... Còn một số cô khác từ những trường khác qua
là Kiều Băng, Tuý Vân... Về việc bạn nào đến từ trường
nào, có thể tôi nhớ không chính xác, nên có gì xin các bạn
đừng giận. Tên thì có thể không nhớ hết, nhưng những
khuôn mặt trong lớp nếu có dịp nhắc đến và hồi tưởng
thì bao giờ cũng vẫn nằm riêng trong một ngăn tim dành
cho kỷ niệm của một thời đi học không làm sao phai nhòa
được.

Trong hai năm cuối trung học, lớp tôi lần lượt là lớp
11B1 và 12B1. Dưới mái trường cũ, Ban C là ban văn
chương sinh ngữ, nhưng qua hệ thống giáo dục của chế
độ mới, Ban C đã bị hô biến thành Ban B. Bên cạnh lớp tôi
là lớp B2, tôi cũng quen (hay biết) các cô Huyền Trân
khác như Thư Hương, Ngọc Tuý, Ngọc Tước, Huyền
Hương, Tuý Phượng, Thu Ngâm, Thu Nguyệt... Một số cô
tôi nói là “mới” vì trước đó không học chung lớp, chứ thật
ra tôi cũng không xa lạ gì, vì chị của các cô đó là bạn của
chị tôi, như Sương Mai, Ngọc Tước, Thư Hương... Nha
Trang nhỏ xíu, gần như ai cũng biết ai cả. Hai người không
học cùng lớp với nhau, nhưng có thể anh hay chị của hai
đứa lại học cùng lớp, hay biết đâu cha mẹ trong hai gia
đình cũng biết nhau không chừng...

Nhân dịp trường Huyền Trân ra mắt tập san kỷ niệm
60 năm ngày thành lập trường, cô bạn Sương Mai của tôi
(từ San Jose) gọi điện thoại cho tôi (ở Little Saigon,
Orange County) kêu gọi đóng góp một bài cho tập san. Hai
chúng tôi cũng nhân dịp này tíu tít thăm hỏi nhau, cùng
nhắc lại bao nhiêu chuyện cũ, vui thật vui.

264 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

HỘI NGỘ VÕ TÁNH–NỮ TRUNG HỌC, SAN JOSE, 2010

Thế là sau khi gác điện thoại xuống, nhân vẫn còn
cuối tuần, tôi bắt tay vào viết ngay những dòng chữ đầu
tiên của bài này. Tôi miên man viết gần đến tối mới tạm
ngưng, rồi sáng hôm sau lên trường, trong thời gian ngồi
đợi dạy một lớp, tôi lại cặm cụi viết tiếp, sợ dòng hồi
tưởng bị cắt đứt. Viết đến đâu, tôi nghe kỷ niệm ùa về đến
đó. Có những điều tôi tưởng là mình đã quên từ lâu, hóa
ra chúng chỉ ngủ lơ mơ đâu đó trong ký ức, bây giờ có cơ
hội là thức dậy, sống động, tràn đầy, tưởng như là mới
hôm qua.

Trong khi viết, đến những chỗ tôi cần hỏi về một chi
tiết nào đó hay muốn xác định một chi tiết khác cho chắc,
tôi chỉ việc text (gởi tin nhắn) cho Sương Mai là y như chỉ
một lát thôi đã thấy cô trả lời (tôi tưởng tượng Sương Mai
luôn luôn cầm theo điện thoại trong khi đi khắp nơi trong
nhà!). Cô nàng Sương Mai này vui vẻ, mau mắn lắm, bạn
bè ai cũng biết.

Trở lại với hai lớp cuối thời trung học của tôi, ngoài
các cô bạn Huyền Trân và của các trường khác trong lớp,
về phía con trai chúng tôi, tôi có nhiều bạn cũ lẫn mới.
Trong số bạn mới, tôi quen Đạt, Hậu, Sỹ, Văn... (đa số từ

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 265

trường Bá Ninh qua), Báu, Tuấn, Ánh, Đạm, Vương...
(chủng viện Sao Biển), Trực, Khoa, Nhu... (chủng viện Giu-
se). Lũ con trai chúng tôi, ngoài việc sách vở, đã bắt đầu
để ý tới các cô bạn gái cùng lớp hay ngoài lớp, đã nhìn các
cô bằng cặp mắt mơ mộng về những cảm xúc mới lạ, xôn
xao của tuổi mới lớn. Ngày đó, chắc ai trong chúng ta cũng
còn nhớ rõ, con trai và con gái học chung với nhau
thường bị “cặp đôi”, đứa này với đứa nọ, tôi xin miễn nói
ra ai với ai, e thiếu tính khách quan. Mỗi người trong
chúng ta hẳn còn nhớ ngày xưa mình “bị” hay “được” cặp
đôi với ai trong lớp!

Nhiều khi ngắm các cô học cùng lớp cũng không tiện
mấy, vì chúng tôi học chung với nhau, gần gũi nhau quá,
lâu ngày thấy như anh chị em trong nhà. Lũ con trai lại
ngó xuống các cô ở lớp dưới, cảm thấy ít “tội lỗi” hơn. Lớp
dưới của chúng tôi, cùng khối B, là lớp 10B1, và năm sau
là 11B1 (hay 2, chi tiết này tôi không chắc). Trong lớp này
có nhiều cô rất xinh và được bọn con trai, tuy không đứa
nào chính thức bảo đứa nào, đều thầm phong cho chức
hoa hậu của trường. Đã xinh đẹp, tên của các cô cũng kêu
không kém, nghe cứ như tên của các nhân vật nữ của tiểu
thuyết Quỳnh Dao thời bấy giờ! Có thể kể đến các cô Hồng
Sa, Duy Đà, Bích Mai, Thùy Nhung, Diệm Chi, Thoại Như...
Những người đẹp này chắc không ngờ đến mấy mươi
năm sau vẫn còn có người nhớ và nhắc đến.

Trong hai năm cuối cùng đó, tôi nghĩ năm lớp 11 là
năm đáng nhớ hơn, vì sang đến năm 12, có nhiều bạn nghỉ
học do nhiều lý do khác nhau. Trong năm lớp 11, chúng
tôi có một kỷ niệm khó quên là lần đi “lao động” ở Sông
Cầu, cách Nha Trang trên dưới 30 cây số về hướng tây.
Lần đầu tiên chúng tôi tạm rời khỏi vòng tay ấm êm, che
chở của cha mẹ để dấn thân đến một vùng đất xa lạ, hoang
vu, nếm mùi tân khổ dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa”.
Công việc chính của chúng tôi là ngày ngày vào rừng đốn

266 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

cây, đốn để làm gì không biết, chắc chỉ để chế độ mới
“hành hạ” những cậu ấm cô chiêu của chế độ tư sản cũ.
Đã mấy mươi năm rồi, nhưng tôi vẫn không quên cảnh
rừng núi bao la, tiếng ve rừng vang vang da diết, đều đều
không bao giờ dứt. Hôm qua, tôi vào Google để tìm xem
tin tức của vùng đất hoang vu mà ngày xưa chúng tôi đã
đến, mới biết ra là Sông Cầu ngày nay đã trở thành một
xã thuộc huyện Khánh Vĩnh, chỉ có khoảng 1.000 dân cư.
Hơn 40 năm rồi, sau khi lũ học sinh chúng tôi đến “khai
phá” mà nơi đó ngày nay cũng vẫn là một nơi thưa thớt
người sinh sống, mà phần lớn lại là đồng bào thiểu số.

Lên đến Sông Cầu, chúng tôi mới thấy các cô bạn gái
cùng lớp được dịp “phát huy” tài năng và tính đảm đang
thiên bẩm của người phụ nữ Việt Nam, mặc dù lúc ấy tuổi
tác của các cô cũng chỉ mới vừa đôi tám. Những cô bạn
đáng yêu ấy của chúng tôi vừa đến nơi là đã xắn tay áo
lên, lăng xăng làm công việc bếp núc cho mọi người. Có
thể là ngay lúc đó chúng tôi đã không trân quý công việc
của các cô làm một cách xứng đáng, nhưng giờ đây có dịp
hồi tưởng, tôi thấy đó là cả một hình ảnh vừa dễ thương,
vừa gây xúc động. Mỗi người trong chúng ta có thể đã ghi
lại một vài hình ảnh của các cô lúc làm bếp. Riêng tôi, chi
tiết mà tôi nhớ nhất là có hôm các cô nấu một nồi canh
khổng lồ mà chỉ còn lại một quả trứng gà duy nhất. Vậy là
các cô quyết định đập trứng ra, khuấy đều phần tròng đỏ
lẫn tròng trắng vào nồi canh to tướng đó!

Học hết trung học, chúng tôi rẽ về nhiều ngả khác
nhau trên đường đời. Chỉ vài năm sau đó, chúng tôi đã
sống nhiều cảnh đời hết sức khác biệt nhau. Nhiều người
học tiếp lên bậc cao đẳng hay đại học. Nhiều người khác
sớm bước vào đời, vật lộn với áo cơm. Nhiều người nữa
vượt biên ra ngoại quốc, có kẻ đi đến bến bờ tự do, và
cũng có kẻ ra đi nhưng không bao giờ đến. Lại có một số
ít đã lập gia đình tương đối sớm hơn các bạn đồng lứa.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 267

Trong giai đoạn mới đó, chúng tôi đã tạm quên đi những
tháng ngày vui tươi, không vướn bận âu lo lúc còn cắp
sách đến trường.

HỘI NGỘ VÕ TÁNH–NỮ TRUNG HỌC, NAM CALIFORNIA, 2017
Mấy mươi năm sau, khi mọi việc trong gia đình đã

tạm yên ổn, con cái đã khôn lớn, ai cũng bắt đầu nhớ lại
những ngày xưa. Đó là lý do của những lần hội ngộ bạn
bè cũ ở trong nước hay ở hải ngoại. Tôi không biết các
bạn khác thì sao, nhưng riêng tôi, sau những năm tháng
mài đũng quần ở trường lớp, tôi không có thêm một
người bạn nào theo đúng nghĩa là bạn bè nữa. Bạn của tôi
bây giờ, cho dù không liên lạc thường xuyên, vẫn chỉ là
những người bạn cùng lớp hay cùng trường của tôi ngày
xưa ở Nha Trang. Trên bước đường vượt biên, trốn chạy
cộng sản, khi ở trại tỵ nạn cũng như lúc đã định cư, đi học,
đi làm ở xứ người, tôi cũng gặp một vài người “bạn” mới.
Tuy nhiên, những người bạn ấy, sau một thời gian ngắn
ngủi, đã dần dần biến mất trong dòng đời mờ mịt. Tôi
không thấy có sự khắng khít nào trong những tình bạn
mới đó. Có lẽ bạn bè đúng nghĩa, tâm đắc với nhau, thấy
gần gũi nhau, chính là nhờ chúng ta đã san sẻ với nhau

268 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

thật nhiều quá khứ, nhiều kỷ niệm, nhiều cảm xúc... Thời
gian cùng học hành, sinh hoạt dưới mái trường so ra thật
ngắn ngủi đối với thời gian chúng ta trở thành người lớn,
quay cuồng với cuộc sống chung quanh. Thế nhưng thời
gian đèn sách đó lại khắc sâu vào tâm khảm chúng ta, giữ
mãi cho chúng ta những tình cảm sâu lắng và bền vững.

Về sau, có nhiều bạn Võ Tánh đã trở thành “rể” của
trường Huyền Trân—điều đó cũng có nghĩa là cũng có
bấy nhiêu bạn Huyền Trân là “dâu” của trường Võ Tánh.
Tôi không nằm trong trường hợp “romantic” này, nhưng
tôi nghĩ mối duyên của tôi đối với trường Huyền Trân
cũng có những nét đặc biệt riêng của nó. Thoạt đầu, tôi là
“hàng xóm” của trường NTH cũ, sau đó tôi trở thành
“khách” trong mấy lớp hè ở đó trước khi vào lớp 6, rồi
cuối cùng tôi “trọ học” ở trường Huyền Trân trong mấy
tháng cuối cùng của năm lớp 10. Mối duyên này đã làm
tôi luôn luôn thấy dễ chịu, thoải mái mỗi lần tham dự hội
ngộ Võ Tánh–Nữ Trung Học, với cảm giác là mình thuộc
về cả hai ngôi trường, bên nào cũng có bạn bè. “Công
chúa” Huyền Trân năm nay làm kễ kỷ niệm 60 mươi năm
thành lập trường, nhỏ hơn “tướng quân” Võ Tánh gần
một thập kỷ (trường Võ Tánh sẽ kỷ niệm 70 năm thành
lập vào năm 2022). Hai ngôi trường trung học nổi tiếng
nhất nhì Nha Thành này, chỉ cách nhau có một con đường,
đã chia sớt với nhau bao nhiêu là kỷ niệm đẹp của một
thời đáng nhớ. Nhân dịp đánh dấu 60 năm ngày thành lập
trường nữ trung học Huyền Trân, người viết bài xin thân
ái gởi lời chúc mừng đến các giáo sư, nhân viên và nữ sinh
của trường, cùng tất cả những ai gắn bó với ngôi trường
dễ thương này qua những mối lương duyên mà chỉ riêng
mỗi người mới có thể cảm nhận trọn vẹn và sâu xa nhất.

TRẦN C. TRÍ
Võ Tánh (1970–1975)
Huyền Trân (1970 & 1975)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 269

Kiếp Xưa Ngày Ấy

Ngọc Bảo

Quá khứ đã qua, tương lai
chưa tới, chỉ có hiện tại để sống
trọn vẹn. Đời người như một
giòng sông mãi mãi chảy xuôi,
không quay trở lại được.
“Không ai có thể tắm hai lần
trong cùng một giòng nước.”
Thế nhưng có lúc phải tìm về dĩ
vãng, để... viết bài cho trường
cũ, thể theo lời yêu cầu của
người bạn xưa thân mến Huỳnh Tự Tân.

Nhắc đến những ngày ngây thơ học trò tưởng chừng như
tìm về một kiếp nào xa xôi lắm. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua,
cảnh cũ đã hoàn toàn thay đổi, người xưa cũng không còn.
Kiếp nào đã yêu nhau... kiếp nào thành người xa lạ... tất cả
chỉ là phù du trong giòng thời gian trôi chảy vô tận. Quá khứ
và hiện thực đều là những giấc mộng đã và đang đi qua, nối
tiếp nhau tựa như những kiếp riêng biệt hợp thành vận mệnh
của một đời sinh tử.

Tới một lúc nào đó, người ta thường muốn gợi lại quá
khứ, như muốn chối bỏ tuổi già đã tới. Đôi khi tôi cũng có
những giấc mơ về ngôi nhà cũ của cha mẹ ở Nha Trang, ngôi
nhà gần biển có tiếng sóng rì rầm ru vào giấc ngủ mỗi đêm.
Biển Nha Trang trong những ngày nắng có nước xanh biếc
như ngọc, những ngọn sóng lăn tăn lấp lánh dưới ánh mặt
trời, phong cảnh tuyệt đẹp với hàng cây xanh dọc đường và
dãy núi hùng vĩ ở bờ bên kia. Ngày đầu tiên đến Nha Trang,
khi đi qua bờ biển, chúng tôi đã reo hò lên vui sướng, cảm
nhận sự ấm áp trong lành tỏa ra từ ngọn gió biển hiền hòa,
sau những ngày vất vả lang thang của chuyến di cư từ Bắc
vào Nam. Lúc đó tôi còn quá nhỏ để hiểu tâm trạng của cha

270 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

mẹ tôi, nhưng chắc ông bà cũng cảm thấy vui mừng và an
tâm vì đã chọn đúng chỗ để gây dựng lại cuộc đời.

Tuổi thơ của tôi in dấu vườn sau đầy bóng mát của ngôi
nhà thuê tại đường Công Quán. Ngôi nhà này ở gần nơi phố
thị, xế bên kia đường là rạp hát, chung quanh đầy những
gánh hàng rong. Ngày nào chúng tôi cũng phải nghe tiếng
loa chát chúa vang dội những bài nhạc, hay những bài hát
dân ca của Ngọc Cẩm – Nguyễn Hữu Thiết trước giờ chiếu
phim. Vườn sau rất rộng, có cây doi (cây mận) lớn như cổ
thụ trổ đầy trái, gần đó là cái giếng nước mà chị người làm
thường đem đồ ra giặt, hay rửa rau trái v.v... Bên hàng rào
lại có một cánh cửa nhỏ thông qua khuôn viên nhà bên cạnh
là trường Kim Yến, thỉnh thoảng tôi lại “vượt biên” qua cánh
cửa này để chơi với Minh Nhựt, cô bạn hàng xóm sau này là
bạn học cùng lớp.

Năm tôi bắt đầu vào trung học, cha mẹ tôi đã dành dụm
được số tiền mua một khu đất gần biển và xây nhà trên đó.
Từ nhà đi bộ đến trường Võ Tánh rất gần. Bước chân vào
trường trung học cảm thấy như mình đã lớn hẳn ra, nhưng
đối với cha mẹ dường như tôi cũng vẫn còn là đứa con nít
ngây thơ khờ dại. Hai năm đầu Đệ Thất và Đệ Lục, tôi học
ở trường Võ Tánh, lấy Anh ngữ làm sinh ngữ chính. Lớp học
có cả nam lẫn nữ, nhưng hình như phe nam có vẻ lép vế hẳn
với sự đông đảo của phe nữ.

Tôi đi học mặc áo đầm trắng, dường như vì mẹ tôi chưa
may áo dài cho tôi thì phải. Tưởng mình là người duy nhất
mặc áo đầm, ai ngờ có hai người khác cũng mặc đầm, thế là
ba đứa chơi với nhau thật khắng khít và vẫn còn thân đến
bây giờ. Đó là hai cô bạn Bích Thủy và Ngộ Khê. Bích Thủy
rất thông minh và giỏi trong mọi lãnh vực, lại có tài ăn nói
hay và duyên dáng khiến ai cũng “tâm phục khẩu phục”, còn
Ngộ Khê thì vui tính ngay thẳng, dễ hòa đồng. Duyên nào đã
đưa tôi gặp gỡ được hai cô này để có một tình bạn chân thật
và bền vững cho đến ngày nay?

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 271

Năm Đệ Lục trường có tổ chức một buổi văn nghệ lớn ở
rạp hát rất đông khán giả, hôm ấy bộ ba chúng tôi cũng lên
trình diễn một màn vũ với bài “Alouette” trong chiếc áo đầm
xinh xắn, dường như cũng được tán thưởng khá nhiều. Đây
là dịp để cho các nghệ sĩ mầm non trổ tài. Tiếng hát đặc biệt
của Cẩm Vân trong bài “Nhớ Mầu Hoa Tím” đã thu hút và
tạo ấn tượng trong tôi ngày ấy cho đến bây giờ. Trong hậu
trường lần đầu tiên tôi được nói chuyện với chị Kim Anh,
em gái chị Tường Quy bạn thân với chị Hoàn của tôi. Chị
Kim Anh rất đẹp, hiền lành dễ thương với mái tóc thề mơ
màng buông xõa. Bỗng một thời gian ngắn sau, tôi nghe tin
chị đã bị tử nạn trong một cuộc khủng bố bằng lựu đạn ở rạp
hát Vĩnh Lợi tại Sài Gòn. Thương thay cho một kiếp hồng
nhan bạc mệnh!

Bắt đầu năm Đệ Ngũ, tôi rời trường Võ Tánh để chuyển
qua trường Nữ Trung Học mới thành lập. Ngày đầu tiên đến
trường cảm thấy “buồn 5 phút” vì đang quen với trường Võ
Tánh uy nghi hoành tráng, bỗng bây giờ bị tuột dốc “từ nhà
lầu xuống nhà trệt” với khung cảnh đơn sơ đạm bạc của ngôi
trường mới xây. Thế nhưng đây lại là ngôi trường mang rất
nhiều kỷ niệm và những giờ phút vui tươi đáng nhớ nhất
trong tuổi học trò. Lớp học đông hơn với một số bạn học từ
các tỉnh chuyển về. Lực lượng giáo sư cũng khá hùng hậu,
các thầy cô phần lớn tốt nghiệp từ trường Sư Phạm Huế, còn
rất trẻ nhưng dạy dỗ tận tình với vẻ nghiêm trang mô phạm.
Sân trường nhỏ bé “đi dăm bước đã về chốn cũ”, mà ngày
nào ra chơi cũng phải đi một vòng, kiểm điểm đầy đủ bộ mặt
bá quan văn võ, và chiêm ngưỡng những người đẹp nổi tiếng.
Giờ thể dục cả lớp đi bộ ra bãi biển hoa chân múa tay, lớp
trẻ dại như chúng tôi còn chạy nhẩy chơi đùa, chứ các đàn
chị lớn hơn đã có vẻ ngại ngùng.

Cuộc đời học sinh những năm đệ nhất cấp của tôi trôi
qua lặng lẽ không có gì đặc biệt. Tôi vẫn luôn giữ vị thế
“thường thường bậc trung” trong các môn học, duy chỉ có
môn Toán là vất vả. Cô giáo dạy Toán dường như lại đặc biệt

272 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

để ý đến tôi, sẵn sàng khiển trách những lỗi lầm trong các
bài tập mà tôi hay gặp phải – mà đúng hơn, mỗi lần nhìn thấy
mấy con số chồng chéo lên nhau như mê hồn trận là tôi bắt
đầu “tẩu hỏa nhập ma” và rốt cuộc là đường chánh thì không
đi, cứ đi theo đường tà... Chắc cô giáo cũng ngán ngẩm và
cho tôi thuộc vào loại “hết thuốc chữa”! Ấy thế mà chuyện
không tưởng được đã xảy ra, năm vào lớp Đệ Tam, chúng
tôi được thầy Đốc dạy môn Toán Hình Học. Thầy dạy rất
giỏi và giải thích rõ ràng khiến học trò dễ hiểu. Trông dáng
thầy tỏa ra sự uy nghiêm và có vẻ hơi “hung thần” một chút,
nên tôi cũng lo sợ lắm, về nhà rán tập tành “nghiên cứu” kỹ
lưỡng những bài toán. Chẳng biết làm sao mà năm ấy tôi lại
được chấm nhất môn Toán của thầy! Thật là chuyện khó tin
nhưng có thật...

Bắt đầu qua những năm đệ nhị cấp, tôi chọn ban C nên
việc học có vẻ khởi sắc hơn, với các môn chính là ngoại ngữ
gồm cả Anh, Pháp và văn học Việt Nam. Ban C tập hợp
những tâm hồn nghệ sĩ thích văn chương nghệ thuật, nên có
tính cách phóng khoáng, các bạn trong lớp dễ trở thành thân
thiết với nhau. Ngồi cùng bàn của Bích Thủy và tôi là một
người bạn mới rất hiền lành dễ thương, đó là Tự Tân, cựu
học sinh của trường Thánh Tâm, ngôi trường tôi đã theo học
trong mấy năm đầu tiên của tiểu học. Tôi đã có nhiều kỷ
niệm với Tự Tân trong những dịp đi chơi biển, đi chụp hình
v.v… nhất là lúc sau này khi Bích Thủy đã vào Sài Gòn học.
Ngoài ra còn những bạn khác thân thiết như Phương Phú,
Bạch Võ, v.v... và những bạn đã biết từ lâu như Thúy Lan,
Minh Nhựt, Bích Khuê, v.v…

Nói về văn chương, tôi vốn thích đọc sách từ nhỏ, trong
nhà lại có nhiều sách đủ loại, từ sách khảo cứu cho đến
những truyện tiểu thuyết tiếng Việt hay tiếng Anh, Pháp. Vì
muốn biết nội dung những truyện bằng tiếng Anh hay tiếng
Pháp, với cuốn tự điển trong tay, tôi mầy mò vừa đọc vừa tra
tự điển, lâu ngày đâm ra giỏi ngoại ngữ. Những quyển sách
này đã đưa tôi vào những nền văn hóa khác biệt với nhiều

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 273

tình tiết ly kỳ, khiến tôi mơ ước một ngày nào đó sẽ được
bay về một nơi chốn xa xôi, chứng kiến những điều mới lạ.
Giấc mộng du học của tôi sau này cũng đã thành tựu, nhưng
thay vì bay về một phương trời Âu Mỹ nào đó, các nhân
duyên kết hợp đã đưa tôi qua Nhật Bản, một quốc gia có sức
thu hút lạ kỳ với nền văn hóa đông phương cổ truyền hòa
quyện trong một nếp sống văn minh tân tiến.

Hàng trên: Minh Nhựt, Bích Khuê, Tự Tân, Ngọc Bảo, Bích Thủy,
Nguyễn thị Hạnh; Hàng dưới: Tôn Nữ Ngọc Lâm, Phương Phú, Bạch Võ

Nhắc đến trường cũ, các giáo sư đã để lại nhiều ấn tượng
nơi tôi, nhất là cô Thứ và cô Cung. Đầu tiên là cô Thứ. Cô
Thứ dạy Công Dân Giáo Dục, môn học không được để ý đến
lắm nhưng Cô đã làm cho chúng tôi phải chú ý và nhận thức
được sự quan trọng của nó, qua cách giảng dạy điềm đạm
mà lôi cuốn, biểu lộ kiến thức sâu rộng và tâm huyết muốn
góp phần tạo dựng một xã hội an vui trật tự. Học đường là
nơi đào tạo những công dân tương lai có tinh thần kỷ luật và
đạo đức, biết trọng nhân phẩm và công lý cho con người.
Với tiêu chỉ “tiên học lễ, hậu học văn”, nền giáo dục Việt
Nam Cộng Hòa đã góp công xây dựng một xã hội văn minh
trọng pháp luật và nhân bản. Tiếc thay khi miền Nam Việt

274 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Nam rơi vào tay cộng sản, môn học này đã bị bãi bỏ ngay
lập tức và thay vào đó là nền giáo dục nhồi sọ, giáo điều,
xem thường đạo đức, tạo nên một thế hệ mới có tầm nhìn
nông cạn và vô cảm, chỉ biết chú trọng đến những lợi ích cá

nhân.

Đối với cô Thứ, tôi có niềm kính phục, nhưng đối với cô
Cung, tôi dành hết tình cảm cho Cô như một người thầy, một
người chị. Năm Đệ Tam, Cô ở Huế vào bắt đầu dạy môn Anh
Văn cho lớp C chúng tôi. Cô có cái nhìn thực tế, chú trọng
vào việc tập đối thoại trong tiếng Anh hơn là những bài đọc.
Cô dạy chúng tôi những chữ thông dụng và những thành ngữ
để dùng trong đối thoại, nhờ đó gây sự chú ý và thích thú
trong giờ học. Cô là một nhà giáo thức thời, lại có một tinh
thần phóng khoáng và nhiều tình cảm. Cô không ngại ngần
tỏ lòng thương yêu của mình đối với một học trò giỏi và
ngoan ngoãn. Học trò cưng nhất của Cô dĩ nhiên là Bích
Thủy. Nhưng Bích Thủy chỉ học một năm Đệ Tam rồi sau
đó chuyển vào Sài Gòn. Khi Bích Thủy rời trường, tôi là
người thứ hai “secours” để Cô dành cho những cảm tình
thương mến. Cô càng thương, tôi càng cố gắng học hỏi để
không phụ lòng của Cô. Lớp học đã trở nên như mái nhà thứ
hai, trong đó có tình thầy trò, tình bè bạn trong không gian
ấm cúng và thân mật.

Năm Đệ Nhị, Trường Nữ Trung Học Nha Trang đã dọn
về địa điểm mới cách trường cũ không xa, một khu đất vuông
vắn trong đó xây dựng một ngôi trường nguy nga có hai tầng
lầu với nhiều tiện nghi. “Nhà trệt trở về nhà lầu” nhưng tôi
lại cảm thấy có điều gì xa cách, vẫn nhớ thương về mái
trường cũ. Thời gian qua mau, vô thường đến như cơn gió
thổi không ai biết trước được. Các anh chị tôi đã vào Sài
Gòn, người học đại học, người đi du học nơi xa, khiến mẹ
tôi đi đi về về như con thoi, để mình tôi và cha tôi trong căn
nhà cô quạnh.

Cuối cùng cha mẹ tôi quyết định sau niên học lớp Đệ

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 275

Nhị, đậu Tú Tài I xong, sẽ cho tôi về Sài Gòn trước, ông bà
sẽ dọn đi sau khi thu xếp xong công việc. Vào Sài Gòn học
là một niềm phấn khởi, nhưng cũng đem đến một nỗi buồn
khó tả, nỗi buồn chia ly với những gì thân thuộc, với bạn bè
thầy cô, và ngôi trường thân yêu đã ghi dấu bao kỷ niệm thời
mộng mơ. Ngày cuối cùng ở Nha Trang, tôi đã mời cô Cung
và các bạn đi ăn tối ở một quán ăn gần bờ biển. Lần đầu tiên
ăn sơn hào hải vị, nhưng dường như có vị đắng trên môi.
Chưa xa nhau mà tôi đã thấy nhớ thương tràn ngập. Lúc chia
tay, cô Cung dành trả tiền, để lại cho tôi một món nợ ân tình
vẫn chưa trả được.

Vào Sài Gòn, tôi được nhập học trường Gia Long, một
ngôi trường nữ nổi tiếng ở miền Nam, có lịch sử lâu dài.
Những bước đầu nơi trường mới cũng còn nhiều bỡ ngỡ,
nhưng may mắn tôi lại được học chung với Bích Thủy trong
lớp Nhất C 1, và gặp lại Phương Nga, người đầu tiên tôi kết
bạn khi mới vào trường Võ Tánh chỉ trong thời gian ngắn hai
tuần. Học trò Gia Long có nhiều người học giỏi, dạn dĩ và
năng động. Nhìn các bạn nô đùa với nhau mà tôi nhớ đến
những ngày dưới mái trường xưa ở Nha Trang, nhớ đến thời
gian vui vầy êm ấm cùng các bạn. Chẳng biết các bạn ấy bây
giờ ra sao, có ai nhớ đến mình không. Tôi không biết rằng,
lớp Đệ Nhị C năm ấy cũng đã rời khỏi trường Nữ Trung Học
để qua Võ Tánh học lớp Nhất C, và họ đã có một năm học
thật vui vẻ với nhiều kỷ niệm.

Một trang sách đã lật qua, để tôi bắt đầu một giai đoạn
mới trong cuộc đời. Nhưng ở một góc nào đó trong tâm tư,
những hình ảnh tươi đẹp của thời học trò dưới mái trường
Nữ Nha Trang vẫn tồn tại như những gì thân thương quý giá
nhất, một phần đời đã tạo nên tôi ngày nay, để bao giờ cũng
vẫn còn “một chút gì để nhớ, để quên.”

Ngọc Bảo

Little Saigon- Orange County
Cuối tháng 9, 2021

276 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Hoaøi Nieäm
Thôøi Gian

Trần Thị Hoa

Thương giấy trắng với mực xanh màu biển,
Nha Trang ơi, Trung học Nữ Huyền Trân.
Chiều nắng nhạt vương hồn thu phảng phất,
Hàng dương xanh bao năm tháng phai tàn,

Ta gánh mộng về xây trên hoang mạc,
Nghe đau thương giết chết suối nguồn thơ.
Ngồi dệt lại sắc hương trời-mây-nước,
Cho hồn ai xanh mãi giữa rừng hoang.

Tiếng em hát hay lời sông huyền ảo,
Mắt em buồn hay lá úa mùa thu.
Nghe lạc lõng giữa đôi bờ hư thực,
Chẳng u buồn sao lòng thấy hoang vu.

Trần Thị Hoa ( NTH lớp 9/75)

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 277

Trương Bích Khuê

Càng lớn tuổi tôi càng tin phần
số con người do ông trời sắp xếp.
Chẳng hạn như một chuyện rất nhỏ
trong cuộc đời tôi. Những năm tháng
tiểu học, tôi chỉ là học sinh trung bình
vì tội ham chơi hơn ham học. Nhưng
không ngờ may mắn lại đến với tôi
như một phép nhiệm màu: Tôi có tên
trên bảng vàng đậu vô lớp Đệ Thất
trường Trung Học Võ Tánh Nha

Trang.

Tôi nghĩ có lẽ lúc làm bài thi tôi đã được Phật Trời phù
hộ tự dưng thông minh bất ngờ. Và tôi còn có nhỏ bạn thân
Thúy Lan cũng đậu vào Võ Tánh. Nó là đứa bạn rất thân vì
tính tình nó giống tôi, nó cà ngơ chín phần, thì tôi mười phần,
tôi được hơn nó một phần. Thêm đứa bạn thân nữa, không
nhắc đến là một thiếu sót rất lớn. Nó tên là Minh Nhựt, không
học trường Nữ Tiểu Học, cùng đậu vào Võ Tánh, cà ngơ tinh
nghịch không khác gì tôi và Thúy Lan. Vì vậy chúng tôi như
thỏi nam châm không rời nhau.

Ngày nhập học tôi ngỡ ngàng bước vào trường Võ Tánh,
nhiều nam sinh hơn nữ sinh. Tôi ngỡ ngàng vì tôi từ trường
Nữ Tiểu Học, một trường toàn nữ sinh, nay chuyển qua học
có cả nam sinh cùng học thấy không thoải mái. Tôi học ở
đây hai năm, Đệ Thất và Đệ Lục. Đến năm Đệ Ngũ, 1961,
chúng tôi, nữ sinh được chuyển qua trường mới, trường Nữ
Trung Học Nha Trang trên đường Lê Văn Duyệt, tôi vỡ òa
trong niềm vui sướng. Vậy là đám nữ sinh chúng tôi có được
không gian riêng, từ đây được tự do bay nhảy. Trường Nữ
Trung Học của chúng tôi là một dãy nhà tôn, mùa nắng nóng

278 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

hừng hực. Sân trường trải sỏi nên mùa mưa lầy lội. Vậy mà
chúng tôi cảm thấy hạnh phúc, như ở trong cảnh thần tiên,
thi đua nhau học hành hăng say.

Tuy tôi học hành không xuất sắc, nhưng bản tính sôi
động nên tôi hoạt động rất hăng say trong tất cả sinh hoạt
của trường. Mục nào cũng có mặt tôi. Không phải lúc nào tôi
cũng được toại nguyện, có những lần bị từ chối tham dự một
mục sinh hoạt nào đó, tôi chẳng chịu thua, muối mặt năn nỉ
thầy cô, hay vận động các bạn xin giùm cho, ví dụ như ở lại
trường sau giờ học giúp thầy cô vẽ bandroll, sắp xếp bàn ghế
tiệc tất niên cho ngày hôm sau. Những lần cắm trại, lửa trại,
tôi không bỏ qua, nhất định giơ tay xin ghi tên vào bất cứ

ban nào.

Tôi đắc ý nhứt là ban văn nghệ, mục này quả là vui,
được tụ tập ăn vặt, nào xoài ổi, cóc ngâm chua chua ngọt
ngọt, đùa giỡn tha hồ. Nói cho cùng tôi cũng hân hạnh được
nhận vào những mục ca hát múa kịch. Không phải tôi có tài
ca hát hay, múa giỏi, đóng kịch tài ba, mà vì tôi kiên nhẫn
năn nỉ thầy cô, và có tài ăn nói vận động các bạn xin xỏ giùm.
In đậm màu nhứt trong trái tim tôi là màn kịch của đêm cắm
trại năm Đệ Lục. Cô Tường là cô giáo chỉ đạo của lớp tôi.
Trong đêm văn nghệ lửa trại, Cô có màn kịch “Lý Trưởng
Lên Tỉnh.” Tôi nghe vậy hào hứng vội vàng giơ tay lên xin
Cô được đóng vai Lý Trưởng. Cô ngao ngán, lắc đầu quay
mặt dấu nụ cười.

Trong khi tập kịch, tôi đâu hình dung ra y phục và mặt
mày của ông Lý Trưởng ra làm sao, đến khi tổng dượt, mới
biết là phải mặc áo dài đen, đội khăn đóng, cắp dù, và Cô
còn giữ một điều bí mật về cách trang điểm khuôn mặt của
ông Lý Trưởng. Đêm lửa trại cũng đến, lúc được giới thiệu
màn kịch, Cô vào trang điểm cho tôi, với đôi lông mày đậm
đen, làm mấy đứa bạn bật cười chế nhạo. Nhưng chưa hết,
Cô vẫn giữ một điều bí mật, đó là trước khi tôi ra diễn, Cô
vội chạy tới bên tôi, vẽ thêm bộ râu ria ngoắc lên, làm các

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 279

bạn cười bò lăn khi nhìn thấy hình dạng tếu của tôi khi trình
diễn. Sau màn kịch, các bạn tôi đâu tha, không cho tôi thay
đồ, lau mặt, mà bắt để nguyên vậy, chỉ chỏ bò lăn ra cười.
Tôi đâu lấy làm mắc cỡ mà còn hùa theo các bạn vui đùa với
màn kịch lý thú không bao giờ quên này.

Theo vận nước, chúng tôi trôi nổi ra nước ngoài sinh
sống sau 1975. Sau một thời gian dài, chúng tôi liên lạc được
với nhau và đến năm 1998, chúng tôi cùng nhau làm Hội
Ngộ VT-NTH Nha Trang ở Nam California, và sau đó liên
tục chúng tôi cùng nhau xây dựng một nền tảng Hội Ngộ
VT-NTH Nha Trang, mỗi năm tổ chức ở mỗi tiểu bang khác
nhau. Hội Ngộ năm nào cũng có mặt tôi trên sân khấu, vì các
bạn biết tôi đã có kinh nghiệm về văn nghệ, và tính tình dễ
hòa đồng nên có khi tôi từ chối cũng không xong, chẳng hạn
như đến giờ phút cuối trước khi lên sân khấu một ngày hay
vài giờ, bất ngờ thiếu một hai người trong màn diễn, các bạn
năn nỉ tôi, tôi đành phải bằng lòng. Sau vài giờ tập dượt, tôi
chưa thuần thục và hơi mệt mỏi, các bạn quyết định không
tập nữa, có gì chơi đó, và tôi được dặn dò kỹ lưỡng: “Bích
Khuê nhớ để ý động tác của các bạn chung quanh mà làm
theo”, tôi liền gật đầu đồng ý.

Nhưng đâu phải lúc nào cũng suôn sẻ, chẳng hạn như
Hội Ngộ Florida 2019. Tôi đã từ chối các bạn ở San Jose
không trình diễn màn line dance với lý do mình không còn
trẻ nữa để nhảy

nhót sàng qua
sàng lại trên
sàn nhảy,
nhưng rồi “cái
nghiệp” văn
nghệ đeo đuổi
nên tôi đồng ý.
Khi đến
Florida, ở
chung một

280 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

hotel, các bạn gặp tôi vui mừng ra mặt. Tôi lấy làm lạ, biết
chắc tôi tham dự mà tại sao nhóm bạn vũ lại hứng khởi một
cách bất bình thường. Thì ra có bạn vừa từ chối không diễn
chung nữa, nên họ năn nỉ tôi thật tha thiết, với lý do không
đủ người làm sao đây, và tôi đã xiêu lòng. Vì thời gian eo
hẹp, tôi không đủ thì giờ để tập dượt cho nhuần nhuyễn, mà
chỉ tập được đôi lần. Theo lời dặn, tôi chỉ cần làm các động
tác của bạn diễn bên cạnh là được thôi.

Đến khi trình diễn, tôi ngập ngừng quýnh quáng không
biết bước nào tới bước nào lui, thôi thì cứ theo các bạn mà
nhảy. (Hình minh họa cho thấy tay người bên cạnh để xuống
mà tay của tôi đưa lên!) Chấm dứt màn nhảy, các bạn vây
quanh khen tôi nhảy đẹp, đều, tốt, nhưng than ôi, đến khi về
lại chỗ ngồi, đi ngang bàn các thầy cô giáo, thầy cô cười tươi
chọc ghẹo: Bích Khuê nhảy đẹp hay quá, người ta xoay bên
phải, em xoay bên trái.” Tôi cười vui vì mấy khi được thầy
cô chọc ghẹo, vì tôi quan niệm những buổi hội ngộ hai
trường là để vinh danh thầy cô, gặp gỡ nhau, vui là chính.

Thật ra,
chương trình
văn nghệ của
hội ngộ nào
cũng để lại

trong tôi
nhiều kỷ
niệm đẹp.
Đáng ghi
nhớ nhất là
lần Hội Ngộ
VT-NTH tại San Jose 2015. Các bạn trong ban văn nghệ San
Jose đều còn nhỏ tuổi hơn tôi nhưng họ chuẩn bị và tập dượt
rất chu đáo. Tôi vì ở xa mãi tận Seattle, nên những màn tập
vũ, hoạt cảnh đều được các em cho người thế vai tôi và quay
video clip lại, rồi gởi đến tôi để tập trước cho thuần thục.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 281

Điều vui nhứt trong kỳ hội ngộ này khi tôi có Xuân Thùy
và Bùi Thị Trường, cùng niên khóa, và Lê Hương, học trên
hai lớp. Ba bạn này là những tay có nhiều kinh nghiệm về
văn nghệ. Xuân Thùy phụ trách màn hoạt cảnh “Gạo Trắng
Trăng Thanh”, đã bỏ biết bao thì giờ, công sức trong màn

này. Bạn đã tay xách nách mang đi xe đò Hoàng từ
Sacramento đem tất cả vật dụng cần thiết mà bạn đã bỏ tiền
túi ra sắm sửa. Xuân Thùy phải ở lại nhà Sương Mai 1, 2
ngày để tập vũ, tập hoạt cảnh, ngoài ra còn tẩm bổ cho nhóm
những thức ăn ngon của bạn tự nấu, món tuyệt vời nhứt mà
tôi vẫn nhớ mãi là món nem nướng cuốn bánh tráng. Có
thưởng
thức
những
món do
Xuân
Thùy
đem đến
mới công
nhận lời
đồn là
người nổi

282 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

tiếng về nấu ăn ngon và trình bày khéo là đúng. Ban vũ
chúng tôi rất cảm kích nhiệt tình của bạn đã đem sự phấn
khởi để chúng tôi đáp lại sự mong đợi của mọi người.

Phút cuối trước ngày tổng dượt, chúng tôi có thêm Lê
Hương và Bùi Thị Trường trong vai hai chàng nông dân thủ
diễn bên cạnh các cô thôn nữ điệu đàng, dễ thương. Hai vai
nam trình diễn xuất sắc với bộ râu mép thật oai phong, làm
trái tim các nàng Nữ Trung Học đập lạc nhịp, năn nỉ xin được
chụp chung làm kỷ niệm.

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 283

Ngoài ra Lê Hương còn phụ trách một màn vũ không
kém phần sống động: “Chiều Lên Bản Thượng”. Cũng như
Xuân Thùy, tất cả vật dụng: y phục, bông tai theo kiểu của
người Thượng đều do Lê Hương mua sắm, bạn ấy còn chu
đáo cung cấp đồ ăn thức uống cho chúng tôi để có sức khỏe
tập dượt liên tục từ sáng tới chiều trong hai ba ngày, vì bạn
quan niệm có thực mới vực được đạo... đạo... ăn… Tôi rất
cảm động trước sự chăm sóc rất nhiệt tình của Lê Hương qua
câu nói: “Khuê ơi, ăn cái này ngon lắm, mày ốm cà tong cà
teo, ăn nhiều vô...”

Xuân Thùy, Lê Hương, Ngọc Sa, Bích Khuê, Thu Phong

Thu Phong, Bích Đào, Bích Khuê
284 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Bích Khuê và Lê Hương

Lê Hương và Xuân
Thùy phụ trách màn vũ

thành công ngoài sức

tưởng tượng của chúng

tôi. Từ đó tình bạn của
chúng tôi càng thêm đậm

đà hương thơm. Tôi nhận

ra rằng những người có
khiếu về văn nghệ thường

có mắt mỹ thuật trên

nhiều phương diện. Tôi
thật sự cảm mến Lê
Hương và Xuân Thùy

cũng như các bạn khác đã

góp công, góp tài, góp trí, Xuân Thùy và Ngọc Sa

thời gian... cho những lần Hội Ngộ.

Tôi cũng muốn nhắc đến Phạm Phan Lang, một đồng
môn của NTH, luôn hiện diện tại các buổi Hội Ngộ với chiếc
máy ảnh, chớp lia lịa ghi lại những tấm hình độc đáo, không

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 285

bỏ sót bất cứ vị Thầy Cô hoặc bạn hữu, hay những màn trình
diễn nào ngõ hầu lưu lại những kỷ niệm đặc biệt dễ gì có lần
thứ hai. Để có những bức hình như vậy, bạn ấy chẳng màng
đến ăn uống. Cũng như tôi, có lẽ Thầy Cô và đồng môn đều
cảm mến nghĩa cữ và tấm lòng của Phan Lang đối với trường
xưa và bạn cũ.

Những buổi Hội Ngộ Nữ Trung Học Nha Trang đã cho
tôi nhiều háo hức chờ mong, khơi dậy một thời tuổi trẻ thơ
mộng, trong trắng, hồn nhiên. Đây cũng là dịp tôi có thể cùng
với các bạn trong ban văn nghệ đem lại niềm vui và nụ cười
đến cho quý Thầy Cô và bạn bè. Cho dù đời sống có bận rộn
chăng nữa, tôi vẫn muốn sẽ xuất hiện bên các bạn trong
những màn trình diễn, còn vui được cứ vui, vì những chuyện
bên lề hội ngộ vẫn còn mãi trong tôi. Xin cầu chúc quý Thầy
Cô và bằng hữu luôn được dồi dào sức khỏe để còn gặp nhau
trong những lần hội ngộ sắp tới.

Trương Bích Khuê (NTH-VT66)

286 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Những hình ảnh kỷ niệm Hội Ngộ VT-NTH 2015

Bích Khuê và Tự Tân đứng sau lưng thầy cô Lạc, cô Thanh Trí và cô Bạch Vân

Cô cựu Hiệu Trưởng và các thầy 287
Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Hàng đứng: ??? thầy Trung Trinh, cô Bạch Vân, cô Hải, & cô Túy Trúc, cô
Thu Thủy, phu nhân của thầy Trinh, Lài & Tony

Hàng ngồi: Bích Khuê, Phan Lang, Thúy, Nhã, ?, Xuân Thùy, Ngọc Diệp

Anh chị Đỗ Công Thành, anh NC Thuần, anh T Khuơng, Bích Khuê,
Bích Hoàng

288 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

Chuyeän baây giôø môùi keå

Công Huyền Thu Trang

Bạn có kỷ niệm gì về chiếc áo dài trắng đầu tiên của
mình không? Lo lắng, mắc cỡ, lạ lẫm, vui thích và có thoải
mái với nó lần đầu tiên không?

Bây giờ mình tiết lộ đầu đuôi câu chuyện về chiếc áo
dài của mình nhe. Sau hơn mấy chục năm không hiểu sao kỷ
niệm về chiếc áo dài trắng này vẫn còn nằm im trong ký ức,
trong khi những chuyện khác quan trọng hơn lại quên tuốt
luốt.

Một vài bạn cùng lớp đã khoác áo dài trắng đến trường,
khi ngồi xuống ghế cầm vạt áo dài vén qua một bên. Trong
khi mình còn mặc áo đầm xòe, hình ảnh này đã làm mình
ngưỡng mộ. Mạ mình đã đi cùng giúp con chọn mua vải. Ba

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 289

dặn với theo "may một cái trước, xem con có thích không."
Mấy hôm sau đó, mình có ngủ yên đâu, nửa đêm còn lấy xấp
vải đem ra trước gương xoay qua xoay lại ướm thử!! Buổi
sáng nghỉ học, hai mẹ con lên chiếc xích lô đến tiệm may.
Cô thợ may rành rọt đo đạc, miệng nói tay viết, cổ áo, dài
tay, hạ nách. Ui chao mình cảm thấy mình quan trọng biết
bao. Bất thình lình cô ấy hỏi mạ, ống quần chị muốn rộng cỡ
nào cho cháu. Mạ ung dung thủng thẳng trả lời: áo thì cô may
thật rộng rãi, còn ống quần thì hẹp thôi, 28 đi. Ống rộng, sợ
cháu chạy nhảy sẽ vấp té. Câu trả lời nhanh chóng của mạ
hoàn toàn ngược lại những gì mình mơ ước. (Có lẽ trong mắt
ba mạ, con gái mạ chưa bao giờ lớn, đến tuổi mặc áo dài, mạ
vẫn còn sợ con đi vấp té, khổ ghê.)

Áo dài đẹp là áo phải ôm vào người và ống quần loe ra,
thật rộng, khi đi sẽ lấp ló đôi guốc gỗ, thướt tha như mấy chị
lớp trên kìa. Mắt mình bỗng chợt nhòe ra, rưng rưng muốn
khóc. Nhưng có thói quen ít khi cãi với mạ, lúc nào cũng im
lặng chịu đựng. (Nếu hôm đó giải thích với mạ, có thể
chuyện đã khác? Mà nếu vậy thì hôm nay không có bài đăng
lên đặc san?) Cô thợ may hình như hiểu tâm trạng, cô thầm
thì vào tai mình: chị may cho cưng rộng hơn chút, ống quần
30 nha. Có một chút buồn, có môt chút tủi thân thì phải, trên
đường về nhà, phố phường vẫn đông đúc như khi đi, mà sao
mình có cảm tưởng bầu trời bây giờ tự nhiên xám ngắt. Giấc
mơ đã tan tành, ngày mai khi mặc áo đến trường, bạn bè sẽ
xúm lại ghẹo mình nhà quê, nhất là con nhỏ Tống Nha Trang,
Phương Mai, hai đứa nó mặc áo dài thật đẹp, thật model. Ôi
buồn quá!

Ngày cầm áo về, mình chạy bay vào phòng lo lắng mặc
thử. Điều tuyệt diệu đã xảy ra. Ô, là la! Nhìn trong gương
kìa, cô bé thật dễ thương với chiếc áo dài trắng. Mạ đi vào
nghiêng đầu hỏi thăm. Mình xoay qua xoay lại cho mạ
xem, miệng nói tía lia: mạ ơi, họ may không như ý mạ, áo
dài con mặc rất ôm và ống quần thật rộng nữa. Ngày hôm đó

290 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT

tâm hồn bay bổng, mong trời mau mau sáng để đến trường
khoe áo với bạn.

Vào lớp mình hiên ngang đi vào, ngồi xuống, vén tà áo
như đã thấy các bạn làm, giữa giờ học, thỉnh thoảng nhìn
xuống tà áo, nhìn cánh quần phất phơ dưới bàn, nhúc nhích
đôi guốc gỗ, ôi hãnh diện làm sao. Nhưng, lại cái nhưng quái
ác làm buổi sáng không cho mình vui trọn. Con nhỏ bạn ngồi
bàn sau sờ sờ vào lưng mình rồi thắc mắc: sao sú chiêng của
Thu Trang kỳ kỳ(?). Mình muốn độn thổ luôn. Tưởng không
ai để ý bên trong. Mạ quên không mua cái đó cho con gái để
đi chung với áo dài và con gái cũng thuộc loại special, không
có thì con tự làm lấy vậy, nhất quyết không hỏi chị hoặc hỏi
mạ và dĩ nhiên không ra chợ mua. Mình đã cắt một miếng
vải giống như mẫu của cái sú chiêng và may vào mặt trước
của áo lót. May như vậy thì bạn ngạc nhiên là phải, làm gì
có móc sau, làm gì mà không kỳ kỳ.

Sau lần đó mình quên mất khi nào mình có đủ đồ nghề
hoàn chỉnh. Chỉ nhớ là sau đó không lâu lắm đâu, mình đã

trở lại bình thường như mọi người và đẹp nữa.

Bây giờ trong tủ áo dài, sau mấy chục năm, bên cạnh
những chiếc áo dài màu xinh xinh, chiếc áo dài trắng với huy
hiệu Nữ trung Học luôn luôn được đặt vào vị trí quan trọng
nhất và dễ yêu nhất. Tuy đã xa xứ khá lâu, những cô học sinh
ngày xưa, nay tuy lưu lạc mỗi người mỗi nẻo vẫn khắng khít
nhau mỗi khi có dịp. Mình và các bạn kêu nhau ơi ới khi
nghe các anh chị tổ chức hội ngộ.

Mình nhớ nhất Hội Ngộ năm 2010 ở Bắc Cali, vì đây là
lần đầu tiên mình tham dự. Công Huyền Sương Mai cùng
khối 10/75 với mình, chị ta bình thường rất vui nhộn, phá
phách nhưng khi vào vai Hội trưởng của Bắc Cali năm đó
quá đạt. “Trang, mi lên đây là trình diện tau liền nghe, tập
hát với ban tổ chức. Thái Hằng mi phải thuộc bài hát đó
nghe.” Thái Hằng ví von Sương Mai oai giống Napoléon

Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT 291

ghê. Mấy tháng trước ngày hội ngộ, mình ham vui nhảy
vào đội văn nghệ của chị Minh Phương. Ngày đi làm 8 tiếng,
về nhà mệt ngất ngư, còn chưa kịp thay áo quần đã nghe chị
gọi phone nhắc: “nhớ đến đúng giờ em nhé!” Giọng chị ngọt
như mía lùi nhưng đến khi tập thì ui cha, như đi vào trại lính.
Chị hô: “Ánh Nguyệt đi qua bên trái, Diệu Anh xích qua,
Mary tập trung nhen, em Trang tay chân sao cứng nhắc
dzậy!” Hi hi, em bây giờ chỉ muốn nằm thôi đó chị, quơ được
như vậy là giỏi lắm rồi. Bài múa “Mộng ban đầu” cuối cùng
cũng được nhóm chăm chỉ luyện tập, và lên sân khấu thành
công.

Năm nay dịch Covid lan tràn khắp nơi. Các cuộc hội ngộ
đều đóng băng. Rất nhớ thầy cô, nhớ những trận cười
nghiêng ngả với các bạn, những dịp gặp gỡ ngày xưa ấy mãi
mãi in trong trí nhớ của mình. Mong tất cả chúng ta bình an.

Công Huyền Thu Trang
Lớp 10/75

292 Đặc San 60 Năm (1960-2020) NTH/HT-NT


Click to View FlipBook Version