The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-12-02 19:47:11

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

Tiểu Sử Các Mục Sư


TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
LỜI GIỚI THIỆU

Thật là vinh dự cho chúng ta khi được sinh ra và lớn lên vào thời điểm Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam kỷ niệm 100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911 - 2011).

Với chặng đường 100 năm, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã trải qua biết bao biến cố lịch sử,
cùng những bước thăng trầm của đất nước. Cảm tạ Chúa, Hội Thánh của Ngài vẫn đứng vững và
phát triển không ngừng nhờ sự hi sinh tận hiến của nhiều Giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo và con cái
Chúa. Để chào mừng Lễ Kỷ niệm 100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam, Ủy ban Văn hóa Giáo dục
Tổng Liên hội cậy ơn Chúa thực hiện công trình biên tập tiểu sử các Giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo,
Tín hữu đã góp phần gây dựng và phát triển Hội Thánh Tin Lành Việt Nam xuyên suốt thời gian
100 năm qua.

Đây là công trình biên tập tiểu sử các tiền nhân, là bước đầu góp phần chào mừng Lễ Kỷ niệm
100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam. Chúng tôi cám ơn các Hội Thánh, Mục sư,Truyền đạo, Giáo
sĩ và tín hữu đã khích lệ, cung cấp tư liệu, hình ảnh, cho phép sử dụng bài viết, v.v… để có thể thực
hiện các tiểu sử trong tuyển tập.Chúng tôi cũng đặc biệt cám ơn quí Mục sư và tín hữu đã hết lòng
góp phần viết bài, hiệu chỉnh, biên tập và lo cho công tác xuất bản.

Mặc dầu đã cố gắng hết sức, nhưng do thời gian hạn chế, việc sưu tầm tư liệu cũng gặp nhiều
khó khăn nên tuyển tập này chỉ mới đề cập đến 45 vị tiền nhân và chắc chắn còn rất nhiều thiếu
sót. Kính mong quý độc giả vui lòng chỉ dẫn, góp ý và cung cấp thêm những thông tin để chúng tôi
có thể viết được tiểu sử của nhiều vị khác và hoàn thiện hơn những bài tiểu sử trong tuyển tập này
vào lần tái bản sau.

Chân thành cảm ơn.
TM. Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục Tổng Liên Hội
Chuyên trách
Mục sư Phan Văn Cử

1


THIÊN CHÚA CHẲNG HỀ QUÊN

Đã thấm thoát một trăm năm rồi đó,
Ngày Tin Lành truyền đến nước Việt Nam.
Một chín mười một, lịch sử khó quên,
Ơn sâu nặng muôn đời ta vẫn nhớ.
Một trăm năm bao lớp người đi… ở!
Thế hệ nầy tiếp bước thế hệ kia.
Bao mồ hôi, máu, lệ nhỏ đầm đìa,
Không chùn bước chân hùng người truyền giáo.
Trả nợ yêu thương, máu hồng tử đạo,
Có da vàng, da trắng có da nâu.
Đã bao người bị giết! Tội gì đâu?
Người ngã xuống trên tay còn Kinh Thánh.
Trong tim người không mảy may thù hận,
Mấp máy trên môi cầu nguyện cùng Cha.
Chúa Thánh ôi! Xin rộng lượng thứ tha.
Họ chẳng biết điều mình làm, hỡi Chúa!
Bao Giáo sĩ bỏ xa đời nhung lụa,
Quyết lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng.
Đến bỏ mình nơi nước độc rừng thiêng!
Vì quá yêu người khốn cùng thiểu số.
Nắm xương tàn vùi sâu lòng đất đỏ,
Thân quyến xa, ai đâu có tìm thăm!
Biết bao người bị mất tích biệt tăm,
Mãi hôm nay vẫn chưa tìm thấy xác!
Giảng Đạo lành giữa muôn nghìn cái ác.
Thì vu oan, bắt bớ, ấy chuyện thường.
Miễn làm sao trả được nợ yêu thương,
Để hỏa ngục không còn nghe than khóc.
Để Thiên đàng vang tiếng cười hạnh phúc.
Tham vọng người Truyền đạo có thế thôi.
Một trăm năm lịch sử đã qua rồi.
Gặp nhau đây nghe mừng mừng tủi tủi
Người mạnh khỏe đỡ nâng người yếu đuối.

2


Ta cùng về vui ngày hội trăm năm.
Để cùng nhau mình ôn cố tri tân
Để cảm tạ kính dâng Ba Ngôi Thánh.
Để tri ân quý tiền nhân khả kính
Đã hy sinh mạng báu giảng Tin Lành.
Trên Thiên đàng Cứu Chúa chẳng hề quên.
Dưới trần gian Hội Thánh Ngài ghi nhớ.
Nhớ công ơn những tiền nhân khai mở,
Nhớ ông cha đã ra sức dựng xây,
Nhớ những người từ trước đến hôm nay,
Đã không quản nắng mưa truyền đạo Chúa.
Nhớ những người chăn bầy trong khói lửa,
Nhớ bao người đã tuận đạo hiên ngang,
Nhớ anh em dâng tiền của bạc vàng,
Để hai chữ Tin Lành vang khắp nước.
Từ Cà Mau đến tận cùng Tây Bắc,
Hội Thánh Ngài xây dựng khắp nơi nơi.
Để trăm năm ta rạng rỡ nụ cười,
Vì đã có hàng triệu người được cứu.
Xin cám ơn những anh em bằng hữu,
Khắp năm châu đã cầu nguyện ngày đêm.
Yêu Việt Nam xin cứ khẩn nguyện thêm,
Để Hội Thánh luôn được Ngài che chở.
Hỡi trái tim ái nhân xin rộng mở,
Vì bao người cần đến Chúa yêu thương.
Hãy nhớ rằng Thiên Chúa chẳng hề quên,
Máu tử đạo chính hạt mầm cứu rỗi.
Tiến lên mau cứu người trong xích tội,
Nước Thiên đàng mão miện Chúa ban trao./.
“Kỷ niệm 100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam 1911-2011”
Trường Xuân, 13.01.2011
Mục sư Võ Đình Đán

3


Tuyển Tập Tiểu Sử Người Phục Vụ Chúa

Mục Lục

005. Dương Tự Ấ p (1889-1966) 162. Đoàn Văn Miêng (1914-1994)

013. Nguyễn Xuân Ba (1910-1978) 193. Phạ m Văn Năm (1916-1992)

023. William Charles Cadman (1883-1948) 205. Huỳnh Văn Ngà (00-1950)

033. Lê Khác Chán (1896-1977) 212. Nguyễn Kim Ngân (1919-1957)

036. Lâm Văn Chí (1910-1998) 213. Nguyễn Hạ u Nhương (1912-2002)

060. Paul Contento (1905-1997) 219. John Drange Olsen (1893-1954)

074. Vũ Văn Cư (1915-1977) 225. Patrick Titsworth

077. Lê Khác Cung (1926-2001) 235. Nguyễn Hữ u Phiên (1910-1981)

085. Bà Lê Khác Cung (1928-2004) 239. Lê Hoàng Phu (1926-2003)

Huỳnh Thị Hoà ng 243. A. B. Simpson (1843-1919)

090. Lê Táng Đạ ng (1903-1979) 246. Woody & Charlotte Stemple

093. Tràn Diñ h (1882-1946) 252. Đạ ng Văn Sung (1924-1975)

Lê Thị Liên (1886-1985) Diệp Thị Do (1924-2008)

096. Bà GS Homera Homer Dixon (1893-1942) 258. Nguyễn Văn Tàm (1909-2008)

105. Nguyễn Sơn Hà (1924-1988) 261. Lê Văn Thái (1890-1985)

108. Bà Lê Khác Hò a - Nguyễn Thị Tân 269. Nguyễn Văn Thiệt (1927-2000)

110. Ông Văn Huyên (1902-1999) 272. Phạ m Xuân Thiều (1942-2002)

122. Bà GS Hazel P. Jackson 279. Nguyễn Châu Thông (1895-)

128. Ngô Văn Lái (1903-1962) 281. Hoàng Trọ ng Thừ a (1875-1953)

134. Phan Đình Liệu (1888-1979) 283. Phạ m Xuân Tín (1912-2008)

148. Bù i Tán Lọ c (1915-1991) 296. Nguyễnn Kiên Trinh (1924-1986)

Lý Ú c Lương (1899-1988) 298. Lê Điǹ h Tươi (1902-1943)

159. Lý Tiến Lưu (1949-2008) 299. Nguyễn Văn Xuyến (1916-1991)

331. Phan Văn Xuyến (1914-2000)

4


Mục sư DƯƠNG TỰ ẤP

(1889 – 1966)
HỘI TRƯỞNG ĐẦU TIÊN
CỦA HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM MIỀN BẮC

(1955 – 1966)

(Ảnh: photos.vnbible.com)
Cụ Dương Tự Ấp sinh năm 1889 (Canh Dần), là con trưởng của cụ Dương Tiến, cháu cụ Khâm
sai Dương Quán thuộc dòng dõi khoa cử.
Lúc thiếu thời, cụ đỗ Ân sinh, nhưng vì xu hướng văn học trong nước thay đổi nên cụ chuyển
hướng theo Tân học. Lúc đó có phong trào Văn thân chống Pháp, cụ hưởng ứng và tìm dịp xuống
tàu ra hải ngoại. Một ngày nọ, trong khi dạo bước trên cảng Hải Phòng, cụ thấy Giáo sĩ Jackson đang
rao giảng Tin Lành cứu rỗi. Cụ liền đến không chỉ nghe mà còn chất vấn giáo lý. Giáo sĩ Jackson cắt
nghĩa cho cụ về tình yêu thương của Đức Chúa Trời ban cho nhân loại. Cụ hiểu ra và cảm động nên
cúi đầu tin nhận Chúa.Năm đó cụ được 30 tuổi.
Sau một thời gian tham gia thờ phượng Chúa, cụ được Chúa kêu gọi và quyết định dâng cuộc
đời mình cho Chúa. Khoảng năm 1928, cụ cùng với cụ bà là Trần Thị Sáo vào học trường Kinh Thánh
Đà Nẵng dưới sự giảng dạy của các ông bà Giáo sĩ Irwin và Jêffrêy.Thêo chương trình học, cụ đã bắt
đầu tham gia hầu việc Chúa ngay từ năm thứ hai.

5


Năm 1930, cụ hầu việc Chúa tại Cao Bằng và rất kết quả. Trong số các con cái Chúa tại Cao Bằng,
hiện còn gia đình ông Đẩu đang sinh sống tại Thái Bình. Con gái ông Đẩu là cô Hoà đang hầu việc
Chúa tại Hội Thánh Tin Lành Truyền Thống.

Sau năm năm, cụ tốt nghiệp và được Hội Thánh bổ nhiệm hầu việc Chúa đầu tiên là Hội Thánh
Hà Nội.Sau đó cụ được bổ nhiệm đi hầu việc Chúa ở nhiều nơi có thể vắn tắt như sau:

- Hội Thánh Hải Phòng.
- Hội Thánh Nam Định.Cụ được phong chức Mục sư khi đang hầu việc Chúa tại đây, và sau được
bầu làm Phái viên Ban Trị sự miền Bắc.
- Hội Thánh Phúc Yên.
- Hội Thánh Khả Cảnh (Thái Bình). Con cháu của con cái Chúa tại Hội Thánh Khả Cảnh hiện nay
có người đang hầu việc Chúa như: Mục sư Bằng, Mục sư Lạc (Phúc âm Toàn vẹn), Mục sư Thắng
(Báp-tít).
- Hội Thánh Nam Định: Cụ cùng với Mục sư Giáo sĩ Pruêtt hầu việc Chúa tại thành phố Nam Định
và các xã thuộc Nam Định như: Giao Nhân, Giao Hà thuộc huyện Giao Thuỷ. Tại các nơi này, cụ có
con thuộc linh mà sau này cũng tham gia hầu việc Chúa suốt đời như cố Mục sư Đặng Xuân Tiếu.
Cũng từ con cháu của tín hữu Nam Định mà có người hiện nay đang hầu việc Chúa như Mục sư
Phạm Đình Tuấn, Phạm Đình Hiển, Phạm Tuấn Dương, Âu Đăng Cường, …
- Hội Thánh Thanh Hóa: Cụ cùng với Giáo sĩ Jackson hầu việc Chúa tại Hội Thánh Thanh Hóa
(hai lần)và các vùng lân cận như: Cầu Đông, Ngọc Trẩm, Nga My, … Tại đây, cụ cũng có người con
thuộc linh cùng hầu việc Chúa với cụ là cố Mục sư Đào Xuân Minh và những học trò sau này trở
thành người hầu việc Chúa như cố Mục sư Kiều Toản, cố Mục sư Lê Khắc Lưu.
Trong thời gian hầu việc Chúa ở các nơi, cụ đã tổ chức xây cất được nhà thờ Nam Định, tu sửa
các nhà thờ Phúc Yên và Thái Bình.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đường giao thông đầy khó khăn, cụ đang ở Hội Thánh
Thanh Hoá vẫn kiên trì cùng với chiếc xê đạp bánh đặc đi thăm các Hội Thánh ở vùng kháng chiến
như Hoành Nha, Hoành Nhị, Duyên Thọ (Nam Định), Khả Cảnh (Thái Bình), Thượng Trang (Kiến
Ân), Hoàn Dương (Hà Nam) đường đi và về hàng trăm cây số. Chúa đã dùng cụ duy trì công việc
Ngài trong giai đoạn khó khăn của đất nước và Hội Thánh.
Trước tấm lòng yêu mến Chúa và sự tận tuỵ của cụ, Tổng Liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
đã cử cụ giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Bắc hạt cùng với Chủ nhiệm là cụ Mục sư Lê Văn Thái (Hội
trưởng là cụ Mục sư Lê Đình Tươi ở Cần Thơ) cho tới năm 1954.

6


(Ảnh: photos.vnbible.com)

Từ trái qua: Ms Dương Tự Ấp, Ms Nguyễn Hữu Phiên, Ms Huỳnh Kim Luyện,

ông Hoàng Trọng Nhật (Hà Nội 1954).

Năm 1954, đất nước bị tạm thời chia cắt, nhiều người di tản vào Nam. Vì thương bầy chiên bơ
vơ không có người chăn nên cụ cùng với gia đình quyết định ở lại miền Bắc để lo cho đàn chiên mặc
dù biết rất rõ sẽ có rất nhiều khó khăn thử thách đến với Hội Thánh Chúa và chức vụ của mình. Lúc
ấy, cả miền Bắc chỉ còn lại 4 đầy tớ Chúa. Nhiều Hội Thánh không có người chăn. Cụ được Hội Thánh
toàn miền Bắc bầu làm Chủ nhiệm. Sau đó Hội đồng toàn miền Bắc họp lại và cụ trúng cử chức vụ
Hội Trưởng và giữ chức vụ này từ năm 1955 đến khi qua đời năm 1966.

Cụ biết có nhiều người trước kia đã từng học trường Kinh Thánh và đã hầu việc Chúa nhưng vì
tình thế nên trở về quê ở các nơi. Cụ mời họ về dự Hội đồng và mời trở lại cùng hầu việc Chúa, được
thêm 14 người. Cụ phân công họ đến hầu việc tại các Hội Thánh còn thiếu người chăn. Từ đó, cùng
hầu việc Chúa với cụ tại miền Bắc có các Mục sư Hoàng Kim Phúc, Đặng Xuân Tiếu, Lê Khắc Lưu, Đỗ
Đức Thống, Đào Xuân Minh, Nguyễn Thiện Mân, Đặng Thế Phùng, Vũ Văn Quảng, bà Ông Văn Nên,
Vi Văn Tranh, Âu Thái Bình, Bùi Hoành Thử.

Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn từ nhiều phía, cụ vẫn nhiệt thành rao giảng lời Chúa, gây dựng
Hội Thánh Ngài. Nhiều người, nhiều gia đình được cụ làm chứng dẫn đưa trở lại cùng Chúa vẫn còn
đứng vững trung tín cho đến ngày nay. Nhiều người con thuộc linh của cụ hiện vẫn đang tiếp nối
cụ thi hành chức vụ Mục sư ở các Hội Thánh Hoành Nha, Hoành Nhị và Duyên Thọ và số tín đồ đông
nhất miền Bắc bây giờ là Hội thánh Hoành Nhị.

Cụ đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời vào phủ Chủ tịch để thăm hỏi. Cụ đã nhân tiện gửi
tặng Kinh Thánh và nói về Chúa Giê-xu cho Chủ tịch. Cụ cũng được Chính phủ miền Bắc mời làm Uỷ
viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiều năm, đại diện cho tín hữu nói lên tiếng
nói của con cái Chúa miền Bắc với nhà cầm quyền. Cụ còn trúng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân
Thành phố Hà Nội một khoá và trúng cử Đại biểu Quốc Hội Khóa II.

7


Những năm gần về với Chúa, mắt cụ dù yếu hẳn, không đi lại được nhiều, nhưng tấm lòng yêu
Chúa của cụ vẫn nóng cháy. Cụ đã soạn một quyển diễn ca về Đấng Christ theo sách Tin Lành Ma-
thi-ơ và mấy bài thơ vịnh về ngày lễ Đức Chúa Jesus Christ giáng sinh.

Chúa biết cụ đã làm xong sứ mạng của Ngài nên rước cụ về yên nghỉ trong nước Ngài lúc 03 giờ
sáng ngày 11 tháng giêng âm lịch năm Bính Ngọ; tức là ngày 31 tháng 01 năm 1966, tại bệnh viện
Hữu Nghị Việt - Xô Hà Nội, chấm dứt 77 năm trên đất. Lễ an táng cụ diễn ra rất long trọng, có đại
diện các cơ quan trong Chính phủ tới phúng viếng và tiễn biệt. Thi hài cụ được đặt tại nghĩa trang
Văn Điển, khu Vĩnh Viễn, hàng thứ nhứt, ngôi mộ thứ sáu.

Cụ là người có nhiều đức tính cao quí; thương xót bênh vực người bị ức hiếp; nhịn nhục trong
mọi hoàn cảnh, khiêm nhường, coi người khác tôn trọng hơn mình; ân cần tiếp khách. Con cái Chúa
ai gặp cụ cũng được lây tính vui vẻ của cụ và được yên ủi.

Cụ cũng là người thích làm thơ. Mục sư Vũ Quang Tuấn, hầu việc Chúa tại Hội thánh Giám lý,
Cần Thơ đã làm chứng lại: “Cụ cố Mục sư Dương Tự Ấp là người hết lòng yêu mến, kính sợ Chúa;
yêu thương chiên, khiêm nhường và yêu quí các Mục sư đồng lao. Suốt cuộc đời hầu việc Chúa, cụ
sống ngay thẳng, trung thực, không sợ những áp lực trong công việc Chúa giao, cứ mạnh mẽ làm
theo lời Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cũng không có quyền lợi hay danh vọng nào có thể mua
chuộc được tấm lòng son sắt của cụ với Chúa. Suốt đời cụ sống thanh bạch, giản dị, hoà đồng và yêu
thương. Tâm tình cụ phần nào được bộc lộ qua những bài thơ của Cụ.”

Năm 1938, khi cụ đến dự một Hội đồng Bồi linh tại Nam Định, các Mục sư đồng lao hỏi hành lý
của cụ đâu, thì cụ trả lời “ở đầu xê kia”, rồi ứng khẩu thành thơ:

Giang sơn một gói buộc đầu xe,

Gặp bước tung mây chẳng nặng nề.

Hoành Châu đi lại nhiều gai góc,

Giao Thuỷ ra vào lắm lạch khe.

Người dặm đường xe truyền đạo thật,

Một bầu nhiệt huyết cứu hồn mê.

Chẳng quản gian lao vì chức vụ,

Mặc ai Khinh – Trọng với Khen – Chê!

Cụ rất ghét kẻ gian nịnh nên đã sáng tác một bài thơ về Giu-đa như sau:

Giu-đa đứa phản thầy

Khốn nạn Giu-đa đứa phản thầy!

Uổng công theo đuổi bấy lâu nay,

Nhúng tay vào đĩa, ngồi trơ tráo,

Ra hiệu bằng hôn mặt dạn dày.

Tội nặng vì tham ba chục bạc,

Đời thừa kết liễu một vòng dây,

Ngày nay ruộng huyết còn ghi đó,

8


Khốn nạn Giu-đa đứa phản thầy!
Cụ có hai lần lập gia đình. Lần đầu với bà Nguyễn Thị Dần, qua đời năm 33 tuổi, có với cụ 3
người con là ông Thăng, ông Dư và bà Nghĩa. Sau đó cụ tục huyền với bà Trần Thị Sáo sinh ra 3
người con nữa là bà Lộc, bà Tài, bà Năng. Cụ luôn lo lắng cho các con và giúp các con xây dựng gia
thất với người trong gia đình tin kính Chúa. Các con cháu cụ cũng thêo bước chân cụ trở nên người
hầu việc Chúa.
Con trưởng là ông Dương Thiệu Thăng, truyền đạo hầu việc Chúa tại Khả Cảnh, Thái Bình, và
Sơn La và đã qua đời.
Con gái là Dương Thị Tài, hiện là Mục sư Quản nhiệm Hội Thánh Bethlehem, thuộc Tổng hội Hội
chúng Ngũ tuần Việt Nam.
Con rể là Mục sư Nguyễn Hậu Nhương, hầu việc Chúa tại Sơn La, Ban Mê Thuột, Lào, Thần học
viện Nha Trang và trường Kinh thánh Hà Nội.
Các cháu ngoại là Nguyễn Hậu Lương, Nguyễn Hậu Ân (con của Mục sư Nguyễn Hậu Nhương)
hầu việc Chúa tại Mỹ. Cháu rể là cô Điển (bà Mục sư Lưu Tự An) hầu việc Chúa tại Trạm Hành (Lân
Đồng)
“Ta và nhà ta phục sự Đức Giê-hô-va” (Gios 24:15).

Ms Dương Tự Ấp tại Hội Thánh Hà Nội

9


Ms Dương Tự Ấp (thứ nhất bên trái, hàng đầu và các Chấp sự Hội Thánh Hà Nội.

Ms Dương Tự Ấp và cháu ngoại là MS Nguyễn Hậu Lương
10


(Ảnh: photos.vnbible.com) MS Dương Tự Ấp và gia đình, 1930.

Ông bà MS Dương Tự Ấp và con cháu
Các nội dung trong bài này được trích và tham khảo từ:
1. Dương Thị Tài – Sơ lược Tiểu sử cụ cố Mục sư Dương Tự Ấp.

11


2. Mục sư Đặng Xuân Tiếu (Xã Giao Nhân, huyện Giao Thuỷ, Nam Định) – Tiểu sử cụ Mục sư
Dương Tự Ấp,Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

3. Nguyễn Thanh Xuân – Bước đầu tìm hiểu Đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam. Nxb Tôn
giáo, Hà Nội, 2002 (lưu hành nội bộ).

L.H.S.

12


Mục sư NGUYỄN XUÂN BA

(1910–1978)

Thời niên thiếu
Mục sư Nguyễn Xuân Ba sinh năm 1910 tại làng Hòa Mỹ, tổng Chiên Đàn, phủ Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam, trong một gia đình Nho giáo, con ông Nguyễn Chỉnh và bà Nguyễn thị Tới. Như mọi
người Việt Nam, gia đình thêo tín ngưỡng cổ truyền, thờ cúng tổ tiên, tôn sùng thần thánh.
Năm 12 tuổi, cha cậu mất, đến năm 16 tuổi, mẹ cũng qua đời. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, cậu phải
sống chung với anh chị. Khi còn cha mẹ, cậu được đi học chữ Nho một thời gian, rồi theo học Quốc
văn và Pháp văn. Khi cha mẹ đều quá vãng, cậu không được đi học nữa,phải ở nhà giúp anh chị
trong gia đình.
Khi lên 18 tuổi, bắt đầu ý thức được chuyện thế sự, chàng trai mong muốn tìm một con đường
giải thoát cho tâm hồn, vì lúc bấy giờ đang từ một thiếu niên mang nhiều ước vọng,trở thành một
đứa con mồ côi chịu nhiều bạc đãi, khổ cực. Chàng có ý định theo một tu sĩ Phật giáo cũng là thầy
lang thuốc Bắc để xin thọ giáo. Đang suy nghĩ về điều đó thì một ngày kia chàng gặp một vị mục sư
đi bán sách Tin Lành. Chàng mua một quyển “Tranh Minh Tâm” và một quyển “Tịch Tà Qui Chánh”
đêm về nhà.Chàng đọc đi đọc lại và thích thú đến nỗi thuộc lòng bài thơ mở đầu của quyển “Tranh
Minh Tâm”.
Tin nhận Chúa
Một ngày tháng 4 năm 1928, vị mục sư bán sách cho chàng là Mục sư Huỳnh Kim Luyện, lúc bấy
giờ đang quản nhiệm Hội Thánh Tam Kỳ, gặp chàng và mời chàng đi nghê giảng. Lúc bấy giờ nhà
thờ Tam Kỳ là một mái nhà tranh nhỏ bé, dầu vậy, sau khi nghe Mục sư giảng và khuyên mời, chàng
và một cụ già nữa bằng lòng quì gối cầu nguyện theo sự hướng dẫn của Mục sư để tiếp nhận Chúa
vào lòng. Sau khi mọi người nói ‘Â-mên’ chàng cảm thấy trong người tự nhiên có một biến chuyển
kỳ lạ, dường như có một quyền lực vô hình từ bên ngoài thâm nhập vào cơ thể chàng, khiến chàng
nửa mừng nửa sợ.Ba ngày sau là Chúa Nhật, chàng đi đến nhà thờ để thờ phượng Chúa. Hôm đó
Mục Sư giảng Kinh Thánh Eph 4:17-32 và ông nhấn mạnh câu 21-24: “Vì anh em đã nghe đạo Ngài, và

13


được dạy dỗ trong Ngài (y theo lẽ thật trong Đức Chúa Jêsus) rằng anh em phải bỏ cách ăn nết ở
ngày trước, thoát lốt người cũ là người bị hư hỏng bởi tư dục dỗ dành, mà phải làm nên mới trong
tâm chí mình, và mặc lấy người mới, tức là người đã được dựng nên giống như Đức Chúa Trời, trong
sự công bình và sự thánh sạch của lẽ thật.” Lời Chúa cảm động lòng chàng trai mới tin. Khi ra về, đi
ngang chiếc cầu băng qua dòng suối, chàng rút gói thuốc lá trong túi ra ném xuống suối và thưa với
Chúa rằng: “Từ rày con sẽ không hút thuốc nữa, xin Chúa cũng giúp con thắng mọi tội lỗi con đã
phạm xưa nay.” Từ đó trở đi chàng tự nhiên không còn thấy ham thích những thói xấu cũ như cờ
bạc, rượu chè, trai gái lăng nhăng, v.v… nữa, mà ham thích đọc Lời Chúa và làm chứng về Ngài.

Chàng rất sốt sắng làm chứng về Chúa, tuy chưa hiểu biết gì nhiều, chỉ khuyên người ta phải thờ
Đức Chúa Trời, ngoài ra chàng vẫn còn mù tịt về các giáo lý cứu rỗi, thế mà nhiều người vẫn thích
nghê. Chàng cũng sốt sắng đi thờ phượng Chúa, tuy phải lội bộ 7 cây số nhưng không tuần nào
chàng vắng mặt, trừ khi đau ốm hay bão lụt. Một thời gian sau, thử thách ập đến. Anh của chàng
thấy chàng sốt sắng đi nhà thờ thì cho rằng thêo đạo mất hết thì giờ làm ăn nên khuyên chàng bỏ
đạo. Chàng không chịu,nói rằng: “Dầu sống chết tôi cũng quyết thêo Chúa.” Người anh bảo: “Nếu
mầy không chịu bỏ đạo thì tao chém mầy một dao rồi tự chém tao một dao là xong.”Ông anh rút
dao thì chàng bỏ chạy và từ đó không về nhà nữa mà sống một mình tự lập. Bà chị ruột thương êm
cũng khuyên chàng hãy bỏ đạo. Cả làng xóm chê cười chàng là khờ dại thêo đạo bỏ ông bỏ bà. Bị
mọi người ruồng bỏ, chàng không còn biết trông cậy vào ai, nhưng vẫn cương quyết theo Chúa,
ngửa trông sự dẫn dắt của Ngài. Chàng vẫn tiếp tục sốt sắng đi nhà thờ và làm chứng về Chúa.

Một hôm trong làng có một số người thấy chàng thanh niên nhỏ con ăn nói lưu loát hay nói về
đạo thì yêu cầu chàng đến giảng cho họ nghe. Thật ra chàng đâu có biết gì mà giảng,chỉ đọc thuộc
quyển Tịch Tà Qui Chánh rồi cứ thế mà nói, thế mà người ta vẫn thích thú ngồi nghe. Từ đó trong
lòng chàng trai nhen nhúm niềm mong ước tương lai mình sẽ trở thành Mục sư. Mơ ước đó mạnh
đến nỗi khiến chàng mỗi lần đi bộ hay đạp xê trên đường lộ thì vung tay ra bộ tịch, miệng giảng lớn
bắt chước theo mục sư ở nhà thờ!

Học Trường Kinh Thánh

Vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh thấy tâm tư chàng nóng cháy về nhà Chúa thì khuyên chàng
đi học Trường Kinh Thánh, nhưng chàng không dám vì thấy mình ít học, thiếu tài, sợ không theo
nổi. Mục sư bảo chàng cứ đi vì ông biết chàng có thể học được, thì chàng lại lo trở ngại về tài chánh.
Mục sư khuyên rằng chàng cứ cầu nguyện, nếu Chúa cho phép thì Ngài sẽ mở đường. Quả thật, sau
một thời gian cầu nguyện, có hai con cái Chúa bằng lòng giúp chàng hai tháng chi phí, còn lại chàng
phải tự lo. Thấy Chúa mở đường, chàng lấy đức tin nộp đơn và tháng 9 năm 1930 chàng vào Trường
Kinh Thánh Đà Nẵng để học. Đốc Học của trường là giáo sĩ John Drangê Olsên và ban giáo sư thấy
chàng còn trẻ nên cho chàng học một năm dự bị rồi khuyên chàng về nhà góp phần hầu việc Chúa
tại Hội Thánh địa phương để học hỏi kinh nghiệm một thời gian trước khi trở lại trường. Chàng
vâng lời về nhà dự phần hầu việc Chúa làm thư ký cho Hội Thánh Tam Kỳ đồng thời dành trọn thì
giờ đi phát truyền đạo đơn và làm chứng về Chúa.

Một mình một ngựa sắt,chàng dong ruổi khắp nơi. Ban đầu chàng đi đến các xóm làng quanh
thị xã Tam Kỳ,rồi dần dần mở rộng đến những huyện làng xa hơn như Hòa Mỹ, Chiên Đàn, Kỳ
Phú,Tam Ấp, Cây Trâm, Trà Lý, Chu Lai, Cẩm Long, Tiên Phước, Trà Mi, Bông Miêu,Thăng Bình,
Ngọc Khô, v.v. Sau hơn một năm, chàng tiến vào tỉnh Quảng Ngãi rồi dần dần đến tận Qui Nhơn, cứ
ban ngày đi phát sách giêo giống Tin Lành, ban đêm tới nhà trọ nghỉ. Tại nhà trọ chàng cũng giảng
đạo và cũng có người đến nghe. Cứ thế trong hơn ba tháng liền, có một số người tin nhận Chúa,

14


nhưng ở những nơi đó chưa có một Hội Thánh nào. Qua năm sau, Hội Truyền giáo mới cử giáo sĩ
đến lập trụ sở truyền giáo và đưa sinh viên thần học đến mở những địa điểm giảng đạo ở Quảng
Ngãi, Qui Nhơn. Một phần nhờ có công tác vỡ đất trước, nên có nhiều người đến nghe giảng tin
nhận Chúa, chẳng bao lâu những nơi nầy đã thành lập được Hội Thánh.

Lập gia đình

Qua năm 1933, Mục sư Đốc học Olsên khuyên chàng cưới vợ để trở lại trường. Tại Hội Thánh
Tam Kỳ lúc bấy giờ có gia đình ông Nguyễn Văn Thanh và bà Phan Thị Chỉ là tân tín hữu mới vài
năm. Ông bà có mười người con, bốn trai sáu gái, tất cả đã được ông dẫn đi nhà thờ nghe Mục sư
Huỳnh Kim Luyện giảng một thời gian, rồi sau đó khi Mục sư Nguyễn Xuân Diệm là người anh họ
của ông đổi về thay Mục sư Luyện thì cả nhà đều cầu nguyện tin nhận Chúa. Người con gái thứ tư
của ông là cô Nguyễn Thị Lại rất yêu mến Chúa, ham thích học Lời Chúa và gia nhập Ban Chứng đạo,
mỗi tuần đi phát sách làm chứng về Chúa. Có lần Hội Thánh tổ chức một Hội đồng Bồi linh Bố đạo,
mời một Mục sư từ nơi khác đến giảng, ông giảng về ơn thương xót của Đức Chúa Trời, Ngài muốn
cứu mọi linh hồn hư mất. Ông nói rằng Đức Chúa Trời cần thật nhiều người đi ra truyền giáo đến
những nơi xa xăm; ở Bắc Việt và vùng thượng du còn thiếu rất nhiều người đến gieo giống Tin Lành.
Cô đã cảm động khóc thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng đời con để Chúa sai dùng thêo ý Ngài.”
Cô đã đến tuổi lập gia đình và nhiều gia đình khá giả đến dạm hỏi cho con họ, nhưng cụ Thanh
không gả vì họ không tin Chúa. Khi Mục sư Diệm nghe thầy Ba ngỏ ý muốn lập gia đình thì giới thiệu
cô Lại cho thầy và dẫn thầy đến nhà cụ Thanh hỏi ý kiến.Cụ Thanh đồng ý gả, riêng cô Lại khi nghe
thầy Ba ngỏ ý cầu hôn và hỏi cô có bằng lòng cùng với thầy sau nầy đi đến những nơi xa lạ truyền
danh Chúa cho đồng bào không, thì cô biết ngay đây là chương trình của Chúa. Cô thuật cho thầy
biết trải nghiệm được Chúa kêu gọi và ưng thuận kết hôn với thầy.

Tháng 8 năm 1933,Mục sư Nguyễn Xuân Diệm cử hành lễ hôn phối cho đôi thanh niên đã hứa
nguyện dâng đời mình cho Chúa là Nguyễn Xuân Ba và Nguyễn Thị Lại tại Hội Thánh Tam Kỳ. Sau
đó, cả hai vợ chồng vào trường Kinh Thánh Đà Nẵng để học. Lúc bấy giờ vì nhu cầu truyền giáo, các
sinh viên học xong một năm thì được bổ đi ra truyền đạo xây dựng Hội Thánh một thời gian rồi
mới trở về học tiếp. Sau niên khoá 1933-34, thầy cô Nguyễn Xuân Ba được Ban Trị sự Tổng Liên
Hội và Hội Truyền giáo bổ nhiệm đến Nước Hai thuộc tỉnh Cao Bằng ở biên giới cực Bắc Việt Nam
hầu việc Chúa.

Nước Hai, Cao Bằng (Miền Bắc)

Năm 1934, đôi vợ chồng trẻ sinh viên tập sự truyền đạo lặn lội từ miền quê xứ Quảng đi đến
tận vùng địa đầu đất nước để rao giảng danh Chúa giữa vòng người Thổ, một sắc tộc thượng du rất
gần gũi với người Kinh, nói tiếng Việt khá rành. Tại Nước Hai, Hội Truyền giáo có thuê một căn phố
nhỏ để rao giảng Tin Lành. Cứ mỗi 5 ngày vùng nầy có một phiên chợ. Người Thổ từ các bản làng
đêm sản vật ra bán và mua các sản phẩm cần thiết về dùng. Thầy cô Ba nhân cơ hội đó phát sách
làm chứng cho nhiều người Thổ cũng như người Kinh và mời họ đến nghe giảng. Nhiều người đã
tin nhận Chúa và một số vẫn giữ được đức tin cho đến sau năm 1975 mặc dù họ không có nơi thờ
phượng Chúa.

Ở Nước Hai được ba tháng, thầy Ba nhận thấy tỉnh lỵ Cao Bằng cũng cần có một địa điểm truyền
giảng Tin Lành, nên bàn với giáo sĩ địa phương lúc bấy giờ là Giáo Sĩ Van Hinê. Ông đồng ý và thầy
cô tìm thuê được một căn phố lầu với giá 6 đồng, phân nửa thời giá, vì nhà nầy có người tự tử không
ai dám mướn. Thầy cô tổ chức truyền giảng,mời Mục sư Lê Văn Thái từ Hà Nội đến giảng luôn 3
đêm, được một số người tin Chúa. Thầy cô tiếp tục rao giảng, làm chứng và gây dựng đức tin cho

15


các tân tín hữu ở cả Cao Bằng và Nước Hai. Sau ba năm thầy cô trở về trường thì hai nơi nầy đã có
số tín hữu khá đông. Thầy cũng đã vận động nhóm tín hữu ở Cao Bằng quyên góp mua được một
miếng đất để sau nầy xây nhà thờ.

Trong thời gian đó,thầy cô cũng gặp nhiều thử thách. Con gái đầu lòng sinh năm 1934, nuôi
được 5 tháng thì mắc bệnh, thầy thuốc không tìm ra nguyên nhân nên đã qua đời. Thầy đi thăm
viếng tín hữu và làm chứng thì bị Linh mục Công Giáo bắt đánh đập, cấm thầy không được đến
truyền đạo nơi có tín đồ của ông, nhưng thầy vẫn vui, nói rằng Chúa cũng đã từng bị đánh đập như
vậy và Ngài đã nói rằng: “Môn đồ không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ, nếu họ đã bắt bớ ta, cũng sẽ
bắt bớ các ngươi.”(Gi 15:20). Một năm trước khi thầy cô trở về trường, vào năm 1936, con trai đầu
của thầy cô ra đời, được đặt tên là Nguyễn Xuân Hồng để kỷ niệm giòng sông Hồng chảy qua vùng
nầy.

Phủ Lý (Hà Giang), Cao Bằng

Sau khi về trường học xong năm thứ hai niên khóa 1937-38, thầy cô được bổ nhiệm đến tỉnh
lỵ Phủ Lý của tỉnh Hà Nam. Thầy cô phục vụ ở đây được sáu tháng thì Hội Thánh Cao Bằng làm đơn
xin đổi thầy cô trở lại hầu việc Chúa giữa vòng họ. Trong thời gian ở Phủ Lý, cô sinh người con trai
thứ hai đặt tên là Nguyễn Xuân Hà, theo tên tỉnh Hà Nam. Trở lại Cao Bằng với hai con, một ba tuổi
và một hai tháng tuổi, thầy cô bắt tay ngay vào công tác xây dựng Hội Thánh theo cả nghĩa đên lẫn
nghĩa bóng.Trên miếng đất mà trước kia thầy đã cổ động Hội Thánh mua, bây giờ đã có một mái
nhà tranh để nhóm họp thờ phượng Chúa. Miếng đất tọa lạc bên bờ sông Bằng Giang rất đẹp. Thầy
lấy đức tin kêu gọi các con cái Chúa bắt đâu chương trình xây cất nhà thờ. Chúa cho sau một thời
gian có một số người tin Chúa, chịu bap-tem gia nhập Hội Thánh.

Trước khi thầy cô trở lại trường để học tốt nghiệp thì Hội Thánh Cao Bằng, sau sáu năm gây
dựng (1934-40), đã trở thành Hội Thánh tự trị về tài chánh, đứng hàng thứ tư ở Miền Bắc sau các
Hội Thánh Hà Nội, Nam Định và Hải Phòng. Khi chương trình xây nhà thờ được xúc tiến, đã đổ được
móng và vật liệu đã mua đủ để xây một căn nhà 10 m x 20 m, thì chiến tranh Hoa-Nhật lan rộng,
người tị nạn từ Quảng Đông kéo qua Cao Bằng rất đông, nên Hội Thánh phải đình chỉ việc xây cất.

Đức Phổ (Quảng Ngãi)

Năm 1940 khi Đệ nhị Thế chiến bắt đầu leo thang, thì thầy cô nhận được văn thư của Địa hạt
Bắc Việt do Mục sư Lê Văn Thái làm Chủ Nhiệm gọi về trường học năm tốt nghiệp.

Thầy Nguyễn Xuân Ba tốt nghiệp Trường Kinh Thánh ngày 21.04.1941. Đến tháng 7-1941 thầy
cô được Ban Trị sự bổ chức Truyền đạo đến hầu việc Chúa tại Hội Thánh Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Tinh thần con cái Chúa tại đây rất tốt. Họ đã dâng công lên núi đốn gỗ, lấy tranh về cất một căn nhà
nguyện 7 m x 18 m làm nơi thờ phượng và học Kinh Thánh, và một tư thất tuy lợp tranh nhưng khá
sáng sủa, khang trang. Lúc ấy thân phụ của cô là cụ Thanh đã qua đời, thân mẫu của cô đến ở với
thầy cô.

Năm 1941, cô sinh một trai đặt tên Nguyễn Xuân Đức, theo tên Hội Thánh Đức Phổ. Tín đồ Hội
Thánh Đức Phổ sống tản mác trên một địa bàn khá rộng, trên vùng núi, dưới miệt biển,ngoài quận
Mộ Đức, trong đèo Nghĩa Trang, cách nhà thờ từ 8 đến 15 cây số, nơi nào cũng có một số gia đình
tín hữu. Nhờ có bà ngoại trông giữ các cháu, thầy cô Truyền đạo chia thì giờ trong tuần, cùng nhau
đi thăm, dạy Kinh Thánh và hiệp nguyện với mỗi nhóm trong vùng. Chúa Nhật thầy giảng luận thì
cô dạy Trường Chúa Nhật.

16


Tháng 11-1941, Mục sư Chủ nhiệm Trung hạt Ông Văn Trung đi hành hạt ghé thăm Hội Thánh.
Ông cho biết tình hình nghiêm trọng, chiến tranh lan rộng, Hội Truyền giáo không thể tiếp tục trợ
cấp cho các Hội Thánh nhỏ nữa, các Mục sư Truyền đạo đang phục vụ tại các Hội Thánh đó có thể
làm đơn xin nghỉ về nhà làm ăn sinh sống chờ đến khi tình hình ổn định sẽ trở lại. Thầy cô bàn bạc
với nhau và cùng đồng tâm sẽ ở lại hầu việc Chúa. Vậy mà khi nghe Chủ nhiệm cho biết đã có 6 Mục
sư Truyền đạo xin nghỉ, thầy cũng nao núng làm đơn xin nghỉ. Sau khi Mục sư Chủ nhiệm đi Quảng
Ngãi, cả hai vợ chồng thao thức suốt đêm suy nghĩ, đến 5 giờ sáng họ dậy cùng nhau cầu nguyện và
quyết định để cô đáp xê đò đến Quảng Ngãi gặp Mục sư Chủ nhiệm rút lại lá đơn. Sau khi dứt khoát
hi sinh ở lại để hầu việc Chúa, Ngài đã tỏ cho thầy cô thấy thánh chức của họ được Ngài ban phước:
trong dịp lễ Giáng Sinh 1941, họ tổ chức 2 đêm truyền giảng tại quận Mộ Đức, có 10 người tin nhận
Chúa. Có một số người cờ bạc, rượu chè, trộm cắp đến tin Chúa và đời sống họ được đổi mới.

Đầu năm 1942, việc tổ chức Hội đồng Địa hạt gặp trở ngại vì không có Hội Thánh lớn nào chịu
mời. Thầy Truyền đạo Nguyễn Xuân Ba đề nghị với Ban Trị sự Hội Thánh và họ đồng ý mời Hội
Đồng. Ngày 24-2-1942, Hội đồng khai mạc tại Hội Thánh, có các Mục sư Truyền đạo thuộc Trung
hạt, và nhiều tín hữu tham dự, được vài ba trăm người.

Đây là một Hội đồng lịch sử. Diễn giả là Mục sư Lê Văn Thái, Chủ nhiệm Bắc hạt. Ông đã giảng
tại Hội đồng Cần Thơ và Chúa đã dùng ông để phấn hưng Hội Thánh Miền Nam. Trên đường về, ông
ghé lại Đức Phổ để giảng cho Hội đồng. Lúc bấy giờ quân Nhật đã tiến vào Đông Dương, nhưng quân
đội Pháp vẫn còn. Dân Việt một cổ hai tròng, vừa phải tự nuôi sống mình, vừa phải cung phụng cho
guồng máy chiến tranh, dẫn đến nạn đói năm Ất Dậu 1945. Các con cái Chúa cũng chịu chung một
cảnh khổ. Khi nghe ông kể lại công việc Chúa ở Miền Bắc, mọi người đều cảm động khóc lóc. Cô
Truyền đạo được Chúa thúc giục rút đôi bông tai đang đêo trên người là nữ trang duy nhất của cô
đêm dâng lên bàn thờ để lập quỹ trợ giúp con cái Chúa ở Bắc hạt. Mọi người đều cảm động đêm
dâng tiền bạc, nữ trang, đồng hồ, cả áo quần, giày dép, mũ nón để giúp anh chị em thiếu thốn.

Sau Hội đồng, thầy cô mở thêm một Hội Thánh nhánh ở Mộ Đức, buổi nhóm đầu tiên có 30
người. Từ đó mỗi Chúa Nhật thầy cô đi giảng hai nơi với niềm vui thấy công việc Chúa tiếp tục phát
triển.

Khánh Bình (Quảng Nam)

Sau khi mãn nhiệm kỳ 2 năm tại Hội Thánh Đức Phổ, thầy cô Truyền đạo Nguyễn Xuân Ba được
Hội Thánh Khánh Bình ở Quảng Nam mời về quản nhiệm. Hội Thánh nầy có nhiều nét độc đáo. Đây
là một Hội Thánh miền quê ở vùng rừng núi hẻo lánh, nhưng là một trong những Hội Thánh kỳ cựu
nhất của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Đã có trên 50 Mục sư Truyền đạo nam nữ xuất thân từ nơi
nầy. Khánh Bình nằm trong dãy núi Trường Sơn chạy dọc sông Thu Bồn, từng thuộc địa phận chiến
khu Hoàng Văn Thụ thời chiến tranh 1945-54. Vùng nầy không có đường sá cho xe cộ, chỉ có những
con đường mòn chạy dọc các sườn núi hay thung lũng. Con sông là đường lưu thông huyết mạch
của toàn vùng. Hạt giống đầu tiên của Hội Thánh là cụ Thủ Chi, một thương gia từ làng Kim Bồng
gần Hội Ân lên đây lập nghiệp. Năm 1935 cụ được một người bà con với cụ ở làng Kim Bồng, là cụ
Chánh Thanh thuộc Hội Thánh Hội An, làm chứng về sự cứu rỗi và quyền năng của Chúa. Cụ Thủ
Chi đã tin nhận Ngài, về nhà dẹp bỏ hình tượng, sốt sắng làm chứng cho những người thân quen.
Từ đó mỗi thứ bảy hằng tuần, cụ dùng ghe buồm chở mọi người xuống Hội Ân để sáng Chúa Nhật
thờ phượng Chúa tại Hội Thánh, rồi sáng thứ hai lại chở họ trở về Khánh Bình. Đến khi tại đây có
một số gia đình, họ góp công của xây nhà thờ và mời người đến cai quản. Truyền đạo Nguyễn Xuân
Ba là người thứ hai được mời.

17


Thời gian thầy cô quản nhiệm Hội Thánh tại đây vừa lâu dài vừa đầy cam go thử thách cho đầy
tớ Chúa,nhưng cũng đêm lại sự gắn bó sâu đậm giữa bầy chiên và người chăn. Số tín hữu ở đây
khoảng 100 người, thờ phượng hằng tuần chừng 50-70 người, những khi lụt lội mưa bão chừng
20-30 người. Đa số con cái Chúa nghèo, chỉ vài ba gia đình có thể xếp vào hàng trung nông. Từ năm
1943-45, tình thế còn yên ổn, có thể về thành phố mua nhu yếu phẩm và những vật gia dụng, cũng
như liên lạc với văn phòng Địa hạt để mua sách báo, tài liệu, truyền đạo đơn cho sinh hoạt Hội
Thánh. Mỗi lần thầy đi về là con cái được liên hoan một bữa bánh mì sữa đặc, được đọc Thánh Kinh
Báo, sách bồi linh của dịch giả Đỗ Đức Trí, và các thứ sách báo khác. Thầy có một tủ sách gồm nhiều
sách xuất bản từ Hà Nội, một sưu tập trọn bộ Thánh Kinh Báo và báo Phụ Nữ Tân Văn giữ mãi đến
sau nầy mới bị mất.

Năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền. Năm 1946 chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Năm
1947 Pháp trở lại Đà Nẵng, chính quyền chủ trương tiêu thổ kháng chiến, kêu gọi dân chúng tản
cư. Khánh Bình trở thành nơi tiếp cư của nhiều gia đình thành phố. Sau khi tình hình ổn định, phần
lớn đều hồi cư. Từ đó vùng quê bị đứt hẳn liên lạc với thành phố. Các Hội Thánh từ Quảng Nam cho
đến Bình Định phải hoàn toàn tự lo về mọi mặt, không còn liên hệ gì được với Tổng Liên Hội, Địa
hạt, hay Hội Truyền giáo.Trong hoàn cảnh nầy, các tôi con Chúa đành nhờ Chúa nương tựa vào
nhau để tồn tại.Các Hội Thánh gần nhau thỉnh thoảng Hội Thánh này tổ chức bố đạo bồi linh thì
mời Hội Thánh kia đến tiếp sức. Có lần thầy cùng mấy Mục sư Truyền đạo nữa vượt rừng già Giảm
Thọ do công binh Việt Minh mở để làm đường chuyển quân, đi 2 ngày 1 đêm không thấy mặt trời,
để qua Đại Lộc giúp Truyền giáo Kiều Toản tổ chức bố đạo bồi linh.

Về phương diện vật chất, các gia đình tôi tớ Chúa đều phải hoàn toàn tự túc. Những gia đình ít
con còn dễ thở. Gia đình thầy cô có đến 8 người con. Sau khi sinh 3 con trai ở 3 nơi hầu việc Chúa
trước, trong thời gian ở Khánh Bình thầy cô có thêm 5 người con nữa. Năm 1943 sinh một trai là
Nguyễn Xuân Bình (kỷ niệm Khánh Bình); năm 1946, vì không có bà mụ nên chính thầy tự tay đỡ
cho cô sinh đứa con gái đặt tên Nguyễn Thị Bình Minh; năm 1948 thêm một con gái là Nguyễn Thị
Thanh Xuân;năm 1951 sinh Nguyễn Xuân Sơn (thêo tên quận Quế Sơn) và năm 1954 sinh Nguyễn
Xuân Phước, cô chuyển dạ trong lúc chạy tránh máy bay, trở về chưa kịp vào nhà,vừa đến chuồng
dê thì sinh ngay tại đó.

Cả gia đình phải xoay sở đủ cách để sống còn. Thầy và các con trai lớn trồng tỉa rau đậu trong
vườn nhà thờ chừng 300 m2, mướn thêm đất để trồng bắp, khoai và khai phá thêm rẩy để trồng
sắn. Cả nhà không ai biết nghề nông, vậy mà Chúa cho lúc nào cũng thu hoạch vuợt chỉ tiêu và được
chính quyền khen ngợi. Ngoài ra cũng có nuôi gà, vịt và một bầy dê chừng 5 con. Hầu hết các con
trai của thầy cô sau nầy trở thành Mục sư, nhớ lại thuở xưa, cảm khái: “Hồi nhỏ mình chăn dê, lớn
lên lại chăn chiên!” Cô thì mỗi ngày xắt chuối trộn cám để nuôi hêo, đến cuối năm bán để có tiền tổ
chức Nô-ên. Sau mùa gặt, cô mua gạo về xay bột làm bún,giao cho mấy bé gái đêm đi bán. Có khi cô
lãnh con cúi (những thỏi bông vải hình xúc xích) về kéo sợi giao cho xưởng dệt. Quần áo các con,
phần lớn cô tự may hay đan bằng tay, chỉ đưa thợ may những áo quần mặc khi đi ra ngoài. Làm tất
bật như vậy, nhưng bữa nào cũng phải ăn độn sắn khoai vì không đủ gạo, như câu “Tối ăn khoai đi
ngủ, sáng ăn củ đi làm, trưa khoai lang trừ bữa.” Ngoài ra, nạn sốt rét rừng rất phổ biến mà thuốc
men không có. Vậy mà Chúa nuôi cả nhà sau 9 năm vẫn nguyên vẹn không mất một ai cả.

Ngoài vấn đề của bao tử, còn có chuyện chạy máy bay nữa. Nhà thờ 8 lần bị bom đạn gồm 4 lần
bị bắn phá và 4 lần bị dội bom. Lần cuối cùng vào một Chúa Nhật năm 1953, Hội Thánh đang thờ
phượng Chúa thì có báo động, con cái Chúa vừa kéo nhau ra đến hầm núp thì máy bay kéo tới trút

18


bom ầm ầm. Khi chúng bay đi, cả nhà thờ và tư thất chỉ còn là đống gạch ngói vụn, nhưng cả Hội
Thánh không ai bị thương tích gì cả.Khi dân chúng vác cuốc xẻng tới để tìm xác tín đồ Tin Lành thì
họ sửng sờ thấy mọi người còn nguyên vẹn. Ơn Chúa bảo vệ thật kỳ diệu. Gia đình Mục sư Ba (lúc
ấy ông đã được phong chức như sẽ kể dưới đây) phải cất một lều tranh để ở tạm và một lều lớn để
nhóm họp. Năm 1954 đình chiến, ông cổ động con cái Chúa lên núi đốn gỗ và đi Hội An mua xi-
măng, ngói, gạch, xây lại nhà thờ mới trên nền cũ, và khánh thành rất trọng thể vào năm 1955.

Năm 1951, thầy Truyền đạo Nguyễn Xuân Ba được Ban Trị sự Tổng Liên và Địa hạt biểu quyết
tấn phong Mục sư cùng với thầy Truyền đạo Lê Đình Tố ở Hội An trong một hoàn cảnh hi hữu. Lúc
đó cuộc chiến tranh Việt-Pháp vẫn đang sôi động. Ông đã phải nhờ người hướng dẫn len lỏi trong
bóng đêm qua các trạm gác, lô-cốt để đi từ vùng Việt Minh ra thành phố giữa nguy cơ có thể bị bắt
hay bắn chết bất cứ lúc nào. Sau khi thụ phong, ông lại xông pha vào “trũng bóng chết” để quay về
với bầy chiên. Chúa đã bảo vệ ông an toàn vì Ngài còn cần ông cho nhiều năm nữa. Như vậy sau gần
20 năm mở mang và gây dựng 5 Hội Thánh, chức vụ của ông đã được Hội Thánh chính thức công
nhận.

Quế Sơn (Quảng Nam)

Sau 12 năm vào sinh ra tử với bầy chiên Chúa tại Khánh Bình, Mục sư Nguyễn Xuân Ba được
mời về quản nhiệm Hội Thánh Quế Sơn từ tháng 7.1955. Quế Sơn là một vùng đất cằn cỗi,nhưng
con cái Chúa có lòng yêu Chúa rất nồng nàn. Nơi đây cũng là lò cung cấp rất nhiều Mục sư cho Hội
Thánh chung. Ông bắt tay vào công tác truyền giáo ngay bằng cách tổ chức các Ban Chứng đạo. Có
khá đông tín hữu tham gia, cả người lớn tuổi lẫn thanh niên. Cuộc sống của đồng bào đã bị bầm
giập sau 9 năm chiến tranh, giờ đây tâm hồn họ mềm mại trước tiếng gọi tình yêu của Chúa. Kết
quả rất khả quan,tuần nào cũng có người cầu nguyện tin nhận Chúa, có khi đến 15, 20 người. Khu
vực nào có đông người tin Chúa thì hằng tuần ông đến tận nơi dạy đạo cho họ. Quyền năng của
Chúa cũng thi thố, Mục sư cầu nguyện Chúa chữa lành bệnh điên cho một phụ nữ, khiến cho đạo
Chúa càng được quảng bá sâu rộng. Đạo Chúa bắt đầu lan qua làng Châu Sơn, đến Lãnh Thượng rồi
tràn qua Việt An. Có một người tên là Mỹ đến nghe giảng, xin sách cắt nghĩa đạo rồi hôm sau trở lại
xin cầu nguyện tin nhận Chúa. Anh mời Mục sư đến làm chứng cho bà con họ hàng, có một số người
tiếp nhận Chúa. Khi các chấp sự đến thăm anh êm, có một người trong làng báo cáo chính quyền
đến làm khó dễ họ, nhưng rồi chính người nầy cũng tin Chúa. Mỗi ngày số người tin Chúa một đông
thêm. Sau khi huấn luyện các con cái Chúa tại đây, Mục sư mở Hội Thánh nhánh tại Việt An, và một
thời gian sau Hội Thánh nầy đã trở nên độc lập.

Hội An

Tháng 7.1957, Mục sư Nguyễn Xuân Ba và gia đình thuyên chuyển về Hội Ân. Đến nơi, ông bắt
tay vào việc truyền giáo ngay. Trong mấy tháng đầu ông tổ chức giảng Tin Lành ở các làng quanh
thành phố, mỗi tuần hai ba đêm. Vì làm việc quá sức, ông bị nám phổi phải tĩnh dưỡng một thời
gian. Sau khi lành bệnh, ông tổ chức Ban Chứng đạo,nhiều thanh niên tham gia đi phát sách làm
chứng, có người tin Chúa. Số tín đồ lẫn ngân quỹ đều gia tăng. Chúa cũng dùng ông cầu nguyện cho
cụ Dương Hải trên 60 tuổi ở làng Phú Triêm bị bại liệt lâu năm được lành. Hội Thánh có không khí
vui vẻ phấn khởi. Trong khi đó cũng có chuyện buồn là một đồng sự không hiểu do động cơ gì, xúi
giục vài phần tử xác thịt trong Hội Thánh đặt chuyện nói xấu vu cáo gia đình ông. Nhưng rồi Chúa
cũng thương xót làm sáng tỏ mọi sự.

19


Tại làng An Bàng cách thành phố 4 km, Chúa cho có một số đông người tin Chúa, Mục sư dự
định mở Hội Thánh nhánh ở đó, nhưng rồi chiến tranh lan rộng nên chương trình này không thực
hiện được. Dầu vậy số con cái Chúa tại đây vẫn cứ đứng vững đến sau nầy.

Trong số con cái Chúa thuộc Hội Thánh Hội An, có mấy gia đình sống tại thị trấn Nam Phước
thuộc quận Duy Xuyên cách thị xã Hội Ân 30 km. Ông thường đi xê mobilêttê đến đây thăm viếng
và làm chứng về Chúa. Nơi đây có trục lộ giao thông, người đi qua lại rất đông, nên ông gợi ý với
Ban Trị sự xây một nhà thờ ở vùng đó. Nhiều người bảo Hội Thánh không thể nào kham nỗi chương
trình lớn như vậy, nhưng Mục sư nhấn mạnh đây là cơ hội Chúa mở ra cần phải nắm lấy, nên Ban
Trị sự biểu quyết đồng ý, nhưng chỉ trên giấy tờ. Với hai bàn tay trắng, ông đi tìm đất xây nhà thờ.
Sau khi tìm được đất, ông chạy đến các con cái Chúa mượn một số tiền để đặt cọc. Rồi ông dành
một Chúa Nhật kêu gọi Hội Thánh dâng hiến cho việc mua đất.Các con cái Chúa vui vẻ dâng hiến đủ
tiền mua đất. Sau đó ông đi lạc quyên ở các Hội Thánh khác để mua vật liệu, rồi đích thân ông mỗi
ngày đi xê cọc cạch mấy chục cây số đến tận nơi trông coi việc xây cất. Sau khi hoàn thành, Hội
Thánh tổ chức lễ cung hiến thật trọng thể, có một số người mới tin gia nhập Hội Thánh.

Ngoài ra Hội Thánh Hội Ân cũng mua được một nghĩa trang gần thành phố tiện cho việc mai
táng các tín hữu trong thị xã, và xây được một tư thất khang trang cho gia đình tôi tớ Chúa.

Truyền Đạo Lưu Hành

Sau 6 năm gây dựng công việc Chúa tại Hội An, mặc dù con cái Chúa rất mong ông bà lưu thêm
nhiệm kỳ nữa, nhưng ông quyết định xin đi truyền đạo lưu hành từ năm 1963. Trong khi đi lại rao
giảng, ngang qua Vĩnh Điện, ông thấy có một căn nhà hoang phế trên quốc lộ 1, đồng bào nói là nhà
có ma nên bỏ hoang. Ông liên lạc với chủ nhà và mua được với phân nửa thời giá, rồi xây một căn
nhà cho gia đình ở, đồng thời thiết trí bộ âm thanh để giảng Tin Lành cho đồng bào trong vùng. Một
số người tại đây tin Chúa, trong đó có một gia đình rất trung tín, mãi đến sau nầy khi qua Mỹ,bà vẫn
là trụ cột của Hội Thánh. Trong năm 1964 ông được ủy thác đặc trách Thánh Kinh Tiểu Học Trường,
tức là khoá dạy Kinh Thánh ngắn hạn cho các chấp sự và tín hữu.

Vừa xong khóa Thánh Kinh Tiểu Học thì Miền Trung xảy ra một trận lũ lụt lớn nhất thế kỷ. Có
nơi cả một làng bị xóa sạch, như làng Đông Ân phía trên Khánh Bình, vì xa núi dân không có nơi
chạy nên bị cuốn trôi hết. Nhà thờ Khánh Bình cũng bị cuốn thêo dòng nước lũ. Dọc theo các giòng
sông, vô số đồng bào trong đó có nhiều con cái Chúa mất sạch nhà cửa của cải. Chính quyền kêu gọi
các tôn giáo lập Ủy ban Cứu trợ. Mục sư Nguyễn Xuân Ba được Ban Trị Sự Tổng Liên đề cử làm
Trưởng ban Cứu trợ Tin Lành. Trường Thánh Kinh Tiểu Học được dùng làm nơi tiếp cư đón tiếp
ủy lạo các nạn nhân, giúp họ tạm trú và tái định cư. Thực phẩm do các cơ quan xã hội như Caritas,
Mennonite, World Vision giúp. Sau khi hoàn tất công cuộc cứu trợ, Ủy ban Cứu trợ Tin Lành được
các cơ quan trên gởi thư cảm ơn và được chính phủ ân tặng Chương Mỹ Bội Tinh. Đó là phần thưởng
cao quí cho nỗ lực của Mục sư. Cho đến nay (năm 2010), 32 năm sau khi ông qua đời và 38 năm sau
trận lụt, vẫn còn người từng là nạn nhân của trận lụt, mỗi năm đến tặng quà sinh nhật cho bà và
nhắc lại việc ông giúp họ khi xưa với niềm biết ơn.

Thiện chí và tinh thần tích cực của ông đã khiến cho một số kẻ ác tâm xuyên tạc, viết đơn lên
Tổng Liên Hội tố cáo rằng ông đã ăn chặn vật phẩm cứu trợ. Ông tạm ngưng công tác để chờ xét xử
cho ra lẽ. Khi Ban Trị sự Tổng Liên Hội họp lại xét thì chẳng ai trưng được bằng cớ gì, chẳng qua chỉ
là sự bịa đặt vu khống của người ta. Một điều oái oăm là trong số người ngồi trên tòa xét xử ông, có
người về sau bị phát hiện là lúc ấy đang dan díu với một phụ nữ và có con với cô ta. Nếu chỉ nghĩ

20


tới sĩ diện của tổ chức thì không nên nói ra điều ấy, nhưng để bảo vệ sự thánh khiết cúa Hội Thánh
Đức Chúa Trời, một bài học lịch sử như vậy cần nên cho hậu thế biết để rút kinh nghiệm giữ mình.

Năm 1965 tình hình chiến sự ở các vùng thôn quê và quanh thành phố càng ngày càng khốc liệt,
công cuộc truyền đạo lưu hành không thể nào tiếp tục được, Mục sư Ba xin nghỉ tĩnh dưỡng một
thời gian sau những ngày tháng biến cố dồn dập.

Kontum

Năm 1966, Giáo sĩ Mangham, Hội trưởng Hội Truyền giáo gặp riêng ông để nói chuyện an ủi,
đại ý:“Tôi biết tinh thần phục vụ của Mục Sư bị những kẻ xấu gièm pha bôi lọ, nhưng Ngài đã minh
oan cho ông. Hiện nay công việc Chúa rất cần ông. Tỉnh lỵ Kontum lâu nay vẫn chưa có Hội Thánh
Tin Lành, chúng tôi mong ông đến đó để mở Hội Thánh mới.”

Tháng 7-1966 Mục sư Nguyễn Xuân Ba nhận được văn thư của Liên Ủy ban Tổng Liên Hội – Hội
Truyền Giáo bổ nhiệm ông đến Kontum mở Hội Thánh mới. Có một gia đình con cái Chúa từ Pleiku
đến đây sinh sống nên buổi nhóm thờ phượng đầu tiên có 8 người. Sau đó ông bà đi thăm viếng và
làm chứng, tìm được một số tín đồ cũ và có một số mới cầu nguyện tin nhận Chúa, làm báp-tem cho
17 người. Số người thờ phượng hàng tuần tăng lên trên dưới 50 người, căn nhà mướn trở nên chật
chội không đủ chỗ nhóm.Ông đề nghị với Hội Thánh xây nhà thờ và mọi người đồng ý. Ông tìm
được miếng đất tốt tọa lạc tại một ngã ba nhiều người qua lại, nhưng chủ lại ở Quảng Ngãi.Ông ra
tận Quảng Ngãi thương lượng và được chủ đồng ý bán. Ông trở về tổ chức lạc quyên trong Hội
Thánh và mua được miếng đất.

Năm 1968, trước lễ Giáng Sinh, ông bị bệnh trầm trọng tưởng đã về với Chúa. Suốt 2 tuần liền
ông đau yết hầu không ăn uống được, chỉ truyền dịch. Chúa cho có các bác sĩ giỏi tận tình chữa trị
nên sau hai tháng ông được lành.

Năm 1969, với sự yểm trợ của Hội Truyền giáo và kết quả của sự vận động nhiều nơi, ông mua
sắm vật liệu và bắt đầu công việc xây cất nhà thờ. Hai ông bà thay nhau trông coi thợ làm việc, sau
5 tháng thì hoàn tất một nhà thờ 9 m x 20 m và một tư thất 6 m x 9 m. Lễ khánh thánh được cử
hành thật long trọng, có chính quyền các cấp từ tỉnh đến xã, các Giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo và các
cấp lãnh đạo giáo hội từ những nơi xa đến dự, thật vinh hiển danh Chúa.

Vũng Tàu

Sau bốn năm mở mang công trường của Chúa tại Kontum, năm 1970 ông bà được mời đến Hội
Thánh Vũng Tàu. Nhà thờ Vũng Tàu tọa lạc ngay đường yết hầu vào thành phố, nơi có rất đông
người qua lại, nhưng nhà thờ cũ kỹ, lâu năm chưa tu bổ, cổng ngoài đường loang lỗ, cỏ dại mọc đầy.
Ông bàn với Ban Trị sự nên tái thiết nhà thờ vì đây là chỗ những người du lịch thường qua lại, “để
bộ mặt Hội Thánh xấu xí quá, coi không được.” Cả Hội Thánh đều đồng ý và ông bắt tay vào việc.
Ông đến chính quyền thị xã xin phép và đến cơ quan viện trợ kiến thiết xin yểm trợ vật liệu.Họ đồng
ý vì cũng muốn có một bộ mặt đẹp cho thị xã. Họ cho xe chở vật liệu xây cất đến nhà thờ. Số lượng
vật liệu nhiều đến nỗi thay vì tái thiết, ông xin xây mới lại luôn cả nhà thờ, lớn và kiên cố gấp đôi
nhà thờ cũ. Ân điển Chúa thật lạ lùng, Ngài ban cho con cái Ngài gấp bội điều họ mong ước và cầu
xin. Cũng trong nhiệm kỳ hai năm ở Vũng Tàu, ông bà được cơ quan Hoàn Cầu Khải Tượng yểm trợ
thiết lập một trường tiểu học bên cạnh nhà thờ, nhưng sau 1975 đã bị chính quyền trưng dụng và
vừa được hoàn trả.

21


Trương Minh Giảng (Sài-gòn)

Tháng 6 năm 1972,ông bà đổi về quản nhiệm Hội Thánh Trương Minh Giảng, quận Phú Nhuận,
Sài Gòn. Trong thời gian từ 1972 đến 1975 Chúa cho Hội Thánh phát triển. Nhà thờ nhóm trong
căn phố đôi trở nên chật chội, ông đề nghị Ban Trị sự mở một Hội Thánh nhánh trên đường Trương
Minh Ký. Lúc đầu con cái Chúa nhóm lại trong nhà một tín hữu của Hội Thánh, về sau định mướn
một căn phố, nhưng rồi đến biến cố 1975, kế hoạch phải đình chỉ.

Từ giữa năm 1975,các con cái Chúa phần lớn phải tản lạc, người thì về quê, người đi Kinh Tế
Mới,người thì vượt biên, người bị đưa đi cải tạo. Những người gần gũi giúp đỡ ông bà lâu nay, hầu
hết đều không còn. Cuộc sống vật chất càng ngày càng kiệt quệ,tuy vậy ông bà vẫn trụ vững để duy
trì Nhà Chúa. Hội Thánh vẫn tiếp tục sinh hoạt như xưa, còn có phần mạnh mẽ hơn, vì biết rằng từ
nay họ sẽ không còn được tự do hoạt động bên ngoài nhà thờ nữa. Khi có lệnh đăng ký giờ sinh
hoạt, ông đã đăng ký tối đa các hoạt động của Hội Thánh. Mỗi Chúa Nhật, Hội Thánh nhóm lại thờ
phượng Chúa và học Trường Chúa Nhật vào buổi sáng (“học Trường Chúa Nhật” phải đổi thành
“học Kinh Thánh”, vì Hội Thánh bị cấm mở “trường”!),thanh niên nhóm vào buổi chiều, truyền giảng
vào buổi tối. Trong tuần, Hội Thánh nhóm cầu nguyện vào tối thứ tư, nhi đồng học Kinh Thánh vào
chiều thứ năm, tráng niên nhóm vào tối thứ sáu, thiếu niên học Kinh Thánh vào tối thứ bảy.Chúa
cho tinh thần con cái Chúa càng vững vàng sốt sắng hơn, đưa dẫn bạn bè đến với Chúa. Khi con
người quá thất vọng về đời sống, họ rất dễ qui phục Chúa. Buổi truyền giảng nào cũng có người lên
cầu nguyện tiếp nhận Chúa. Hội Thánh Chúa chẳng những không bị tàn lụi như nhiều người tưởng,
trái lại càng ngày càng đông đúc, sống động thêm.

Đến khoảng thời gian nầy, Mục sư Nguyễn Xuân Ba đã quá tuổi 65, gần 70. Trong nước thiếu
thuốc mên,các bác sĩ giỏi phần lớn đã di tản ra nước ngoài. Khi có một y tá đo huyết áp cho ông và
cho biết ông bị tăng huyết áp, ông không đi bác sĩ chữa trị mà đi châm cứu và uống nước trái nhàu
thêo phong trào được chính quyền cổ võ lúc bấy giờ. Nhưng vì công việc Hội Thánh đa đoan, ngay
cả với lối chữa trị bình dân đó, ông cũng chẳng có thì giờ thêo đuổi cách đều đặn nữa. Ông tâm
nguyện sẽ hầu việc Chúa cho đến hết đời, không bao giờ về hưu, và mong muốn được chết trên toà
giảng.

Có lần, trong lúc đương rao giảng Lời Chúa, ông ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu, nhưng sau đó ông
khoẻ lại và tiếp tục chăm sóc bầy chiên của Chúa. Một ngày kia, vào tháng 9.1978, trong lúc đương
làm việc ông cảm thấy đau tức, sau đó thì bất tỉnh. Khi đưa vào bệnh viện ông bị hôn mê luôn, rồi
nhẹ nhàng từ giã gia đình, Hội Thánh và cõi trần phiền não để về an nghỉ mãi mãi bên Cứu Chúa
của mình, là Đấng ông không thấy nhưng yêu kính và phục vụ suốt cả cuộc đời. Ngày
26.09.1978,tang lễ của ông diễn ra thật long trọng và đầy phước Chúa, có sự tham dự của đông con
cái tôi tớ Chúa trong vùng và cả chính quyền. Sau lễ an táng, có hai người khiêng đòn đến xin cầu
nguyện tin Chúa. Họ nói rằng họ đã từng phụ đòn cho rất nhiều đám tang, nhưng chưa bao giờ thấy
đám tang nào có không khí thanh thản, bình an, phước hạnh như đám tang nầy của người Tin Lành,
nên họ tin Chúa để cuộc đời cũng được phước như vậy. Thật là “dầu người chết rồi, vẫn còn nói” (He
11:4).

MS Nguyễn Xuân Hồng

22


Ông bà Giáo sĩ WILLIAM CHARLES CADMAN

(1883 – 1948)

“TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM,
NƯỚC VIỆT NAM LÀ TỔ QUỐC THỨ HAI CỦÂ TÔI”
Để đặt một nền móng vững chắc xây dựng nên Hội Thánh Tin lành Việt Nam, Đức Chúa Trời đã
dùng người của Ngài một cách đúng việc, đúng giờ một cách hữu hiệu.William Charles Cadman và
phu nhân (Grace Hazenberg Cadman) là hai nhà truyền giáo của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên
hiệp đi đầu trong việc giúp đỡ thành lập Hội thánh Tin Lành Việt Nam, đóng góp to lớn trong việc đào
tạo những người hầu việc Chúa, dịch Kinh Thánh sang Việt ngữ và soạn thảo tài liệu học Kinh Thánh
cho các Hội Thánh Chúa khắp Đông Dương.
Giáo sĩ William Charlês Cadman sinh ngày 04 tháng 04 năm 1883 tại Rotherhithe, một vùng
ngoại ô phía nam Luân Ðôn, thủ đô nước Anh. Ông lớn lên trong một gia đình ngoại đạo, sống đời
bình dị của một thanh niên trước sự thay đổi sâu rộng của cuộc cách mạng kỹ nghệ đầu thế kỷ 20.
Rồi ông chọn học ngành in ấn để làm kế sinh nhai. Ông trở thành chủ nhà in chuyên nghiệp, cũng là
nhà doanh nghiệp (và sau này được giao công việc điều khiển nhà xuất bản của Hội Truyền giáo).
Một sự thay đổi có tính bước ngoặc trong cuộc đời ông là vào năm 1904, ông được Chúa Thánh
Linh cáo trách tội lỗi của mình và tin nhận cùng Chúa. Một thời gian ngắn sau,Chúa kêu gọi ông
bằng một khải tượng về vô số linh hồn đồng loại đang hư mất chung quanh. Và ông quyết định rời
gia đình,dâng mình xuất dương du học tại trường Kinh Thánh ở Toronto, Canada,chịu huấn luyện
để chuẩn bị cho chức vụ tương lai. Sau đó ông tiếp tục sang Hoa Kỳ học tại Viện Ðào tạo Giáo sĩ
(Missionary Training Institude) ở Nyack, Nêw York, dưới chân Tiến sĩ Â. B. Simpson, người sáng
lập Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp với chủ trương nỗ lực đêm Tin Lành đến những xứ xa chưa
tìm thấy ánh sáng cứu rỗi.
Ba năm sau, vào tháng 9 năm 1910, ông tốt nghiệp và được Hội Truyền giáo chỉ định cộng tác
với giáo sĩ R.Â. Jaffrêy phục vụ 4 năm tại Trung Hoa để mang Tin Lành đến cho người Quảng Ðông.
Vào thời điểm nầy, tiến sĩ Â. B. Simpson đã đặt mục tiêu ưu tiên hàng đầu cho Việt Nam, Tây Tạng
và Sudan.

23


Mùa xuân năm 1911,các giáo sĩ R. Â. Jaffrêy, Paul M. Hoslêr và G. Lloyd Huglêrs đến hải cảng
Tourane, trung phần Việt Nam, mở màn cho việc rao giảng đạo Chúa ở các quốc gia nhỏ bé vùng
Ðông Nam Á. Ðây là lần đầu tiên Tin Lành đến với hằng trăm ngàn dân Việt từ Bắc chí Nam.

Trong bối cảnh đó,năm 1914, Chúa đã gọi ông W.C. Cadman và ông vâng lệnh Ngài lên đường
đến Việt Nam phục vụ. Tại đây ông gặp người bạn đồng tâm chí là cô Gracê Hazênbêrg. Hai người
làm lễ thành hôn vào ngày 27 tháng 7 năm 1915, tại Vân Nam, Trung Hoa.

Bà giáo sĩ Cadman, nhũ danh Gracê Hazênbêrg, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1876 tại Fulton, một
làng nhỏ thuộc tiểu bang Illinois, nằm trên bờ sông Mississippi, giáp ranh với Iowa, về phía bắc
thành phố Davênport. Lúc nhỏ, bà thêo gia đình đi truyền giáo ở Nam Phi cho người Âfrikanêrs,
ngày xưa gọi là người Boêrs[1]. Bà đi học ở Nam Phi và đậu bằng Cử nhân. Chúa muốn dọn đường
cho công việc truyền giáo của bà qua sự huấn luyện và học tập nên đã gọi bà về Toronto, Canada để
học tiếp và tốt nghiệp bậc cao học chuyên ngành nghiên cứu tiếng Hi-lạp và tiếng Hi-bá-lai, mở
đường cho bà dấn thân vào việc phiên dịch Kinh Thánh sau này.

Năm 1913, bà là một trong 6 người đầu tiên được Ban Chấp hành Hội Truyền giáo ở New York
cử đến Tourane (Ðà Nẵng). Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914, bà là người duy nhất ở lại để
tiếp tục duy trì và phát triển cơ sở truyền giáo mới nầy. Ðây là giai đoạn đầy cam go và thử thách.
Hầu hết các giáo sĩ đều phải rời Việt Nam vì chính quyền không cho phép họ rao giảng đạo Chúa.
Người dạy Việt ngữ cho bà lúc này là bà Võ Thị Thu, một phụ nữ quyền quý trong giới Nho học, về
sau đã tin nhận Chúa.

Sau khi thành hôn tại Trung Hoa, ông bà giáo sĩ Cadman trở lại Việt Nam và ở lại đây gần một
năm.Tình hình chuyển biến mỗi ngày một khó khăn thêm, nên ông bà phải tạm lánh sang Trung
Quốc vài tháng.

Cuối năm 1916, ông bà Cadman trở lại Việt Nam. Trong thời gian ngắn lưu tại Touranê (Đà
Nẵng), ông bà mua cơ sở, thiết lập địa điểm truyền giáo đầu tiên tại vùng Ðông Nam Á. Ban đầu,
ông đi lại bằng xê đạp, sau đó bằng ô tô để phát sách Tin Lành, làm chứng và giảng dạy về sự cứu
rỗi và tình yêu thương vô điều kiện của Ðức Chúa Trời ở Hội An, kinh thành Huế, rồi đến Hà Nội
khi gia đình ông chuyển ra Hà Nội năm 1917.

Ở Hà Nội, ông thuê nhà để ở và giảng Tin Lành. Lúc đầu ở phố Hàng Đào, sau chuyển qua phố
Cầu Gỗ.Sau ít lâu, ông bà mua nhà để làm nơi trú ngụ, xây dựng nhà thờ (ngày nay là khuôn viên
nhà thờ Hội thánh Tin Lành Hà Nội) và một năm sau lập cơ sở ấn loát văn phẩm Tin lành (năm
1920).

Hoạt động truyền giáo lúc đầu rất khó khăn, gặp nhiều trở ngại từ chính quyền Pháp lẫn Việt,
từ địa phương đến trung ương. Thực dân Pháp rất ghét ông vì ông rất yêu mến người Việt Nam nên
có lần họ đã viết bài đả kích ông trên báo chí.Nhưng hột giống do ông bà giêo đã sớm ươm mầm,
kết quả. Chính nhờ công khó của ông bà mà Hội Thánh Hà Nội đã trở thành một Hội thánh vững
mạnh nhất trong cả vùng Ðông Nam Á lúc bấy giờ. Từ cơ sở nầy, nhiều Hội nhánh lần lượt được mở
ra tại các thành phố chính ở miền Bắc. Mục sư Lê Văn Thái là vị mục sư người Việt Nam đầu tiên
của Hội Thánh Hà Nội trở thành một cộng sự lâu dài, một người bạn và sau này là Hội trưởng thứ
năm của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Ông bà Cadman có một người con gái là Agnes, sinh tại Vân Nam vào năm 1916. Âgnês bị vướng
bệnh sốt bại liệt khi ông bà về Canada nghỉ phép dài hạn lần đầu tiên, được Chúa chữa lành nhưng

24


hãy còn yếu. Năm 1922, Âgnês Cadman về nước Chúa và được an táng tại nghĩa trang thành phố
Hà Nội khi mới được 6 tuổi.

Dù bị bắt bớ và thử thách nhưng ông bà William Charlês Cadman vẫn hết lòng thương yêu linh
hồn tội nhân, năng nổ cộng tác với các giáo sĩ và Mục sư Truyển đạo người Việt, đổ nhiều mồ hôi và
nước mắt để Tin Lành của Chúa có thể đến được tận những thôn làng hẻo lánh xa xôi ngoài Hà Nội
như Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Hòa
Bình,… Bàn chân của người truyền đạo ngày đêm không mệt mỏi đã in dấu khắp đất nước Việt Nam
hình chữ S qua hình ảnh một đôi vợ chồng đầy tình yêu thương, tinh thần tận tụy, trang phục đơn
sơ, ăn uống kham khổ, đi trên chiếc xê hơi cũ kỹ, ngủ trên các băng ghế nhà thờ. Tình trạng vật chất
thiếu thốn nhưng dường như đã được tình yêu chan chứa dành cho người Việt che lấp, khiến ông
bà không còn thời gian nghĩ đến những khó khăn mà chỉ biết quên mình, khiêm nhường phục vụ.
Mục sư Trần Văn Đệ kể lại rằng khi ông đi cùng giáo sĩ Cadman đến thăm nhà cầm quyền Pháp tại
Hà Nội. Người Pháp đó chỉ chiếc ghế duy nhất trong phòng làm việc mời giáo sĩ Cadman ngồi mà
không chú ý gì đến Mục sư Đệ. Giáo sĩ Cadman nhấc chiếc ghế mời Mục sư Đệ ngồi, còn ông thì đứng
một bên. Hành động tôn trọng người khác hơn mình đó khiến người Pháp vội cho người đêm thêm
chiếc ghế thứ hai để giáo sĩ ngồi.

Bà Giáo sĩ G.H. Cadman là tác giả cuốn sách đầu tiên viết về Việt Nam năm 1920
Năm 1928, nhà nước thuộc địa Pháp và triều đình Huế ra lệnh cấm các tôn giáo ngoài Công giáo.
Tin Lành bị bắt bớ. Ông bà Cadman bị giữ hộ chiếu vì vi phạm luật, cùng lúc đó Mục sư Phan Ðình
Liệu bị bắt giam vì giảng đạo. Hai tháng sau, vào tháng 3 năm 1928, quan toàn quyền miền Bắc gởi
cho giáo sĩ Cadman thông tư như sau: "Tôi được biết Hội Truyền bá Phúc Âm Liên hiệp bổ nhiệm ông

25


trong chức vụ truyền giáo ở nhiều thị trấn miền Bắc và nhất là ở Nam Ðịnh. Trái với tinh thần hòa
ước năm 1874 và năm 1884 giữa chánh phủ Pháp và Hoàng Ðế nước Việt Nam, tôi có nhiệm vụ
khuyên ông nên sớm chấm dứt sự giảng đạo của ông."

Noi gương tinh thần của Phi-e-rơ và các sứ đồ “Thà phải vâng lời Ðức Chúa Trời còn hơn là vâng
lời người ta” (Cong 5:29), hai ông bà vẫn cương quyết bám trụ vào đất Việt với mong ước cứu thêm
người cho Chúa.

(Ảnh: photos.vnbible.com)
Ông bà giáo sĩ William C. Cadman tại Hội đồng các Giáo sĩ Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp, 1929.

Thành quả đángtrân trọng nhất của ông bà là việc dịch toàn bộ quyển Kinh Thánh ra tiếng Việt.
Trong đó bà là người đóng vai trò trọng yếu. Cho đến nay, dù Kinh Thánh tiếng Việt đã có nhiều
bản dịch nhưng bản Kinh Thánh mà hầu hết các tín hữu Tin Lành Việt Nam sử dụng trong vòng
mấy mươi năm qua, kể từ lần xuất bản đầu tiên, chính là bản mà vợ chồng giáo sĩ Cadman đã khởi
xướng. Mặc dù hầu việc Chúa trong giai đoạn chưa có Kinh thánh trọn bộ bằng tiếng Việt và chữ
Nôm đang được nhiều người có trình độ sử dụng nhưng ông bà giáo sĩ William C. Cadman đã quyết
định cho dịch các sách Phúc âm ra quốc ngữ trước tiên, kế đến là sách Công vụ rồi đến thơ tín Rôma,
... Công việc dịch thuật bắt đầu từ năm 1914, bị tạm ngưng một thời gian do hoàn cảnh khách quan
và được khởi sự lại vào năm 1919 với sự cộng tác đắc lực của các thành viên trong ban phiên dịch
gồm có:

1. Giáo sĩ William C. Cadman (Trưởng ban)
2. Bà William C.Cadman
3. Giáo sĩ John Drangê Olsên
4. Ông Trần Văn Dõng (sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương)
5. Ông Nguyễn Hữu Phúc
6. Ông Phan Khôi (học giả, văn sĩ lỗi lạc, thông thạo chữ Hán, chữ Nôm, chữ Pháp và Quốc ngữ;
ông yêu chữ quốc ngữ, và từng trải quên thuộc với những lỗi phát âm, thổ ngữ của từng vùng[2]).
7. Người đọc lại sau cùng là Hoa Bằng Hòa Thúc Trâm, một học giả từng làm từ điển.
Tận tụy làm việc trong suốt 10 năm, quyển Kinh Thánh Tân Ước được hoàn thành vào năm
1922 và được in ở Thượng Hải vào năm 1924.

26


Đến năm 1926, hai ông bà rất vui mừng khi thấy bản Kinh Thánh toàn bộ bằng tiếng Việt lần
đầu tiên được xuất bản và phát hành rộng rãi để mọi người Việt Nam được đọc lời Đức Chúa Trời
bằng tiếng mẹ đẻ của mình.

Cũng nên biết, dù chữ quốc ngữ đã được chính phủ chính thức thừa nhận vào cuối thập niên
1910 để thay thế chữ Nôm nhưng trong giai đoạn chuyển tiếp nầy vẫn còn rất mới mẻ. Ngay từ ban
đầu, chữ quốc ngữ đã được nhiều người ưa thích và dần trở nên rất thông dụng vì dễ đọc, dễ học,
dễ nhớ, dễ in, dễ viết, ít bị câu thúc trong tư tưởng và dễ giao tiếp với các trào lưu văn minh khác.
Năm 1922, giáo sĩ Cadman là giám đốc nhà in báo cáo: “Sự bán các phần Kinh Thánh, sách và truyền
đạo đơn rất chạy,đến nỗi nhà in khó mà in kịp các sách tái bản. Tổng số sản xuất là 127.807 ấn
bản,gồm 3.197.300 trang trong năm 1922… đến năm 1927 lên đến 5 triệu trang”.

Sự xuất hiện bản Kinh thánh bằng chữ quốc ngữ đầu tiên đã góp phần phát triển chữ quốc ngữ
nước ta (vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi văn chương Hán ngữ) trong thuở mới thiết lập nền tảng.
Về mặt văn chương,chữ nghĩa thì quyển Kinh Thánh nầy đã được nhiều học giả thời bấy giờ khên
ngợi.Phan Khôi được giao lo về lối hành văn, các nhà truyền giáo phụ trách về phần chuyên môn và
về tính chính xác của bản dịch Kinh Thánh. Chính xác, dễ hiểu,mang tính dân tộc là phương châm
được ông bà Cadman đặt lên hàng đầu. Bàn về việc dịch, ông Phan Khôi có lần đã nói: “Tôi đã từng
dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới
quyền hai ông bà mục sư W. Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch,nhưng
dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút
thì bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu, – vì bà biết đến 13 thứ tiếng – để chọn lấy nghĩa
nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5
năm mới thành.Tôi kể việc ấy vào đây để cho thấy người ngoại quốc làm việc dịch kinh, coi là việc
trọng đại lắm, không dám cẩu thả.”[3]. Thế mới biết công việc của hai vị giáo sĩ tiền phong này là lớn
lao dường nào!

Nhà văn Tô Hoài, tuy là người ngoại đạo nhưng cũng đã nhận xét: “Kinh thánh cả Tân ước, Cựu
ước của hội đạo Tin Lành, tôi cũng có đọc. Có chương Nhã ca lời rất thơ”[4].

Đối với các tin hữu trong Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thì cho đến nay, khó có bản dịch nào
thay thế được chỗ đứng của bản dịch năm 1926 trong lòng họ. Nhiều mục sư, tín hữu Tin Lành từ
trước đến nay đã thuộc nằm lòng nhiều câu Kinh thánh bản dịch năm 1926 mặc dù ngày nay văn
phong và từ ngữ trong bản dịch ấy đã lỗi thời, khó hiểu, có nhiều chỗ chưa sát với nguyên bản và
hiện tại có nhiều bản dịch Việt ngữ đi chăng nữa. Hơn 80 năm qua, bản dịch Kinh Thánh với văn
phong của Phan Khôi vẫn còn thịnh hành và được yêu mến đủ trả lời cho giá trị của nó. Bản dịch
Kinh Thánh nầy đã được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Ðức, Hàn Quốc và Việt
Nam. Có thể khẳng định đây là bản Kinh Thánh tiếng Việt được ấn hành và sử dụng rộng rãi nhất
từ trước đến nay.

27


(Ảnh: photos.vnbible.com)
Bà Grace Cadman đang cầm trên tay bản dịch Kinh thánh Tân Cựu ước bằng tiếng Việt đầu

tiên tại Hội đồng các Giáo sĩ năm 1926.
Ngoài việc dịch Kinh Thánh, ông bà còn rất năng nổ trong việc soạn dịch Thánh ca, truyền đạo
đơn, bài học trường Chúa nhật, tài liệu gia đình lễ bái bằng tiếng Việt, tiếng Cam-pu-chia, tiếng Lào,
tiếng Thượng. Chính ông là người sáng lập ra tờ Nguyệt san Thánh Kinh Báo vào tháng 3 năm 1931
theo mẫu tờ Thánh Kinh Báo tại miền Nam Trung Hoa. Đây là cơ quan thông tin, xây dựng tâm linh
và bài học Chủ Nhật của Hội Thánh. Ấn phẩm nầy đã giúp đỡ rất nhiều cho sự tăng trưởng của Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam, gây dựng đời sống thuộc linh cho con cái, tôi tớ Chúa trên toàn quốc. Bà
Cadman còn giúp soạn những bản tin “Tiếng gọi Đông Pháp” bằng tiếng Anh (The Call of French
Indo-China) để làm cầu nối với các tín hữu bên Mỹ, trình bày những diễn tiến của công việc truyền
giáo tại Việt Nam. Cơ sở ấn loát văn phẩm Tin Lành Hà Nội do ông bà thiết lập đã hoạt động trong
30 năm. Trải qua 34 năm chức vụ tại Việt Nam, ông bà đã dùng ngòi bút và công sức của mình để
phục vụ Chúa và đồng loại qua việc dịch và xuất bản rất nhiều văn phẩm Cơ Đốc như đã nói ở trên.
Quả thật, cơ sở ấn loát nầy đã góp phần đắc lực vào việc rao truyền lời Chúa, mang sự cứu rỗi đến
cho vô số linh hồn tại bán đảo Ðông Dương.

28


Ông bà giáo sĩ William C. Cadman và các tín hữu Hà Nội năm 1943.

Một công trình làm mất nhiều thời gian và công sức của giáo sĩ Cadman chính là bộ “Thánh Kinh
Từ điển” bằng tiếng Việt. Đây là bộ sách không thể thiếu được đối với những người muốn tra cứu
học hỏi Kinh Thánh về nhiều đề tài khác nhau.

Tháng 4 năm 1943,nhà chức trách Nhật ra lệnh quản thúc tất cả giáo sĩ Mỹ (chỉ trừ ông bà giáo
sĩ Jêan Funé vì có quốc tịch Pháp) vào một trại binh của Pháp ở Mỹ Tho. Dù bị cầm tù nhưng ông
vẫn dành nhiều thì giờ và công sức để hoàn tất quyển “Thánh Kinh Từ điển” mà ông đã bắt đầu viết
từ năm 1940. Đây tài liệu tự điển về Thánh Kinh duy nhất được viết bằng Việt ngữ từ trước đến
nay. Cuối cùng, quyển từ điển đã được xuất bản lần đầu năm 1951 (in Ronéo) và in Typo tại Đà Lạt
năm 1958. Đến nay, bộ sách này vẫn còn được in lại và sử dụng rộng rãi như là quyển sách gối đầu
giường của nhiều con cái, tôi tớ Chúa trong Hội Thánh Tin lành trên cả nước.

Trong lúc bị người Nhật lưu giữ và giam cầm tại Mỹ Tho, bà Cadman đã 66 tuổi, bị tai biến, từ
đó sức khỏe bà bị yếu dần. Ngày 26 tháng 4 năm 1946, bà về với Chúa, và được an táng ở nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn, hưởng thọ 69 tuổi. Trong điện tín đánh về Mỹ báo tin buồn, ông viết:
“Grace Cadman Trung Tín Cho Ðến Chết”. Thật vậy,bà đã trung tín với Chúa, trung tín trong chức
vụ và trung tín với chồng để làm vinh hiển danh Ðức Chúa Trời.

Năm 1945, sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng minh, chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt,
các giáo sĩ được đưa lên Sài Gòn để về Mỹ. Pháp trở lại Đông Dương chiếm đóng gây đau khổ lớn
cho dân thường. Đa số các giáo sĩ không chịu về nước. Ông bà giáo sĩ E.F. Irwin, ông bà giáo sĩ D.I.
Jêffrêy và ông bà giáo sĩ Cadman tình nguyện ở lại Việt Nam để chăm sóc anh êm tín hữu. Nhưng
đến tháng 11 năm 1945, chỉ còn gia đình giáo sĩ Cadman ở lại Việt Nam. Ông là giáo sĩ độc nhất tại
Việt Nam trong suốt 10 tháng cho đến khi Hội Truyền giáo tiếp tục gởi người trở lại. Ông nói: “Các
anh em trong Chúa ở đây đang gặp hiểm nguy, chúng ta không thể bỏ họ đơn côi, chúng tôi quyết
định ở lại với họ”. Chính ông Cadman đã đi xê đạp vào Nam vượt qua ranh giới giữa Pháp và du kích
Việt Nam để cứu giúp những tín hữu và dân thường bị bắn giết từ cả hai phía. Trong tháng 12 năm
1945 ông đã đi từ Sài Gòn đến Hà Nội giúp đỡ 37 người gồm nam, nữ và trẻ em ở nhà thờ Hà Nội
bị lực lượng Pháp và Việt Minh bắt giữ. Ông đòi gặp sĩ quan chỉ huy Pháp và thuyết phục họ để bảo
đảm quyền tự do cho họ. Sự dũng cảm của ông đã được các cộng sự người Việt ghi nhớ mãi.

29


Một trong những ấn tượng khiến các cộng sự lúc ấy không bao giờ quên được về giáo sĩ Cadman
đó là: Một lần nọ trong trận chiến ác liệt giữa Việt Nam và Pháp năm 1946, quân đội thực dân Pháp
đã xông vào nhà thờ Tin Lành số 2 phố Ngõ Trạm, Hà Nội, trong lúc đó có khoảng 60 tín đồ đang
nhóm lại bên trong. Chúng định bắn vào những tín đồ hiền lành vô tội này thì chính giáo sĩ Cadman
đã đứng chặn chúng lại và nói lớn: “Nếu các ông muốn bắn họ, hãy bắn tôi trước.” Thế là quân giặc
hung hãn đó phải lui bước.

Năm 1947, giáo sĩ Cadman trở về Mỹ nghỉ phép dài hạn. Ông đã lợi dụng dịp nầy để vận động
mua được một máy in mới từ Anh Quốc.

Ngày 26 tháng 4 năm 1948, ông tục huyền với bà Anna G. Kegerize. Lẽ ra ông có thể nghỉ ngơi
sau hơn 30 năm phục vụ ở hải ngoại, nhưng chỉ 2 tháng sau ông bà trở lại Việt Nam, đây là nhiệm
kỳ thứ sáu của ông. Vừa đến Việt Nam, ông bà lên Ðà Lạt để tu sửa, tân trang ấn quán để chuẩn bị
di chuyển nhà in từ Hà Nội về đây. Cũng trong thời gian nầy, ông duyệt lại quyển “Thánh Kinh Từ
điển”, công trình nghiên cứu và biên soạn công phu của ông trong 8 năm qua.

Trong khung cảnh khó khăn của đất nước đang cố gắng phục hồi sau thế chiến thứ hai, ông nói:
“Tôi cảm nhận sự thúc giục trong việc truyền bá sự cứu rỗi cho những linh hồn hư mất...Vì vậy chúng
tôi cố gắng mở lại cơ sở ấn loát Tin Lành... Chúa Jêsus sẽ trở lại, Ngài sẽ trở lại nay mai. Khi đó chúng
ta sẽ mặt đối mặt với Ngài và sẽ nhận được phần thưởng vì đã trung tín hầu việc Ngài... Chúng ta
ngợi khen Chúa,Ngài là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Khi ẩn trú nơi Ngài, chúng ta có được sự
bình yên”. Vào những ngày cuối cùng tại thế, ông tâm sự rằng: “Tôi không xem điều gì là quan trọng
kể cả mạng sống và thân thể nầy để tôi có thể tận hưởng niềm vui trong khi thi hành chức vụ mà tôi
đã nhận từ Ðức Chúa Jêsus để làm chứng về ân điển của Ðức Chúa Trời”.

Ngày 30 tháng 11 năm 1948, trong khi chờ đợi để ra sân bay đi Hà Nội, ông đã trải qua một cơn
đau tim rất nặng trong nhiều giờ. Sau vài ngày nghỉ ngơi, ông tiếp tục làm việc lại.Chúa nhật ngày 5
tháng 12 ông vẫn có thể đến dự buổi hiệp nguyện với các giáo sĩ. Nhưng hai ngày sau đó, vào một
buổi sáng sớm khi đang dùng điểm tâm, thình lình ông ôm ngực, ngã đầu về phía sau và được Chúa
tiếp về lúc 7 giờ 30 sáng,ngày 7 tháng 12 năm 1948, hưởng thọ 65 tuổi, để lại người vợ mới cưới
được 8 tháng, hai người anh và một em gái sinh sống ở Anh quốc.

Phần mộ cụ giáo sĩ Willian Charles Cadman
tại nghĩa trang thành phố Ðà Lạt.
30


Tang lễ của giáo sĩ William C. Cadman được cử hành ngày 8 tháng 12 năm 1948, tại giảng đường
của trường Ðà Lạt. Giáo sĩ Jêffrêy, chủ lễ, mở đầu bằng một bài nói về cố giáo sĩ Cadman bằng tiếng
Mỹ, kế đó ông Ourgaud có một bài rất cảm động bằng tiếng Pháp và mục sư Duy Cách Lâm thay mặt
cho Tổng Liên hội đọc điếu văn ghi ơn người đã tận tụy hy sinh cho công cuộc truyền giáo tại Việt
Nam từ buổi ban đầu. Bệnh viện Ðà Lạt cung cấp một xe hồng thập tự, xê được trang hoàng bằng
những vòng hoa rất đẹp và mang di hài người quá cố đến nơi an nghỉ. Buổi lễ cử hành đơn sơ, đầy
cảm động dưới bầu trời giá buốt của Ðà Lạt vào tháng 12.Phía dưới mộ bia của ông có đề “NGƯỜI
TRUNG TÍN CHO ÐẾN CHẾT”.

Ông bà giáo sĩ Cadman đã dâng trọn cuộc đời để truyền giảng Tin Lành tại Việt Nam. Chẳng
những thế, ông còn để lại di chúc hiến toàn bộ tài sản của mình cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
Mục sư Hội trưởng Lê Văn Thái đã phải vận động chính phủ miễn giảm thuế cho khoản tiền này để
dùng vào việc xây cất Cô nhi viện Hòn Chồng, Nha Trang trên mảnh đất 18 mẫu với sự giúp đỡ của
Hội Bảo trợ Nhi đồng Quốc tế.Cơ sở nầy được khánh thành vào ngày 4 tháng 9 năm 1953 và bắt
đầu nuôi dưỡng 27 em cô nhi, con của mục sư, truyền đạo, và 11 em cô nhi, con của tín hữu. Sau đó
là trường Trung Tiểu học Bết-lê-hêm và trường dạy nghề cũng trong khuôn viên của Cô nhi viện.

Trong những năm tháng phục vụ Chúa và tha nhân ở xứ người, giáo sĩ Cadman luôn luôn khiêm
nhường nói rằng: “Nếu tôi sinh ra được làm người Việt Nam thì chắc chắn chức vụ của tôi kết quả
hơn”. Thêo hồi ký của MS Bùi Hoành Thử, ông bà Wm.C. Cardman thuộc số ít những giáo sĩ từng
tuyên bố: “Tôi là người Việt Nam, nước Việt Nam là tổ quốc thứ hai của tôi…” và họ sống,hành động
như vậy cho đến khi qua đời và an nghỉ tại Việt Nam - “NGƯỜI TRUNG TÍN CHO ÐẾN CHẾT”.

(Ảnh: photos.vnbible.com)
Hàng trước từ trái sang: William Cadman với bé Agnes Elizabeth, Grace Cadman, Robert A.
Jaffray, Marie Irwin, EF Irwin với George. Hàng sau: Richmond Jackson, Marion Foster, Irving
Stebbins, Hartman Mary (Stebbins), John D. Olsen (Ảnh chụp tháng 11 năm 1918 tại Tourane - Đà

Nẵng).
31


(Ảnh: photos.vnbible.com)
Ông và bà William Cadman tại Hà Nội năm 1936..

Hoài Thương

32


Mục sư LÊ KHẮC CHẤN

(1896 – 1977)

(Ảnh: Album gia đình)
Cụ Mục sư Lê Khắc Chấn sanh năm 1896 tại làng Phước Thiện Xuân, quận Hàm Thuận, tỉnh
Thuận Hải.
Thân phụ cụ theo Khổng giáo và cả gia đình đều mộ đạo. Cụ được giáo dục chu đáo nên sau khi
thi đậu thì được bổ nhiệm làm Giáo học. Sau 13 năm trong nghề, Cụ cảm thấy trong tâm hồn không
được yên tĩnh, cụ bèn từ chức để đi tu. Cụ đã đến chùa ở núi Tà Cú, tỉnh Thuận Hải để tu luyện, hầu
mong được cứu rỗi linh hồn. Nhưng sau bao năm ép xác khổ tu, cụ vẫn không được bình an trong
tâm hồn, nên thất vọng trở về với gia đình lo việc kinh doanh, về sống lại cuộc đời trần tục. Dầu
cuộc sống vật chất có sung túc, nhưng cụ vẫn đau đớn, khắc khoải trong tâm hồn, luôn khao khát
tìm gặp Đấng Cao cả, Chủ tể của trời đất muôn vật.
Bởi ân Thần hựu, cụ gặp được một tín hữu Tin lành, người nầy cắt nghĩa cho cụ về Chúa Giê-xu
là Đấng Tạo hóa, và tặng cho cụ quyển Chân Giả Luận. Cụ say mê đọc sách ấy và đến nghe giảng Tin
lành ở nhà thờ Phan Thiết. Sau cụ được Mục sư Ông Văn Trung cắt nghĩa cặn kẽ về Tin Lành và cho
cụ mượn quyển Kinh Thánh để nghiên cứu. Sau ba tháng tìm biết Chúa thì ngày 12.05.1935, cụ
bằng lòng tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của mình và tôn thờ Đức Chúa Trời Ba ngôi,
Đấng sáng tạo và bảo tồn muôn vật, cùng ban sự cứu rỗi cho nhân loại trong Cứu Chúa Giê-xu. Sau
đó chẳng bao lâu, cụ bà cũng tin Chúa vào ngày 21.07.1935. Hai cụ đi dự Hội đồng ở Phan Thiết rồi
cùng chịu báp-tem trong kỳ Hội đồng đó.
Từ đó, cụ cảm thương đến những linh hồn bị hư mất, nên đã để nhiều thì giờ cầu nguyện và
chứng đạo. Cụ đi từ nơi nầy đến nơi khác để bày tỏ về Tin lành cứu rỗi và phát sách. Chúa đã dùng
Cụ cem nhiều người về với Ngài.

33


Theo ý chỉ và sự lựa chọn của Chúa, thì Ngài đã muốn dùng cụ vào thánh chức đặc biệt làm
người giảng Tin lành. Nghe Chúa gọi, cụ không dám bàn với thịt và huyết nhưng vội vã vâng ý Chúa,
dâng đời mình để phục vụ Ngài.

Cụ ghi tên nhập học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng niên khóa 1936 - 1937, rồi được bổ chức đến
phục vụ Chúa tại Tuy Hòa. Tại đây mới bước đầu trong chức vụ, cụ đã hết lòng phục vụ Chúa và
giáo hội, đêm nhiều người về với Chúa và mở Hội thánh Chúa tại Hòa Xuân.

Cụ trở lại Trường Kinh Thánh năm thứ hai khóa 1938 - 1939, rồi lại ra phục vụ Chúa, dắt đêm
nhiều người nữa về với Ngài, số người tin Chúa ít nhất là 700 người.

Lần thứ ba, cụ trở lại Trường Kinh Thánh học, tốt nghiệp khóa 1940 - 1941. Sau khi tốt nghiệp
cụ được Hội Thánh Nha Trang mời đến hầu việc Chúa và được tấn phong Mục sư vào ngày
03.09.1943 tại Hội đồng Tổng Liên Hội ở Sài Gòn.

(Ảnh: photos.vnbible.com)
Liên tiếp trong bốn khóa, từ năm 1942 - 1950, cụ đã tận lực gây dựng Hội Thánh lên hàng tự trị
và giảng Tin Lành tại khu vực Cù Lao, Nha Trang - Thành; rồi nuôi dưỡng hai Hội Thánh nầy ngày
một lớn mạnh.
Năm 1950 - 1952, Hội Thánh Phan Rang mời Cụ đến hầu việc Chúa. Tại đây cụ cũng hết lòng
gây dựng Hội thánh và đêm Tin lành đến khu vực Tháp Chàm. Điều cụ thỏa lòng là được trở về Hội
thánh quê nhà là Phan Thiết, suốt bốn khóa, từ năm 1952 - 1961, cụ làm vững mạnh Hội Thánh,
thiên di nhà thờ đến một địa điểm tốt đẹp, và mở Hội Thánh nhánh Phú Long, rồi đêm Tin Lành
đến đảo Phú Quý.
Vì tuổi cao sức yếu,nên cụ đã đưa đơn xin hưu trí năm 1961. Dầu về trí sự, cụ vẫn tìm hết cách
hầu việc Chúa. Như cộng tác với Chẩn Y viện Tin lành rao truyền Tin lành cho bệnh nhân, an ủi
những tâm hồn khổ đâu.
Cụ Mục sư Lê Khắc Chấn đã nghỉ yên trong Nước Chúa vào lúc 14 giờ 50’, ngày 28.07.1977 tại
tư gia ở Vĩnh Phước, Nha Trang. Hưởng thọ được 82 tuổi.

34


Cụ có thể nói như Giô-suê: “Ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va”. Cụ có bốn con: 3 trai và 1
gái, 22 cháu nội và 3 chắt nội. Con trưởng của cụ là cựu Truyền đạo Lê Khăc Dương, hiện làm thư
ký Hội thánh Vĩnh Phước. hai con trai sau là Mục sư Lê Khắc Cung, truyền giáo tại Ban Mê Thuột;
Mục sư Lê Khắc Tuyển hầu việc Chúa tại Bảo Lộc. Người con gái là cô Lê Thị Kế đã học Trường Kinh
Thánh để phục vụ Chúa, và đã về với Chúa năm 1959. Tất cả con cháu cụ đều tôn thờ Chúa và sốt
sắng hầu việc Ngài.

Trong đời chức vụ, cụ cũng đã làm một số bài thi và đây là một:
HỌC CHO BIẾT CHÚA

(Bài nầy Cụ đã cảm tác để chúc mừng lớp Thánh Kinh Mùa Hè của Ban Thiếu nhi Hội Thánh
Vĩnh Phước)

Người đời có học mới nên khôn
Học chữ, học nghề đủ các môn
Phú quý vinh ba đời cảnh tạm
Học cho biết Chúa mới trường tồn
Muốn đem ơn cứu cho người khác
Phải học biết Ngài Đấng Độc tôn
Thập giá chết thay người thế hạ
Giê-xu sống lại cả thân hồn
Đi trước đến nơi Chúa dự ngôn
Gặp mặt Thầy trò lòng hớn hở
Nghe lời dạy dỗ dạ bồn chồn
Phải đi làm chứng cho người khác
Tại chốn thị thành khắp xã thôn
Biết chúa Giê-xu là Đấng sống
Cứu người tin cậy cả thân hồn.
Cụ Mục sư Lê Khắc Chấn về nghỉ yên trong Nước Chúa để lại cho chúng ta gương hi sinh, tận
tụy, trung kiên phục vụ Chúa. Chúng ta hãy noi gương cụ để phục vụ Chúa, Hội thánh. Cụ ra đi để
lại cho cụ bà, tang quyến và Hội thánh với vô vàn thương tiếc.
Cụ Mục sư Lê Khắc Chấn đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin, và hiện nay Chúa Giê-xu phán
với cụ: “Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm. hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi”.
MS Lưu Văn Giáo
(Bài đọc trong lễ tang cụ MS Lê Khắc Chấn – 1977)
MS Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 5-8.

35


Mục Sư LÂM VĂN CHÍ

(1910 – 1998)
MỘT ĐỜI TẬN HIẾN

(Ảnh:Album gia đình)
TÓM TẮT
- Mục sư Lâm Văn Chí sinh năm 1910 tại Châu Đốc.
- 5 - 12 tuổi, học chữ Nho.
- 13 tuổi học chữ quốc ngữ và tốt nghiệp Primairê năm 18 tuổi.
- 1928 – 1930, làm giáo viên dạy chữ quốc ngữ từ.
- Giữa năm 1930 được Chúa kêu gọi dâng mình hầu việc Chúa và vào học tại trường Kinh Thánh
Tourancê (Đà Nẵng).
- 1932-1934 tập sự ở tàu Tin Lành do Mục sư Huỳnh Văn Ngà đảm trách.
- 1934 lập gia đình,sau đó quay trở lại trường Kinh Thánh học tiếp.
- 1936, tốt nghiệp bắt đầu chức vụ truyền đạo.
- 1938, thụ phong Mục sư.
- 1998, qua đời sau 68 năm hầu việc Chúa và trải qua 17 Hội Thánh.
Ông có 8 người con,thường hay quây quần để nghe những câu chuyện lý thú từ ông bà.
Câu chuyện bắt đầu từ một cây cổ thụ có tuổi thọ 150 năm (1860-2010), có thân thẳng tắp với
tám đoạn trong cùng một đức tin: “Tôi tin Chúa Giê-xu, Đấng Cứu Thế của nhà họ Lâm (từ ông Sơ,
ông Cố, ông Nội, đến Cha (Ms Lâm Văn Chí), tôi, con tôi, cháu tôi, chắt tôi)”. Tôi không có tham vọng
viết ra để khoe khoang thân thế gia đình. Tôi chỉ có một mông mỏi khi viết, là làm chứng lại cho
dòng dõi hậu tự nhà họ Lâm rằng:Các con, các cháu, chắt đã được sinh ra trong gia đình tin kính,
hãy cảm tạ ơn Chúa về phần thường vô giá này mà Đức Chúa Trời đã dành cho họ tộc. Hãy sống
xứng đáng, và nôi gương ông cha mà làm sáng danh Đức Chúa Trời. Hãy trả ơn Chúa bằng cách hết
lòng phục vụ Ngài thêo cách đáng phải có của mình.
Ngày 28-8-1998 là ngày tiễn đưa cha tôi là Ms Lâm Văn Chí về nước Chúa để sống phước hạnh
với Ngài và cũng để đoàn tụ với mẹ tôi cùng các vị cao tổ của Lâm gia. Bây giờ,tôi, một đứa cháu của

36


Lâm gia xin ghi lại một số điều để góp lời làm chứng về sự chăm sóc vô cùng yêu thương và sự
thành tín lạ lùng của Đức Chúa Trời đối với Lâm gia này.

CÂU CHUYỆN CỦA NHÀ HỌ LÂM

Vào khoảng 1860 có một nhóm người Hoa từ Trung Hoa vượt biên giới sang Việt Nam sinh
sống. Trong đó có một người họ Lâm khoảng 30 tuổi. Ông chọn vùng sông nước Châu Đốc (Nam
Việt) để định cư. Hành trang mang thêo để lập nghiệp là mấy bức tượng bằng đồng và vài cuốn kinh
Phật. Cuộc sống của ông ở đây ngày càng phát đạt. Vùng đất màu mỡ,phù sa kia đã hào phóng ban
tặng cho gia đình ông cuộc sống giàu có và trở thành phú ông giàu có nhất vùng. Người dân Việt rất
ít, rất mộc mạc, hiền lương. Ông nghĩ, ông đang ở xứ Việt thì phải giúp người Việt gì đó để gọi là trả
ơn. Thế là ông xây Chùa, miễu từ Châu Đốc, Tân Châu dài xuống Cái Dầu, Bình Mỹ.Ông nói cất chùa
không phải là truyền đạo Phật mà cái chính là trả ơn “chủ đất”,để ai thích thì đến nghe ông thuyết
giảng về Phật, về Khổng. Đồng thời, ông cũng mở trường để dạy chữ Nho. Ông thường nói: “Gia đình
ta có cái gì thì chủ đất phải có cái đó, đó mới là tình người”. Kỳ lạ một điều là ông thuyết giáo, dạy
đời,dạy chữ cho người mà lòng cứ bất an, buồn bã. Cảm giác này không phải là nhớ về cố hương mà
nó như có một khoảng trống trong lòng và mỗi ngày nó lớn hơn, to dần ra đến nỗi ông phải tìm đến
các đồng hương để giải tỏa.

Một ngày nọ, có một đồng hương từ Thái Lan đến thăm, ông kể hết nổi lòng của mình cho bạn
nghê. Người bạn ông bảo: “Nếu tâm đạo không còn nữa thì khổ lắm, hay là sang Thái đi, bên đó có
ông tây giảng đạo Kitô hay lắm. Mỗi lần nặng nề trong lòng, tôi hay đến ông ấy để giải tỏa”.

Thế là ông cùng người bạn ấy sang Thái để tìm đạo bình an. Ông được giới thiệu đến một linh
mục người Pháp ở nhà thờ Công giáo. Sau khi nghe ông kể về thân thế và niềm tin của mình,vị linh
mục khên: “Ông đúng rồi, ông là người có tâm đạo rất lớn. Ông thờ Phật là đúng rồi, nhưng mới
đúng có một nửa thôi, bởi vì trên Phật còn có một Đấng cao hơn. Đó là Chúa Trời, nếu ông tin và
thờ Chúa Trời thì ông đúng trọn mười điểm”. Sau nhiều ngày trao đổi, ông vui lòng tin theo Công
giáo, nhưng khi nhìn thấy bức tượng bà Mari bế Chúa Giê-xu thì ông lại thắc mắc. Sau khi từ giã linh
mục trở về Việt Nam, ông lại buồn thêm. Ông nghĩ lại: “Ta đã từng cầu xin với Phật bà, nay lại rước
thêm một Chúa mẹ nữa để làm gì? Có khác gì nhau đâu. Chẳng lẽ trên đời nầy chỉ có đạo đàn bà thôi
sao. Đời sống ta quá phủ phê rồi, còn tâm hồn ta bất an thiếu thốn, ta phải làm sao?”

Đầu năm 1911, có một đồng hương từ Chợ Lớn đến thăm và cũng được nghe ông giải bày tâm
trạng của mình. Người đồng hương này bảo: “Ông xuống Sài Gòn đi, nghê đâu có một ông người Mỹ
mới đến giảng Đạo Trời hay lắm”. Ông lại một lần nữa đi tầm đạo và ông gặp được vị giáo sĩ đầu
tiên đến Sài Gòn. Ông nghe giảng về Chúa Giê-xu, nghê đọc Kinh Thánh. Mỗi câu Kinh Thánh là một
dòng suối mát chảy vào lòng ông. Chúa Giê-xu đã xuống thế gian để tìm người, cứu người, chữa
bệnh cho người, chớ không phải như Phật ngồi một chỗ để tu luyện, chỉ có lời yêu thương mà không
có hành động yêu thương. Ông rất vui mừng vì đã nghê được sự bình an của Chúa Giê-xu đang cuồn
cuộn chảy vào lòng. Ông thấy mình tràn đầy niềm vui sống,không còn thiếu thốn buồn tẻ nữa. Và
ông đã tin Chúa Giê-xu.

Ông quay về Châu Đốc bàn giao hết chùa miễu cho người khác rồi cùng cả gia đình tin nhận
Chúa Giê-xu. Thế là từ năm 1911 tại Châu Đốc đã có được hột giống “Tin Lành”. Tuy chưa có Kinh
Thánh, cũng không có sách bồi linh bằng tiếng Hoa, nhưng ông rất nhớ câu Kinh Thánh Gi 3:16, mười
điều răn, IGi 2:25 mà giáo sĩ đã dạy cho ông.Từ đây, ông và gia đình cố gắng thay đổi nếp sống qua
câu Kinh Thánh IGi 4:17: “Nầy vì sao mà sự yêu thương được nên trọn vẹn trong chúng ta, hầu cho

37


chúng ta được lòng mạnh bạo trong ngày xét đoán, ấy là Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong
thế gian nầy”.

Ông không còn lên núi Sam thuyết giáo nữa, nhưng ông làm chứng đạo của Chúa Giê-xu. Ông
mở rộng trường ở nhà để dạy chữ Nho và giảng Kinh Thánh thêo các câu mà ông được học,chẳng
bao lâu có nhiều người tin Chúa nhất là đồng hương của ông.

Khoảng 1915, ông lập Hội Thánh Tin Lành Châu Đốc. Ông có rất nhiều con, cháu. Trong số các
con của ông, có một người về Bình Mỹ (cách Châu Đốc 25 Km) thêo hướng Long Xuyên để lập nghiệp
năm 1920. Người này khai khẩn đất lập lên một Lâm gia trang, mở trường dạy chữ Nho, đồng thời
làm chứng đạo. Không bao lâu sau, có rất nhiều người tin Chúa. Người này dâng đất và tự cất lên
một nhà thờ tại Bình Mỹ. Nhà thờ được cất theo kiểu nhà sàn, lợp ngói đỏ. Ngôi nhà thờ nầy có mấy
đời Truyền đạo nhưng tôi chỉ nhớ hai Truyền đạo: Truyền đạo Nguyễn Văn Tống và Truyền đạo
Trần Bĩ Bê. Đến năm 1945 có một biến cố lớn xảy ra và Truyền đạo Trần Bĩ Bê đã tuận đạo một
cách đau đớn. Ông bị chôn sống.

Lâm gia ba đời làm thầy dạy chữ nho, đến đời thứ tư có thêm chữ quốc ngữ, đó là đời của cụ Ms
Lâm Văn Chí. Năm 1930, gia đình họ Lâm nầy có một người con út thứ chín đi học trường Kinh
Thánh Tourane. Câu chuyện của cụ cố Ms Lâm Văn Chí bắt đầu từ đây.

CUỘC ĐỜI - CHỨC VỤ

Cuộc hôn nhân lạ lùng (giai ngẫu tự thiên thành).

Sau hai năm tập sự trên tàu Tin Lành, ông được gợi ý lập gia đình để tháng 8 năm 1934 có thể
tốt nghiệp ra hầu việc Chúa tại các Hội Thánh. Theo tôn chỉ của nhà trường, các Truyền đạo sinh
nên lập gia đình vào năm tốt nghiệp, để các cô Truyền đạo có cơ hội đến trường Kinh Thánh học và
có thể làm trọn chức vụ vợ của một chủ tọa Hội Thánh.

Đầu năm 1930 Hội Thánh Châu Đốc có một lễ đặc biệt, các Hội Thánh lân cận đều đến tham dự,
trong đó có Hội Thánh Long Xuyên do cụ giáo sĩ Carlson dẫn dắt. Ban hát của Hội Thánh Long Xuyên
có cô K đàn và hát rất hay, cũng là hoa khôi của Hội Thánh, ông để ý đến cô. Lúc nầy ông chưa đi
học trường Kinh Thánh, ông tìm hiểu thì biết cô học rất giỏi, đã đậu bằng Primaire, là cháu ngoại út
của vị hương cả ở làng Trà Ôn thuộc tỉnh Long Xuyên. Cô thuộc vào hàng tiểu thư lúc bấy giờ và
ước nguyện sẽ lập gia đình với người đi hầu việc Chúa vì cô rất yêu mến Chúa.

Đã nhiều lần bên nhà ông nhờ mai mối, nhưng không được, vì ông ngoại cô chỉ bằng lòng gả cô
cho một đốc học thôi. Ông nghĩ: sẽ tìm ở đâu được một cô theo tây học, đàn hay, hát giỏi lại đẹp như
thế.

Đúng lúc nầy, ông bị bắt lính (lính lê dương). Thủ tục nhập ngũ đã xong, còn chờ ngày lên tàu
sang Pháp. Hình ảnh quê hương của ông là ở trong cô ấy, bây giờ ông sắp mất quê hương rồi! Ông
buồn lắm, trước ngày xuống tàu, phải khám sức khỏe lại lần cuối.Ông bị loại vì “không đủ kí-lô”. Cả
gia đình mở tiệc ăn mừng. Trong bữa tiệc,ông cố của ông nói: “Thằng Út không đi lính Tây thì phải
đi lính Chúa!”. Từ đó mỗi ngày, ông được ông cố, ông nội, cha nhắc nhở việc đi học trường Kinh
Thánh.Và đến tháng 8 năm 1930, ông bắt đầu vào học trường Kinh Thánh.

Khi học xong năm thứ hai, ông bạo gan nhờ mai mối lần nữa, cũng không được. Ông đi thực tập
ở tàu Tin Lành xong, các cụ Mục sư hối ông lập gia đình và nhà trường cũng vậy. Ông được mai mối
cho một cô con của một tín hữu ở Hội Thánh Chợ Mới gần Hội Thánh Long Xuyên: Cô hai N. Vào
thượng tuần tháng 7 năm 1934, ông đến Hội Thánh Chợ Mới giảng, tính cách như Hội Thánh kén

38


rễ vậy. Sau khi giảng xong, Hội Thánh và gia đình cô hai N. đồng ý chọn ông làm rễ. Ngày thành hôn
được định vào hạ tuần tháng 7.

Sáng sớm ngày 7 tháng 7 năm 1934 là ngày cưới của ông. Gia đình ông đi chiếc Traction[5] đến
Chợ Mới. Từ nhà qua Chợ Mới phải đi ngang qua Trà Ôn. Thật lạ lùng làm sao mà mãi cho đến về
sau ông cũng không hiểu được, cha ông đang ngồi trong xê, mà xê đang chạy (không nhanh lắm)
ông Út Giáp, chấp sự Hội Thánh Long Xuyên là cậu út của cô K. nhìn thấy và gọi lớn:

- Ânh Giáo! Ânh Giáo đi đâu vậy…?

Cha ông dừng xe lại trả lời: - Tôi đi cưới vợ cho thắng út C.

Ông Út: - Cưới ai?Con ai vậy? Ở đâu?

- Cô hai N., con ông D. ở Hội Thánh Chợ Mới.

- Thôi đi chi cho xa, vô đây, tôi nói anh chị Sáu gả con út K. cho thằng út C.

Cha ông ngạc nhiên:- Anh nói gì? Ông Cả đâu bằng lòng. Anh chị Sáu làm gì gả được?

Ông út cười: - Tôi làm được!

Sau khi hội ý với ông xong, cha ông cho xê quay đầu lại vào ngõ Trà Ôn, đi thẳng vào nhà cụ Cả.
Mọi sự lúc đó không hề dễ chịu chút nào, vì bên nhà cụ Cả không ai hiểu biết chuyện gì, nhất là cô
K. Mọi sự diễn ra theo sự sắp xếp của ông Út (là con út của ông Cả). Như một giấc chiêm bao, suốt
đời ông và nay đã 88 tuổi, ông đã từng kể đi kể lại cho con cháu nghe mà ông vẫn nghĩ việc hôn
nhân của ông là một chuyện lạ khó tin nhưng có thật.

Ngày 28 tháng 7 năm 1934 lễ thành hôn của ông được cử hành thật long trọng do cụ Giáo sĩ
Carlson chủ lễ. Sau ba ngày chào hỏi hai họ, ông bà lên đường đến trường Kinh Thánh. Thật là có
“một người vợ khôn ngoan do nơi Đức Giê-hô-va mà đến” (Ch 19:14). Ông không còn biết nói gì nữa
để tạ ơn Chúa.Cuộc đời ông kết hôn với bà rất có ý nghĩa.

Tháng 8 năm 1934 hai ông bà vào trường học để chuẩn bị cho việc tốt nghiệp. Khi hai ông bà
vào trường thì bà được ưu ái hơn các bà khác vì bà rất giỏi Kinh Thánh, lại rất xinh đẹp.Bà học
chung lớp với các ông và môn học nào của cụ Đốc học Ông Văn Huyên cùng các vị giáo sư khác cũng
được 100 điểm. Bà đàn phong cầm cho Thần Học Viện, bà có giọng kim cao vút. Đặc biệt bà rất tốt
với mọi người đến nỗi đôi lúc làm ông khó chịu. Ông thấy mình có phước biết bao, thật như Kinh
Thánh lời Chúa “ai tìm được một người vợ, tức tìm được một điều phước” (Ch 18:22). Ông chăm chỉ
học hành vì vợ ông quá giỏi mà ông không giỏi thì khó coi lắm! Bấy giờ, tennis là một môn thể thao
mà ông yêu thích, ông không còn bỏ giờ học bài để đi chơi tênnis với các cô giáo sĩ nữa. Ngày tốt
nghiệp đến, ông vui mừng nắm lấy tay bà nhận bằng tốt nghiệp, ông chia sẻ cùng các bạn: Bằng tốt
nghiệp nầy là có một nữa của bà Lâm Văn Chí đấy.

Hội Thánh thứ nhất: Hỏa Lựu (Vị Thanh) (1934-1938)

Sau gần hai năm tập sự trên tàu Tin Lành do cố Mục sư Huỳnh Văn Ngà đảm trách. Thời gian
nầy ông theo tàu với nhiều anh em Truyền đạo sinh của trường Kinh Thánh rất vui vẻ.Cùng nhau
đi làm chứng, phát sách, có khi cụ Ngà cho ông giảng, và ông cảm thấy rằng mình thật sự là người
được biệt riêng. Đồng thời, ông cũng được đi nhiều nơi trong đất nước, tất cả các tỉnh nào ở miền
nam có sông nước là có tàu đến.Ông vừa làm việc Chúa, vừa thưởng thức cảnh thiên nhiên mà Đức
Chúa Trời dựng nên để ban tặng cho con người trong đó có ông. Ông thường nói rằng: “Chúng ta

39


thuộc binh chủng hải quân của Đức Chúa Trời”. Những ngày làm “lính thủy nhưng đánh bộ” nầy
tuyệt vời làm sao.

Đến cuối năm 1934,ông được bổ đến tập sự ở Hội Thánh Hỏa Lựu, nay gọi là Vị Thanh. Nơi đây,
lần đầu tiên Chúa cho phép ông xây dựng một đền thờ cho Chúa, một đền thờ bằng gỗ,nhưng phải
nói rằng đây là một điều đặc biệt mà Chúa đã dành cho, công tác mà xưa kia vua Đavit vĩ đại hằng
ao ước mà không được.

Ông gây dựng Hội Thánh với vốn kinh nghiệm ít ỏi của một Truyền đạo tập sự. Một Hội Thánh
non trẻ với một thầy Truyền đạo non trẻ, nhưng đầy nhiệt huyết. Mỗi ngày ông cầu nguyện kêu xin
Chúa Thánh Linh đồng công và Ngài đã đồng công với ông suốt thời gian thực tập. Hội Thánh mở
mang, các tín hữu chất phác, thật thà ấy đã gắn kết ông bà lại với họ bằng sợi dây chân tình, xích
yêu thương.

Cuối năm 1935 ông bà trở về trường Kinh Thánh để tốt nghiệp. Tốt nghiệp xong, ông bà xin với
Tổng Liên Hội cho trở lại Hội Thánh Hỏa Lựu một khóa nữa.

Hội Thánh mới thành lập, con cái Chúa rất nghèo, lâu lâu ông mới nhận được một đồng. Bà lấy
ra một cắc để đi chợ, mãi đến cuối tuần ông hỏi sao không lấy tiền đi chợ thì bà cười bảo: “Tôi đi
chợ, mua cá, mua rau, trả tiền nhưng họ không lấy, bảo biếu thầy cô ăn lấy thảo, nên một cắc vẫn
còn nguyên đây!”. Tạ ơn Chúa vì “người giảng Tin lành nuôi mình bởi Tin lành”.

Hội Thánh thứ nhì: An Thái Đông (An Hữu) (1938-1940)

Năm 1938, ông được thuyên chuyển đến Hội Thánh Ân Thái Đông, Cổ Cò, nay là An Hữu. Nơi
đây đã có sẵn nhà thờ, hai ông bà chỉ phục sự Chúa với lòng an bình. Con cái Chúa nơi đây đơn sơ,
giản dị, họ yêu kính Chúa, thể hiện qua lòng yêu thương đầy tớ Chúa. Công việc Chúa mỗi ngày tấn
tới vui vẻ. Có các ông Hiển, ông Giáp, ông Ất là những vị cao lão cột trụ của Hội Thánh. Họ hết lòng
cùng tôi tớ Chúa phục vụ Ngài. Tuy rằng,ông chỉ là Truyền đạo trẻ, nhưng Hội Thánh vẫn quí mến
tôn trọng hết mực, chức vụ của ông bà cũng suông sẻ như ở Hội Thánh Hỏa Lựu. Ông rất quan tâm
đến việc chứng đạo. Ông thành lập ban chứng đạo, tổ chức các lớp chứng đạo. Những bài học thực
tế về chứng đạo mà ông đã nhận được từ tàu Tin Lành, ông đêm áp dụng vào Hội Thánh Chúa và
kết quả là có nhiều người gia nhập vào Hội Thánh.

Tuy công việc Hội Thánh rất tốt, phát triển theo chiều hướng thuận lợi, nhưng ông có một lo
nghĩ trong lòng: Vợ ông vốn là một tiểu thư của một danh gia, nay sống với một Truyền đạo thanh
bần, dù nhà ông cũng giàu có không kém gì bên nhà bà, sẵn lòng giúp đỡ,nhưng ông quyết định làm
lính của Chúa Giê-xu thì phải lãnh lương của Chúa. Ông rất đau lòng khi thấy bà nhà sống rất đơn
giản dưới mức trung bình. Ông bèn đêm điều này hỏi bà. Bà trả lời một câu làm nâng đỡ ông cả đời
“Thầy an tâm, tôi đã chọn làm đầy tớ cho Đức Chúa Trời một cách tận tụy, trung thành, tôi không
cần tiền lương, tôi rất vui khi được cùng thầy chia sẻ mọi nỗi nhọc nhằn trong chức vụ”. Ông tạ ơn
Chúa và cảm ơn bà biết bao. Ông nghĩ nếu ông là vua Sa-lô-môn,có thể ông sẽ làm bao nhiêu câu
Châm ngôn để tặng bà.

Hội thánh thứ ba, thứ tư: Bình Đại và Lộc Thuận (1940-1942)

Hội Thánh Bình Đại thuộc vùng biển, khá xa Ân Thái Đông, Cổ Cò. Chúa đưa ông đi đâu, thì ông
đi đến đó vì ông là lính của Đức Chúa Trời. Chiến trường nào cần, ông đều sẵn sàng có mặt, hơn nữa
bên cạnh ông còn có bà, một người bạn đồng hành luôn sẵn lòng cùng ông ra trận như một người
lính giỏi.

40


Nhà thờ rất đơn sơ bằng cây lá. Hằng ngày ông nhìn ngôi đền thờ mà lòng buồn rười rượi. Ông
cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn làm vinh hiển danh Chúa tại đất này, xin Chúa cho phép
con được dự phần với Ngài bằng cách cất lên một ngôi đền thờ tốt đẹp hơn,chúng con muốn làm
sáng danh Ngài”. Hai ông bà luôn cầu xin về việc nầy, nhưng mãi đến lúc hết nhiệm kỳ ông vẫn chưa
được Chúa cho phép. Hội Thánh rất nhỏ, mà tín hữu lại ở rải rác xa, nên việc thăm viếng chăm sóc
rất khó khăn. Nếu đi thăm thì phải đi từ sáng sớm đến gà gáy nửa đêm mới về tới nhà. Lúc nầy ông
lại kiêm cả Hội Thánh Lộc Thuận. Tuần này ở Lộc Thuận thì tuần sau ở Bình Đại, lúc nào ông đi thì
bà thay thế. Dầu một lúc ông kiêm nhiệm hai Hội Thánh, nhưng công việc vẫn chạy tốt, cứ Bình Đại
có tổ chức gì, chương trình gì thì Lộc Thuận cũng giống như vậy.

Hội Thánh ở gần biển nên nước sinh hoạt ăn uống phải tùy thời tiết, nước mưa chỉ dùng để
uống, giặc giũ thì dùng nước giếng. Vì vậy gia đình ông luôn xảy ra những chuyện dở khóc,dở cười.
Ông kể: - Có một hôm nhà còn rất ít nước mưa, nên bà nấu canh bằng nước giếng. Ông nhìn bà nấu
canh đang nêm muối nên đùa: “Cô Chí, nấu canh bằng nước sông thì đừng nêm muối!” Bà giật mình
quăng muỗng muối đang cầm trên tay vào nồi canh. Chúng tôi được một trận cười no bụng và sau
đó cùng nhau thưởng thức “tô canh kho”, mãi sau này chưa từng thấy trong sách ẩm thực Việt Nam
nào có nón canh kho như vậy.

Tại Hội Thánh Bình Đại và Lộc Thuận nầy, ông có một kỷ niệm không quên: Một lần ông đi thăm
một số tín hữu rất xa, trên đường đi ông ghé rất nhiều nhà, gần đến nhà cuối cùng thì đã nửa đêm.
Ông đi bằng xê đạp trên đường, và ông cứ nghe có tiếng thở phì phò của một con trâu to. Ông quay
lại nhưng không thấy gì cả. Nhưng khi đi thì tiếng thở ấy cứ theo sát ông. Ông cứ đi thì thấy một
người đàn bà đi cùng chiều, ông đạp xê vượt qua, và lại nghe tiếng thở đó. Lần này ông dừng xe
đứng ngoái nhìn lại phía sau thì thấy một con trâu thật to, mập mạp với đôi sừng cong vút đứng
nghinh ông. Ông bình tĩnh lên xê đạp chạy tiếp, lòng chẳng suy nghĩ gì. Khi đến nhà người tín hữu
kia, ông kể lại cho họ nghe. Họ run sợ bảo ông: “Thầy là con của Chúa, thầy là thầy giảng đạo Chúa,
Chúa gìn giữ thầy. Thầy ơi! Đó là con quỷ,ai gặp nó về nhà cũng chết. Nhóm xong, Thầy ở lại đây
nghỉ, sáng mai hãy về”.Sau khi nhóm cầu nguyện xong đã quá nữa đêm, ông từ giã mọi người ra về,
thì tất cả đều nắm xe lại và sợ hãi nói: “Thầy đừng đi, nguy hiểm lắm! Con quỷ nó sẽ làm hại thầy”.
Ông nghĩ: “Mình là Truyền đạo, đầy tớ Đức Chúa Trời, mình đạo của Chúa Giê-xu mà lại sợ con quỷ
đó sao”. Ông vẫn từ giã họ, đạp xe ra về. Đi một đoạn thì thấy lại cảnh đó, ông vẫn cứ đạp xe. Ông
nghĩ nếu nó lại gần, ông sẽ xuống xe, nắm chiếc xê đạp lên và quăng thẳng vào mặt nó với lời nhân
danh Chúa Giê-xu. Ông cứ suy nghĩ và có phần mỏi mệt trong người, lúc này trời lại đổ mưa thật
lớn. Ông cứ đạp xe và con trâu ấy vẫn cứ thêo sau, nhưng không lại gần.Ông cảm biết mình bị sốt,
đầu đang rất đau. Ông cố đạp xe, về đến nhà thì trời đã gần sáng. Ông lên giường và bắt đầu sốt dữ
dội. Ông sốt mê sảng không còn biết gì trong ba ngày, người như khối lửa và thấy như mình chết
rồi. Ba ngày sau cơn sốt hạ dần, nhưng vẫn rất yếu không thể ngồi dậy được. Bệnh kéo dài hơn nửa
tháng.

Sau đó công việc Hội Thánh vẫn tiếp tục, lòng ông ao ước cất lên một ngôi đền thờ mới cho
Chúa,nhưng làm sao đây. Hội Thánh quá nghèo, còn ông thì chỉ có một tấm lòng mà thôi. Hết nhiệm
kỳ, ông được phái đến Hội Thánh Trà Vinh. Câu chuyện thầy Truyền đạo gặp quỉ được viết thành
truyền đạo đơn và lan ra cả xóm, cả làng, mọi người đều nói: “Con quỉ nó sợ Thầy giảng, vì Thầy
giảng có Chúa, nếu chúng ta có Chúa như thầy, thì con quỉ kia đâu có làm gì ta được!”. Qua tập truyền
đạo đơn đời sống nầy mà có nhiều người quay lại cùng Chúa. Thật không có chuyện gì xảy ra mà
không có trong chương trình của Đức Chúa Trời.

41


Hội Thánh thứ năm: Trà Vinh (1942-1945)

Sau khi rời hai Hội Thánh Bình Đại và Lộc Thuận, ông được Chúa sai đến Hội Thánh Trà Vinh.
Tuy là Hội Thánh ở tỉnh nhưng rất đơn sơ, được xây dựng năm 1932, lúc nầy được sửa lại bằng gỗ,
lợp ngói khá khang trang. Trà Vinh là Hội Thánh chính, bao gồm thêm các sóc của các tín hữu người
Khmer, mỗi sóc đều có các điểm nhóm tại nhà riêng của các sóc trưởng. Từ Hội Thánh tỉnh đến các
sóc rất xa. Ngày Chúa nhật tập trung nhóm tại nhà thờ Trà Vinh, rồi từ thứ hai đến thứ bảy, ông
cùng Ban Trị sự chia nhau đến các sóc học Kinh Thánh, làm chứng đạo, thăm viếng, cũng như giúp
đỡ các tín hữu nêo đơn.

Lúc ấy các gia đình trong Ban Trị sự, Chấp sự ở Trà Vinh giúp ông rất đắc lực, như ông bà Ký
Đê,gia đình cô hai Đàng, gia đình cô giáo Của và nhiều anh em khác. Thời đó đường sá chưa được
mở mang, ngoài đường chính ra, các đường ở ngõ hẻm là đường đất ngoằn ngoèo, khúc khuỷu
quanh co, cũng giống như ở Bình Đại, Lộc Thuận nên việc đi lại, thăm viếng rất vất vả, nhất là vào
mùa mưa. Đời sống của người hầu việc Chúa trong thời bấy giờ đều như nhau. Ngày xưa Phao-lô
may trại để sống, bây giờ gia đình ông cũng vậy. Chung quanh nhà thờ có đất rất rộng, không sử
dụng nên đầy cỏ hoang, gai góc. Ông bà khai phá để trồng bông vải,từ đó gia đình có một nghề để
sống: nghề trồng bông, kéo chỉ. Đồng thời ông bà trồng thêm đậu phộng, khoai mì, khoai lang và
rau củ khác, cuộc sống tạm ổn định,tạ ơn Chúa. Nhưng phong thổ ở đây không hợp với ông, nên
ông bị sốt rét kinh niên. Ông dù chỉ mới 32 tuổi nhưng vì căn bệnh sốt rét hành hạ nên giống như
ông già 50 tuổi. Tội nghiệp bà luôn phải thay ông đi giảng dạy, thăm viếng chăm sóc.

Ở Hội Thánh này, ông bị bệnh suốt, nên không làm được gì nhiều cho Hội Thánh, ông chỉ khai
phá vùng đất hoang chung quanh nhà thờ, để khi hết nhiệm kỳ, ông ra đi để lại cho nhà thờ một
khu đất sạch sẽ thoáng mát mà thôi.

Hội Thánh thứ sáu: Ba Càng và Mỹ Lộc (1946-1950)

Đầu năm 1946 Chúa sai ông đến Hội Thánh Ba Càng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Lúc này, ông Mục sư
Phan Văn Tranh đang chủ tọa Hội Thánh Vĩnh Long. Từ Trà Vinh đi tàu đến Vĩnh Long mất mấy
ngày. Khi đến Vĩnh Long, ông xin tạm trú ở Hội Thánh Vĩnh Long mấy ngày để chờ đò tay đi vào Ba
Càng. Lúc đến được Hội Thánh Ba Càng trời tối, nên không nhìn thấy rõ cảnh quan của nhà thờ, chỉ
có một tín hữu giữ nhà thờ ra mở cửa đón gia đình ông mà thôi.

Sáng ra, ông mở cửa,một cảnh sắc rực rỡ chào đón gia đình thay cho tín hữu, nào hoa phù dung,
hướng dương, hoa phục sinh… rồi cây trái dừa, chuối, mận… Bà đứng giữa sân nhà thờ reo lên:
“Vườn Ê-đên thầy ơi!” Nhà thờ nhỏ, bằng cây lợp ngói nhưng nằm trên địa thế rất đẹp. Trước nhà
thờ là con sông khá lớn, có cây cầu bắt qua nối liền với con đường liên tỉnh, mà lúc nầy chỉ có quân
đội Pháp sử dụng mà thôi. Chạy song song với nhà thờ bên phải là con đường liên tỉnh, bên trái là
con sông hơi nhỏ.Có cây cầu ván nối liền con đường đất trước nhà thờ đi về xã Mỹ Lộc. Gia đình
đang vui hưởng cảnh đẹp thì “Đùng! Ầm!” Liên tục. Ông hoảng hốt đêm cả nhà vào trong đóng cửa
lại. Khoảng mười phút sau, tàu Tây từ bên kia sông chạy qua đậu trước nhà thờ, có đồn trưởng, đại
úy người Pháp và nhiều lính Pháp (vì đồn Pháp đóng đối diện nhà thờ cách một con sông). Họ đến
gặp ông và hỏi ông là ai? Ở đâu đến? Đến để làm gì? Ôi, hàng trăm câu hỏi. Khi nghe ông trình bày
mà không cần thông dịch, họ xin lỗi rất trân trọng. Sau khi từ giã, họ dặn lại: Hãy làm người Truyền
đạo chân chính, đừng tham gia chính trị.

Khi nhận giấy bổ nhiệm từ Tổng Liên Hội đến đây, ông hơi lo vì có nghê nói Hội Thánh này ở
vùng “xôi đậu”,ban ngày là của Tây, còn ban đêm là của Việt Minh. Cứ đêm đến là các người mặc áo

42


đên đến gọi ông đi họp, đi học. Ông được lệnh là phải cống hiến, phải hiến thân vì tổ quốc, nhưng
ông có gì để cống hiến, vì tất cả những gì ông có, ông đã cống hiến hết cho Chúa Giê-xu rồi. Bà phải
đi dạy bình dân học vụ, còn nhà thờ là nơi chê giấu cán bộ Việt Minh từ nơi khác đến địa phương
công tác. Không bao lâu, công việc này bị bại lộ, ông bị đồn trưởng Pháp bắt giam kín, tra khảo
nhưng ông không biết gì để khai. Ông chỉ có bổn phận cho họ ngủ ban đêm và nấu cơm tối cho họ
ăn thôi. Bà phải lo chạy gạo để nấu cơm. Rồi nhà thờ bị công kích tan nát. Bà phải đùm túm các con
tản cư về Mỹ Lộc tạm ở nhà ông Ba Phó là anh của Mục sư Phạm Văn Tranh ở Hội Thánh Vĩnh Long
và cũng là chấp sự của Hội Thánh Ba Càng để chờ trông tin ông.

Ít lâu sau, ông được thả ra, mới hay việc của nhà thờ. Ông nhớ gia đình tìm đến nhà ông ba Phó.
Ông tạ ơn Chúa vì gia đình ông bình an. Dưỡng bệnh một thời gian, ông Ba Phó vui lòng dâng nhà
của ông làm điểm nhóm và cất trên đất mình một căn nhà lá nhỏ để gia đình ông tạm trú. Sau một
thời gian, Hội Thánh tìm được một mảnh đất cách nhà ông Ba Phó 1.000 m. Hội Thánh mua và hợp
sức nhau cất lên một ngôi nhà thờ mới riêng biệt. Nhà thờ bằng gỗ mít vàng, vách ván, lợp ngói đỏ
rất đẹp. Bên cạnh nhà thờ có tư thất nhỏ tạm chê mưa nắng. Tạ ơn Chúa vì đã có nhà thờ mới cho
danh Chúa tại đây.

Việc Hội Thánh là thế nhưng chiến sự càng ngày càng khốc liệt hơn. Nhà thờ mới cách nhà thờ
cũ khoảng 10 cây số, nên bót Tây cứ thục bom liên tục, cứ cách vài ngày là ruồng bố một lần.Mỗi
lần Tây ruồng bố thì đậu tàu ngay trước nhà thờ, rồi lính đi lùng sục khắp làng, bắn giết, cướp bóc,
đốt nhà,… Dân cư điêu đứng. Gia đình ông cũng vậy.Nhà thờ lại đứng giữa hai gọng kềm, bên Pháp
thì nghi ngờ ông làm Việt Minh muốn bắt ông, còn bên Việt Minh lại nghi ông là Việt gian. Ông đếm
mạng sống ông như người ngồi gỡ lịch từng ngày. Hội Thánh vắng vẻ, ít ai dám đến nhà thờ, vì sợ
đang ngồi nhóm tàu Tây đến không sao chạy kịp. Thật còn gì đau đớn bằng, người Truyền đạo
không được làm tròn bổn phận Truyền đạo của mình. Ông không thể rời nhà thờ được vì đã có lệnh
quản thúc của cả hai bên quản thúc rồi. Các con ông đã đến tuổi đi học, chúng sẽ học ở đâu? Ông lại
cầu nguyện với Chúa: “Ôi lạy Chúa, vì phục sự Ngài mà con của con dốt rồi…” Nhìn các con mỗi ngày
một lớn mà dốt nát, lòng ông chùng xuống. Rồi câu Kinh Thánh “nếu ai yêu mến vợ chồng con cái
hơn ta thì không đáng cho ta…” Âmên! Hai bên gia đình đều coi trọng khoa bảng mà giờ con ông dốt
thế nầy, ông rất đau khổ.

Rồi cảnh nầy cứ xảy ra luôn, cứ tối ông lại đi họp, còn bà thì phải đi dạy bình dân học vụ, để các
con ở nhà với các người áo đên lạ mặt. Ông lại được sung vào ban Y tế Cứu thương các chiến sĩ. Đến
đây ông lại học được nghề y tá, biết chích thuốc, biết băng bó vết thương, thậm chí biết cắt mổ vết
thương nữa. Công việc Hội Thánh ông vẫn chu toàn.

Vào thời điểm này,Chúa cho ông một công tác to lớn, tại Hội Thánh lân cận, một gia đình tín hữu
có một người con gái trẻ bị lính của ông Năm Lửa bắt về tội theo Việt Minh và sắp đêm đi tử hình.
Mẹ của cô ấy đến gặp ông khóc lóc van cầu, xin ông giúp đỡ bằng cách đến gặp ông Năm Lửa xin thả
con gái bà ấy ra. Ông bà cầu nguyện xin Chúa chỉ dạy trong việc nầy, nhận lời hay không nhận lời
bởi vì có hai lý do: Thứ nhất gia đình ấy không phải là gia đình tín hữu mà ông đảm nhiệm, thứ hai
gặp ông Năm Lửa chẳng khác nào đi vào hồ lửa. Có một điều kỳ lạ là chung quanh vùng cũng có các
Mục sư, Truyền đạo, sao bà ấy lại đến tìm ông. Bà nói: “Hay là Chúa đặc biệt tặng cho Thầy phần
thưởng này”.

Sau khi cầu nguyện,ông lên đường đến tổng hành dinh của ông Năm Lửa đóng tại Cái Vồn, Vĩnh
Long. Từ nhà đến đó phải mất một ngày đường thủy. Khi đến nơi, ông đứng ngoài cổng canh thứ

43


nhất báo danh và nói lý do xin gặp quan Năm, thì ông được trả lời một cách lấp lững “Khó lắm, quan
Năm không có thì giờ đâu!”

Ông đứng bên ngoài chờ đợi với biết bao ý nghĩ trong lòng. Ông tự nhủ, dù sao ông cũng phải
gặp vị tướng này, vì Chúa bảo ông đi. Cuối cùng ông được mời vào, từ cổng canh thứ nhất,ông qua
nhiều cổng canh khác mà ông không nhớ rõ, với hai người dẫn đường có gương mặt đáng sợ, trang
bị vũ khí từ chân đến tóc. Ông vừa đi vừa cầu nguyện,xin Chúa Thánh Linh dạy phải nói gì và khôn
ngoan trả lời những câu hỏi.

Thật ngoài sức tưởng tượng khi gặp tướng Năm Lửa oai danh một cõi. Quả thật ông ấy có ngoại
hình của một ông tướng. Thủ tục xã giao xong, ông ấy nhìn ông cười:

- Chẳng hay ông đến thăm tôi có chuyện gì?

- Dạ, tôi đến trước thăm ông để chính mắt nhìn thấy công việc vĩ đại của tay ông và nói với ông
rằng mọi việc trên đời này nhằm vào ai cũng không ngoài ý Chúa, mà ông hay gọi là ông Trời.

Ông ấy nói: - Sao ông biết?

- Kinh Thánh đã nói vậy. Chúa cho ai công việc gì dù lớn hay nhỏ cũng không ngoài hai mục đích:
Thứ nhất cho phép người ấy thực hiện ý định của Ngài vì Chúa biết người ấy làm đươc; thứ hai
người ấy phải giúp ích cho đời, cho xã hội mà người ấy đang sống.Như ngài quan Năm đây đã làm
công việc mà Chúa cho phép thì trước tiên chính bản thân ông đã hưởng phước như thế nầy, đó là
phần riêng của ông. Còn phần ích lợi cho đời là quan Năm sáng suốt trong mọi sự phán quyết và
phân xử.

- Ông nói chuyện hay, tôi muốn nghê, nhưng rất tiếc ta có việc khác rồi, vậy ông nói việc của ông
đi.

- Thưa ông, tôi có một tín hữu bị đưa vào đây, cháu còn nhỏ, chưa hiểu biết gì, tôi đã hỏi kỹ
rồi,cháu không có tham gia vào tổ chức nào để chống lại công việc của ông, cháu bị hiểu lầm. Xin
ông vui lòng cho tôi được bảo lãnh cháu về để dạy dỗ cẩn thận hơn, không phải một mình tôi bảo
lãnh cháu, mà cả gia đình cháu cũng lấy lòng thành bảo lãnh cháu nữa.

Ông ấy nhìn ông rất lâu rồi nói:

- Tôi tin ông, ông là người duy nhất được tôi nhận lời, ông xuống nhà lao đêm nó về đi.

Lần này ông toát mồ hôi, hồi hộp vì đâu biết mặt mũi nó ra sao, làm thế nào nhận mặt nó đây,
ông cầu nguyện xin Chúa giúp.

Khi bước vào nhà lao, ông thấy lố nhố nhiều người bị xích, ông không biết nó là đứa nào.

Đứng nơi cửa ông nói to: “Vân đâu ra đây ông bảo, ông Mục sư đến xin phép quan Năm để gặp
con”. Tức thì một đứa con gái đầu tóc rối đứng thẳng lên, bước ra, lòng ông cảm tạ ơn Chúa vô cùng.

Trên đường về nhà,ông buồn bã nhớ lại phòng giam với rất nhiều người nam nữ đang chờ để
ra pháp trường. Ông phải làm sao để giúp đỡ họ. Ông chợt nhớ lại câu chuyện ông bị giam trong
nhà lao của Tây ngày nào. Ông cũng có tâm trạng như họ như trong ngày hôm nay, nhưng ông khác
họ là ông có Chúa, nếu ông rời đất này sẽ được gặp Chúa và sẽ sung sướng ở với Ngài. Còn những
người kia khi rời đất này sẽ đi vào hồ lửa.Ông buồn rầu cho hàng chục linh hồn ấy, họ sắp sửa đi
vào địa ngục. Ông rất cảm ơn Chúa vì đã cứu linh hồn ông. Ông xin Chúa cho ông có cơ hội để làm
chứng để họ cũng được cứu giống như ông.

44


Còn việc hôm nay đi gặp ông Năm Lửa là ý Chúa, vì Chúa muốn ông nói trực tiếp với ông ấy
rằng: Có Đức Chúa Trời và ông ấy phải tin có Chúa. Cũng như khi ông bị Tây bắt giam chung với rất
nhiều người, hầu hết họ là Việt Minh, họ nói với ông như vậy. Ông nhớ lại,khi ông bị đẩy vào phòng
giam, mọi người nhìn ông soi mói, họ e dè, rồi họ bắt đầu làm quen: Anh bị gì vậy? Rất nhiều câu
hỏi, ông trả lời: Tôi là Truyền đạo của Hội Thánh Tin Lành, là người giảng đạo. Ông bắt đầu nói về
Chúa Giê-xu cho họ nghe. Nếu giảng đạo cho người thường thì rất dễ, nhưng giảng đạo cho cán bộ
thì rất khó, dù vậy, ngày ngày ông cứ nói. Ông nghĩ Chúa đã đưa ông vô đây để giảng đạo cho những
người nầy là những người sắp lìa đất. Nhiều ngày trôi qua,không có ai tin Chúa cả, ông buồn rầu
hỏi Chúa: “Con nói nữa thôi?” Chúa bảo “Phải nói nữa”. Ngoài giờ bị đêm ra làm việc, khi khỏe lại
ông nói tiếp, ông nói cho đến khi ông được tha.

Khi được tha tù, ông ra về nhưng lòng luôn cầu xin cho nhóm người nầy sẽ có vài người được
hưởng ân hồng của Chúa như tên cướp ngày xưa bên thập tự giá. Vì các lần bị bắt, giam cầm,ông bị
bệnh nhiều nên xin với Tổng Liên Hội cho phép ông tạm nghỉ để dưỡng bệnh.Ông bà được trở về
quê hương thăm lại gia đình. Dù nghỉ bệnh nhưng ông vẫn có chương trình thăm viếng và phục sự
Chúa với các Hội Thánh bà con. Ông làm chứng lại những khó khăn, các ơn phước mà Chúa đã ban
tặng cho gia đình ông.

Hội Thánh thứ bảy: Quới Sơn (1950-1955)

Năm 1950, ông xin trở lại chức vụ và được Chúa sai đến Hội Thánh Quới Sơn, Bến Trê. Nơi đây
ông lại tìm thấy sự an bình cho gia đình, con cái được học hành. Bây giờ ông bà toàn tâm toàn ý lo
công việc Chúa. Công việc Hội Thánh mỗi ngày một phát triển. Tín hữu khá đông, cũng có những
anh em ở xa nhà thờ như vùng Phú Thành, Giao Long,Tân Thạch. Đặc biệt Tân Thạch cũng có nhà
thờ, nhưng cụ Tỵ, thân phụ Mục sư Võ Thạch Thời, hàng tuần vẫn đạp xê đạp xuống Quới Sơn nhóm.
Rồi chú ba Phép và cụ bà thân mẫu của Mục sư Nguyễn Văn Long còn ở Phú Thành. Có cô hai Thành,
mẹ của hai Mục sư Trương Văn Tốt và bà Nguyễn Văn Xuyến là Mục sư truyền giáo cho người
Thượng. Ông bà ấy là cột trụ của Hội Thánh. Cũng có thầy thuốc Phạm Quang Phục là thân phụ của
Mục sư Phạm Văn Thâu, là thủ quỹ Hội Thánh.

Nhà thờ Quới Sơn rất cũ kỹ. Ông đặc biệt cầu xin Chúa lần này cho ông được xây cất lại đền thờ
mới và đẹp cho Chúa bằng vật liệu nặng. Ông cùng Hội Thánh dâng nan đề này lên Chúa, vì con cái
Chúa đa số rất khó khăn. Ông lập ban cầu nguyện sáng sớm từ 5 giờ đến 6g30, tối từ 6g đến 7g30,
liên tục mỗi ngày. Dầu trời mưa hay nắng, một năm sau, đã cất lên được một ngôi đền thờ rất đẹp
bằng sức lực của mỗi tín hữu.Ông chỉ thuê một người thợ chính, còn thợ mộc, phụ hồ, khuân vác…
tất cả đều do tín hữu trong Hội Thánh dâng công. Các ông làm thợ, các bà nấu ăn. Công việc xây
dựng thật trôi chảy từ ngày khởi công cho đến ngày hoàn tất. Qua công việc này ông học được một
điều: Đức Thánh Linh chỉ vui và đồng công với một Hội Thánh hiệp một mà thôi và Ngài thích đáp
ứng mọi nhu cầu cho người có lòng dâng hiến rộng rãi.

Hội Thánh làm lễ khánh thành đồng thời tổ chức truyền giảng ba ngày. Có các Hội Thánh từ Sài
Gòn,Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre, Lộc Thuận, Bình Đại, Mỏ Cày, Tân Thạch, Ân Hòa, Gò Công, Giáo sĩ
Taylor, Mục sư Chủ nhiệm Nam hạt đến làm lễ dâng hiến đền thờ.Các Mục sư Hội Thánh nêu trên
thay phiên nhau giảng truyền giảng. Cũng có ca đoàn của các nơi đến tham dự. Thật là những ngày
phước hạnh cho Hội Thánh và đó cũng là ngày đại lễ đầu tiên của Hội Thánh Quới Sơn. Danh Chúa
Giê-xu được nhiều người biết đến. Lòng ông vô cùng vui thỏa, ông nghĩ rằng ông không thể nào làm
công việc to lớn như thế nếu không có Chúa Thánh Linh và anh em trong Hội Thánh đồng công.

45


Tại Hội Thánh nầy,ông lại có một niềm vui lớn nữa là: Lân cận với Hội Thánh có Hội Thánh Tân
Thạch với Mục sư Lương Vạn Thực và Nguyễn Phú Lành; Hội Thánh Bến Tre với Mục sư Đặng Văn
Lục; Hội Thánh Mỏ Cày với Mục sư Hứa Hớn Long; Hội Thánh Bình Đại với Mục sư Nguyễn Văn
Tầm; Hội Thánh An Hoá với Mục sư Nguyễn Văn Long và cả Giáo sĩ Taylor phụ trách vùng. Hàng
tháng cùng hiệp nguyện với nhau, tháng này ở nhà thờ nầy, tháng sau ở nhà thờ khác, các bạn đồng
lao của ông xêm như ruột thịt, cùng nhau trao đổi kinh nghiệm để công tác phục sự Chúa tốt hơn,
đặc biệt cùng quan tâm lẫn nhau.

Hội Thánh là thế,nhưng gia đình riêng của ông rất khó khăn, con cái đông thêm, việc ăn học của
chúng là vấn đề nan giải. Ông có thể làm gì để giúp đỡ cho bà? Thật Đức Giê-hô-va Di-rê, tại Hội
Thánh An Hòa có thầy y tá Trương Văn Nhung là anh của Mục sư truyền giáo Trương Văn Tốt cũng
là con cả của cụ Hai Thành, tín hữu Hội Thánh gợi ý ông nên làm y tá để tăng thêm thu nhập và thầy
sẽ giúp đỡ ông về y lý. Không có gì xảy ra ngẫu nhiên cả, nhớ lại lúc ở Hội Thánh Ba Càng, Mỹ Lộc,ông
bị sung công vào đội cứu thương, nên ông biết hết mọi công việc của một y tá. Bây giờ là lúc Chúa
cho ông sử dụng nghề “may trại” này để giúp đỡ gia đình và bớt gánh nặng cho người khác. Sự phục
sự Chúa của ông đã nằm sẵn trong chương trình của Đức Chúa Trời rồi. Ngài luôn quan phòng một
đầy tớ hèn mọn.

Hội Thánh thứ tám: Bạc Liêu (1955-1958)

Đến giữa năm 1955,Chúa sai ông đến Hội Thánh Bạc Liêu. Một Hội Thánh lớn với số tín hữu
hơn 500,đặc biệt có rất đông tín hữu người Hoa. Hội Thánh có nhiều nhà trí thức, nhân sĩ, và phú
thương như: Ông Giáo Nhạc; ông Giáo Phạm; bà Giáo Trang phu nhân của ông kiểm lâm trưởng tỉnh
Bạc Liêu; nhân sĩ Trần Tu là thân phụ của giáo sư Trần Chuyên dạy ở trường trung học Phan Thanh
Giản, Cần Thơ. Các phú thương: ông Lâm Tài Ngươn, Lâm Tài En, bà Lâm Khê, bà Sáu Lý, bà Hồng
Tú Anh, ông bà Trần Xuyên, gia đình ông Đặng Văn Thử và nhiều gia đình khác nữa. Có ông Tư Mến,
một cao lão, là trưởng ban chứng đạo vô cùng trung tín, suốt ngày đi làm chứng,phát sách, ông sống
một mình nên suốt thời gian của ông dành cho việc gieo giống.Các vị trên là trụ cột của Hội Thánh,
tuy họ rất danh giá ở ngoài xã hội nhưng họ hết lòng yêu mến Chúa, luôn đặt mình là tín đồ Tin
lành, là con cái trung tín của Chúa Giê-xu.

Hội Thánh nào ông đến thì ông đều tổ chức cầu nguyện mỗi sáng và mỗi tối cho Hội Thánh, vì
ông kinh nghiệm được rằng cầu nguyện là linh lực để Hội Thánh phát triển. Qua các buổi cầu nguyện
như thế, người chủ tọa Hội Thánh mới biết rõ mọi nan đề của các gia đình tín hữu, thì sự chăm sóc,
thăm viếng mới có kết quả.

Hội Thánh này là một nhiệm sở lý tưởng cho bà. Bà dùng hết khả năng Chúa ban để phục sự
Chúa. Bà tổ chức lại Ban Thanh niên, Ban Trường Chúa nhật, Ban Thăm viếng, Ban Phụ nữ và dạy
đàn. Đến các ngày đại lễ, bà lo tập hát, soạn diễn văn, lập chương trình. Công việc của ông được bà
gánh vác rất nhiều. Ông trùng tu lại nhà thờ, cất lại tư thất, lập ranh giới cho nhà thờ Bạc Liêu là
nhà thờ chính. Cũng có các điểm nhóm phụ như Vĩnh Châu, Biển Nhãn, điểm nhóm này cách nhà
thờ Bạc Liêu khá xa,nên con cái Chúa không tiện lắm để đến nhà thờ dự nhóm vào mỗi Chúa nhật,
nên chỉ nhóm tạm ở nhà một anh êm con cái Chúa cho mượn là chấp sự Trần Gia. Ông bắt đầu đặt
vấn để ở đây cầu nguyện với Chúa.

Lúc này ông có thêm một công tác mới trong chức vụ, đó là dự phần phục sự Chúa trong Ban
Trị sự Địa hạt Nam hạt nên bận rộn lắm. Ông thường xuyên đi thăm các Hội Thánh trong hạt,giúp
đỡ, giải quyết các nan đề của Hội Thánh trong hạt. Ông vui mừng nghĩ trong lòng rằng: “Chúa đã
lên lon” cho ông.

46


Chức vụ không có gì trở ngại, gia đình và Hội Thánh thương yêu nhau. Nên khi ông rời Hội
Thánh có biết bao nước mắt tiễn đưa.

Hội Thánh thứ chín: Ô Môn (1958-1960)

Một sáng sớm tháng 6 năm 1958, gia đình ông rời Hội Thánh Bạc Liêu với biết bao lời chào tạm
biệt để tiếp tục công tác phục sự tại nhiệm sở mới: Hội Thánh Ô Môn.

Tuy là Hội Thánh nhỏ nhưng địa thế rất tốt, nằm ngoài mặt tiền trên quốc lộ, nên mặt bằng rất
có giá trị. Lần đầu tiên nhìn nhà thờ Ô Môn, ông nghĩ ngay đến nhà thờ Bến Tre vì hai mẫu nhà thờ
này rất giống nhau.

Công việc của Hội Thánh ở đây cũng như bao Hội Thánh mà ông đã từng qua. Khi gia đình ông
mới đến,Hội Thánh khá ít. Ông lập tức tổ chức giờ cầu nguyện sáng và tối. Lúc đầu chỉ có gia đình
ông và vài ông bà ở gần tham dự. Ông không nản. Lần hồi mỗi ngày nhiều người tham gia và đông
dần lên, Hội Thánh phát triển thấy rõ, sự nhóm lại đông đúc hơn, Ban Chứng đạo việc nhiều hơn.
Ông vui mừng tạ ơn Chúa. Ông thường dùng câu Kinh Thánh này giảng dạy cho Hội Thánh và đó
cũng là chủ đề của ông tại Hội Thánh Ô môn: “Ta còn có nhiều chiên khác chẳng thuộc về chuồng
nầy; ta cũng sẽ phải dẫn nó về nữa, chiên đó sẽ nghe tiếng ta rồi sẽ chỉ có một bầy và một người chăn
mà thôi” (Gi 10:16).

Nhìn sự tăng trưởng của Hội Thánh lòng ông vô cùng biết ơn Chúa. Con cái Chúa thật hiền hòa,
nơi đây có gia đình chú sáu Cường, gia đình êm Lê Ba là những trụ cột của Hội Thánh. Ông an lòng
khi có các con cái Chúa hết lòng yêu Ngài cùng ông gánh vác công việc Hội Thánh.

Hội Thánh thứ mười: Rạch Giá (1960-1961)

Giữa năm 1960, Chúa sai ông đến Hội Thánh Rạch Giá. Nhà thờ được xây cất khá lâu nên có
phần xuống cấp. Con cái Chúa nhóm lại rất đông, ngoài Hội Thánh chính là Rạch giá còn có các điểm
nhóm phụ: An Hòa, Rạch Sỏi, Cù Là,… Đến đây, ông có nhiều việc để làm.Ông hăng hái mở mang
công việc Hội Thánh: Tổ chức các buổi cầu nguyện sáng tối,thành lập Ban Chứng đạo, chỉnh đốn lại
Ban Thanh niên, phân công nhân sự cho các điểm nhóm.

Thủ quỹ của Hội Thánh là ông Như Ý, một người vô cùng yêu mến Chúa. Ông sẵn lòng dâng hiến
cho công việc Chúa không tiếc công, tiếc của gì cả. Cũng có ông Trần Văn Quân Trưởng ty Ngân khố,
ông bà Trần Văn Nơi Trưởng ty Quan thuế cùng hợp tác lo công việc Chúa. Hội Thánh ngày càng
phát triển. Về cơ sở vật chất, ông trùng tu lại đền thờ, xây hàng rào kiên cố vì nhà thờ nằm ngay
cạnh ngã tư quốc lộ. Khi xây hàng rào, tráng sân xong, vẻ mỹ quan của nhà thờ vô cùng đẹp. Ông
xây lại tư thất, xây phòng nhóm cho thanh niên, thiếu nhi. Bà cũng bận rộn với lớp các bà, thanh
niên, sinh hoạt ca đoàn, vì bà hát rất hay và đàn rất giỏi.

Công việc đang vô cùng nhộn nhịp vui vẻ, thì ngày 9 tháng 6 năm 1961, bà được Chúa gọi về
một cách bất ngờ, để ông lại với biết bao công việc đang dang dở. Bà cũng để lại cho ông đàn con
tám đứa, một cơ nghiệp chung của hai ông bà, sáu trai hai gái.Giờ đây ông rất bối rối. Ông chưa từng
làm mẹ, vì chúng đã có sẵn một bà mẹ tuyệt vời. Ông quần quật suốt ngày với công việc của Hội
Thánh và gia đình mà không bớt chút nào. Ông rất mệt mỏi và cầu nguyện xin giao cho Chúa.

Hội Thánh thứ mười một: Cần Thơ

Cần Thơ, thành phố xinh đẹp bậc nhất của miền nam Việt Nam. Một Tây đô phồn vinh của đất
Nam. Lần này, ông được Chúa sai đến Hội Thánh Cần Thơ. Từ khi ra trường Kinh Thánh, đi hầu việc
Chúa với nhiều Hội Thánh và lần này ông đến nhận Hội Thánh một mình.

47


Ông một mình đến Hội Thánh Cần Thơ với một lũ con. Ông nghê như có cái gì đó rất bất ổn. Hội
Thánh rất cần một Mục sư có ơn, nhưng cũng cần có bà nữa. Các con cái Chúa ở Hội Thánh Cần Thơ
quen biết nhiều và rất thích bà, nhất là gia đình ông bà cụ Hội đồng thân phụ và thân mẫu của ông
bà Mục sư Phạm Văn Năm. Thời ông bà Mục sư Lê Văn Phải còn hầu việc Chúa ở Hội Thánh Cần
Thơ, ông bà hay đến thăm và bà cũng có lần hầu việc Chúa với các bà ở Hội Thánh Cần Thơ, nên Hội
Thánh rất quý bà. Nay ông đến nhậm chức ở Cần Thơ mà thiếu vắng bà, thật là nỗi buồn lớn của
ông và của Hội Thánh nữa. Ông rất hiểu điều này và Hội Thánh có bày tỏ với ông như vậy.

Trong năm đầu của chức vụ, ông cố hết sức. Ông phải làm gấp đôi để hoàn thành công việc Hội
Thánh như cách Chúa muốn. Việc gia đình ông đã có con lớn làm giáo viên gánh vác. Ông cảm ơn
Chúa đã cho ông đứa con này, như vậy việc riêng của ông đã xong. Bây giờ,ông toàn tâm toàn ý lo
công việc Chúa.

Ông rất biết ơn các ông bà trong Ban Trị sự, Chấp sự đã cùng ông hết lòng phục sự Chúa. Công
việc Hội Thánh mỗi ngày một phát triển, con cái Chúa mỗi ngày một đông thêm, ơn phước Chúa
tràn đầy, phép lạ của Chúa bày tỏ được bày tỏ trong Hội Thánh như đuổi quỉ,phục hồi cho người
bệnh nặng. Về cơ sở vật chất, ông trùng tu lại nhà thờ, mở rộng thêm để có đủ chỗ cho con cái Chúa,
sửa sang lại tư thất. Chỉ trong một năm thôi, ông đã làm được nhiều việc cho Hội Thánh.

Khi rời Hội Thánh Cần Thơ để nối tiếp chức vụ ở Kiên Tân, Cái Sắn. Ông nhẩm lại công việc của
mình mà vui tạ ơn Chúa. Ông có các cộng sự đắc lực nhất tại Hội Thánh Cần Thơ: Gia đình ông bà
giáo Trà, gia đình cô giáo Liễu và các vị khác nữa. Ông cảm ơn Chúa, cảm ơn họ đã dùng tình yêu
thương đồng công với ông, để bổ khuyết cho sự đơn độc của ông.

Hội Thánh thứ mười hai: Kiên Tân và Cái Sắn

Hội Thánh Kiên Tân nằm giữa đoạn đường Cần Thơ đi Rạch Giá. Ông bà cùng nhau đến Rạch
Giá để phục vụ Chúa và cũng trên con đường này ông tiễn biệt bà từ Rạch Giá về Long Xuyên. Hôm
nay, ông đi lại trên con đường này một mình, ông buồn lắm.

Khi xe chở gia đình ông dừng lại trước cổng Hội Thánh Kiên Tân. Nhìn nhà thờ, ông không nghĩ
được gì, ông chợt nhớ câu thơ của ai đó mà ông tạm sửa lại một chữ là: “Lòng buồn cảnh có vui đâu
bao giờ”. Ông buồn, nhưng phải xuống xê để làm công việc của một tân chủ tọa Hội Thánh, một bà
mục sư, một người cha dọn nhà cùng với một lũ con chưa đủ sức để tự lo cho mình. Rồi một ngày
mệt mỏi nữa lại đến. Sau đó lại nhiều ngày mệt mỏi khác đến kết bạn với ông.

Chúa nhật đầu tiên,ông giảng cho Hội Thánh, ông biết rằng nếu không nhờ Chúa Thánh Linh
giảng giùm thì ông chắc chắn không giảng được. Ông năn nỉ Ngài đến cạn khô cả nước mắt. Sáng
Chúa nhật, Hội Thánh nhóm lại khá đông đủ, cả các tín hữu từ lâu không đến đền thờ cũng có mặt.
Ông nhìn Hội Thánh xa lạ này và nói lần cuối với Chúa Thánh Linh “Lạy Chúa, Ngài bắt đầu đi”. Rồi
ông tuôn tràn hơn một tiếng đồng hồ. Khi kết thúc bài giảng, Hội Thánh và ông cùng khóc, nhưng
đặc biệt ông không nhớ mình đã giảng gì, chỉ biết một điều là Chúa Thánh Linh giảng, lòng ông ấm
áp biết bao.

Ông bắt đầu lên chương trình cho công tác của ông trong niên khóa này. Hội Thánh nghèo, ông
phải làm sao cho họ giàu có trong Chúa vì: “Vàng là của ta, bạc là của ta. Đức Giê-hô-va vạn quân
phán vậy” (Ag 2:8).

Ông phải lập Ban Chứng đạo vì “Ta còn nhiều chiên khác chẳng thuộc về chuồng này; Ta cũng
phải dẫn nó về nữa, chiên đó sẽ nghe tiếng Ta, rồi sẽ chỉ có một bầy và một người chăn mà thôi” (Gi

48


10:16). Ông phải tổ chức cầu nguyện mỗi sáng và tối tại Hội Thánh, mở lớp dạy chứng đạo, việc này
vốn của bà nay ông phải đảm trách. Ban Thanh niên, Thiếu nhi rất cần vì tương lai của Hội Thánh.
Rất nhiều việc mà ông lại một mình, ông chỉ biết thưa với Chúa, và ông được nhắc nhở: “Tôi làm
được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi 4:13). Nhà thờ cũ quá, ông xin Chúa cho ông được
cất lại một đền thờ mới, đẹp cho bệ chân của Ngài. Gia đình ông và Hội Thánh khuyên ông nên tục
huyền để có người giúp đỡ. Ông cầu hỏi ý Chúa và Ngài cho phép ông bước thêm bước nữa cùng
với một nữ Chấp sự ở Hội Thánh Sài Gòn qua sự giúp đỡ của hai bạn thân cùng quê hương với ông
đó là ông bà Mục sư Lê Văn Phải, chủ tọa Hội Thánh Sài Gòn lúc bấy giờ.

Công việc tốt đẹp cứ tiếp tục tuôn chảy như một dòng suối. Đặc biệt nơi đây ông có quên một vị
linh mục Công giáo. Vị này thích ông vì các bài giảng về phúc âm mà ông có nhiều lần đến nghe.
Linh mục nói với ông là bây giờ ông yêu mến Chúa Giê-xu và Kinh Thánh. Hai người thường xuyên
cầu nguyện với nhau xin Chúa Thánh Linh đặt lẽ đạo mầu nhiệm này vào lòng vị linh mục như một
tảng đá khối. Vị linh mục nói nhiều điều về mình, về công việc mình đang cưu mang. Vị linh mục
nói: “Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi biết và quen với Mục sư, ông chỉ cho tôi một phúc âm hoàn mỹ,tôi
cảm ơn ông. Nhưng Mục sư ơi! Tâm trạng hiện giờ của tôi là đây (II Các vua 5:18-19)” và ông chỉ biết
cúi đầu cầu nguyện cho vị linh mục.

Hội Thánh thứ mười ba: Tây Ninh

Đây là Hội Thánh tỉnh lỵ, nằm trên quốc lộ, có địa thế rất đẹp, từ ngoài đường nhìn vào thấy nhà
thờ có nét cổ kính, trang nghiêm, khiến lòng ông có cảm giác êm ả lạ thường.

Đền thờ không lớn lắm,tín hữu không nhiều, bởi đây là đất “Tòa thánh Tây Ninh”, trở ngại cho
công việc Chúa rất nhiều. Hơn nữa Tỉnh trưởng Tây Ninh lúc bấy giờ là chức sắc cao cấp của giáo
phái Cao Đài, nhưng ông không ngại. Ông đã từng đương đầu với biết bao thế lực mờ tối, và ông đã
được thắng qua sự xức dầu của Chúa “Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta, chẳng để ta ở một mình, vì
ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài” (Gi 8:29).

Ông bắt đầu thăm viếng,chăm sóc, nhắc nhở các tín hữu. Ông chú tâm lắng nghê tâm tư của họ,
giải tỏa sự buồn bã, lo âu và bối rối của họ. Chúa Thánh Linh sẽ làm cho họ thỏa mãn mọi điều cầu
xin, miễn là cầu xin phải lẽ, đẹp lòng Ngài.

Đặc biệt ở Hội Thánh này ông dạy tín hữu về sự cầu nguyện. Ông lập Ban Cầu nguyện thật vững
chắc. Đền thờ Chúa hằng đêm cứ mở đèn sáng đến 9 giờ. Ông cảm nhận được rằng Ba Ngôi Đức
Chúa Trời có nghê và đã nhậm lời. Con cái Chúa càng ngày càng đông, đó là về tâm linh. Còn về vật
chất, ông trùng tu lại nhà thờ, xây lại tư thất, xin bằng khoán đất cho nhà thờ. Hội Thánh có các ông:
Ông Tiến Trưởng phòng Thông tin Hoa Kỳ, ông Hựu Trưởng ty Ngữ nghiệp, cô Sáu Giao Ty ngân
khố, cô Tín Tòa Hành chánh. Họ cùng ông đứng ra gánh vác công việc Hội Thánh. Ban chuyên cầu
nguyện:Bà Năm Hương, ông Bảy, bà Hai Phải, gia đình ông Tư Phải. Họ là những người cột trụ của
Hội Thánh. Tất cả họ cùng ông làm việc cho Đức Chúa Trời tại vùng đất nghiệt ngã, đầy khó khăn
này. Hội Thánh từ từ lớn mạnh, có thêm người tin Chúa.Xin Chúa ban phước cho họ luôn giống như
Chúa đã ban phước cho ông vậy.

Tại đây, ông có một quan hệ ngoại giao rất vui: Trung tá Tỉnh trưởng Tây Ninh là một chức sắc
Cao Đài. Vị này rất thích ông và hay mời ông ăn điểm tâm tại Tòa Tỉnh trưởng. Trong bữa ăn, vị này
hay hỏi ông về triết lý sống của con người. Ông luôn hướng vị này về triết lý sống của một Cơ Đốc
nhân. Đặc biệt ông Tỉnh trưởng rất thích nhà triết học Salômôn và Triết gia Phaolô. “Mọi sự đều có
phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích…” (ICo 10:23).

49


Click to View FlipBook Version