Trên đường đời bà đã để lại biết bao dấu chơn tốt lành, đã giêo biết bao hạt vàng quí báu, đã
làm biết bao việc nhơn đức kín giấu mà chỉ Đức Chúa Trời biết mà thôi. Bà treo một gương sáng
sủa, đẹp đẽ cho kẻ hầu việc Chúa. Chắc bà còn mong chúng ta hết thảy dâng trọn mình cho Chúa để
kính mến và hầu việc Ngài một cách trung thành, tận tụy như bà đã làm suốt đời vậy, hầu cho một
ngày kia, những lời Chúa phán về bà cũng có thể phán về chúng ta, rằng: “Những kẻ khôn sáng sẽ
được rực rỡ như sự sáng trên vòng khung; và những kẻ dắt đêm nhiều người về sự công bình sẽ
sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi” (Da 12:3).
A-men!
MỘT ĐỜI ĐƯỢM HƯƠNG THƠM
Khóc nữ giáo sĩ Homêra Homêr Dixon
Đỗ Đức Trí, Hà Nội
Luồng gió lạnh dập dồi cây cỏ,
Lá vàng rơi, sương vỡ đầu nhành.
Khung trời mở lúc tàn canh,
Con chim lâm nạn thất thanh kêu buồn.
Thiên nhiên chạnh niềm thương, ứa lệ,
Xé ruột gan, bỗng mẹ lìa con.
Thân gần năm chục tuổi tròn,
Thiên ân nhuần gội tâm hồn nâng nâng.
Xót đồng loại trầm luân biển tội,
Vượt ngàn trùng đến với Việt Nam.
Tay tiên nâng đỡ người phàm,
Nụ cười ru kẻ điêu tàn phiêu linh.
Lời tiên đạo Tin Lành đồn mãi,
Hồn tiên vương muôn sợi yêu thương.
Cánh tiên bao quản dặm trường,
Hương thơm từ trái tim vàng bay xa.
Nào những lúc trăng tà, sao khuyết
Lời khẩn cầu tha thiết vì ai.
Nào khi gió thoảng hiên mai,
Lụy hồng giáo sĩ khóc người luân vong.
Nào khi trước minh mông trời biển,
Dạ bồi hồi nghe tiếng chiên than,
Chiên than như dứt can tràng,
100
Liễu bồ xá quản trăm ngàn hi sinh.
Kìa,kẻ mất bạn lành yêu dấu;
Nọ,con côi nương náu vào ai?
Nầy,người đâu yếu canh dài,
Đây thân đói lạnh, kia đời cô đơn;
Trước đau khổ, tâm hồn héo hắt,
Tưới nước thiêng, dập tắt lửa hừng.
Rắc ơn, nào tiếc của, công,
Cao sâu trời biển, vẹn lòng ái nhân.
Trên giáo sĩ Tử thần đập cánh,
Giữa đường hoa trút gánh, thương thay!
Nước non, cây cỏ đâu đây?
Mảnh hồn trong trắng trao tay Chân Thần.
Tin sét đánh muôn phần đau đớn,
Trời tươi xanh phút nhuộm u sầu.
Đoái trông cảnh vật rầu rầu,
Hoa tàn, cỏ úa, người đâu hỡi người?
Muôn giòng lụy ngậm ngùi tưới mộ,
Muôn trái tim ấp ủ sương tàn.
Gởi thân lượn sóng thời gian,
Hình dường phảng phất theo làn mây bay.
Con đơn chiếc đắng cay, chua xót,
Mẹ mỗi ngày lại một xa xăm.
Chơn trời mắt phượng đăm đăm,
Hỡi ôi! Tài, hạnh bao năm chôn vùi!
Nào đâu những nụ cười thân ái?
Nào đâu lời mềm mại, nâng niu?
Nào đâu tim đượm thương yêu?
Trời Nam một tấm gương trêo không mờ.
Đờn du dương, đường tơ đứt đoạn,
Yến vẫy vùng lâm nạn ngàn sương.
Bầy chim nhớ bạn kêu thương,
101
Đêm khuya ngơ ngác, dặm trường tìm ai.
Trên Thiên Quốc muôn đời vui thỏa,
Đã bao ngày lã chã châu rơi.
Biển thương còn có đầy vơi?
Hồn thương còn có xót người trầm luân?
Trong vinh hiển, cõi trần còn nhớ?
Lưỡi gươm thiêng rơi bỏ cho ai?
Tiếc thay, hiền đức, anh tài!
Ra đi, nỡ để bao người ngẩn ngơ.
VÀO NƯỚC VINH QUANG
Trần Văn Cân, Hà Nội
Giữa ban trưa, giựt mình vì tắt nắng,
Trong đêm rằm, ngơ ngác mất vừng trăng.
Trên sa trường đương vui mừng lúc thắng,
Tiếc anh hùng vội khuất nẻo xa xăm…
Khối mây đên dập tắt ánh trăng ngà,
In khung trời thẫm lên mầu thê thảm.
Não nùng, ôi! cơn gió rên ai oán,
Hồn giáo sĩ sớm vượt cõi trần ai;
Vang khắp chốn, thổn thức vạn muôn người,
Im lặng,nghiêng mình, khóc, thương, nhớ, tiếc.
Êm ái hương bay đượm hồn khôn xiết,
Nghĩa hi sinh còn để dấu trên đời,
Gương bác ái cao rọi ánh sáng tươi,
Bóng hiền nhơn luôn ghi hồn giáo sĩ,
Ám đượm hương thơm, im mầu tuyệt mỹ,
Hồn thanh cao nhẹ cất cánh thiên du.
Ô,giáo sĩ vui thỏa vào cõi Thiên đô,
Muôn đài vinh quang là nhà giáo sĩ…
Én kêu rêu, gió lùa, hoa rầu rĩ,
Rung ngành vàng để đau đớn nụ xanh,
Đám sanh linh đợi giáo sĩ nhơn lành,
102
In nét thảm vì thiếu người thăm viếng,
Xót thương đêm cho giọt thuốc Tin Lành.
Ôi!Lòng đau tuôn tràn đôi mắt lệ,
Nhớ tiếc nhà giáo sĩ sớm chia tay…
103
Mục sư NGUYỄN SƠN HÀ
(1924 – 1988)
Tổng Thư ký Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
Nguyên Thư ký Địa hạt Miền Tây Nam phần.
Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Mỹ Tho.
Mục sư Nguyễn Sơn Hà, sinh ngày 10.01.1924 tại Kim Bồng Tây, Quảng Nam.
Cha: Cố Mục sư Nguyễn Đằng.
Mẹ: Cố cụ bà Dương Thị Xinh.
Vợ: Bà Lê Thị Ngự Hương, sinh ngày 08.08.1934 tại Huế, ái nữ của ông bà Mục sư Trí sự Lê Khắc
Hòa. Ông bà Mục sư Nguyễn Sơn Hà thành hôn ngày 26.06.1952 tại Phan Thiết.
Các con:
1. Nguyễn Sơn Hải, vợ là Huỳnh Quốc Lan.
2. Nguyễn Sơn Minh.
3. Nguyễn Thị Hoàng Mai.
4. Nguyễn Thị Hoàng Yến, đã đính hôn với Lê Văn Liên.
5. Nguyễn Thị Hoàng Anh.
Mục sư Nguyễn Sơn Hà tin Chúa năm 1932, chịu báp-têm năm 1936 tại HTTL An Hóa, Bến Tre.
Đã thêo học hai khóa Thánh Kinh Tiểu học đường tại Sài Gòn và Cần Thơ năm 1942.
Vào ngày 21.02.1942,một biến động phi thường xảy ra trong cuộc đời của ông có ảnh hưởng
lớn đến sự phục hưng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
104
Địa hạt Nam phần lúc bấy giờ do cụ cố Mục sư Kiều Công Thảo làm Chủ nhiệm hiệp cùng Ban
Trị sự Nam hạt tổ chức Hội đồng Nam hạt tại Cần Thơ được cụ cố Mục sư Lê Đình Tươi đến chủ tọa
và giảng cho Hội đồng. Song thình lình cụ Mục sư Lê Đình Tươi lâm trọng bịnh không đến được,sau
đó cụ Mục sư Kiều Công Thảo gởi điện tín khẩn mời cụ cố Mục sư Lê Văn Thái,Chủ nhiệm Bắc hạt
vào thay cho Cụ Mục sư Lê Đình tươi giảng cho Hội đồng.
Mục sư Lê Văn Thái quá bận công việc Chúa tại Bắc hạt không đi được, song được Chúa thúc
giục đọc lời Chúa trong Sa 46:4 rằng: “Chính Ta sẽ xuống đến đó với ngươi và chính Ta cũng sẽ dẫn
ngươi về chẳng sai”. Trong đêm, Chúa cho cụ Mục sư Thái chiêm bao thấy mình đang đứng giảng
trước Hội đồng thì có một người trẻ tuổi đứng dậy cởi áo choàng để trên bàn và nói rằng: “Vì công
việc Chúa ở Bắc Kỳ, tôi xin dâng vật nầy”. Tiếp đến là một thiếu phụ cũng đứng dậy tiến về phía bàn
gỡ đôi hoa tai đặt lên đó và nói: “Vì công việc Chúa ở Bắc Kỳ, tôi xin dâng vật nầy”.Cụ Mục sư Thái
đã đến Cần Thơ đúng ngày 20.02.1942, khai mạc Hội đồng tràn đầy ơn Chúa.
Đến chiều ngày 21.02.1942,Mục sư Thái đang giảng Thi 119:9, thình lình có một thanh niên đứng
lên rời khỏi ghế mình tiến về phía tòa giảng, nước mắt trào ra, cởi áo ngoài đặt lên bàn và nói: “Vì
công việc Chúa ở Bắc Kỳ, tôi xin dâng vật nầy”. Tiếp theo là một thiếu phụ, cũng tiến về phía tòa
giảng vừa đi vừa khóc cởi đôi hoa tai để trên bàn và lập lại câu nói của người thanh niên kia: “Vì
công việc Chúa ở Bắc Kỳ, tôi xin dâng vật nầy”.
Thanh niên ấy chính là Mục sư Nguyễn Sơn Hà ngày nay. Việc xảy ra đó khiến cho cả Hội đồng
đầy dẫy ơn phước Chúa. Ngọn lửa phục hưng bùng cháy tại Cần Thơ, ra đến Đức Phổ (miền Trung),
đến Đà Nẵng và ra tận Hà Nội.
Sau đó thanh niên Nguyễn Sơn Hà dâng mình đi học Trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng vào năm
1949, tốt nghiệp Thần Học năm 1952, được tấn phong Mục sư năm 1958 tại Hội thánh Nguyễn
Tri Phương, Sài Gòn.
Cố Mục sư Nguyễn Sơn Hà đã hầu việc Chúa các nơi như sau:
1. HT. Giá Rai - Bạc Liêu 1952 – 1953
2. HT. Sài Gòn 1953 – 1954
3. HT. Nguyễn Tri Phương 1954 – 1959
4. Thánh Thơ Công Hội 1959 – 1961
5. Trung tâm Thanh niên 1961 – 1962
6. HT. Mỹ Tho 1962 –1988 đến nay là 26 năm.
Các chức vụ trong Hội Thánh Tin Lành Việt Namnhư sau:
1. Thư ký Địa hạt miền Tây Nam phần từ 06.02.1969 đến 18.02.1974 là 05 năm.
2. Tổng Thư ký Hội Thánh Tin Lành Việt Nam từ năm 1964 đến nay (1988) là 24 năm.
3. Đoàn trưởng Thanh niên Nam hạt nhiều năm.
4. Tổng Đoàn trưởng Thanh niên Tin Lành Việt Nam một nhiệm kỳ, sau đó nghỉ vì cớ tuổi đã
qua 40 thêo điều lệ.
Công tác đặc biệt:
1. Xây dựng nhà thờ và tư thất Hội Thánh Nguyễn Tri Phương, Sài Gòn năm 1953 - 1954.
105
2. Xây dựng trụ sở Địa hạt Nam phần.
3. Xây dựng một phần tư thất Hội Thánh Mỹ Tho và cơ sở từ thiện của Hội Thánh Mỹ Tho từ
năm 1964 -1972.
4. Mở mang các Hội Thánh như: Ấp Bắc, Mỹ Phúc, Tân Long, Chợ Gạo, và hợp tác xây dựng Hội
Thánh người Hoa ở đường Ngô Quyền, Mỹ Tho.
Mục sư Nguyễn Sơn Hà đã dâng trọn cuộc đời mình cho Chúa, tận trung trong chức vụ, nay đẹp
lòng Chúa, Ngài đã tiếp rước ông về Nước Trời vinh hiển của Ngài với tuổi đời 64, tuổi đạo 64 và
40 năm trong chức vụ.
Xin trích dẫn Lời Chúa trong IITi 4:7-8 để nói về Mục sư Nguyễn Sơn Hà, ông “đã đánh trận tốt
lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình sẽ ban mão ấy
cho ông trong ngày đó, không những cho ông mà thôi,nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến
của Ngài”.
Trong tình thương đời đời của Cứu Chúa, chúng ta vô cùng thương tiếc Mục sư Nguyễn Sơn Hà.
Bài đọc trong lễ Tang ngày 01.08.1988 tại Nhà thờ Tin Lành Sài Gòn
MS Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 43-45.
106
Cụ bà quả phụ Mục sư Trí sự LÊ KHẮC HÒA
(Nhũ danh: NGUYỄN THỊ TÂN)
Cụ bà quả phụ Mục sư Trí sự Lê Khắc Hòa, nhũ danh Nguyễn thị Tân, sinh ngày 14 tháng 3 Âm
lịch năm 190..., tại Tân Hi, Quảng Nam, hưởng thọ hơn 85 tuổi.
Thân phụ của cụ là cụ Nguyễn Châu Tuấn, một công chức cao cấp tại Trung Kỳ trong những thập
niên đầu của thế kỷ nầy, đứng hàng Tứ phẩm về phía Nam triều. Thân mẫu của cụ là cụ bà Nguyễn
Thị Cương, một trái đầu mùa của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng, nơi mà Tin
lành đầu tiên được rao truyền đến nước ta vào năm 1911.
Cụ bà Nguyễn Châu Tuấn sau khi tin nhận Chúa đã chịu bắt bớ và thử thách rất lớn, song vẫn
kiên cường giữ vững đức tin. Rất sốt sắng trong sự làm chứng về Chúa. Cụ đã đưa dắt hằng trăm
linh hồn trở về cùng Chúa, kể cả đại gia đình phía mình và phía chồng, trong đó có hàng chục anh
êm, con cháu sau đã trở thành Mục sư, Truyền đạo của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Trong số nầy
có hai ái nữ của cụ là cụ bà Quả phụ Mục sư Trí sự Lê Khắc Hòa và bà Mục sư Lê Trung Hậu, nhũ
danh là Nguyễn Thị Hiên cũng đã quá cố.
Cụ bà Mục sư Lê Khắc Hòa, cũng như thân mẫu mình, đã thêo học Lời Chúa tại Trường Kinh
Thánh Đà Nẵng – tiền thân của Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang.
Kỳ diệu thay, tình yêu Cứu Chúa đã chinh phục trái tim cụ. Và đó chính là điều chuyển hướng
quan trọng và lạ lùng trong cuộc đời cụ. Cụ đã nghê được tiếng gọi của tình yêu, kể từ đó những xa
hoa, phù phiếm trong đời tạm nầy đã trở thành hoàn toàn vô nghĩa đối với Cụ. Sau nhiều lần tranh
chấp với nội tâm, c đã quyết định chọn lấy con đường chông gai, nghèo khó, cam go, nhọc nhắn để
chỉ muốn làm người Truyền đạo của Đức Chúa Trời. và cũng đi thêo ước vọng của mẹ mình, cụ bà
đã hứa nguyện dâng trọn đời mình hầu việc Chúa cách đặc biệt.
107
Với chí hướng đó, cụ bà đã chấp thuận lời ngỏ ý cầu hôn của ông Lê Khắc Hòa, một học sinh của
Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, trưởng nam của cụ Nghè Lê Khắc Doãn, người đỗ thủ khoa Tiến sĩ
văn chương tại chốn kinh kỳ, làm vẻ vang cho sinh quán mình tại đất Thanh Hóa.
Sau khi cùng chồng theo học Lời Chúa tại Trường Kinh Thánh, cụ bà đã cùng ông đi hầu việc
Chúa tại nhiều nơi trên đất nước Việt Nam.
Thời kỳ 1: Thực tập hầu việc Chúa tại Hội Thánh Tin Lành thành phố cảng Hải Phòng (1928 –
1930).
Thời kỳ 2: Tốt nghiệp tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng sau niên khóa 1930 – 1931.
Thời kỳ 3: Truyền đạo Chủ tọa Hội Thánh Sơn Tây (1932 – 1934). Nơi đây ông bà đã vượt qua
khó khăn thử thách: mất đứa con gái đầu lòng, lãnh số lương mỗi tháng chỉ được 7 đồng 50 xu Ngân
hàng Đông Dương. Trong thời kỳ khủng hoảng, số tiền lương chỉ đủ mua một bao gạo và một thùng
nước mắm, thức ăn chỉ trông cậy vào cây đu đủ trồng ở sau nhà giảng; khi có thêm đứa con thứ hai,
cả hai mẹ con chỉ cân nặng 28 ki-lô-gam. Trong những tháng ngày gian khổ nầy, mọi sự giúp đỡ về
tinh thần và vật chất của thân mẫu từ Đà Nẵng đã thêm sức mạnh cho ông bà và toàn thể gia đình.
Thời kỳ 4: Truyền đạo Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành tại Kinh đô Huế (1934 – 1938).
Thời kỳ 5: Truyền đạo Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Vinh (1938 – 1942). Ông được tấn phong
Mục sư tại Hội đồng Tổng Liên hội năm 1940 họp tại Hội An.
Thời kỳ 6: Mục sư Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Phan Thiết (1942 – 1943). Ông đắc cử Phó Chủ
nhiệm Địa hạt Trung bộ vào thời kỳ nầy.
Thời kỳ 7: Mục sư Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Nha Trang - Thành.
Thời kỳ 8: Mục sư Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Ban Mê Thuột.
Thời kỳ 9: Mục sư Chủ tọa Hội Thánh Tin Lành Phan Thiết lần thứ hai.
MS Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 40-42.
108
Mục Sư ÔNG VĂN HUYÊN
(1902-1999)
Hội trưởng thứ VII và là vị Hội Trưởng lâu nhất (1976-1999)
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Cụ Mục sư (MS) Ông Văn Huyên tin Chúa vào năm 1920 và vào học trường Kinh Thánh năm 1922.
Sau khi ra trường,cụ bắt đầu hầu việc Chúa không ngơi nghỉ cho đến ngày về nghỉ yên trong nước
Chúa. Trong thời gian hầu việc Chúa, cụ đã giữ nhiều chức vụ quan trọng và đóng góp hết mình để
xây dựng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (HTTLVN) trong thời gian dài.
Cụ MS Ông văn Huyên là vị Hội trưởng lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) vào
giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Hội Thánh. Một nhiệm kỳ đầy khó khăn, thử thách từ bên ngoài lẫn
bên trong, cũng là vị Hội Trưởng lâu nhất trong lịch sử Hội Thánh với 23 năm (1976-1999). Nhưng
có lẽ Hội Thánh chung nhớ đến cụ nhiều nhất trong chức vụ Đốc học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng và
Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang. Bởi tại chức vụ này cụ đã góp phần đào tạo hầu
hết các Mục sư và các nhà lãnh đạo HTTLVN qua nhiều thế hệ.
Tuy cụ còn có những điều chưa hoàn hảotrong công tác lãnhđạo nhưquá quyết đoán trong công
việc,chưa lắngnghe chưa đầy đủ nhưđáng phải có….Do khiếm thịtrong lúc tuổi cao nên có hạn chế
nhấtđịnh khi sàng lọc,lựa chọn những thông tin từ nhiều nguồn trong tình cảnh khó khăn mọi bề của
Hôi Thánh chung trong giai đoạn 1976-1993.
Nhưng cụ là tấm gương trung tín với Lẽ thật, mẫu mực trong đời sống, tận tụy, liêm chính trong
chức vụ, công bằng,nghiêm minh khi thưc hiện điều lệ của Hội Thánh chung. Trong cung cách lãnh
đạokhôn ngoan, cụ không thối lui trước những khó khăn, tấm lòng nhân hậu với các bạn đồng lao và
với mọi người,đặc biệt đã phó thác cuộc đời mình hoàn toàn trong ý chỉ của Chúa.Trong suốt linh
trình hầu việc Chúa, cụ đã để lại tấm gương hầu việc Chúa trung kiên cho Hội Thánhnói chung và
nhất những người hầu việc Chúa và các vị lãnh đạo Hội Thánh sau này suy gẫm.
109
1. Thuở thiếu thời và sự kêu gọi
Cụ MS Ông Văn Huyên sinh ngày 14 tháng 10 năm 1902, năm Nhâm Dần (1), tại làng Phong Lệ,
Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình thêo nề nếp Khổng giáo.
Thân phụ Cụ MS Ông Văn Huyên là cụ Ông Văn Thuyên, thường được gọi là Hương Huyên, một
nhân sĩ uy tín trong làng, giỏi chữ Nho, làm thầy dạy học, hốt thuốc chữa bệnh thêo y lý đông
phương nhưng nghề nông mới là sinh kế chính của gia đình. Thân mẫu cụ Mục sư Huyên là cụ bà
Nguyễn Thị Ích, người làng Dương Sơn, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. MS Huyên là con cả với
13 người em gồm 5 nam và 8 nữ, trong một gia đình có tất cả 14 người con (2).
Thuở thiếu thời, MS Huyên học chữ Nho rồi đến Tam Tự Kinh, Tứ Thư, Ngũ Kinh nơi chính thân
phụ mình. Ngoài việc học với thân phụ, MS Huyên còn theo học Hán văn với thầy Lê Vy đến từ Điện
Bàn. Lúc bấy giờ, thân hào, nhân sĩ trong làng đồng lòng lập một trường làng để con em có chỗ tập
trung học tập và MS Huyên bắt đầu học tập tại ngôi trường này. Sau có thầy Lê Xáng (giỏi Hán văn,
Pháp văn và cả Việt Văn) đến làng dạy họcrồiđến thầy Đỗ Hoàn (còn gọi là Ba Cảnh) cũng đến dạy
Pháp văn ở trường làng. Thêo đà phát triển, các nhân sĩ tại địa phương đã chọn Dương Sơn, thuộc
Điện Bàn, Quảng Nam để lập một trường bán công hầu đáp ứng nhu cầu học tập của con em ở địa
phương và các làng lân cận. Thầy Tư từ Quảng Trị vào làm Hiệu trưởng đầu tiên của trường bán
công này.Lúc bấy giờ MS Huyên vừa theo học ngoại ngữ vừa dạy một lớp nhỏ hơn tại trường. Sau
thời gian theo học tại đây, do nhu cầu học tập, MS Huyên ra Touranê (Đà Nẵng) để nâng cao trình
độ học vấn. Đến Đà nẵng ông được mời làm Giáo Thụ tại An Hải và ở trọ nhà ông Biện Duân.
Vào năm 1920 có một nhà Nho uyên bác đã vài lần lều chõng đi thi nhưng không đỗ khoa nào
của Triều đình Huế nhưng lại phước cho ông là đã đỗ vào nhà Chúa, đó là nhà Nho Phan Đình Liệu.
Hội Thánh Tin Lành Đà Nẵng có một nhà nguyện tại An Hải, nhà Nho Phan Đình Liệu được cử đến
đây mỗi tuần để làm chứng về Chúa. Do biết cụ Liệu là một nhà Nho có tài nên qua sự giới thiệu của
một nhân sĩ mới tin Chúa là ông Trương Đình Loan (tin Chúa tại La Châu, Hòa Vang, Quảng nam)
MS Huyên cùng một số thân hào tìm đến một phần chỉ để nghe thầy Liệu làm chứng về Chúa, còn
phần chính mới là để tranh luận với thầy Liệu về đạo lạ hầu bảo vệ Khổng giáo (4).
110
Vào một đêm cuối năm 1920, có 8 thân hào tiếp nhận Chúa trong đó có các vị:Ông
VănHuyên,Biện Duân, Thủ Thừa, và Xã Tráng. Năm 1921, Giáo Thụ Ông Văn Huyên lập gia đình
cùng cô Ngô Thị Huyền người làng Cẩm Nê, Hòa Vang,Quãng Nam (5).
Sau khi tin Chúa vào năm 1921, qua sự giới thiệu của thầy Phan Đình Liệu, ông xin vào học
Trường Kinh Thánh, Đà Nẵng nhưng chỉ được nhận làm học viên lớp dự bị bởi các giáo sư cho rằng
ông chưa đủ tuổi để học chính thức. Ông phải học lớp dự bị từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1922. Dù
đương kim là Giáo Thụ, lại bị từ chối học chính thức,ông vẫn siêng năng học tập. Điều nầy cho thấy
ông mong muốn học lời Chúa đến mức nào.
Niên khóa 1922-1923,ông được nhận học chính thức tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng và học
tiếp niên khóa 1923-1924. Cùng khóa với ông có các vị: Phan Đình Liệu, Lê Văn Thái, Nguyễn Châu
Thông, Nguyễn Xuân Diệm. Lúc bấy giờ Giáo sĩ Jêffrêy làm Đốc Học, các vị Giáo Sĩ Irwin, Smith, Mục
Sư Hoàng Trọng Thừa làm giáo sư; phụ giáo có các bà giáo sĩ Irwin và Jêffrêy.
2. Những năm chức vụ
Sau hai năm học, năm 1924 ông bà Truyền đạo (TĐ) Huyên được bổ chức đến Vĩnh Long, Nam
phần, hầu việc Chúa với cương vị người đi vỡ đất mới. Đến Vĩnh Long, ông bà Truyền đạo cư trú
trong một căn phố do giáo sĩ Irwin mướn trong khu vực Cầu Tàu, Lục Tỉnh.Nơi ở cũng là nơi giảng
Tin Lành. Đa số những người bằng lòng nghe ông bà làm chứng là những nghèo, thuộc tầng lớp
bình dân trong xã hội.
Hằng ngày ông bà phải lội bộ, vượt qua kênh rạch đến từng gia đình tận Tân Nghĩa (cách Vĩnh
Long 5 km) và Tân Hạnh để làm chứng về Chúa. Chúa dã dùng ông Huỳnh Văn Huấn và một phụ nữ
đã tin Chúa tại Sa Đéc làm những người đồng công đắc lực với ông bà TĐ trong việc gieo hạt giống
Tin lành tại Vĩnh Long. Tại đây, TĐ Huyên đã cầu nguyện và Chúa đã nhậm lời đuổi quỷ ra khỏi ông
Hai, chữa lành bệnh mất trí cho bà Ba,hai người này đã trở thành những trái đầu mùa tại HTTL
Vĩnh Long. Tiếp đó là cụ Cả Điệp và một thầy thuốc tại Tân Hạnh tin Chúa. Đặc biệt phía bên bắc Mỹ
Thuận có thầy giáo Nguyễn Tấn Thành vốn quê ở Bình Định, giỏi cả Tây học lẫn chữ Nho, sau suốt
cả năm tranh cãi về Đạo đã cùng 10 người khác đầu phục Chúa. Tiếp đó là ông bà Hồ Văn Sa, còn
gọi là ông Tư Nhung, một người sửa xê hơi có tiếng tại Vĩnh Long tiếp nhận Chúa. Tại Cái Đô cách
Vĩnh Long 8 km, Chúa đã gọi một người làm thợ rèn tin Chúa. Thật là một mùa gặt lớn lúc bấy giờ
và các vị này đã trở thành rường cột trong việc hình thành HTTL tại Vĩnh Long.
Lúc này có giáo sĩ I.R. Stêbbins tiếp sức trong việc xây dựng nhà Chúa tại Vĩnh long, lại thêm hai
vị chấp sự Nguyễn Văn Ất và Nguyễn Văn Lộc từ xa đến. Hai vị này đã cùng Thầy TĐ Huyên lặn lội
mua cây từ cù lao Gien, tận Long Xuyên, cách Vĩnh Long gần 200 km, rồi kết cây thành bè, cả ba vị
leo lên bè dùng sào chống,chèo về Vĩnh Long để xẻ gỗ xây cất ngôi nhà thờ đầu tiên của HTTL Vĩnh
Long,trên khu đất thuê của ông Phó Mười Hai (6).
Niên khóa 1926-1927,đúng kỳ TĐ Huyên được về học tốt nghiệp nhưng vì Hội Thánh còn non
trẻ, lại không có người thay thế nên ông bà TĐHuyên đã lưu lại tại HT Vĩnh Long thêm một năm.
Giữa năm 1927, TĐ Trần Xuân Hỷ đến Vĩnh Long tiếp tục việc xây cất nhà thờ để TĐHuyên về
trường học năm tốt nghiệp vào niên khóa 1927-1928.
Năm 1928, TĐHuyên tốt nghiệp tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng cùng với các vị: Lê Đình Tươi,
Lê Văn Thái, Huỳnh Văn Ngà, Đặng Ngọ Cầu, Nguyễn Đằng, Trần Vô Tư,Huỳnh Kim Luyện, Lê Văn
Trầm, Lê Văn Quế, Bùi Tự Do.
111
Ngay sau khi tốt nghiệp, TĐ Ông Văn Huyên cùng TĐ Đặng Ngọc Cầu tình nguyện ra đảo Lý Sơn,
tỉnh Quãng Ngãi để giảng Tin Lành.Tại Lý Sơn cả hai vị đều bị bắt giải về Quảng Nam chịu phạt 3
tháng tù khổ sai, sau đó phải đóng tiền phạt mới được trả tự do sớm trước thời hạn.
Tháng 7 năm 1928 sau khi được trả tự do, TĐ Huyên được bổ nhiệm làm chủ tọa HTTL Cần thơ
thay cho MS Trần Dĩnh. Chính tại nơi đây MS Huyên cùng các con cái Chúa lúc ban đầu của HT Cần
Thơ đã xây dựng nền tảng thuộc linh, tạo dựng cơ sở vật chất làm nền móng cho HT Cần Thơ phát
triển cho đến ngày nay.
Trước lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh năm 1928, TĐÔng Văn Huyên cùng các vị nhưBùi Tự Do, Lê
Đình Tươi, Huỳnh Văn Ngà được phong chức Mục Sư tại Nhà thờ HTTLVĩnh Long. Cũng trong thời
gian này ông đã góp phần soạn thảo bản tu chính điều lệ của HTTLVN.
Tháng 5 năm 1929, TĐ Lê Văn Ngọ đến Cần Thơ thay chức vụ chủ tọa. MS Ông Văn Huyên được
chuyển về Trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, ông đã nỗ lực cộngtác
với các giáo sư để hoàn thiện dần các môn học cho học sinh tại Trường Kinh Thánh. Đặc biệt ông
đã cộng tác với giáo sĩ J.D. Olsên để soạn bộ Sử ký Hội Thánh và Thần Đạo Căn bản mà giá trị của 2
bộ sách này đã vượt thời gian.
Năm 1931 tại Hội Đồng Tổng Liên Hội (HDTLH) được tổ chức tại Hà Nội, MS Huyên nhận thêm
nhiệm vụ Tổng Thư ký trong Ban Trị sự Tổng Liên Hội. Ông cũng kiêm chủ bút Nguyệt San Thánh
Kinh Báo cho đến năm 1960 (sau này đổi thành Thánh Kinh Nguyệt San và đến tháng 4 năm 1975
bị đình bản cho đến ngày nay).
Năm 1934 do nhu cầu của Hội Thánh, MS Huyên đã đến Huế thay thế Mục Sư Lê Khắc Hòa (7).
Tại Huế một số nhân sĩ trong thành nội bắt đầu biết đến Tin Lành qua MS Huyên như các vị:
Ưng Khoa (trợ lý Quốc vụ khanh Triều đình), Quận công Hường Oai (cháu nội vua Minh Mạng,cụ
Huỳnh Thúc Kháng (chủ nhiệm báo Tiếng Dân), cụ Phan Bội Châu (lãnh đạo phong trào Đông Du).
Trong khi nhận nhiệm vụ chủ tọa Hội Thánh tại Huế, MS Huyên vẫn giảng dạy tại TKTĐN.
Năm 1942 đương kim Hội trưởng HTTLVN, MS Lê Đình Tươi lâm bệnh đột ngột rồi qua đời, MS
Lê Văn Quế,phó Hội Trưởng lại vừa về nước Chúa trước đó không lâu. MS Huyên với chức vụ Tổng
Thư ký đã gánh trách nhiệm triệu tập Hội Đồng Tổng Liên Hội để bầu cử lại các chức vụ này vào
tháng 1 năm 1943. Tại Hội đồng này MS Lê Văn Thái nhận chức vụ Hội trưởng (8).
Tháng 7 năm 1943, Nhật đảo chánh Pháp; các giáo sĩ bị Nhật giữ tại Mỹ Tho. MS Huyên làm
quyền Đốc Học để duy trì hoạt động đào tạo đầy tớ Chúa tại Trường Kinh Thánh và niên khóa 1943-
1944, Trường Kinh Thánh Đà Nẵng hoàn toàn do các giáo sư Viêt Nam giảng dạy.
Năm 1944, tà thuyết “Định ngày Chúa tái lâm” bắt đầu bởi MS Trần Như Tuân, lúc này đang là
Chủ nhiệm Địa hạt Trung phần. Ông đã phổ biến tà thuyết này một cách nhiệt thành. Hội Thánh
hoang mang chia rẽ, làm cớ đàm tiếu cho nhiều người ngoài Hội Thánh. Kết cuộc năm 1945, MS
Tuân phải từ chức Chủ nhiệm địa hạt. MS Huyên với cương vị Tổng Thư ký Tổng Liên hội phải kiêm
chức vụ Chủ Nhiệm này. Ông vừa điều hành vừa hàn gắn các vết thương trong Hội Thánh trong tình
hình chung rất khó khăn.
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt Pháp lan đến Đà Nẵng, cũng như hầu hết dân
chúng và tín hữu, các giáo sư Trường Kinh Thánh cũng tản cư về các vùng quê. Trường Kinh Thánh
tạm thời phải ngưng hoạt động. Quân đội Pháp chiếm đóng, sử dụng các cơ sở của Hội Thánh địa
112
phương và Trường Kinh Thánh. Thời gian tản cư, Chúa đã cứu MS Huyên thoát chết nhiều lần một
cách diệu kỳ.
Năm 1947 bắt đầu hồi cư, MS Huyên nhận chức vụ Chủ tọa HTTL Đà Nẵng thay MS Nguyễn Văn
Thìn đã chuyển đến HTTL Quế Sơn, Quảng Nam. Lúc này MS Huyên tiến hành xin nhận lại các cơ
sở của Hội Thánh bị quân đội Pháp trưng dụng và được trao trả. Tháng 7 năm 1948 MS Lê Đình Tố
nhận chức vụ chủ tọa HTTL Đà Nẵng thay MS Huyên trở lại với nhiệm vụ chính tại Trường Kinh
Thánh.
Nhờ nỗ lực không mệt mỏi của MS Huyên, giáo sĩ Olsên và các bạn đồng lao khác, tháng 8 năm
1948 Trường Kinh Thánh hoạt động trở lại. MS Huyên giữ nhiệm vụ Đốc Học cùng với giáo sĩ J.D.
Olsên. Năm 1949, MS Huyên nhận chức vụ Đốc Học Trường Kinh Thánh sau khi giáo sĩ J.D. Olsên
nhận chức vụ Hội Trưởng Hội Truyền Giáo. Trong giai đoạn này, MS Huyên đã góp phần nhuận
chánh Kinh Thánh phần Tân Ước.
Năm 1955 tại Hội Đồng Tổng Liên Hội được tổ chức tại HTTL Gia Định từ ngày 21 - 27 tháng
09. Hội Đồng này được xem là một thử thánh lớn trong quá trình phát triển của Hội Thánh. MS
Huyên với chức vụ Tổng Thư Ký đã phải chủ tọa Hội Đồng và Chúa dùng ông để đưa Hội Thánh
vượt qua biến cố này một cách đáng kinh ngạc (9).
Từ những năm đầu của thập niên 1950, với tầm nhìn của ban Giáo Sư Trường Kinh Thánh và
đặc biệt là của hai người bạn đồng lao thân thiết: MS Lê Văn Thái (Hội trưởng HTTLVN đương
nhiệm)và MS Ông văn Huyên (Tổng Thư Ký HTTLVN, Đốc Học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng đương
nhiệm) Hội Thánh đã bắt đầu vận động để có một địa điểm tốt hơn đào tạo người hầu việc Chúa đủ
khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của Hội Thánh.
Năm 1958, Chúa cho cơ hội phát triển Trường Kinh Thánh đến nhân dịp ông Ourgaud là sở hữu
chủ của hơn 10 mẫu đất tại Hòn Chồng, Nha Trang muốn thu xếp để về Pháp. Trong hoàn cảnh
chung của Hội Thánh lúc bấy giờ, cơ sở vật chất của Thánh Kinh Thần Học Viện (TKTHV) tại Hòn
Chồng Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) bắt đầu được hình thành từ khu đất chỉ toàn là núi đá tại Hòn
Chồng thuộcVĩnh Phước, thành phố Nha trang tỉnh khánh Hòa bởi sự nỗ lực đáng khâm phục của
các con cái, tôi tớ Chúa, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước đặc biệt là các vị: Mục sư Truyền giáo
Nguyễn Văn Tâm (Di Linh, tỉnh Tuyên Đức, ngày nay là tỉnh Lâm Đồng); Giáo sĩ J.H. Rêvêllê (Hội
trưởng Hội Truyền giáo), Giáo sĩ L.L. King (Tổng Thư ký Hải ngoại của Hội Truyền giáo CMA tại Hoa
Kỳ) cùng với sự góp phần đầy tinh thần trách nhiệm của các vị đốc công như Mục sư Duy Cách Lâm
(HTTL Dalat); ông Lê Sô (HTTL Dalat); ông Trần Nga (HTTL-Dalat (10).
MS Huyên thường phải tự mình lái xe (xe Land Rover) từ Trường Kinh Thánh Đà Nẵng đến Nha
Trang, lên Đalat, vào Sài Gòn rồi lại trở ra Đà Nẵng để lo việc xây cất TKTHV trong giai đoạn này
(11).
Niên khóa 1960-1961,khóa học đầu tiên được khai giảng tại cơ sở mới xây dựng tại Hòn Chồng,
Nha Trang. Trường Kinh Thánh được chính thức đổi tên thành “Thánh Kinh Thần Học Viện”.MS
Ông văn Huyên giữ chức vụ Viện trưởng đầu tiên của Viện.
Từ năm 1968 nhờ ơn Chúa, nỗ lực chung của Hội Thánh, đặc biệt là MS Viện Trưởng TKTHV và
Mục sư Giáo sư Tiến sĩ Lê Hoàng Phu. Ban Giáo sư TKTHV đã xây dựng một chương trình đào tạo
nhân sự đáp ứng nhu cầu phát triển của HT và truyền giáo trong thời kỳ mới (12).
113
Năm 1971, MS Huyên tham dự Hội nghị Giáo dục Thần Học tại Singapore. Tại đây, TKTHV được
chính thức công nhận là thành viên của Liên đoàn Thần Học Viện Đông Nam Á. Sau hội Nghị này,
MS Huyên lại một lần nữa đề nghị Ban Trị sự Tổng liên Hội cho ông được nghỉ hưu nhưng lại được
yêu cầu vẫn giữ chức vụ Viện trưởng cho đến khi có người thay thế phù hợp, dù cụ MS Huyên đã
giới thiệu người thay có khả năng nhận nhiệm vụ thay cụ (13).
Tháng 3 năm 1975 do chiến tranh, tất cả các sinh viên tại TKTHV tạm ngưng học để trở về nhà.
Các giáo sĩ và phần lớn các giáo sư rời nhiệm sở. Làn sóng di tản quét qua thành phố Nha Trang.
Các vị lãnh đạo Hội Truyền giáo và Hội Thánh liên tục gọi điện yêu cầu MS Viện Trưởng rời nhiệm
sở để vào Saigon do chiến tranh, nhất là sau khi các giáo sư nước ngoài đã ra đi nhưng cụ MS Huyên
và một số giáo sư khác đã quyết định không rời nhiệm sở (14).
3. Những năm chức vụ sau 1975
Niên khóa 1975-1976,TKTHV khai giảng trong cảnh thanh bình của đất nước, số học viên tăng
lên dù lương thực trở thành vấn đề chính cần giải quyết. MS Huyên vẫn giữ chức vụ Viện trưởng.
Đại hội đồng TLH lần thứ 41 được tổ chức từ ngày 14-16 tháng 6 năm 1976. Sau nhiều đắn đo,
cụ đã nhận chức vụ Hội Trưởng.Trong lời phát biểu tại Đại Hội Đồng khi nhận chức vụ cụ nói: “Tôi
đắc cử Hội Trưởng HTTLVN Miền Nam trong trường hợp quá ư đặc biệt này, tôi xin vâng phục ý
Chúa và Hội Đồng. Nguyện xin làm người lính canh trông đợi sáng như lời Chúa dạy trong Thi Thiên
130:6.” (15)
Tại phiên họp Ban Trị sự TLH ngay sau đó, Cụ Huyên vẫn phải kiêm Viện Trưởng Thánh Kinh
Thần Học Viện.Niên khóa 1976-1977, TKTHV bị chính quyền từ chối đơn xin khai giảng và sau đó
phải ngưng hoạt động. Nhà Nước quản lý, sử dụng cơ sở nàycho đến ngày nay.
Ngày 09/08/1976 gia đình cụ chuyển hộ khẩu từ Nha Trang vào cơ sở Nhà Thờ Tin Lànhtạisố
7 Trần Cao Vân, Quận 1, TP HCM. Tư thất Hội Trưởng tại nhà số 30 Huỳnh Quang Tiên, Quận 1 (nay
là Hồ Hảo Hớn) vẫn do cụ MS Đoàn Văn Miêng (phó Hội Trưởng) sử dụng.
Năm 1977, HTTLVN(MN)bắt đầu gánh chịu những biến động lớn bất lợi (16). Những biến động
này đã tác động xấu đến sức khỏe vốn đã yếu của cụ do tuổi cao lại bị bệnhđaumắt do bệnh cườm,
nhiễm trùng mắt do giải phẩu rất nặng. Nhưng tinh thần thì vẫn tráng kiện nhờ sức mới Chúa Ban.
Vào năm 1980, trước những một biến cố bất lợi chất chồng, cụ đã tâm tình “…không sợ gió to, chỉ
lo cột kèo không vững.”
Nhưngthử thách cứ chồng lên thử thách, những biến động từ nôi bộ Hội Thánh trong giai đoạn
này do những anh êm chưa hiểu đúng, đầy đủ lời Chúa hoặc tự tôn mình lên, số khác lại sa ngã đã
114
làm cho Hội Thánhchung đau xót và tất nhiên người lãnh đạo không thể không thể không xót xa.
Thật là thử thách trăm bề (17).
Nhưng lại một lần nữa,Chúa dùng cụ MS Hội Trưởng đã trên 80 tuổi đưa Hội Thánh chung vượt
qua cơn gió lớn mà trong quá trình xử lý các tình huống bất thường này, nhờ ơn Chúa, cụ đã không
để Hội Thánh chung phải chịu mang một tiếng bất thường nào.
Năm 1979 trước tình trạng sức khỏe suy yếu, để giải quyết những diễn biến hoàn toàn ngoài ý
muốn cả bên trong lẫn bên ngoài của Hội Thánh, cụ đã làm đơn xin Chính Phủ cho phép họp Ban
Trị sự TLH mở rộng để giải quyết những vấn đề chung của Hội Thánh nhưng bị từ chối (18).
Năm 1982, mổ mắt bên trái do bị đục thủy tinh thể (cataract) nhưng lại bị nhiễm trùng kéo dài
dẫn đến hỏng mắt trái. Năm 1986, mổ mắt bên phải do bị cườm nước (Glaucome)và lại bị nhiễm
trùng. Sau đó, cụ bị khiếm thị nặng hơn. Sau tất cả chừng 2 lần mổ lớn nhỏ tại Bệnh viện Chợ Rẫy,
hơn 6 lần vào ra các bệnh viện và nhiều lần tại phòng khám tư, mắt cụ hoàn toàn không còn thấy
đường (19).
Vào cuối năm 1983,MS Hồ Hiếu Hạ (chủ tọa HTTL Trần Cao Vân, Q.1), cùng với một số vị MS
khác đang hầu việc Chúa tại TP Hồ Chí Minh bị bắt. Nhà Nước quản lý cơ sở 7 Trần Cao Vân.Gia
đình cụ chuyển về tư thất Hội Thánh Saigon, số 161 Đề Thám, Q.1, cụ kiêm chức Chủ nhiệm Địa hạt
Đông Nam Bộ và chủ tọa HTTL Saigon, thay cho MS Phạm Văn Thâu xuất cảnh đoàn tụ gia đình tại
Canada.
Về sau, MS Phan Quang Thiệu được mời làm chủ tọa HTTL Sài Gòn. Gia đình cụ rời tư thất Hội
Thánh Saigon tại 161 Đề Thám, Q.1, chuyển đến một diện tích khiêm tốn thuộc khu vực Văn phòng
Tổng Liên Hội nằm ở tầng trệt của Nhà thờ Sài Gòn, số 155 Trần Hưng Đạo, Q.1, TP Hồ Chí Minh.
Năm 1994,trước tình trạng sức khỏe của cụ,nhất là do khiếm thị hoàn toàn, cụ đã không còn
kiểm soát được ngay cả nội dung văn bản điều hành do cụ ký tên. Một số vị MS lão thành trong Hội
Thánh góp ý, đặc biệt sau khi cụ MS Phạm Xuân Tín và cụ MS Lê Khắc Cung phản ảnh tình hình
chung trong Hội Thánh. Cụ Huyênđã chuẩn bị giao việc điều hành Hội Thánh chung cho một số vị
MS trong Ban Trị sự TLH còn lại, phù hợp với ý củacác vị MS niên trưởng khác. Thêo đó,cụ chỉ ký
văn bản điều hành phản ảnh nội dung điều hành của các vị này hầu tránh nhầm lẫn,nhưng sau đó
việc này đã không thành do bị ngăn cản từ chính bên trong bằng những thông tin sai lạc (20).
4. Những sự đóng góp
Cụ MS Huyên trong những năm hầu việc Chúa của mình ngoài việc chủ tọa các chi hội, cụ đã
tham gia những công tác khác như:
- Tổng thư ký TLH trong suốt một thời gian khá lâu (1931-1960)
- Chủ nhiệm kiêm chủ bút Nguyệt San Thánh Kinh Báo (1931-1960) sau đổi thành Thánh Kinh
Nguyệt San
- Sáng lập và duy trì Quỹ Dưỡng Lão Mục sư Truyền đạo. Tạo mãi khu Dưỡng Lão cho Mục sư
Truyền Đạo tại Hòn Chồng Nha trang.
- Góp phần nhuận chánh Kinh Thánh Tân Ước.
- Soạn thảo điều lệ Hội Thánh năm 1928 và tái tu chính điều lệ HTTLVN, dự thảo Hiến Chương
1974.
115
- Soạn lời một số Thánh Ca (21).
- Cảm tác những vần thơ ca ngợi tình yêu Thiên Chúa.
- Góp phần tích cực thành lập Cô Nhi Viện, Thần Học Viện, Chẩn Y Viện Tin lành Nha Trang và
Quỹ Dưỡng lão.
- Tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng và TKTHV, cụ dạy các môn: Bốn sách Tin Lành Tham khảo,
Thánh Kinh Địa lý, Tin Lành Giăng và đặc biệt cụ dạy xuất sắc môn Tuyên đạo pháp với một trí nhớ
khác thường (22).
Để tạm kết thúc phần lược sử này, chúng ta có thể nhắc lại lời của cụ cố Mục Sư Giáo sư Phạm
Xuân Tín, là một người từng được cụ MS Ông Văn Huyên hướng dẫn học lời Chúa tại Trường Kinh
Thánh Đà Nẵng. Về sau, MS Tín người trở thành người bạn đồng lao thân thiết,giữ nhiều nhiệm vụ
quan trong trong Hội Thánh, là người kề cận trong chức vụ với cụ MS Ông Văn Huyên trong một
thời gian khá dài.
Trong tác phẩm “Người được Chúa dùng”, MS Phạm Xuân Tín đã ghi: “Giáo sư Ông Văn Huyên
đặc biệt được Đức Chúa Trời sử dụng trong chức vụ huấn luyện các cấp lãnh đạo trong giáo hội Tin
Lành Việt Nam, tánh tình cương trực nhưng cũng nhu nhược, vừa nghiêm khắc nhưng cũng nhiều
lần mềm dịu, an ủi nâng đỡ cũng như khuyến khích các học viên khi họ ngã lòng… Chính ông đã liên
hệ mật thiết trong sự huấn luyện với tất cả mỗi mục sư, truyền đạo để phục vụ Chúa trong Hội
Thánh Tin Lành Viêt Nam. Mỗi mục sư, truyền đạo đang phục vụ Chúa trong Giáo Hội Viêt Nam đã
xưng cụ MS Viện Trưởng là “Thầy” của mình. Chẳng có một ai đã đêm lại một ảnh hưởng to lớn như
thế trên HTTLVN và đã uốn nắn khuôn khổ hình dáng Hội Thánh cho đến ngày nay như MS Ông
Văn Huyên.”
Khi đã trên 90 tuổi,thể xác hao mòn, ngoài bệnh khiếm thị, bệnh thần kinh tọa tái phát, cụ không
thể quỳ gối cầu nguyện như trước. Cụ đã cúi khom người trên giường mỗi ngày và thưa với Chúa
“Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô ích trước măt Ngài mà thôi…” Cụ thưa với Chúa cho đến khi nghỉ an
trong Ngài vào lúc 7 giờ 10, thứ hai 26/07/1999.
Nói theo ngôn từ của chính cụ cố MSÔng Văn Huyên: “Người đầy tớ vô ích của Chúa đã về hưu
thẳng trong nước Chúa” sau những lần xin về hưu hơn 30 năm về trước không thành (23).
(Ảnh do soạn giả cung cấp)
Ông bà cụ MS Ông Văn Huyên trong dịp sinh nhật lần thứ 92 cùng với soạn giả và bánh sinh
nhật do HTTL Hoa ngữ Lương Nhữ Học tặng
Tài liệu Tham khảo
1. Thánh kinh báo và Thánh Kinh Nguyệt San (1931-1974).
116
2. Người được Chúa dùng –Muc Sư Phạm Xuân Tín.
3. Đời chẳng ai ngờ - Vĩnh Hằng (Đuốc Thiêng tháng 8 năm 2005)
4. Tư liệu riêng của soạn giả.
PHẦN CHÚ THÍCH
(1)Chi tiết đúng này được ghi lại trong gia phả họ Ông làng Phong Lệ, xã Hòa Tiến,Hòa Vang,
Quảng Nam. Bản lưu tại nhà cụ Ông Văn Thuận số 2 Thi Sách, thành phố Đàlạt. Nhiều tài liệu viết
về MS Huyên đã ghi ngày 15/10/1901…, là ngày tháng ghi trong giấy tờ hộ tịch của cụ MS Huyên
do đó đã không đúng. Cả cụ MS Ông Văn Huyên và bà cụ Ngô Thị Huyền đều cùng sinh năm Nhâm
Dần 1902.
(2)MS Huyên có 13 người êm nhưng chỉ có người êm gái thứ năm là bà cụ Ông Thị Chước (thân
mẫu của QPMS Nguyễn Văn Thiệt) và người êm trai thứ chín là cụ Ông Văn Kỉnh (nhà thơ Lệ Nam)
tin Chúa. Các cháu cụ thì tin Chúa nhiều hơn.
(3)Giáo Thụ: chức vụ thời Phong kiến & thực dân Pháp coi về giáo dục trong phạm vi một địa
phương từ cấp Phủ, Huyện trở xuống.
(4)Vị này chính là cụ MS Phan Đình Liệu, một nhà biện giáo đầy ơn, khiêm nhường. Với khả
năng thi phú của mình cụ đã cảm tác nhiều bài thơ ca ngợi tình yêu vô đối của Chúa. Đặc biệt cụ đã
thi hóa các giáo lý căn bản qua tác phẩm Phước Âm Yếu Chỉ Diễn Ca. Lúc bấy giờ MS Huyên đã đứng
đầu một nhóm thân hào, nhân sĩ tranh cãi với cụ Liệu một cách gay gắt trong khoảng thời gian khá
lâu. Một số người quá khích đã ném đá vào nhà giảng khi tạm kết thúc cuôc tranh luận mà cảm thấy
mình chưa “bẻ gãy” được thầy Liệu. Cũng nên nhắc lại thầy Liệu vừa mới tin Chúa không lâu trước
đó lại được Chúa dùng để dắt đưa các vị nhân sĩ này tin Chúa.Khi bị giam tại Nha Trang, Khánh Hòa,
cụ Liệu đã làm chứng và dắt đưa về nhà Chúa 14 người, trong đó có 2 người lính coi trại giam. Có
thể nói cụ MS Liệu là vị “Tuyên Úy “đầu tiên trong trại giam. Vào năm 1972, soạn giả có một điều
may mắn là cùng thờ phượng Chúa chung một nhà thờ với cụ MS Trí sự Phan Đình Liệu tại
Đàlạttrong một thời gian ngắn. Khi đến thăm cụ tại nhà riêng ở Trại Hầm, Đà Lạt, hai ông cháu có
dịp ngồi tâm sự, cụ MS đã nhắc lại sự kiện này với nhiều chi tiết thú vị và nụ cười ý nhị. Lúc bấy giờ
(năm 1920) cụ không ngờ Chúa đã dùng cụ chinh phục người đã góp phần tích cực xây dựng nhà
Chúa tại Việt Nam sau nầy là cụ MS Huyên. Nhiều người tiếp nhận Chúa hoặc trực tiếp hoặc gián
tiếp qua cụ MS Ông Văn Huyên nhưng ẩn mình phía sau đó ít ai ngờ lại là hình ảnh của cụ Mục sư
Phan Đình Liệu. Chính cụ MS Ông Văn Huyên cũng không quên sự kiện lịch sử này trong cuộc đời
cụ - chi tiết ném đá vào nhà giảng do cụ MS Huyên nhắc lại.
(5)Cụ bà MS Ông Văn Huyên, nhủ danh là Ngô thị Huyền (bà cụ MS Huyên) sinh ra trong một
gia đình thế giá tại làng Cẩm Nê, Hòa Vang, Quảng Nam. Gia đình sống bằngnghề nông và dệt chiếu,
sớm mồ côi mẹ, khi cha của bà tục huyền, bà được người cô nuôi dưỡng tại Đà Nẵng. Trước khi lập
gia đình bà cụ làm người quản lý hiệu buôn của cô mình tại chợ Mới Đà Nẵng. Bà cụ MS Huyên là
một người phụ nữ mẫu mực, ngoài việc cùng giúp chồng hoàn thành chức vụ Chúa và Hội Thánh
giao trong những giai đoạn cực kỳ khó khăn, cụ bà còn gương mẫu trong việc cùng các sinh viên
thần học đi chứng đạo hàng tuần, ân cần tiếp khách, dù khách là vị lãnh đạo Hội Truyền giáo hay
một tín hữu thôn quê đến thăm. Bà nấu từng chén cháo giúp sinh viên học tại Thần Học Viện khi họ
ốm đau tại phòng bếp nho nhỏ của tư thất Viện Trưởng (vì quy định của viện không được nấu ăn
riêng bất cứ tại đâu, khi đau ốm thì báo tin nhà bếp nấu cháo. Nhưng ít có bệnh nhân nào muốn ăn
cháo tập thể khi khẩu vị mình thay đổi do bệnh tình). Cụ bà là người xin Chúa cho đồ ăn đủ dùng
117
thêo đúng nghĩa. Cụ chỉ có tiền chợ trong túi đủ mỗi tuần, cái tráp (hộp bằng thiếc) đựng kim chỉ,cái
kéo nhỏ và con dao nhíp để vá quần áo là vật có giá trị của cụ bà. Cũng vì hai cụ ân cần tiếp khách
nên có nhiều người không hiểu, nghĩ hai cụ là người giàu có. Thật sự hai cụ sống rất thanh bần với
số lương khiêm tốn do Hội Thánh chu cấp. Người êm trai thứ chín của Cụ Huyên là cụ Ông Văn Kỉnh
(Nhà thơ Lệ Nam) đã từng học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, sau làm công chức cao cấp ngành Hỏa
xa rồi trở thành một nhà Thầu khoán thành công. Ông đã giúp cụ phương tiện để hầu việc Chúa, kể
cả mua xê hơi riêng cho cụ để có phương tiện đi lại từ những năm 1961. Điều này khiến nhiều người
ngộ nhận. Đặc biệt cụ bà không khi nào chên vào công việc chung của cụ ông ngoài việc cầu nguyện.
Khi cụ bà về với Chúa năm 1993, cụ ông lúc nhắc lại thời gian Chúa đặt hai người bên nhau đã kết
luận “Bà cháu là một hiền thê.”
(6)Cụ Nguyễn Văn Ất nguyên ở Hội Thánh Phong Thử, Điện Bàn, Quảng Nam, đã vào miền Nam
phân phát sách chứng đạo, làm chứng cho người chưa tin Chúa. Cụ Ất là một trong những người
đáng kính phục. Cụâm thầm giêo giống Tin Mừng trên khắp quê hương Việt Nam.Cụ Ất cũng chính
là thân phụ của bà cụ Mục Sư Trí sự Dương Thạnh (nguyên Chủ tọa HTTL Đà Nẵng, nguyên Quyền
Hội Trưởng HTTLVN-MN). Cụ cũng là thân phụ của Mục Sư Nguyễn Văn Hai (nguyên Giáo sư Thánh
Kinh Thần Học Viện);là chú ruột của cố MS Nguyễn văn Thiệt và QPMS Mã Phước Minh; là ông
Ngoại của các MS Dương Quang Hòa, MS Dương Quang Nhân… và là ông chú của soạn giả, luật sư
Nguyễn Văn Thanh.
(7)Có tài liệu ghi là thay Mục sư Trần Mai? Nhưng MS Trần Mai đã được Mục sư Đoàn Văn Khánh
thay thế, kế tiếp là MS Lê Khắc Hòa thay MS Khánh.
(8)Có tài liệu ghi Hội Đồng TLH lần thứ 19 được tổ chức từ ngày 15-19 tháng 8 năm 1942 tại
Dà Nẵng? Đề nghị thẩm tra lại.
(9)Một kế hoạch gây chia rẽ, tranh giành ảnh hưởng được chuẩn bị khá công phu dưới chiêu
bài “Tố những Mục sư thân Cộng” lại được dàn dựng bởi một mục sư mà mục tiêu nhắm đến là MS
Lê Văn Thái (Hội trưởng đương nhiệm ) và MS Trần Xuân Hỷ (Phó Hội trưởng đương nhiệm).
(10)Cụ MS Lê Văn Thái là thân phụ của bà QPMS Nguyễn Châu Chánh, nguyên Hiệu Trưởng
trường Trung Tiểu học Tin Lành Bết Lê Hêm, thuộc Cô Nhi Viện Tin Lành Nha Trang. Cụ Lê Sô là
thân phụ của các MS Lê Thành Chung, MS Lê Thành Hòa… ngày nay. Cụ Trần Nga là con của cố MS
Trí Sự Trần Mai.
(11)MS Huyên trong thời gian xây dựng THV, đã một lần khi lái xê từ Dalat vào Saigon bị tai nạn
trên đèo Bảo Lộc - do sương mù - bị thương nặng ở chân, phải chuyển đến bệnh viện Dalatđể điều
trị. Sau tai nạn này nhiều người không đồng ý để cụ tự lái xê nhưng cụ nói “Tôi lái xê, THV có thêm
một tài xế không phải trả lương” và cụ cứ tiếp tục tự lái xê cho đến năm 1976.
(12)Thêo đó bắt đầu từ năm 1968, TKTHV nhận sinh viên để đào tạo chương trình Cử Nhân
Thần Học, kế tiếp là chương trình Cử Nhân Phúc Âm Học… Trong chương trình mở rộng Nghiên
Cứu Phúc Âm nhằm thu hút tầng lớp trí thức trong Hội Thánh tham gia học tập, nghiên cứu Kinh
Thánh để đào tạo họ thành những người hầu việc Chúa trên nhiều lãnh vực khác nhau.
(13)Do thiếu thông tin nên có nhiều người cho rằng MS Huyên không muốn về hưu trí -ngầm ý
cụ MS Huyên là người “tham quyền cố vị.” Thật ra từ năm 1970 và 1972 cụ đã hai lần đề nghị BTS-
TLH cho cụ nghỉ hưu nhưng cụ đã được (hay “bị”??) khẩn khoản lưu lại chức vụ cho đến khi có
118
người thay thế phù hợp. Tại Hội Đồng TLH lần thứ 41, cụ chỉ nhận nhiệm vụ Hội Trưởng sau nhiều
lần, nhiều cách thoái thác,nhưng cuối cùng khi thấy được rõ là ý Chúa, cụ đã vâng phục Chúa và Hội
Đồng không ngờ đây là nhiệm kỳ khó khăn, kéo dài nhất trong lịch sử HTTL-VN từ trước cho đến
nay.
(14)Soạn giả biết chắc điều này vì lúc bấy giờ bên góc trái của phòng khách tại tư thất Viện
trưởng là nơi đặt “tổng đài điện thoại,” gọi là tổng đài nhưng chỉ có một máy chính với phích cắm
nối mạch đến các nhà giáo sư trong Viện.Cụ cương quyết ở lại cùng với các gia đình MS Giáo Sư Vũ
Văn Cư, MS Giáo Sư Kiều Toản, cùng các gia đình MS, tín hữu ở các vùng chiến sự lánh nạn về Nha
Trang thay thế chỗ của các sinh viên trong khu nội trú tại Thần Học Viện.
Những ngày đầu tháng 4 năm 1975, khi bộ đội tiến vào Nha Trang, một bộ phận phòng không
với hỏa tiển và pháo cao xạ đã vào TKTHV chọn các vị trí cao, sát khu nội trú sinh viên và Nhà Thờ
để đặt vũ khí phòng không. Lúc này có hàng trăm gia đình MS, tín hữu và đồng bào đang lánh nạn
tại đây.
Lo đến an nguy của con cái Chúa một khi chiến sự trên không và mặt đất xảy ra, cụ đã gặp cán
bộ chỉ huy và đề nghị dời vị trí đặt pháo ra xa khu nội trú, nhưng một cán bộ đã ra lệnh cho bộ đội
vây tư thất Viện Trưởng và yêu cầu cụ ra xê “vì đã cản trở bộ đội hành quân.” Nhiều người lo lắng,
xôn xao - nhưng vì sợ hãi nên chỉ bàn tán, lo âu…- chỉ cụ bà và vài người đứng thầm nguyện cho cụ
ông. Sau đó một vị chỉ huy cấp cao hơn đã đến nghê lời giải thích với chứng cứ cụ thể vừa xảy tại
đầu cầu Xóm Bóng gần Tháp Bà Nha Trang, phản lực cơ Â37 oanh tạc làm nhiều dân thường thiệt
mạng. Cuối cùng vị chỉ huy này đã mời cụ vào nhà, bộ đội rút đi và pháo phòng không bên khu nội
trú được dời ra sát Hòn Chồng.
(15)Do hoàn cảnh Hội Thánh chung lúc này và nhiều cách thoái thác không thành, cụ đã vâng
phục ý Chúa và Hội đồng mà nhận chức vụ Hội Trưởng với số phiếu 175/178 (91,31%) đây là tỉ lệ
tín nhiệm cao nhất từ trước đến nay.
(16)Khởi đầu với MS Phạm Tư (chủ tọa HTTL Ban Mê Thuột, tỉnh Daklak) và Truyền đạo sinh
Nguyễn Văn Thanh (vừa là thầy giáo, vừa là TĐS) bị bắt vào ngày 13/6/1977 tại nhà thờ số 83 Tôn
Thất Thuyết, Ban Mê Thuột (BMT). Ngay sau đó nhà thờ bị đóng cửa, gia đình MS Tư bị trục xuất
ra khỏi thành phố BMT. Một tuần sau đó Ban Trị sự HTTL BMT cũng vào lao xá. Lần lượt đến các vị
MS, TĐ người Kinh, Thượng tại các tỉnh Daklak, Lâm Đồng, Quảng Đức… người thì bị trục xuất khỏi
địa phương, người vào trại cải tạo, trong đó có một số lãnh đạo Hội thánh địa phương. Nhà thờ
nhiều nơi bị chính quyền trưng dụng vào việc khác. Nhiều Hội Thánh không còn MS, TĐ và không
còn nơi thờ phượng. Tình hình khó khăn khiến một số MS, TĐ lo sợ sẽ đến lượt mình nên tự ý rời
nhiệm sở về quê hoặc tìm cách vượt biên, một số khác không những thối lui trong chức vụ mà còn
làm tổn thương các bạn đồng lao của họ đang chịu bắt bớ vì danh Chúa. Tính đến nay vẫn còn nhiều
cơ sở của HTTLVN (MN) chính quyền đã quản lý trong giai đoạn này chưa được trao trả.
(17)Trong gia đình cụ Huyên đang đau mắt cần chăm sóc, thì cụ bà lại bị té gãy cổ tay phải ở
tuổi hơn 80. Thật là thử thách trăm bề.
(18)Từ năm 1979 cụ đã nhiều lần làm văn bản đề nghị chính quyền cho phép họp Hội đồng
Tổng liên Hội nhưng không được chấp thuận. Cụ lại đề nghị xin được họp Ban trị Sư Tổng Liên Hội
mở rộng để giải quyết các vấn đề trong Hội Thánh lại bị từ chối.Từ đó các biểu quyết, thảo luận
119
chung giữa các vị trong Ban trị sự tổng Liên Hội đang hầu việc Chúa tại các địa phương ngoài TP.
Hồ Chí Minh đều phát biểu ý kiến hoặc biểu quyết bằng thư, hay điện tín.
(19)Ngoài người trong gia đình cụ MS Huyên là cụ Ông Văn Kỉnh, còn có cụ giáo sĩ Gêorgê Irwin
(năm 1965 là giáo sĩ tại Di Linh, Lâm Đồng, lúc này đang ở Pháp),là người Chúa dùng trong giai
đoạn này để giúp đỡ một cách thiết thực cho cụ Huyên bằng cách gửi thuốc từ Pháp về chữa bệnh
cho cụ Huyên.
(20)Bắt đầu những năm 1990, khi mắt cụ bị nhiễm trùng trở lại, bệnh thần kinh tọa bắt đầu
khởi phát và trí nhớ giảm sút, khiến cụ không còn kiểm soát được công việc như trước. Có một vài
người trước đây cụ tin tưởng giao một số công việc đã làm sai ý cụ, thêm vào đó, ý kiến xử lý công
việc giữa cụ và cụ Phó Hội Trưởng MS Đoàn Văn Miêng nhiều lúc không thống nhất với nhau khiến
một số việc đáng tiếc đã xảy ra. Trong nội bộ Hội Thánh, có những chia rẽ nghiêm trọng, một vài
mục sư bắt đầu thực hiện ý riêng của mình… Tình hình không bình thường khiến nhiều vị mục sư
lão thành lên tiếng trong đó có hai vị MS đáng kính là Cụ MS Phạm Xuân Tín và cụ MS Lê Khắc Cung
nhiều lần muốn gặp cụ để trao đổi về công việc chung nhưng bị cản trở. Sau đó, cụ MS Lê Khắc Cung
đã gặp soạn giả tại nhà riêng của người con trai cụ MS Cung là thầy Lê Thượng Chí ở Gò Vấp, TP.
Hồ Chí Minh. Tại đây cụ MS Lê Khắc Cung đã phản ảnh khá đầy đủ thực trạng Hội Thánh cũng như
việc điều hành chung. Sau đó bằng cố gắng riêng, hai cụ MS Phạm Xuân Tín và Lê Khắc Cung đã
được gặp trực tiếp cụ MS Ông Văn Huyên. Một chương trình hợp lý được các cụ bàn đến nhưng sau
đó đã không thực hiện được vì bị cản trở trong chính nội bộ. Do giới hạn của một bài tiểu sử nên
soạn giả không đề cập sâu đến tình hình Hội Thánh trong giai đoạn này.
(21)Cụ soạn lời các thánh ca: 320, 353, 358, 409, đặc biệt là thánh ca 509 với ca từ tươi vui,
hạnh phúc như đêm cả Mùa Xuân thiên thượng vào bài hát, được nhiều người ưa thích .
(22)Cụ hướng dẫn sinh viên môn Tuyên Đạo Pháp một cách đầy ơn, dễ hiểu; phân tích các điểm
mạnh yếu, đúng sai trong bài giảng thực tập của sinh viên, vừa nghiêm túc để sinh viên sửa sai hoặc
phát huy ưu điểm nhưng cũng vừa dí dỏm làm cho giờ học vui tươi sinh đông. Cách trình bày bố
cục và nội dung bài giảng của cụ giúp khán giả thuộc mọi trình độ thuộc linh, học vấn khác nhau
đều có thể nhận được sự dạy dỗ cho riêng mình. Khi khiếm thị hoàn toàn, cụ đã phải nhờ người đọc
Kinh Thánh, văn thư, thôi tự mình đánh máy chữ. Từ năm 1980, cụ đã giảng thuộc lòng cho đến
năm 1997.
(23)Riêng hai từ “nhu nhược” trong câu này, chúng tôi đang cố tìm hiểu xêm trong bối cảnh nào
cụ MS Huyên đã ứng xử như vậy? Thêo chúng tôi hiểu một cá tính cương trực không thể lại có cả
tính nhu nhược. Do có một thời gian gần cụ Huyên tương đối lâu, chúng tôi chỉ thấy đôi khi cụ mềm
lòng (giơ cao đánh khẽ), vì thương người thì đúng hơn.
(24)Lễ nhập quan của cụ được cử hành 19 giờ 30 ngày 28 tháng 7 năm 1999, tại nơi cụ cư trú.
MS Trần Bá Thành, thủ quỹ địa hạt Đông Nam Bộ làm chủ lễ. Lễ di quan cử hành tại nhà thờ HTTL
Sài Gòn vào lúc 6 giờ 30, ngày 30 tháng 7 năm 1999. MS Dương Thạnh, Quyền Chủ nhiệm Địa hạt
Bắc Trung Phần, Trưởng ban tang lễ. Có hơn 3.000 người tiễn cụ về nơi gửi xác tại Nghĩa trang Ân
Từ Viên thuộc Hội Thánh Tin Lành Hoa Ngữ Lương Nhữ Học, TP. Hồ Chí Minh. Viếng cụ, có 228
đoàn từ các Hội Thánh, 140 người viếng với tính cách cá nhân và hơn 300 tràng Hoa tiễn cụ.
120
Phụ lục
Điếu văn
Tiễn bào huynh Mục Sư Ông Văn Huyên
(Hội Trưởng HTTLVN-MN về Thiên Quốc)
Vâng Thiên lệnh về bên Thánh Chúa
Thoát dương trần bao nổi vấn vương,
Vinh danh, phước hạnh cõi Thiên Đường,
Ôm chân Chúa tình thương Phụ tử,
Còn bao kẻ lạc loài viễn xứ,
Sống bơ vơ lâm cảnh đọa đày,
Trên đường đời muôn kiếp trả vay
Cảnh phù thế loay hoay cát bụi.
Em về đây từ phương trời xa lạ
Bao nhiêu năm nếm trải vong gia
Đêm nghê dế khóc nhớ quê nhà,
Sầu viễn xứ can qua mấy độ.
Đây bằng hữu tương thân ái mộ,
Noi gương người lãnh đạo trung kiên
Đưa thế nhân vượt hết ưu phiền
Tin cậy Chúa thiên niên cõi phúc,
Chữ tạm biệt dâng lời kính phúng
Ôi phân ly đau xót vô cùng
Xin ước nguyền hai chữ Tín-trung
Bào đệ Ông Văn Kỉnh, nhà thơ Lệ Nam.
đọc tại Lễ di quan ngày 30/7/1999.
Nguyễn Văn Thanh, 2011
121
Nữ Giáo sĩ HAZEL P. JACKSON
(1895 – 1988)
Tóm tắt
13.01.1895 Bà Hazêl Irênê Pêêblês chào đời tại Mulgrave, Nova Scotia, Canada.
1914 Tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu tại Hội Truyền bá Phúc Âm Hướng Đi (Onward Gospêl
Mission) ở Montreal, Canada.
12.05.1919 Tốt nghiệp Viện Đào tạo Giáo sĩ Nyack, Nêw York.
07.1919 Lên tàu Nữ hoàng Nga (Empress of Russia) tại Vancouver, British Columbia (Canada)
đi Trung Quốc và học tiếng Pháp tại trụ sở Alliance Receiving Home thuộc Wuchow (Vũ Châu),
Trung Quốc.
1920 Cùng tân nữ giáo sĩ Edith Frost thêo đường biển ngang qua Hải Phòng đến Đà Nẵng và bắt
đầu học tiếng Việt tại Đà nẵng.
02.05.1921 Lập gia đình cùng Giáo sĩ Richmond Mêrrill Jackson (1894-1973)tại Hà Nội và từ
đó mang tên Hazêl Pêêblê Jackson.
31.01.1923 Sinh con trai đầu lòng Raymond S. Jackson tại Hải Phòng.
30.05.1925 Cùng chồng nhận chứng chỉ tiếng Pháp tại trường Ngôn ngữ Pháp ở Paris sau 9
tháng theo học tiếng Pháp tại đây.
25.01.1926 Sinh con trai thứ 2 là Albert S. Jackson tại Hà Nội.
09.08.1927 Sinh con trai thứ 3 là Bernard G. Jackson tại Hà Nội.
02.1928 Chuyển đến Thanh Hóa lập một nhà thờ Tin Lành mới ở đó.
02.07.1933 Sinh con trai thứ 4 là Victor L. Jackson tại Thanh Hóa.
1938 Đi nghỉ phép ở Mỹ với vai trò đại biểu đại diện cho Hội Nữ quyền Châu Á đang cộng tác
làm việc với nhiều Hội Thánh khác nhau ở Châu Á.
122
1939 Để 2 con trai là Raymond và Albert ở lại học tại Học Viện Hampden Du Bose, Florida, USA
và trở lại Việt Nam.
04.06.1940 Vợ chồng bà vẫn tiếp tục làm công việc Chúa tại Việt Nam.
07.1941 Hầu việc Chúa tại Vinh.
04.03.1943 Đi tàu hỏa đến hầu việc Chúa tại Đà Lạt.
04.1943 Đến truyền giáo tại doanh trại tập trung của người Nhật tại Mỹ Tho.
01.12.1943 Đến New York
11.07.1947 Trở lại Châu Á trên con tàu S.S. General Meigs.
16.07.1947 Ghé thăm Bêrnard tại Honolulu, tiếp tục đi và ghé thăm các Hội Thánh Chúa ở các
nơi như Yokohama (Nhật), Thượng Hải, Hồng Kông và đến Sài Gòn.
01.02.1948 Cùng chồng đón tàu chở hàng của Trung Quốc đi Hải Phòng rồi đến các thành phố
khác mở lại các nhà thờ Tin Lành nào đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy.
1951 Mặc dù có nhiều người khuyên bà nên vào trường dành cho con cái Giáo sĩ ở Đà Lạt để
lánh bom đạn chiến tranh, nhưng bà vẫn quyết trở lại Hà Nội, nơi chồng bà đang phục vụ Chúa lúc
bấy giờ.
01.1952 Đáp máy bay sang Lào và gặp lại bà phù thủy, người mà trước đó bà đã gặp khi mới
sang Việt Nam và đã nói “tiên tri” với bà rằng Đức Chúa Trời Chân Thần ắt sẽ giải cứu bà cùng
những “đồng bọn” của bà thoát khỏi nỗi kinh sợ ma quỷ tà linh.
19.05.1953 Lên tàu S.S. Steel Flyer từ San Francisco đi Việt Nam.
16.05.1954 Từ Hà Nội đáp máy bay đến Đà Lạt để lo công việc Chúa tại đây. Sau đó, vợ chồng
bà trở về Hoa Kỳ sống tại Whêaton, I.L., nơi có trường cao đẳng mà con trai Victor của bà đang thêo
học.
1965 Viết hồi ký “Hạ quyết tâm” (Bound Ând Dêtêrminêd) kể về giai đoạn “35 năm ở Việt
Nam”(Hazêl Jackson’s 35 Yêars in Viêtnam). Sau đó trở lại tiếp tục mở mang công việc Chúa tại Việt
Nam một vài năm nữa.
1973 Cùng chồng về Hoa Kỳ, đi một số nơi trong nước để lo công việc Chúa.
8.1973 Richmond, chồng bà qua đời tại Austin, Texas, Hoa Kỳ.
2.08.1988 Bà qua đời cũng tại Austin, Texas. Hoa Kỳ.
II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP 35 NĂM TRUYỀN GIÁO (1920 - 1955)
Nữ giáo sĩ Hazêl P.Jackson sinh ngày 13.01.1895 tại Mulgrave, Nova Scotia, Canada. Bà là con
gái thứ hai trong gia đình có 12 anh chị em gồm 9 gái 3 trai. Cha của bà là một kỹ sư đường sắt làm
việc tại Stêllarton. Gia đình bà sinh sống tại đó.
Ngay từ bé, bà đã tỏ ra là một người gan dạ dũng cảm. Bà thường cùng các bạn nhỏ nghịch
những trò rất mạo hiểm và nguy hiểm nhưng lúc ấy bà không biết sợ là gì! Tuy nhiên, tất cả những
hành vi chứng tỏ sự gan lì can đảm này về sau lại trở nên hữu ích vô cùng cho chính bà trong suốt
thời gian bà đi đây đi đó làm công tác truyền giáo tại một vùng của Đông Dương lúc bấy giờ là thuộc
địa của Pháp mà ngày nay được người ta biết đến, đó chính là Việt Nam.
123
Lúc thiếu thời, bà thường hay băn khoăn tự hỏi tại sao có nhiều người lại dám từ bỏ quê hương
đất nước, chấp nhận xa lìa thân bằng quyến thuộc và cuộc sống bình yên sung sướng ở quê nhà
mình như vậy để ra đi đến những đất nước xa lạ đầy khó khăn cạm bẫy hiểm nguy hầu việc Chúa,
rao báo Phúc Âm? Động cơ nào, lý do gì đã thúc đẩy họ dám đánh đổi tất cả những gì họ đã và đang
có ở đời này, thậm chí có khi cả chính mạng sống mình để đêm ánh sáng Cơ Đốc giáo đến cho bao
nhiêu linh hồn chưa biết Chúa ở những đất nước đang trong sự tối tăm của quyền lực, bom đạn,
bịnh tật? Bà cũng nhận thấy khi sự Cứu rỗi của Chúa Giê-xu được các giáo sĩ mang đến đâu thì bóng
tối của mê tín dị đoan, của những nếp sống tội lỗi xấu xa vốn đã trở thành thói quen, phong tục tập
quán dần dần được biến đổi thành những nếp sống tốt đẹp hơn, văn minh hơn và tất nhiên là ích
lợi hơn. Đó chính là Tin Lành quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Bà cũng hiểu ra được một điều
hết sức cảm động là chính vì tình yêu thương dành cho những linh hồn đã, đang và sắp bị hư mất ở
các nước xa xôi đầy gian nguy đó mà các giáo sĩ đã mạnh dạn ra đi thực hiện nhiệm mạng Đức Chúa
Trời giao phó: truyền giáo và mở mang Hội Thánh Chúa, đêm sự cứu rỗi đến cho nhiều người. Và
chính bà Hazêl cũng đã được Chúa kêu gọi ra đi thực hiện trọng trách đầy ý nghĩa đó.
Năm 1920, bà đến Việt Nam và tiếp tục phục vụ Chúa tại Việt Nam trong 35 năm dài trong dòng
lịch sử thăng trầm vì chiến tranh của đất nước Việt Nam lúc bấy giờ.
Thêo tư liệu nghiên cứu lịch sử Hội Thánh Tin Lành ở Đông Dương ghi lại, vào đầu thập niên
1900, số giáo sĩ Tin Lành đến sống và truyền bá Phúc Âm tại Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ là nhiều
nhất. Lúc đó, Tiến sĩ Âlbêrt B. Simpson, sáng lập viên của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp
(C&MA) có một ý muốn mạnh mẽ là phái người đến các quốc gia nào chưa có các chứng nhân của
Chúa. Chính phủ Pháp thời ấy miễn cưỡng chấp nhận chỉ cho C&MA thiết lập trụ sở truyền giáo tại
Đông Dương mà thôi,còn các Giáo phái khác của Tin Lành sẽ không được phép. Thực sự đây chỉ là
chiêu bài của chính phủ Pháp bởi vì họ không muốn có nhiều giáo lý thần học đa dạng làm rối lòng
cư dân bản xứ ở đây.
Mục tiêu của C&MA là thiết lập một cơ quan truyền giáo bản địa cho giáo hội, đó là là một tổ
chức tự dưỡng và tự truyền giáo. Các tân giáo sĩ, sau khi được chứng nhận tốt nghiệp từ Viện Đào
tạo Giáo sĩ Nyack, Nêw York sẽ được phái đi và được Viện cam kết cung cấp kinh phí đủ để đi lại và
ăn ở sinh hoạt trong năm đầu tiên tại nơi sẽ đến truyền giáo. Ngân quỹ này dành cho các tân giáo
sĩ nào chưa biết ngôn ngữ của nước họ sẽ đến và chưa quên với thời tiết khí hậu cũng như văn hóa
của nước đó. Viện không phái đi người đang có chồng có vợ, dù cho người đó đã quên với thời tiết
khí hậu ở nước đó đến mấy đi nữa. Vào những năm 1940, mỗi giáo sĩ được trợ cấp 2 USD mỗi ngày,
còn mỗi đứa trẻ là 1 USD mỗi ngày, tối đa là 4 trẻ mỗi gia đình. Hội Truyền giáo cũng trợ cấp chỉ
90% chi phí thuê nhà và đi lại. Một kinh phí thật ít ỏi trong tình hình lúc bấy giờ. Tuy nhiên, một số
người đến thờ phượng Chúa tại nhà thờ đã lấy làm ngạc nhiên khi thấy các giáo sĩ dù nghèo khó
như vậy, phải chi tiêu thật tiết kiệm, dè xẻn mà vẫn có thể thuê một hoặc hai người giúp việc đỡ
đần cho họ bận lo công việc truyền giáo của mình. Chính lối sống của họ khiến họ làm được như
vậy. Nữ giới thì lo cho gia đình, trẻ em và phụ nữ trong Hội Thánh, còn nam giới thì lo việc xây dựng
các nhà thờ mới, rao giảng Phúc Âm bằng nhiều hình thức khác nhau.
Bà Hazel Jackson dạy các lớp Trường Chúa Nhật cho con cái Chúa người Việt. Bà thường dùng
hình ảnh minh họa cho bài học bằng sơ đồ trên vải flannê. Bà thường chơi đàn gió đạp cổ điển
(harmonium) trong các buổi thờ phượng. Về sau, bà hay đứng trước nhà thờ thổi kèn Xắc-xô để tạo
sự tò mò chú ý của khách qua đường nhằm thu hút họ vào nhà thờ. Bà biên soạn bài học Trường
124
Chúa Nhật cho người Việt tại Việt Nam trên 20 năm. Hai con trai bà sau này cũng viết sách phục vụ
công việc như bà.
Bên cạnh đó, bà cũng còn ưu tiên lo việc dạy bảo những người giúp việc nhà cho các giáo sĩ nữa.
Lúc bấy giờ vì không có tủ lạnh, cho nên gia đình giáo sĩ nào cũng cần có người đi chợ hầu như mỗi
ngày để mua sắm thức ăn, cần vú êm chăm sóc trẻ, và một thanh niên nào đó lo công việc chăm sóc
dọn dẹp nhà cửa, sân vườn hoặc đẩy xê tay đi mua sắm những thứ lặt vặt khi cần. Hầu hết các giáo
sĩ đều không có xê hơi. Họ thường phải đi xê đạp hoặc bất cứ phương tiện đi lại nào đó có thể. Bà
Jackson đã tin cậy Đức Chúa Trời qua lời Ngài với niềm tin đơn sơ của một đứa trẻ. Bà đã can đảm
đi đến một xứ đầy mê tín, tội lỗi và có quá nhiều thứ nguy hại mà bà không hề biết trước.
Bà đã “Hạ quyết tâm”, sẵn lòng bước theo lời Chúa gọi ra đi thực hiện cho được kế hoạch hành
động tận hiến đời mình cho công việc Ngài thật kết quả. Và bà đã đạt được kỳ tích đó ngay từ khi
bà mới bước vào tuổi 19. Bà đã cống hiến tuổi xuân của mình cho công tác truyền rao Tin Lành cho
người Việt Nam một cách không mệt mỏi, không suy tính, không vụ lợi và không nao sờn đức tin
trong mọi hoàn cảnh. Bà tôn kính Chúa, muốn phục vụ Chúa, vâng phục Ngài trọn vẹn; cộng với
lòng yêu thương người dân Việt đang sống trong tối tăm, nhất là các sắc dân tại các vùng xa xôi hẻo
lánh, lạc hậu đang bị đùa đến sự chết đời đời, nên đã không quản “thân gái dặm trường” dấn thân
đến Việt Nam. Suốt 35 năm dài sống trong gian khổ nguy nan để rao báo Phúc Âm và mở mang Hội
Thánh Chúa khắp nơi, góp phần dệt thêm trang lịch sử truyền giáo của Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam dày thêm lên, phong phú sắc màu hơn và lịch sử mang ý nghĩa sâu đậm hơn.
Sau năm 1954, bà rời Việt Nam sang Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục phục vụ Chúa khi có cơ hội.
Đến năm 1965, bà viết tập hồi ký “Hạ quyết tâm” (Bound and Dêtêrminêd) thuật lại giai đoạn
“35 năm ở Việt Nam” của bà. Tập hồi ký này toát lên một linh lực lạ kỳ. Chúa gìn giữ bà trong nhiều
hoàn cảnh khác nhau, trong những tháng năm bom đạn loạn lạc hiểm nguy của đất nước Việt Nam.
Tập hồi ký thổ lộ tinh thần tin cậy Đức Chúa Trời tuyệt đối của bà ngay từ những ngày đầu bà tin
nhận Chúa. Bà là người luôn sống trong mối liên hệ cá nhân với Chúa rất gần gũi, hằng ngày hàng
giờ hàng phút hàng giây. Vì vậy, bà thường nghê được tiếng Chúa phán với bà qua nhiều cách thật
tuyệt vời. Vì bà rất nhạy bén với tiếng Chúa phán nên bà thường được Ngài dắt dẫn đi trong ý muốn
Ngài một cách lạ lùng và kết quả. Bà cũng luôn tỏ ra là một phụ nữ can trường trong nguy nan, năng
động tự lập trong cuộc sống khó khăn nơi đất khách đối với bà là Việt Nam. Bà nhớ lại những ngày
mới đặt chân đến Việt Nam,khí hậu thật khó chịu, lại bất đồng ngôn ngữ, nơi ở thì đầy ô nhiễm và
côn trùng gây bệnh như ruồi muỗi, rận rệp… Cộng thêm việc khoản trợ cấp từ Hội Truyền giáo dành
cho các tân giáo sĩ như bà quá ít ỏi, nhiều phên có nguy cơ bị cắt.Biết bao gian lao như vậy, nhưng
bà vẫn kiên trung làm công việc Chúa kết quả.Bà cũng học biết được rất nhiều phong tục tập quán
của người Việt và “nhập gia tùy tục” nhanh, thích nghi nhanh, sống chan hòa giữa những người xa
lạ có sự khác biệt về văn hóa một trời một vực. Đó là điều mà người Việt không thể không kinh ngạc
và khâm phục!
Bà không quản bom đạn chiến tranh, vẫn thường xuyên đi đến nhiều nơi hẻo lánh, tìm kiếm
những linh hồn lạc mất giữa các dân tộc Mường, Mèo sống ở các vùng núi cao để làm chứng về Chúa
Giê-xu cho họ và thành lập Hội Thánh Chúa tại đó. Có lần bà cùng một bà mục sư người Việt lặn lội
trèo đèo vượt núi trải qua biết bao nguy hiểm (nguy cơ bị cọp vồ do lạc đường, suýt bị chìm ghe
khi qua sông,…) để đi đến một làng của dân tộc Mường. Bà làm chứng về sự cứu rỗi của Chúa Giê-
xu cho họ, và đã bắt phục được linh hồn của một bà phù thủy trở thành Cơ Đốc nhân, không còn
làm tội lỗi như trước nữa. Điều này như một luồng ánh sáng soi rọi vào góc tối, phá tan sự mê tín
125
dị đoan lạc hậu lâu đời của người dân tộc Mường lúc bấy giờ ở tại vùng đó. Chúa đã dùng bà Hazêl
làm một tia sáng để truyền tải sự cứu rỗi của Ngài đến cho đồng bào Việt Nam trong những tháng
ngày loạn lạc chiến tranh đang lan tràn khắp 3 miền Bắc Trung Nam.
Hazêl cũng là một nữ giáo sĩ phục vụ Chúa tại Việt Nam với tinh thần của một chiến binh thập
tự. Bà luôn bám lấy những lời Chúa hứa phán trong Kinh Thánh để có được sự bình an trong cơn
bão tố. Bà cũng biết kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa trước mọi quyết định dù lớn hay nhỏ, dù trong thuận
cảnh hay trong nghịch cảnh. Năm ấy, 1941, ngay cả lúc bom đạn đang đan chíu trên đầu chực chờ
cướp đi sinh mạng bà lúc nào không hay, bà vẫn bình tĩnh cầu nguyện hỏi ý Chúa nên tản cư vào
Nam để tránh như nhiều người khuyên hay là cứ tiếp tục bám trụ tại cơ sở truyền giáo ở Vinh để
tiếp tục lo cho công việc nhà Chúa. Và bà đã nhận được lời Chúa từ sách Es 33:16 và Thi 37:3 động
viên bà tiếp tục ở lại nơi nguy hiểm lúc ấy để quán xuyến công việc Chúa đến cùng. Bà còn dám
nghĩ, nếu có hy sinh vì cớ công việc Chúa tại đây thì bà cũng nhận chịu. Vì thêo bà, “nếu chúng ta cứ
luôn trốn vào trong nơi an toàn là nơi không có hiểm nguy gian khó, thì làm sao Đức Chúa Trời có cơ
hội chứng minh được tình yêu thương và quyền năng lớn lạ của Ngài ra giữa vòng dân ngoại đây?Làm
sao Ngài có cơ hội tốt chứng minh cho người thế gian thấy được sự bảo vệ và chăm sóc tuyệt vời kỳ
lạ của Ngài dành cho con cái Ngài là điều được ví sánh trong Kinh Thánh rằng Ngài luôn bảo vệ con
cái Chúa như Ngài bảo vệ chính con ngươi của mắt Ngài vậy.” Bà cũng so sánh trong ý nghĩ giữa bản
thân mình với những chiến binh thập tự xuất quân ra trận vì “màu cờ sắc áo” của Nước Trời: “Mỗi
ngày, có biết bao nhiêu lính chiến xông ra trận tiền thậm chí đã bỏ mạng nơi sa trường mà chưa kịp
nhìn thấy cảnh Thiên Đàng. Còn chúng ta, những chiến binh thập tự lại không dám liều mình nơi công
trình thuộc linh lẫn thuộc thể này tận hiến cuộc đời và sinh mạng cho Chúa sao?” (IICôrinhtô 11;
Hêbơrơ 11). Chính vì tinh thần quyết sống quyết chết cho Chúa Cứu Thế Giê-xu như vậy, nên bà đã
được Chúa thêm sức mạnh, sự gan dạ, không bị rúng động, không bị nao sờn đức tin trong cơn nguy
hiểm. Bà có năng lực quyết định được điều khó khăn đó là vì bà có lòng tin sắt đá nơi lời hứa của
Chúa trong Kinh Thánh như Ca-lép và Giô-suê ngày xưa. Bà biết chắc Đức Chúa Trời ở cùng bà trong
nơi đầy bom đạn và thiếu thốn khó khăn đó. Cho nên, bà không sợ hãi gì cả!
Bà là một “Nữ Giáo sĩ sống bởi đức tin”, một tấm gương sáng ngời, một hình ảnh điển hình mà
con cái Chúa đời sau cần trân trọng và học hỏi noi theo. Việc Đức Chúa Trời đã luôn ở cùng Hazel
trong bất cứ nơi nào bà đi đến là một minh chứng cho lẽ thật được chép trong Gios 1:9.
Thanh Thu
126
Mục sư NGÔ VĂN LÁI
(1903-1962)
Nhà truyền giáo Tin Lành đầu tiên
cho người Bru
Cụ Mục Sư Ngô Văn Lái sinh 1903 tại Sa Đéc – tỉnh Kiến Phong (nay là tỉnh Đồng Tháp) trong
gia đình người Hoa. Khi còn nhỏ đã sớm mồ côi cha mẹ trong một đại dịch, nên được người dì đêm
về nuôi dưỡng, cho ăn học. Lớn lên học nghề thợ bạc với người cậu, rồi tự bươn chải kiếm sống tận
Nam Vang – Campuchia. Tại đây ông đã tin nhận Chúa. Được Chúa kêu gọi, các Giáo sĩ và các Mục
Sư động viên giúp đỡ, ông quyết định bỏ nghề vào học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng năm 1929. Ông
Lái là một người thẳng thắn nhưng hiền hòa, thân thiện. Ông thích đọc sách báo, văn chương, và
giỏi ngôn ngữ. Vì vậy, khi đi đến đâu, ông cũng học tiếng rất nhanh.Từ trong gia đình, đã dùng cả
tiếng Hoa và An Nam. Tiếp theo là tiếng Khơ mê, Nhật. Rồi tự học thêm tiếng Anh, Pháp. Sau này là
tiếng dân tộc Bru.
Năm 1930, thầy Ngô Văn Lái kết hôn với cô Trần Thị Ba, là con gái của một tín hữu tin kính Chúa
tại Đà Nẵng. Ông được nhạc phụ bảo bọc, tiếp tục theo học tại trường Kinh Thánh cho tới khi ra
trường.
Mục sư Ngô Văn Lái là người có chí hướng truyền giáo, nên ngay từ khi còn ngồi học tại
trường Kinh Thánh, ông đã nung nấu và bày tỏ điều đó.Thêo hồi ký của Giáo sĩ I.R. Stêbbins, trong
những chuyến đi truyền giáo ở Lào, ông bà Giáo sĩ đã có khải tượng truyền giáo cho Khê Sanh.
Một lần viếng thăm trường Kinh Thánh Đà Nẵng, khi nói đến nhu cầu cần phải có người Việt Nam
đến Khê Sanh hầu việc Chúa với tư cách là một giáo sĩ thì “Ông Lái, một thanh niên rất vui vẻ đứng
lên bày tỏ lòng mong muốn đến với những người ở miền núi.”[6]
Ngày 04.04.1933, sinh viên Ngô Văn Lái được tốt nghiệp Trường Kinh Thánh Đà nẵng,
Touranê cùng với chín sinh viên khác.[7]Truyền Đạo Ngô Văn Lái liền được sai phái đến truyền
giáo cho người Bru (tức Bru - Vân Kiều) tại Khê Sanh.[8] Đây là một thung lũng nằm giữa vùng núi
đồi rừng rú chập chùng, phía tây bắc cố đô Huế, có nhiều dân tộc còn rất sơ khai sống trong nhiều
làng mạc raải rác. Ở đó, người Bru sống trong 200 làng gọi là “Răng cọp”, vì có nhiều cọp dữ về
làng ăn thịt người và quấy nhiễu hằng ngày. Nhà của họ là những tấm tranh, phên trê lụp tụp tả
tơi, làm trên mấy cái cột và vài tấm ván kê ngay. Họ vẫn còn mặc khố, đêo giỏ, tay cầm dao mác
hay cung tên. Cuộc sống còn rất lạc hậu, đáng thương.[9]
Ngày 01.05.1933,đoàn gồm Mục sư Đoàn Văn Khánh - Chủ nhiệm Địa hạt Trung phần, ông Giáo
sĩ I.R. Stêbbins, thầy cô Truyền Đạo Ngô Văn Lái cùng đứa con trai ba tuổi khởi hành từ Huế, đi bằng
xê Ford thêo con đường đi Quảng Trị,qua Đông Hà rồi đến Khe Sanh, huyện Hướng Hóa khoảng 2
127
giờ chiều. Ông Chủ nhiệm và thầy Lái nhờ các thông ngôn mua được một căn nhà gỗ cũ giá 30 đồng,
bỏ thêm 20 đồng nữa sửa lại được một căn nhà tương đối tốt. Căn nhà nằm ngay trung tâm của cư
dân Bru. Thầy cô Lái ở lại đó để “học tiếng và làm quên” với người Bru theo sự cho phép ban đầu
của viên Khâm sứ Trung kỳ.[10]
Có một sự kiện lạ lùng đã xảy ra khiến ai nấy phải sửng sốt. Số là vào ngày Lễ Quốc Khánh Pháp,
các viên chức người Việt muốn tổ chức lễ cách long trọng và có mời gánh hát bội đến để qui tụ
người Bru tới vui chơi.Nhưng đến đúng ngày lễ, gánh hát bội không đến được, mà người Bru thì đã
tập trung đông đủ. Các viên chức lính quýnh chẳng biết sao?Họ bèn nghĩ ra và mời thầy Lái đến
giảng đạo. Diễn giả bất ngờ ấy đã giảng Tin Lành liên tiếp ba ngày có sự thông dịch của chính quyền.
Chúa đã dùng một cơ hội lạ lùng để giới thiệu Tin Lành và sứ giả của Ngài. Lần đầu tiên Tin lành đã
được truyền cho người dân tộc Bru dưới sự bảo trợ của chính quyền. Buổi hát bội vui chơi bỗng
thành buổi giảng đạo Tin Lành. Ông Lái từ chỗ chỉ được phép đến học tiếng, làm quen với dân đến
chỗ được giảng đạo cách công khai,có người thông ngôn.[11]
Kết quả là ngày đầu, nhà của ông Lái đầy người đến hỏi đạo, một ít người tin Chúa.Liên tiếp sáu
tháng kế, rất nhiều người Bru thường xuyên lui tới nhà thầy Lái. Nhà riêng của ông trở thành nhà
giảng và có thêm một số người tin Chúa nữa. Trong đó có Ta-Lui, một người tình nguyện ở lại nhà
thầy Lái để phụ giúp công việc truyền đạo. Anh ta dạy tiếng dân tộc mình cho thầy Lái, còn thầy Lái
dạy chữ quốc ngữ cho anh ta. Sau này Ta-Lui có vợ và đêm vợ ra ở cùng gia đình thầy cô Lái để tiếp
tục học Kinh Thánh và tập sự hầu việc Chúa. Truyền đạo Ngô Văn Lái,bởi ơn Chúa cho, chỉ trong
thời gian ngắn đã học thông thạo tiếng Bru.Với tâm tánh hiền hòa, bình dị ông đã làm quên, gần gũi
được nhiều người Bru.[12]
(Ảnh do gia đình cung cấp)
128
MS. Lái (thứ 3 từ trái qua)và anh Ta-Lui (thứ 2 từ trái qua) trong một lần về dự Hội đồng
để làm chứng công việc Chúa tại Khe Sanh.
Có một nỗi buồn đến với thầy cô Lái trong năm này là mất con trai đầu lòng do sốt rét rừng.
Nhưng thầy cô không nao núng, vẫn vững tâm tiếp tục công việc Chúa. Rồi Chúa cho thầy cô Lái có
tiếp ba người con trai, gái nữa tại Khe Sanh.
Năm 1934, dù chưa được nhóm họp thường xuyên, nhưng đã có được hai mươi tín đồ. Truyền
đạo Lái có thể làm chứng được cho cả người An Nam lẫn người Bru.[13]
Năm 1935, Truyền đạo Ngô Văn Lái bắt đầu dịch được sang tiếng Bru sách Mác, bài Cầu nguyện
chung, bài Tín điều các Sứ đồ, Mười điều răn… để con cái Chúa thờ phượng và học Kinh Thánh.
Người Bru từ 50 làng quanh đó lần lượt kéo đến nhà Truyền đạo Lái nghê đạo. Số người tin Chúa
từ 30,rồi đến 60 người. Chúa đã biến cải đời sống họ. Họ bắt đầu bỏ trầu thuốc, bỏ rượu, dị đoan,
thờ cúng, cờ bạc, gian tham,… Tin Lành có tiếng vang tốt và thiện cảm trong vùng.[14]
Năm 1936, một chi hội đã được hình thành, trong đó có 8 người đã được báp-têm.[15]Hành trình
giảng đạo của thầy Lái và Ta-Lui cũng đầy gian lao, nguy hiểm nhưng Chúa luôn ban ơn và dẫn dắt
tôi tớ Ngài. Khi thì đi bộ, khi thuyền, khi ngựa qua hết rừng núi, tới sông suối. Ban ngày thì lo di
chuyển, thăm viếng, ban đêm thì phải leo lên cây ngủ để tránh thú dữ,đến chỗ giảng đạo được thì
tụ họp dân làng lại giảng đạo. Thầy Lái dạy Ta-Lui Kinh Thánh, lẽ đạo, soạn bài giảng và tập sự
giảng.Thầy Lái và Ta-Lui phải soạn bài giảng bằng cả hai thứ tiếng, rồi người này đưa người kia sửa
chính tả, từ ngữ. Thầy Lái và Ta-Lui cũng khám phá ra thêm bộ tộc Pu-Kho mà sau này Tin Lành
cũng được truyền cho họ. Trong thời gian này, các Giáo sĩ và Địa Hạt thường có các chuyến viếng
thăm, làm báp-têm, truyền giáo, dạy Kinh Thánh tại Khê Sanh cũng như trong các buôn làng. Các
tôi tớ con cái Chúa khắp nơi, nhất là Trung hạt cũng thường xuyên cầu nguyện, quyên góp tài chánh
gởi lên Khe Sanh và các Hội Thánh cao nguyên. Công việc Chúa tại Khê Sanh được tấn tới luôn. Một
Trung tâm truyền giáo được hình thành và hoạt động kết quả tại đây.[16]
Khoảng cuối năm 1939, đã có hẳn một cộng đồng Tin Lành Bru, trong đó 50 người đã được báp-
têm. Truyền đạo Lái ước ao cất được nhà giảng lớn tại Khê sanh cũng như trong các buôn làng
Bru.[17]
Lúc 9 giờ ngày 13.02.1940 tại hội đường Faifoo (Hội An), Truyền đạo Ngô Văn Lái được vinh
dự tấn phong Mục Sư. Người truyền đạo đã chính thức được giao cho chức vụ cao hơn trong công
việc chăn bầy. Lễ tấn phong có Mục sư Hội trưởng Lê Đình Tươi, Mục sư Giáo sĩ I.R. Stêbbins, Giáo
sĩ Olsên tham dự. Chủ nhiệm Trung hạt – Mục sư Ông Văn Trung đã thay mặt Ban Trị sự Trung hạt
tặng sáu tân Mục Sư một bài thơ có tên của sáu vị:
“Ơn trên giao phó chức khâm sai,
Dắt dẫn sanh linh đến lạc đài.
Vượt biển trầm luân cầm bánh LÁI,
Qua miền hắc ám ngắm sao MAI.
THÌN lòng trung tín phò chân Chúa,
VÂN mạng rao truyền cứu lạc loài.
Đánh lưới ra tay người HẢO hớn,
129
PHÚ dâng đời sống đẹp lòng Ngài.[18]
(Ảnh: photos.vnbible.com)
MS. Ngô Văn Lái (hàng đầu, thứ nhất từ trái qua) trong
Lễ Tấn phong Mục sư (12.02.1940).
Năm 1941, Mục sư Ngô Văn Lái thấy công việc Chúa giữa đồng bào Bru đã có thể tự phát triển,
tâm tình truyền giáo lại tiếp tục thôi thúc. Ông xin giao công việc Chúa lại cho Ta-Lui, và tự nguyện
đi truyền giáo tại Nam Vang.Người con thứ năm của ông bà Mục sư Lái là Ngô Văn Bửu - hiện là
Mục Sư Phó Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt nam (Miền Nam) - đã được thọ thai tại Khe Sanh
và sanh hạ tại Nam Vang năm 1942, trên hành trình truyền giáo của cha mẹ mình.
Sau Thế chiến thứ hai, cuộc sống tại các quốc gia Đông Dương có nhiều chuyển biến. Ông bà
Mục sư Lái phải trở về quê tại Bình Trị - Cao Lãnh - Kiến Phong để sinh sống.
Năm 1949 giữa cuộc chiến toàn quốc kháng Pháp, Nhị Mỹ là một xã ở vùng quê, nghèo khó
thuộc Cao Lãnh, Kiến Phong, đã trở thành vùng chiến sự nên cuộc sống rất khó khăn và nguy hiểm.
Hội Thánh Nhị Mỹ không có người chăn, con cái Chúa một số đi tản cư, số còn lại phải tự gây
dựng.Các Chấp sự Hội Thánh Nhị Mỹ đã chèo ghê rước Ông bà Mục sư Lái và bầy con năm người về
với Hội Thánh. Mục sư Lái đã đến với Hội Thánh Nhị Mỹ bằng tình thương mến đầm ấm của một
người chăn hiền lành đối với bầy chiên bơ vơ. Họ đã cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong
công việc Chúa cũng như cuộc sống hằng ngày. Mục sư Lái tổ chức nhóm họp, mở lớp học Kinh
Thánh, chăm sóc, chứng đạo và đào tạo những tín hữu nòng cốt cho Hội Thánh. Trong đó có cả
những tín hữu của các Hội Thánh lân cận mà nay họ đã là những trưởng lão trung kiên của các Hội
Thánh Hồng Ngự, Mỹ Ân, Cao Lãnh… Cuộc sống thời chiến ngày ấy rất khó khăn, đồng bào phải
thường xuyên đối diện với bom đạn, nhiều khi phải bỏ nhà vì Tây bố ráp. Còn nhà thờ, vì chỉ được
làm bằng ván gòn, trê lá cũng bị đốt cháy nên Mục sư và Hội Thánh phải làm lại nhà thờ bao nhiêu
lần không nhớ hết. Nhưng Mục sư Lái vẫn không rời xa bầy chiên của Chúa, vẫn kiên cường giữ gìn
và phát triển Hội Thánh. Với tính cách thân thiện, Mục sư Lái có uy tín với giới chức trách địa
phương, và được nhiều thiện cảm của đồng bào trong xã. Hàng đêm, nhiều người dân đến nhà Mục
130
sư Lái để nghe radio. Họ được bà Mục sư tiếp đãi tử tế, còn ông thì ân cần chuyện trò và chia sẻ Tin
lành.[19]
Như đã biết, Mục sư Ngô Văn Lái là người có chí hướng truyền giáo, đã qua núi cao,giờ đến sông
rạch, ông lại muốn đi truyền giáo đó đây. Nên năm 1953,Mục sư Lái gia nhập tàu Tin Lành của Mục
Sư Nguyễn Văn Tống và con cái Chúa Hội Thánh Ân Thái Đông, Tiền Giang, một con tàu tiếp nối tàu
Tin Lành của Mục sư Huỳnh Văn Ngà bị gián đoạn do ông Mục Sư về với Chúa.
Tháng 08.1955, Mục sư Lái tổ chức Hội đồng bồi linh phục hưng tại Nhị Mỹ, có mời Mục sư
Nguyễn Văn Tống, Mục sư Lê Kim Ngân, Truyền đạo Nguyễn Đức Thế và Mục sư Lái giảng. Hội đồng
được Chúa thăm viếng và thành lập Ban Chứng đạo Lưu hành Nam Việt. Các con cái Chúa tại Hội
đồng đóng góp mua chiếc tàu mới khoảng 20.000 đồng, Chúa cảm động nhiều con cái Chúa các Hội
Thánh lân cận tình nguyện ra đi chứng đạo cùng với Mục sư Lái. Ngày 18,19.02.1956, tàu hạ thủy
rồi đi chứng đạo ở 16 địa điểm thuộc các miền sông rạch Tây Nam bộ như: Nhị Mỹ, Hồng Ngự, Châu
Đốc, Bến Trê, Sóc Sãi,… Tàu đã phát được 1.000 chứng đạo đơn, có 6.000 người nghê đạo và 200
người tin Chúa. Ban Chứng đạo cũng hiệp với Mục sư Phan Văn Miên, được tỉnh trưởng Châu Đốc
cho phép vào khám đường lớn ở Châu Đốc giảng đạo mỗi chiều Chúa nhật hằng tuần. Kết quả lúc
ấy có 27 tù nhân tin Chúa, học câu gốc, học Kinh Thánh Hàm thụ và được lãnh phần thưởng từ bà
Giáo sĩ Jêffrêy. Mục sư Lái đã hết lòng truyền giáo để “Trả nợ Tin Lành mà mình đã mắc” như bài
giảng và tâm nguyện của ông.[20]
(Ảnh do gia đình cung cấp)
Tàu Tin Lành Lưu hành Nam Việt do MS. Lái thành lập năm 1956.
Ngày 06.10.1962, tại Hội Thánh Nhị Mỹ, Mục sư Truyền giáo Ngô Văn Lái, Giáo sĩ Tin Lành đầu
tiên cho người Bru đã “làm xong công việc Cha giao cho làm”. Ông được về yên nghỉ trong nước
Chúa do bệnh ung thư bao tử. Đôi chân truyền giáo ấy đã thôi đi, đã xong sự chạy, đã đánh trận tốt
lành, đã nằm xuống để cho những tôi con Chúa tiếp tục bước đi mãi đến hôm nay.
Mục sư Giáo sĩ I.R. Stêbbins, người truyền đạo, và cũng là người thầy của Mục sư Lái đã viết
trong Hồi ký 41 năm của mình như sau: “Ông Lái là một giáo sĩ thật sự, không hề sợ hãi khi một
mình băng qua các khu rừng già đầy thú dữ mà không hề mang thêo vũ khí. Ông là tấm gương sáng
cho chúng tôi về đức tin vững vàng và lòng sốt sắng rao giảng Phúc âm cho hai trăm làng người
Bru”.[21]
131
Thật:“Những bàn chơn kẻ rao truyền Tin Lành là tốt đẹp biết bao!” (Ro 10:15b)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Hoàng Phu. Lịch sử Hội thánh Tin lành Việt Nam 1911-1965.
2. Stebbins, Irving R. & Stebbins, Thomas H. 41 năm hầu việc Chúa với Hội thánh Tin lành Việt
Nam.
3. Lê Văn Thái. Bốn mươi sáu năm trong chức vụ.
4. Phạm Văn Năm. Dâng trọn cuộc đời.
5. Thánh kinh báo các số 17 (1932); 28, 29 (1933); 51, 53, 54, 55 (1935);110 (1940); 118
(1940); 236 (1956).
6. Website:photos.vnbible.org; cdn5t.net; vietnamcrc.com.
Tường Vi
132
Mục Sư PHAN ÐÌNH LIỆU
(1888-1979)
Nhân kỷ niệm 100 năm Tin Lành truyền đến Việt Nam (1911-2011), tôi xin được tổng hợp
những bài viết về cụ cố Mục sư Phan Đình Liệu từ trước đến nay để toàn thể quí tôi con Chúa trong
thế kỷ 21 nầy có cơ hội nhìn lại lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, học hỏi tinh thần hầu việc
Chúa của những bậc tiền nhân.
Nếu chúng ta muốn biết điều gì quan trọng nhất trong cuộc đời của cụ Mục sư Phan Đình Liệu
thì xin nghe lời tâm sự của chính cụ: "Đọc Kinh Thánh và cầu nguyện là hai điều cần yếu của đời
thuộc linh tôi”.
Quả thật, cuộc đời của cụ Mục sư Phan Đình Liệu đã để lại cho lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam tấm gương một chiến sĩ thập tự trung kiên của Chúa, một anh hùng đức tin, một tôi tớ tận
trung của Chúa Cứu Thế, đã hiến dâng trọn đời mình hầu việc Ngài.
Cụ Mục sư Phan Đình Liệu là một trong những Mục sư đầu tiên tại Việt Nam đã chịu nhiều bắt
bớ tra khảo. Sự khổ nhục mà ông đã nếm trải là một trong những thử thách giáng xuống Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam trong những ngày đầu mới thành lập, nhưng cuộc đời của ông đã làm chấn động
dư luận trong và ngoài nước, cả đến Quốc Hội ở nước Pháp vào năm 1928.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Mục sư Phan Đình Liệu (1940).
I. THỜI THANH XUÂN
Cụ Mục sư Phan Đình Liệu chào đời năm 1888 tại Cẩm Sa, Điện Bàn, Quảng Nam. Cụ lớn lên
trong một gia đình trung lưu nề nếp, đạo đức cổ truyền theo Nho giáo. Cụ được cha mẹ cho ăn học,
được giáo dục hết sức chu đáo. Cụ là người thông minh, có tài năng thiên phú nên đã sớm thành
công trên con đường học thức. Cụ am hiểu về Tứ Thư,Ngũ Kinh của Trung Hoa, thông biết nhiều
133
văn chương, vì vậy cụ đã đạt được kết quả cao, có tên trong danh sách của những người tài giỏi thời
bấy giờ. Năm 1914, cụ đã được trúng tuyển và được bổ nhiệm làm giáo viên trường Thanh Xuân ở
Cẩm Sa. Các bậc phụ huynh thời đó biết tiếng tăm của cụ, đã thúc giục con êm mình kéo đến tầm sư
học đạo dưới chân thầy giáo Liệu ngày càng đông.
Ngay từ tuổi thanh xuân được sớm thành đạt, dễ dàng kiếm được tiền trước cửa đời rộng mở,
cho nên chàng thanh niên Phan Đình Liệu chẳng mấy chốc đã sa ngã vào con đường nghiện ngập,
ăn chơi sa đọa. Lúc ấy là mùa hè năm cuối của niên hiệu vua Duy Tân (1916). Thầy giáo Liệu vì quá
ham mê vui chơi nên đã bỏ nghề dạy học, thường xuyên hò hẹn ăn uống, rượu chè. Lúc bấy giờ
thường có những cuộc hội tụ gái trai thi nhau đối đáp bằng thơ ca, nhất là điệu hát dân ca "hò
khoan". Chàng thanh niên Liệu với tài trí thông minh đã làm nhiều người thích thú, hưởng ứng,
tôn sùng. Nhưng đó cũng chính là con đường tội lỗi, trơn trợt dần dần đưa chàng lún sâu vào băng
hoại. Nếu chẳng may lúc ấy cụ phải đối diện với tử thần thì chắc chắn linh hồn sẽ mãi mãi trầm luân
nơi địa ngục.
Nhưng cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương đã ban cho cụ một cơ hội quí báu để được
nghe làm chứng về Tin Lành Cứu Rỗi và nhận một quyển truyền đạo đơn giới thiệu về Phúc Âm. Cụ
đã nhận biết tình trạng tội lỗi của mình, cảm biết số phận bị hình phạt đời đời đang chờ sẵn, cụ đã
khóc lóc cách cay đắng nhiều đêm, hối tiếc cho những ngày sống hoang phí cho tội lỗi, làm bạn với
thế gian và nô lệ cho ma quỉ. Cụ đã ăn năn xưng tội bằng lòng tin nhận sự hy sinh, chết thay tội của
Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập tự giá cho riêng mình, tiếp nhận sự tha thứ của Chúa và mời Ngài
ngự vào lòng một cách chân thành. Lúc ấy, Giáo sĩ I. R. Stêbbins, một trong những giáo sĩ đầu tiên
đêm Tin Lành đến Việt Nam, là người đã cầu nguyện cho cụ tiếp nhận Chúa. Đó là một ngày không
bao giờ quên đối với cụ vào tháng 10 năm 1920.
Cụ Phan Đình Liệu ngày càng học biết về Chúa, nhờ lời Ngài chẳng những cụ đã được tái sanh
trở nên một người tin kính Chúa mà cụ đã nghê được tiếng Chúa kêu gọi. Tháng 12 năm 1920 sau
khi chịu Lễ Báp-têm qua Giáo sĩ Irwin tại bãi biển Mỹ Khê, Đà Nẵng, cụ đã dâng đời sống mình cho
Chúa và vào Trường Kinh Thánh Touranê (Đà Nẵng) năm 1921; như vậy cụ là một trong những học
viên đầu tiên của trường này.
II.HỌC TẠI TRƯỜNG KINH THÁNH TOURANE (1921-1923)
Sứ đồ Phao-lô đã từng khuyên giục mỗi Cơ đốc nhân: "Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót
của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa
Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em." Bởi vì cụ là một thanh niên trụy lạc vừa mới ăn năn
trở lại cùng Chúa, lại muốn dâng mình vào Trường Kinh Thánh, cụ phải đối diện với ít nhất 3 điều
khó:
1. Giáo hội cần thử nghiệm và cứu xét kỹ càng.
2. Cần có tài chính để nuôi mình, hoặc được cấp học bổng.
3. Gia đình bắt bớ,ngăn trở.
Với đức tin đơn sơ cụ đơn giản trình bày các nan đề khó khăn ấy trước ngai Chúa và Ngài đã
giải quyết cho một cách kỳ diệu. Thật là một phép lạ! Chính chúa đã cảm động Giáo Hội nâng đỡ
một thanh niên ngoại đạo mới tin Chúa, được tái sanh và dâng đời mình hầu việc Ngài. Giáo hội đã
mạnh dạn gởi gắm cụ vào trường, và cụ cũng được cấp học bổng.
134
Cụ Phan Đình Liệu vào Trường Kinh Thánh Touranê (Đà Nẵng) năm 1921. Lúc bấy giờ, trường
Kinh Thánh bắt đầu từ một nơi trước đó dùng để chứa xe ngựa. Các giáo sĩ đã sửa sang lại và khởi
sự lớp học đầu tiên vào ngày 1-9-1921. Ngày khai giảng tuy đơn sơ nhưng không kém phần long
trọng và cảm động. Thật là một ngày đáng ghi nhớ! Một ngày lịch sử của Trường Kinh Thánh thuộc
Hội Thánh Tin Lành Việt Nam! Tuy Trường Kinh Thánh nhỏ bé được sanh ra trong một nhà để xe
ngựa nhưng theo thời gian được nâng đỡ bởi quyền năng của Đức Chúa Trời lần lần đã mở mang
và kiến thiết lớn rộng như chúng ta đã thấy ở Đà Nẵng, sau này dời vào Nha Trang và hiện nay thì
ở tại thành phố Sài Gòn.
Lúc bấy giờ Giáo sĩ D.I. Jêffrêy được cử giữ chức Đốc Học, Giáo sĩ E. Irwin và Stêbbin làm Giáo
sư,ông Hoàng Trọng Thừa vừa làm Giáo sư vừa học thêm.
Vì Tin Lành mới đến Việt Nam chưa được bao lâu nên lúc bấy giờ tín đồ cũng còn ít ỏi. Lẽ dĩ
nhiên số học viên lớp Kinh Thánh đầu tiên cũng không được bao nhiêu người. Nhưng ngợi khen
Chúa khi biết rằng có một số học viên thật được Chúa gọi và vâng lời Ngài,ham mến Lời Chúa và
nặng lòng vì giáo hội ngày nay và những linh hồn đang hư mất chưa được ai quăng dây cứu sanh
nên đã ghi tên nhập học. Các học viên ấy là: Trần Dĩnh, Lê Văn Long, Quoc Foc Wo, Phạm Thành.
Quả hẳn họ thật vinh dự được học lớp Kinh Thánh đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Vài
tháng sau Chúa lại kêu gọi mấy học viên nữa vào học lớp Kinh Thánh nầy. Ấy là học viên Phan Đình
Liệu,Dương Nhữ Tiếp, Trần Xuân Phan, Nguyễn Châu Thông, Nguyễn Hữu Đinh và Nguyễn Hữu
Khang. Học viên Nguyễn Hữu Thông ra Đà Nẵng thăm người anh và tìm hỏi đạo lý Chúa nên sau khi
tin nhận Ngài thì liền dâng mình phục vụ Ngài. Các học viên lúc bấy giờ chỉ là thanh niên thôi.
Trường Kinh Thánh mới tổ chức, chương trình học tập và bài vở chưa được chu đáo. Các Giáo
sĩ nói tiếng Việt Nam chưa thông thạo mà còn nói nhanh nữa nên rất khó nghe. Tài liệu tham khảo
bằng tiếng Việt không có, các học viên rất vất vả nghê các giáo sĩ giảng,ghi chép bài học, sau đó về
phòng tra cứu, so sánh với các sách Hán văn. Toàn bộ Kinh Thánh lúc ấy cũng chưa được phiên
dịch, chỉ mới có một số rất ít sách Tin Lành và các thơ tín mà thôi. Ma quỉ là kẻ thù nghịch của Lẽ
thật và Hội Thánh.Ma quỉ không thích khi thấy một Trường Kinh Thánh được thành lập ở Việt Nam
nên hăm hê phá tan. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng khởi lập Trường Kinh Thánh nhỏ bé nầy và Ngài
hằng che chở giữ gìn. Học viên đã hứa nguyện dâng mình phục vụ Ngài nên hằng nhờ sức Đấng
Toàn Năng cố gắng học tập dầu phương tiện không được như ngày nay. Cụ Phan Đình Liệu lúc bấy
giờ được Đức Chúa Trời phú cho sự thông minh,nên dù mới tin nhận Chúa, chưa thuộc nhiều truyện
tích Kinh Thánh và chưa hiểu nhiều về Lời Chúa nhưng cũng đã thêo kịp các bạn đồng môn là người
đã tin Chúa lâu, trước mình. Từ năm học thứ nhất đến năm tốt nghiệp cụ luôn luôn được điểm cao.
Tất cả các học viên đầu tiên đều tiếp nhận sức thuộc linh từ nguồn Thánh Linh, vượt qua nhiều
nỗi thử thách và lướt trên các chướng ngại vật để học hành. Sau một khóa học nhọc nhằn, đòi hỏi
nhiều sự bền gan kiên chí, hạ mình dưới bệ chơn Chúa để nhận ơn phước, chịu rèn luyện hầu trở
nên người đánh lưới có tài năng và ân tứ, họ ra trường vào tháng 5 năm 1923. Sau lễ bãi khóa, các
ông Tân Truyền đạo sửa soạn hành lý, họ hăng hái lên đường, xông pha nơi mặt trận tội khiên. Kẻ
vào Nam người ra Bắc, kẻ khác ở lại Trung để phục vụ Chúa và rao truyền Tin Lành cho hàng triệu
người chưa từng nghe Danh Giê-xu.
135
Cụ Mục sư Phan Đình Liệu là người ngồi đầu hàng bên trái.
III. THỜI KỲ HẦU VIỆC CHÚA (1923-1979)
Tháng 5 năm 1923, Thầy Truyền đạo Phan Đình Liệu, lúc ấy 35 tuổi, đến hầu việc Chúa tại Hội
An (Quảng Nam), lúc bấy giờ gọi là Faifoo. Trong thời gian 4 tháng Chúa đã cho có 250 người bằng
lòng tin nhận Chúa, và có 40 người chịu Báp-têm. Có một lần giảng tại Phong Thử, có 35 người
tin Chúa và sau đó lập Hội Thánh Phong Thử.
Lúc ấy, vì người chăn bầy thiếu quá nên qua tháng 10 năm 1923 cụ lại được thuyên chuyển đến
Châu Đốc, và tại đó đã có 70 người tin Chúa. Chính cụ là người đã lập Hội Thánh Tân Châu và tiếp
tục gieo giống Tin Lành tại Tân Biên, Thất Sơn. Cụ ở đây đến tháng 2 năm 1924.
Từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1924 cụ được cử đến hầu việc Chúa ở Sa Đéc. Tại đây có 200 người
tin Chúa, mở Hội Thánh Cái Tàu Hạ.
Từ tháng 5 năm 1925 đến tháng 8 năm 1926, cụ đến hầu việc Chúa ở Cần Thơ, Long Xuyên rồi
đi giảng lưu hành ở nhiều nơi nhiều chỗ tại Rạch Giá, Bạc Liêu, Sóc Trăng cho đến Cà Mau. Cụ đến
đâu thì ân cần, sốt sắng rao giảng Tin Lành đến đó. Có vô số người đến nghê đạo Tin Lành và 700
người bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Chúa Cứu Thế và linh hồn được cứu rỗi. Cụ chẳng những
là người có ơn rao truyền Tin Lành mà cũng có tài thành lập Hội Thánh, nên Cụ đã lập được các Hội
Thánh ở Phong Điền,Đông Phú, Trà Ôn, Cái Con, Phước Long, Sóc Trăng, Cà Mau...
Từ năm 1926 đến 1927 Truyền đạo Phan Đình Liệu trở về trường Kinh Thánh học tiếp năm
cuối để tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp Thần học vào tháng 4 năm 1927, suốt cả bước đường thánh
vụ còn lại, trong thời kỳ thực dân Pháp, cụ gặp rất nhiều gian nan đau khổ,nhưng cụ không phàn
nàn, oán trách gì Chúa, ngược lại cụ luôn luôn tươi vui và bền chịu các sự bắt bớ, lao lý, tù tội vì
Chúa, vì Hội Thánh.
136
Từ tháng 5 năm 1927 đến tháng 12 năm 1928, cụ đi rao giảng Tin Lành tại Nha Trang, Sông
Cầu, Tuy Hòa (Phú Yên), có 30 người tin Chúa. Tại Phan Rang có 20 người tin Chúa, và chính tại đây
cụ bị lính bắt về Dinh quan Công sứ. Viên quan nầy thò tay vào ngực lấy ra chiếc dây chuyền có thập
tự bằng vàng giơ cho cụ thấy, ông nói: "Thầy ơi! Tôi là Tín đồ Thiên Chúa Giáo, tôi không bắt Thầy,
nhưng ông Nguyễn Hữu Bài có giấy cấm giảng Tin Lành tại đây. Tốt hơn, Thầy đi vào Nam giảng”.
Ông Nguyễn Hữu Bài lúc bấy giờ là Viện trưởng Viện Cơ mật, được nuôi dưỡng trong gia đình Thiên
Chúa Giáo La Mã, và có ảnh hưởng vô cùng lớn lao ở Trung Kỳ lúc bấy giờ, nên nếu muốn, ông có
thể gây nhiều khó khăn cho các giáo sĩ lẫn các Mục sư Tin Lành. Ông có quan hệ mật thiết với tất cả
các quan lại và thông qua ông,các viên chức Pháp cai trị dân chúng. Ông là nhân vật nổi tiếng, già
nua và mù quáng, có thái độ nghịch với Tin Lành.
Tháng 12 năm 1927, cụ Phan Đình Liệu mướn được một căn nhà tại thị xã Ninh Hòa, mua sắm
bàn ghế rồi cùng các tín đồ nhóm lại cầu nguyện. Có ông Cò (người ta nói ông này xuất thân từ nhà
mồ côi Thiên Chúa Giáo) đến, cầm gậy đập bàn làm nơi đứng giảng và đánh đuổi ông cùng các tín
hữu ra, không cho nhóm họp tại đây nữa. Cụ và mọi người phải bỏ chỗ này, trở về nhóm tại nhà
một tín đồ (ông Thừa) như cũ.
Đầu năm 1928, có một người quen với cụ tên là Xã Lợi, từ Phan Rí ra Nha Trang nghe cụ giảng
và mời cụ vào Phan Rí. Tại đây, cụ dành 2 ngày làm chứng và bán sách. Lúc đó, ông Đồn trưởng ở
Phan Rí, một quan cai trị người Pháp, cho lính bắt còng tay cụ giải vô Phan Thiết để xử án, kèm theo
là lá thơ cho viên Công sứ. Trên đường đi hai tên lính lấy nịt da quất ngang đầu cổ cụ. Họ giải cụ
đến quan Công sứ. Khi quan xêm thơ xong, ông ta nói: "Người Pháp không bắt đạo Tin Lành, nhưng
việc xảy ra chỉ vì đạo tố đạo đó thôi. Thầy cứ đi bình yên, về Nha Trang mà giảng Đạo”.
Lúc bấy giờ ở Trung Kỳ, nhà vua và Triều đình cấm mọi sự giảng dạy bên ngoài nhượng địa của
Pháp.Nhưng không thể nào cứ hạn chế việc rao giảng Phúc âm trong vùng giáp ranh. Lúc đó có ông
bà Chester Travis, vị giáo sĩ trẻ được Chúa sai đến và có ý định đến Nha Trang miền Nam Trung Kỳ,
cụ Phan Đình Liệu được thôi thúc nên xin tháp tùng cùng hầu việc Chúa, bất chấp sự hạn chế của
chính quyền.
Khi nhà Truyền đạo Phan Đình Liệu nói cùng giáo sĩ Travis: "Xin cho tôi đi với" thì được các
giáo sĩ nhắc nhở rằng cho dù cụ có tháp tùng cũng sẽ chẳng làm được gì vì ở đó người ta đang cấm
giảng đạo. Ông bà Travis dự định đi đến Nha Trang để tiếp tục học tiếng Việt. Nhưng cụ Liệu
khẩn khoản: "Tôi là người Việt Nam, đây là đất nước tôi nên việc tôi rao giảng Phúc âm thì chẳng
có gì là sai trái cả.Xin hãy cho tôi đi. Tôi sẵn sàng chịu mọi hậu quả do những gì tôi làm." Cuối cùng
mọi người đồng ý với ông. Do đó cụ tháp tùng ông bà Travis trong cuộc phiêu lưu mới.
Tháng 4 năm 1928,ngay khi ổn định ở Nha Trang (Khánh Hòa), ông bà Travis cảnh báo cụ Liệu
đừng làm điều gì quá đáng, nhưng không thể ngăn cản được và cuối cùng cụ Liệu đã thuyết phục
được ông bà Travis mướn một nơi làm nhà thờ. Khi đã có nhà thờ, cụ Liệu nhờ ông bà Travis giúp
trang bị băng ghế và bục giảng. Hai năm trước cụ đã đến đây giảng Tin Lành, lúc bấy giờ quan Công
sứ chỉ cho phép bằng miệng chứ không có công văn rõ ràng. Bất chấp hậu quả, cụ Liệu bắt đầu
truyền giảng. Chỉ trong vài đêm, nhiều người đến nghe sứ điệp nóng bỏng của cụ. Tại Nha Trang,
cụ Liệu có cơ hội đi khắp 4 tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận, Nha Trang Thành để rao giảng
Lời Chúa, kết quả có chừng 300 người tin Chúa. Tất cả có vẻ yên ổn.Một đêm nọ khi ông Travis đi
vắng, cảnh sát thình lình xuất hiện, tiến vào nhà thờ trong khi cụ Liệu đang giảng và bắt giữ cụ.
Quan huyện Vĩnh Xương và quan Bang Tá yêu cầu cụ trình giấy phép thiết lập nhà thờ. Cụ Liệu trình
bày rằng quan Khâm sứ đã cho phép Giáo Sĩ Irwin là Hội Trưởng được mở nhà giảng tại đây đã hai
137
năm rồi, cụ là người đến sau không nắm giữ giấy tờ gì cả. Quan huyện không bằng lòng, yêu cầu cụ
phải có giấy phép hoặc phải tháo dỡ bàn ghế và hạ tấm bảng Hội Thánh Tin Lành xuống. Cụ Liệu
nhất quyết không làm theo vì lệnh quan Khâm sứ đã cho phép trêo tấm bảng ấy lên đã hai năm rồi.
Cụ bị các quan ép đủ cách để phải hạ bảng xuống. Cụ Liệu thưa: "Bẩm quan, tôi không dám hạ,vì là
chẳng những phạm lỗi với Hội Thánh, mà còn trái lệnh của quan Khâm sứ nữa”.
Thế là quan huyện sai lính giải cụ về giam trong lao hai ngày, ép cụ phải hạ bảng Hội Tin Lành
xuống,nhưng trong nhà giam cụ cứ hát thơ thánh và cầu nguyện, kêu cầu Chúa giải cứu và tuôn
nước mắt dầm dề. Quan huyện cảm động, bảo cụ làm tờ khai: Đạo nầy từ nước nào? Âi sai ông đến
giảng tại đây? Cụ Liệu khai rằng: Nguồn Đạo từ Đức Chúa Trời và chính Ngài sai cụ đến đây giảng
Tin Lành để cứu linh hồn đồng bào ở Nha Trang. Cuối tờ khai thường phải viết: "Vi thử tư tờ khai",
cụ lại thay năm chữ ấy bằng hai chữ "A-men". Quan huyện tức cười tha cho cụ về Nha Trang.
Dầu có sự bắt bớ tại Nha Trang và Ninh Hòa như ở trên đã nói, từ mùa hè năm 1927-1928, nhờ
ơn Chúa,cụ Phan Đình Liệu đã mở được Hội Thánh mới tại chợ Thành (Nha Trang Thành) và Hội
Thánh Phan Rang. Một buổi chiều, khi cụ cùng ông bà Travis và sáu tín đồ đang nhóm cầu nguyện,
thình lình tỉnh sai quản cơ đêm một tiểu đội đến vây, dùng roi mây đánh trên đầu mọi người, chỉ
trừ ông bà Travis không bị đánh. Họ giải cụ và sáu anh êm tín đồ về lao. Chính cụ đã đứng ra chịu
mọi trách nhiệm vì giảng Tin Lành, còn sáu anh em kia chỉ là người đến đây nghê cụ giảng mà thôi.
Vì vậy,đến tối họ trả tự do cho mấy anh êm tín đồ. Còn cụ thì bị giam luôn hai tháng.Quan tỉnh cắt
hai tên lính giải cụ về Quảng Nam.
Sau đó một tháng, cụ cùng Mục sư Lê Văn Thái, Giáo sĩ Cadman đi dự Đại Hội đồng Tổng Liên
tại miền Nam, ghé lại Nha Trang hai ngày. (Giáo sĩ Cadman bấy giờ là chủ nhiệm Thánh Kinh Báo,
hợp tác với Thánh Thơ Công Hội do cụ Tôn Thất Thùy phụ trách, và làm Chủ nhiệm Hội Truyền
giáo Phước Âm Liên hiệp cùng ông Jackson anh, cụ Van Hine và các Truyền đạo Việt Nam đang tận
tụy hầu việc Chúa tại Bắc Việt).
Ban ngày mọi người phân phát sách ngoài phố và làm chứng đạo. Tối lại, cụ Liệu và Giáo sĩ
Cadman,Mục sư Lê Văn Thái giảng tại nhà giảng. Được hơn một tiếng đồng hồ thì lính lại áp đến bắt
mọi người giải đến quan Công sứ. Ông sứ thả cụ Cadman và Mục sư Lê Văn Thái. Còn cụ Liệu bị giải
lên tỉnh Khánh Hòa rồi tống giam. Họ lên án vi lệnh,phạt giam cụ năm tháng khổ sai. Hai tháng đầu
giam tại nhà lao tỉnh, cụ đã cầu nguyện suốt đêm, hát Thánh ca lớn tiếng vang vọng vô dinh các
quan. Có lẽ vì mất giấc ngủ nên quan án ra lệnh giải Phan Đình Liệu xuống Nha Trang cho gần Hội
Thánh Tin Lành! Thật ra, họ muốn tống cụ xuống nhà lao chính cho đội đề lao người Ra-đê có tiếng
hung dữ, để trị tội cụ cho bỏ ghét.
Giáo sĩ Travis cùng với Giáo sĩ I.R. Stêbbins đến thăm cụ tại nhà lao. Cụ đi ra cổng tươi cười gặp
mọi người. Cụ nói: "Đừng lo, không sao đâu! Tôi chỉ gặp một điều khó khăn duy nhất là ở đây có
hàng triệu con muỗi. Ông có thể mang cho tôi một cái mùng không?” Cụ còn nói thêm: "Tôi có cơ hội
làm chứng cho nhiều người ở tù tại đây, vì vậy hãy tiếp tục cầu nguyện cho tôi, tôi không lo lắng gì
cả”.
Suốt một thời gian,tại nhà lao, người cai ngục rất bực mình vì lời cầu nguyện liên tục, nhiệt tình
và lớn tiếng của cụ Liệu. Ông nghe cụ Liệu cầu nguyện cho ông. Ông không thích những điều ông
nghe. Cụ lớn tiếng cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin hãy cứu người cai ngục. Ông ấy là người có tội như
tất cả chúng con, bị hư mất và là tội nhân của Sa-tan”. Cụ Liệu cứ tiếp tục cầu nguyện như thế nên
một buổi sáng nọ người cai ngục cho gọi cụ lên văn phòng và khiển trách: "Liệu, anh đã làm ồn
nhà tù cả đêm. Anh phải chấm dứt ngay. Khi cầu nguyện, anh hãy cầu nguyện thầm thôi”. Cụ nhún
138
nhường đáp: "Nhưng thưa ông, chúng ta là người Việt Nam, khi thờ phượng chúng ta luôn đọc to lời
cầu kinh. Tôi không biết làm thế nào cầu nguyện thầm cho được. Xin tha lỗi cho tôi, tôi sẽ cố gắng
không làm ồn nữa”. Cụ Liệu tiếp tục lớn tiếng cầu nguyện xin Chúa cứu người cai ngục tội lỗi nầy.
Sau nầy người cai ngục hết sức ngạc nhiên thấy ảnh hưởng của cụ Liệu đối với nhiều người tù
khác. Ông thấy những lời giảng dạy của cụ Liệu có ảnh hưởng tốt đối với những tù nhân nên không
còn ngăn cản. Hơn nữa, người cai ngục còn âm thầm thích điều đó nữa. Vài năm sau, khi người cai
ngục bị bệnh gần chết, ông cho mời cụ Liệu đến cầu nguyện và Chúa đã nhậm lời cho ông được chữa
lành. Trong nhà tù nầy lại có thêm một Hội Thánh nữa của Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhiều người tù
đã được đổi mới, khi trở về nhà làm sứ giả của Đấng Christ cho dân làng của mình.
Tại đây, cụ đã làm chứng cho 15 tù nhân, sau đó có 2 người tù và bà Đội trông coi nhà lao tin
Chúa. Ông đề lao người Ra-đê nổi tiếng hung dữ, nhưng nhờ ơn Chúa, ông lại rất hiền từ đối với cụ,
cho cụ được tự do giảng đạo, nên sau đó cụ lập được một Hội Thánh nhỏ trong nhà lao. Cụ làm chủ
tọa, bầu 2 tù nhân tín đồ làm chấp sự.Chương trình là mỗi sáng Chúa nhật giảng cho tín đồ, chiều
cho tù nhân chưa tin. Mỗi tối đều có hiệp nguyện sau khi cửa nhà lao khóa chặt. Mỗi trưa thứ ba và
thứ năm cụ dạy Phước Âm Yếu Chỉ cho các tân tín hữu.
Ngày 15.10.1928,nhân dịp đi từ Hà Nội vào Sài Gòn bằng xê hơi thêo quốc lộ 1, Mục sư Lê Văn
Thái và Giáo sĩ W.C. Cadman tiện đường ghé lại nhà lao thăm cụ Phan Đình Liệu và trao tặng cái
"rề-xô" dầu (bếp dầu), ngay trước nhà lao. Trong khi đứng đợi tại cửa nhà lao để trao cái rề-xô cho
cụ, thì bà W.C. Cadman đứng bên kia đường đã chụp được một tấm ảnh.
Nơi giam giữ cụ Mục sư Phan Đình Liệu. Góc trên là ảnh cụ Phan Đình Liệu.
Tấm ảnh đó làm bằng chứng cho việc Tin Lành bị bắt bớ và Mục sư bị cầm tù tại Việt Nam. Về
đến Sài Gòn bà Giáo sĩ Cadman liền viết một lá thơ tường thuật đầy đủ chi tiết gởi cho một nghị sĩ
Quốc hội Pháp kèm theo tấm ảnh bà đã chụp được. Ít lâu sau hồ sơ về vụ bắt bớ nầy được đưa ra
thảo luận sôi nổi tại Quốc hội Pháp. Nhiều câu hỏi được nêu lên để chất vấn chính phủ, đại khái
như: Tại sao Tin Lành lại bị bắt bớ tại Việt Nam? Tại sao Mục sư bị giam cầm?
Sau cuộc tranh luận tại Quốc hội Pháp, ngày 5.12.1929 chính phủ Pháp và Nam triều ban hành
một sắc lệnh mới. Sắc lệnh nầy nhằm thu hồi sắc lệnh của Toàn quyền Đông Dương đã ký vào tháng
Chạp, 1915. Như vậy, trên lý thuyết, Tin Lành không còn bị ngăn cấm nữa, nhưng trên thực tế Mục
139
sư Truyền đạo vẫn luôn luôn bị theo dõi gắt gao. Nếu vấp phải một sơ hở nào thì liền bị bắt giữ hoặc
làm khó dễ ngay. Đơn xin cấp giấy phép cất nhà giảng hoặc mở phòng giảng phải chờ hằng năm vẫn
chưa được trả lời.
Đầu năm 1929, sau hơn 3 tháng tù, cụ được "ân xá", mặc dù theo án lệnh, thì cụ Mục sư Phan
Đình Liệu phải ở tù hơn 5 tháng, và bị trục xuất khỏi vùng đất bảo hộ, nghĩa là phải rời khỏi miền
Trung. Lúc được tha về, ông đề lao dầu chưa tin Chúa nhưng có vẻ kính sợ Chúa và yêu mến cụ lắm.
Ông bảo cụ: "Phải chi được phép, tôi nguyện lưu ông Ha-lê-lu-gia ở lại đây ít tháng nữa cho đỡ
buồn!”Họ đặt tên cho cụ là “ông Ha-lê-lu-gia”!
Khi ra tù, cụ có làm bài thơ “Hội Thánh tù” sau đây:
Hội Thánh tù
"Tra xem lịch sử trải nghìn thu,
Mới thấy trong lao Hội Thánh tù.(1)
Bãi Sở (2) lui về ăn dưới đất,
Ngủ vùi, thức dậy tiểu trong lu.(3)
Cùm săng chân cứng vừa in khít,
Cơm vắt (4) Trời nuôi cũng mập ù.
Cánh cửa lao lung dù khóa chặt,
Khôn ngăn lòng đến Chúa Giê-xu"
Chú thích:
(1)Mỗi trưa Chúa nhật giảng một bài, chiều họp lại học Phước Âm Yếu Chỉ, mỗi giờ trưa
trong tuần nhóm nhau học Kinh Thánh. Mỗi tối trước khi tra chân vào cùm,anh êm nhóm nhau
cầu nguyện và làm chứng cho bạn đồng tù về ơn cứu chuộc của Đấng Christ. Đó thật là một Hội
Thánh Tù vậy.
(2)"Sở" chỉ cơ quan bắt tù làm khổ sai:
(a)Làm vệ sinh cho các công sở và tư dinh của công sứ cùng các quan khác.
(b)Đập đá lót đường và đẩy "ru-lô" cán đường, những con đường tại Thành phố Nha Trang
hiện hữu.
(c)Làm cỏ trong các Dinh.
(3)Những người phạm tội nhẹ thì buổi tối không bị cùm. Riêng cụ Liệu chỉ bị án vi lệnh là
tội rất nhẹ nhưng lại bị nhốt trong lao chánh, chung với các tù phạm đại tội. Bảy giờ tối tất cả
đều bị cùm chân lại, vì vậy mỗi người phải có cái lu nhỏ bên mình để đại và tiểu tiện.
(4)Mỗi tù phạm được lãnh hai vắt cơm với muối trắng cho mỗi ngày ăn.
Sau này, cụ tâm sự,khi xét lại trải nghiệm bị tù đày, thật không phải do tay người ta mà là do ý
Chúa đặt cụ ở đó để làm mấy điều quan trọng:
1. "Nếu tôi không vô lao ở bảy tháng, thì ai được phép vào đó mà giảng đạo. Dịp nầy tôi làm chứng
cho 2 người lính và 12 người tù tin Chúa, cứ mỗi ngày đều nhóm lại học Phước Âm Yếu Chỉ, và các
ngày lễ cũng đều có nhóm họp thật vui, thành ra một Hội Thánh nhỏ trong nhà lao”.
140
2. "Toàn cõi Việt Nam trước đây chưa có phép giảng Tin Lành tự do. Nhân dịp tôi bị tống giam tại
lao Khánh Hòa lần thứ hai, ông Mục sư Lê Văn Thái tay bưng cái rề-sô (bếp nấu nước) tặng tôi tại
cửa lao, cụ Cadman chụp một tấm ảnh nầy đăng lên các báo Pháp, Anh, Mỹ, Gia Nã Đại. Nhờ vậy về
sau chính phủ Pháp đã cho Hội Thánh Tin Lành được tự do giảng đạo toàn cõi Đông Dương, từ nay
không còn ai được phép bắt bớ như trước nữa”.
Trở lại câu chuyện khi cụ vừa được thả. Lúc bấy giờ tại Đà Nẵng các giáo sĩ đang nhóm Hội Đồng.
Hội Đồng dành một ngày cầu nguyện đặc biệt, cầu xin Chúa cứu cụ Liệu ra khỏi tù.Thình lình có
tiếng gõ cửa rất mạnh trong khi Hội Đồng đang cầu nguyện. Cửa vừa mở, mọi người chợt nghe tiếng
hò rêo và cười giòn của cụ Liệu. Vậy là cuối cùng cụ cũng đã được thả! Tất cả mọi người ùa ra cửa
đón cụ, tay bắt mặt mừng và ngợi khen Chúa vì cụ đã được tự do. Nhưng khi thấy có một người lính
đứng bên cạnh cụ thì các các giáo sĩ hỏi: "Anh lính nầy là ai vậy, tại sao lại đi với ông?” Cụ cười ngất
và nói: "Tôi được thả ra khỏi nhà tù, nhưng nhà vua ra chỉ dụ đày tôi đi khỏi Trung Kỳ. Tôi phải đi về
miền Nam và sống ở Nam Kỳ.Tốt thôi, tôi vui mừng đi về đó, nơi tôi có thể tiếp tục rao giảng Phúc
Âm.”Sau đó cụ Phan Đình Liệu được phong chức Mục sư và cùng Giáo sĩ I.R. Stêbbins đến Vĩnh Long,
tại đó cụ lại tiếp tục đi khắp nơi giảng Tin Lành cho đến năm 1935 mới được phép trở về quê quán.
Trong khoảng thời gian đó cụ có cơ hội đi khắp Đông Dương rao giảng và chinh phục linh hồn tội
nhân cho Đức Chúa Giê-xu Christ. Có chừng 200 người đã tin nhận Chúa trong 14 tỉnh tại Nam Kỳ.
Tháng 7 năm 1930, cụ về Phan Thiết, trong vòng nửa năm có chừng 400 người tin Chúa ở rải
rác tại Phú Hải, Phú Long, Ma Lâm. Sau đó có giấy Tòa Khâm sứ cấm cụ giảng Tin Lành tại Trung Kỳ
như sau: "Phan Đình Liệu bất đằc giảng Trung kỳ địa hạt" nên một lần nữa cụ Mục sư Phan Đình
Liệu đành phải cuốn gói đi xứ khác.
Tháng 8 năm 1931, tại Sóc Trăng, cụ mở 3 Hội Thánh: Như Giá, Trá Cuôn, Hòa Túc, có 100 người
tin Chúa.
Từ tháng 8 năm 1932 đến 1933 cụ kiêm nhiệm Hội Thánh Bạc Liêu cho đến tháng 8 năm 1935
và mở được thêm Hội Thánh Vĩnh Trạch, Trà Nho. Cụ giảng đạo tại Gia Rai có chừng 150 người tin
Chúa.
Từ năm 1935 đến 1939, cụ chủ tọa Hội Thánh Đà Lạt. Cụ tổ chức đoàn Chứng đạo đi bằng xe
đạp,truyền giảng tại Cầu Đất, Đơn Dương, Trạm Hành, Ma Lọn (Thạnh Mỹ), La Ba. Đi đến đâu cụ
thành lập được Hội Thánh đến đó.
Từ tháng 7 năm 1939 đến tháng 8 năm 1941, cụ hợp tác với Giáo sĩ Stêbbins lưu giảng khắp 3
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Đi bằng xê hơi có rờ-moóc với đầy đủ thực phẩm mang
thêo để có thể ở lại mỗi nơi một vài tuần hết nơi này đến nơi khác.
Từ năm 1942 đến 1946, các Giáo sĩ bị giữ tại Đà Lạt rồi chuyển đến Mỹ Tho. Nhưng cụ vẫn tự
túc đi lưu hành truyền đạo khắp xứ Trung Kỳ. Con trai cụ là Phan Xuân Thiện, dạy Ânh văn lấy tiền
để trợ cấp cho cụ. Có hàng ngàn tín đồ được thăm viếng và nhiều người tin Chúa.
Từ tháng 10 năm 1950, cụ chính thức được hưu trí, sống tại thành phố Đà Lạt. Dầu vậy, cụ vẫn
hiệp tác với Mục sư Duy Cách Lâm và Giáo sĩ J. Funé để hầu việc Chúa. Có ban Tuần hoàn Bố đạo đi
các tỉnh Tuyên Đức, Di Linh, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa.Đặc biệt có lần cụ cùng với Giáo
sĩ Thomas Stêbbins (con trai của Giáo sĩ I.R.Stêbbins) và Mục sư Nguyễn Văn Thìn đi giảng lộ thiên
tại xã An Dân, quận Tuy An (Phú Yên) chỉ trong một tuần mà có gần 100 người tin Chúa và sau đó
mở Hội Thánh mới tại đó.
141
Năm 1970, Mục sư Nguyễn Đình Hiệu, Hội Thánh Bảo Lộc mời cụ đến giảng cho đồng bào từ
Nam Vang di cư về. Cụ nhận lời và trong đêm truyền giảng đó có 50 người tin Chúa.
Đầu năm 1973, cụ bị liệt hai chân, di chuyển trong nhà phải lết dưới dất. Bốn tháng trường cụ
chỉ ngồi một chỗ, không có thuốc thang nào chữa lành, nhưng cụ lấy đức tin cầu nguyện kêu xin
Chúa. Lạ lùng thay Chúa đã chữa cho cụ khỏi bệnh.
Trong lúc tuổi già cụ Mục sư Phan Đình Liệu luôn dành thì giờ cầu nguyện cho các Mục sư,
Truyền đạo,Giáo sĩ đang hầu việc Chúa trong nước cũng như ở nước ngoài. Cụ nhớ từng người,từng
cơ quan của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam mà cầu thay cho. Cụ thường xem tin tức các Hội Thánh
trên các báo Cơ đốc và nhớ đến các tín hữu trong và ngoài nước mà cầu thay cho họ.
Tính ra trong đời hầu việc Chúa, cụ Mục sư Phan Đình Liệu đã "được" ở tù 6 lần. Nhưng không
lần nào lung lạc được đức tin của cụ, cũng chẳng lay chuyển được ý chí cương quyết hết lòng vì
Danh Chúa truyền bá Tin Lành cho bao nhiêu linh hồn hư mất.
Cụ Mục sư Phan Đình Liệu cũng là một nhà thơ tài hoa, có năng khiếu thiên phú về thơ nhạc. Cụ
không xuất bản một tập thơ nào, chỉ đăng rải rác trên các tạp chí của Hội Thánh Tin Lành mà thôi.
Nhưng thơ của cụ rất có hồn, mang nhiều ý nghĩa thâm trầm. Khi còn ở trong chốn lao tù, cụ có đặt
lời cho mấy bài nhạc và sau này được chọn đưa vào Thánh Ca (Thánh ca số 68, 69, 329, 352). Trước
đây nhà sách Ánh Sáng của Hội Thánh Tin Lành Tuy Hòa (tỉnh Phú Yên) có cho ra mắt Tuyển tập
thơ của Cụ, tựa đề là "Lửa Sống". Ngoài ra cụ còn soạn tập "Phúc Âm Diễn Ca".
Với chỉ vài trang giấy không thể nào kể hết được mọi gian khó mà cụ cố Mục sư Phan Đình Liệu
đã trải qua trong suốt 59 năm hầu việc Chúa. Chắc chắn mọi công khó của Cụ trong Chúa chẳng phải
là vô ích. Qua cuộc đời cụ, rất nhiều người đã được cứu khỏi án phạt đời đời trong địa ngục, được
bước sang nước sáng láng, nhận được phước hạnh đời đời trong Đấng Christ. Chắc chắn mão triều
thiên vinh hiển của Chúa đã để dành sẵn cho cụ trong ngày Cứu Chúa Giê-xu yêu dấu của chúng ta
trở lại xét thưởng mọi con cái Ngài.
Cụ Mục sư Phan Đình Liệu đã xong sự chạy và vinh quy Thiên Quốc cuối năm 1979, tại Đà Lạt,
thọ 91 tuổi.
Sưu tầm và tổng hợp: Chấp sự Nguyễn Thiên Ý
HTTL Đà Lạt, tháng 03 năm 2011.
142
VÀI HÌNH ẢNH VỀ CỤ MỤC SƯ PHAN ĐÌNH LIỆU
Từ trái sang phải: Hàng trước: MS Trần Xuân Phan, Giáo sĩ E.F. Irwin, MS Hoàng Trọng Thừa, Giáo sĩ D.I. Jeffrey, MS Lê Văn
Long. Hàng giữa: ?, MS Nguyễn Đinh, MS Nguyễn Hữu Khanh, ?, MS Nguyễn Hữu Thính. Hàng sau: MS Phan Đình Liệu, MS Nguyễn
Đằng, MS Phạm Thành,MS Dương Nhữ Tiếp, MS Nguyễn Châu Thông, MS Quách Phục Hòa, ?. Cháu bé ngồi dưới đất là George
Irwin, con trai của Giáo sĩ E.F. Irwin. (Hình chụp năm 1922). (Ảnh:photos.vnbible.com)
143
Hội Đồng đầu tiên tại Tourane (Đà Nẵng) vào tháng 3 năm 1924, có 65 đại biểu. Cụ Mục sư Phan Đình Liệu là
người có đánh dấu * (Ảnh: photos.vnbible.com)
Hội đồng Thường niên lần thứ 3, từ ngày 21-28 tháng 2 năm 1926 tại Tourane (Đà Nẵng). Cụ
Mục sư Phan Đình Liệu, người có đánh dấu * (Ảnh:photos.vnbible.com)
Các diễn giả và đại biểu tham dự Hội đồng tại Tourane (Tháng 3 năm 1927). Cụ Mục sư Phan
Đình Liệu, người có đánh dấu * (Ảnh:photos.vnbible.com)
144
Ông Bà Mục sư Phan Đình Liệu tại nhà riêng, Đà-lạt tháng 2, 1961
Từ trái sang phải: Hàng trước: ?, ?,MS Phan Đình Liệu, ông Nguyễn Hữu Thành, Tom Stebbins,
bà Nguyễn Hữu Thành.Hàng sau: ?,?, Irving Stebbins, Mary Stebbins (1940).
(Ảnh: photos.vnbible.com)
145
Hội Đồng 9-3-1927
Tài liệu tham khảo
- Lê Văn Thái. Bốn mươi sáu năm trong chức vụ. Hồi ký.
- Phạm Xuân Tín. Đời Tận Tụy
- Irving R. Stebbins & Thomas H. Stebbins. 41 năm hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành VN
- Lửa Sống – Phòng Sách Ánh Sáng Tuy Hòa (Phú Yên) xuất bản.
- Hình ảnh: Nguyễn Thiên Ý sưu tầm.
146
Mục sư Bùi Tấn Lộc
(1915-1991)
Đức Chúa Trời kêu gọi mỗi tôi tớ của Ngài một cách khác nhau. Tuy nhiên, điều giống nhau là mỗi
người đều nghe tiếng gọi và đáp ứng tiếng gọi đó bằng cách dâng cuộc đời mình để phục vụ Ngài.
Mục sư Bùi Tấn-Lộc đã nghe theo tiếng gọi của Chúa và ông đã sẵn sàng bước ra đi để phục vụ Ngài
cách hết lòng cho đến hơi thở cuối cùng. Mục sư đã hoàn thành công tác Chúa giao với lòng trung
thành, và giờ đây Mục sư đã nghỉ ngơi để chờ ngày bước vào hưởng sản nghiệp đời đời nơi thiên
quốc.
1. THUỞ THIẾU THỜI
Mục sư Bùi Tấn-Lộc sinh ngày 02/02/1915 tại làng Cảnh Vân, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Đây cũng là quê-hương của vị anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ. Ông được sinh ra và lớn
lên trong một gia đình Nho giáo.Thân sinh của ông là cụ Bùi Xuân Huy, một Đông Y nổi tiếng trong
vùng.
Ông bà thân sinh của ông đã tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu trở thành con cái yêu dấu của Ngài
vào năm 1926. Đây là một trong những gia đình tiếp nhận Chúa sớm nhất ở tỉnh Bình Định và là
một trong những người đầu tiên xây dựng Hội Thánh Tin Lành ở thành phố Qui Nhơn. Mục sư Bùi
Tấn Lộc là con thứ tám trong gia đình có 13 người con. Ông cũng có người anh ruột thứ sáu là Bùi
Xuân Thọ trước hầu việc Chúa ở miền Bắc và ở Phan Rí, Tháp Chàm.
Thuở thiếu thời, Mục sư Bùi Tấn Lộc là một học sinh ưu tú, vì vậy được gia đình gởi ra Huế để
theo học bậc trung học Pháp. Tại Huế, ông thường ở chung với các vị Mục sư, Truyền đạo. Những
năm học tại đây, Chúa đã thăm viếng đời sống ông. Năm 1936, trên đường ra Huế học năm cuối để
lấy bằng tốt nghiệp trung học, ông bị tai nạn gãy tay. Tưởng như đây là một hoạn nạn, nhưng ý
tưởng của Đức Chúa Trời luôn luôn cao hơn ý tưởng của con người. Việc bị gãy tay chính là một ơn
phước đã đưa ông vào một bước ngoặc mới trong cuộc đời, đó là ông đã quyết định dâng mình hầu
việc Chúa.
2. TRƯỞNG THÀNH VÀ SỰ DÂNG MÌNH
Năm 1937, thanh niên Bùi Tấn Lộc lập gia đình với cô Nguyễn Thị Thoại, con gái lớn của ông bà
Nguyễn Đình Sum, nhân viên trong Ban Trị sự Hội Thánh Tin Lành Qui Nhơn. Ông bà Sum cũng có
con trai hầu việc Chúa là Mục sư Nguyễn Thành Đông và một con rễ hầu việc Chúa là Mục Sư Nguyễn
Quang Thự. Vào mùa hè năm 1937, vợ chồng thanh niên Bùi Tấn Lộc đã dâng mình hầu việc
Chúa,bắt đầu vào trường Kinh Thánh Đà Nẵng để học Lời Chúa trong thời gian hai năm.
a. Những năm chức vụ tại Cao nguyên
Theo nguyện vọng được đi truyền giáo cho đồng bào thiểu số, thầy cô Truyền đạo Bùi Tấn Lộc
được bổ nhiệm đi hầu việc Chúa tập sự tại Ban Mê Thuột cho người Ra-đê
Thầy Bùi Tấn Lộc là giáo sĩ thứ nhì của dân tộc Ra-đê. Tại Ban Mê Thuột, thầy cô đã chịu đựng
nhiều khó khăn gian khổ của những người đi vỡ đất mới trong miền rừng núi hoàn toàn xa lạ, thiếu
thốn thuốc mên, phương tiện, tiền bạc,thực phẩm. Đường đi chỉ là những con đường mòn ngoằn
nghèo đất đỏ. Rất ít đoạn đường có thể đi xê đạp, phần lớn là phải đi bộ, lội suối, nguy hiểm với thú
dữ, với nước độc. Nhưng cái trở ngại lớn nhất là việc học tiếng Ra-đê trong một nơi hoàn toàn xa
lạ. Dầu vậy, sau hai năm hầu việc Chúa ở đó, công việc Chúa phát triển, thầy cô đã xây dựng được
nơi thờ phượng Chúa và nhiều người Ra-đê tin nhận Ngài.
147
Trong thuở đầu gian nan, thầy cô đã mất người con gái đầu lòng mới được 18 tháng tuổi vì bị
bệnh mà không có đủ thuốc men chữa trị. Dù gặp sự mất mát và đau buồn lớn lao, thầy cô vẫn cứ
tiếp tục trung tín phục vụ Đức Chúa Trời. Những hạt giống mà thầy cô đã giêo trong nước mắt cứ
tiếp tục nảy mầm. Cảm tạ Đức Chúa Trời,đến ngày nay đã có hơn 70.000 người tin nhận Chúa. Quả
vậy, bàn chơn của kẻ rao truyền Tin Lành dù rướm máu nhưng tốt đẹp biết dường bao!
Mùa hè 1941 thêo chương trình học của trường Kinh Thánh, thầy cô trở về học khóa tốt nghiệp
1941-1942. Cùng khóa tốt nghiệp với thầy, có Mục sư Phó Hội trưởng Đoàn Văn Miêng ở miền Nam,
Mục sư Chủ nhiệm Nguyễn Xuân Vọng ở miền Trung và Mục sư Phó Hội trưởng Bùi Huỳnh Thử ở
miền Bắc.
Tốt nghiệp xong,thầy được bổ nhiệm chức vụ truyền giáo để hầu việc Chúa cho người Bru tại
Khe Sanh, tỉnh Quảng Trị. Đây cũng là vùng đầy sơn lam chướng khí. Công việc Chúa đang bắt đầu
phát triển thì đến mùa thu 1945. Quân đội Nhật đến chiếm đóng ngay tại cơ sở truyền giáo, kế tiếp
chiến tranh toàn quốc bùng nổ. Lúc bấy giờ thầy cô đã có hai con còn thơ dại. Hai vợ chồng phải tay
bồng tay bế chạy bộ từ Khe Sanh về Đồng Hà đoạn đường dài 52 cây số. Thầy cô trở về quê nhà
Bình Định ở xã Phước Quang, huyện Tuy Phước vừa làm thư ký hành chánh cho huyện Tuy Phước,
vừa làm thuốc Đông Y và làm ruộng để sống.
b. Sự thử thách và những năm chức vụ tại Quảng Nam
Mùa xuân 1950, thầy cô được địa hạt bổ nhiệm trở lại hầu việc Chúa ở Tiên Phước, tỉnh Quảng
Nam. Song đau đớn thay, trong lúc sắp xếp chuẩn bị lên đường nhận nhiêm sở mới, người vợ yêu
dấu đột nhiên lâm bệnh nặng ngày hôm trước, rồi qua đời ngay ngày hôm sau 19/5/1950. Cô về
nước Chúa để lại 3 con thơ: 1 trai, 2 gái. Địa hạt tạm hoãn lại việc bổ nhiệm nầy.
Sau đó thầy được gọi nhập ngũ. Trong quân đội, thầy làm thông dịch viên tiếng Ra-đê ở Tây
Nguyên. Cuối năm 1951, thầy được giải ngũ trở về tiếp tục sinh sống ở Bình Định. Đầu năm 1952,
địa hạt lại bổ nhiệm thầy ra hầu việc Chúa ở Trà My, tỉnh Quảng Nam thay cho Truyền đạo Nguyễn
Đích. Thầy gởi hai con gái còn nhỏ cho ông bà thân sinh, rồi dẫn đứa con trai lớn lên 9 tuổi đến ga
xe lửa Bình Định chờ đến tối lên xe gòng (một toa xe lửa do người đẩy từng chặng) đi suốt đêm vì
ban ngày sợ máy bay Pháp oanh tạc. Sáng hôm sau thầy đến Bồng Sơn, nghỉ lại cả ngày, đến tối lại
tiếp tục lên xe gòng ra Quảng Ngãi.
Đến Quảng Ngãi,thầy nghỉ lại tại tư thất ông bà Mục sư Ông Văn Trung đang quản nhiệm Hội
Thánh Quảng Ngãi. Ở đây, thầy coi ông bà Mục sư Trung như người anh cả. Cũng chính nơi đây, ông
bà Mục sư Trung thấy thầy một thân một mình với 3 con còn thơ dại lên đường trở lại nhận chức
vụ hầu việc Chúa ở miền rừng núi Trà My, chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn. Vì vậy, ông bà Mục
sư đã giới thiệu cô Bùi Thị Dư, một nữ tín hữu trong Hội Thánh, con gái lớn ông bà Bùi Chấn, chấp
sự của Hội thánh cho thầy.Ông bà Bùi Chấn có một con trai hầu việc Chúa, sau nầy là Mục sư Bùi
Khương. Đẹp ý Chúa đám hỏi được tổ chức đơn sơ.
Nhiều con cái Chúa trong Hội Thánh giúp tiền mua cho thầy một chiếc xê đạp như là một món
quà đám hỏi. Vài ngày sau với chiếc xê đạp quí giá nầy, thầy chở cậu con trai phía sau, hành lý phía
trước, tiếp tục lên đường ra Tam Kỳ.Khi đến chặng đường An Tân, trên quốc lộ số 1, thầy nghe tiếng
máy bay liền thắng gấp xe lại, đẩy cậu con trai xuống và hai cha con nằm rạp xuống sát lề đường.
Một loạt đạn cày dài trên đường lộ sát bên chiếc xê đạp. Cảm tạ Chúa, thầy và cậu con trai an toàn.
Thầy đến nghỉ đêm tại Hội Thánh Tiên Quả đang do Truyền đạo Tạ Kế quản nhiệm. Sáng hôm
sau,thầy tiếp tục lộ trình đến Tam Kỳ, ghé lại Hội Thánh tại đây do Mục sư Lê Châu quản nhiệm. Hai
148
ngày sau, cũng chiếc xê đạp nầy, thầy lên đường hướng về Trà My. Con đường dài 50 cây số, nhiều
đèo và dốc,hai bên rừng núi trùng trùng, điệp điệp. Khi đến Quế Phương, thầy nghỉ lại ở Hội Thánh
do Truyền đạo Dương Trọng Vinh quản nhiệm. Sáng hôm sau lại tiếp tục lên đường về Trà My.
Trong lúc vai vác xê đạp, tay dắt con lội qua sông Bàng Ân, nước chảy xiết, đá lại trơn, thầy trợt
té,nhưng chỉ ướt đồ đạc, thoát được nguy hiểm. Chiều hôm đó, hai cha con đến Trà My. Một số con
cái Chúa đã chờ sẵn vui mừng khôn xiết dâng lời cảm tạ ơn Chúa. Mọi người nghe thầy kể lại chặng
đường từ Quảng Ngãi ra Trà My Chúa đã chê chở và bảo vệ như thế nào, ai nấy vô cùng xúc động,
thấy được quyền năng và tình yêu tuyệt vời của Chúa đối với con dân của Ngài, Hội Thánh được
khích lệ và đức tin tăng lên.
Sau một thời gian ngắn ở Trà My cùng với Ban Trị sự Hội Thánh sắp xếp công việc Chúa,thầy
tranh thủ đi một vòng thăm con dân Chúa trong ba chi phái khác: chi phái Đồng Trầu trong rừng
sâu của dãy Trường Sơn cách Trà My khoảng 7 cây số do ông Hương Nuôi, tư hóa Hội Thánh làm
trưởng nhóm; chi phái Dương Yên do ông Chánh Bảy, thư ký Hội Thánh làm trưởng nhóm, chi phái
Mỹ Chánh do ông Sum, chấp sự Hội thánh làm trưởng nhóm. Xong một vòng thăm viếng, thầy gởi
con trai cho ông bà Hương Nuôi và các con cái Chúa ở đây, trở ngược về Quảng Ngãi làm lễ cưới
cùng cô Bùi Thị Dư.Sau đám cưới, vợ chồng mới quay trở lại Trà My bắt tay vào công việc mà Chúa
giao phó. Năm 1953, nhà thờ Trà My bị máy bay thả bom tiêu hủy hoàn toàn nhà thờ và tư thất,
hầm trú ẩn bị sập, thầy bị thương nặng ở đỉnh đầu và đứt gần hết một bên tai do mảnh bom. Lúc
bấy giờ, cô đang mang thai, hơi bom làm đôi mắt cô lờ mờ. Riêng hai cô con gái còn bé,Chúa đã gìn
giữ cách an toàn. Hay tin thầy bị thương nặng, các thanh niên trong Hội Thánh tức tốc đến băng bó
rồi để thầy nằm trên võng thay phiên nhau khiêng thầy chạy bộ suốt ngày đêm thêo tỉnh lộ xuống
Tam Kỳ.Rừng núi ngút ngàn. Cô chạy bộ thêo sau. Đến Cây Sanh mới có bệnh viện. Thầy vẫn còn
tỉnh táo và nói rằng: “Vết thương trên đầu vẫn không đau cho bằng dân điạ phương nói rằng: Chúa
Tin Lành bị trúng bom bể đầu chết rồi!” Cảm tạ ơn Chúa, sau thời-gian 50 ngày điều-trị bằng những
biện pháp vô cùng đơn sơ (sát trùng bằng nước râu bắp, muối,…), hai vết thương của thầy được
lành, sức khỏê được phục hồi trở lại trước sự ngạc nhiên của các y, bác sĩ và nhân viên ở đây.
Khi trở lại Trà My, dân địa phương truyền miệng với nhau “Chúa Tin Lành sống rồi!” Thầy đến
chi phái Dương Yên cách nhà thờ bị bom tàn phá khoảng 6 cây số về hướng xuống Tam Kỳ, cùng
các con dân Chúa xây cất lại nhà thờ và tư thất tốt đẹp để thờ phượng và học hỏi Lời Chúa. Một cơn
phục hưng xảy ra tại Hội Thánh ở đây, nhiều người tiếp nhận Chúa, đến nỗi cả vùng Dương Yên lúc
bấy giờ hầu như đều là tín hữu Tin Lành cả. Trong thời gian nầy, thầy còn thăm viếng và chăm sóc
các tín hữu ở hai chi phái Tiên Lãnh và Tiên Ngọc ở phía bắc Trà My.
c. Những năm truyền giáo tại Quảng Nam
Sau hiệp định Genève 1954, một Hội đồng đầu tiên được tổ chức tại Hội Thánh Đà Nẵng. Tại kỳ
hội đồng nầy, thầy được phong chức Mục sư cùng với Mục sư Nguyễn Xuân-Vọng, Mục sư Huỳnh
Tiên và Mục sư Hồ Xuân Phong.
Bốn năm hầu việc Chúa ở Trà My, một vùng rừng núi xa xăm, khổ cực giống như ở Ban Mê Thuột
và Khe Sanh. Tại Trà My, chức vụ của Mục sư Bùi Tấn Lộc đã đêm lại nhiều kết quả, dù trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt nhưng Đạo Chúa vẫn tiếp tục được rao giảng và phát triển mạnh mẽ.
Đầu năm 1956, vì nhu cầu công việc Chúa cho các sắc tộc ít người, ông được bổ nhiệm hầu việc
Chúa cho sắc tộc Giẻ trên dãy Trường Sơn, thuộc Hậu Đức, tỉnh Quảng Nam. Ông xây cất một cơ sở
tạm làm trung tâm truyền giáo ở tại Trà My, cách nhà thờ cũ bị bom tàn phá khoảng một cây số về
149