The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-12-02 19:47:11

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

Hai người thường xuyên đàm đạo, nên ông làm một hợp đồng ghi nhớ rằng: Chúng ta chỉ tìm
hiểu niềm tin của nhau qua các buổi trà đàm vui vẻ chớ không được đả phá. Vì ông ấy là tỉnh trưởng,
còn ông chỉ là người dân của ông ấy, nên ông rất dè chừng trong giao tiếp.Nhưng trong giao tiếp
ông ta không ngần ngại cho ông thấy nội tâm của một người đầy quyền lực của thế gian và một
người đầy quyền uy của một giáo phái. Nhiều lúc ông ấy quá bối rối khi hai quyền lực ấy loạn lên
cùng một lúc, đó chính là cơ hội ông được vinh dự tư vấn cho ông ấy bằng lời Thánh Kinh. Khi ông
ấy ngộ ra được thì ông ấy vui vẻ cảm ơn ông. Nhưng cũng có lúc bản chất Tỉnh trưởng lại nổi lên,
ông ấy dùng cân bàn, cân tạ đối cùng ông. Ông nhẹ nhàng thưa: “Trung tá, chúng ta đang xử sự cân
tiểu ly mà!” Ông ấy nhìn ông cười buồn. Ông và ông ấy có biết bao việc tương tự, không thể kể hết
tại đây.

Trong đời phục vụ Chúa của ông, ông được Chúa cho phép gặp những người đặc biệt như: vị
Linh mục M.L.N., ông Năm Lửa, và ông Tỉnh trưởng. Ông thấy họ có đồng chung một điểm là họ đầy
quyền lực nhưng tâm hồn thì trống rỗng, bất an. Ông bất lực không thể giúp họ hơn được nữa. Ông
chỉ biết cầu nguyện cho họ.

Một niên khóa hai năm ông không hề hoang phí ngày nào tại Hội Thánh Tây Ninh. Cảm ơn Chúa,
Ngài cho phép ông để lại Hội Thánh một vài việc nhỏ, nhưng đối với ông quả là to lớn,đáng khích lệ
cho chức vụ kế tiếp của ông.

Hội Thánh thứ mười bốn: Vũng Tàu

Ông rất thích Vũng tàu, thành phố biển của thập niên 60-70 hãy còn đơn sơ mộc mạc lắm, nhưng
trong mắt ông như vậy đã là đẹp rồi. Ông ao ước ngày nào đó trong chức vụ, ông được Chúa cho
phép đến Vũng Tàu.

Hôm nay, một ngày mùa Thu của tháng 8 mát mẻ, từ Tây Ninh một tỉnh núi, ông khởi hành lúc
5 g sáng xuôi một mạch thẳng đến tỉnh biển. Dù ông biết mình đến đây để phục vụ Chúa chớ không
phải đi nghỉ dưỡng, nhưng ông hết lòng cảm ơn Chúa vì Ngài ưu ái tặng ông một nhiệm sở có môi
trương thân thiện quá tốt lành này.

Ngày đầu tiên đến Hội Thánh, niềm vui lớn nhất là được gặp lại ông bà Mục sư Thái Văn Nghĩa,
Mục sư tiền nhiệm của Hội Thánh Long Xuyên, Hội Thánh quê hương của bà. Ông là rễ Mục sư đầu
tiên của Hội Thánh, cũng là người học trò trong đức tin của ông bà Mục sư Thái Văn Nghĩa.

Công việc Chúa tại Hội Thánh Vũng Tàu có phần khác hơn so với các Hội Thánh mà ông đã trải
qua, vì nơi đây xêm như “ngã tư quốc tế” vì có quân đội đồng minh đồn trú. Nói đúng hơn đây là
cảng biển, nên có rất nhiều căn cứ của quân đội đồng minh đóng tại đây. Nên ông đã thay đổi và tổ
chức giờ nhóm như sau: Ngày Chúa nhật chia sẻ cho họ giờ thờ phượng Chúa; từ 7g đến 10g là giờ
nhóm của Hội Thánh Vũng Tàu, 10g đến 11g là giờ nhóm của thanh niên, 11g đến 12g là giờ nhóm
của tuyên úy Hoa Kỳ, 2g đến 4g Hội Thánh Hàn Quốc, 4g đến 6g Hội Thánh Hoàng Gia Úc. Còn suốt
sáu ngày trong tuần, nhà thờ mở cửa để các con cái Chúa trong và ngoài nước đến sinh hoạt,cầu
nguyện. Tuy có các ông Lê Văn Tư, ông Phát, gia đình ông Ngọc Ânh, gia đình ông Kim Quang cùng
hợp tác với ông lo việc Hội Thánh, nhưng ông cũng rất bận rộn.Ngoài Hội Thánh Vũng Tàu, ông còn
phải mở mang thêm Bến Đình, Bến Đà… Việc thăm viếng, chăm sóc thì có các bà chấp sự trong Hội
Thánh đảm trách, việc chứng đạo ông rất quan tâm.

Hội Thánh Vũng Tàu luôn có du khách đến thăm, nên ông trùng tu lại nhà thờ, sửa sang lại tư
thất.Ông và Hội Thánh cùng với quân đội Hoàng Gia Úc xây dựng một dãy nhà hai tầng,một phần

50


để dạy văn hóa, một phần dùng để làm nhà nghỉ cho các con cái và đầy tớ Chúa ở các nơi đến nghỉ
dưỡng. Việc xây cất đã hoàn tất, công việc Chúa mỗi ngày một phát triển, tạ ơn Chúa.

Hội Thánh thứ mười lăm: Gò Công (1970-1972)

Gò công là quê hương của Hoàng hậu Nam Phương. Ông nghê nhiều truyền thuyết khá thú vị về
tỉnh Gò Công nầy, nay ông được đến nơi đây để làm người dân tỉnh Gò Công với chức vụ người
giảng Tin lành cho Chúa Giê-xu.

Nhà thờ ở nội thành,nhưng nằm trên con đường khá yên tĩnh, nên chẳng khác gì ở ngoại ô.
Chung quanh có các biệt thự của các cựu công sứ thời Pháp, các cựu công chức cao cấp của thời nhà
Ngô. Một không khí thật yên bình mà đến giờ ông mới được hưởng. Phải nói câu nầy về Hội Thánh
Gò Công thời ông đương nhiệm: “Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa”. Ông tự nghĩ đây là nơi ông sẽ
phục sự cho đến ngày hưu trí vì ông cũng trên 60 tuổi rồi. Cảm ơn Chúa, công việc nơi đây khá nhẹ
nhàng cho ông. Các con cái Chúa đa số ở gần nhà thờ, một số ít ở ngoại thành và cũng có vài gia đình
ở tận biển, cách Hội Thánh khoảng 15 km.

Ông đi thăm viếng,chăm sóc con cái Chúa, gần xa gì cũng vậy, vì đó là phần việc của ông. Mỗi lần
ông đi thăm tín hữu ở tận biển xa, thì ông lại được đổi gió biển, được nghỉ ngơi cùng các gia đình
các con cái Chúa, cùng hít thở không khí dễ chịu nầy. Thật đây là “mối lợi lớn” mà Chúa dành cho
ông. Ông mong cuộc sống du mục của ông tạm dừng tại đây. Ông đến thưa chuyện với Chúa: “Ôi lạy
Chúa, sau 40 năm con dong ruổi trên đường phục sự Ngài với 15 ngôi đền thờ, nay Chúa định vị
cho con tại đây phải không? Con sẽ rất vui nếu Ngài nhậm lời cầu nguyện của con…” Ông cầu nguyện
như vậy mà ông chẳng nghe Chúa nói gì cả. Mỗi ngày ông đều lắng nghê nhưng Ngài vẫn im lặng và
ông không dám xin nữa.

Mãi đến năm 1972 Chúa mới nói với ông về một nhiệm sở mới: “Hội Thánh Tin lành làng Phong
Bình Minh”.

Hội Thánh thứ mười sáu, mười bảy: Bình Minh (Làng Phong) và Tân Hiệp

Cuối năm 1972, ông còn ở Hội Thánh Gò Công. Ông nghĩ về Hội Thánh Bình Minh “Thê morning
villagê”.Ông cầu nguyện: “Ôi lạy Chúa, Ngài nói rõ lại với con đi, có quá nhiều chuyện lạ,chuyện
không tưởng đến với con rồi. Bây giờ con đến đó ư! Lạy Chúa, xưa kia Ngài ưu ái tiên tri Êlisê, Chúa
bảo ông Nahaman đến với ông ấy, còn bây giờ Chúa bảo con đến với các ông này sao? Thêm một
chuyện nữa xảy ra cho con, thưa Chúa. Lạy Chúa, con là ai, Ngài đã sanh con ra với bản chất tiếu,
nên vì đó mà Ngài đưa con đến đây với chuyện khó cười này để dung hòa bản tính cố hữu của con.
Chúa ơi, Ngài biết đó, với bản chất đặc biệt Ngài ban cho con từ ban đầu,con đã thành công cho Ngài
vài việc rồi, với chuyện này con đâu có chỗ để cười,liệu con có đủ bản lĩnh như tiên tri Êlisê ra lệnh
cho họ đi đến ao hồ sông suối nào đó để tắm bảy lần không? Lạy Chúa con không làm được đâu,
Chúa sai ai thì sai, con sợ lắm”.

Khi cầu nguyện xong mở mắt ra, ông thấy các câu chuyện về người phung được ghi trong Kinh
Thánh xuất hiện trong đầu ông. Ông hoảng hốt. Lúc này trong đầu ông, dòng liên tưởng cuồn cuộn,
lăn tròn như quả bóng và ông không thể nào đá nó ra khỏi ông được. Ông chạy ra khỏi phòng, đi
chung quanh nhà lẩm bẩm với Chúa: “Xin ổn định! xin ổn định!Chúa ơi.”

Có cảm giác như ai đó đang nhìn, ông nhìn lên, ngó sang bên kia đường thấy ông luật sư hưu trí
của thời Pháp đứng trong sân nhà ông ấy, nhìn ông cười và mời ông sang chơi. Ông ấy kể rất nhiều
chuyện, mà những chuyện đó ông đã nghê ông ấy kể quá nhiều lần. Bỗng ông ấy nhìn ông cười thật

51


vui báo tin: Ông ấy vừa lãnh tiền xong, một số tiền quá lớn, một số tiền không ngờ, không tưởng,
lại không tưởng ư! Ông lắng nghê vì ông đang có chuyện không tưởng đây. Đại khái: Ông Mục sư
biết không, hồi tôi còn học ở Pháp, cha tôi gởi tiền qua cho tôi nhiều lắm, nên tôi có gởi cho ngân
hàng ở Pháp 20 đồng bạc Đông Dương. Bẵng đi một thời gian tôi quên mất, sau khi đậu luật xong,
tôi về nước và làm việc tại tòa án Sài Gòn. Tôi hưu trí nay đã lâu rồi, tháng vừa qua bên Pháp thông
báo về Việt Nam để xin tìm người gởi 20 đồng bạc Đông Dương và ngày đến mà nhận tiền lời, vì đã
quá lâu tiền lời nhiều lắm…

Chuyện không tưởng của ông ấy có giống ông đâu. Chuyện của ông ấy là cười, còn chuyện của
ông là khóc.Thế là ông ra về vì ông quá nhức đầu. Ông lại hỏi Chúa: “Con mới từ chối có một lần mà
Chúa cho con nhức đầu thế này sao? Ông Môi-se từ chối nhiều lần, mà Kinh Thánh có ghi là Chúa
cho ông ấy nhức đầu đâu”.

Ông về và ngủ thiếp đi. Khi ông thức dậy chỉ nhớ mỗi một chuyện gởi 20 đồng bạc rồi quên đi
hơn nửa thế kỷ sau được sinh lời quá lớn, đúng là chuyện không tưởng mà… Ông đã ngộ ra,tạ ơn
Chúa thì đúng lúc ấy ông bưu tá đến trao cho ông bức thư của Mục sư Hội Trưởng Đoàn Văn Miêng,
thơ rất dài vì câu chuyện dài mà…

Lời thư kết thức như thế này: “Tôi nghĩ Mục sư nên đến làng Bình Minh, làng chưa có tên trên
sổ bộ,làng của Chúa Giê-xu sắp dựng lên. Đây là ngôi làng đặc biệt của giáo hội Tin lành Miền nam
của chúng ta. Tôi chắc chắn rằng đây là một công việc vô giá mà Chúa chỉ dành riêng cho ông. Phần
thưởng trên nước thiên đàng sẽ lớn lắm mà Chúa Giê-xu của chúng ta để dành sẵn cho ông.”

Đúng rồi, ông reo lên, 20 đồng bạc để vào ngân hàng Bình Minh của ta sẽ sinh ra khối tiền lời.Ông
bằng lòng. Ông thông báo với Hội Trưởng như vậy.

Đầu năm 1973, Hội Norwegian Missionary Alliance, gọi tắt là hội Norma có chương trình truyền
giảng Phúc âm cho riêng người bệnh phong tại Việt Nam qua công tác xã hội nhân đạo. Dự án này
được hai chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và chính phủ Nauy ký kết trực thuộc ngành y tế.

Ngày 13 tháng 2 năm 1972 ông Bác sĩ Olav Bjofgass, nhận lời giúp chương trình bài trừ bệnh
Hansen (BTBH) tại Việt Nam, sự nhận lời này mở đầu cho cuộc viện trợ của hội Norma cho làng
Bình Minh về sau (Trích: “Làng phục hồi bệnh nhân Hansên”, trang 1).

Đại diện của hội Norma là Mục sư Giáo sĩ Trygvê Bjorkas Fiêld đến Tổng Liên Hội HTTL xin với
tổng hội cử một Mục sư Việt Nam đến hợp tác với hội Norma với chức danh là Mục sư Tin lành
giảng Phúc âm cho người bệnh phong.

Cơ sở này nằm trên đường Sài Gòn - Vũng Tàu ở cây số 71 có địa danh là Quán Chim. Từ một
khu rừng hoang gần 100 mẫu, việc cày xới, vỡ đất rất vất vả, bộn bề, có thể nói giống như “vỡ đất
mới cho cuộc khai hoang lập ấp”, để lập nên một xã hội thu nhỏ gồm:nhà thờ, bệnh xá, trường học,
nhà máy đèn, nhà máy nước, nhà cửa thôn xóm, đường xá thẳng tắp… Công trình rất vĩ đại, kéo dài
hơn một năm. Một trở ngại đáng nói ở đây là an ninh không tốt tý nào.

Vì tính chất cấp bách của công trình, nên Mục sư Giáo sĩ Bjorkas khi nghê Mục sư Hội trưởng
báo tin ông nhận lời, đã đến tận Hội Thánh Gò Công rước ông đến làng Bình Minh ngay, dù rằng
nhiệm kỳ của ông ở Hội Thánh Gò Công chưa mãn, ông chưa có lệnh chính thức từ Tổng Liên Hội
bổ nhiệm, và ông cũng chưa ký hợp đồng với Hội Norma. Nhưng vì sự sốt sắng của Hội mà ông phải
lên đường cùng ông ấy. Kế thất của ông phải tạm ở lại Gò Công cho đến hết nhiệm kỳ.

52


Những ngày đầu thật là vất vả đối với một cụ già 63 tuổi. Vì chưa có chỗ nên ông phải ở trong
kho vật liệu, chung quanh là xi măng, gạch, đá, cát, cuốc, xẻng, bay, hồ,… ngủ trên giường bố nhà
binh, bên cạnh có cái bàn nhỏ để Kinh Thánh và vật dụng ăn uống. Ban ngày ông giám sát công trình
với Giáo sĩ, chiều Giáo sĩ về lại Sài Gòn, còn ông ở lại với khoảng đất trống mênh mông như sa mạc.
Giờ đây ông mới hơi biết nghĩa của chữ “sa mạc” hay “đồng vắng” mà Kinh Thánh từng nói đến. Ban
ngày rầm rộ bao nhiêu thì tối đến vắng vẻ bấy nhiêu. Thỉnh thoảng có các ông áo đên đến để làm
phận sự của họ. Ông không sợ lắm vì thứ nhất ông có Chúa, Ngài đã sai ông đến đây; thứ hai ông đã
từng tiếp xúc với những người áo đên lúc ở Hội Thánh Ba Càng, những người đó là bà con với nhau
nên chắc cũng giống nhau thôi. Nhưng mấy ông thời 1945 có tầm vông vạt nhọn, còn mấy ông này
có vũ khí tối tân hơn, khác nhau là ở chỗ đó. Có lần họ bảo ông: “Ông làm công tác tâm linh, nên
đừng đụng đến công tác của chúng tôi, hãy cứ ngủ yên đi, để chúng tôi làm việc…” Sáng ra,ông dậy
sớm lo dọn dẹp những thứ mà các ông ấy để lại. Cứ thế cho đến ngày hoàn tất công trình. Dầu vậy
cũng có vài lần tháp nước bị sập, nhà đèn bị hư, vài căn nhà bị đổ, phải làm lại mấy lần. Rồi Chúa
cho cũng xong. Từ đây ông chính thức là Mục sư của người bệnh phong.

Một ngôi đền thờ xinh đẹp, có kiểu dáng như nhà thờ ở một vùng quê Châu Âu, cứ mỗi sáng
sớm,sương chưa tan, ông đứng trước ngôi thánh đường nầy nhìn say mê. Làn sương bao quanh
ngôi đền khiến ông nghĩ sự vinh quanh chói sáng của Đức Chúa Trời bao phủ đền tạm của thời Môi-
se, sự thiêng liêng thánh khiết tràn ngập trong hồn ông.Ông không ngớt tôn vinh danh Ngài. Rồi
chiều đến cũng vậy. Ông yêu ngôi đền thờ này biết bao. Ông đã trải qua 15 ngôi đền thờ rồi, mà
chưa có ngôi đền thờ nào làm cho tâm ông rung động như thế. Ông vô cùng cảm ơn Chúa.

Nhớ lại hơn một năm qua với biết bao công sức đã đổ ra, nào làm công nhân khuân dọn, xây
tường, người bảo vệ, đôi lúc kiêm luôn thông dịch viên bất đắc dĩ, cả đến việc nguy hiểm đến tánh
mạng để ngày nay ông được ở trong ngôi thánh đường này thì quả là việc rất nhỏ, chẳng đáng chi
để kể.

Ngày đầu tiên mở cổng trại để đón bệnh nhân từ bệnh viện Chợ Quán đến, ông nhìn: Sáu chiếc
xe GMC chở 80 gia đình với khoảng 250 người. Ông và Mục sư Giám đốc Trygvê Bjorkas Fiêld đứng
trên thềm tam cấp trước nhà thờ nhìn xuống các cư dân xô đẩy, chen lấn nhau để xuống xe, lòng
ông dấy lên biết bao cảm xúc, ngạc nhiên, giật mình, buồn bã, thất vọng… Ông ngạc nhiên vì chưa
từng thấy một đoàn dân đông đảo và biến dạng như thế. Ông có thấy một vài người bệnh nầy trên
đường phố, ngõ hẹp hoặc xóm chợ nhưng như thế này thì chưa. Ông giật mình, tim đập mạnh không
thở nổi. Ông nghĩ rồi đây ông sẽ sống với họ ư! Bao lâu? Suốt đời của ông sao? Ông buồn bã nghĩ,
khi tiếp xúc với họ, ông phải có thái độ thế nào? Rồi con cái của ông nó sẽ dám nói với người khác
rằng: Cha tôi đang phục sự Chúa với người phong, và đang ở trong trại với người phong không?

Ông đã chuẩn bị tâm lý rất lâu với Chúa về công việc này, nhưng sao lần đầu tiên gặp họ, ông lại
thế này. Thất vọng quá! Ông quay lại hỏi Chúa: “ Ôi lạy Chúa, Ngài có lầm không vậy?Nếu không sao
Ngài mang con đến đây với tâm trạng này”.

Ông bắt đầu cầu nguyện lại với Chúa Thánh Linh, xin Ngài giúp ông có thái độ đúng mức như
Chúa muốn, để ông hoàn thành công tác này một cách xuất sắc, vinh hiển danh Chúa. Rồi Chúa nói
với ông rất rõ ràng: “Ta yêu người phung, ngươi cũng hãy yêu họ như Ta, và Ta đã chọn ngươi sống
suốt đời với họ…” Ông bèn Âmên! Từ đây, mỗi ngày ông vào trường thần đạo của Chúa Thánh Linh
học tập với Ngài và ngày nay ông đã tốt nghiệp.

Bây giờ, ông nhớ lại “câu chuyện ngân hàng với 20 đồng tiền gởi” của ông tại Bình Minh. Ông
thấy mình có lỗi, ông sẽ thuyết phục các con ông và một vài đứa cũng chịu mở tài khoản ở ngân

53


hàng này. Ông nói với chúng rằng: Ngày sau thế nào cha chưa rõ lắm,nhưng giờ đây, lòng cha tràn
ngập sự vui vẻ, bình an, cha rất vui với chức vụ chăn bầy tại đây. Đó là món lợi lớn còn gì. Nầy các
con: Noel (Truyền đạo Lâm Hòa Thanh con trai thứ sáu của ông), Nghĩa Hiệp (con trai cả), Hồng
Yến (con thứ ba) phải cùng cha phục sự Chúa tại đây với công tác này. Các con hứa đi, các con của
ông đều hứa.

Bài giảng đầu tiên với số tín hữu “đẹp lạ kỳ” và đông đảo này chật cả nhà thờ, dài ra đến cửa.
Chung quanh các cửa sổ đều có những cái đầu chui vô để nghe, ông cảm nhận rõ ràng,Chúa Thánh
Linh rót tình yêu của Ngài thánh thót vào tâm ông và ông phun trào ra cho hội chúng. Đây là bài
giảng thành công nhất trong cuộc đời phục vụ Chúa của ông. Ông vui mừng tràn ngập. Sau buổi lễ
thờ phượng, ông bà Giáo sĩ Trygvê Bjorkas cùng các vị khách của Hội Norma đến bắt tay ông, họ
nói với ông: “Đức Chúa Trời đã dành cho riêng ông công việc này và Hội Norma rất vui lòng vì có
ông, một Mục sư Việt Nam như thể thay mặt Hội phục sự Chúa tại đây, ngôi làng mà Chúa Giê-xu ra
lệnh cho người Nauy nói chung và Hội Norma nói riêng phải phục sự công tác này”.

Hằng ngày ông trình lên Ba Ngôi Đức Chúa Trời Hội Thánh Tin lành chi hội Bình Minh với hơn
250 con người bệnh, xin Chúa chữa lành thân thể và bảo vệ tinh thần của họ. Bây giờ,ông thấy được
điều kỳ diệu này đó là ông được sinh ra thật là người xứng đáng.Ông từng giảng bố đạo với Mục sư
Giáo sĩ Taylor, với Mục sư Hứa Hớn Long, với xê lưu hành của Mục sư Phạm Văn Thâu, kể cả tàu
Tin Lành của Mục sư Huỳnh Văn Ngà, mà ông chưa được nhiều con chiên như vậy. Nay ông được
một đàn chiên hơn 250 chiên. Ông quý mến họ biết bao. Ông chăm sóc họ bằng cả sức lực mình.
Đặc biệt ông thấy họ đẹp, vẻ đẹp đó đã ràng buộc ông với họ. Ông nói đẹp này với con người thì
chắc là chỉ có Picasso hiểu được thôi! Nhưng những ngày phước hạnh này không được bao lâu thì
đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, tình hình các Hội Thánh Tin lành Việt Nam đều có một mẫu chung.
Công việc Chúa bị gián đoạn. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 làng Bình Minh bị chính quyền cách
mạng tiếp quản tất cả các cơ sở: Văn phòng, bệnh xá, trường học, nhà máy đèn, nhà máy nước.
Khoảng năm ngày sau, một nhóm người của cách mạng, có nhóm trưởng là cán bộ miền Bắc dẫn
đầu, trang bị vũ khí đạn dược đầy đủ đến gặp ông tại nhà ra lệnh:

- Phải ra ngay,không được mang theo thứ gì cả, giao nhà cho cách mạng. Phải hiến nhà thờ, giao
chìa khoá nhà thờ để cách mạng sử dụng.

Ông trả lời:

- Các ông đã tiếp quản tất cả các cơ sở kia, là những nơi các ông biết sử dụng, riêng nhà thờ là
nơi rao truyền Phúc âm và để các tín hữu đến thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời, các ông tiếp quản
nhà thờ để làm gì? Các ông có biết giảng Phúc âm không? Có biết cầu nguyện không? Biết dạy người
kính sợ và thờ phượng Đức Chúa Trời không?

Họ đồng trả lời:

- Cách mạng không cần nhà thờ, không làm công tác tôn giáo. Cách mạng lấy nhà thờ làm việc
khác. Cách mạng bẻ thánh giá nhà thờ để làm nhà bảo sanh. Cách mạng dùng nhà thờ làm hội
trường.

Ông cương quyết:

- Đức Chúa Trời sai tôi đến đây để rao truyền Phúc âm, để săn sóc con chiên của Chúa. Tôi còn
sống là nhà thờ này còn của Chúa và của tôi quản lý, nếu muốn lấy nhà thờ thì phải giết tôi trước.
Nhưng hãy nhớ điều này: Tôi không làm gì có tội với cách mạng,với tổ quốc Việt Nam của tôi. Nếu

54


ai đụng đến tôi là đụng đến con ngươi của Đức Chúa Trời, là đá vào gươm nhọn đó. Dầu đụng đến
viên gạch của nhà thờ cũng là phá huỷ đền thờ của Đức Chúa Trời, thì sẽ bị Đức Chúa Trời phá huỷ
lại người ấy.

Sau khi ông nói như thế thì có bốn người du kích đi trong nhóm liền chĩa sung vào đầu ông, hai
bên màng tang hai cây. Các tên đó chờ lệnh của nhóm trưởng là bắn, nhưng nhóm trưởng bảo:

- Cách mạng đến đây,vào Nam là giải phóng Miền Nam. Cách mạng không cướp của giết người,
nếu các đồng chí bắn giết bừa bãi, thì cách mạng mang tiếng cướp giựt, chém giết. Thôi, tôi thấy hai
người này cũng già, hãy để họ tự hiến. Các đồng chí vào nhà lấy tất cả thức ăn, tiền bạc, của cải đáng
giá ra đêm về tập thể, rồi khoá của nhốt họ lại.Trong vòng 10 ngày không cho ăn uống thì họ sẽ
chết, mà ta không mang tiếng là giết người cướp của. Khi đó, chúng ta sẽ tiếp quản nhà này, nhà
thờ.

Họ làm việc rất tích cực, chỉ một loáng là nhà ông trở thành vô sản, một hột muối cũng không
chừa.Nhưng có một việc lạ, một sự giải cứu của Cha thiên thượng trước mắt mà họ không thấy, đó
là họ quên khuân chum nước ra ngoài, chum nước bằng sành dung tích 10 lít. Sau khi họ khoá cửa
giam ông bà trong nhà, ông liền quỳ gối tạ ơn Chúa: “Ôi lạy Chúa, chúng con cảm ơn Ngài về hủ
nước này, 10 lít nước này là sinh khí và hơi sống Ngài ban cho chúng con, xin cho chúng con còn
được sống, để nhà thờ của Chúa không bị mất. Chúng con không xin Chúa cho chúng con sống vì sợ
chết, nhưng con xin Chúa cho sống để nhà thờ còn lại, để danh Chúa còn lại trên đất Bình Minh này,
để danh Chúa được tôn cao giữa những người vô tín này. Nhất định con phải sống Chúa ơi!!!”

Với 10 lít nước này nhín nhất là sử dụng được 8 ngày, đến ngày thứ 9 ông kiệt sức. Trong những
ngày này ông đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, suy gẫm về những sự lạ lùng mà Đức Chúa Trời làm ra
trên thế giới này từ thời sáng thế cho đến thời Chúa Giê-xu rồi đến thời của ông. Ông đọc suốt Kinh
Thánh và gom lại một câu “vì chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa
Trời, tức là cho kẻ theo ý muốn Ngài đã định” (Ro 8:28). Rồi Chúa Thánh Linh dạy ông: Việc xảy ra
hôm nay tại đây, sẽ là việc phải được làm cho ngày sau tại chỗ khác.

Tội nghiệp kế thất ông, bà ấy nhường cho ông nhiều lắm, để cho ông được sống, để giữ tài sản
của thiên đàng trên đất Bình Minh, dù vậy 10 lít nước ấy chỉ đủ cho hai người đến ngày thứ 8. Bấy
giờ ông không thể điều khiển được thân thể nữa, mắt mờ, miệng môi khô cứng, đến sáng ngày thứ
9 ông không còn biết gì nữa, ông thấy một màn đên bao trùm trước mặt, nghê như có tiếng giông
gió thổi bên tai, ông nghĩ trời sắp mưa và ông không còn biết gì nữa cho đến bao lâu ông không
nhớ. Ông cảm thấy nước mưa rớt vào mặt ông, chảy vào miệng ông, ông uống và cứ uống. Cho đến
khi mở mắt ra thì thấy kế thất ông đang ngồi bên cạnh, trên tay cầm ly nước, đổ vào miệng ông từng
muỗng, một tay cầm chiếc khăn lau mặt ông. Bà ấy kể chuyện cho ông nghe:

- Ông nhớ không, mỗi ngày họ đi vòng quanh nhà ta ba lần dọng súng, lên cò ba lần để thị oai
chúng ta, và mỗi đêm thay phiên gác là họ la hét lên để doạ nạt chúng ta. Nhưng đến đêm thứ 8
chúng ta không nghe gì nữa, đến sáng ngày thứ 9 thì tôi thấy ông sắp chết, tôi cầu nguyện xin Chúa
cứu ông và cứu lấy nhà thờ, xong tôi hé mở cửa sổ nhìn ra thật là im lặng, tôi cố gắng leo cửa sổ ra
ngoài không thấy ai nên tôi chạy ra lu múc nước uống, rồi bứt đọt nhãn lồng ăn đỡ và đêm nước
vào cho ông uống đây. Bây giờ ông cứ nằm đây uống từ từ, đừng uống nhiều, tôi cũng đang yếu
lắm,nhưng sẽ cố bò ra hàng rào, bẻ đọt nhãn lồng luột cho ông ăn, sẽ no lòng và rất nên thuốc”.

Bây giờ, ông là người vô sản hoàn toàn, những ngày vô sản này kéo dài một thời gian khá dài.
Món ăn chính mỗi ngày là rau, thỉnh thoảng có được trái cà nướng chấm muối ớt, một củ khoai,

55


nhưng thật ông thấy đó là món ngon nhất mà ông từng ăn. Thật ông rất cảm ơn Chúa vì Chúa nuôi
và thêm sức cho rất nhiều. Các bệnh nhân lần lượt rời Hội Thánh vì nhu cầu sống của họ. Bây giờ
nhà thờ vắng vẻ, làng phong Bình Minh đìu hiu còn lại một mình ông, một người chăn già đơn độc,
sống giữa làng phong trơ trọi cát trắng với rừng cây ngút ngàn bao bọc. Ông phải làm gì khi Chúa
bảo ông suốt đời phải mang “họ Phong”.

Giờ ông phải làm việc,gia đình ông ra sức cuốc xới vùng đất cát trắng phơi mình dưới ánh mặt
trời chói chang, không một tán cây che mát. Mùa nắng cha con ông cuốc, chờ đến mùa mưa giêo
trồng. Cấy lúa thì không được vì đất cát, nên chỉ trồng lang, trồng mì… Gia đình ông phải ra sức đào
giếng để có nước uống và cũng để tưới rau.Ngày thường thì ông làm người nông dân chân chính,
nhưng đến ngày Chúa nhật ông là vị khâm sai của Đức Chúa Trời, đặng giữ gìn tài sản của Chúa,
ngôi đền thờ xinh đẹp của Ngài.

Ông đã từng ra lệnh cho các kẻ xấu không được chiếm lấy nhà của Chúa. Ông đã nhiều lần vượt
qua các họng súng chỉa vào đầu. Ông bị giam cầm, đói khát, nhưng hằng tuần ông vẫn trung tín, mở
cửa đền thờ giảng cho hội chúng gồm: Gia đình ông bốn người và bốn bệnh nhân trung tín. Dẫu
rằng tín hữu có tám người kể cả ông, nhưng ông vẫn kêu gọi họ 5 giờ sáng đến đền thờ cầu nguyện
xin Chúa đừng bỏ ngôi đền thờ này, nơi đây danh Ngài phải được an vị đời đời. Ông cầu xin Chúa
giữ lòng ông son sắt với Ngài, vì luôn có khách đến thăm ông, vài ngày rồi họ từ giã ông đến nơi ở
mới.Ông thường nói với Chúa là: “Con yêu Ngài và rất yêu tổ quốc của con”.

Trong lúc này bên Tân Hiệp cách Bình Minh khoảng 2 cây số, tín hữu di cư từ Trung vào nam
thêo chương trình di dân của bác sĩ Phan Quang Đán, đang gặp khó khăn vì cuộc sống chưa kịp ổn
định. Con cái Chúa chưa có người chăn, đa số rời “trại xanh” vì cuộc di dân chưa kịp ổn định, nên
mỗi gia đình được tạm phát một tấm bạt màu xanh.Còn lại số ít yêu mến Chúa, họ không ngại trại
phong Bình Minh, nên mỗi Chúa nhật họ sang thờ phường Chúa nhưng bị khó khăn không thể nhóm
được.

Ông phải đứng ra xin với chính quyền cách mạng dựng lên một nhà thờ bằng gỗ, lợp lá. Ông
phải kiêm quản nhiệm. Việc xin mở một nhà thờ Tin Lành vào thời ấy là một việc không tưởng
(cuộc đời ông luôn có việc không tưởng mà!). Ông hết cầu nguyện xin Chúa thương xót con dân
Ngài, những con chiên côi cút kia, cho họ có một ràn chiên êm ái.Ông luôn hát câu số một bài thánh
ca số 87. Ông cam đoan với Chúa Thánh Linh là sẽ làm tròn bổn phận người chăn cho hai bầy chiên
Bình Minh và Tân Hiệp. Thật Đức Chúa Trời không để cho kẻ nhờ cậy Ngài phải hổ thẹn. Sau biết
bao nhiêu lần làm thủ tục với không biết bao nhiêu là cam kết, cuối cùng ông cầm được tờ giấy phép
trong tay. Ông cùng các con cái Chúa hiệp nhau cầu nguyện tạ ơn Chúa, nước mắt vui mừng chảy
dài xuống má. Giấy phép có nhưng không có đủ tiền, ông đi vận động trong nhà ông, các con ông
hưởng ứng. Ông thật rất thỏa lòng (Hồng Yến 1.500;Hồng Hoa 1.000) cảm ơn Chúa.

Lúc này ông như con thoi: Bình Minh - Tân Hiệp, Tân Hiệp - Bình Minh. Mỗi sáng Chúa nhật ông
giảng ở Hội Thánh Bình Minh, trong khi đó Hồng Yến sang Tân Hiệp dạy trường Chúa nhật,xong
Hồng yến đạp xe quay về Bình Minh tiếp tục dạy trường Chúa nhật ở Hội Thánh Bình Minh. Ông lại
đạp xe qua Hội Thánh Tân Hiệp giảng tiếp. Sau một thời gian Hội Thánh Tân Hiệp tìm được một
thanh niên yêu Chúa. Ông được giới thiệu rằng cậu có học trường Kinh Thánh. Hội Thánh Tân Hiệp
đồng ý mời cậu này lo cho Hội Thánh. Nên ông cam kết với chính quyền đây là cháu ông Lâm Thắng,
xin để cho thầy trực tiếp chăm lo cho Hội Thánh Tân Hiệp. Nhưng ông vẫn còn có mặt để thực hiện
các giáo nghi cho Hội Thánh khi có cần. Nhưng không lâu sau đó, thầy Lâm Thắng để xảy ra vấn đề

56


lớn, liên quan đến Hội Thánh và rồi ông lại bước vào cuộn tơ rối không lối thoát. Qua biết bao rắc
rối khó khăn ông mới bắt đầu lại với Hội Thánh Tân Hiệp cho đến khi có quản nhiệm chính thức.

Trở lại câu chuyện của Hội Thánh Bình Minh, vì quá lao tâm lao lực, đến năm 1985 ông bị bệnh
nặng,Chúa chuẩn bị cho ông một Truyền đạo, một Truyền đạo thực sự có tốt nghiệp trường Kinh
Thánh là Lâm Hòa Thanh, con trai thứ sáu của ông, đến giúp ông về công tác linh vụ và cả về vật
chất để sống, hầu bớt đi việc cuốc rẫy làm nông. Nhưng không lâu sau đó, Chúa lại cất đi người
Truyền đạo trẻ này sau một cơn đột quỵ,chỉ trong tích tắc. Ông đưa tiễn con mà tâm ông dấy lên
biết bao câu hỏi như:“Tại sao? Tại sao vậy? Sao không phải là con, con đã già yếu và bệnh tật quá
rồi,Chúa ơi!”. Tâm trạng ông lúc đó chẳng khác gì tiên tri Ê-li nơi đồng vắng thưở nào trong IVua
19:4.

Ông giận dỗi, buồn phiền. Ông chống lại Chúa bằng cách không ăn. Ngài quăng ông trên giường
mệt mỏi.Sau bao nhiêu ngày Chúa chịu nói chuyện với ông:

“Khốn thay cho kẻ cãi lại Đấng tạo hóa mình…” (Es 45:9).

“Ai sẽ nói với Ngài rằng: Chúa làm chi vậy?” (Giop 9:12).

“Chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Da 4:35).

Ông xin lỗi Chúa về sự điên dại mình đã làm và bắt đầu làm việc trở lại. Cảm ơn Chúa biết bao,
Ngài mở mắt ông ra, cho thấy đã có sẵn hai người giúp việc trung thành theo ông từ buổi ban đầu:
người con cả và con thứ. Họ giúp ông mọi việc thuộc về Hội Thánh và cả việc cuốc cày nữa, ngoại
trừ giảng luận Kinh Thánh.

Ông quay sang con và khích lệ “Nghĩa Hiệp, Hồng Yến! sau khi cha về với Chúa, các con trung
tín ở lại đây phục sự Chúa và bảo vệ tài sản của Ngài. Con ơi, 20 đồng bạc mà… cha gởi ở ngân hàng
Bình Minh, Cha đã chuyển về ngân hàng thiên quốc rồi. Trong tài khoản đó có tên của hai con nữa.
Nhưng có một nghịch lý này, cha phải nói để con hiểu:“mười được một” các con ạ! Kinh Thánh Lu
17:11-18. Hai con đừng ngại, vì người cha phần xác này rõ biết rồi, nên cha đã chuẩn bị rất chu đáo.
Cha dâng cho Chúa phân nửa đất đai mà cha con ta đã canh tác cày xới trong 25 năm qua, phần còn
lại thuộc về các con. Cha đã từng thưa với Chúa về điều này và Ngài đã dạy cha trồng một cây me
để làm ranh chứng. Đồng thời, cha cũng có đến chính quyền xác nhận điều này rồi. Đây là phần
thưởng Chúa ban cho dòng dõi phục sự Ngài và đó cũng là chút cơ nghiệp mà cha để lại cho các con.
Cha đã thực hiện tốt hai điều răn của Chúa Giê-xu: “KÍNH CHÚÂ YÊU NGƯỜI”.

---o0o---

Bây giờ ngồi viết lại ccuộc đời hầu việc Chúa của người cha chúng tôi, tôi thấy rõ lời cha nói rất
đúng. Thời Chúa Giê-xu mười được một, còn thời của chúng tôi mười bằng không, một phép tính
đặc biệt, chỉ riêng ở Bình Minh mới có. Bài toán này phải nhờ nhà toán học Bảo Châu giải dùm thôi.

Cha tôi đã về nước Chúa ngày 28 tháng 8 năm 1998, hưởng thọ 88 tuổi. Người qua đời khi đang
còn ở trong chức vụ, tại nơi nhiệm sở mà người nhận lãnh từ nơi Chúa Giê-xu. Cha chúng tôi đã để
lại di huấn:

- Mình hầu việc Chúa thì đừng bao giờ tính công với con người.

- Tất cả các con, cháu,chắt phải chăm chỉ học Kinh Thánh, vâng lời thêo Kinh Thánh để biết làm
người.

57


Hầu hết các con,cháu, chắt đều vâng lời. Sau đó hai con của ông là ông Lâm Nghĩa Hiệp và Cô
Lâm Hồng Yến tiếp tục công việc của cha tại Hội Thánh Bình Minh, có sự cho phép của Tổng Liên
Hội, thông qua Ban Trị sự Địa hạt Đông Nam bộ cho đến năm 2004.

Sang năm 2005, vì nhu cầu của Hội Thánh Bình Minh nên Tổng liên hội tạm bổ Mục sư Nguyễn
Văn Huệ kiêm nhiệm.

Đến 29 tháng 1 năm 2008 Tổng Liên Hội bổ nhiệm Mục sư Nguyễn An Toàn quản nhiệm cho
đến năm 2010.Công việc phục sự Chúa 25 năm ấy của gia đình cố Mục sư Lâm Văn Chí đối với Hội
Thánh Bình Minh đến đây tạm ngưng.

Đã trải qua 68 năm phục sự Chúa (1930-1998) với 17 Hội Thánh. Mỗi Hội Thánh ông đến và đi
đều để lại những kỉ niệm khó quên. Qua 17 nơi, ông đều xây dựng, trùng tu, hoặc mua đất để nhà
thờ nới thêm rộng rãi hơn. Ông giải thích cho công việc của mình: “Đó là các con dấu của các địa
phương đóng lên sổ thông hành của nhà du lịch vòng quanh thế giới 80 ngày”. Thật hóm hỉnh! Triết
lý sống của ông: “Con người sinh ra từ bụi đất, vậy hãy để bụi đất ấy mọc lên một cái cây có quả
ngọt để lại đời sau ghi nhớ”, việc này không phải hư thêo luồng gió thổi đâu.

Gia đình ông có mười người: Ông, bà và 8 người con. Ông luôn nói: “Chúa Giê-xu sẽ ban thưởng
xứng đáng cho ai trung tín trong ngày tái lâm của Ngài. Còn cha là cha các con, cũng có một phần
thưởng trích ra từ phần thưởng Chúa thưởng cho cha. Cha sẽ ban nó cho đứa con nào xuất sắc trong
sự vâng lời cha mà phục sự Chúa như cha vậy”.

(Ảnh:Album gia đình)
Mục sư Lâm Văn Chí lúc 88 tuổi – năm 1998

Lâm Hồng Yến

58


Mục sư và bà PAUL CONTENTO

(1905 – 1997)
TẤM LÒNG VÌ THẾ HỆ TRẺ

(Ảnh do người viết cung cấp)
“Chúa dùng người của Ngài cách kỳ diệu cho Hội Thánh Chúa.” Đó là câu nói của một nhà lãnh
đạo Hội Thánh mà mỗi lần nghĩ đến, chúng tôi thầm tạ ơn Ba Ngôi Đức Chúa Trời về sự quan phòng
và dẫn dắt lạ lùng của Ngài, đặc biệt đối với Hội Thánh Việt Nam chúng ta.
Ký ức vẫn còn rất rõ trong tâm tư, tôi nhớ lần thăm viếng cụ Mục sư Đoàn Văn Miêng vào tháng
Mười năm 1978, khi cụ đang là Phó Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Cụ cho biết,cụ ước
ao được gặp lại Mục sư và bà Contênto. Nhưng thêo cụ, việc đó không thế nào xảy ra vì tuổi cụ cũng
đã cao, và ông bà Contênto tuổi chắc cao hơn cụ nhiều. Hơn nữa, hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ
chưa có bao nhiêu du khách, nên biết bao giờ ông bà Contento mới có cơ hội trở lại Việt Nam.
Cụ cho tôi biết, nếu được gặp ông bà Mục sư Contênto, trước hết, cụ sẽ thay cho Hội Thánh mà
dâng lên Chúa lòng biết ơn sâu xa vì đã đưa ông bà đến phục vụ Chúa tại Việt Nam. Đồng thời, cụ
cũng xin lỗi ông bà vì Hội Thánh Việt Nam đã hiểu lầm, đánh giá sai, nghi kỵ ông bà đến để lập một
hệ phái khác, nên đã không chân thành hợp tác như đáng phải có. Cụ Mục sư Phó Hội trưởng bằng
lời lẽ chân thành đã nói: “Nếu không có ông bà đến để chăm sóc, gây dựng công việc Chúa giữa vòng
sinh viên học sinh Tin Lành, thì chúng ta đâu có ngày nay!” Trước sự kinh ngạc của tôi, cụ ân cần
giải thích: “Trong hơn ba năm qua, khi nhiều đầy tớ Chúa ngại không dám giảng, chỉ đọc Kinh Thánh
và cầu nguyện trong các buổi thờ phượng và sinh hoạt của Hội Thánh địa phương; thì anh chị em
cựu sinh viên học sinh Tin Lành – là những người được học Kinh Thánh thêo phương pháp quy nạp
với ông bà Mục sư Contênto và Mục sư Lê Vĩnh Thạch – đã mạnh dạn hướng dẫn các giờ học Kinh
Thánh trong các chi hội, nhóm nhỏ, tổ học Kinh Thánh, cầu nguyện khu vực. Chính những giờ học

59


Kinh Thánh này đã giúp người tham dự hiểu rõ Kinh Thánh hơn, nắm vững chân lý của Chúa và Lời
Ngài. Họ đã trở về, trợ giúp cho thì giờ gia đình lễ bái (hiệp nguyện gia đình), cho các sinh hoạt học
Kinh Thánh khác của các chi hội, cho ca đoàn và đêm sinh khí trở lại với Hội Thánh. Sự đóng góp
của ông bà Contento còn rất nhiều, rất lớn trong đào tạo, huấn luyện lãnh đạo cho Hội Thánh Chúa
mà tôi chưa có thì giờ nói đến. Tuy nhiên, điểm son của chức vụ ông bà là giúp nhiều bạn trẻ học
Lời Chúa cách sống động, dễ dàng, thực tế, gần gũi và nào ngờ đã giúp cho Hội Thánh Chúa trong
giai đoạn đặc biệt vừa qua, và còn nhiều năm tháng nữa. Đó là lý do mà tôi muốn nói lên lòng biết
ơn cũng như xin lỗi đối với ông bà. Tôi chắc sẽ không gặp lại ông bà, nhưng anh êm có thể có cơ hội
đó. Làm ơn nói lại với ông bà những gì chúng tôi vừa căn dặn và tâm tình.”

I. Kinh nghiệm và tấm lòng

A. Kinh nghiệm phong phú

“Chúa chinh phục lòng người hoàn toàn do quyền năng Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, không thể
nào quên được rằng người được Chúa sử dụng có khải tượng, có ơn lãnh đạo, và gây ảnh hưởng
trên những người trẻ từ thế hệ này sang thế hệ khác, phải là những năm tháng của mồ hôi và nước
mắt.” Đó là nhận định của một nữ cựu sinh viên tốt nghiệp thuộc thế hệ đầu tiên của Nhóm Sinh
viên Học sinh Tin Lành khi chị tâm sự và muốn nói đến ông bà Contênto. Đúng vậy, Chúa Nhân Từ
của chúng ta đã đưa ông bà đến Việt Nam năm 1960 khi ông đã sắp sửa đến tuổi lục tuần. Thật,
“Chúa dùng người của Ngài cách kỳ diệu cho Hội Thánh Ngài.” Ông bà Contênto đến Việt Nam mang
theo nhiều kinh nghiệm phục vụ Chúa tại Trung Hoa (ông, từ năm 1928-1951; bà từ năm 1925-
1951) và tại Singapore (1951-1960).

B. Bối cảnh gia đình

Điều chúng tôi không ngờ là sự kết hợp lạ lùng của Chúa đã giúp cho ông bà phục vụ Chúa cách
hữu hiệu dù tính khí hoàn toàn khác nhau. Ông sinh ngày 14.08.1905 tại Volentare,Italy. Ông có
bốn anh chị em. Bố mẹ ông di dân qua Hoa Kỳ. Bố ông vô thần còn mẹ ông gốc gia đình Công giáo.
Trong ơn thương xót của Chúa, ông tin Chúa trong dịp tang lễ của bố mình. Ông làm việc rất vất
vả,nhưng với lòng yêu Chúa sắt son, Chúa cho ông có cơ hội học Trường Kinh Thánh Moody tại
Chicago trong những năm 1924-1927. Sau khi tốt nghiệp, ông phục vụ Chúa với Hội Thánh Báp-tít
miền Bắc (Northern Baptist Convêntion) và được tấn phong Mục sư trong hệ phái này.

Năm 1928, ông gia nhập Hội Truyền giáo Trung Hoa Lục địa (China Inland Mission) sau đổi
thành Hội Truyền giáo Hải ngoại (Ovêrsêas Missionary Fêllowship). Khi đến Trung Hoa, sau hai
năm học tiếng Hoa (1928-29), ông được đưa đến vùng Nội Mông (Inner Mongolia)vào cuối năm
1929 và ở đó cho đến năm 1936. Trong thời gian này, ông có dịp thăm viếng, giảng dạy tại nhiều
nơi thuộc Tây Bắc Trung Hoa. Những chuyến truyền giáo ngắn hạn giúp ông gặp cô Maida E.M.
Bolster, một nữ giáo sĩ người Anh mà ông cảm mến. Tuy nhiên, cô Maida không để ý đến chàng giáo
sĩ trẻ hơn mình gần 5 tuổi, học cũng thua mình, và kinh nghiệm chức vụ còn yếu. Nhưng Chúa đã
tác động trên hai người, nên ông bà đã cưới nhau vào ngày 10.06.1933 trong một hành trình rất
gian truân và hoàn cảnh đầy éo lê. Chúa cho ông bà sinh được một con gái, Isobel Ruth vào ngày
15.09.1940.

C. Khải tượng và trang bị

Điều người viết không ngờ, đó là khải tượng Chúa ban cho ông bà và tầm nhìn ông bà đối với
công việc Chúa lâu dài. Nhìn thấy ảnh hưởng của Hồi giáo trong vùng Nội Mông,ông bà đã dành trọn

60


năm 1937 đến học tại Henry Martyn Islamic School, Ấn Độ và năm 1938 tại Arabic Language Study,
Jerusalem, Do Thái.

Về lại Trung Hoa,ông bà được bổ nhiệm đi dạy Anh văn tại Đại học Chongking, Đại học Tứ Xuyên
(Szêchuan) và Đại học Tây Bắc từ 1939-1951. Ông cũng được giao trách nhiệm dạy các môn liên
quan đến việc giới thiệu đạo Chúa, truyền giảng và môn đệ hóa cho các trường Kinh Thánh và chủng
viện trong thời gian này.

Cùng thời gian này,ông bà dành nhiều thì giờ cho mục vụ giữa vòng sinh viên đại học. Đối diện
với nhu cầu và đòi hỏi của giới sinh viên đại học, ông dành 4 năm 1946-49 để học thêm và nhận
một học vị cao tại Đại Học UC Berkeley.

Khi chính phủ Trung Hoa yêu cầu các giáo sĩ rời khỏi nước, ông bà đến Singapore. Tại đây,ông
giúp thành lập và giảng dạy tại đại chủng viện Singapore Bible College, thành lập Đoàn Học sinh
Tin Lành, phục vụ Chúa giữa vòng sinh viên Tin Lành (IVCF Inter-Varsity Christian Fellowship –
IFES International Fellowship of Evangelical Students) và dạy tại Đại học Nanyang.

II. Việt Nam – Quê hương tôi
Những ngày tháng phục vụ Chúa giữa vòng Hội Thánh và người trẻ tại Singapore, ông bà không
quên những năm tháng dài tại Trung Hoa và nặng lòng vì Việt Nam, Hội Thánh, và giới trẻ. Nghe rõ
tiếng Chúa, ông bà mạnh dạn rời Singapore - nơi ông bà được rất nhiều người,nhiều giới, nhiều
lãnh đạo Hội Thánh các hệ phái yêu mến và kính phục cho đến ngày nay – để đến Việt Nam.

Trên 30 năm kinh nghiệm của mỗi người trong chức vụ đã giúp cho ông bà đóng góp rất hữu
hiệu cho Hội Thánh Chúa tại Việt Nam, dù ông bà chỉ ở tại Việt Nam không tới 15 năm.

A. Cho giới trẻ Việt Nam
Với kinh nghiệm còn sốt dẻo khi lo cho học sinh và sinh viên tại Singapore, quyết tâm đầu tiên
của ông bà cho giới trẻ Việt Nam được bày tỏ qua việc thuê một căn nhà lớn gần chợ Ân Đông (73
Nguyễn Duy Dương, Quận 5) để thuận tiện cho giới trẻ, sinh viên học sinh lui tới. Ông bà liên hệ với
các anh chị em sinh viên Tin Lành. Các anh chị em này vốn đã họp nhau học Kinh Thánh trước đó,
nên khi có ông bà đến hướng dẫn, gần gũi nâng đỡ, đã có cơ hội phát triển. Ông bà mở cửa nhà mình
cho sinh viên học sinh đến chơi. Đặc biệt trọn ngày thứ Bảy,ông bà có nhiều chương trình huấn
luyện, hướng dẫn và thành lập các tổ học Kinh Thánh kèm theo những trò chơi và dụng cụ thích
hợp với sinh viên học sinh, nên rất nhiều người trẻ đến.

61


B. Một hướng nhìn mới
Ông bà Contento phục vụ Chúa, làm giáo sĩ tự túc, không nhận tài chánh từ bất cứ cơ quan, hội
đoàn,tổ chức nào. Ông bà đi dạy Ânh văn để sinh sống. Ông bà phải trả chi phí rất cao cho nhà thuê,
điện nước,… và sống rất đơn giản qua cách phục sức, trang hoàng nhà cửa, ăn uống. Ông bà rất thích
thức ăn Việt Nam, nhất là món gỏi bắp cải Đà Lạt thái nhỏ với nước mắm và một ít thịt ba chỉ. Trong
những lần đãi sinh viên học sinh hoặc khách các nước đến thăm, ông bà cũng cho ăn như vậy để
giới thiệu đời sống, văn hóa và nhu cầu Việt Nam.
Đời sống, tâm tình,và các nội dung huấn luyện của ông bà đơn giản, thực tế đã giúp cho giới trẻ
thấy được hướng nhìn mới trong sự phục vụ Chúa, Hội Thánh và dân tộc. Một khải tượng đầy ấn
tượng khắc ghi, nên khi học biết Chúa sâu hơn, nghê tiếng Chúa rõ hơn; nhiều người trẻ thấy rõ
mục đích, sứ mạng, vinh dự được cắp sách đến trường - đã quyết tâm học tập và đáp lại tiếng gọi
của Chúa khi lắng nghe và biết ý của Ngài.
C. Sinh viên Học sinh Tin Lành
Một thời gian sau,ông bà thấy cần có chỗ yên tĩnh và dễ dàng cho người trẻ đến hơn nên đã thuê
một biệt thự gần đó, số 39 Nguyễn Duy Dương, cùng con đường, với giá rẻ vì nhà có ma không ai
dám thuê. Địa điểm này rất thuận lợi vì lui vào bên trong, rộng rãi, đủ chỗ để ông bà xây thêm một
căn nhà vừa cho 8 nam sinh viên ở bên cạnh hai phòng nhỏ có sẵn, đủ chỗ cho 6 nam sinh viên.

Qua sự khích lệ và hướng dẫn của ông bà Contento, sinh hoạt của nhóm sinh viên Tin Lành phát
triển cả phẩm lẫn lượng. Ông bà giúp anh chị em học biết kinh nghiệm các nước khác để sinh hoạt,
vừa thỏa đáp nhu cầu tinh thần lẫn tâm linh của thế hệ trẻ trong những năm đại học. Ông bà cũng
mời Tiến sĩ David Âdênêy, một trong những người sáng lập phong trào sinh viên Tin Lành, chị Ada
Lum chuyên về học Kinh Thánh truyền giáo và nhiều người đầy ơn khác đến giúp cho công việc
Chúa trong giới sinh viên. Anh chị em sinh viên lập nhiều tổ học Kinh Thánh, có thể học trong cư
xá, ngoài sân cỏ, hoặc một phòng trống nào đó.

Ngoài ra, còn có một sinh hoạt khởi sắc khác là buổi sinh hoạt tối thứ Bảy hằng tuần tại nhà thờ
Pháp đường Thống Nhất (quận 1) quy tụ nhiều người với các nội dung phong phú, mới mẻ, thực tế,
phù hợp với nhu cầu sinh viên, được trình bày bởi các diễn giả đầy ơn, có trình độ chuyên môn.
Cũng có những lần hội thảo diễn giả (panêl discussion) đã thu hút nhiều người tham dự và đáp ứng
được nhu cầu tâm linh của giới sinh viên.

62


Kinh nghiệm thành công của ông bà Contento trong việc lo cho học sinh trung học tại Singapore
cũng đêm lại kết quả lớn lao. Đây là điều hoàn toàn mới với hoàn cảnh Việt Nam. Đối diện với áp
lực của gia đình, bạn bè, xã hội đã chọn, các bạn học sinh bám lấy Chúa, được nuôi dưỡng, lớn lên,
mạnh dạn chia sẻ niềm tin cho gia đình,người thân, bạn bè. Những tổ, nhóm học Kinh Thánh mọc
lên như nấm đêm luồng sinh khí mới cho giới trẻ, giúp họ có một hướng đi vững vàng, cam kết theo
Chúa, sống với Chúa trong Đại học, và sống cho Chúa khi tốt nghiệp đã giúp thay đổi bộ mặt của Hội
Thánh.

D. Sinh hoạt và huấn luyện

Ngoài những buổi huấn luyện hằng tuần tại 39 Nguyễn Duy Dương, Mục sư và bà Contênto được
mời đi giảng khắp nước. Ông thường đi nhiều hơn bà vì bà phải dạy và lo chương trình chính tại
trường Anh ngữ London vì đó là nguồn tài chính cho mục vụ và đời sống của ông bà. Ông thường
sắp xếp, lái xê đi suốt hành trình ra miền Trung đến Đà Nẵng, Huế, hoặc xuống Cần Thơ; dừng lại
mỗi nơi thêo lời mời của từng nơi, từng khu vực. Như thế, vừa phát triển, vừa tiết kiệm tài chính.
Với óc trào phúng, phong thái cởi mở, gần gũi, thân mật, ông dễ dàng thu hút người nghe. Ít có diễn
giả, huấn luyện viên nào được quần chúng ưa chuộng như ông trên cả nước. Nhiều nơi phải chờ
đợi khá lâu mới mời được ông đến diễn giảng.

Hai ông bà, một sự kết hợp của hai nền văn hóa Ânh Mỹ, có cá tính và tính khí hoàn toàn khác
nhau, đứng chung nhau, hỗ trợ nhau trong mọi mục vụ, kể cả huấn luyện, và tư vấn hôn nhân,học
hành, hướng nghiệp. Chương trình huấn luyện hằng tuần bao gồm cách hướng dẫn hát, hướng dẫn
ca đoàn, hướng dẫn trò chơi, hướng dẫn chương trình; điều khiển, hướng dẫn, và phối trí buổi họp;
cách hoạch định và lập chương trình buổi sinh hoạt thanh niên; chương trình picnic; cách nói
chuyện, thuyết trình trước công chúng; nghệ thuật lãnh đạo; dịch bài và thông dịch trực tiếp Anh
Việt cho các buổi họp, giảng, dạy,… Ông bà không ngại tốn kém, đã đứng ra mời nhiều diễn giả,
chuyên viên có ơn đến giúp cho sinh viên, học sinh, giới trẻ, người lớn và Hội Thánh chung.

Vài hình thức sinh hoạt là mới mẻ đối với Hội Thánh Việt Nam, đó là các kỳ trại huấn luyện do
ông bà huấn luyện và hướng dẫn tổ chức cùng các hội thảo và huấn luyện về tình yêu,hôn nhân.
Cách truyền đạt thẳng thắn, trung thực của ông bà đã dễ dàng tạo ra thế hệ thay thế tiếp nối. Ông
luôn nhắc giới trẻ “Do It Now!” để khích lệ, thúc đẩy giới trẻ bắt tay vào việc ngay, đừng chần chờ.

63


Đây là điều đã đêm lại nhiều thay đổi lớn cho người trẻ Việt Nam thời bấy giờ và còn tiếp nối ngày
nay.

E. Mục tiêu đào tạo
Với khải tượng rõ ràng, kinh nghiệm phong phú trong thời gian trên 30 năm phục vụ tại Trung
Hoa và Singapore; ông bà có một định hướng rõ rệt: Giúp người trẻ Việt Nam biết Chúa, tin Chúa,
mạnh dạn chia sẻ niềm tin và phục vụ Chúa trong Hội Thánh lẫn ngoài xã hội. Bài hát ngắn “Biết
Giê-xu và truyền bá Danh Ngài”được mọi người thuộc nằm lòng, luôn luôn hát, và áp dụng.

Cách huấn luyện,khám phá và phát huy khả năng lãnh đạo của ông bà rất thực tế và thành công.
Ông bà luôn tạo cơ hội cho thực tập tại chỗ, đưa vào từng tổ, nhóm để mọi người có thể làm quen
và làm thành công. Phương thức huấn luyện thực tế này đã giúp cho mọi sinh hoạt trong và ngoài
Hội Thánh có người lãnh đạo. Ông bà luôn nhắc nhở mọi người là “muối mặn dầm thấm trần gian
và ánh sáng cho thế giới” (Mat 5:16), mọi người là đại sứ của Chúa trong mọi môi trường sống: gia
đình, trường học, sở làm, thôn xóm và ngay tại khu vực mình sinh sống.

Ông bà cũng luôn luôn đưa ra mô thức huấn luyện và kế thừa theo 2Ti 2:2, nhấn mạnh bốn thế
hệ: Phao-lô,Ti-mô-thê, những người trung thành và kẻ khác; để nhắc nhở từng người về bốn vai
trò, hay bốn thế hệ mà có thể họ đang đóng vai. Đồng thời, mỗi người luôn học và luôn có cơ hội để
huấn luyện thế hệ tiếp nối. Nhiều thế hệ lãnh đạo trong Hội Thánh Việt Nam ngày nay trong nước
và hải ngoại là kết quả của những đầu tư và hết lòng của ông bà Contento cho Hội Thánh chúng ta.

Một điểm son nữa trong mục vụ của ông bà Contento là ông bà khuyến khích con dân Chúa học
Lời Chúa cách riêng tư mỗi ngày qua giờ “tĩnh nguyện”. Ông khích lệ việc thành lập - và đã được
Ban Trị sự Tổng Liên Hội cho phép - Đoàn Đọc Kinh Thánh (Scripture Union). Tập Chú giải Kinh
Thánh “Đoàn Đọc Kinh Thánh” xuất bản mỗi quý được bắt đầu lưu hành từ năm 1965 và đã gây ảnh
hưởng sâu đậm. Tài liệu “Sống với Thánh Kinh” hoặc “Bài học Kinh Thánh hằng ngày” được phổ biến
rộng rãi ngày nay tại Việt Nam cũng như ở hải ngoại và được rất nhiều người sử dụng là kết quả từ
ảnh hưởng của mục vụ ông bà Contento thời đó.

F. Chuẩn bị người cho Hội Thánh
Ông bà luôn khuyến khích và cấp học bổng cho anh chị em sinh viên học sinh nghèo có thể theo
học trọn chương trình mong muốn. Ông bà cũng khích lệ những người có tiềm năng tiến xa và giúp
học bổng để đạt mục đích. Cách giúp học bổng của ông bà cũng có chiến lược để chính đương sự và
gia đình có cơ hội dự phần và chủ động nhận trách nhiệm.
Một chức vụ đặc biệt nữa của ông bà là giúp Hội Thánh người Hoa tại Sài-gòn, Chợ Lớn phát
triển đội ngũ trẻ cho Chúa. Buổi sinh hoạt trưa thứ Ba hằng tuần rất sôi nổi và phát triển tốt, đưa

64


nhiều người trẻ đến với Chúa, yêu Chúa, trở nên người phục vụ Chúa. Đa số Mục sư, Truyền đạo, và
lãnh đạo người Hoa tại Việt Nam và hải ngoại ngày nay đến từ chức vụ của ông bà Contento. Do
thông thạo tiếng Quan Thoại, ông bà đã giúp phát triển công việc Chúa giữa vòng người Hoa tại Việt
Nam rất nhiều.

Ông bà cũng khích lệ,chọn và gửi thành phần ưu tú đi du học. Điều này đã đêm lại thay đổi
lớn,giúp Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp (Christian and Missionary Alliance) và các hệ phái Tin
Lành khác tại Việt Nam thay đổi đường hướng và cũng bắt đầu thêo gương ông bà.

G. Một sứ mệnh còn tiếp nối
Phương hướng huấn luyện, dìu dắt, cố vấn và chăm sóc cách gần gũi, thực tế của ông bà
Contênto đã tạo nên một thế hệ kế thừa lớn lao cho Hội Thánh Việt Nam ngày nay như cố Mục sư
Đoàn Văn Miêng có đề cập. Qua ông bà, mọi người đều có cơ hội phục vụ Chúa và phát huy khả năng
lãnh đạo. Các tổ học Kinh Thánh là bí quyết cho từng cá nhân trung tín giữ giờ tĩnh nguyện hằng
ngày. Kỷ luật tâm linh này ảnh hưởng sâu đậm trong từng người tham gia, giúp họ trung tín sống
cho Chúa trong mọi hoàn cảnh. Họ cũng mạnh dạn chia sẻ, mời người tham gia, huấn luyện và phát
triển khả năng lãnh đạo qua việc hướng dẫn học Kinh Thánh. Nhiều người tham gia chương trình
này khi đã đi làm, khi đã có gia đình và làm ăn ổn định. Sứ mệnh mới nhìn có vẻ rất đơn sơ này
nhưng đã đêm Lời Chúa đến với từng cá nhân, giúp họ học, hiểu, và sống với Lời Chúa.

Được biết, sau khi rời Việt Nam vào tháng Tư 1975, ông bà Contênto đến phục vụ Chúa 9 năm
tại Manila, Philippines. Khi về Mỹ năm 1983, ông bà sống tại Berkeley, miền Bắc California. Ông bà
giảng dạy tại chủng viện Chinese Alliance Institue, tiếp tục đi thăm viếng và giảng dạy giữa vòng
các Hội Thánh người Việt.

Đẹp ý Chúa, Ngài tiếp bà về Nước Ngài ngày 14.11.1985 khi bà vừa dạy xong một môn và sinh
viên đang về phòng khách để tiếp tục thảo luận với bà.

Ông tiếp tục làm Giám học cho chủng viện Chinêsê Âlliancê Institutê cho đến năm 1989. Sau đó,
ông dời về miền đông, sống tại Viện Dưỡng lão của Hội Truyền giáo Hải ngoại Overseas Missionary
Fellowship tại Lancastêr, bang Pênnsylvania để gần con gái. Ông vẫn thường xuyên tự đi bằng xe
lửa, xê buýt đến giảng dạy tại các Hội Thánh Việt Nam trong khu vực Đông Bắc Hoa Kỳ, gồm cả New
York. Ông vẫn tiếp tục đọc 3 tờ nhật báo mỗi ngày, hơn 5 tạp chí và nhiều sách mỗi tuần. Năm 1996,
ông về thăm Việt Nam cùng với con gái, mừng sinh nhật thứ 91 tại Saigon. Đầu năm 1997, ông bị
tai biến mạch máu não phải ngồi xê lăn tay, nhưng ông vẫn hăng hái tập vật lý trị liệu với ước mơ
Chúa cho ông phục hồi để tham dự trại hè huấn luyện Việt Nam vào tháng Tám 1997. Đẹp ý

65


Chúa,Ngài đêm ông về an nghỉ trong Nước Ngài ngày 01.08.1997, đúng vào ngày khai mạc trại hè
huấn luyện vừa nói.

Trong thời gian ông bị bệnh phải ngồi xê lăn tay. Con dân Chúa người Việt đêm tặng ông một
bản đồ Việt Nam bằng gỗ, có khắc thập tự giá lớn trên cả bản đồ. Ông nói: “Việt Nam, quê hương tôi,
nơi chúng tôi được sống thời gian ý nghĩa nhất. Tôi đã về thăm năm rồi, Việt Nam vẫn nằm trong tim
tôi. Tôi cầu nguyện cho thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu Cơ Đốc được chiếu sáng trên cả quê
hương Việt Nam một ngày không xa!”

Bạn nghĩ gì khi đọc đến những dòng chữ này? Bạn sẵn sàng làm thế hệ tiếp nối để khải
tượng,tâm tình, và lòng yêu Chúa sắt son của đầy tớ trung kiên, xả thân cho nhiều nơi và đặc biệt
cho Việt Nam đó được chiếu sáng và tiếp nối vững mạnh hơn nữa chăng?

Hồ Xuân Phú

NGƯỜI XƯA VÀ THẾ HỆ HÔM NAY

I. Gợi nhớ: IPhi 3:15; IITi 3:16-17.

Tấm lòng người đầu phục Chúa hoàn toàn do quyền năng Ba ngôi Đức Chúa Trời. Tuy nhiên
không thể nào quên được người được Chúa sử dụng có ơn lãnh đạo và có ảnh hưởng lớn trên đời
sống những người trẻ tuổi từ thế hệ nầy sang thế hệ khác qua những năm tháng đầy mồ hôi và
nước mắt. Điều hệ trọng nào trong tấm lòng người cần được cày xới?

“Nhưng hãy tôn Đấng Christ là Chúa, làm thành trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng
trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.”(IPhi 3:15) Câu Kinh
Thánh đó chứa đựng một đường hướng trang bị tâm linh cho giới trẻ, giúp họ tìm và chọn Đấng
Christ làm Chúa trong lòng. Chúa Cứu Thế trong lòng họ qua ngày tháng dần bày tỏ qua lối sống,
cách nói năng và hành động.Đó là nguyên tắc để người trẻ biết phục vụ Chúa và người lân cận một
cách hiệu quả. Kinh nghiệm sống của họ được rèn giữa bằng Thánh Kinh để trở thành người thuộc
về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành. “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức
Chúa Trời soi dẫn có ích cho sự, dạy dỗ, bẻ trach sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người
thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (IITi 3:16-17).

Ý nghĩa của hai câu Kinh Thánh kể trên khiến tôi nhớ đến ông bà Giáo sĩ Paul Contento. Dù hai
ông bà đã qua đời song đời sống của ông bà vẫn còn luôn được nhắc nhở qua nhiều thế hệ trẻ của
tín hữu người Việt.

II.Đặc điểm của “Ba má Công-tăng-tô”.

Thân tình, gần gũi,gắn bó với Chúa và với nhau nên nhóm sinh viên Thông Công gọi ông bà Giáo
sĩ là “Ba má Công-Tăng-Tô”.

A. Tính khí của “Ba Công-tăng-tô”.

Ba có tính khí nóng nảy nhưng có tài lãnh đạo quần chúng, bên cạnh đó cũng có chút tính khí
đa cảm nên chung quanh Ba có nhiều người ngưỡng mộ Ba. Cách sống của Ba đơn giản, chân thật
nên kết thân với người khác cách dễ dàng. Kết hợp của hai tính khí nóng nảy và đa cảm khiến Ba
lúc nào cũng giải quyết công việc cách nghiêm khắc, đúng mực mà vẫn có phần uyển chuyển mềm
mại trong tình người.

“Má Công-tăng-tô”tính khí điềm đạm kèm với một ít tính khí đa sầu. Tuy nhiên Má không lạnh
lùng,“Ăng-lê phớt tỉnh” mà luôn chín chắn trong cách giải quyết nan đề khiến người đối diện phải

66


cảm phục và biết ơn. Có một lần vào dịp sinh hoạt bồi linh cho 30 sinh viên, một chị đi chợ mua
nhằm cá ươn, thế là bao nhiêu lời cằn nhằn đổ xuống khiến chị điên cả đầu. Má biết được nhìn
người mua phải cá ươn mỉm cười và đưa một số tiền giúp mua cá khác. Má không vứt cá ươn đi mà
tiết kiệm đêm ướp muối,nướng chín rồi cho vào túi nhựa cất trong tủ lạnh, để dành làm thức ăn
cho mấy con chó. Và nhiều nan đề khác cũng rất trầm trọng; Má lẳng lặng cầu nguyện và giải quyết
nan đề một cách trong sáng và thông cảm.

B. Đời sống.

Cả Ba và Má đều đi dạy học để có kinh phí cho tất cả: nhà ở, ăn uống và các sinh hoạt của IVF và
IFES (các nhóm sinh viên học sinh Thông Công).

Cách sống, cách phục sức, cách trang hoàng nhà cửa, phòng khách, phòng ngủ, nhà ăn đều đơn
giản,không có vẻ chi là phong cách sống của người nước ngoài. Ba má thích ăn cơm và thức ăn của
người Việt. Hầu như các món nước mắm tỏi ớt, chanh trộn vào món gỏi,bắp cải Đà Lạt thái nhỏ trộn
với thịt ba chỉ thái nhỏ, một ít tôm bạc luột chín bóc vỏ, mùi thơm của một ít rau răm, quế và húng
lủi là món ăn Việt mà Ba má ưa thích; khách sinh viên lai vãng cũng thích ăn những món nầy. Mỗi
lần nhớ đến Ba má thì hình ảnh các món ăn nầy lại hiện lên trong mắt tôi.

Ba thì xông xáo, sôi nổi; má thì trầm tỉnh, lặng yên. Song tấm lòng yêu Chúa yêu người của Ba
má phủ lút mọi không gian.

“Chẳng cao sang, chẳng tính toan

Mỗi người mỗi vẻ cưu mang tình người.”

III.Dòng đời lưu chuyển của IVF và IFES.

A. Sinh hoạt vào chiều thứ bảy tại 39 Nguyễn Duy Dương.

1.Những người tiên phong.

Ânh Lê Vĩnh Thạch (hiện là Mục sư đang giảng dạy môn thần học tại California, nổi tiếng về môn
Giải kinh). Chị họ Phạm - chị Vàng Xanh - người lữ khách của một gia đình mới tin Chúa được Mục
sư Lê Hoàng Phu (nay đã qua đời) giới thiệu với nhóm Thông Công sinh viên. Kế đến là anh Nguyễn
Văn Hải (hiện là Mục sư ở hải ngoại).

Giai đoạn tiên phong này thật đầy sóng gió. Chúng tôi bắt đầu bằng những buổi cầu nguyện vào
sáng sớm lúc 5g sáng đến 7g30 sáng, và càng cầu nguyện thì nan đề dường như càng căng thẳng
hơn. Sau gần một năm thầm lặng cầu nguyện và chờ đợi (1958-1959) tại cư xá Trần Quý Cáp và 39
Nguyễn Duy Dương, Chúa mở đường cho Mục sư Hội trưởng Đoàn Văn Miêng (nay đã qua đời) và
Tổng Liên hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam lúc bấy giờ công nhận nhóm sinh viên Thông Công là
Đoàn Sinh viên thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, trực thuộc Tổng Liên hội và được phép sinh
hoạt giữa các Hội thánh. Mục đích để gây dựng giới sinh viên và học sinh đang đi học. Sinh hoạt của
Đoàn Sinh viên và Đoàn Thanh Niên (lúc bấy giờ do Mục sư Nguyễn Sơn Hà lãnh đạo)hoàn toàn
khác nhau và biệt lập về phương hướng dạy dỗ song ở trong cùng một niềm tin nơi Chúa Cứu thế
và đặt nền tảng trên Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời.

2.Thế hệ sôi động của những năm tháng trưởng thành (1959 – 1961).

Sau khi được phép chính thức, sinh hoạt của sinh viên các phân khoa Đại học Sài Gòn, Cần Thơ
và Huế (Đà Nẵng chưa có Đại học nên hầu hết sinh viên ra học ở Huế) và học sinh cấp 2, cấp 3 như
được chắp cánh bay cao. Những buổi sinh hoạt tại 39 Nguyễn Duy Dương, 2bis Thống Nhất và cư

67


xá Trần Quý Cáp được Chúa cho khởi sắc và đông đảo cách nhanh chóng. Có thể nói đây là giai đoạn
vàng son của Ba Má Công-tăng-tô trong việc gây dựng các nhóm Thông Công nói riêng, Đoàn sinh
viên và học sinh nói chung. Một số Mục sư Giáo sĩ từ hải ngoại được Ba má mời làm diễn giả cho
các kỳ trại hè quy mô. Thanh niên của nhiều Ban Thanh niên Hội Thánh ý thức được vai trò và trách
nhiệm của mình tại các phân khoa Đại học. Học sinh của các trường cấp 2 cấp 3 cũng háo hức tập
sống và làm việc truyền giảng để chuẩn bị được Chúa sử dụng khi bước chân vào Đại học. Trong số
các diễn giả hải ngoại được mời có cô Adalum cộng tác với Ba má tích cực và nhiệt tình. Cô thường
xuyên có mặt ở Việt Nam. Cô Âdalum giúp đỡ tất cả biết nghiên cứu lời Chúa qua nhiều phương
pháp học Kinh Thánh. Sau này nhiều sinh viên đã ý thức được tầm quan trọng của phương pháp
học Kinh Thánh cũng như việc giải nghĩa Kinh Thánh; nhất là môn Giải kinh. Bổ sung cho cô Adalum
về phương pháp học Kinh Thánh, Mục sư Lê Hoàng Phu cũng nhiệt tình cộng tác với Ba má Công-
tăng-tô để giúp đỡ các sinh viên các phương pháp tiểu sử và bồi linh. Mục sư Lê Hoàng Phu là một
vị Mục sư có tâm tình trang bị, huấn luyện cho sinh viên của các phân khoa Đại học để họ trở thành
động cơ mạnh mẽ cho công việc mở mang nước Trời.

Ânh Đàm Quang Thuận tin Chúa bên Úc về Việt Nam mang theo tấm lòng nóng cháy về các chiến
dịch truyền giảng Tin Lành của Mục sư Tiến sĩ Billy Graham ở Úc. Ânh là người anh cả mẫn cán của
sinh viên và tháo vát bên cạnh Ba má Công-tăng-tô. Đức Chúa Trời yêu thương đã sắm sẵn con
người tận tụy đó để hỗ trợ công việc huấn luyện, trang bị cho Đoàn Sinh viên Học sinh Tin Lành
Việt Nam.Ânh Đàm Quang Thuận làm việc ở hãng Shell, nguồn tài chánh dồi dào. Với tấm lòng yêu
Chúa, anh đã hỗ trợ nhiều mặt cho các nhóm học sinh (như học bổng để học sinh cấp 3 có thể tiếp
tục học lên Đại Học).

Cô Trần Thị Phước Lý vốn là giáo sư dạy Ânh văn nhiều năm ở các trường phổ thông cấp 3. Lúc
bấy giờ ít có ai có vốn sinh ngữ Ânh văn vững vàng như cô. Cô là người thông dịch cho Ba má Công-
tăng-tô và các diễn giả đến từ nước ngoài. Do đó Ba má rất quý mến cô con gái đã phụ giúp nhiều
cho Ba má.

Giai đoạn này bên cạnh Đoàn Sinh viên Học sinh Tin Lành Việt Nam còn có nhiều bạn khác được
Đức Chúa Trời dấy lên như: các anh Nguyễn Xuân Đức, Hồ Xuân Phú, Nguyễn Thị Bảy (Mỹ Tho); chị

68


Huỳnh Ngọc Trâm và anh Huỳnh Thái Bình là hai con của cụ Mục sư Huỳnh Kim Luyện được đề cử
đặc trách Đoàn Học sinh Tin Lành (cấp 2 và cấp 3) Chị Trần Thị Lê Minh hỗ trợ về âm nhạc, dạy
đánh nhịp hướng dẫn hát.

Giai đoạn này cũng đã hình thành Ban Điều hành của Đoàn gồm có: Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng
Thư ký, Tổng Thủ quỹ; các Ủy viên Bồi linh, Âm nhạc, Khánh tiết và hai Ủy viên Liên lạc. Năm ủy
viên làm việc ráo riết sát cánh với các thành viên các phân khoa Đại học để đáp ứng nhu cầu:

Lịch thông tin các vấn đề cần cầu nguyện.

Tài liệu về các phương pháp học Kinh Thánh.

Sinh hoạt thông công bồi linh định kỳ hoặc vào các ngày lễ (sinh viên được nghỉ học vào nhiều
ngày lễ).

B. Sinh hoạt tại 2 bis Thống Nhất (năm 1961 – 1971).

1. Một nhóm Thông công tại số 2 bis Thống Nhất.

Các sinh hoạt của sinh viên (bao gồm các tối truyền giảng) diễn ra tại nhà thờ Pháp số 2 bis
đường Thống Nhất. Phía sau nhà thờ có cư xá dành cho một số sinh viên đến từ Quảng Nam, Đà
Nẵng. Các thành viên quen thuộc gồm khoảng trên 10 sinh viên. Tại đây có sân đá bóng và phòng
đọc sách, gồm vài tủ sách tiếng Anh, Pháp và Việt. Thường hay có giao lưu giữa cư xá nữ Trần Quý
Cáp và cư xá 2 bis Thống Nhất để tra cứu thêm về Kinh Thánh, hoặc chuẩn bị chương trình truyền
giảng hằng năm.

Các anh Lê Vĩnh Thạch,Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Như Sơn, Hồ Xuân Phú, các chị họ Phạm, Vàng
Xanh,… thường gặp gỡ nhau tại cư xá 2 bis Thống Nhất để soạn chương trình truyền giảng và bồi
linh, khích lệ từng phân khoa mời thân hữu. Ủy viên Bồi linh nhắc nhở cầu nguyện theo từng phân
khoa. Truyền giảng vào những ngày lễ lớn như Phục sinh, Giáng sinh và định kỳ mỗi tháng một lần
vào tối thứ bảy. Diễn giả thường là Ba hoặc má Công-tăng-tô, Mục sư Lê Hoàng Phu, ông Vũ Đức
Chang. Sau giờ giảng luận là trà đàm ngoài sân cỏ, chia thêo các phân khoa để tiện cho việc tìm hiểu
nhau và kết thân với thân hữu.

2. Nhóm học sinh trường Gia Long do chị Chung thị Hoàng Bích đặc trách.

Vào cuối năm học, những trưa hè, Ba má Công-tăng-tô thường lái ô tô đến số 8 Lê Ngô Cát gần
trường Gia Long để chở một số học sinh thân hữu đến sân cỏ 2 bis Thống Nhất. Cỏ xanh, cánh
phượng đỏ, tiếng ve sầu và những cô nữ sinh áo dài trắng tung tăng thia thành nhiều nhóm nhỏ trò
chuyện cách tự nhiên quanh cuộc đời Chúa Cứu thế Giê-xu. Có hôm có đến 10 nhóm. Ba Công-tăng-
tô phải lái ô tô vài ba chuyến mới hết. Sau 30 phút giải khát và trò chuyện là 30 phút rao giảng sứ
điệp, ơn cứu rỗi và Ba Công-tăng-tô là diễn giả. Các học sinh say sưa chăm chú nghê sứ điệp rồi các
bạn được đưa trả lại số 8 Lê Ngô Cát.

3. Nhóm học sinh trường Trưng Vương, gần công viên Bách Thú.

Trưởng nhóm là Lưu Chi Nga và phó là Tô Lan Phương (hiện nay là phu nhân của Mục sư Trần
Đào). Chị Vàng Xanh là người đặc trách.

Ba Công-tăng-tô cũng lái ô tô nhiều chuyến chở đến sân cỏ 2 bis Thống Nhất. Cũng các nữ sinh
áo dài trắng, giọng Bắc líu lo như chim hót. Nhóm Trưng Vương cũng phối hợp với một số bạn học
sinh nam của trường Võ Trường Toản, sát bên trường Trung Vương. Tôi nhớ một lần diễn giả vẫn
là Ba Công-tăng-tô với chủ đề “Sự giàu có của Thiên đàng”.Lời giảng chắc chắn, dứt khoát với những

69


câu Kinh Thánh giải thích dễ hiểu thật thu hút, mọi người nghê say sưa quên cả nắng ban trưa. Chúa
đã hậu đãi từng cơn gió nhẹ thật dễ chịu. Các chú học sinh nam lúc ra về còn quyến luyến những
chiếc áo dài đầy cỏ may và cánh phượng, mân mê trong tay mỗi học sinh là cuốn sách nhỏ về Thiên
Đàng, hẹn lần sau trở lại.

Cách đây khoảng 10 năm tôi có gặp Lưu Chi Nga đi chung với một số bạn. Ngày xưa là thân hữu
của trường Trưng Vương. Tất cả đều độc thân và công việc chính là rao giảng Tin Lành. Hiện nay
không biết Chi Nga có còn ở Việt Nam hay không?

C. Trại hè hàng năm của học sinh cấp 2, cấp 3 (năm 1965 – 1971).
Mỗi năm ít nhất 2 lần,thường là ở Vĩnh Long hay Đà Lạt, vì các nơi đó có cơ sở vật chất để sinh
hoạt.Học sinh cấp 2 xong đến học sinh cấp 3. Diễn giả chính vẫn là Ba Công-tăng-tô và một số các
anh chị hướng dẫn quen thuộc: anh Đàm Quang Thuận, chị họ Phạm,anh Lê Vĩnh Thạch, anh
Nguyễn. Chị Vàng Xanh bận công tác giám khảo chấm thi,nên chỉ tham dự trại hè với học sinh cấp
3. Các học viên nổi bật của trại hè cấp 3 là Phạm Xuân Trí, Phạm Xuân Nhân, Hồng Ân, Thanh Mười
ngàn và một số học sinh cấp 3 ở Mỹ Tho. Bộ ba anh Thạch – anh Nguyễn – anh Xuân Đức soạn một
chương trình phong phú về Lịch sử Thánh Kinh, Truyền giáo, Sống đạo và Hôn nhân. Sau mỗi trại
hè đều có một tập san lưu niệm lúc chia tay, trong đó có nhiều bài làm chứng về đời sống được thay
đổi, truyện ngắn, tùy bút và thơ.

D. Trại hè Sinh viên Đà Lạt (năm 1965 – 1971).
Trại hè được thường xuyên tổ chức ở Đà Lạt, tại khu đồi thông có tên gọi là Villa Alliance. Có
những lần tuyến đường Sài Gòn - Đà Lạt có hiểm nguy, sinh viên phải vất vả vài ba ngày mới đến
nơi. Thế nhưng Ba Công-tăng-tô và anh Đàm Quang Thuận cũng được Chúa cho đi trót lọt, đến Đà
Lạt đầu tiên cách an toàn. Bên cạnh Ba Công-tăng-tô là anh Đàm Quang Thuận quán xuyến về mọi
mặt.
Nội dung trại hè sinh viên hoàn toàn khác với trại hè học sinh. Trại giúp sinh viên tự nghiên
cứu,tự học qua sách báo và tài liệu (dĩ nhiên Kinh Thánh là nền tảng). Các sinh viên hầu như đều
biết chia xẻ lời Chúa và soạn câu hỏi thảo luận học Kinh Thánh nhóm. Từ đó có một số sinh viên trở
thành vững vàng trong lĩnh vực này và sau này trở thành các Mục sư có tâm tình, giỏi về lãnh đạo
và chăn bầy.

70


E. Nhóm Tốt nghiệp (năm 1969 – 1970).

Mỗi tháng sinh hoạt một lần. Đa số thành viên là những nhà kinh doanh hoặc nhà giáo hỗ trợ
tài chánh cho học sinh và sinh viên.

F. Tầm nhìn xa của Ba má Công-tăng-tô (năm 1973 – 1978).

Trước khi rời Việt Nam, Má Công-tăng-tô gặp riêng tôi gợi ý cần quan tâm đến Đà Nẵng và Huế.
Má cũng hỗ trợ chút ít tài chánh để sử dụng cho việc tổ chức trại hè.

Người sát cánh với tôi để chia sẻ công tác mới này là anh Nguyễn. Trại gặp mặt Quảng Nam “Đà
Nẵng 1” rồi đến “Đà Nẵng 2” đều được suôn sẻ. Đến trại “Ngự Hương 1” ở Huế cũng vậy.Nhưng sau
đó thì khó khăn. Rút về sinh hoạt qua các Hội thánh cũng không tránh được khó khăn. Có lần anh
Nguyễn chịu khó khăn thay tôi vì tôi là cô giáo của một trường cấp 3 lớn, và lần kế tiếp tôi chịu thay
anh để anh trở về lại Sài Gòn.

Anh Nguyễn cũng là người sát cánh với học sinh Tin Lành Mỹ Tho. Các cuộc truyền giảng có kết
quả và những hạt giống ấy vẫn còn được Chúa dùng trong nước cũng như hải ngoại cho đến ngày
nay.

Cảm tạ Chúa, sau năm 1975, Chúa vẫn ở cùng các nhóm học sinh miền Trung và tôi, cùng với
chiếc xê đạp mini đi cùng khắp. Thật thú vị vào những đêm trăng sáng. Cho đến nay những tâm tình
yêu Chúa ấy vẫn còn nguyên vẹn. Họ là cô giáo, là người bán hàng, và là những vị Mục sư.

IV. Lời kết

Trong ẩn dụ cỏ lùng xen lẫn vào lúa mì, ngày Chúa đến mọi sự sẽ được phô bày, ai là cỏ lùng và
ai là lúa mì. Lẽ đương nhiên, thời đại nào, tập thể Hội Thánh Cơ Đốc nào cũng có tình trạng ấy.
Nhưng Chúa Giê-xu phán, xem quả biết cây, “Cây tốt thì sanh trái tốt”. Ba má Công-tăng-tô đã dấn
thân cho quê hương Việt Nam là một tấm gương “Cây tốt sanh trái tốt” của Đức Chúa Trời. Người
gieo, kẻ gặt, còn Đức Chúa Trời làm cho lớn lên.

Tuy nhiên thế hệ trẻ Thanh Thiếu niên Việt Nam không thể cảm tạ Đức Chúa Trời mà quên ơn
ông bà Paul Contênto đã được Chúa sử dụng cho việc trang bị người để mở mang nước Trời ở Việt
Nam. “Thế thì vì chúng ta (trong đó có ông bà Paul Contênto) được nhiều người chứng kiến vây lấy
như đám mây rất lớn, chúng ta cũng nên quên hết gánh nặng tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn
nhục để theo đòi cuộc chạy đua đã bày ra cho ta” (He 12:1). Ít nhất hiện nay từ Lạng Sơn đến Cà Mau
vẫn còn những hạt giống tiếp tục âm thầm nẩy mầm, sống cuộc đời tận tụy, hi sinh từ bỏ mình như
ông bà Paul Contênto đã sống, dù rằng phương thức hành động và hoàn cảnh có khác nhau. Nhìn
xa hơn ở hải ngoại, những người ở thế hệ tiên phong cũng như thế hệ đàn êm đang sống cần ý thức
mình là ai, sống như thế nào để chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

Đối với nhà văn Nguyễn Tuân, người xưa chỉ “vang bóng một thời” nhưng đối với “người xưa
Paul Contênto”của Đức Chúa Trời thì có hậu tự không mai một. Để nhắc nhở đời sống và công việc
của họ, như ngôi sao sáng tỏa khắp không gian.

“Người xưa đã khuất nay còn đâu

Tấc dạ bồi hồi với thời gian

Sức sống trường tồn mãi chuyển lưu

Thế hệ hôm nay hậu tự người.”

71


Sài Gòn ngày 16.10.2010
Quỳnh Lam

72


Mục sư VŨ VĂN CƯ

(1915 – 1977)

Mục sư Vũ Văn Cư, Giáo sư kiêm chức vụ Tổng Thư ký của Thánh Kinh Thần Học Viện, sanh
ngày 16 tháng 01 năm 1915 tại Hà Nội.

Thuở thiếu thời, Mục sư được trưởng dưỡng trong một gia đình nề nếp đạo đức. Vào năm 19
tuổi (1934)ông tìm gặp và tiếp nhận tình yêu của Chúa Giê-xu Christ. Sau hai năm hăng say học hỏi
và sinh hoạt với Hội thánh nhà, ông đã được Chúa kêu gọi phục vụ Ngài.Dầu nhiều người trong gia
đình ông mạnh mẽ chống đối, ông vẫn neo vững đức tin nơi Chúa vào học Trường Kinh Thánh Đà
Nẵng kể từ niên khóa 1936 - 1937. Sau hai năm học Lời Chúa, ông rời trường vào giữa năm 1938
để đến tập sự hậu việc Chúa tại Cha-pa thuộc tỉnh Lạng Sơn. Qua hai năm tập sự, ông trở lại trường
để hoàn tất chương trình học (1940). Vì Chúa cho có ân tứ đặc biệt về âm nhạc và khả năng truyền
đạt, nên ngay trong năm tốt nghiệp nầy, Ban Giáo sư đã nhất trí mời ông giữ chức vụ Phụ giáo về
môn Âm nhạc tại trường. Ông tốt nghiệp năm 1941.Cùng năm ấy, Giáo hội chính thức bổ nhiệm ông
vào Ban Giáo sư Trường Kinh Thánh, sau nầy là Thánh Kinh Thần Học Viện. Qua 36 năm trong chức
vụ Giáo sư,ông liên tục phụ trách các môn Âm nhạc, Giáo nhạc sử, Thánh Kinh địa lý và Lịch sử Hội
thánh.

Mục sư Vũ Văn Cư lập gia đình vào năm 1948. Được tấn phong thánh chức Mục sư vào năm
1951.

Về phương diện tổ chức hành chánh của Thần Học Viện, Mục sư từng giữ chức Tổng Giám thị,
chức vụ Tổng Thủ quỹ và cho đến ngày về với Chúa, ông vẫn đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư ký.

Đối với Giáo hội chung, Mục sư từng được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) tín nhiệm
trong các chức vụ Nghị viên và sau đó là Phó Hội trưởng.

Trong suốt ba mươi sáu năm chức vụ, Mục sư Vũ Văn Cư thật tận tâm, tận lực trong mọi trách
nhiệm được ủy thác. Ngay cả lúc khó khăn, đau đớn nhất trong thể xác, ông vẫn phấn đấu chu toàn
nhiệm vụ.

Trải qua ba mươi sáu năm trong chức vụ, Mục sư Vũ Văn Cư đã góp phần không nhỏ trong việc
đào tạo một số lớn người đang phục vụ chúa tại Việt Nam.

Sau nhiều năm tháng phục vụ Chúa cách tận tụy, Mục sư Vũ Văn Cư lâm trọng bệnh vào giữa
năm 1974.Gia đình đã tận tâm chạy chữa, Hội thánh chung dành nhiều thì giờ cầu nguyện,nhưng
bệnh tình vẫn không thuyên giảm và rồi đẹp ý Chúa, Ngài vui lòng đêm linh hồn Mục sư về an nghỉ
trong Nước Vinh hiển, thỏa mãn với Ngài vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng 01 năm 1977, hưởng thọ
được 62 tuổi.

73


Mục sư Vũ Văn Cư ra đi để lại sự đau buồn, thương nhớ cho bà và ba con, cũng như sự thương
tiếc cho Giáo hội, đặc biệt là Thánh Kinh Thần Học Viện. Sự qua đời của Mục sư Vũ Văn Cư là một
sự mất mát chung. Tuy nhiên, sự đau buồn của gia đình, sự thương tiếc của Giáo hội được an ủi khi
trong tầm mắt đức tin nhìn vào cõi đời đời, chúng ta có thể thấy Mục sư Vũ Văn Cư đang vui vẻ
đứng trước Ngôi Chúa mỉm cười nhìn chúng ta rồi đồng thanh với Phao-lô nói lên rằng: “Tôi đã
đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên vinh hiển đã dành
sẵn cho tôi”. (IITi 4:7-8a). Chúng ta hẳn sung sướng khi nhìn thấy niềm hân hoan rạng rỡ trên gương
mặt ông khi ông nghe tiếng Chúa phán với ông rằng; “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, được
lắm. Hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi”.

Xin Chúa dùng những lời nầy để an ủi bà Quả phụ Vũ Văn Cư và toàn thể tang quyến.
Mục sư Phạm Xuân Thiều
(Bài đọc trong lễ Di quan tại nhà thờ Tin Lành Sàigòn
vào lúc 14 giờ ngày 16.01.1977)
MS Phạm Xuân Tín – “Đời tận tụy”, tr. 1-2.

(Ảnh:photos.vnbible.com)
Hàng ngồi (trái sang phải): 1. Lê Khắc Cung, 2. Dương Thạnh, 3. Mã Minh, 4. Đào Văn Diệu, 5.
Trần Thượng Hiền, 6. Nguyễn Lĩnh, 7. Nguyễn Thanh Liêm, 8. Nguyễn Sơn Hà. Ban Giáo sư (hàng
sau): GS Paul Carlson, bà GS Ruth Carlson, MS Lê Nguyên Anh, MS Ông Văn Huyên, MS Vũ Văn Cư, bà

GS Edith Olsen, ông GS John Olsen (05.05.1952).

74


(Ảnh:photos.vnbible.com)
Từ trái qua: MS Ông văn Huyên, MS Lê Văn Thái, MS Lê Hoàng Phu, MS Lê Đình Tố,

MS Vũ Văn Cư, MS Lê Khắc Chấn, MS Nguyễn Hữu Tươi (1972).

(Ảnh do gia đình cung cấp)
75


Mục sư LÊ KHẮC CUNG

(1926 -2001)
Truyền giáo cho sắc tộc Mnông và Êđê

1. Thiếu thời
Mục sư Truyền giáo (MSTG) Lê Khắc Cung sinh ngày 03.04.1926 tại làng Thiện Mỹ, xã Phước
Thiện Xuân, phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận trong một gia đình gia giáo. Cha của ông là cụ Mục
sư Lê Khắc Chấn, xưa vốn là một nhà giáo dạy tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, bạn của Huỳnh
Thúc Kháng và Phan Khôi. Cụ Chấn nổi tiếng khắp vùng Phan Thiết vì lòng hăng hái trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và khả năng dạy học đến nỗi được người dân Phan Thiết kính trọng gọi là
ông Giáo Chấn, sau này nổi tiếng về ơn tứ hầu việc Chúa đặc biệt trong lĩnh vực làm chứng đưa dắt
người đến với niềm tin nơi Chúa.
MS Lê Khắc Cung tin Chúa theo cụ thân sinh năm 1936 (lúc được 10 tuổi) và lớn lên trong môi
trường gia giáo. Sau đó 1 năm, cụ thân sinh của ông đi học Trường Kinh Thánh, ông ở lại nhà tại
Phan Thiết cùng mẹ. Vâng theo lời thân phụ, trong nhiều năm liền, mỗi 4 giờ sáng Chúa nhật, các
anh em ông cuốc bộ 3 cây số từ làng Thiện Mỹ ra Phú Long để được cho tháp tùng xe ngựa của ông
bà Tám Thơm đi thêm 7 cây số nữa ra Phan Thiết để thờ phượng Chúa. Ông Tám Thơm vốn là một
tướng cướp được Chúa bắt phục trở thành một con cái trung tín của Chúa.
Cũng bình thường như bao người con khác, ông theo cha mẹ trong đường chức vụ sống lần lượt
tại Phan Thiết,Tuy Hòa rồi Nha Trang, để đi học. Sau khi xong bậc Trung học Đệ nhất cấp ông chuyển
sang học nghề kế toán. Năm 18 tuổi (1944), ông ra sinh sống bằng nghề thư ký kế toán cho các hãng
buôn và cũng như bao thanh niên thời đó, tham gia vào các hoạt động của Thanh niên Tiền Phong
chống Pháp.
2. Học Kinh Thánh
Đến năm 22 tuổi,tháng 9.1948, được ơn Chúa kêu gọi và sự khuyến khích của cụ thân sinh, ông
dâng mình hầu việc Chúa vào học Trường Kinh Thánh tại Đà nẵng. Do có chút khả năng về viết vẽ,
ông tình nguyện ở lại trường và tốt nghiệp trễ hai năm để giúp hoàn thành quyển Thánh Ca hoàn
chỉnh đầu tiên mà Hội Thánh Tin Lành Việt Nam sử dụng cho đến gần đây. Phần nhạc của quyển
Thánh Ca này hoàn toàn được ông và hai bạn đồng lao vẽ bằng tay.

76


(Ảnh: Album gia đình)
MS Lê Khắc Cung ghi chú (1983) ở trang cuối quyển Thánh ca của ông bản in năm 1979.
Ông tốt nghiệp Trường Kinh Thánh vào ngày 30 tháng 4 năm 1952 lúc vừa tròn 26 tuổi. Trong
thời gian theo học tại Trường Kinh Thánh, ông được nghe lời làm chứng của các đầy tớ Chúa đến
từ vùng cao nguyên. Được cảm động khôn xiết về công cuộc truyền giáo trên miền thượng du giữa
đồng bào các dân tộc ít người đang khốn khổ trong sự mê tín dị đoan, bệnh tật, nếp sống và sự hiểu
biết còn quá thấp nên ông quyết định dâng mình cho công cuộc truyền giáo miền thượng du.
Trong số các môn sinh Trường Kinh Thánh lúc đó có bà Huỳnh Thị Hoàng, con của cụ Mục sư
Huỳnh Kim Luyện, một con người đầy dịu dàng, kiên nghị và luôn có chí hướng hầu việc Chúa giữa
vòng người nghèo khổ. Bà đã từ lâu muốn hầu việc Chúa trên miền thượng du, và cũng đã hứa
nguyện đi vào công trường thuộc linh này. Do cùng một chí hướng hầu việc Chúa giữa người dân
tộc ít người này và bởi sự giới thiệu của cụ Mục sư Hiệu trưởng Trường Kinh Thánh Đà Nẵng Ông
Văn Huyên, hai ông bà đã yêu mến nhau và quyết định tiến tới hôn nhân ngày 28.4.1952 tại Đà
Nẵng trong nỗi vui mừng của họ hàng hai bên cùng toàn thể thành viên Trường Kinh Thánh và Hội
thánh.
3. Hầu việc Chúa
Tháng 9.1952, ở tuổi 26, ông cùng bà lên Ban Mê Thuột và tá túc tại nhà của Mục sư Truyền giáo
Nguyễn Hậu Nhương để học tiếng Êđê và Mnông. Tháng 11.1953, sau 1 năm học tiếng, theo sự phân
công của Hội Thánh, hai ông bà đến cơ sở truyền giáo tại Daksong tham gia hầu việc Chúa cùng với
vị truyền đạo trẻ người Mnông tên là Y-Brông.

77


(Ảnh: Album gia đình)

Cơ sở Truyền giáo Đaksong: Nhà thờ được xây dựng năm 1948, cung hiến năm 1950. Bên phải:
tư thất Truyền đạo Y’Brông, bên trái: tư thất MS Lê Khắc Cung xây dựng sau khi đến nhận nhiệm sở

năm 1953. Bìa rừng bên trái:vườn trồng màu. Phía trước: đường đi tới Gia Nghĩa. Phía sau sâu
xuống dưới: suối nước.

Cơ sở truyền giáo mới chỉ có nhà thờ và tư thất của thầy Truyền đạo Y’Brông nên ông bà tạm
trú ở một căn phía sau nhà thờ. Sau đó, ông cùng với một vài người bắt tay vào việc xây dựng nhà
ở. Ông khá khéo tay nên đã tự đóng lấy tủ, giường, bàn ghế cho đỡ tốn kém.

Với chiếc xê đạp cũ và sau này là chiếc mobilêttê cũ, ông cùng với thầy Truyền đạo Y’Brông và
vài tín hữu người Mnông đi vào các buôn làng nằm sâu trong rừng để truyền giảng lời Chúa cho
người Mnông, nhiệt thành khuyên lơn và hướng dẫn đồng bào Mnông thay đổi lối sống, từ bỏ mê
tín dị đoan, không sợ hãi ma quỷ, bỏ rượu chè, “trở lại lấy tâm linh thờ phượng Chúa và xây dựng
cuộc sống theo nếp văn minh tiến bộ”. Do sự tích cực này mà viên quận trưởng người Pháp nghi
ngờ ông là Việt Minh và liên tục theo dõi. Tuy nhiên, mấy năm đầu công việc Chúa tiến triển rất
chậm.

Mãi đến năm 1957 mới bắt đầu có kết quả, bắt đầu từ làng Bu Ruah với 120 tín hữu và sau đó
là làng người bệnh phung Dak Rtih.

Quãng đời sống và hầu việc Chúa 8 năm tại Daksong để lại dấu ấn sâu đậm cho ông bà đến nỗi
cho đến giờ phút đau ốm nằm trên giường bệnh, ông bà vẫn nhớ như in từng chuỗi sự kiện gây thật
nhiều ấn tượng cho các con cháu. Không thể quên được lúc ông cùng vài anh êm nhét xê đạp vào
một bụi cây rậm vên đường để luồn rừng vào sâu trong các làng hàng tuần liền giảng đạo và hướng
dẫn cải sửa lối sống cho đồng bào Mnông.Sẽ không thể quên được những lúc liều mình đón nhận
săn sóc và nuôi dưỡng mẹ con người Mnông bị kết án là Ma-lai bị đổ chì lòng bàn tay, hay cố thuyết
phục viên quận trưởng người Pháp cấp tốc cùng đi vào làng sâu cứu lấy những người Mnông bị
nghi là Ma-lai sắp bị bách hại. Sẽ không thể quên được cảnh một trong những tín đồ Mnông đầu
tiên có đức tin mạnh mẽ đến nỗi đứng giữa đường cầu xin Chúa làm cho đừng mắc mưa để đi lo
công việc nhà Chúa, và kết quả anh ta đi đến đâu mưa tạnh ráo đến đó trong khi mưa ào ạt vây phủ
xung quanh. Sẽ không thể quên được những lúc ông đạp xê đổ dốc gặp voi, gặp cọp, những lúc đàn
voi dữ trong đêm về giày đạp nguyên vườn rau trái quanh tư thất khu truyền giáo. Cũng sẽ không

78


quên lần đang trên đường đi Đà Nẵng dự Hội đồng bị lên cơn sốt rét rừng tưởng như qua đời nếu
không được Chúa cứu, v.v…

Năm 1961, tỉnh Quảng Đức được thành lập, thủ phủ đặt tại Gia Nghĩa. Đaksong trở thành một
quận của tỉnh Quảng Đức. Vì không thể đủ sức đi đi lại lại kiêm lo cho cả Gia Nghĩa nên ông dời cơ
sở truyền giáo về Gia Nghĩa vào tháng 11.1961. Trách nhiệm lại càng nặng hơn. Tỉnh Quảng Đức có
nhiều khu tập trung dân cư gọi là dinh điền, ông nhận thêm trách nhiệm đi thăm và giảng đạo cả
cho đồng bào người Kinh và tín hữu ở các nơi như Đức Ân, Sùng Đức, Nghi Xuân, Đạo Nghĩa,…

(Ảnh: Album gia đình)
Cơ sở Truyền giáo Gia Nghĩa (1961).
Cuối năm 1962, ông tổ chức hai lớp Kinh Thánh đoản kỳ và sau đó Hội Thánh bắt đầu phát triển
mạnh với 2 Hội Thánh nòng cốt là Bu Ruah và Dak Rtih. Các Ban Chứng đạo từ Hội Thánh Dak Rtih
dâng 1/10 thì giờ (3 ngày mỗi tháng) đi làm chứng dọc theo quốc lộ. Số tín đồ từ hơn 400 tăng lên
đến gần 2.000 người.
Tháng 11.1962 (36 tuổi), Ban Trị sự Tổng liên hội đột ngột yêu cầu ông bà thuyên chuyển ngay
về Banmêthuột để thay thế MS Nguyễn Hậu Nhương chuyển đi nơi khác. Dù bất ngờ và không mấy
bằng lòng trước sự thay đổi này vì nhiều lý do, ông bà vẫn tuân theo sự xếp đặt của Hội thánh. Tại
Ban Mê Thuột, ông được Hội Thánh giao cho 3 nhiệm vụ: (1) tiếp nối công cuộc truyền giáo cho
dân tộc Êđê; (2) tham gia giảng dạy tại Trường Kinh Thánh (đã được thành lập mấy năm trước đó
và đang do MS Y Hăm Niê Hrah, chủ nhiệm Trung Thượng hạt làm Hiệu trưởng); (3) kiêm nhiệm
Giám đốc Hành chánh Bệnh viện Phung Êa Âna (sau này đổi tên thành Trung tâm Bài trừ Bệnh
Hansen Êa Ana, Trung Tâm Bài Cùi Ban Mê Thuột và Chẩn Y viện Da Ban Mê Thuột). Trong thời
gian hầu việc Chúa tại đây, hàng loạt cơ sở đã được xây dựng hay sửa chữa: xây mới nhà thờ Tin
Lành cổng số 1 (Chi hội Buôn Alê A); xây mới, mở rộng và trang bị thêm cho cơ sở Trung tâm Bài
Cùi; xây sửa cơ sở Trường Kinh Thánh, v.v… Không chỉ có vậy, ông tham gia sửa chữa bản in Kinh
Thánh tiếng Êđê, tham gia biên soạn bài học giảng dạy Trường Kinh Thánh bằng tiếng Êđê.

79


Trường Kinh Thánh Thượng (trái) và nhà thờ Hội Thánh Êđê, Cổng số 1 Ban Mê Thuột (phải)
(Ảnh: Millie Ade)

Trung tâm Bài Cùi: Khu Hành chánh tại Ban-mê-thuột (trái) và Khu Nội trú bệnh nhân nặng tại
làng Êa Ana (phải) (Ảnh: Millie Ade)

Công việc Chúa tại nơi mới này thật không dễ dàng chút nào làm cho ông bà lao tâm khổ trí
nhiều. Về mặt giáo hội, ông vừa lo đẩy mạnh công việc truyền giảng cho người dân tộc, vừa lo giúp
Hội thánh đứng vững trước đạo lạc, vừa giúp Hội thánh tránh khỏi ảnh hưởng của các tư tưởng
chia rẽ, vừa giúp củng cố việc tuân thủ giáo luật trong các Chi Hội còn non trẻ, vừa giúp xây dựng
giáo trình giảng dạy Kinh Thánh sao cho phù hợp với các đầy tớ Chúa người dân tộc vốn khó tiếp
thu do trình độ học vấn còn rất thấp và có nền văn hóa khác biệt. Về mặt xã hội, ông vừa nỗ lực lo
lắng việc tìm nguồn kinh phí, đảm bảo nuôi dưỡng, giúp đỡ mọi mặt của cuộc sống hàng ngày của
mấy mươi người bệnh phong nặng cần chăm sóc tập trung; vừa giúp các bệnh nhân phong khác tái
hòa nhập đời sống xã hội, thực hiện đường hướng xã hội hóa việc điều trị và chăm sóc bệnh nhân
phong ngay từ những năm 1960 trong bối cảnh chưa có thuốc điều trị hữu hiệu bệnh phong trong
thời gian ngắn. Cho đến những năm 1960, đã không còn nữa cảnh tượng bệnh nhân phong bị dân
làng xua đuổi vào rừng già, cách ly khỏi buôn làng, bỏ mặc sống chết do quan niệm sai lầm về bệnh
phong.

Chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 nổ ra ác liệt ngay trong khu truyền giáo vì nằm sát hàng rào
phòng thủ của quân đội (Sư đoàn 23). Giữa hai làn đạn, ông bà và gia đình cùng với các bệnh nhân
phong vốn nghèo khổ và bị ruồng bỏ đã được Chúa bảo vệ trải qua bảy ngày liền cận kề gang tấc
với cái chết lẫn cái đói trong tầng dưới và trong hầm tránh đạn của tư thất truyền giáo. Tuy vậy,
cũng đã có hai bệnh nhân phong tử thương. Máu của họ đã thấm ướt quần áo từng người trong gia
đình ông bà. Sau đó khu truyền giáo và bệnh viện phung trở thành khu oanh kích tự do của máy
bay ném bom và toàn bộ cơ sở bị tan hoang, các phương tiện trang thiết bị điều trị chăm sóc bệnh
nhân bị phá hoại và trộm cắp gần như tất cả, các Y sĩ và nhân viên bệnh viện người tử thương, kẻ

80


bị thương, người mất tích. Sáu Giáo sĩ tử nạn.Công việc Chúa tại Trung tâm Bài Cùi gần như phải
làm lại từ đầu. Đã vậy, sau cuộc chiến, trong Hội Thánh lại có người ác ý tố cáo ông có vai trò trong
việc các Giáo sĩ bị tử thương!

Công việc Chúa tưởng chừng như quá sức chịu đựng, đến nỗi đôi lúc ông phải thốt lên cùng gia
đình “ước gì được trở lại vùng dân tộc Mnông để hầu việc Chúa như trước, có cực khổ nhưng vui”. Tạ
ơn Chúa đã dùng nhiều cách để dứt dấy và thanh lọc Hội thánh.

4. Học tập cải tạo

Sau ngày hòa bình,nhà nước tiếp quản toàn bộ cơ sở Trung tâm Bài Cùi. Toàn bộ các hoạt động
của Hội thánh và trường Kinh Thánh bị buộc ngưng hoạt động và dần dần cũng bị tiếp quản.

Năm 1977 (51 tuổi), Nhà nước đưa ông đi học tập cải tạo tại Mewal (thuộc tỉnh Daklak) trong
6 năm 4 tháng. Cùng với ông còn có hầu hết các đầy tớ Chúa và nhiều Chấp sự các Hội Thánh. Trong
trại cải tạo, do tư cách tác phong của một đầy tớ Chúa, ông được tín nhiệm giao làm nhiều công việc
khác nhau và công việc làm lâu nhất là bếp trưởng. Trong vị trí này, ông có nhiều cơ hội giúp đỡ
những người đau ốm, khốn khó trong trại. Ông cùng với các bạn đồng lao và tín hữu trong trại lập
thành nhóm nhỏ lén nhóm nhau lại để thờ phượng Chúa hàng tuần và khích lệ nhau bằng Lời Chúa
tùy theo trí nhớ của mỗi người. Nhiều sĩ quan chế độ cũ cùng trại sau này khi được thả đã làm
chứng nhiều điều tốt đẹp về đời sống của ông trong trại và biết đến Chúa qua lời làm chứng của
ông. Quãng thời gian này đã biến đổi ông khá nhiều khiến cho gia đình và những người thân quen
cũng phải ngạc nhiên. Từ chỗ là một con người chỉ biết viết lách, giảng đạo bằng lời nói và hoạt
động xã hội, ông đã trở nên một người có nhiều “tài vặt”. Ông biết đan lát thúng rổ rá,biết xay bột,
làm bánh tráng; biết đẽo gọt thủ công các mảnh nhôm hay gỗ thành dụng cụ thường dùng hàng
ngày như lược, vòng đêo, thước; biết cuốc đất trồng trọt,biết đan lưới cá; biết nấu ăn nhiều món
bình dân mà lại rất ngon (!); v.v…

Sau một thời gian,gia đình ông được yêu cầu rời khỏi khu truyền giáo. Lúc này, thân sinh của
bà là cụ Mục sư Luyện vì thương người con gái duy nhất còn lại trong nước đã dời nhà từ Đà Nẵng
vào hỗ trợ con cháu mua lại một mảnh đất ở cầu 14 giữa vòng người sắc tộc Thái. Các con tự tay
dựng nhà thô sơ và cả gia đình dời về khu vực cầu 14, nay thuộc xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma
Thuột. Trong thời gian này, hai người con đầu của ông bà đang học ở Sài Gòn không về được, bà và
3 người con còn lại phải tự túc sinh sống bằng nghề nông trên đất mượn hay thuê của người khác
rất xa nhà và bằng nghề mộc của người con trai thứ ba.

Trong thời gian đó,việc thờ phượng Chúa gần như bị cấm hoàn toàn. Ngay cả gia đình lễ bái
cũng không thể hát lớn. Hội Thánh trở nên thầm lặng. Nhiều con cái Chúa bị hại chỉ vì tụ họp thờ
phượng Chúa dù chỉ không tới mươi người. Người con gái duy nhất của ông bà đang là học sinh
phổ thông cũng bị bắt giam không xét xử vì cùng với các bạn cùng niềm tin họp nhau học Lời Chúa.
Sau mấy tháng được trả tự do với phần lý do bị bắt trong Phiếu Tạm tha vẫn để trống!

5. Hầu việc Chúa tiếp tục

Năm 1983, ông được trả về ngày “24.10.1983, sau 6 năm 4 tháng 20 ngày”, lúc này đã được 57
tuổi. Do còn thời gian quản chế, thêm kinh tế gia đình vô cùng khó khăn lúc bấy giờ cùng với tình
hình chung của đất nước, ông vừa tham gia làm ruộng rẫy, vừa tìm cách đi thăm viếng con cái Chúa.
Lúc ấy ông muốn đi bất cứ đâu, kể cả ra thành phố đi chợ cũng phải xin phép. Việc nhóm lại thờ
phượng Chúa hoàn toàn bị cấm. Thậm chí gia đình lễ bái đôi khi cũng bị làm khó dễ. Ông vốn là một
người hoạt động, vì vậy buổi đầu sau khi trở về từ trại cải tạo, ông luôn buồn bã đến mức muốn rời

81


bỏ chức vụ vì không thể đi đây đó hầu việc Chúa như ý nguyện. Chúa đã dùng bà và các con nâng
đỡ khích lệ tinh thần ông thật nhiều. Dần dà, ông lấy lại tinh thần xưa và tiếp tục tìm dịp thăm viếng
giúp đỡ con cái Chúa bằng nhiều cách. Việc được nhà chức trách mời lên viết Bản Tự kiểm là việc
gần như cơm bữa.Bất cứ biến cố lớn hay nhỏ gì xảy ra giữa vòng các Hội Thánh người dân tộc ông
cũng được gọi lên làm việc. Tuy vậy, ông vẫn âm thầm làm chứng bất cứ ki nào có dịp nhất là đồng
bào sinh sống xung quanh. Dần dà một Hội Thánh nhỏ được âm thầm gây dựng ngay tại nhà ông bà
với vài mươi tín hữu vừa người Thái, vừa người Kinh trong khu vực. (Ngày 25.11.2006, sau khi ông
qua đời 5 năm, Chi hội Hòa Phú, thường được gọi là Phú Thái, được chính thức công nhận là điểm
nhóm. Đây là Hội Thánh cuối cùng mà ông trực tiếp chăm lo trong cuộc đời hầu việc Chúa của ông).

Thủ bút của MS Lê Khắc Cung

ở mặt trước quyển Thánh ca có được sau khi ra trại cải tạo.

(Ảnh: Album gia đình)

Ông tận dụng mọi cơ hội để có thể đi thăm viếng, chăm sóc tín hữu Kinh lẫn Thượng. Các cơ hội
đó có thể là đi chợ, đi dự đám tang, đám cưới, tiệc tân gia, mừng thôi nôi, ngày Tết,…Hội Thánh
Chúa có một đặc điểm: càng gặp khó khăn, càng phát triển mạnh mẽ.

Tháng 9 năm 1990,Chúa cho có cơn phục hưng bắt đầu từ con gái của một Mục sư người Ê-đê
và các Hội Thánh bắt đầu khôi phục hoạt động sau nhiều năm âm thầm thịnh suy. Số tín hữu từ con
số vài mươi ngàn đến năm 1993 tăng lên đến hơn 100.000 mà không có người chăn bầy nào ngoài
các con cái Chúa sốt sắng tự đứng lên xây dựng Hội Thánh. Thấy nhu cầu lớn lao về người chăn bầy,
được sự ủng hộ của Ban Trị sự Tổng Liên hội,ông cùng các Mục sư khác mở các lớp Kinh Thánh
thầm lặng để có người chăm sóc các Hội Thánh.

Được sự nhất trí của Nhà Nước, ngày 13.10.2000, ông trở thành một trong 25 thành viên Ban
Vận động của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) để xúc tiến việc chuẩn bị cho Đại Hội đồng
Tổng Liên hội. Từ đó, công việc trở nên tất bật hơn bao giờ hết khiến cho căn bệnh tim mạch tiềm
tàng của ông trở nên nặng nề hơn đến nỗi đôi lúc khiến ông không thể đi lại nổi. Các buổi họp liên
miên, các chuyến đi lại như con thoi giữa Banmêthuột, Tp.HCM và các nơi khác làm cho ông xuống
sức nhanh chóng. Điều kỳ lạ là mỗi khi làm việc thì không thấy mệt, chỉ khi ngưng lại mới thấy rõ
bệnh đến nỗi có người cảm giác giống như bệnh giả đò. Chỉ trong giới y khoa mới biết rõ gần như
toàn bộ tạng phủ của ông đều có vấn đề. Các con và Bác sĩ không làm cách nào để ông nghỉ ngơi thật
sự được. Ông tận dụng mọi cơ hội nhóm họp để đi gặp gỡ lo cho Hội thánh Tây nguyên đến nỗi các
đầy tớ Chúa trong Ban Vận động phải kêu lên với gia đình ông: “Ông cụ làm việc dữ quá, lúc nào
cũng chỉ nghĩ đến Hội Thánh người dân tộc!”

82


Trong lúc đó lại xảy ra biến cố ngày 03.02.2001, ông được chính quyền mời đi tham gia giải
quyết và sau đó vài lần nữa đã lấy đi khá nhiều sức lực của ông.

Ngày 3 tháng 4 năm 2001, tại Đại Hội đồng Tổng Liên hội, ông được bầu vào chức vụ Ủy viên
Tổng Liên hội. Ngày Hội đồng cũng là ngày Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) đón nhận tư
cách pháp nhân cũng như kỷ niệm 90 năm Tin Lành đến Việt Nam và cũng là ngày kỷ niệm tròn 75
tuổi của ông.

Sau đó, sức khỏe ông xuống nhanh chóng. Có lần trong khi đang nằm thở dốc mệt nhọc, ông
chợt cười khì và nói với con cái: “Ước gì Ba về với Chúa thì dễ chịu quá!”. Ông đã có ý định mạnh mẽ
và không dưới ba lần nói với con cháu sẽ nộp đơn xin nghỉ hưu “vào buổi họp Ban Trị sự Tổng Liên
tới” nhưng buổi ấy đã không còn có ông nữa. Chúa đã đón ông đi cách đột ngột sau một cơn nhồi
máu cơ tim cấp lúc 01g00 sáng ngày 23.5.2001 tại Sàigòn. Những ngày gần cuối đời, ông bà thường
bày tỏ cho gia đình và êm của ông, Mục sư Lê Khắc Tuyển, là được sống và chết giữa đồng bào dân
tộc, được nằm lại giữa vòng người dân tộc mà ông yêu mến hết lòng. Khi đưa thân xác ông từ bệnh
viện về nhà người con thứ hai để chờ chuyển về Ban Mê Thuột, không ai chỉnh sửa được nét mặt
yên bình, rạng rỡ, hai mắt hé nhìn và môi nở nụ cười mãn nguyện của ông. Khuôn mặt của ông thể
hiện lúc qua đời thật phù hợp với tâm tình của Phao-lô rằng: “Tôi đã đánh trận tốt lành, đã xong sự
chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên để dành cho tôi và cũng cho mọi kẻ yêu mến sự
hiện đến của Ngài”. Yên bình!

Ông về nước Chúa để lại bà, 4 con trai, 4 con dâu, 1 con gái và 5 cháu nội. Với con cháu, ông
bảo:“Ba chẳng để gì lại cho các con ngoài đức tin trong Chúa”. Bà mặc dù bệnh tật cũng đã cố gượng
dậy tham gia công việc Hội Thánh Phú Thái. Các con vẫn đang tiếp nối công việc của ông qua những
công tác khác nhau trong các Hội Thánh mà mình đang sinh hoạt. Trong gia đình và dòng họ nội
ngoại kể từ cụ thân sinh của ông, đã có 6 Mục sư và nhiều Chấp sự. Câu gốc của cả gia đình ông từ
khi hai ông bà lập gia đình và đi truyền giáo cho đến cuối đời là “Ta và nhà ta phục sự Đức Giê-hô-
va”.

Ông đã hầu việc Chúa một cách âm thầm, không muốn phô trương tên tuổi. Nhiều lần ông im
lặng khi nghê các con đề nghị ông nghỉ hưu, viết hồi ký. Và ông hay lập lại với các con rằng thành
quả của Hội Thánh hiện nay không phải do ông mà “do Đức Thánh Linh làm” cũng như do công sức
của rất nhiều anh êm đồng lao cũng như tín hữu người dân tộc. Ông bảo công của ông “nào có đáng
gì!”

Cho đến trước khi nhắm mắt, ông vẫn hoàn toàn minh mẫn, nhớ tên rất nhiều người, từng người
một, nhất là các cộng sự người dân tộc của ông trên công trường thuộc linh. Những lần ngồi cùng
người con trai đầu trên ghế đá trong sân bệnh viện, ông thường hay vừa thở dốc vừa kể về tính khí,
ưu nhược của từng người trong số họ. Mệt thở dốc nhưng vẫn say sưa kể về họ mà không nói chút
gì về mình. Ông chỉ có mỗi một chí hướng là xây dựng thân thể Đấng Christ được lớn mạnh và trọn
vẹn và để nước Ngài được mau đến.

Ghi chú

Tài liệu này được viết chủ yếu dựa trên những lời kể của ông và bà Mục sư Lê Khắc Cung rải rác
trong nhiều năm vào những lúc chuyện trò trong gia đình cũng như ký ức của các con. Có tham khảo
thêm vài nội dung trong các tài liệu sau:

1. Đỗ Hữu Nghiêm – Đạo Tin Lành du nhập vùng Nam Trường sơn - Tây nguyên Việt Nam. Delta
Press,2005 (tài liệu biên tập lại).

83


2. Lê Hoàng Phu – Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1911-1965). Nxb Tôn giáo, 2010.
3. Nguyễn Thanh Xuân – Bước đầu tìm hiểu đạo Tin Lành trên thế giới và ở Việt Nam. Nxb Tôn
giáo, Hà Nội, 2002 (lưu hành nội bộ).

L.H.S.

Bà Mục sư LÊ KHẮC CUNG

(Nhũ danh: HUỲNH THỊ HOÀNG)
(1928 – 2004)

Truyền giáo cho sắc tộc Mnông và Êđê

A. Thiếu thời (nhỏ – 16 tuổi)
Bà Mục sư Truyền giáo Lê Khắc Cung, nhũ danh Huỳnh Thị Hoàng, sinh ngày 15.8.1928, tại Hoà
An,Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Bà là con thứ ba và là người con khá đặc biệt trong số 11 người con
của cụ Mục sư Huỳnh Kim Luyện vốn dòng dõi gia giáo theo truyền thống Nho học có thêm Tây học.
Bà luôn phải di chuyển thêo gia đình cụ thân sinh trong chức vụ hầu việc Chúa. Bà bắt đầu được
đi học từ lúc 7 tuổi (1935) tại Huế, 10 tuổi (1938) tại Thái Bình, 15 tuổi (1942) về Hải Phòng và
đậu bằng Sơ học Bổ túc khóa 1944 (tương đương lớp 6) vào cuối năm 16 tuổi.
Sau đó, bà xin thân phụ 8 đồng để học thi ở căn nhà đối diện được 1 tháng. Đến tháng thứ nhì,
xin tiền học tiếp thì thân phụ bảo đã quên nên đưa hết tiền cho thân mẫu rồi và bảo xin thân mẫu.
Thân mẫu (vốn chỉ học đến lớp Hai) rầy la và bảo: “Học làm gì cho nhiều, má không học mà cũng
sống được. Má lấy ba rồi mới đi học chữ để đi học Kinh Thánh”. Sau đó không cho tiền nên bà ở nhà
giúp việc nhà. Một ngày nọ,thân mẫu sai bà rửa 10 chai thủy tinh để lọc nước bằng bông gòn. Khi
súc rửa bằng xà-bông với cát, vì trơn nên bể mất một chai. Bà bị thân mẫu la rầy dữ dội “Đồ ăn bám!
Không làm ra còn phá!” Bà rất buồn nên nuôi chí kiếm việc làm nuôi thân.
Ngay từ nhỏ, bà đã tỏ ra có nhiều năng khiếu về nhiều lĩnh vực gần giống như thân phụ. Bà vẽ
rất giỏi,biết nặn tượng đúng phương pháp, biết sử dụng nhiều loại đàn như phong cầm
(harmonium), accordéon (thủ phong cầm), mandolin, banjo. Cho đến nay các con còn giữ vài bức
vẽ phác cảnh nhà thờ lúc tản cư mà nhờ nó biết nhà thờ lúc đó ra sao. Bà hát rất chuẩn nốt nhạc.
Bà còn rất khéo tay trong công việc dao kéo,thêu thùa, may vá, đan lát, cũng như làm thủ công, xếp
giấy origami, v.v… Bà thường tự tay may lấy đồ mặc cho chính mình, biết cách sửa đồ cũ thành đồ

84


giống như mới. Vì tính thích hoạt động, thích làm việc nên bà tham gia tích cực vào các hoạt động
thanh niên thiếu nhi trong Hội Thánh.

Bà cũng là người rất bạo dạn. Có lần, lúc đó là thời chạy loạn giặc Pháp, người em kế của bà
đau,thân phụ sai bà đến nhà thầy thuốc cách đó một ngày đường lấy thuốc. Thân mẫu nắm cơm cho
bà đêm thêo và bà đi bộ một mình từ sáng sớm đến tối mịt mới tới nơi.Sau khi nghe kể bệnh tỉ mỉ,
thầy thuốc giữ bà lại nghỉ đêm, sáng sớm hôm sau hốt thuốc và nắm cơm cho bà mang đi đường
trở về. Cũng lại hết chẵn một ngày!

B. Giai đoạn đi làm (17-21 tuổi – 1946-1949):
Lúc đó, gia đình cụ Mục sư Quốc Phúc Hòa vốn rất nghèo, cụ bà đau, cụ ông nhờ thân phụ của
bà phái một trong 3 cô con gái sang giúp chợ búa nấu nướng. Chị của bà không chịu đi với lý lẽ “Âi
nhờ may thì được chứ làm đầy tớ thì không!” Thân phụ bà bảo “Hoàng đi!”. Bà đồng ý ngay vì bà
vốn không từ nan bất kỳ công việc gì, hơn nữa, bà cho rằng đó cũng là hầu việc Chúa. Bà chỉ lo đi
chợ nấu nướng, còn hai con trai của cụ MS Hòa lo dọn rửa. Bà ăn cơm trưa ở nhà cụ MS Hòa xong
thì về. Chiều lại đến nấu rồi về. Công việc đầy tớ giúp việc nhà được 10 ngày thì xong vì bà cụ Hòa
khỏi bệnh.

Hình bà vẽ nhà thờ ở nơi tản cư “Hội Tin Lành làng Chợ Yên – La Tỉnh, Hải Dương” ngày
06.10.1947. Bà kể gia đình MS Luyện sống ở phần bên trái. Chỗ cửa sổ là nơi chị em bà may vá kiếm

tiền tự túc những ngày tản cư.
(Ảnh chụp lại từ album gia đình)
Cụ MS Quốc thấy bà trung tín, chịu khó, gia cảnh lại nghèo nên giới thiệu bà đi dạy tiếng Pháp
cho vợ của một người Pháp, tiền công là 8 đồng mỗi tuần, với yêu cầu dạy làm sao cho nói chuyện
được với chồng. Bà này người Hoa, không biết tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Bà dùng sách vỡ lòng tiếng
Pháp để dạy. Nhưng vì bà không biết tiếng Hoa nên cụ Quốc bảo 2 người con trai đọc tiếng Hoa cho
bà viết phiên âm từng bài một để dạy. Tháng đầu tiên đêm tiền về, thân mẫu của bà hết sức vui
mừng làm bánh xèo đãi cả nhà. Bao nhiêu tiền làm ra bà đưa hết cho thân mẫu. Làm công việc giáo
viên dạy tiếng Pháp được 2 tháng thì mất việc vì bà người Hoa theo chồng về Pháp.
Sau đó ông thư ký Hội Thánh Hải Phòng tên là Công, thêo địa chỉ tìm người trên báo, giúp giới
thiệu bà đến tiệm vải Chà-và Ấn-độ xin việc. Bà được nhận làm công việc bán vảivới mức lương 600

85


đồng một tháng. Bà trung tín trong việc buôn bán, biết chủ động khuyến mãi, hoặc bán rẻ một phần
vải “đầu thừa đuôi thẹo”, hoặc cắt ra và cất đi để bán làm túi quần tây, quai nón, lưng quần, v.v… Bà
trung tín ghi chép đầy đủ việc sử dụng số vải thừa đó và không đồng ý với các đồng nghiệp thường
hay biển thủ chúng. Bạn đồng nghiệp chủ trương làm đủ giờ là được nên thường đến và về đúng
giờ. Riêng bà lại thường đi sớm đứng chờ mở cửa để vào có thể làm ngay và chỉ về khi hết khách.
Bà quan niệm làm hết việc chứ không hết giờ. Có một lần ế khách, chủ nóng tính rầy la xúc phạm
đến bà, bà liền xin nghỉ việc sau gần 1 năm làm việc và cương quyết không trở lại mặc dù chủ xin
lỗi,năn nỉ, hứa không rầy la và trả thêm lương.

Sau việc đó, cụ MS Quốc lại giới thiệu bà đến làm việc tại một tiệm chụp hình Kodak ở phố Tàu
với công việc là ghi “bông” (phiếu đặt hàng và thanh toán) vì bà biết chút ít tiếng Pháp. Sau một
thời gian, tiệm dời sang phố Tây. Bà chủ tiệm mỗi ngày cho đầy tớ gái mang 100 đồng lẻ giao cho
bà để thối tiền cho khách. Có một lần không thấy cô đầy tớ đêm tiền lẻ qua, bà linh động xin khách
đổi tiền lẻ để trả. Đến chiều,bà chủ tiệm xuống, bà nộp tiền thu được trong ngày cho bà chủ. Bà chủ
liền hỏi số tiền lẻ 100 đồng. Cả bà và cô đầy tớ đều bảo bà chủ quên đưa. Bà chủ la mắng thậm tệ và
nghi bà ăn cắp, đòi xét túi, xét người. Cả cô đầy tớ cũng bị mắng chửi.Bà nổi giận nói thẳng và nghỉ
việc. Bà lại tiếp tục thất nghiệp. Tuy nhiên, công việc tại tiệm chụp hình gần 1 năm đó lại giúp bà
biết thêm đôi chút về công việc chụp và rửa hình.

Tiếp đó, bà lại được ông thư ký Công giới thiệu đến một hãng xuất nhập khẩu của 2 ông chủ
người Pháp (tên hãng là Sáng Ký?). Bà rất lo lắng vì tiếng Pháp không giỏi và công việc dường như
quá sức bà, nhưng bà vẫn cứ nhờ làm giúp đơn xin việc, miễn là có việc làm để không bị xêm là ăn
bám. Kết quả bà được nhận việc ngay, công việc là kế toán vì kế toán trưởng của hãng vừa nghỉ việc.
Mức lương là 1.000 đồng mỗi tháng.Thân phụ bảo bà chỉ cần làm 300 đồng là đủ nuôi thân mình
rồi.

Người bà tuy rất dễ nhìn nhưng lại sống rất đơn giản. Bà kể lại, thời gian đó bà phải đi về bằng
xê đạp và tránh đường lớn vì đám thanh niên hay thêo đuổi. Tại hãng có một nhân viên nam ngồi
kế bên tên là Đức, thêo đạo Công giáo, để ý và thương bà (Sau này, khi bà đã đi học Kinh Thánh
được 1 năm trở về nghỉ hè, anh ta đến xin cưới).Anh ta bảo bà phải sửa soạn cho đẹp. Bà không
chịu, chỉ thích đơn giản, không uốn tóc và cả năm đi làm chỉ với một đôi guốc mộc. Lúc đó, chỉ có cô
em kế biết sở làm của bà ở đâu vì cho bà mượn áo dài mặc đi làm. Bà đi làm mặc áo dài cho ấm hai
chân thay vì mặc đồ đầm. Bà chỉ có 3 chiếc áo dài: đên, trắng và xanh. Mãi sau này, chị của bà cũng
là thợ may, may hư một áo dài hồng nên bà mua lại để dùng. Cũng có một nhân viên khác tên Huy,
theo Phật giáo, chơi bời nhiều và cứ bám riết theo bà.

Công việc kế toánthật khó, nhưng bà luôn tự tìm tòi học hỏi. Bà bảo “trường đời dạy bà biết
phép thử toán cộng. Cộng theo hàng ngang, bỏ đi 9 lần lượt các số liệu; cộng hàng ngang và lấy số
thành bỏ đi 9; nếu hai số dư giống nhau thì là toán đúng”.

Sau hai năm làm việc, bà được Chúa cảm động dâng mình hầu việc Chúa và vào học trường Kinh
Thánh. Bà nhờ ông thư ký Công giúp xin nghỉ việc. Ông chủ người Pháp tìm hiểu lý do và bảo nếu
vì tiền thì sẽ tăng lương để bà ở lại làm việc. Bà giải thích ý muốn hầu việc Chúa của mình và vẫn
xin nghỉ. Ông chủ bảo bà: “cửa văn phòng vẫn mở chờ 2 năm nữa, nếu bà học xong trở về làm việc
vẫn tiếp nhận”.

Như vậy, trong 4 năm, bà đã trải qua công việc đầy tớ giúp việc nhà, đi dạy tiếng Pháp, buôn
bán vải, nhân viên tiệm chụp hình và nhân viên kế toán để nuôi thân và giúp gia đình chỉ vì không
muốn trở thành “người ăn bám”.

86


C. Học trường Kinh Thánh và lập gia đình (22-24 tuổi – 1950-1952):

Tâm chí muốn hầu việc Chúa của bà bắt đầu có từ lúc bà chưa tới 10 tuổi, lúc thân phụ của bà
hầu việc Chúa ở Huế. Một lần bà được theo thân phụ đi giảng Nô-ên cho tín đồ người sắc tộc Ka-tu.
Bà chịu cảm động khi được một tín đồ Ka-tu dẫn đường dạy hát tiếng Ka-tu bài “Hãy tin Cứu Chúa
Giê-xu Christ để cả nhà được cứu” và khi thấy tình cảnh của tín đồ Ka-tu bà bắt đầu nuôi ước muốn
đi hầu việc Chúa vùng Thượng du. Lòng cảm động đó đã thôi thúc bà từ đó cho đến khi bà dâng
mình đi học trường Kinh Thánh hơn mười năm sau đó.

Gần kỳ nghỉ hè năm thứ nhất tại Trường Kinh Thánh, cụ Mục sư Viện trưởng Ông Văn Huyên
hỏi nguyện vọng của bà khi ra trường và biết bà muốn đi truyền giáo vùng cao nguyên. Cụ bảo
không có qui chế cho nữ đi truyền giáo. Bà thất vọng không ít. Sau ít lâu, cụ bảo có cách, đó là lập
gia đình với người cùng chí hướng. Rồi cụ giới thiệu bà với một người cũng muốn đi truyền giáo,
học trước bà 2 năm, đó chính là ông sau này, Mục sư Truyền giáo Lê Khắc Cung. Sau 10 ngày suy
nghĩ, gặp lại cụ Viện trưởng,bà vẫn chưa có quyết định. Cụ hối thúc: “Nếu không thì tùy ý Chúa dùng
chứ không thể đi truyền giáo được”. Và cuối cùng bà chấp nhận, quyết định lập gia đình cùng với
ông. Năm sau, ngày 28.04.1952, hai ông bà trở về trường Kinh Thánh làm lễ cưới. Cụ Viện trưởng
thay mặt cho đàng trai, bác của bà đại diện cho đàng gái, cụ giáo sĩ Olsên làm lễ và đãi tiệc tại bếp
ăn nhà trường. Thế là bà gần như thỏa được mong ước được đi hầu việc Chúa ở vùng Thượng du.

D. Hầu việc Chúa (25-76 tuổi – 1952-2004)

Năm 25 tuổi, bà cùng ông lên Banmêthuột và tá túc tại nhà của MSTG Nguyễn Hậu Nhương để
học tiếng Ê-đê, sau chuyển sang tiếng Mnông theo yêu cầu của Hội thánh.

Sau 1 năm học tiếng,bà thêo ông đến cơ sở truyền giáo tại Daksong để tham gia công việc truyền
giáo cùng với vị truyền đạo trẻ người Mnông là Y-Brông. Tại Daksong, bà thỉnh thoảng cùng ông đi
vào các buôn để truyền giáo. Bà thường dành thời gian cho việc duy trì các hoạt động thờ phượng
Chúa tại nhà thờ Daksong để ông có thể đi vào các làng. Bà đặc biệt chú ý đến Thanh niên Thiếu nhi.

Các con bà không thể quên những đêm học làm thủ công tại tư thất, bà trải chiếu dọc dài giữa
phòng khách, thắp đèn dầu, rủ thiếu nhi thiếu niên ở nội trú trường học cách đó nửa cây số đến để
dạy vẽ, dạy xếp giấy thành hình chiếc tàu, con chim để rồi sáng hôm sau dưới suối trắng xoá những
chiếc tàu, con chim giấy.

Cũng không thể quên những tháng ngày giữa bốn bề là rừng hoang vắng, ông đi truyền giáo cả
tuần, bà cùng với 3 người con nhỏ ở lại nhà và bà dạy các con đủ mọi thứ. Bà tự dạy trọn chương
trình lớp nhất (lớp một bây giờ) cho các con rồi mới cho đến trường học từ năm lớp nhì, chỉ vì bà
thấy trình độ dạy học lúc đó của trường quá thấp. Bà dạy cho các con gần như mọi thứ thủ công và
năng khiếu mà bà có, từ vẽ, nhạc, nặn tượng đến đan lát, thêu thùa may vá, dù cả 3 con đều là con
trai. Bà muốn các con sau này có thể tự lập trong bất cứ hoàn cảnh nào và dùng các kỹ năng đó để
nuôi mình và hầu việc Chúa. Bà khuyến khích các con tự tay làm lấy những vật dụng hàng ngày. Bà
dạy các con lịch sử tươi đẹp và hào hùng của đất nước và dân tộc Việt Nam. Trong những đêm mưa
lạnh, bà thường nằm cùng các con, xé khô mực vừa cùng nhấm nháp vừa kể truyện tích Kinh Thánh,
truyện cổ tích của dân tộc mình cũng như của các dân tộc khác trên thế giới. Bà kích thích trí óc
sáng tạo của các con ngay từ những năm 1950 bằng nhiều kiến thức khoa học tưởng tượng cho đến
nay đều trở nên hiện thực mà các con cũng không hiểu do đâu bà biết (chẳng hạn đêm rạp hát về
nhà, chiếu phim hình ảnh nổi trên bàn, trên không trung, lên cung trăng là nơi trọng lực rất thấp,…).

87


Bà cũng dạy các con biết chia xẻ những gì mình có cho người khốn khó và thường xuyên hỏi ý kiến
các con nhỏ về việc giúp đỡ người khác nên như thế nào.

Tự tay bà cùng với ông trồng khoai, bí, bầu để có rau ăn; xuống suối sâu để giặt giũ và gùi từng
bầu nước lên để nấu nướng. Bà đón nhận và giúp đỡ trẻ êm khó khăn mà hai trong số đó được bà
xêm như con nuôi là chị Tráng và chị H’Ngơih. Bà dang tay đón nhận,chăm sóc, giúp đỡ và bảo bọc
các nạn nhân của hủ tục thử Malai bằng cách đổ chì lỏng vào lòng bàn tay cho đến cháy lòi cả gân
xương.

Năm 1961, bà thêo ông đến Khu Truyền giáo tại Gia Nghĩa (Đắc-nông) theo sự phân công của
Hội Thánh để kiêm lo thêm công việc Chúa giữa người Kinh tại đó.

Một năm sau, thêo sự điều động của Hội Thánh, bà lại theo ông qua Banmêthuột để tiếp nối
công việc hầu việc Chúa giữa sắc tộc Ê-đê của MS Nguyễn Hậu Nhương. Tại Banmêthuột, bà vừa
tham gia công việc Chúa tại Hội Thánh Ê-đê Banmêthuột tại Cổng số 1, vừa tham gia công việc xã
hội của Trung tâm Bài Cùi Ea Ana bằng việc tổ chức dạy nghề cắt may cho con em sắc tộc, đặc biệt
là bệnh nhân Phong người sắc tộc. Công việc Chúa tại Banmêthuột thật không dễ dàng hơn chút
nào. Trong khi ông phải phụ kiêm thêm công việc của Trường Kinh Thánh, phiên dịch Kinh Thánh
và chống đỡ những ảnh hưởng của các biến động chính trị xã hội đến Hội Thánh về niềm tin, tình
thương và sự hiệp một của tín hữu, thì bà đã dành hết thời gian vừa cho công việc xã hội, vừa một
tay chăm lo dạy dỗ 5 người con đang tuổi lớn. Bà vẫn không thôi dạy dỗ con cái đi trong con đường
yêu mến hầu việc Chúa, yêu mến dân tộc, quê hương đất nước của mình và biết quan tâm đến
những người khốn khó. Có thể nói không ngoa, chính bà bằng tình yêu Chúa và tình mẹ đã giúp các
con mình nên người và đứng vững trong đức tin, trên con đường hầu việc Chúa và phục vụ tha
nhân. Bà đã dạy các con không sống vì những thứ hay hư nát trên đất mà vì những thứ không hay
hư nát của nước Chúa. Giá trị của con người là những điều tốt lành mà con người đó đã làm cho
Chúa và cho xã hội.

(Ảnh: photos.vnbible.com)

88


Những người hầu việc Chúa tại Trung tâm Bài Cùi Êa Ana,Banmêthuột. Từ trái qua: Giáo sĩ
Mildred Ade, Y-Klêch, Bà Huỳnh Thị Hoàng, Y-Guêc, MS Lê Khắc Cung, Y sĩ Y-Năm (1968).

Sau ngày hòa bình,năm 1977, ông được đưa đi cải tạo tập trung, Hội Thánh tạm thời không còn
hoạt động, bà thay ông cùng các con làm rẫy để sinh sống.

Năm sau, do lệnh của Nhà Nước, bà và các con phải chuyển về nơi ở mới do chính tay bà và các
con xây dựng tại xã Hòa Phú giữa sắc tộc Thái, gần cầu 14 với sự hỗ trợ của ông ngoại.Sau một thời
gian khá dài sống chan hòa với người dân xóm Thái và người Kinh,Chi hội Phú Thái được hình
thành trên cơ sở số tín đồ cũ không có nơi nhóm họp và các tín đồ mới thêm vào Hội Thánh. Bà và
các con vẫn kiên trì sống làm gương về thực thi tình thương của Chúa giữa mọi người.

Hai con lớn đi học ở Sàigòn ít khi về thăm vì không đủ tiền mua vé xe. Cả nhà làm ruộng, rẫy để
kiếm sống. Người con thứ ba làm mộc, con gái duy nhất thứ tư thêm nghề may. Có lúc người con
đầu về thăm được, không thấy ai ở nhà bèn đi tìm thấy bà một mình trên con đường vắng ra ruộng,
áo rách tả tơi, vai vác cuốc, lẫm lũi đi. Vậy mà bà vẫn không quên ghé thăm các con Chúa nghèo khó,
ốm đau, chia xẻ những thứ mình có được dù ít ỏi. Luôn luôn khích lệ, an ủi con cái, tín hữu xung
quanh,luôn luôn làm ơn và cho mượn mà không đòi lại. Dần dần bà thân thiết với dân làng xung
quanh.

Sau những tháng năm dài quá nhiều khổ cực về thể xác lẫn tinh thần, khi ông được trở về, bà
dần lâm bệnh mà không hay biết. Đến khi phát hiện thì đã khá nặng. Có thể kể, cho đến ngày bà về
nước Chúa, toàn bộ các cơ quan nội tạng của bà đều bị tổn thương. Tiểu đường, suy thận, tăng huyết
áp, suy tim, thiếu máu cơ tim, thiếu máu, viêm loét dạ dày, viêm ruột, cườm mắt, lãng tai, tai biến
mạch máu não, phù phổi, viêm phổi,tràn dịch màng phổi, quai bị, zona, gan nhiễm mỡ, gãy xương...
Toàn bộ các loại bệnh gần như ào ạt đến quật ngã bà làm cho những năm tháng sau này, bà gần như
không tham gia được công việc gì nữa của Hội Thánh ngoài việc thỉnh thoảng chia xẻ ngắn, cầu thay
và… yên lặng ngồi đó, dùng sự hiện diện của mình làm cớ an ủi khích lệ anh em. Nhiều con cái Chúa
người sắc tộc đến nói với bà: “Xin ông bà đừng đi đâu cả. Chỉ cần ngồi đó. Chúng tôi đi qua lại còn
thấy ông bà là chúng tôi còn thấy Hội Thánh và được khích lệ, mặc dù ông bà không được phép
giảng dạy.”

Bà đã được các con dốc lòng, dốc sức đưa đi chữa trị. Bệnh trở nặng, bà đã phải nhập viện từ
ngày 08.3.2004 và đã lặng lẽ về nước Chúa trong phòng Săn sóc Đặc biệt bệnh viện lúc 10g00 ngày
05.05.2004.

Bà về nước Chúa để lại tấm gương cho 5 người con, 4 con dâu, 5 cháu nội, 2 con nuôi còn lại
trên đất về đức hi sinh và tận tụy trong sự hầu việc Chúa bằng những công việc âm thầm nhỏ bé
gần như vô danh. Công trạng của bà đối với Hội Thánh không có nhiều nhưng lại là dấu ấn cho
những ai từng tiếp xúc và gần gũi với bà. Có lần bà bảo các con:“Má không để lại điều gì cho các con
ngoài căn nhà ọp ẹp này và tấm lòng tin cậy Chúa. Nếu muốn trả ơn Chúa hay trả ơn ba má, hãy làm
điều gì ích lợi cho người khốn khó hơn mình, nhất là người sắc tộc. Nghèo cho sạch, rách cho thơm.
Đừng làm điều gì xấu để rồi khi Chúa đến không dám ngửng đầu.”

Trong mắt các con,bà thật sự là “Một người nữ tài đức”./.

L.H.S.

89


Mục sư LÊ TẤN ĐẶNG

(1903 – 1979)

Mục sư Trí sự Lê Tấn Đặng thọ 77 tuổi, đã về Nước Chúa vào lúc 04 giờ 30’ ngày 03 tháng 11
năm 1979,tức ngày 24 tháng 9 năm Kỷ Mùi; sau nhiều tháng ngọa bệnh. Để tưởng nhớ một tôi tớ
Chúa đã trung kiên hầu việc Ngài trên 40 năm. Chúng tôi tóm lược tiểu sử Cụ dưới đây.

Cụ Mục sư Lê Tấn Đặng sanh năm 1903, tại Ấp Bắc, làng Hoàng Phước, tổng Đức Hòa Thượng,
huyện Đại Lộc,tỉnh Quảng Nam. Con của cụ Lê Tấn Trọng và bà Nguyễn Thị Tắt, là một gia đình văn
nho danh giá ở chốn hương thôn. Thân tộc cụ gồm nhiều nhân sĩ nổi tiếng,thông minh lỗi lạc, nên
chính cụ hấp thụ nền cựu học thâm thúy.

Vào năm 1922, ông Truyền đạo Tập sự Nguyễn Xuân Diệm, trong cuộc hành trình đầu tiên lên
bán sách Tin Lành tại tổng Đức Hòa, đã gặp nhiều gian nan, thử thách tưởng như phải rút về cách
thất bại đau đớn… nhưng lạ thay ngay sau sự khó khăn ấy, thì quyền năng Chúa đã dự bị để cứu
một linh hồn về cho Ngài. Theo lời cụ Nguyễn Xuân Diệm thì bởi tình cờ mà gặp được cụ Lê Tấn
Đặng, lúc bấy giờ còn là một thanh niên. Sau lời làm chứng nhiệt thành, cụ Lê Tấn Đặng đã chịu cảm
động, cầu nguyện ăn năn tiếp nhận Chúa. Từ đó, người tin Chúa ở vùng nầy mỗi ngày một thêm lên,
và Hội Thánh Đại Ân được thành lập với một số các vị tai mắt trong xã hội lúc bấy giờ.Ban đầu, gia
đình cụ Lê Tấn Đặng không chấp thuận việc tin Chúa của cụ, nhưng sau thấy cụ được đổi mới do
quyền năng Chúa, và cả chính cụ cũng thấy mình cần tiến thêm một bước trên đường tin thờ Chúa.
Đến năm 1927, Cụ quyết hiến dâng đời mình để đi học Kinh Thánh hầu việc Ngài. Cụ bà cũng được
học cùng với cụ hai năm. Và sau khi đã tốt nghiệp được bổ chức ra hầu việc Chúa ở Hội Thánh Thu
Bồn,Quảng Nam.

Từ đó và kéo dài luôn trên 40 năm, hai cụ Mục sư Lê Tấn Đặng đã trải qua nhiều Hội Thánh, hầu
việc Chúa với tất cả nhiệt thành và thiện chí. Những nơi hai Cụ đã đổ mồ hôi và nước mắt là Qui
Nhơn trong thời sơ khởi Tin Lành truyền đến. Tiếp đến trở về Hội An là Hội Thánh trưởng thành ở
Quảng Nam. Sau lại được mời đi Phan Thiết kiêm cả Hội Thánh Ma Lâm và Mũi Né. Trong thời kỳ
chiến tranh chống Pháp, cụ đổi về Đức Phổ,Mộ Đức để hầu việc Chúa, gặp tình cảnh Hội Thánh
Quảng Ngãi, Mục sư Ông Văn Trung bị bắt giữ. Cụ đã mỗi tuần đi đến trên 40 cây số mỗi Chúa Nhật
để đi chăm sóc cho con cái Chúa tại đây.

90


Đến năm 1956, cụ lại được mời về Hội Thánh quê hương là Đại Ân để chăn bầy Ngài. Tại đây cụ
đã dốc đổ sức lực để tái thiết lại nhà thờ đã bị bom đạn Pháp phá hủy, từ mấy năm qua phải nhóm
lại trong nhà tạm. Nhà thờ mới kiên cố được khánh thành, con cái Chúa đông đúc, Cụ lại được thúc
giục ra đi trở vào Qui Nhơn kiêm lo cả Bình Nghi, Trung Ái. Vài năm sau Hội Thánh Nha Trang -
Thành mời cụ. Rồi đến Hội Thánh Phong Thử tại Quảng Nam. Tại đây chức vụ hai cụ nặng nề hơn
hết, vì phải chăn bầy chiên Chúa trong vòng lửa đạn kinh khiếp ngày đêm. Và cũng trong thời kỳ
này, hai cụ đã phải kinh nghiệm một trận lụt rùng rợn, bão lụt thổi chết hàng mấy ngàn người ở
Quảng Nam. Tình hình Hội Thánh không thể nào duy trì vì con cái Chúa đã tản lạc khắp nơi. Hai cụ
đành trở về Đà Nẵng vào năm 1968, và xin Địa hạt Trung phần để cụ được về hưu.

Ngày 02 tháng 09 năm 1968, hai cụ vào Nha Trang, và sau đó được dành cho một nơi cư trú
trong khu Dưỡng lão cho đến ngày nay.

Ôn lại sau một chuỗi dài năm tháng, và qua bao nhiêu địa phương, để lại ảnh hưởng trên bao
nhiêu người kể cả trong đạo ngoài đời. Bao nhiêu thành tích xây dựng nhà Chúa, bao nhiêu linh hồn
được cụ dắt đêm về cùng Chúa, bao nhiêu phước hạnh, gương mẫu sáng láng làm vinh Danh Chúa.

Cụ Mục sư Lê Tấn Đặng thật là một đầy tớ Chúa tận trung trọn vẹn, làm sáng Danh Ngài. Thật
cụ “đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin”; hiện cụ đã lãnh mão triều thiên
vinh hiển bên Chúa.

Tuy tuổi tác đã cao,nhưng tinh thần của cụ vẫn minh mẫn. Cụ thường cảm tác những bài thơ
trong các dịp đại lễ hàng năm. Trí nhớ của cụ cũng còn sắc bén lắm, những bài thơ hằng mấy chục
năm cụ vẫn thuộc nằm lòng, đọc lại không sai một chữ. Tánh đức cụ thật ôn hòa, hiền hậu, chấp
nhận mọi cảnh thiếu thốn, khó khăn, nhất là những tháng ngày vừa qua bệnh hoạn kéo dài trên
thân thể cụ. Cụ bị đau tim nặng, cụ phải tranh giành từng giờ từng phút với tử thần, và cố tìm lấy
một giấc ngủ ngon lành nhưng thật hiếm có. Thật đáng tội nghiệp cho một tôi tớ Chúa.

Chắc Hội thánh trên cả nước đã cầu nguyện nhiều cho cụ. Bao nhiêu con cái Chúa còn tưởng
nhớ đến cụ,kính mến cùng biết ơn cụ. Nhưng đẹp lòng Chúa, Ngài đã đêm cụ về với Ngài, để lại cụ
bà một mình tuổi già yếu đuối và hai con trai là anh chị Lê Tấn Hiền với 5 cháu nội và anh Lê Tấn
Ân chưa lập gia đình.

Thay mặt cho toàn thể con cái Chúa tại Hội Thánh Vĩnh Phước. Chúng tôi là Mục sư Kiều Toản,
là người đã từng biết cụ suốt thời gian gần 40 năm, chỉ biết ngợi khên Chúa vì Ngài đã trọng dụng
đầy tớ Ngài một cách tốt đẹp như cụ Mục sư Trí sự Lê Tấn Đặng. Chúng tôi xin thành kính dâng lên
Chúa trước và cụ lòng kính mến chân thành.

Nguyện xin Đức Chúa Trời Ba ngôi được vinh hiển trên Lễ an táng hôm nay. Và cầu xin Chúa an
ủi cụ bà cùng toàn thể tang quyến.

Mục sư Kiều Toản

(Bài đọc trong tang lễ cụ MS Lê Tấn Đặng - 1979)

MS Phạm Xuân Tín – “Đời tận tụy”, tr. 16-18

91


Mục sư TRẦN DĨNH (1882 –1946)
Và bà LÊ THỊ LIÊN (1886 – 1985)

Cụ bà Quả phụ Mục sư Trần Dĩnh, nhũ danh Lê Thị Liên, sanh ở An Vạn, Huế (Bình Trị Thiên).
Cụ bà qua đời về Nước Chúa sáng ngày 20 tháng 05 năm 1985, hưởng thọ 99 tuổi.

Cụ bà kết hôn cùng cụ ông là Mục sư Trần Dĩnh và cộng tác trong thánh chức rất đầy ơn, và kết
quả qui vinh Danh Chúa Ba Ngôi.

Cụ Mục sư Trần Dĩnh,sau khi tìm gặp Chúa tin thờ Ngài, thì được Chúa kêu gọi vào thánh chức
như Ngài đã phán với tiên tri Giê-rê-mi: “Trước khi ngươi sanh ra, Ta đã biệt riêng ngươi, lập ngươi
làm kẻ tiên tri… “. (Gie 1:5).

Vâng lời Chúa gọi, cụ dâng mình phục vụ Chúa và Hội Thánh. Cụ vào Trường Kinh Thánh Đà
Nẵng từ năm 1922 - 1924 là những khóa đầu tiên của trường mà sĩ số chỉ có 20 người thôi.

Sau hai niên khóa chăm chú học hỏi và nghiên cứu Thần học cũng như Thánh Kinh, cụ được bổ
nhiệm đến Sa Đéc hầu việc Chúa. Trong hai năm tập sự, tức từ năm 1924 - 1926, những ngày đầu
tiên của thánh chức được Chúa ban phước kết quả thêm người mới vào Hội Thánh. Hội Thánh ở
địa phương được gây dựng vững mạnh, nên cụ được trở về trường dự khóa tốt nghiệp năm 1926 -
1927 là lớp tốt nghiệp đầu tiên của Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.

Sau khi tốt nghiệp,Tổng Liên Hội bổ chức cụ đến hầu việc Chúa ở Cần Thơ và được tấn phong
thánh chức Mục sư ở đây. Rồi cụ được thuyên chuyển đến Hội Thánh Gò Công, kế được bổ chức
đến Sài Gòn.

Năm 1927 và 1932 -1933, cụ được đắc cử chức vụ Phó Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam. Như vậy,cụ là Phó Hội trưởng đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được các Hội đồng
toàn quốc công cử là Hội đồng ở Đà Nẵng từ ngày 05 đến 13.02.1927, Hội đồng Hội Ân ngày 23 đến
27.03.1932, Hội đồng Ô Môn ngày 11 đến 16.06.1933.

92


Bắt đầu từ 07.07.1933, cụ Mục sư Trần Dĩnh được mời đến chủ tọa và chăn bầy chiên Chúa ở
chi hội Nha Trang. Trong thời gian 5 năm, hai cụ cùng lo gây dựng Hội Thánh và xây cất một nhà
thờ đầu tiên cho Chúa tại Nha Trang, trên lô đất hiện nay là trụ sở Địa hạt (Giáo hạt Nam Trung bộ).

Tôi còn nhớ năm 1935, trước khi tôi vào học Trường Kinh Thánh Touranê (Đà Nẵng), tôi có dịp
vào Sài Gòn, ghé Nha Trang và tìm đến nhà thờ Chúa để thờ phượng. Hai cụ rất ân cần niềm nở tiếp
chuyện chào hỏi thân mật, dầu lúc bấy giờ tôi mới chỉ là một thanh niên 23 tuổi và được gặp Cụ lần
đầu tiên.

Sau khi hai cụ lo tròn trọng trách ở Hội Thánh Nha Trang, thì được chuyển đến Hội Thánh Ninh
Hòa.Đi đến đâu hai đầy tớ Chúa cũng dày công xây đắp Giáo hội, chăm lo nuôi nấng bầy chiên, rao
truyền đạo lý cứu rỗi của Chúa, tận trung, tận tín phục vụ Chúa.

(Ảnh: photos.vnbible.com)
Chín Mục sư đầu tiên được phong chức của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Hàng ngồi (trái sang
phải): 1. Quách Phúc Hòa, 2. Trần Xuân Phan, 3. Hoàng Trọng Thừa, 4. Trần Dĩnh, 5. Phạm Thành.
Hàng sau (đứng): 6.Dương Nhữ Tiếp, 7. Nguyễn Hữu Khanh, 8. Lê Văn Long, 9. Đoàn Văn Khánh.
Sau một thời gian dài hầu việc Chúa và Giáo hội, vì tuổi cao sức yếu nên hai Cụ được về hưu. Cụ
cố Mục sư Trần Dĩnh sanh năm 1882 và về Nước Chúa năm 1946.
Cụ bà dầu trong tuổi già cũng rất trung tín đi nhóm họp thờ phượng Chúa tại nhà thờ. Từng hồi
từng lúc cụ cũng ghé thăm chúng tôi. Chúng tôi rất cảm động về lòng kính Chúa yêu người của cụ.
Hai cụ cũng có đông con, rể, dâu, cháu, chắt. Ông Trần Tấn Thông,con trai của hai Cụ, là cựu Truyền
đạo và là một liệt sĩ.
Sáng ngày 26.05.1985, cụ bà Mục sư Trần Dĩnh, nhũ danh Lê Thị Liên về an nghỉ đời đời trong
Nước vinh quang của Chúa. Cụ bà đã được gặp lại cụ ông cùng bao nhiêu thánh đồ xưa. Đấng Sáng
láng, Đấng đã đổ huyết ra trên thập tự giá cứu chuộc hai cụ và đã dùng hai cụ vào công trường thuộc
linh của Ngài, chắc chắn tỏ lời khen ngợi hai Cụ đã tận trung tận tín thờ Chúa và phục vụ Ngài lâu
nay.

93


Hai cụ đã lưu lại một gương sáng ngời cho Hội Thánh Chúa, cho chúng tôi và cho thế hệ trẻ.
Chúng tôi thay mặt cho toàn thể Hội Thánh Chúa, cụ Mục sư Hội trưởng, Ban Trị sự Tổng Liên
Hội,các Hội Thánh Tin Lành trong tỉnh nhà và trong Giáo hạt Nam Trung Bộ chân thành phân ưu
cùng tang quyến. Cầu xin Đức Chúa Trời Ba ngôi yên ủi và ban phước trên quý vị. A-men.
Bài thi để tưởng nhớ cụ bà cố Mục sư Trần Dĩnh
Nhũ danh Lê Thị Liên
Trăm năm chỉ thiếu một năm thôi,
Bà Cụ giờ đây khuất bóng rồi.
Con cháu nhớ thương người đức mẫu,
Hoàng thiên đón rước kẻ bề tôi.
Trần gian đã trọn niềm trung tín,
Thiên quốc vinh quang được vãng hồi.
Mừng Cụ nay về nơi an nghỉ,
Muôn đời bên Chúa, Đấng Ba ngôi.
Kính phúng điếu,
Mục sư Nguyễn Kim Khánh
Đọc tại lễ An táng ở nghĩa trang, ngày 28.05.1985
MS Phạm Xuân Tín – “Đời tận tụy”, tr. 31-33.

94


Bà Giáo sĩ HOMERA HOMER DIXON

(1893-1942)

Bà Giáo sĩ Homêra Emiliê Homêr-Dixon chào đời ngày 08.11.1893 tại Toronto, Canada. Cha bà
là ông Homer-Dixon mất khi bà được 5 tuổi. Trong mười năm hay hơn sau đó, bà và mẹ đã di chuyển
đến sống nhiều nơi, Ânh, Canada, Mỹ (California), Ai-cập, Pháp, Thụy Sĩ rồi trở về định cư tại vùng
thác Niagara.

Cha bà là một Cơ Đốc nhân sốt sắng. Bà được các gia sư tin kính Chúa dạy dỗ và sớm gieo vào
lòng bà tình thương của Chúa. Khi bà được 8 tuổi, bà vú nuôi, vốn là con gái của một giáo sĩ hầu việc
Chúa tại Miến Điện, tự học để đi hầu việc Chúa tại đó. Sau nhiều năm, bà Homêra viết về sự kiện
này: “Bà vú đã muốn tôi đi vào công trường thuộc linh, và từ ngày đó, tôi đã luôn cảm thấy mình
thuộc về công cuộc truyền giáo.”

Giữa khuya ngày 25 tháng 6, 1919, tại Keswick, Anh quốc, Chúa đã kêu gọi bà Homer Dixon và
bà đã dâng đời sống mình cho Đấng Christ. Từ đêm đó, bà luôn mong ngóng đến việc trở thành giáo
sĩ trong khi mẹ của bà không muốn bất cứ điều gì rứt con gái ra khỏi nhà mình. Bà tích cực hầu việc
Chúa ngay. Bà bắt đầu mở các lớp Trường Chúa Nhật trong các vùng quê gần khu vực nhà mình.

Ngay từ rất sớm, từ khi còn là thiếu nhi rồi thành thiếu nữ, bà Homera sống độc lập và rất bận
rộn.Sau khi dâng đời sống mình cho Chúa, bà lấy việc học Kinh Thánh làm niềm vui chính của mình.
Mẹ của bà bị bệnh thấp khớp và thần kinh rất nặng ảnh hưởng đến tính khí gây nhiều khó khăn quá
sức chịu đựng của bà. Khi được 27 tuổi, bà kiệt sức đổ gục. Trong mười ngày liền bà bị bất tỉnh
nhưng, về sau khi làm chứng lại,đó lại là quãng thời gian mà bà nhận biết một cách kỳ diệu nhất về
sự hiện diện của Chúa. Trong thời gian bà bệnh, mẹ bà bệnh cũng trở nặng và qua đời.

Sau khi vừa hồi phục,bà Homer-Dixon tình nguyện đi truyền giáo tại Trung Hoa lần thứ nhì
nhưng các bác sĩ của Hội Truyền giáo không cho phép bà đi. Trong 2 năm, có một thanh niên đã
giúp đỡ bà trong các lớp Trường Chúa Nhật. Một thời gian ngắn sau khi bị từ chối cho phép đi
truyền giáo hải ngoại, bà kết hôn với anh. Bà đã tưởng anh là Cơ Đốc nhân thật sự. Sau đám cưới
vài tuần, anh ta thú nhận mình đã lừa đối bà.Năm sau, một bé gái chào đời, đó là Homera Elizabeth.
Chồng bà bỏ bà không lâu sau đó, tòa án chấp thuận cho bà được ly hôn và được quyền nuôi con.

Trong những năm thử thách này, Chúa đã dạy bà nhiều bài học quí giá và bà đã tham gia công
việc truyền giáo bằng các bài viết về niềm tin đăng báo. Năm 1927, bà vào học Viện Đào tạo Truyền
giáo Nyack và năm sau, thêo sự bổ nhiệm, bà lên tàu qua Đông Dương thuộc Pháp đến hầu việc
Chúa cho trẻ em tại trường dành con các giáo sĩ ở Đà Lạt, Việt Nam.

95


Sau khi gắn bó với công việc Chúa tại Đà Lạt một thời gian, bà được Hội đồng Địa hạt bổ nhiệm
đi Hà Nội. Tại đó bà dốc toàn thời gian hầu việc Chúa qua công việc truyền giáo,thăm viếng, các lớp
học Kinh Thánh, dịch và biên tập tài liệu.

“Những ngày tháng cuối thập niên 1930, người ta thường thấy hai mẹ con một bà ngoại quốc
sống trong khuôn viên Hội Thánh Tin Lành Hà Nội tọa lạc trên góc đường Ngõ Trạm,đường Hàng Da
và Phạm Phú Thứ trước mặt chợ Hàng Da. Bà Mẹ khoảng trên 40 tuổi,thường mặc chiếc áo dài Việt
Nam bằng nhung, dáng dấp nhẹ nhàng, khuôn mặt phúc hậu với nụ cười tươi tắn trên môi. Đó là hình
ảnh còn in đậm nét trong lòng mọi người có dịp gặp gỡ Nữ Giáo sĩ Homera Homer Dixon. Mọi người
nhìn bà như một nhân vật rất được ngưỡng mộ cũng như phần lớn các thanh, thiếu, nhi đồng của
thời đó được bà dạy Kinh Thánh và dạy đàn hát. Với lớp người trẻ, bà là “Chị Hoa Hồng”,Hội trưởng
Hoa Tâm Hội của Thanh, Thiếu niên, Nhi đồng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Theo tài liệu của cố Mục sư Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Lê Văn Thái, bà Homera
Homer Dixon là Nữ Giáo sĩ Tiền phong người Canađa đến Việt Nam từ năm 1928. Trước hết bà đến
Đà Lạt, học tiếng Việt và trông nom trường dạy các con của các giáo sĩ người Anh, Mỹ v.v… tại Villa
Alliance, Đà-lạt.

Mùa đông 1929, bà ra Hà Nội tiếp tục học tiếng Việt, lo việc giảng dạy, soạn sách,viết bài cho
Thánh Kinh Báo. Hồi đó chúng tôi được đọc những bài viết cho trang Nhi Đồng của Thánh Kinh Báo
về những loài hoa, các loài động vật, ký tên là Chị Hoa Hồng (bút hiệu của bà H.H. Dixon) cùng những
bài viết ích lợi cho việc dạy dỗ thiếu nhi trong mục Vun Khóm Cây Xanh (Thánh Kinh Báo) cùng với
cố Mục sư Đổ Đức Trí.

Bà cũng mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường cho người Việt ở Hà Nội và cho người Mèo ở Chapa
(nay là Sa Pa) cho đến năm 1941. Sau đó bà vào Đà Nẵng giúp dạy học tại Trường Kinh Thánh Đà
Nẵng và cộng tác với Giáo sĩ E.F. Irwin mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường cũng tại Đà Nẵng.

Thời gian sau, bà cùng bà Giáo sĩ D.I. Jeffrey mở lớp Thánh Kinh Tiểu Học Đường tại Cần Thơ và
Sàigòn, đồng thời mở lớp học Kinh Thánh ở Chi hội Thạnh Lợi Cần Thơ,dạy ở nhà ông Huyện Diệp.”

Bà dâng mình cho người sắc tộc, nhất là vùng phía Bắc. Trái tim bà tràn ngập gánh nặng về sự
cứu rỗi của họ. Bà tìm cách đến với các sắc tộc nhân khi được nghỉ phép tại một khu nghỉ dưỡng ở
vùng núi phía Bắc. Bà bắt đầu hầu việc Chúa giữa người Mèo và cũng đến với các sắc tộc khác nữa.

Sau gần 11 năm hầu việc Chúa, bà được thuyết phục về quê nghỉ ngơi. Bà về quê nhà tháng 11
năm 1939 và tháng 3 sau đó lại lên tàu thủy trở lại công trường thuộc linh của mình. Từ đó, bà liên
tục hầu việc Chúa qua nhiều công việc khác nhau, đặc biệt là tích cực trong việc mở các nhà giảng
dành cho người Việt tại Hà Nội.

Khi Thế chiến thứ II nổ ra, Homêra và con gái đến sống tại Đà Lạt. Con gái bà học Trung học tại
đó,còn bà thì bận rộn với các lớp Kinh Thánh ngắn hạn và công cuộc truyền giáo.

“Bà H.H. Dixon lâm bệnh nặng khi đi giảng tại Ô Môn. Được đưa vào bệnh viện Cần Thơ, vì không
đủ dụng cụ y khoa, nên bà được đưa về bệnh viện Sàigòn.” Bà Homera Homer-Dixon về nước Chúa
ngày 06.12.1942 tại Sài Gòn. Bà qua đời vì nhiễm trùng huyết sau khi mổ sỏi mật. “Bà là vị giáo sĩ
đầu tiên gửi xác tại Việt Nam”

96


GHI CHÚ
1. Tài liệu trên đây được dịch từ photos.vnbible.com. Phần chữ in nghiêng trong bài do người
dịch lồng ghép, trích từ tài liệu Tưởng niệm bà Homera Homer Dixon (1893-1942) – Nữ Giáo Sĩ Tiền
Phong tại Việt Nam của Vũ Đức Nghiêm.
2. Bà Homera Homer Dixon có viết một quyển sách mỏng bằng tiếng Ânh và được Mục sư Đổ
Đức Trí dịch sang tiếng Việt tựa đề là "Cành nho liền gốc" (tái bản năm 1967). Đây là quyển sách
bồi linh rất có giá trị, bàn sự hiệp một giữa Cơ Đốc nhân với Chúa Giê-xu là cách để đạt được hiệu
quả lớn nhất cho Chúa. Ngoài ra,bà còn viết các sách “Giải nghĩa thư Rôma”, “Thánh kinh Sử lược”và
“Muôn vật”.
(H.S.)

TRÁI TIM VÀNG NGỪNG ĐẬP
Thánh Kinh Báo

Số kép 143&144, tháng 1 & 2 năm 1943
Ngày 13 Décembre 1942, trong khi làm lễ kỷ niệm bà Giáo sĩ Homêra Homêr Dixon ngủ yên
trong Chúa tại Sài Gòn ngày 6 Décembre 1942, bản báo chủ bút có nói mấy lời sau nầy.
Hỡi anh em yêu dấu.
Nhơn danh cô Elizabêth, Mẫu hội, Thánh Kinh Báo và chính mình, bổn báo chủ bút xin hết lòng
cảm ơn anh êm đã tỏ lòng thương xót bởi dự lễ kỷ niệm bà Homera Homer Dixon, bởi lời nói, thơ
từ và điện tín phân ưu.
Chị yêu dấu của chúng ta, bà Homera Homer Dixon, là một giáo sĩ tài năng lỗi lạc, tận tụy hi sinh
và được mọi người yêu mến. Đúng lắm, có người nói với tôi rằng bà có một trái tim vàng, đã dâng
hết cả mọi sự vì kính mến Đức Chúa Trời và yêu thương kẻ đồng loại trầm luân.
Thật là một cái tang đau đớn cho Mẫu hội và cho công cuộc cứu vớt linh hồn ở Đông Dương.
Nhưng, nguyện ý chỉ Đức Chúa Trời “được nên ở đất như trời”.
Hiện nay chúng ta không hiểu vì cớ gì Đức Chúa Trời đã rước bà về sớm vậy, nhưng khi Đức
Chúa Jesus trở lại thế gian nầy để lập nước công bình, bác ái và hòa bình, thì chúng ta sẽ hiểu và sẽ
lại gặp chị yêu dấu của mình. Hi vọng tốt đẹp thay trong Đấng Christ! Ngợi khên Đức Chúa Trời.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho chúng tôi, là kẻ còn ở lại. Hỡi anh êm, “hãy vững vàng,
chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong
Chúa chẳng phải là vô ích đâu”. (ICo 15:58).
Chúng ta hãy nghe lời Chúa phán: “Khá giữ trung tín cho đến chêt, rồi Ta sẽ ban cho ngươi mũ
triều thiên của sự sống”.

97


BÀ HOMERA DIXON

VỚI CÔNG VIỆC CHÚA Ở VIỆT NAM

Mục sư Lê Văn Thái

Hội trưởng Hội Tin lành Việt Nam

Năm 1928, Chúa đã đưa bà giáo sĩ Homêra Homêr Dixon và con là cô Elizabêth tới đất Việt Nam.
Bà lên Đà Lạt, khởi sự học tiếng Việt Nam và trông nom nhà trường con các giáo sĩ.Mùa đông năm
1929, Chúa mở đường cho bà ra Hà Nội, kế tiếp học tiếng, lo việc giảng dạy, soạn sách viết bài trong
Thánh Kinh Báo, mở Thánh Kinh Tiểu học đường giữa người Việt Nam tại Hà Nội và người Mèo ở
Chapa cho tới năm 1941.

Sau bà vào Tourane,giúp dạy trong trường Kinh Thánh, và hiệp với ông bà E.F. Irwin mở Thánh
Kinh Tiểu học đường tại Tourane. Rồi đi Cần Thơ, hiệp với bà D.I. Jeffrey dạy Tiểu học đường. Xong
khóa ấy, bà lên Sài Gòn mở Tiểu học đường tại chi hội Sài Gòn. Rồi đến chi hội Thạnh Lợi (Cần Thơ),
mở Tiểu học đường dạy trong nhà ông Huyện Diệp.Bà phát bịnh khi đi giảng ở Ô Môn, đưa về Cần
Thơ, ở đây không có đủ đồ cần dùng, nên phải chở đến nhà thương Sài Gòn. Sau khi bị mổ, bà đã từ
giã chúng tôi hồi 12 giờ 30 ngày 06.12.1942. Năm nay bà 49 tuổi. Bà đã đi về trong nhà Cha vinh
hiển đời đời mà yên nghỉ, thật là một cái tang rất đau buồn và thương tiếc của toàn thể Hội Tin lành
Việt Nam chúng ta.

Bà là người rất có tài soạn sách, được ơn trong sự giảng dạy, có lòng rất âu yếm, lại giàu tình
cảm với người Việt Nam. Bà cũng là vị giáo sĩ thứ nhứt gởi xác trong đất Việt Nam,đợi ngày Chúa
Jesus trở lại.

Bà Homêra Homêr Dixon đi rồi, để lại giữa chúng tôi tình yêu thương đậm đà và trong sạch, một
gương sáng về đức khiêm nhường và kiên nhẫn làm việc, một tinh thần hoạt động êm dịu của Đấng
Christ. Tôi mong rằng tinh thần của Đấng Christ trong bà Homer Dixon còn lại và cứ lưu ra mãi mãi
trong Hội Tin Lành Việt Nam. Tôi thay mặt Hội Tin Lành Việt Nam và gia đình tôi, tỏ lòng rất đau
đớn mến tiếc bà Homer Dixon,cùng chia buồn với cô Elizabeth và Mẫu hội.

BÀ HOMER DIXON VỚI HỘI THÁNH HÀ NỘI

Hội Thánh Hà Nội

Ngày 6 Décembre 1942, là một ngày buồn của Hội Thánh Hà Nội, vì một chị em rất thân yêu của
chúng tôi, bà Homêra Homêr Dixon đã về với Chúa tại Sài Gòn. Được tin dữ đó,chúng tôi hết thảy
đều đau đớn, thương tiếc và khóc lóc một tôi tớ Chúa đã hi sinh cả đời sống và tiền tài cho công việc
Chúa.

Hơn mười năm trời,Chúa đã dùng bà giúp đỡ Hội Thánh chúng tôi rất nhiều. Bà đã mở mang
các nhà giảng nhánh, gây dựng ban âm nhạc, giúp đỡ việc xây cất đền thờ và nhà tư thất, thăm viếng
và an ủi các anh chị em yếu đuối. Lúc nào bà cũng vui vẻ và tận tâm với chức vụ. Trong khi bà ở Hà
Nội, tối nào bà cũng đi các nhà giảng nhánh mà rao truyền Lời Chúa cho những người chưa biết
Ngài. Chúa Nhựt nào bà cũng đi với một hai chị em trong ban làm chứng, vào từng nhà mà bán sách
và cắt nghĩa về đạo cho mọi người biết.

Bà rất yêu mến người Việt Nam ở Bắc Kỳ. Trong lúc sanh thời bà thường nói: “Chúa đã đặt tôi
ở Hà Nội và giữa công việc Chúa ở Bắc Kỳ”. Sau khi đi Touranê và Nam kỳ để lo việc mở Thánh Kinh

98


Tiểu học đường, bà đã có ý trở lại và ở luôn với chúng tôi từ tháng Décembre nầy. Nhưng chắc Chúa
thấy việc bà đã trọn rồi, nên Chúa cất bà đi để tránh khỏi thế gian nầy. Rất tiếc là khi bà lâm bịnh,
chúng tôi không có dịp ở gần mà thăm viếng và chia sẻ sự đau đớn với bà.

Trong dịp nầy, Hội Thánh chúng tôi xin chia buồn cùng cô Elizabeth và Mẫu hội. Nguyền xin
Chúa sẽ dùng cô Elizabêth như Chúa đã dùng bà Homêr Dixon, và xin Chúa cứ ban nhiều phước
lành trên Mẫu hội trong lúc nầy!

BÀ HOMER DIXON NGỦ YÊN TRONG CHÚA

Mục sư O.D. Gockler

Hội Tin Lành Pháp

“Từ rày phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa! Đức Thánh Linh phán:
Phải, vì những kẻ ấy được nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình thêo sau”. (Kh 14:13)

Ai nấy sửng sốt khi nhận được tin bà Homera Homer Dixon, chị yêu dấu của chúng ta trong
Chúa, đã qua đời.

Một người như bà,nét mặt luôn luôn hớn hở, khả ái, hiền từ, sáng sủa, càng thân thiết với ta bao
nhiêu, càng làm cho ta khó lòng tưởng bà chẳng còn ở giữa chúng ta nữa. Bà qua đời thật là một cái
tang lớn cho toàn thể Hội Tin Lành, và nhứt là cho chúng ta bấy lâu vẫn quí mến bà.

Vậy nên hôm nay,thay mặt Hội Tin Lành Pháp ở Bắc kỳ và phía bắc Trung kỳ, tôi xin chia buồn
cùng các giáo sĩ, Hội Tin Lành Việt Nam, và Hội Thánh Hà Nội.

Thật bà đã ngủ yên trong Chúa! Ai quen biết bà, cũng cảm thấy đức tin lớn của bà. Bà kính mến
Cứu Chúa mình hết lòng, hết ý, hết linh hồn.

Có một sự trống trải cho gia đình bà, nhứt là cô Elizabeth hiện ở Tourane, và cho chúng ta, buồn
thảm và đau đớn biết dường nào!

Bà Homer Dixon là dòng dõi trâm anh, trí thức cao đẳng; nhờ gia tài của cha mẹ để lại, bà có thể
sống một cuộc đời phong lưu nơi tổ quốc. Nhưng bà đã dâng trọn mình để hầu việc Chúa. Chẳng có
sự hi sinh nào lớn quá cho bà. Chẳng hề mệt mỏi, bà hết sức rao giảng Tin Lành để cứu vớt những
linh hồn hư mất.

Bà đã chết trong chức vụ, chết đang khi hầu việc Chúa, đã ngủ yên trong đức tin. Phước thay,
giờ nầy bà đã thoát khỏi mọi sự lo lắng, khổ não, và ở cuối đường đời bà được nghe Chúa khen ngợi
rằng: “Hỡi đầy tớ ngay lành và trung tín kia, hãy hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi”. Giờ nầy bà
đã thấy Chúa đối mặt. Bà đã dâng hết của cải, thì giờ và sức lực, thường khi làm việc đến một, hai
giờ sáng. Viết báo, soạn sách, dạy Kinh Thánh, đi thăm bịnh nhơn, giảng dạy buổi tối, bà không hề
nghĩ tới sự nghỉ ngơi. Cũng vì thế, bà mau kiệt sức.

Khi nghỉ mát ở miền Thượng du Bắc kỳ, bà cũng hết sức làm việc. Nói là nghỉ, nhưng thật ra là
đổi chỗ làm việc. Bà học tiếng của một bộ lạc, soạn sách cho họ, và bắt đầu giảng Tin Lành cho họ.

Xong công việc rồi,giờ nầy bà yên nghỉ, mặc dầu bà vẫn còn sốt sắng ước mong hầu việc Chúa
nhiều hơn nữa. Bà đã vào trong sự bình an của Chúa sau khi chỉ cho biết bao nhiêu linh hồn thấy
đường đến cùng Cứu Chúa. Phải, bây giờ bà yên nghỉ, nhưng sẽ chẵng hề bị quên mất. Chúng ta sẽ
nhớ bà mãi mãi, và công việc của bà sẽ cứ sống luôn.

99


Click to View FlipBook Version