Truyền đạo Giáo sư NGUYỄN KIÊN TRINH
(1924 – 1986)
Giáo sư Nguyễn Kiên Trinh sinh ngày 02.06.1924 tại Quảng Yên, Bắc Việt, trong một gia đình
rất mộ đạo.Từ thuở nhỏ, giáo sư đã được dạy dỗ trong các chủng viện của Giáo hội Công giáo để
chuẩn bị cho sự phục vụ.
Năm 1937 (13 tuổi), được tuyển đi học tại Tiểu Chủng viện Hongkong.
Năm 1947-1954, học đạo tại Thần học viện Giáo hội Công giáo tại Rome và tốt nghiệp năm 1954.
Năm 1954-1956, làm Tu sĩ Giáo sư tại Thần học viện Công giáo Rosaryhill, Hongkong.
Năm 1956-1970 được cử sang Pháp làm Tu sĩ Giáo sư tại Paris. Trong thời gian này Linh mục
Trinh được gửi đi tu nghiệp tại Đức, Anh, Italy.
Dù đã mang chức vụ Linh mục nhưng Giáo sư vẫn rắp tâm tìm kiếm mặt Chúa. Tại Pháp, nơi
Giáo sư cư ngụ lâu nhất, Giáo sư đã xin vào dòng khổ tu trong 1 năm nhưng vẫn chưa tìm được điều
mình mong muốn. Cũng trong thời gian sống tại Pháp, Giáo sư đã có dịp học tại Đại Chủng viện
Strasbourg ở miền đông bắc nước Pháp, bên bờ sông Rhin. Nơi này có phân khoa Thần học Cải
chánh và Giáo sư đã được dịp tiện tiếp xúc với niềm tin của Giáo hội Cải Chánh. Qua đó Giáo sư đã
tiến lần đến chỗ quyết định đặt niềm tin trọn vẹn của mình nơi Chúa Jêsus Christ để có được sự
cứu rỗi trong Ngài.
Vào giữa năm 1971, với lòng nóng nảy như thiêu đốt, ông đã bỏ tất cả để quay về Việt Nam và
tìm đến Hội Thánh Tin Lành. Đầu tiên, ông gặp Mục sư Hội trưởng Đoàn Văn Miêng và ngỏ ý muốn
phục vụ Chúa trong Hội Thánh Tin Lành Việt Nam với tất cả khả năng và ân tứ Chúa ban. Sau đó
Mục sư Miêng hội ý với Mục sư Ông Văn Huyên, Viện trưởng cùng Ban Giáo sư Thần học viện Tin
Lành Nha Trang và quyết định mời ông về làm Giáo sư tại Thần học viện Tin Lành Nha Trang. Từ
đó Giáo sư Trinh đã chính thức muốn dâng quãng đời còn lại để phục vụ Chúa trong Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam. Vì vậy Giáo sư đã không quản ngại sự khó khăn, không chút tự ái mà vui lòng ngồi
chung với những sinh viên, học sinh của Thần học viện để học những môn đòi hỏi của nhà trường
và Hội Thánh đối với chức vụ. Mặc dù trên khả năng, trên kinh nghiệm,Giáo sư Trinh còn vượt trội
hơn cả chúng tôi là những người giảng dạy.
Năm 1972, Giáo sư bắt đầu phục vụ Chúa tại Thần học viện Tin Lành Nha Trang và dạy thêm
ngoại ngữ cho trường Bết Lê Hêm, Vĩnh Phước, Nha Trang.
Năm 1973-1978, Ban Giáo sư Thần học viện chính thức bổ nhiệm ông là Truyền đạo Giáo sư tại
Thần học viện Tin Lành Nha Trang.
Trong thời gian ở tại Nha Trang, Giáo sư đã gặp và kết hôn với Nữ Truyền đạo Trương Thị Ân
Huệ. Hôn lễ diễn ra vào đầu năm 1975 tại Long Xuyên.
Trong suốt thời gian từ ngày giải phóng đến nay, Giáo sư Trinh rất hăng say trong công việc hầu
việc Chúa, không từ nan bất cứ một công việc lớn nhỏ nào cho dù là những công việc rất gấp không
có bao nhiêu thời gian để chuẩn bị cũng vậy. Trong thời gian này,Giáo sư Trinh đã tích cực tham
gia vào công việc dạy Trường Chúa Nhật tại Hội Thánh Vĩnh Phước cũng như Nha Trang. Giáo sư
đã góp phần gây dựng phần thuộc linh của rất nhiều con dân Chúa kể cả những người lớn tuổi lẫn
các thanh niên.Giáo sư cũng đóng góp phần rất lớn trong công tác truyền giảng và bồi linh gây dựng
Hội Thánh. Trong những tháng cuối cùng của đời sống, Giáo sư Trinh đã nhận lãnh trách nhiệm
300
hướng dẫn Ban hát 6, một ban hát của những tín hữu lớn tuổi vừa được thành lập tại Hội Thánh
Nha Trang. Đặc điểm trong sự giảng dạy của Giáo sư Trinh là đức tin nơi Chúa Jêsus Christ và sự
cầu nguyện, song song với hai đặc điểm nầy là sự yêu mến Kinh Thánh, học và trưng dẫn thuộc lòng
nhiều câu Kinh Thánh. Đây là những điều chúng ta là những người theo Chúa, hầu việc Chúa cần
học đòi.
Tôi nhận thấy rằng Chúa là Đấng biết rõ ngày của Giáo sư ở trần gian nên đã đặt trong giáo sư
một tấm lòng yêu mến gắn bó với sự phục vụ cũng như yêu mến gắn bó với gia đình.Tôi chưa thấy
có ai gắn bó với các con như Giáo sư Trinh. Giáo sư không bao giờ muốn rời xa các con cả. Giáo sư
Trinh lâm bệnh trầm trọng vào ngày thứ năm 20.03.1986. Cơn bệnh tạo sự đau đớn cùng cực cho
cơ thể nhưng Giáo sư vẫn im lặng chịu đựng, không một tiếng kêu rên. Trong thời gian nằm trên
giường bệnh với sự đau đớn vô cùng, Giáo sư vẫn cầu xin ý Chúa được nên, vẫn ngợi khen sự cứu
rỗi trong Chúa Jesus Christ. Trong những ngày gần cuối, tôi có dịp đứng cạnh giường bệnh và nghe
lời cầu nguyện này của Giáo sư: “Lạy Chúa, con đã có lần làm buồn vợ con, làm buồn con con, làm
buồn anh em con, xin Chúa thứ tha”. Tôi chuyển lời cầu nguyện chân thành này đến với tất cả chúng
ta để mọi người biết rằng lòng của Giáo sư Trinh muốn tìm sự thanh thản với Chúa và với mọi
người. Đẹp ý Cha trên trời, Ngài đã đưa Giáo sư Trinh về an nghỉ trong nước vinh hiển của Ngài vào
lúc 5g15 ngày 20.05.1986 để lại vợ và hai con là Nguyễn Thị Mỹ Tâm và Nguyễn Ngọc Linh trong
sự cô đơn thiếu vắng hình bóng và sự chăm sóc của chồng và cha. Giáo sư Trinh mất đi, Hội thánh
thiệt mất một người có đầy lòng yêu mến Chúa, đầy khả năng và lòng nhiệt thành trong sự phục vụ.
Thật khó có thể lấy gì đắp được vào chỗ trống đó. Giáo sư Trinh mất đi, chúng tôi thiệt mất một
người bạn, một người sẵn sàng chia xẻ, giúp đỡ, hướng dẫn.
Xin Chúa là Cha của người mồ côi và góa bụa luôn luôn an ủi và chăm sóc gia đình bà Giáo sư
Trinh và các cháu Tâm, Linh.
Tại Vĩnh Phước 1985
Từ trái sang phải: Bà MS Nguyễn Văn Thìn, MS Nguyễn Văn Huệ, Truyền đạo Giáo sư Nguyễn
Kiên Trinh, MS Nguyễn Văn Thìn.
Người viết
Mục sư Giáo sư Phạm Xuân Thiều
301
Mục sư LÊ ĐÌNH TƯƠI
(1902 – 1943)
Ghê-đê-ôn Việt Nam
Sách Quan-xét đoạn 6 (Cựu Ước từ trang 290) có chép truyện tích kỳ diệu của một thanh niên
tên Ghê-đê-ôn. Chàng sanh ra trong một thời kỳ hắc ám của lịch sử Do Thái. Toàn dân đều lụn bại
trong các cuộc thờ lạy hình tượng và lắm điều tội lỗi xấu xa. Nhưng chàng đã dốc lòng tìm kiếm
Đấng Chơn Thần. khi đã gặp Ngài và được Ngài kêu gọi rồi thì chàng tức thì vâng lệnh thánh phá đổ
bàn thờ cùng đánh hạ hình tượng Ba-anh. Sau đó, Ghê-đê-ôn lại được cử làm Đại tướng thống lãnh
đạo binh Do Thái đại phá quân xâm lăng Ma-đi-an giải cứu nước ông thoát khỏi ách nô lệ của bọn
người tàn bạo.
Hôm nay tôi muốn thuật cho các bạn đời sống một thanh niên khác có hành động gần giống như
Ghê-đê-ôn Do Thái kia sau khi chàng đã tin nhận Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình. Bởi vậy,tôi mạn
phép gọi chàng là Ghê-đê-ôn Việt Nam.
Chàng sanh ra trong một nhà khá giả ở Cần Thơ vào ngày 18.05.1902. Lúc nhỏ chàng là một học
sinh siêng năng cần mẫn. Lúc lớn lên chàng là một người con chí hiếu, gương mẫu.Tánh tình chàng
vui vẻ, ngay thẳng nhưng rất khẳng khái và nóng nảy. Chàng cũng là một thanh niên mộ đạo. Bởi
vậy, khi Tin Lành mới giảng ra ở thành phố này,chàng thường đến dự thính. Trong các cuộc đàm
luận đạo lý chàng hay cãi trả và công kích. Một lần kia, chàng đã tranh luận đạo lý rất sôi nổi và cãi
trả kịch liệt, làm rúng động cả xóm làng.
Vào năm 1922, chàng đã học xong chương trinh Trung học nên nghiễm nhiên thành một thơ ký
tàu-bố. Là một công chức, ngày hai buổi đi làm, sự sinh sống kể cũng thanh nhàn. Nhưng tâm hồn
chàng chẳng được thỏa mãn. Chàng cảm thấy như đang thiếu một điều quí báu nào. Một ngày kia,
hai thanh niên bà con và cũng là hai bạn thân của chàng đến thăm chàng và tin cho chàng biết là họ
đã trở nên tín đồ Chúa Giê-xu. Ngạc nhiên và tức giận vì bạn đã thình lình trở nên tín đồ Chúa Giê-
xu, nên cuộc tranh luận đạo lý lại càng thêm phần nóng nảy. Dầu vậy, hai bạn chàng đã được Thánh
Linh ngự trị trong tâm linh nên lấy lời Chúa giải bày đạo lý Chúa cách rõ ràng khiến chàng phải qui
phục Giê-xu là Cứu Chúa và tiếp nhận Đức Chúa Trời.Ngay khi quí gối cúi đầu mở lòng tin nhận Giê-
xu, Thánh Linh đã đụng đến tâm linh chàng và biến đổi đời sống chàng cách kỳ diệu. một sự vui
thỏa vô hạn đã tràn ngập lòng chàng. Đời sống xa hoa, trụy lạc và chơi bời của chàng được thay đổi
hẳn. Chàng chán chê và ghét bỏ mùi đời. Chàng bắt đầu yêu thích điều chàng đã ghét bỏ từ lâu.
Chàng quí mến Đấng chàng đã chê bai, công kích bấy lâu.Nhưng chàng lại khinh thường rẻ rúng
những điều chàng quí trọng và gắn bó bao năm. Thế rồi đứng dậy ra về, chàng vâng lời theo lệnh
Chúa. Một mình dám phá đổ bàn thờ ông Thiên.
Chẳng bao lâu sau, Đức Chúa Trời lại tỏ cho chàng một khải tượng khác là: “Những linh hồn
chưa biết Chúa, đang quằn quại trong tội lỗi nhiều thay”. Ngài tha thiết kêu gọi chàng phó dâng đời
mình cho Ngài sử dụng. Ban đầu chàng còn đắn đo: Lìa bỏ địa vị tiền của bước vào con đường phiêu
lưu, nghèo khó, nhọc nhằn của một người Truyền đạo ư? Bao lần chàng lưỡng lự và muốn thoái
thác. Nhưng cuối cùng tiếng Đức Thánh Linh gọi đã quá rõ nên chàng nhứt quyết dâng đời mình
cho công việc nhà Ngài.Chàng đưa đơn từ chức và xếp đặt hành lý lên đường học Kinh Thánh. Thật,
chàng cũng có thể nói được như Phao-lô khi xưa: “Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng đã biệt riêng tôi
từ trong lòng mẹ và lấy ân điển gọi tôi, vui lòng bày tỏ Con của Ngài trong tôi hầu cho tôi giảng Con
ấy giữa người ngoại bang, tức thì tôi chẳng bàn với thịt và huyết”.
302
Sau 5 năm học tập Lời Chúa và tập sự trong các chi hội, chàng tốt nghiệp cách vinh dự năm
1928. Chẳng bao lâu chàng lại được phong chức Mục sư. Vị Tân Mục sư nầy rất tận tâm với chức vụ
thánh và cao quí của Chúa ban cho. Ông chuyên tâm dạy dỗ, yên ủi và bẻ trách sửa trị tín đồ. Những
bài giảng ông nảy lửa và đầy linh ân. Chính ông đã hiệp với các giáo sĩ lo cổ động tài chánh và xây
cất giảng đường đồ sộ bực nhất ở nước Việt Nam tại thủ đô. Ông chẳng những là một Mục sư tận
tụy được toàn thê tín đồ yêu mến, mà cũng là một vị Truyền đạo sốt sắng, một tay đánh lưới tội
nhơn sành sỏi, đầy tình yêu thương, nhu mì, nhịn nhục dẫn đưa đồng bào, đồng loại đến với Cứu
Chúa Giê-xu.
Năm 1933, ông lại đắc cử Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Ông thật xứng đáng là bậc
lãnh đạo Hội thánh Chúa. Nhu mì nhưng không nhu nhược hoặc nhượng bộ sự yếu đuối, ông cương
quyết nhưng không nghiêm khắc. Ông luôn luôn ngay thẳng trong mọi công việc nhà Chúa. Dầu ông
rất bận rộn nhưng thường đi từ Nam ra Bắc thăm viếng Hội thánh Chúa. Đi đến đâu, Hội Thánh
Ngài đều được phước, nhiều tín đồ được phấn chấn và nhiều tội nhân được cứu rỗi. Ông cũng là
người rất bình tĩnh nên trong mọi cảnh ngộ, mọi trường hợp ông tin cậy Chúa và giao phó mọi vấn
đề cho Ngài. Bởi vậy,dưới sự lãnh đạo của ông Hội thánh Chúa ngày càng tấn tới. Ông được đa số
con cái và tôi tớ Chúa trong Hội Thánh tín nhiệm nên đã đắc cử chức Hội trưởng năm khóa liên tiếp.
Điều tôi không nên quên nói nữa là ông rất quan tâm đến công việc truyền giáo cho đồng bào
Thượng.Vừa là Mục sư một chi hội lớn nhứt ở nước Việt Nam, vừa là Hội trưởng, chức vụ ông thật
nặng nề, mệt nhọc và bận rộn, thế mà ông cũng tìm dịp đi thăm viếng các khu vực truyền giáo ở Cao
nguyên, tiếp xúc với các nhà Truyền giáo và làm chứng Tin lành cho đồng bào Thượng. Nhìn đoàn
dân đông ở Cao nguyên đang bơ vơ như chiên thiếu người chăn nuôi. Tâm hồn ông đã rung động
nên khúc nhạc thánh đã vang lừng ở các núi rừng rậm rạp:
Đồng bào thiểu số ở nơi non xanh,
Cùng một huyết tánh khác chi tôi, anh,
(Thánh Ca 361)
Giữa lúc chức vụ ông đang được phước, ngay sau khi được tin Chánh phủ công nhận Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam thì thình lình ông lâm bịnh (bị đứt gân máu) nên phải tạm nghỉ về quê điều trị
rồi đến ngày 28.01.1943 ông về nước vinh hiển. Được tin ông qua đời, toàn thể Hội Thánh đều sững
sờ và mỗi người đều mến tiếc ông.
Đọc đến đây chắc chắn các bạn cũng đoán chàng thanh niên Ghê-đê-ôn Việt Nam hay vị Mục sư
đầy ơn kia là rồi? – Cố Hội trưởng Mục sư Lê Đình Tươi yêu dấu./.
MS Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 14-17.
303
MỤC SƯ NGUYỄN VĂN XUYẾN
(1916-1991)
Mục sư Nguyễn Văn Xuyến được sinh ra tại làng Vĩnh Kim, tỉnh Mỹ Tho, vào ngày 9 tháng 9 năm
1916 trong một gia đình đạo Cao Đài. Thân phụ của ông là cụ Nguyễn Văn Vi, thân mẫu là cụ Võ Thị
Của. Ông cụ Vi từng là một quân nhân thời Pháp trị, có thời gian được huấn luyện quân sự ở Pháp.
Gia đình có 9 anh êm, 7 trai và 2 gái, trong đó ông Nguyễn Văn Xuyến là thứ bảy. Hai người lớn nhất
qua đời từ bé thơ. Kế đến là người chị thứ tư, qua một lý do không rõ, lúc còn bé đã được cho một
gia đình khá giả ở tỉnh xa làm con nuôi và không hề liên hệ với gia đình mãi cho đến tuổi thành gia
thất. Người anh thứ năm sinh ra và lớn lên với chứng bệnh thần kinh và sống trong gia đình như
một bóng mờ. Rốt lại dù là một gia đình có 9 anh chị êm, nhưng thực tế chỉ có 6 người chung sống
với cha mẹ.
Cụ Nguyễn Văn Vi qua đời năm 1931 sau một cơn bạo bệnh, lúc người con trai thứ bảy, là MS
Nguyễn Văn Xuyến, chỉ vừa 15 tuổi. Bà cụ Võ Thị Của cũng qua đời không bao lâu sau đó vì buồn lo,
bỏ lại đàn con 6 người, kể cả Mục sư Xuyến.
Các anh em mục sư Xuyến còn lại theo thứ tự:
- Nguyễn Thị Son,con gái thứ tư
- Nguyễn Văn Vàng,con trai thứ sáu
- Nguyễn Văn Xuyến,con trai thứ bảy
- Nguyễn Văn Lụa,con trai thứ tám
- Nguyễn Thị Cảnh,con gái thứ chín, út nữ
- Nguyễn Văn Huê (tự Hồ Ánh Sương), con trai thứ mười, út nam
304
Sau cái chết bất ngờ của người mẹ, đàn con này (trừ người chị thứ tư đã đi xa từ bé) trôi dạt
mỗi người một nơi, nhưng Chúa nhân từ đã dõi thêo dẫn dắt mỗi một cuộc đời của họ và đêm họ
trở về trong chuồng của Ngài.
Nhưng đặc biệt, Chúa đã kêu gọi và sử dụng đời sống của người con thứ 7 trong gia đình này, là
thanh niên Nguyễn Văn Xuyến, khiến ông trở thành người đầy tớ trung kiên của Đức Chúa Trời,
khởi sự từ lúc ông tiếp nhận Chúa năm 18 tuổi và dâng mình đi học Kinh Thánh lúc 20 tuổi (1936)
cho đến cuối đời (1991).
Mục Sư Nguyễn Văn Xuyến lập gia đình với cô Nguyễn Thị Sâm năm 1937 tại nhà thờ Tin Lành
Sài Gòn,do Mục sư Lê Đình Tươi làm lễ hôn phối.
Ông bà có 9 người con, 5 gái, 4 trai, theo thứ tự sau:
- Nguyễn Thi Hồng Bích, sinh 1938 tại Sài Gòn
- Nguyễn Thị Hồng Liên, sinh 1941tại Đà Nẵng
- Nguyễn Thị Hồng Huê, sinh 1943 tại Sài Gòn
- Nguyễn Thị Hồng Ân, sinh 1945 tại Sài Gòn
- Nguyễn Hồng Bửu,sinh 1948 tại Pnompenh, Campuchia
- Nguyễn Thị Hồng Mai, sinh 1951, tại Sài Gòn
- Nguyễn Hồng Danh,sinh 1953, tại Sài Gòn
- Nguyễn Hồng Chí,sinh 1956, tại Sài Gòn
- Nguyễn Hồng Nhân,sinh 1958, tại Sài Gòn
Có hai người con không sinh ra ở Sài Gòn (nơi ông bà Mục sư Xuyến hầu việc Chúa trong giai
đoạn còn trẻ, chủ yếu là Bình Trị Đông). Điều này phản ảnh bước đường hệ trọng trong đời sống
chức vụ của ông bà:
- Người con gái thứ nhì được sinh ở trường Kinh Thánh Đà Nẵng lúc ông bà trở lại học năm cuối
trong chương trình ngũ niên lúc bấy giờ.
- Người con trai thứ năm, trưởng nam, được sinh ở Campuchia, vì lúc đó chiến tranh xảy ra
khiến bà và các con phải tạm lánh nạn ở đất nước Chùa Tháp, trong lúc ông ở lại Sài Gòn để hầu
việc Chúa trong cảnh ly loạn.
Tóm tắt hành trình chức vụ:
- Trà Vinh (thay thế Mục sư Trần Thự Quang bị bệnh) 1938
- Phú Xuân, Sài Gòn (Truyền đạo chủ tọa) 8/1938-8/1940
- Trường Kinh Thánh Đà Nẵng (hoàn tất Chương trình Ngũ niên) 1940-1941
- Được tấn phong Mục sư 21/10/1942
- Bình Trị Đông, Sài Gòn (Mục sư chủ tọa) 1941-1959
(Mở Hội Thánh mới: Long Trạch, Gò Đên, Cần Đước, Bình Tây… trong thời
gian hầu việc Chúa ở Bình Trị Đông)
- Long Xuyên, An Giang (Chủ tọa) 1959-1969
305
- Địa hạt Tây Nam Phần (Chủ nhiệm) 1969-1974
(bao gồm các tỉnh Tiên Giang, Đồng Tháp, Bến Tre,
Vĩnh Long, Trà Vinh…đến Cà Mau)
- Địa hạt Tiền Giang (hay Địa hạt Trung Nam bộ sau 75) (Chủ nhiệm) 1974-1991
Trong ba năm cuối đời,1988-1991, ông yếu dần, và năm cuối cùng, 1990-91, ông phải rời trụ
sở địa hạt tại Vĩnh Long lên Sài Gòn để dưỡng bệnh.
Ngoài ra ông còn giữ các chức vụ sau đây song song với chức vụ Chủ tọa các Hội Thánh hay Chủ
nhiệm Địa hạt kể trên:
- Truyền đạo phụ tá HT Sài Gòn (dưới Mục sư Lê Đình Tươi) 1937-1941
- Tư hóa Ban Trị sự Tổng Liên hội 1960-1964
- Phó Chủ nhiệm Địa hạt Nam phần 1962-1969
(Mục sư Phan Văn Tranh là Chủ nhiệm)
Mục sư Xuyến đã an nghỉ trong nước Chúa vào ngày 5 tháng 5, năm 1991 tại Bệnh viện Chợ Rẫy,
Sài Gòn, hưởng thọ 75 tuổi.
THỜI THƠ ẤU VÀ NIÊN THIẾU TRUÂN CHUYÊN
Mục sư Nguyễn Văn Xuyến có một tuổi thơ truân chuyên, tăm tối, mồ côi cả cha lẫn mẹ trong
thời gian ngắn ngủi, chưa kịp trưởng thành đã chịu thử thách gian nan. Trong gian nan, người thiếu
niên đó hình như vẫn được những ngọn đuốc vô hình soi sáng nhận thức tâm linh bởi ơn thiên hựu
của Đức Chúa Trời. Ông đã kể lại cho các con của mình những câu chuyện ly kỳ và đau khổ thời niên
thiếu mà qua đó nhận thức của ông về một Đấng Tối cao từ từ được hình thành.
Khi còn là cậu bé chín mười tuổi ông phải đi cắt cỏ mướn cho một chủ trại chăn nuôi bò để kiếm
tiền độ nhật. Với thân hình bé nhỏ nhưng nhanh nhẹn, cậu len lỏi giữa đám cỏ dày đặc,cao khỏi đầu
mình, tay thoăn thoắt tóm chặt một mớ cỏ, rồi cắt ngang bằng chiếc lưỡi liềm sắc bén. Khi vừa giơ
tay có nắm cỏ lên, cậu sửng sốt khi thấy máu đỏ tươi tuôn ra từ trong nấm tay. Vụt mạnh mớ cỏ
xuống, cậu bỗng lặng người khi nhìn thấy chiếc đầu đẫm máu của một con rắn lục (loại rắn có nọc
độc chết người)lăn ra trên mặt cỏ, hai mắt còn láo liên. Thì ra trong lúc nhanh tay tóm cỏ để cắt cậu
đã bất ngờ tóm chặt đầu con rắn mà không ngờ. Và cử động nhanh như chớp của cậu đã khiến con
rắn đang nằm khuất nơi đám cỏ không thể ngờ và phản ứng kịp.Từ đó, mỗi khi nhớ đến giây phút
nguy biến đó, cậu tin chắc chính “Ông Trời” đã cứu mạng mình. Nếu không, làm sao cậu tránh khỏi
bị con rắn mổ nọc độc giết người của nó vào chân hoặc tay?
Sau đó một tai nạn khác đã xảy ra trên sông khiến cậu bị ngợp nước và sắp bị chết chìm. Cũng
trong giây phút hiểm nghèo đó cậu buộc miệng kêu lên “Trời ơi, xin cứu con!” thì lạ thay dòng nước
lập tức đổi chiều và cậu trở nên bình an vô sự.
Một kỷ niệm không quên và gây dấu ấn khác của thời niên thiếu xảy ra lúc cha, và không lâu sau
là mẹ của ông qua đời. Lúc người cha thân yêu qua đời, gia đình sống trong sự nghèo túng triền
miên. Mẹ cậu không có lấy một xu để làm ma chay cho Cha. Cuối cùng, dù chỉ là cậu bé ở tuổi 12,
13, với một mâm lễ vật và nhang khói đặt trên đỉnh đầu, cậu phải thay mặt anh chị em lần bước đến
từng nhà các láng giềng,quì mọp xuống, rồi lạy họ để xin cho đủ tiền chôn cất Cha.
306
Sau đó cậu và các anh em mỗi người mỗi ngả tự lực mưu sinh. Còn lại nhà chỉ là mẹ và hai em
nhỏ nhất, một gái và một trai, cùng người anh bệnh tật. Mẹ cậu là một người mẹ hiền nhưng yếu
đuối dở dang, hằng ngày chỉ kiếm đủ miếng ăn bằng một gánh hàng bán thức ăn sáng ở một góc
chợ làng.
Phần cậu may mắn xin được làm công trên một chiếc thuyền đánh cá mà chủ thuyền là một tay
đánh cá về hưu chuyển sang nghề “soi ba khía”[25], ướp với nước muối mặn để trở thành một món
ăn như mắm, rất quen thuộc giữa vòng dân nghèo. Địa điểm buôn bán là các chợ dọc theo sông từ
Mỹ Tho đến tận Cà Mau. Cuối mỗi chuyến buôn trở về, chủ thuyền luôn ghé lại từng chặng đường
và mua lại hằng trăm tĩn nước mắm không[26] của dân chúng ở các địa phương khác nhau để bán
lại cho các hãng sản xuất nước mắm sử dụng trở lại.
Không bao lâu sau đó cậu lại được tin mẹ qua đời. Cậu và các anh em phải vội vã trở về nhà để
lo tang chế. Vừa khi về đến nhà, cậu lại biết tin là mẹ đã “đợ” đứa em gái nhỏ nhất,mới lên chín, cho
một điền chủ lấy trước trọn một năm tiền công của con để sinh sống. Người láng giềng thân cận
cũng cho biết thêm, công việc của đứa êm gái là chăn một bầy heo và một bầy gà vịt. Cô bé thường
xuyên bị đòn vạ, bị mắng chửi vì nhỏ dại và yếu đuối không quán xuyến công việc cách vén khéo
thêo như bà chủ đòi hỏi. Và cuối cùng là mới đây mẹ cậu cũng đã “cầm” luôn miếng đất mà căn nhà
rách nát của gia đình được dựng lên trên đó cho người điền chủ để có đủ tiền thuốc thang lúc lâm
trọng bệnh.
Đêm cuối cùng trong căn nhà của gia đình, cậu thiếu niên tuổi 15 nằm trăn trở trên chiếc giường
tre ọp ẹp, tủi thương cho thân phận đứa em gái nhỏ. Trong bóng đêm dày đặc, cậu tự hỏi mình làm
sao để đưa được em ra khỏi cảnh đau khổ nầy? Ý nghĩ đầu tiên là phải chuộc êm ra! Nhưng đào đâu
ra tiền để trả món nợ nầy cho người điền chủ? Rốt lại cậu nẩy ra một ý nghĩ táo bạo.
Vừa tưng sáng cậu âm thầm giã từ mái nhà thân yêu một lần cuối, đón chuyến xê đò xuyên tỉnh
sớm nhất để đến tỉnh lỵ của người điền chủ, nơi đứa êm gái đang ở mướn. Đây là một vùng quê với
ruộng lúa ngút ngàn, cò bay thẳng cánh. Với đôi chân cứng rắn và ý chí cương quyết, cậu nhanh
nhẹn len lỏi trên con đê quanh co giữa các cánh đồng bát ngát đang trong mùa lúa chín. Không bao
lâu, ngôi nhà gạch tàu ngói đỏ đồ sộ của người điền chủ hiện ra. Và đứa em gái thân hình gầy guộc
đón anh với gương mặt đầm đìa nước mắt. Cô bé hoảng hốt khi nghe anh cho biết không thể nào có
tiền để chuộc mình nhưng có âm mưu là sẽ dẫn êm “trốn” khỏi nơi nầy. Sau khi trò chuyện và dặn
dò em cách cẩn thận, cậu rời khỏi nhà người điền chủ, rồi chạy nhanh ra ngôi chợ làng. Cậu lẩn
quẩn quanh chợ như một đứa bụi đời cho đến khi trời tối hẳn. Dưới ánh trăng mờ cậu lần bước trở
lại con đường đê quanh co dẫn lối và nhà người điền chủ. Chạy dọc thêo lũy trê rậm rạp bao bọc
ngôi nhà, tới khoảnh sân phơi thóc thênh thang, cậu lách mình vào cây rơm khô khổng lồ và ngồi
yên trong đó. Gần đó là vựa lúa của gia đình và một góc tối trong đó là chỗ mà mỗi đêm đứa em gái
đã ngủ giấc ngủ nhọc nhằn. Ba giờ sáng, đúng như lời anh dặn, cô bé run rẩy bước ra khỏi vựa lúa.
Cậu vội vã nắm tay em và cả hai thoát ra khỏi ngôi nhà, len lỏi giữa các thửa ruộng. Dù lúc đó chưa
hề biết Phúc Âm là gì,hay Chúa Giê-xu là ai, trong thâm tâm người thiếu niên nầy đã tin rằng “Ông
Trời”thật đã đoái thương hoàn cảnh đau khổ của hai anh em.
Sau này, ông nhiều lần kể lại, đêm đó, người chủ vốn đã mua ông và êm gái ông để trừ nợ lúa
của gia đình, đã chạy loại xê hơi Traction thời Pháp, pha đèn hai bên quốc lộ để tìm vì biết rằng
ngoài “độc đạo” ra khỏi quê thì không còn con đường nào khác. Ông và người em gái bé nhỏ phải
nằm rạp mình xuống ruộng nước, dưới lớp mạ non, run sợ cầu xin: “Lạy Trời xin cứu anh êm con”
vì biết rằng nếu bị bắt lại thì sẽ chết đòn.
307
Đêm đó, đến khuya,khi ánh đèn pha xê hơi người chủ không còn nữa, hai anh em mới lom khom
đi tiếp dưới ruộng nước. Ông cũng biết nếu thình lình chủ ruộng đi thăm ruộng lúc khuya, ông cũng
sẽ bị bắt vì đã làm hư mạ non. Ông nói, sau này, khi nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ, ông hiểu được
tường tận hơn làm sao Chúa đã bao phủ hai anh em, tình yêu lớn lạ Ngài đã dành cho hai đứa trẻ
côi cút. Đường từ vùng quê đó ông chưa từng đi lần nào để đến thành phố Sài Gòn. Nếu không giải
nghĩa lại là Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ dẫn dắt hai anh em bụng đói mấy ngày đêm đến nơi đến
chốn.
THỜI THANH NIÊN NHIỆT HUYẾT VÀ SỰ ĐÁP LỜI KÊU GỌI HẦU VIỆC CHÚA
Tại Sài Gòn, cậu xin tá túc với người bà con duy nhất của mình, cũng là cậu ruột, là cụ Võ Văn
Muôn,lúc đó đã là một tín hữu Tin Lành, thuộc viên kiêm thủ quỹ HTTL Sài Gòn đường Trần Hưng
Đạo và cũng là một tư chức của người Pháp. Ông bà với đứa con gái duy nhất, lúc đó khoảng mười
tuổi, cư ngụ tại Phú Nhuận, một vùng phụ cận của Saigon, và có một cửa hàng tạp hóa tại chợ Phú
Nhuận làm phương tiện sinh sống.Ông đã dang rộng vòng tay đón hai đứa cháu côi cút trong những
ngày đầu trốn thoát gia đình người địa chủ.
Ông Võ Văn Muôn là một trong các hạt giống được gieo có kết quả đầu tiên khi Cơ đốc giáo được
truyền đến Sài Gòn, Việt Nam. Cậu Muôn là một người đạo đức khả kính, nhưng tính tình yên lặng,
ít nói đến đỗi thấy dường như rất nghiêm khắc. Dù vậy ông đã tỏ ra rất hài lòng về tính tình ngoan
ngoãn của đứa cháu mồ côi. Lúc đó vào năm 1931, và cậu chỉ mới tròn 15! Linh động và đầy sức
sống, cậu thiếu niên nầy đã không từ chối một điều gì trong việc giúp đỡ gia đình cậu mợ, nhất là
công việc tại cửa hàng tạp hóa. Mỗi Chúa nhật cậu cũng thêo cậu mợ đi thờ phượng Chúa tại Chi hội
Sài Gòn.
Rồi từ đó cậu đã gặp Chúa và tin nhận Ngài trong một buổi truyền giảng tại một căn phố mướn
tại vùng Phú Nhuận, có thể là một điểm nhóm của Hội Thánh Sài Gòn. Cậu trở thành môt thanh niên
kính sợ Chúa, trung tín học lời Chúa, trong những thì giờ hiếm hoi mà cậu có trong ngày. Người em
gái sau một năm đã rời nhà vì không chịu nổi tính khó của cậu mợ. Riêng cậu, vì lòng biết ơn cậu
mợ cưu mang, đã chịu khó nhọc làm việc, không quản nặng nề, giờ giấc, thức khuya dậy sớm như
địa vị một người giúp việc, một quản gia trung tín như Giô-sép cho cậu mợ mình.
Sau một thời gian giúp việc tích cực cho cậu mợ, ông đã xin được việc làm, trở thành một nhân
viên của một công ty vệ sinh của người Pháp. Ông được giao công việc đi cùng với một người Pháp.
Cả hai cùng đi vào những vùng vên đô thành phố Sài Gòn để xịt thuốc trừ muỗi, ruồi, gián, lăng
quăng ... Ông thì phải mang bình xịt trên vai và xịt theo sắp xếp của người Pháp. Họ lùa dân tránh
ra và tùy nơi phải xịt nhiều hay ít. Vên đô Sài Gòn hay ngoại ô thành phố hồi đó chính là các quận
nội thành ngày nay như Gia Định, Gò Vấp, Bà Chiểu, Chợ Lớn, Phú Lâm… Tóm lại, thành phố hay đô
thị Sài Gòn lúc đó còn rất nhỏ. Công việc xịt thuốc này giúp ông cơ hội tiếp xúc và cảm thương người
dân nghèo thành thị. Ý nghĩ đầu tiên về sự làm sao mang đến tình yêu và sự cứu rỗi của Chúa Giê-
xu cho họ, giống như ông đã được Chúa cứu, bắt đầu nhen nhúm trong lòng ông.
Nhưng làm sao ông có đủ khả năng nói tiếng Pháp và trình độ kiến thức đủ để đi làm cho người
Pháp?Điểm đặc biệt nơi ông là sự hiếu học, ông không ngừng tìm tòi học hỏi. Thời đó nhà cậu mợ
ông có những thanh niên Tin Lành ở trọ đi học. Những thanh niên ưu tú và tốt bụng này giúp ông
có kiến thức cơ bản phổ thông và tiếng Pháp là ngoại ngữ bắt buộc của học sinh thời đó. Trong số
những thanh niên đã chỉ dạy cho ông, có hai vị được ông nhớ rõ nhất trong ký ức là ông Trần Văn
Sơn và ông Nguyễn Kim Ngân. Ông Sơn đi hầu việc Chúa một thời gian, rồi sau đó làm giáo sư Pháp
văn, kế đến trở thành dân biểu quốc hội. Ông Ngân trở thành Mục sư chuyên về Âm Nhạc, ông từng
308
tổ chức ca nhạc truyền giảng cho Hội Thánh trên đài truyền hình,thời đó còn rất mới mẻ. Rất tiếc
Mục sư Nguyễn Kim Ngân đã qua đời sớm vì bệnh ung thư, để lại bà và hai người con gái. Ngày nay
bà cũng đã về với Chúa, hai người con gái của ông bà sau này đã cùng chồng trở thành người hầu
việc Chúa,đó là ông bà Mục Sư Nguyễn Xuân Bình và ông bà Mục Sư Huỳnh Trang Tỉnh ngày nay.
Đồng thời gian đó,ông dần dà trở thành một tín đồ mạnh mẽ càng hơn. Đức tin và nếp sống đạo
của ông tiến đến giai đoạn của một nụ hoa bừng nở. Ông đã trở nên một chàng trai tuổi 20; một
thanh niên đầy sức sống thể chất và tiềm năng phát triển thuộc linh vô cùng hứa hẹn. Chủ tọa Hội
Thánh Sài Gòn lúc đó là Mục sư Lê Đình Tươi đã khên ngợi ông là “một thanh niên có tư cách”. Mục
sư Lê Đình Tươi cũng trở thành người thầy tinh thần kính yêu của ông, đã ngỏ ý sẽ cầu nguyện để
Chúa có thể biến ông trở nên “tay đánh lưới người”. Ngụ ý của Mục sư Tươi là sẽ tìm mọi cách để
gửi ông theo học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Rồi ngày đó đã đến khi Mục sư Lê Đình Tươi đặt
câu hỏi với ông: “Thầy Xuyến, thầy có đồng ý đi học trường Kinh Thánh không?”
Hôm đó khi trở về nhà, thanh niên Nguyễn Văn Xuyến vô cùng lo âu khi kể lại mọi sự với cậu
mình.Ông đã nhắc lại với cậu mình về tình trạng thiếu học của mình. Tất cả những gì ông học được
chỉ là vài năm tiểu học và tự học trong nhà cậu, làm sao có thể học để trở nên một người “giảng
đạo”? Có thể học nổi lời Chúa như là một sinh viên thần học không? Lạ thay, người cậu không tỏ
chút ngạc nhiên hay lui bước đối với ý kiến của Mục sư Tươi, trái lại, người cậu lại khuyến khích
bằng câu nói mà ông không bao giờ quên: “Chúa có thể làm mọi việc vượt quá sự suy tưởng của
chúng ta. Hãy nhớ lại những người đánh cá ở Ga-li-lê!" Còn sự thiếu sót trong học vấn ư? Cậu mỉm
cười và nói tiếp. “Hãy lật Kinh thánh, đọc và ghi nhớ Lời Chúa. Đồng thời, dùng đó trau giồi môn
quốc ngữ. Tất cả đều nằm trong đó!”
Lời nói của người cậu ngắn gọn và dứt khoát như ra lệnh, nhưng lại là một lời nói hàm súc và
trở nên bài học quý giá cho đời sống người cháu trẻ tuổi về đời sống thực tế lẫn đời sống thiêng
liêng. Từ đó ngoài thì giờ làm việc, buổi tối quyển Kinh Thánh đã trở nên người thầy. Ông học thấm
nhuần từ quyển sách đó, chẳng những lời sâu sắc của Cha thiêng liêng, mà còn dùng nó để trau dồi
văn chương, ngữ vựng, ngữ pháp và ngay cả chính tả.
Ông cũng lo lắng về vấn đề tài chánh để đi học, nhưng Chúa đã cho ông thấy sự trả lời kỳ diệu
của Ngài. Tin vui đã đến với ông quá bất ngờ. Ông đã trở thành sinh viên trường Kinh Thánh Đà
Nẵng, chương trình Ngũ Niên, khóa 1936, với học phí được tài trợ trọn vẹn đến từ ông bà giáo sĩ
D.I. Jeffrey qua sự giới thiệu của Mục sư Lê Đình Tươi. Giáo sĩ Jêffrêy, vị Đốc học đầu tiên của Trường
Kinh Thánh Đà Nẵng,cũng trở thành người bạn, người thầy, người đỡ đầu chí cốt của Mục sư
Nguyễn Văn Xuyến sau này.
Thật khó ngờ rằng cậu bé mồ côi cách đây năm năm đã được Đấng toàn năng dẫn bước vào con
đường hầu việc Ngài.
TRƯỜNG KINH THÁNH ĐÀ NẴNG NĂM I (1936-1937) – LẬP GIA ĐÌNH (1937)
Sau khi hoàn tất năm thứ nhất (1936-37) tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng và trở về Sài Gòn
chuẩn bị năm tập sự, Truyền đạo Nguyễn Văn Xuyến được chấp sự Hội Thánh Sài Gòn là ông bà
Huỳnh Minh Ý làm mai với cô Nguyễn Thị Sâm, con gái thứ sáu của một gia đình Công giáo vừa theo
Tin Lành.
Sự kiện quay gót của gia đình này đến với Hội Thánh Sài Gòn lúc bấy giờ là một biến cố lớn và
vui mừng của Hội Thánh, vì đó là một gia đình Công giáo nhiều đời, đã từng có người đi tu và khấn
hứa trọn đời trong dòng tu kín.
309
Thân sinh của cô Nguyễn Thị Sâm là ông Nguyễn Văn Nhơn đã có một quyết định can đảm vô
kể khi ông được đọc lời Chúa trong Kinh Thánh và được khải thị về đức tin.
Bà Mục sư Nguyễn Văn Xuyến, tức cô Nguyễn Thị Sâm ngày trước, đã kể lại là, tuy cô chỉ mới
mười mấy tuổi mà sao cô rất vui mừng với quyết định của cha mình, dù mẹ cô vẫn còn chống đối.
Cô cùng người em song sinh tên Nguyễn Thị Son (sau này là bà Nguyễn Văn Sên), cùng người chị
thứ ba, cô Nguyễn Thị Sương, âm thầm ủng hộ cha.
Mẹ cô, bà Nguyễn Thị Trinh, đã chống đối đến cùng. Cho đến một hôm, khi Ban Thăm viếng của
Hội Thánh Sài Gòn đến thăm, có bà cụ giáo sư Jêffrêy tháp tùng. Thường mỗi khi Hội Thánh đến
thăm, mẹ cô luôn đội khăn, quày quả ra khỏi nhà bằng ngả sau. Lần đó,không biết điều gì xảy ra
trong bà mà bà không đi. Lúc nghê bà cụ Jeffrey hát một bài thánh ca lời rất cảm động thì bà bước
ra, khóc ăn năn, và Ban Thăm viếng đã cầu nguyện cho bà tin Chúa.
Từ đó gia đình gặp rất nhiều khó khăn vì phải dời nhà ra khỏi vùng đất “họ đạo”. Cho đến lúc
ông cụ thân sinh của cô qua đời, gia đình vẫn còn lao đao trong cuộc mưu sinh. Hội Thánh Sài Gòn
luôn nâng đỡ, còn gia đình cô thì không rủn chí hay mệt mỏi mà lại dần dần vững mạnh hơn lên
trong tình yêu của Chúa và gắn bó với Hội Thánh.
Bà cụ thân sinh của cô Nguyễn Thị Sâm đã vui lòng nhận lời xin đính hôn của một thanh niên
cho con gái thứ 6 của mình vừa đi học trường Kinh Thánh trở về. Thanh niên đó ít học, mồ côi,
nghèo, đó là thầy Nguyễn Văn Xuyến.
Chỉ trong thời gian ngắn ngủi sau đó, vào ngày 14 tháng 8 năm 1937, đám cưới của đôi thanh
niên nam nữ, một gốc Cao Đài và một gốc Công Giáo, đã diễn ra êm đềm tại Hội Thánh Sài Gòn trong
tình yêu của Chúa. Chúa đã kết hợp hai con người dường như ở hai thái cực về niềm tin và khiến
đồng tâm hứa nguyện đi hầu việc Ngài. Chúa đã cho thầy Nguyễn Văn Xuyến một người phối ngẫu
để nâng đỡ và cùng bước đi trong chức vụ thánh.
TRƯỜNG KINH THÁNH ĐÀ NẴNG NĂM II (1937-1938) – TRUYỀN ĐẠO TẬP SỰ TẠI TRÀ
VINH (1938) VÀ PHÚ XUÂN (1938-1940)
Thầy Xuyến, cô Sâm bước chân vào trường Kinh Thánh Đà Nẵng, niên khóa 1937-38, năm thứ
hai của thầy,năm thứ nhất của cô.
Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, niên khóa 1937-1938. Thầy Xuyến đứng hàng sau cùng, vị trí thứ
tư từ trái sang phải. Cô Xuyến đứng hàng thứ ba từ dưới đếm lên, vi trí thứ ba đếm từ phải sang
trái.
Kết thúc khóa học, cả hai trở về miền Nam tập sự hai năm thêo quy định của Trường. Cũng trong
năm nầy,1938, năm phối hợp giữa hạnh phúc hôn nhân Chúa ban cho cùng với chức vụ thánh,là sự
ra đời của người con gái đầu tiên, được sinh ra ở đường Paul Bert, Phú Nhuận, nơi mà gia đình mẹ
cô đã dọn đến sau khi phải rời khỏi giáo xứ Công Giáo Thị Nghè.
Nơi đầu tiên thầy cô được sai phái đến là Hội Thánh Trà Vinh, vùng Hậu Giang miền Nam thay
cho mục sư Trần Thự Quang lúc đó phải nghỉ để điều trị bệnh phổi. Sau thời gian ngắn vài tháng ở
Trà Vinh, thầy cô lại được bổ nhiệm đến Phú Xuân, Nhà Bè. Tại đây,lần đầu tiên thầy cô trải nghiệm
việc lo xây cất một ngôi nhà thờ đơn sơ và xây dựng một Hội Thánh nhỏ bé chỉ vỏn vẹn có 5 gia
đình. Thầy cô được Hội Thánh Phú Xuân yêu mến hợp tác trong chức vụ cho đến lúc mãn hạn trở
về trường vào năm 1940. Về thời gian này, HT Phú Xuân đã ghi nhận như sau:
310
“Vào khoảng năm 1937, Phú Xuân là một vùng sông nước, vùng ngoại ô nông nghiệp, cách trung
tâm Sài Gòn 10km, phương tiện di chuyển lúc bấy giờ đa phần là ghe thuyền.Buổi ban đầu chỉ có 5
gia đình tín hữu sinh sống tại đây…. Hằng tuần các gia đình con cái Chúa dùng ghe vào Chợ Lớn nhóm
với HT người Hoa ở đường Nguyễn Trãi … và luôn ao ước tại địa phương có một nhà thờ để việc đi
lại thuận lợi hơn. Chúa đã nhậm lời vào ngày 5-8-1938, tôi tớ Chúa đầu tiên được sai phái đến Phú
Xuân là ông bà TĐ Nguyễn Văn Xuyến. Với số tín hữu khoảng đôi mươi, ông bà tích cực khai phá vùng
đất mới, xây dựng nền tảng đức tin, số tín hữu ban đầu đơn sơ vui vẻ hiệp nhau lại thờ phượng Chúa.
Buổi ban đầu HT mướn một căn phố trong chợ Phú Xuân… Điểm nhóm nhỏ hẹp không đủ chỗ ngồi
cho số tín hữu đang tăng thêm lên. HT cầu nguyện xin Chúa cho một nơi rộng rãi hơn. Một lần nữa
Chúa đã nhậm lời, HT đã mướn được một miếng ruộng, các con Chúa hiệp nhau đắp lên một cái gò
chung quanh là nước. Nhà thờ chúng ta đang tọa lạc trên cái gò năm xưa đó…. Với lòng nhiệt thành
hăng say của người Truyền đạo trẻ tuổi: xây dựng cơ sở vật chất, nâng đỡ đời sống tâm linh của tín
hữu, cùng kíp giảng rao Tin lành, số tín hữu được thêm lên…. Sau 2 năm hầu việc Chúa với HT Phú
Xuân, ông bà TĐ Nguyễn Văn Xuyến từ giã HT trở về trường Kinh Thánh tháng 8 năm 1940 để tiếp
tục chương trình học còn lại.”
TRƯỜNG KINH THÁNH ĐÀ NẴNG NĂM III (1940-1941)
Sau 2 năm tập sự, thầy cô đã bồng thêo người con gái đầu lòng được hai tuổi trở về trường Kinh
Thánh Đà Nẵng. Đến lúc tốt nghiệp chương trình Ngũ niên năm 1941, thầy cô đã có thêm người con
gái thứ nhì sanh tại Đà Nẵng. Một điều đặc biệt mà mãi đến sau này cô con gái thứ nhì nầy luôn cảm
thấy rất “hân hạnh” là sự việc đã xảy ra trong ngày mình chào đời: mẹ cô đã được thầy Đoàn Văn
Miêng chở đến nhà thương để sinh nở, và tên cô là do cụ Viện trưởng Ông Văn Huyên đặt cho!
Những ngày tháng đó tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng, thầy phải làm việc cho nhà trường để có
thêm phụ thu cho nhu cầu của một gia đình đã có con cái, bên cạnh trợ cấp của ông bà cụ Giáo sĩ
Jeffrey dành cho nhu cầu của một gia đình đã có con cái. Năm cuối, vừa làm việc vừa thi cử, thầy
làm việc căng thẳng, nhiều đêm không ngủ. Năm đó lại là năm mà một dịch đau mắt đỏ lan tràn
khắp nơi trong xứ. Thầy Xuyến, trong thể trạng mệt mỏi đã bị mắc chứng bệnh nguy hiểm nầy, và
hơn nữa, lại rất nặng có thể dẫn đến mù lòa. Trong lúc đó cô lại đến ngày sinh nở. Nhưng cảm tạ
Chúa, thầy Đoàn Văn Miêng, một bạn học cùng khóa, đã tình nguyện thay mặt thầy đưa cô đến tận
cô đỡ tại nhà hộ sinh, rồi kiên nhẫn đợi cho đến khi hay tin mẹ tròn con vuông mới ra về. Một sự
giúp đỡ quý giá đáng ghi nhớ đối với những người “có đồng tâm tình với Đấng Christ!” Thầy Đoàn
Văn Miêng là người sau nầy trở nên một Mục sư đầy ơn Chúa, và cũng là một bậc lãnh đạo, một vị
Hội trưởng có tầm quan trọng đặc biệt của HTTL VN trải qua suốt mấy thập niên. Và cũng do sự thể
như vậy nên thầy cô không kịp chọn tên cho con mình. Khi làm giấy khai sinh cho người con gái thứ
nhì thì cụ Viện trưởng Ông Văn Huyên, người thầy giỏi chữ đã giúp đặt tên cho đứa bé: Nguyễn Thị
Hồng Liên.
Một lần nữa, Chúa cho thầy nhận biết Chúa, cho thầy biết chính Ngài đã cứu thầy. Thầy đã nhận
được phép lạ, quyền năng chữa bệnh của Chúa từ tình trạng suy yếu mắt có thể mù lòa đã được
lành lặn, việc gia đình đã có các bạn đồng lao giúp chu toàn.
Trái với ưu tư của thầy 5 năm trước, việc trang bị lời Chúa để trở thành tay đánh lưới người đã
thành công ngoài sức tưởng tượng của thầy. Thầy đã hoàn tất chương trình Ngũ niên trong đó có 3
năm học tập tại trường và 2 năm với chức vụ Truyền đạo tập sự (thời đó gọi là Truyền đạo sinh).
Sự học tập lẫn thực tập đều đạt kết quả tốt đẹp.Hội Thánh Phú Xuân nơi thầy cô thực tập còn ghi
nhớ vị truyền đạo trẻ đầy nhiệt huyết đã xây cất nhà thờ và phát triển hội thánh cho đến ngày nay.
311
Đến đây đời sống và chức vụ của Mục sư Nguyễn Văn Xuyến bước sang một giai đoạn mới với
những ngã rẽ ngoạn mục nhưng cũng không thiếu cam go.
Khóa 1940-1941 trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Thầy Xuyến đứng hàng giữa, vị trí thứ 7 từ trái
sang phải. Cô Xuyến đứng hàng thứ hai từ dưới đếm lên, vị trí thứ 5 đếm từ trái sang phải.
CHỨC VỤ TẠI BÌNH TRỊ ĐÔNG (1941-1959)
Sau lễ tốt nghiệp ở trường Kinh Thánh Đà Nẵng vào tháng 7 năm 1941, thầy cô Truyền đạo
Nguyễn Văn Xuyến được Tổng Liên hội bổ nhiệm về hầu việc Chúa ở Hội Thánh Bình Trị Đông,chính
thức bước vào công trường thuộc linh, với hai con bên cạnh và có Chúa ở cùng, mặc dù hai túi trống
không!
Bước đầu, thầy cô tá túc hơn 1 tháng ở nhà mẹ cô tại Phú Nhuận. Với sự trợ giúp của gia đình
và con cái Chúa, đến tháng 8, gia đình đã có ít tiền bỏ túi, nồi niêu, soong chảo,chén dĩa, rổ rá, mỗi
thứ một ít cho một gia đình hai con ra riêng lần đầu. Hai con gái, bốn tuổi và một tuổi của thầy cô
cũng đủ áo quần xinh đẹp thêu tay để mặc.
Hội Thánh Tin Lành Bình Trị Đông vui mừng đón tiếp thầy cô Truyền đạo mới ra trường. Bình
Trị Đông là một vùng phụ cận với Chợ Lớn, cách Chợ Lớn khoảng 45 phút xê đạp trên con lộ chính,
và cũng chỉ khoảng ngần đó thì giờ sẽ đến ngay trung tâm thành phố Sài Gòn. Tuy nhiên, Bình Trị
Đông vào năm 1941 vẫn là một làng quê thuần túy với ruộng lúa bát ngát, với những người nông
dân sớm tối nhọc nhằn tay lấm chân bùn. Hội Thánh Chúa gồm những nông dân cày ruộng gặt lúa,
những người đánh xê ngựa xe bò, những phu quét đường, và những tín hữu lão thành năm này
tháng kia đến nhà thờ chỉ với chiếc áo dài độc nhất cũ kỹ bạc màu,… Họ là những tín đồ chân chất
và “chân đất” vì đường ruộng bờ đê khiến việc đi giày trở nên khó khăn. Còn lại số nhỏ là công tư
chức, học sinh, là thành phần phải đi làm, đi học xa, vượt chín cây số hương lộ duy nhất, bằng xe
đạp, xe ngựa, hay ngay cả xe bò.
Với lòng hăng hái của tuổi trẻ, thầy cô Truyền đạo đã làm nên những tháng ngày đẹp tươi cho
Hội Thánh tại đây. Cô Truyền đạo vốn tính nghệ sĩ thích hát, thích đàn, nên thanh thiếu niên tươi
mới hẳn lên. Thánh ca ca ngợi Chúa vang rền cả một vùng quê lúa mạ xanh rờn của những người
tín đồ vùng quê chân chất.
312
Rồi Hội Thánh lại vui mừng đón Hội đồng Địa hạt miền Nam, dù Hội Thánh chỉ mới là một Chi
hội rất nhỏ. Hội Thánh cũng đưa đơn xin phong chức cho vị Truyền đạo của mình. Sau đó,dần dần
Hội Thánh được trở thành tự trị, tự cung lương cho chủ tọa của mình,không còn nhận trợ cấp của
Hội Truyền giáo, có quyền gửi đại biểu dự Hội đồng,có quyền lưu mời Mục sư mà không phải chờ
bổ nhiệm.
Thụ phong Mục sư - 1942
Thầy cô Truyền đạo Nguyễn Văn Xuyến được phong chức rất sớm, chỉ hơn một năm sau khi
nhận chức vụ Chủ tọa Hội Thánh Bình Trị Đông. Thầy lúc đó vừa đúng 26 tuổi và cô 22 tuổi, một
trong số những người rất trẻ được giao phó chức vụ chăn bầy.
Lễ phong chức diễn ra nhân dịp Hội đồng Linh tu tại Thủ Đức từ 21-23 tháng 10 năm 1942 . Về
việc này, Thánh Kinh Báo tháng 10 năm 1942 ghi nhận như sau:
“Từ 21-23 Oct. 1942 nhóm Hội Đồng Linh Tu tại Thủ Đức. Hiện diện có các ông bà D.I.Jeffrey, ông
Hội trưởng Lê Văn Thái, ông Mục sư Vi Úc Lương cùng các chức viên Ban Trị Sự Địa Hạt, 57 vị truyền
đạo và ước 300 tín đồ nhóm lại…. Chiều 21 Oct.có làm lễ phong chức mục sư cho ông truyền đạo
Nguyễn Văn Xuyến của chi hội Bình Trị Đông (Chợ Lớn). Ông Jeffrey nói mấy lời khuyên dạy cho chức
vụ mục sư,đoạn mời các ông mục sư đặt tay lên, mời ông Hội trưởng Lê Văn Thái cầu nguyện.Ông
Kiều Công Thảo thay mặt cho toàn thể các nhà truyền đạo Nam hạt trao tay hữu giao kết.”
Thật là một hình ảnh cảm động khi các bạn đồng lao trao tay hữu giao kết với nhau về sứ mạng
thiêng liêng phụng sự Đức Chúa Trời trên đất. Một sự thỏa lòng cho giáo sĩ Jêffrêy, một giáo sĩ kỳ
cựu với nhiều công khó mang hạt giống Tin Lành đến Việt Nam, đặc biệt khi ông cùng Mục sư Lê
Đình Tươi đã chú ý, chọn và tài trợ cho thanh niên Nguyễn Văn Xuyến đi ra học lời Chúa để trở
thành “tay đánh lưới người” trên công trường thuộc linh. Một hứa nguyện thiêng liêng có giá trị
suốt cuộc đời vị mục sư trẻ tuổi, như ông đã chứng minh bằng hành động của mình trong suốt quá
trình hầu việc Chúa về sau.
Xây dựng nhà thờ Bình Trị Đông lần thứ nhất (1942)
Dù số tín hữu khởi đầu ít oi, nhưng với tấm lòng kính yêu Chúa và nhiệt tâm phục vụ Ngài, vào
năm 1942, Hội Thánh đã cùng ông bà Mục sư xây dựng một nhà thờ khang trang làm nơi thờ
phượng Chúa. Hội Thánh được ông bà Hai Tri, một gia đình tín hữu kỳ cựu,khá giả, dâng miếng đất
rất đẹp ở một địa thế góc, dựa khúc quanh của hương lộ Bình Trị-Bà Hom, để xây nhà thờ. Sau thời
gian xây dựng, vùng quê Bình Trị Đông nổi bật ngôi nhà thờ bằng gạch khang trang. Đó là niềm vui
rất lớn của Hội Thánh nói chung, của gia quyến ông bà Hai Tri và của chức vụ ông bà tân Mục sư
nói riêng.
Một dấu ngoặc cần được mở ra ở đây về hoàn cảnh tin nhận Chúa rất hi hữu của gia đình ông
bà Hai Tri,là gia đình có tấm lòng dâng hiến rộng rãi cho công việc Chúa, đã dâng miếng đất mà trên
đó Hội Thánh thuộc thể đã được xây dựng cho đến ngày nay.
Có một anh em tin Chúa vững mạnh trong nhóm tín hữu đầu tiên vùng Bình Trị Đông là thầy
Lê. Gia đình bên vợ thầy Lê thuộc một gia tộc lớn trong vùng nhưng chống đối việc tin Chúa của
người em gái trong nhà là vợ thầy. Thầy Lê có mong ước được làm chứng cho gia đình bên vợ tin
Chúa. Âi ai trong nhóm cũng hết lòng cầu nguyện nhưng mong ước chưa thành thì thầy Lê đã qua
đời vì bệnh phổi rất nặng. Số con cái Chúa ít ỏi lúc đó thất vọng vì nghĩ “cái chết” này làm cho mọi
người trong gia đình bên vợ của thầy Lê càng khó trở lại với Chúa. Nhưng mà không, lúc người anh
313
vợ của thầy Lê giúp tổng dọn ngôi nhà (ngôi nhà có người chết vì bệnh phổi),ông bắt gặp một truyền
đạo đơn nằm rơi trên sàn nhà. Ông tò mò đọc và từ đó đã nhận biết Chúa và dẫn dắt cả gia đình về
sau tin Chúa. Và chính ông, người trưởng tộc, đã tiếp nhận Chúa mặc dù khi thầy Lê còn sống cả gia
đình luôn chống đối.Người anh vợ thầy Lê chính là ông Hai Tri đã dâng hiến miếng đất để xây dựng
nhà Chúa tại Bình Trị Đông. Gia đình trở thành rường cột của Hội Thánh và con cái ông hết lòng
hầu việc Chúa. Người con trai út là anh Nguyễn Văn Mân hiện giờ là thủ quỹ của Hội Thánh. Ý Chúa
và đường lối Ngài cao trọng, trọn vẹn biết bao!
Bản lược sử của Hội Thánh Bình Trị Đông trong giai đoạn này ghi nhận:
“Năm 1940[27], ông bà Truyền đạo Nguyễn Văn Xuyến được Địa hạt Nam phần bổ nhiệm đến Hội
Thánh Bình Trị Đông. Mục đích đầu tiên của ông bà là làm sao cho Hội Thánh được lớn mạnh cả
thuộc linh lẫn tổ chức. Sau một thời gian cùng với Ban Trị sự lo công việc Chúa, Hội Thánh phát
triển, nhiều người tin Chúa, nên Hội Thánh quyết định xây nhà thờ và khánh thánh vào năm 1942.
Cũng trong thời gian nầy ông được tấn phong Mục sư và tiếp tục hầu việc Chúa. Vì có một số tín đồ
đến Gò Đen sinh sống, nên ông bà và Ban Trị sự đến thăm viếng chăm sóc. Đến năm 1944, Hội Thánh
Gò Đen được thành lập,ngày nay gọi là Hội Thánh Phước Lợi.”
Mở Hội nhánh Long Trạch và Phước Lợi
Hội Thánh Phước Lợi,Gò Đên vẫn còn hiện hữu đến giờ. Hội Thánh tỏ lòng ghi ơn tiền nhân qua
việc trưng bày trịnh trọng hình ảnh các vị Mục sư tiền nhiệm trên một khung hình lớn ở bức tường
bên phải trong nhà thờ. Hình ông bà Mục sư Nguyễn Văn Xuyến với tư cách Mục sư sáng lập Hội
Thánh, bên dưới hình có ghi dòng chữ: “Mục sư gieo giống Tin Lành và mở Hội Thánh”.
Khung hình ghi tên các mục sư từng chủ tọa Hội Thánh Phước Lợi, Gò Đen.
Bản lược sử Hội Thánh Phước Lợi, Gò Đên đã nhắc đến chức vụ của vị Mục sư khai sinh Hội
thánh như sau:
“Mục sư Nguyễn Văn Xuyến chủ tọa Hội Thánh Bình Trị Đông với lòng mong muốn đem sự cứu
rỗi cho đồng bào thân yêu. Ông đã được Chúa hướng dẫn đến vùng Long Trạch rao giảng Tin Lành,
có một số người tin Chúa và Hội Thánh Long Trạch được thành lập.Từ Long Trạch ông tiếp tục đến
314
Gò Đen làm chứng. Sau một thời gian tại đây cũng có người tin nhận Chúa và Hội Thánh Gò Đen được
khai sinh vào năm 1944. Như vậy mối quan hệ giữa 3 Hội Thánh như một gia đình. Hội Thánh Bình
Trị Đông ví như Hội Thánh mẹ, Hội thánh Long Trạch và Hội Thánh Gò Đen là anh em.
Mục sư Nguyễn Văn Xuyến: người đầu tiên dem hạt giống Tin Lành gieo xuống vùng đất Gò Đen
và là người khai sinh Hội thánh.
Nhiệm kỳ 1944-1946:
- Giai đoạn này đầy tớ Chúa rất vất vả vì phải đảm đương công việc Hội Thánh chính mà phải lo
thêm 2 Hội nhánh do đó công việc tăng lên gấp bội. Ngoài ra việc đi lại để lo công việc Chúa ở các Hội
Thánh thời bấy giờ cũng rất khó khăn bởi phương tiện thô sơ, đường xá xa xôi và chiến tranh
- Về phương diện Hội Thánh: khởi đầu chưa có cơ sở vật chất, Hội Thánh mướn một căn hộ để
làm nơi thờ phượng Chúa. Số tín hữu lúc đó rất ít, chỉ khoảng vài gia đình được nghe đạo cứu rỗi của
Chúa, chưa được học nhiều Kinh thánh nhưng vững vàng về niềm tin và thờ phượng Chúa cách trung
tín.”
Trở lại với nhà thờ Bình Trị Đông mới xây dựng, không bao lâu sau khi khánh thành nhà thờ,
chiến tranh ập đến. Xung đột thường xuyên xảy ra giữa lực lượng Việt Minh và quân đội Pháp. Nhà
thờ nằm giữa hai lằn đạn trong chiến cuộc đã đầu tiên bị quân đội Pháp chiếm đóng và sau đó bị
cháy sập. Con cái Chúa và gia đình Mục sư phải lánh cư, chạy nạn vào khoảng giữa hoặc cuối năm
1945. Con cái Chúa và gia đình Mục sư đã chạy đến làng Tân Khai xa vùng mặt trận hai bên. Gia
đình Mục sư, lúc này đã có thêm 2 con gái nữa, cùng với mẹ của bà đã đến ở cùng, tất cả là 7 người,tá
túc trong tại nhà của một người khá giả trong làng chưa tin Chúa.
Sau vài tháng tạm cư ở vùng kháng chiến, gia đình ông bà phải chịu cảnh chia lìa. Các tín hữu
theo kháng chiến Việt Minh xin phép cho bà Mục sư, bà ngoại và 4 con nhỏ được trở ra thành phố
vì làng tạm lánh Tân Khai đã bắt đầu bị quân đội Pháp ruồng bố. Lúc đó di chuyển phải đi bộ, gánh
đồ gia dụng, áo quần cần thiết. Bà ngoại gánh hai em nhỏ ở hai đầu thúng với quần áo. Hai đứa lớn
phải lúp súp chạy thêo. Các phương tiện di chuyển không còn, đường giao thông duy nhất Phú Lâm-
Bình Trị-Đức Hòa không an ninh, vì những cuộc đụng độ nhỏ liên tục xảy ra. Còn MS Xuyến thì đang
bị quân đội Pháp bắt giữ trong một trận càn quét của quân đội Pháp. Pháp càn quét gần như mỗi
đêm và tất cả đàn ông trong làng là mục tiêu.
Khi bị bắt giữ, Chúa cho ông sáng suốt, can đảm xin một sĩ quan Pháp cho ông đặc biệt không bị
trút bỏ áo sơ-mi, quần tây ông đang mặc, họ chỉ lấy dây nịt, giấy tờ tùy thân, trong khi mọi người bị
bắt chung chỉ còn được mặc quần cụt, ở trần.
Thời gian đó, lính Pháp đối xử với những nghi phạm môt cách giận dữ, hằn học, thô bạo. Sau vài
ngày, họ bắt đầu đưa ra ngoài, còng tay, cho người chỉ điểm trùm bao bố nhìn mặt,hễ ai bị người
chỉ điểm gật đầu thì bị đêm ra xử bắn tại chỗ, trước mặt những người bị còng khác. Những người
còn lại bị lùa trở vào khám. Họ giam giữ trong những gian phòng tạm, không có nhà vệ sinh và cứ
vài ngày một lần lại tái diễn cảnh chỉ điểm đó và lại có thêm vài người chết. MS Xuyến cũng bị giam
chung trong số đó. Bất ngờ, một buổi sáng, mọi người còn đang nằm ngồi la liệt thì một sĩ quan
Pháp mở cửa nhìn quanh một lượt rồi quay ra chỗ Mục sư đang đứng, vị sĩ quan quay bật lại vì chợt
thấy một người ăn mặc đàng hoàng trong chỗ đó. Khi được Mục sư cho biết mình là Mục sư tại làng
và bị bắt khi quân đội Pháp lục soát,người sĩ quan này gọi ông ra. Sau khi xem giấy tờ đã nộp, ông
liền ra lệnh thả với điều kiện Mục sư không được trở lại làng đó, ông không thể bảo đảm an ninh
315
tính mạng cho Mục sư nếu bị bắn hay bị bắt lần nữa. Ông còn cho Mục sư quá giang xê quân đội trở
ra Sài Gòn, thêo địa chỉ Mục sư yêu cầu.
Kinh nghiệm được Chúa giải cứu lập lại lần nữa trong cuộc đời ông, như khi xưa Chúa đã cứu
ông thoát chết bởi rắn độc, thoát bị bắt hại bởi người địa chủ tàn ác, lần này ông đã được cứu khỏi
sự chết giữa đường tơ kẻ tóc. Chỉ khác là lần này ông kêu cầu Đức Giê-hô-va chứ không chỉ kêu cầu
ông Trời như thuở bé thơ. Mặt khác, việc giải cứu này cũng do chính ông góp phần. Nếu trong những
ngày trọ với cậu mợ, ông không chăm chỉ học hành thì lấy đâu ra đủ tiếng Pháp để xin biệt cách
được mặc quần áo dựa trên danh phận Mục sư? (Người Pháp lúc đó cũng rất nể nang Mục sư vì họ
phần lớn thêo đạo Công giáo). Mà sự học hành không chỉ bắt đầu rồi bị bỏ lơi, ông luôn duy trì việc
học trong những thời gian ông có được. Các con ông luôn nhớ hình ảnh người cha lúc nào cũng chỉ
ngủ 4-5 giờ mỗi đêm, luôn chứng kiến cảnh của một người cầu nguyện và học hỏi lúc đêm khuya,
một người cả một đời thiếu ngủ. Ông như đã bắt đầu biết đếm những ngày của mình từ lúc còn rất
trẻ,không lúc nào đủ giờ cho ông để làm việc và hầu việc.
Trên đường về Sài Gòn, Mục sư cầu nguyện khẩn thiết cho gia đình và Hội Thánh mà ông không
biết đã ra sao. Tạ ơn Chúa, ông đã gặp lại bà và các con ở nhà người chị thứ tư tại đường Hồng Thập
Tự. Khi gặp lại gia đình thì ông có nói “trong sự kêu gọi của Chúa đối với đời sống chức vụ của ba
thì đây là một đoạn đường ba phải gặp để tái xác nhận cam kết của mình đối với chức vụ hầu việc
Chúa”.
Kế tiếp, với tấm lòng lúc nào cũng cưu mang công việc Chúa, ông tìm đủ mọi nơi mọi chỗ để xin
cho được giấy phép trở lại Bình Trị Đông để thăm Hội Thánh Chúa và các Hội nhánh (Long Trạch,
Gò Đên) đang tan lạc. Giấy này cũng không bảo đảm được gì vì ngay cả khi lọt qua trạm xét của
quân đội Pháp thì sẽ bị phe kháng chiến sẽ nghi ngờ. Từ đó mỗi tuần ông vẫn đạp xe vào Bình Trị
Đông giảng lời Chúa dù cho nhà thờ bị sập, Hội thánh tan tác. Trên khoảng đường từ Sài Gòn vào
Bình Trị Đông, nhiều nghi phạm Việt gian đã bị treo cổ dọc đường làm gương nhưng ông can đảm
nhờ ơn Chúa không bỏ Hội thánh. Trưởng nữ của ông kể lại: “Tôi nhớ có những lần ông cụ chở tôi
trên xê đạp, ông ngừng xê đạp lấy khăn mù soa bịt mặt tôi. Họ giết mấy ông Việt gian bằng cách treo
cổ rồi cắm đầu (trên cây nêu) để dọc đường để làm gương. Mà mình đi giữa lộ đơn độc không người
di chuyển thì dễ sợ lắm. Hồi đó tôi còn nhỏ không cảm nhận gì nhiều,khi lớn rồi nhớ lại cảnh đó
mình thấy rõ là ông cụ phải có sức của Chúa thì mới can đảm làm như vậy…”
Như vậy, mỗi chủ nhật ông đạp xe vào Bình Trị Đông, tùy lúc mà nhóm lại ở nhà nào. Lúc đó
không còn tiền phụ cấp của Hội Thánh nữa nhưng ông lại nhận được tình thương của tín đồ qua
từng gói đậu phộng, nấm rơm, nếp, gạo hay con gà, con cá mà họ cắp nắp cho ông. Ông nhắc mãi
với các con những kỷ niệm nho nhỏ nhưng đầy thương yêu, như về anh thanh niên Nguyễn Văn
Mân (con út của ông bà Hai Tri có nhắc phía trên, hiện tại là thủ quỹ của Hội Thánh Bình Trị Đông)
hay trao cho ông “món quà” bổ dưỡng là những con ếch còn ướt đẫm nước mưa mà cậu đã bắt được
sau cơn mưa tầm tả đêm trước, để sau đó chúng biến thành món “ếch xào nấm rơm” đầy hương vị
đồng quê ngon tuyệt. Tất cả đã trở nên kỷ niệm thương yêu không thể quên giữa ông và Hội Thánh
Bình Trị Đông, và cũng là một kinh nghiệm quý giá cho cuộc đời phục vụ Chúa của ông trong giai
đoạn đó. Khi ông tin chắc trong chức vụ chăn bầy, chính ông phải là người “cho đi” thì Chúa ban cho
ông bài học ngược lại, bài học của “sự hạ mình tiếp nhận”.
Tuy nhiên thực tế lớn nhất trong thời gian chiến tranh vẫn là sự sinh sống của gia đình, đặc biệt
trong hoàn cảnh không còn một sự tiếp trợ nào từ Hội Thánh.
316
Lúc này, khoảng năm 1946, người em trai kế thứ 8 của ông là ông Nguyễn Văn Lụa giới thiệu
ông vào làm đại lý cho một hãng giày liên quốc gia là hãng giày Bata có trụ sở tại Nam Vang
(Phnompenh) ở Campuchia, để có tài chánh lo cho gia đình và chờ đợi tình hình an ổn sẽ về lại Việt
Nam.
Mục sư Xuyến có quyết định dứt khoát là không thể bỏ Hội Thánh mà đi. Ông nhường công việc
đó cho gia đình người em vợ đã chạy loạn lên Nam Vang từ ngã Châu Đốc-Hồng Ngự, nơi mà thầy
Truyền đạo Trần Mỹ Bê đã tử nạn vì chiến tranh. Gia đình người em vợ là thầy cô Truyền đạo
Nguyễn Văn Sên. Thầy cô Sen liền gọi bà Mục sư Xuyến và các con cùng thêo đi lánh nạn ở Nam
Vang để đùm bọc nhau lúc khó khăn và để ông Mục sư yên tâm ở lại Sài Gòn lo cho Hội Thánh theo
ước muốn của ông. Bà Mục sư Xuyến và 4 con gái đã dời lên Nam Vang ở một thời gian rồi trở lại
Sài Gòn. Tuy nhiên với những khó khăn vật chất thời chiến tiếp tục thêo đuổi, nhà không có, tài
chính cũng không, bà và các con đã phải trở lại Nam Vang lần thứ hai. Giai đoạn này ông bà sinh
thêm người con thứ năm trưởng nam trên đất Campuchia năm 1948.
Xây dựng nhà thờ Bình Trị Đông lần thứ hai (1948)– Mục Sư Xuyến phải đi làm bên
ngoài (1950)
Trong giai đoạn 1945-1948, tình hình mỗi ngày mỗi thay đổi theo chiều hướng khó khăn hơn.
Cảng xăng dầu Phú Xuân Nhà Bè bị cháy, quân đội Nhật tràn vào. Các giáo sĩ Tin Lành người Mỹ bị
giam giữ. Thành phố Sài Gòn bị cô lập về kinh tế. Đời sống người dân đã khổ lại càng khốn đốn hơn.
Cuộc sống Mục sư Xuyến lâm vào hoàn cảnh bị thử thách nặng nề về vật chất lẫn tinh thần. Mặc
dù vậy ông luôn tỏ ra vững vàng và tiếp tục giữ Hội Thánh trong thời gian hết sức khó khăn. Vợ và
các con phải lánh nạn bên Campuchia, ông một mình xoay sở ra vào vùng xôi đậu (vùng có mặt cả
hai bên Việt Minh và Pháp) giữa hai lằn đạn để nhóm họp lưu động mỗi tuần với tín hữu. Trong
hoàn cảnh đó, cũng như mọi người trong thời chiến, ông đã phải chịu những mất mát chia lìa.
Người êm gái mà ông đã từng dắt dìu đi trốn khi nhỏ lúc đó đang đau yếu vì bệnh phổi. Bệnh
nặng,không di tản được và qua đời nằm lại tại khu vực nhà thờ trong những ngày chiến trận xảy ra.
Nhà thờ mới được xây cất năm 1942 bị cháy, gia đình lại không thể tề tựu về để chôn cất. Một lần
nữa, ông lại nhận được tình thương từ Hội Thánh Chúa. Ông Bảy Tập, một tín hữu, ban đêm đã lén
về bó chiếu chôn cất người êm đó. Ông mang nỗi buồn lớn về cái chết của người em gái vì đức tin
của cô không được xác nhận trước khi cô lìa đời.
Ông lại chịu mất mát thêm một người bạn đồng lao, cũng là một người thầy, là Mục sư Trần Văn
Chuông,Chủ tọa Hội Thánh Cần Giuộc. Đây là một vị Mục sư có phong cách nhà Nho và thông biết
Hán học. Ông thường mặc áo dài thê đên, quần trắng, khăn đóng. Ông luôn sẵn sàng yêu thương
giúp đỡ, chia xẻ kiến thức về châu Á cho Mục sư Xuyến là bạn hữu. Mục sư Chuông đã bị mất tích
khi ra đi vì một lời mời đến căn cứ Việt Minh vào năm 1949. Ông đi mà không trở về, sau này nghe
nói trên đường đi ông đã bị giết và nêo đá thả xuống sông. Ông đã hy sinh trong lúc đang hầu việc
Chúa.
Và một cái chết nữa của một tín hữu trung tín của Hội Thánh Bình Trị Đông, một người mà Mục
sư Xuyến xêm như là bạn thân, là ông Tư Bửu. Anh này là một người trẻ tài năng, có học thời Pháp.
Ânh đi trong đêm về thăm gia đình và bị chết giữa hai lằn đạn.
Năm 1948, khi tình hình chiến tranh vừa bớt nguy hiểm, Mục sư Xuyến đã cùng Ban Trị sự quyết
định xây một nhà nguyện tạm bằng ván trên miếng đất của một tín hữu là bác Ba Bờ thay vì phải
nhóm lưu động trong nhà tín đồ kể từ khi nhà thờ khang trang 1942 bị quân đội Pháp chiếm đóng
317
và đốt cháy. Với lòng son sắt phục vụ Chúa của ông và lòng yêu mến Chúa của các tín hữu, Hội thánh
vẫn phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ khó khăn nhất.
Năm 1949, bà mục sư và 5 con (4 gái, 1 trai) cùng hai người cháu gọi bằng dì trở về Sài Gòn sau
thời gian lánh nạn ở Phnom Pênh. Tuy nhiên cái nghèo đói vẫn thêo đuổi đời sống dân làng, trong
đó có tín hữu của Hội Thánh. Hội Thánh đành bó tay đối với vấn đề an sinh của gia đình Mục sư chủ
tọa. Tình trạng nầy không phải chỉ xảy ra cho Chi hội Bình Trị Đông, mà còn cho nhiều Chi hội khác
khắp nơi trong xứ. Do đó Ban Trị sự Tổng Liên hội đã đồng ý cho các Truyền đạo, Mục sư thuộc các
Chi hội lâm vào tình trạng nầy được nghỉ hẳn chức vụ Chủ tọa Chi hội, để bước ra tìm kế nuôi sống
mình và gia đình. Quyết định này có ghi rõ trong Luận án Tiến sĩ của Mục sư Lê Hoàng Phu “In the
Crossfire of Vietnam’s War,Vol. II, pg.271).
Tuy nhiên, Mục sư Xuyến lại có một suy tính đặc biệt thách đố. Đó là nài xin Chúa cho ông tìm
được một việc làm ngoài đời để bảo đảm sinh kế cho gia đình nhưng đồng thời vẫn ở lại với Hội
Thánh, với chức vụ Mục sư Chủ tọa để tiếp tục hầu việc Chúa. Lời hứa nguyện với Chúa năm nào
vẫn luôn nóng cháy trong ông, và đời sống ông đã chứng tỏ điều đó cách hùng hồn.
Chúa đã nhận lời cầu nguyện của ông bà cách lạ lùng. Năm 1950, ông nhận được một việc làm
khả quan tại Công ty Giày Bata của Pháp lúc đó đã có trụ sở tại Sài Gòn, với chức vụ Quản lý Dịch
vụ Giới thiệu Bán Hàng (Sales Manager) và Thu Tiền (Account Collector) cho Công ty trong thành
phố, thị xã và các tỉnh phụ cận.
Để được nhận vào làm việc cho Công ty phải qua một cuộc phỏng vấn bằng tiếng Pháp, và ông
đã trả lời lưu loát, thỏa đáng cuộc phỏng vấn. Một lần nữa sự siêng năng tự học hành trau dồi của
ông đã giúp ông trong những lúc có cần nhất. Nhưng trên hết, trong mọi sự ông thật đã luôn kêu
cầu Chúa, ngay cả trước khi chính thức gặp gỡ Ngài.Thêm vào đó là ảnh hưởng sâu đậm lời khuyên
của người cậu về việc tự trau dồi mình. Ngày đêm ông đã kiên nhẫn dùng quyển Kinh Thánh để
phát triển trình độ Quốc ngữ của ông. Thêm vào đó, ông chịu khó tham gia lớp học tư buổi tối để
trau giồi khả năng đàm thoại bằng Pháp ngữ. Nếu không bởi ơn Chúa, ai có thể ngờ rằng một người
chưa hoàn tất các lớp tiểu học lại có thể học và trở nên lưu loát một sinh ngữ như Pháp ngữ.
Tại công sở, ông được giao phó công việc đòi hỏi sự tin cậy cao nhất đó là nắm giữ tiền bạc. Bản
chất ngay thẳng, chân thật cùng với tấm lòng trung kiên không dời đổi của một đầy tớ Đấng Christ
của ông được thể hiện rõ rệt qua việc làm “ngoài đời” nầy của ông.Mọi người, từ vị Tổng Giám đốc
người Pháp cho đến nhân viên và các khách hàng trong dịch vụ buôn bán đều biết rõ ông là “Mục
sư Tin Lành” vì trường hợp đặc biệt mà ông phải đi làm. Ông đã nói rất rõ từ đầu với vị giám đốc
rằng ông “sẽ trở về chức vụ đầy tớ của Đấng Christ” khi thời điểm đến. Họ luôn tỏ ra quý mến và
kính nể ông.
Cả hai Hội Thánh Bình Trị Đông và Bình Tây đều vui vẻ với chức vụ của ông bà Mục sư. Họ cảm
biết họ bớt gánh nặng phải lo phần tài chính cho đầy tớ Chúa, trong lúc đa số trong họ còn đang rất
nghèo khó, vất vả.
Như vậy trong suốt giai đoạn 18 năm hầu việc Chúa (1941-1959) tại Hội Thánh Bình Trị Đông,
ông đã không nhận lương từ Hội Thánh 14 năm ròng từ khi chiến tranh nổ ra năm 1945,nhưng vẫn
bám sát công trường thuộc linh không mệt mỏi, mặc dù ông hoàn toàn có thể lựa chọn nghỉ hầu
việc Chúa trong thời gian khó khăn thêo như quyết định của giáo hội. Ông đã chu toàn trách nhiệm
nuôi dưỡng gia đình bằng cách nhận một công việc kiếm tiền, nhưng không hề xao lãng trách nhiệm
318
thuộc linh đối với Hội Thánh. Để có thể chu toàn trách nhiệm tự nguyện này, ông đã phải nỗ lực
làm việc gấp bội.
Đối với Đấng Christ,Mục sư Xuyến là một đầy tớ say mê phục vụ. Hai mươi bốn giờ trong một
ngày của ông không rảnh một phút nào. Từ sáng sớm đến chiều tối là thì giờ của công việc mưu
sinh, ban đêm chính là thì giờ cho công việc Chúa. Hầu như một ngày làm việc để mưu sinh của ông
không phải là 8 nhưng là 10 tiếng đồng hồ vì phải đi thâu tiền sau giờ hành chính, 10 tiếng kế tiếp
là dành cho công việc Chúa, và rốt lại chỉ còn 3, 4 tiếng, hay ít hơn nữa cho việc ngủ nghỉ. Nhưng
với thể chất mạnh khỏe tự nhiên, ông không hề bệnh tật mà dường như còn được nạp thêm năng
lượng qua sự làm việc và hầu việc.
Bắt đầu từ tinh sương khi bóng đêm chưa tan ông đã thức dậy chuẩn bị đến sở làm bằng chiếc
mô-tô của sở cung cấp cho. Thì giờ mà hầu hết mọi người mói vừa thức dậy chuẩn bị đến sở, thì
ông đã một mình yên lặng trong văn phòng riêng ở sở với quyển Kinh Thánh để tĩnh nguyện với
Chúa. Các buổi tối được chia ra cho các mục đích khác nhau nhưng luôn có thì giờ cho gia đình lễ
bái. Một tối dành cho việc hướng dẫn một tín hữu về bài học Trường Chúa Nhật, điểm qua các câu
hỏi để chuẩn bị cho tín hữu nầy dạy lớp vào Chúa nhật đó. Một buổi tối khác là lớp đàm thoại Pháp
ngữ, ông dùng vốn hiểu biết tiếng Pháp của mình để giúp một vài thanh niên của Hội Thánh mà ông
nhận thấy có khả năng. Dù chỉ là các bước căn bản, nhưng cố gắng này của ông đã giúp họ dễ dàng
tiến thêm các bước kế tiếp. Ông luôn nhớ đến bản thân đã từng được giúp đỡ như thế trước đây và
luôn muốn mang lại lợi ích đó cho người khác. (Cũng cần hiểu rằng dưới thời Pháp thuộc, việc nói
được tiếng Pháp là điều kiện để có thể kiếm được việc làm tốt, để đời sống vật chất được bảo đảm
hơn và cũng vơi bớt sự nhọc nhằn). Điều rất cảm động là trong số các thanh niên nầy có một đôi
người đã trở nên đầy tớ trung kiên phục vụ Chúa cho đến nay.
Và sau cùng ông ngồi lại bàn viết – thực ra chỉ là tại đầu của một bàn khách đặt giữa nhà – với
quyển Kinh Thánh và các sách vở nghiên cứu trước mặt để tìm nguồn cảm hứng cho sứ điệp ông
sẽ chia xẻ với con dân Chúa mỗi Chúa nhật tại Hội Thánh. Quá nửa đêm thường là thì giờ mà một
lần nữa ông quì dưới chân Chúa, tĩnh tâm và tương giao với Ngài.
Một người cháu của bà Mục sư (gọi ông bằng dượng) lưu trú trong nhà ông trong thời gian này
đã kể lại về ký ức của mình về sinh hoạt hằng ngày của người dượng như sau: “Sáng nào tôi cũng
kín đáo thêo dõi từ khi Dượng thức dậy thật sớm, đọc Kinh Thánh, lục lọi các sách tham khảo, viết
lách thật lâu. Lúc trời vừa sáng Dượng vào nhà tắm, có tiếng nước xối dồn dập thoải mái, bước ra
khỏi phòng tắm với tâm hồn sảng khoái Dượng vừa đi vừa huýt sáo, những âm điệu nhẹ nhàng
thanh thoát mà tôi cố moi óc tìm tòi trong ký ức xêm là bài Thánh ca nào nhưng rồi cũng đành bó
tay không tài nào biết được là bài gì và tác giả là ai cho dù tôi cũng thuộc loại nhớ nhiều,nếu không
muốn nói là nhớ hết từng bài của cuốn Thánh ca có bề dày khiêm nhường của Hội Thánh thuở ban
sơ. Tôi để ý thấy chiều nào đi làm về Dượng cũng loay hoay họp bàn với mấy người tín đồ thân tín
trong Hội Thánh rồi cùng nhau đi tới nhà giảng tới khuya mới về… Tôi thương Dượng, tôi muốn
gần gũi Dượng. Mỗi chiều tôi ra cửa đón Dượng về, hôm nào trời mưa chiếc Terro của Dượng lấm
bùn bê bết thì tôi tự nguyện lau rửa cho bóng láng để ngày mai Dượng đi làm cho oai phong lẫm
liệt. Nhiều hôm Dượng đi không về, Dượng vắng nhà có khi hai ba hôm. Thường vẫn có nhiều đêm
Dượng đi rất khuya mới về nhà, bỏ cả cơm chiều, đó là những lần tôi biết Dượng đi cầu nguyện hay
thăm viếng những tín đồ đau ốm, có khi tôi thấy Dượng mang theo cả thuốc thang và ống chích nữa.
Chăm sóc tín đồ Dượng kiêm luôn cả nghề thầy thuốc…”
319
Trong gần một thập niên làm việc “ngoài đời” không nhận cung lương của Hội Thánh (1950-
1959), ông không những đã cung cấp cho gia đình một cuộc sống đầy đủ ấm cúng mà còn giúp đỡ
các chi phí nhỏ trong Hội Thánh như chi phí Tiệc Thánh, bình hoa huệ thơm ngát cho nhà thờ mỗi
sáng Chúa nhật, bữa cơm trưa dù đơn sơ nhưng cần thiết cho một vài thanh thiếu niên từ làng xa
đến thờ phượng Chúa ngày Chúa nhật có thể ở lại để tập dượt chương trình hát lễ trong dịp lễ Giáng
sinh hay Phục sinh, v.v…
Ông bà cũng là người yêu thích âm nhạc và luôn mơ ước có một ngày ngôi nhà thờ của làng quê
âm thầm nầy sẽ vang lừng tiếng ca nhạc tôn vinh Chúa. Bằng cố gắng riêng, ông bà đã sắm được
cho Hội Thánh một chiếc phong cầm (pêdal organ) để làm nhạc khí căn bản cho sự phờ phượng
Chúa, một nhạc khí rất hiếm vào thời đó đối với các Chi hội miền quê. Ông cũng thành lập một ban
hợp ca cho Hội Thánh; thành viên ban hát là các thanh thiếu niên mà nơi sinh hoạt hằng ngày của
họ chỉ là các thửa ruộng bùn lầy cùng với trâu bò làm bạn. Tuy nhiên, dưới sự luyện tập của ông bà,
giọng ca truyền cảm của ban hợp ca nầy đã làm cho các buổi thờ phượng Chúa của Hội Thánh trở
nên vô cùng ấm cúng và tràn đầy nguồn cảm hứng. Họ cũng đã gây ngạc nhiên không ít trong các
buổi “Họp bạn Thanh niên” giữa các Hội Thánh Chúa ở thành phố.
Xây dựng nhà thờ Bình Trị Đông lần thứ ba (1957) – Quyết định ngưng công việc bên
ngoài (1959)
Năm 1955, sau khi hiệp định Gênêvê được ký kết, đất nước chia đôi, nhà thờ vừa được mở cửa,
thì cũng vừa lúc gia đình mục sư được trở về. Ở tạm trong căn nhà lá nhỏ một thời gian ngắn, Mục
sư Xuyến đã có khao khát xây cất lại nhà thờ mới cho Hội thánh,thay thế căn nhà ván nhỏ hẹp mà
Hội Thánh đã dùng làm nơi thờ phượng Chúa trong nhiều năm qua vì cớ ngôi nhà đầu tiên bị quân
đội Pháp chiếm đóng và tư thất bị đốt cháy. Mục sư tha thiết cầu xin Chúa và bày tỏ với Hội thánh.
Cả Hội thánh từ người lớn cho đến thanh niên đều vui mừng khởi công hăng hái. Ơn Chúa ở cùng,
một ngôi nhà thờ bằng gạch khang trang, sáng sủa được xây cất lại trong vùng đó, được khánh
thành năm 1957. Gia đình mục sư cũng có được một tư thất tương đối tươm tất kế bên.
Cũng trải qua giai đoạn 18 năm nầy của chức vụ, với sức cố gắng không ngừng nghỉ, cùng sự
hợp tác của Ban Trị sự Hội Thánh Bình Trị Đông, ông đã thành lập các Chi hội: Gò đên (Phước Lợi),
Cần Đước, và Bình Tây (Tuy Lý Vương)), v.v… tổng cộng trên dưới 10 Hội nhánh. Đánh giá sự góp
phần của MS Xuyến vào công việc Chúa chung, MS Ngô Văn Bửu ghi nhận “truyền giảng và mở
mang Hội Thánh, đặc biệt việc mở trên dưới 10 chi hội như cụ đã làm được là đặc biệt lắm,vì mở
điểm nhóm thời chiến tranh xin phép hết sức phức tạp và khó khăn….”
Cảm tạ ơn Chúa hơn nữa là các Hội Thánh nầy vẫn còn đứng vững vàng cho đến nay.
Hội Thánh Bình Trị Đông còn ghi nhớ thời gian này như sau:
“Năm 1948, khi tình hình ổn định, Mục sư Xuyến cùng Ban Trị sự quyết định xây dựng nhà thờ lần
nữa để con cái Chúa có nơi thờ phượng Chúa. Nhưng chỉ trong thời gian ngắn nhà thờ bị đóng cửa,
nên các tín hữu Hội Thánh Bình Trị Đông phải qua Bình Tây, Xóm Củi nhóm tạm.”
“Năm 1949, tại Bình Tây và Xóm Củi, Mục sư Xuyến cùng nhiều con cái Chúa góp phần xây dựng
nhà thờ nhỏ gọi là Hội Thánh Bình Tây và sau được đổi tên là Hội Thánh Tuy Lý Vương.
Năm 1950, tình hình tương đối dễ dàng hơn và nhà thờ Bình Trị Đông được mở cửa trở lại. Lúc
bấy giờ MS Xuyến phải chịu trách nhiệm cả Hội Thánh Bình Trị Đông và Hội Thánh Bình Tây. Hội
Thánh Bình Trị Đông tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhiều người tin Chúa.”
320
“Năm 1957, MS Xuyến cùng Ban Trị sự quyết định xây dựng nhà thờ kiên cố và hoàn tất vào ngày
02/10/1957. Vì Hội Thánh thiếu nợ trong việc xây dựng, nên trong thời gian nầy ông bà MS Xuyến
hầu việc Chúa nhưng không nhận lương cho tới năm 1962 Hội Thánh mới trả nợ xong. Trong thời
gian nầy MS Xuyến mời ban Truyền đạo Lưu hành đến làm cho Hội Thánh phục hưng, nhiều con cái
Chúa được mạnh mẽ.
Sau năm 1957, MS Xuyến tiếp tục mời ban Truyền đạo lưu hành đến khu vực Đức Hòa và nhà
nguyện Đức Hòa được thành lập, nhưng chẳng bao lâu đã bị đóng cửa. Song song với việc phát triển
Hội Thánh, ông bà MS Xuyến củng cố ban thanh niên, thiếu niên, thiếu nhi và nhi đồng, huấn luyện và
dạy dỗ để họ lớn lên hiểu biết lời Chúa có thể gánh vác công việc Hội Thánh tương lai. Ông bà MS
xuyến cũng luôn kêu gọi các thanh niên dâng mình hầu việc Chúa.
Năm 1958 [28]),MS Xuyến được Hội Thánh Long Xuyên mời làm chủ tọa và được Địa hạt Nam
Phần bổ nhiệm.
Ông bà MS Nguyễn Văn Xuyến đã làm chủ tọa tại Hội Thánh Bình Trị Đông 18 năm từ năm 1940
đến 1958 (4). Ông Bà đã hết lòng hầu việc Chúa, góp phần lớn trong việc xây dựng Hội Thánh Bình Trị
Đông, đem lại cho Hội Thánh nhiều kết quả cho Hội Thánh cho đến ngày nay.”
Trở lại với quyết định nghỉ làm với hang giày Bata và dùng hết thời gian hầu việc Chúa của Mục
sư Xuyến.Từ khi làm việc cho Công ty Giày Bata, cuộc sống vật chất của ông và gia đình trở nên
sung túc hơn, ông chưa bao giờ quên lời hứa “sẽ trở về chức vụ đầy tớ của Đấng Christ” khi Ngài
cho ông thấy ánh sáng rõ rệt. Ông luôn tự hỏi có phải lúc này, năm 1959, khi mà sự nghèo đói đã
giảm, chiến tranh tạm ngưng, Hội Thánh mà ông gầy dựng phát triển mạnh mẽ, chính là lúc ông cần
quay về với chức vụ thuần túy của một người chăn bầy.
Ông bắt đầu cầu nguyện một cách khẩn thiết với Chúa. Sau cùng, một buổi tối vào thì giờ gia
đình lễ bái, ông chia xẻ quyết định của mình với vợ và hai con gái lớn của ông. Tạ ơn Chúa, dù bỡ
ngỡ phút ban đầu với thay đổi bất ngờ nầy, sau đó tất cả đều cảm thấy thỏa lòng. Tiếp đến, ông
trình bày quyết định xin thôi lưu mời của mình với Ban Trị sự Hội Thánh. Ông tin rằng Hội Thánh
cần thay đổi người chăn bầy sau 18 năm, cần một làn gió sinh lực mới, một sự đổi mới tốt đẹp. Hội
Thánh lưu luyến nhưng vui lòng chấp nhận đề nghị này của ông.
Sau cùng là xin nghỉ việc với Công ty Giày Bata. Ông còn nhớ rõ thái độ sửng sốt của vị Tổng
Giám đốc,rồi sau đó là lời đề nghị tăng lương để “Mục sư có thể lưu lại với chức vụ Quản lý của Công
ty”, một nhà quản lý thành công, chân thật và trung tín! Một đề nghị kế tiếp, đó là Công ty sẽ đặt
một đại lý Giày Bata tại địa phương của ông (Bàn Cờ) để vợ và con ông điều khiển và qua đó có thể
sinh thêm một số huê lợi nữa cho gia đình. Tuy nhiên, dù vô cùng cảm kích, Mục sư Xuyến đã từ
chối cách thành khẩn, chỉ vì một lý do duy nhất, đó là để làm trọn vẹn lời hứa, “làm tay đánh lưới
người cho Giê-xu.” Sau đó, ông trình đơn xin di chuyển đến Ban Trị sự Địa hạt.
Về chỗ ở của gia đình MS Xuyến, ông bà đã phải tự túc trong suốt thời gian chiến tranh, từ lúc
nhà thờ bị cháy năm 1945 cho đến khi tư thất và nhà thờ được xây dựng lại lần thứ ba năm 1957.
Trong khoảng từ 1945-1950 ông bà và gia đình đã phải thay đổi chỗ ở 6 lần, thường là ở tạm nhà
gia đình hay tín đồ, cho đến khi mua được một miếng đất nhỏ trong khu tạm cư ở khu Bàn Cờ. Tại
đây ông bà có nhiều hàng xóm là tín đồ, như bà cụ quả phụ MS Lê Văn Quế, và cụ MS Lê Văn Trầm,
em cụ Quế,gia đình truyền đạo Phạm Hữu Tâm, thầy cô Mười Ba, v.v….
Đến khoảng cuối 1951, Mục sư Xuyến, bà và các con (5 gái 1 trai) lại một lần nữa phải dời chỗ
ở.Quyết định nầy có nhiều bất lợi cho gia đình riêng. Thay vì ở trong nhà nhỏ của mình (căn nhà
321
nhỏ đã có chủ quyền đất, nhà tự cất, ở khu trung tâm Sài Gòn. Việc quyết định dời nhà lần nầy là
một quyết định rất khó khăn, một quyết định lớn,là một “bước đi của đức tin”. Vì từ 1945, lần tản
cư vì chiến tranh cho đến năm nầy, sáu lần dời nhà trong sáu năm với bao thiếu thốn nhọc nhằn,
chia lìa, chao đảo, mất mát. Ngôi nhà nầy là ngôi nhà tuy nhỏ mà là của riêng ổn định. Người con gái
lớn lúc đó 13 tuổi, cô đã cùng mẹ nếm biết cực nhọc của đổi thay và đã sớm ghi nhận giá trị của sự
ổn định. Một đêm trong những đêm cuối cùng ờ căn nhà đường Phan Đình Phùng, cô đã đến gần Ba
của cô bên cạnh bàn viết trong căn trái nhỏ sát căn nhà chính nói với Ba cô rằng là cô không muốn
dọn nhà nữa,cô muốn ở đây đi học gần hơn (cô đang học trung học tư thục Chi Lăng đường Cao
Thắng góc Phan Đình Phùng, chỉ đi bộ từ nhà độ mười phút thì tới trường) cô nói là “Ba cứ đi vô
nhà thờ mỗi tuần như nhiều năm nay đi Ba.” Ba cô, Mục sư Nguyễn Văn Xuyến đã rưng rưng nước
mắt cảm động ôm đầu cô vào ngực ông trả lời:“Không được đâu con, sau nầy khi lớn con sẽ hiểu Ba,
sẽ hiểu là Ba quyết định đúng.” Dời nhà từ căn nhà nhỏ của riêng đi vào một căn nhà phố mướn, giá
mướn hơi cao so với đồng lương đi làm hãng giày Bata để được gần với nhà thờ Bình Tây, dễ dàng
cho những giờ sinh hoạt nhóm họp, tập hát, cầu nguyện và những giờ suốt một ngày Chúa nhật.
Thời gian nầy là thời gian vui mừng, thời gian Hội Thánh như có một luồng gió phục hưng mát
mẻ. Và hình như hầu hết người trẻ của Hội Thánh Bình Trị Đông cũng đi ra nhóm chung tại đây mỗi
Chúa nhật.
Quyết định dời nhà năm 1951 là một hy sinh lớn mà kết quả là vui mừng lâu dài cho chức vụ
của người chăn bầy. Các con của ông bà khi đủ khôn lớn nhất là hai người con gái đầu đã phải nhìn
nhận: Cha mẹ yêu Chúa không tính toán thiệt hơn với Ngài, không lựa chọn lợi lộc trần gian, một
đầy tớ trung tín, siêng năng chịu thương chịu khó vì quyết tâm “sự kêu gọi” ban đầu của Chúa mình.
Đến năm 1957, khi nhà thờ Bình Trị Đông xây dựng lần thứ ba hoàn tất, thì Mục sư cũng có được
một tư thất tươm tất kế bên, nơi mục sư và gia đình lưu trú 2 năm cuối trước khi rời Bình Trị Đông
nhận nhiệm sở mới ở Hội thánh Long Xuyên năm 1959.
Mục sư Xuyến và gia đình rời Bình Trị Đông vào tháng 7 năm 1959. Một tháng trước đó, gia
đình ông có niềm vui là đám cưới của trưởng nữ. Nhân dịp này, ông đã mời giáo sĩ Jêffrêy, vị giáo sĩ
đã bảo trợ ông suốt thời gian đi học, đã làm lễ phong chức Mục sư cho ông, cử hành lễ thành hôn
cho con gái ông. Đám cưới diễn ra trong sự ấm cúng và thương mến của Hội Thánh đối với gia đình
vị Mục sư Chủ tọa thâm niên của mình, ngay tại ngôi nhà thờ vừa được xây cất lại sau chiến tranh.
Lúc này gia đình ông bà đã có thêm 4 người con nữa được sinh trong giai đoạn từ 1950-1959, tổng
cộng là 9 người con.
HẦU VIỆC CHÚA TẠI HỘI THÁNH LONG XUYÊN (1959-1969)
Theo truyền thống của HTTL Việt Nam, các Mục sư và Truyền đạo mà nhiệm kỳ chủ tọa Chi hội
đã mãn, có thể trình đơn cho Ban Trị sự Địa hạt để được chính thức bỏ phiếu gia hạn hay hoán
chuyển nhiệm sở. Và tiếp thêo đó là cuộc bỏ phiếu do từng Chi hội tổ chức.
Năm 1959, trong đợt bầu cử lưu mời Mục sư chủ tọa của các chi hội, MS Xuyến được chi hội
Nguyễn Tri Phương (Sài Gòn) mời với số phiếu cao nhất, trong lúc đó Chi hội Long Xuyên (An Giang)
mời ông với số phiếu ưu tiên hạng ba. Lẽ thông thường thì một Mục sư sẽ nhận nhiệm sở ở nơi mời
có tỷ lệ phiếu cao nhất, nhất là khi Chi hội đó lại có thuận lợi về mọi mặt, như Chi hội Nguyễn Tri
Phương đối với gia đình Mục sư Xuyến lúc này. Các con của ông đều đang đi học tại Sài Gòn. Việc di
chuyển từ ngoại ô Bình Trị Đông vào trung tâm thành phố vừa gần, và các con ông lại vừa được gần
trường học. Chi hội Nguyễn Tri Phương là một Chi hội tự trị có khả năng cung lương cho Mục sư
Chủ tọa, vốn là điều MS Xuyến mong ước khi ông vừa nghỉ làm bên ngoài để được trọn thời gian
322
hầu việc Chúa, nhất là sau gần 14 năm tự xoay sở cho việc sinh sống của gia đình. Các con của ông
cũng đang rất hồi hộp chờ đón cơ hội này sau những nhọc nhằn của cuộc sống 18 năm ở Bình Trị
Đông. Nhưng MS Xuyến lại nghĩ khác.
Có hai lý do Mục sư Xuyến chấp nhận nhiệm sở ở Hội Thánh Long Xuyên vào năm 1959. Cả hai
lý do một lần nữa cho thấy ông thật sự “xêm mọi sự như là điều lỗ” (Phi-líp 3:7-8) so với chức vụ
thiêng liêng mà Chúa giao cho. Lý do thứ nhất là vị Mục sư có số phiếu ưu tiên thứ nhì đã ngỏ ý với
ông rằng mình muốn nhận nhiệm sở ở Chi hội Nguyễn Tri Phương do một hoàn cảnh tế nhị riêng.
Lý do thứ hai là có lời yêu cầu đặc biệt của vị Mục sư tiền nhiệm tại Chi hội Long Xuyên lúc bấy giờ
là cụ Mục sư Phan Văn Tranh, một người bạn đồng lao yêu mến của mục sư Xuyến.
MS Tranh cho biết,năm đó, 1959, là năm mà thành phố Long Xuyên sẽ được tái kiến thiết toàn
bộ theo thiết kế đô thị mới. Nhà thờ và tư thất của Chi hội Long Xuyên tọa lạc trên một khu đất sẽ
là trung tâm của thành phố theo họa đồ mới. Do đó Hội đồng Thành phố đã có quyết định là tư thất
hiện hữu bằng gạch ngói gạch tàu cũ kỹ phải thay đổi hoàn toàn. Có nghĩa là phải đập bỏ hẳn và xây
cất lại theo tiêu chuẩn của một “biệt thự” để xứng với tầm vóc trung tâm đô thị. Nếu không Hội
Thánh có thể sẽ phải di chuyển đến địa điểm khác. Việc thay đổi này phải thực hiện bằng ngân sách
của nhà thờ chứ chính quyền không có hỗ trợ nào.
Đây là thử thách lớn cho Hội Thánh Long Xuyên, không những thử thách về tài lực cho việc xây
cất mà luôn cả thử thách “ai sẽ gánh vác trách nhiệm nặng nề nầy”. Bởi vì Mục sư Tranh vừa đắc cử
chức vụ Chủ nhiệm Địa hạt Miền Đông Nam phần trong kỳ Hội đồng Tổng Liên vừa qua. Mục sự
Tranh và gia đình phải phải rời Long Xuyên chuyển đến Sài Gòn, nơi đặt trụ sở của Địa hạt Miền
Đông để thi hành chức vụ nầy. Cũng vì đó mà Hội Thánh Long Xuyên phải có cuộc bỏ phiếu để mời
Mục sư Chủ tọa mới đến thay thế.
MS Tranh rời Long Xuyên trong tâm trạng khắc khoải, lo ngại rằng nhà thờ Chúa có thể bị dời
đổi khi không có người có khả năng gánh vác chu toàn trọng trách. Bên cạnh tình bạn hữu với MS
Xuyến, có lẽ ông cũng khâm phục quá trình hầu việc Chúa của MS Xuyến tại Bình Trị Đông trong
suốt gần hai thập niên biến động. Vì khả năng gây quỹ xây đền thờ Chúa 3 lần. Vì tâm tình hy sinh
của ông trong việc không đòi hỏi cung lương ngay cả trong hoàn cảnh khả quan hơn của thập niên
1950.
Rốt lại, vì lời tâm huyết của vị tân Chủ nhiệm Địa hạt, vì quyền lợi và danh dự chung của nhà
Chúa,và cũng vì thông cảm sâu sắc hoàn cảnh của một bạn đồng lao khác (vị Mục sư đã được Hội
Thánh Long Xuyên mời ưu tiên một) mà MS Xuyến đã có quyết định làm thay đổi hoàn toàn cục
diện của gia đình ông. Thay vì tận hưởng mọi quyền lợi và danh dự của việc Chủ tọa một Chi hội tại
thủ đô mà sự tín nhiệm của các tín hữu tại đây đã thể hiện qua số phiếu cao nhất, ông lại nhận lời
về làm Chủ tọa Chi hội Long Xuyên, một tỉnh lỵ xa xôi của miền Tây ngập nước, thuộc đồng bằng
sông Cửu Long.
Khi rời Sài Gòn đến Long Xuyên, ông và gia đình dọn vào ở chỉ một nửa sau của tư thất cũ trong
khi một nửa phía trước đã được phá xuống để bắt đầu xây ngôi nhà mới. Điều quan trọng hơn cả là
trách nhiệm gây quỹ cho công tác xây cất mà ông đã cậy ơn Chúa nhận lãnh. Mỗi Chúa nhật ông đều
có mặt tại một Chi hội bạn để giảng về sự “dâng hiến.”Ông dường như rất có ân tứ trong việc nhắc
nhở, giảng dạy về sự dâng hiến. Và tạ ơn Chúa, vì tinh thần dâng hiến rộng rãi của con dân Chúa mà
tư thất Mục sư của Chi hội Long Xuyên hoàn thành cách tốt đẹp, vinh hiển Danh Chúa. Với cái nhìn
của người ngoài đời thì Mục sư Xuyến thật là một người “dại dột”. Nhưng ông biết rằng ông đã lảm
được việc lớn và khó nhờ Đấng ban thêm sức cho ông.
323
Tư thất Long Xuyên sau khi xây dựng (1960)
324
Niềm vui đầu tiên cho chức vụ là sự tiếp đón niềm nở của cả Hội thánh. Quyết định đi đến nơi
không mời mình hạng cao. Chắc Mục sư cũng không chờ đợi được nhận sự nồng nàn,ân cần đón
tiếp giống như vậy. Các ông bà lão niên, trung niên thăm hỏi mỗi ngày, giúp đỡ từng việc nhỏ. Các
thanh niên chạy tới lui lo giúp việc nầy việc nọ cho sự ổn định của một gia đình 6 con mà trong đó
con nhỏ nhất chưa đầy 1 tuổi.Sự mừng vui hợp tác của Hội Thánh Long Xuyên là khích lệ to lớn cho
đầy tớ của Chúa. Đó là phần thưởng tinh thần Chúa ban.
Sau thời gian xây cất tư thất đúng theo yêu cầu của chính quyền, Mục sư bắt tay vào chức vụ
mới cách năng nổ. Gia đình Mục sư được dọn vào tư thất mới, đẹp và rộng rãi. Phần thưởng cho
người không lựa chọn, không đòi hỏi là lớn lắm.
Chức vụ của ông bà MS Xuyến lại Hội Thánh Long Xuyên là dấu hiệu của một đời sống “trái chín
muồi”.Ông bà đã sống qua sự trui rèn của thời tuổi trẻ, từng trải nhọc nhằn thiếu thốn,và đầy kinh
nghiệm về tình yêu, sự mở đường và chăn dắt của Chúa, Đấng đã chọn và cứu ông ra khỏi sự lầm
than về thuộc thể lẫn thuộc linh. Những mất mát, đau buồn mà ông đã vượt qua giờ lại tạo nên vững
mạnh cho chức vụ. Lời giảng dạy mỗi ngày một sâu nhiệm hơn. Hội Thánh được nâng đỡ, an ủi, sửa
dạy nhiều điều.
Nhưng không bao lâu sau đó, một trong những rường cột của Hội Thánh là ông Khúc Văn Sến
đã qua đời đột ngột. Sự ra đi của ông Sến là một mất mát lớn cho Hội Thánh, cho gia đình của ông
Sến và cho chức vụ của ông bà MS Xuyến tại Long Xuyên. Mất đi người anh em nầy, Hội Thánh
dường như bị mất cân bằng. Tuy nhiên, cám ơn Chúa về dòng dõi của người kính sợ Chúa và trung
tín với Ngài. Sau này hai người con trai của ông Khúc Văn Sến đã trở nên người hầu việc Chúa tại
hải ngoại ngày nay là MS Khúc Văn Dầu và MS Khúc Minh Đàng.
Những năm kế tiếp,việc truyền giảng của Hội Thánh không còn chỉ trong phạm vi nhà thờ nữa.
Hội Thánh vui mừng được nhận sự hỗ trợ của chính quyền. Lúc đó, vợ của ông Tỉnh trưởng Long
Xuyên là một tín đồ yêu mến Chúa. Bà cũng là người khiêm nhường nhu mì. Dù ông chính thức là
tín đồ Hòa Hảo nhưng bên trong lại âm thầm ủng hộ đức tin của bà. Hiện nay, tại hải ngoại, con trai
của ông bà đã trở thành Mục sư hầu việc Chúa, còn vị tỉnh trưởng lẫy lừng ngày xưa cũng trở lại tin
nhận Chúa trong những ngày cuối đời. Cảm tạ Chúa về tấm gương của người vợ kính sợ Chúa.
Ngày Chúa nhật là ngày Mục sư trông mong nhất trong tuần. Ông dự giờ tĩnh nguyện với những
tín hữu sốt sắng, nóng cháy nhất. Kế đến là giờ Trường Chúa nhật mà ông cũng là Trưởng ban. Sau
325
đó là giờ nhóm thờ phượng, thời giờ mà tín hữu dùng để nuôi dưỡng cuộc sống tâm linh của mình
bằng Lời Chúa thông qua sự giảng dạy của Mục sư.
Buổi chiều Chúa nhật là thời giờ thăm viếng, giảng đạo. Mục sư thường đi xê đạp, cùng với một
vài thành viên Ban Trị sự ra các khu ngoại ô và làng mạc để thăm hỏi và khuyên dạy tín đồ. Mục sư
thường thích thú với những chuyến thăm viếng vùng xa như thế,khi đạp xe trên những con đường
gập ghềnh dọc theo các bờ đê. Khung cảnh xanh tươi, đất lành và khí trời trong mát cùng sự yên
tĩnh giữa cánh đồng. Ông bảo,tất cả điều đó giúp ông giữ được mối tương quan với Chúa và làm dịu
tâm hồn.
Hội Thánh Long Xuyên mở rộng chương trình truyền giảng. Chúa đã cho phép lời của Ngài được
rao giảng trên làn sóng phát thanh của một tỉnh lỵ vốn bị khống chế bởi Phật giáo Hòa Hảo.Đêm
đêm lời Thánh ca vang dội một vùng trời. Vui mừng, hăng hái hẳn lên vì Lời Chúa được rao truyền,
Hội Thánh như có làn gió mát phục hưng. Không bùng phát nhưng làn gió phục hưng đó êm dịu,
dầm thấm trong từng gia đình tín hữu.
Hội Thánh bắt đầu có các chương trình họp bạn, những khóa huấn luyện, các lớp Thánh Kinh
Tiểu học góp phần bồi bổ kiến thức thuộc linh cho thanh niên. Một trong các khóa này được đặt tên
là khóa “Lê Đình Tươi”. Không biết có phải đó do là thói quên đặt tên thời đó, hay do vị mục sư chủ
tọa muốn tỏ lòng kính mến đến người thầy, người bảo trợ thuở xưa vốn đã dắt dẫn ông trên linh
trình và cuối cùng đã giúp tạo điều kiện cho ông trở thành tay đánh lưới người?
Ông bà MS Xuyến, MS Ông Văn Huyên, MS Phạm Xuân Tín, ban Giảng huấn và các khóa sinh lớp
Thánh Kinh Tiểu học khóa “LÊ ĐÌNH TƯƠI”, năm 1968, tại nhà thờ Long Xuyên.
Hội Thánh tưng bừng đón tiếp và phục vụ nhiều Mục sư đến để dạy trong các khóa bồi linh ngắn
hạn.MS Hội trưởng Đoàn Văn Miêng đã từng đến hằng tháng cho những lớp huấn luyện đào tạo
nhân sự và cho thanh niên học Kinh Thánh ban ngày, đốt lửa trại ban đêm.
326
MS Nguyễn Văn Xuyến và MS Đoàn Văn Miêng trước nhà thờ Long Xuyên
Rồi một ngôi trường tiểu học cũng được xây dựng nên nhờ sự bảo trợ của hội World Vision với
ước muốn Hội Thánh sẽ có thêm thân hữu từ các phụ huynh của con em tiểu học.
Tuy nhiên, chiến tranh vẫn không rời xa. Ở thôn quê, bất luận nam, phụ, lão, ấu, ai cũng có thể
chứng kiến hay rơi vào cuộc chiến tranh với mức độ khốc liệt nhất. Một bé gái bị mảnh mìn trong
một khu chợ quê đông người, hoặc một quả bom phát nổ và biến những nông dân đang vô tư cấy
mạ thành nát vụn trong phút chốc. Cũng như mọi người, cộng đồng tín hữu Long Xuyên cũng không
thoát khỏi những số phận ngặt nghèo như vậy.Một cụ già bị trái pháo rơi xuyên mái nhà tranh rớt
xuống mình ngay trên giường ngủ, kế bên cụ là quyển Kinh thánh đang mở còn đang cháy dở. Một
thanh niên tuổi 18, con của một thành viên Ban Chấp sự vừa mới gia nhập không quân để được
huấn luyện thành phi công thì 9 tháng sau cha mẹ nhận được tin con đã bị giết trong lúc tập trận.
Một thanh niên khác là bộ binh bị bắn chết khi đang cùng đồng đội canh gác một cây cầu.
Trong hoàn cảnh này,ông bà Mục sư cũng phải làm công tác an ủi, tâm vấn. Chính ông bà không
chỉ khắc khoải đau buồn trước những nghịch cảnh mà tín hữu gặp phải mà còn phải tìm kiếm cho
được lời khuyên giải cho những thử thách gần như quá sức này. Một trong những từng trải đau
thương nhất của ông bà là đã phải từ chối yêu cầu của một tín hữu cho con mình trốn quân dịch
trong tư thất Mục sư, hoặc là Mục sư phải tiến cử cậu thanh niên đó đi học Trường Kinh Thánh để
được miễn quân dịch. Đó có phải là công việc mà một Mục sư nên làm chăng? Lòng trắc ẩn đối với
người mẹ khiến ông bà thoáng chùn bước nhưng rồi ông bà đã khuyên người mẹ nên trao gánh
nặng của bà cho Chúa và trao con bà cho sự che chở của Ngài. Ông trích dẫn Rôma 13:1 về sự vâng
phục nhà cầm quyền và động viên người mẹ rằng con đường đúng là cho người con đi quân dịch
thay vì sử dụng tôn giáo như là lý do để trốn tránh. Nhưng …chẳng bao lâu sau đó, ở quê nhà, người
mẹ nhận được tin con mình tử trận trong một cuộc hành quân xa. Hình ảnh người mẹ gầy yếu với
gương mặt nhợt nhạt, đôi tay bủn rủn, nằm mọp ở cửa tư thất, người ướt đẫm mồ hôi và nước mắt
đã không bao giờ phai nhòa trong lòng ông bà. Trong hoàn cảnh đó, ông bà chỉ biết kêu nài Đấng
an ủi bao phủ người mẹ khốn khổ này.
Khoảng 3, 4 năm sau cùng của MS Xuyến tại Long Xuyên, khi chương trình xây lại nhà thờ - vì
ngôi nhà thờ đã trở nên quá nhỏ và cũ - sắp hoàn thành, thì một sự chia rẽ trầm trọng nảy sinh
trong Ban Chấp hành khiến Hội Thánh dường như bị xé làm hai. Chương trình xây dựng lại ngôi
327
nhà thờ bị ngưng trệ và Mục sư phải gánh chịu nhiều hiểu lầm. Đó là nỗi buồn lớn trong chức vụ tại
Long Xuyên.
Đại gia đình MS Xuyến tại Long Xuyên với 8 người con, 1 con rể và 3 cháu ngoại.
CHỦ NHIỆM ĐỊA HẠT TÂY NAM PHẦN (1969-1991) – TRỤ SỞ VĨNH LONG
Năm 1969, Mục sư Nguyễn Văn Xuyến đắc cử Chủ nhiệm Địa hạt miền Tây Nam phần. Ông rời
Hội Thánh Long Xuyên bước vào chức vụ chủ nhiệm. Lúc đó, miền Nam được chia làm hai hạt là
Đông Nam phần và Tây Nam phần. Nhiệm kỳ đầu tiên, MS Phan Văn Tranh là Chủ nhiệm Địa hạt
Đông Nam phần và MS Nguyễn Văn Xuyến là Chủ nhiệm Địa hạt Tây Nam phần. Địa hạt Tây Nam
phần bao gồm các tỉnh từ Tiền Giang xuống đến Cà Mau.
Từ năm 1974-1991,ông giữ chức vụ Chủ nhiệm Địa hạt Trung Nam bộ, gồm các tỉnh Tiền Giang,
Bến Trê, Đồng Tháp, Vĩnh Long và Trà Vinh. Trụ sở Địa hạt đặt tại Vĩnh Long, trong khu vực của
nhà thờ Chi hội Vĩnh Long.
328
Trụ sở địa hạt Tây Nam Phần (1969), Tiền Giang (1974),
Trung Nam Bộ (sau 1975) tại Vĩnh Long.
Tưởng cũng cần nhắc lại tổng quát về sự phát triển của Hội thánh Nam phần trong hai thập niên
1960 và 1970. Trước đó, từ tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa) đến tận Cà Mau là địa phận của chỉ một Địa
hạt nam phần. Từ 1969 do mức độ phát triển khá nhanh, vào tháng 03.1969 Hội đồng Địa hạt quyết
định chia Địa hạt Nam phần ra làm hai: Địa hạt Đông Nam phần và Địa hạt Tây Nam phần với ranh
giới là tỉnh Tiền Giang hiện nay (tức từ tỉnh Mỹ Thơ trước đây xuống đến Cà Mau. Đến tháng
02.1974 do số Chi hội trong Địa hạt Tây Nam phần tăng nhanh nên một lần nữa Địa hạt nầy lại được
chia hai, và trở thành Địa hạt Tiền Giang và Địa hạt Hậu Giang, lấy sông Hậu (sông Cần Thơ) làm
ranh giới. Sau 1975, các Địa hạt kể trên vẫn giữ nguyên nhưng được thay đổi tên gọi, trở thành Địa
hạt Đông Nam bộ (từ Đồng Nai đến Long Ân), Địa hạt Trung Nam bộ (tức Địa hạt Tiền Giang , từ Mỹ
Tho đến sông Hậu), và Địa hạt Tây Nam bộ (từ sông Hậu đến Cà Mau).
Mục sư Nguyễn Văn Xuyến bước vào chức vụ lãnh đạo mới với 53 tuổi đời và 33 tuổi đạo. Ông
dù mềm mỏng nhưng cũng đủ cứng rắn cho chức vụ lãnh đạo, đôi khi bị hiểu lầm và làm mất lòng
không ít. Chức vụ này là chức vụ cuối cùng của ông cho đến ngày về nước Chúa, tổng cộng là 22
năm. Ba năm sau cùng luôn yếu đau, không còn làm việc được.Tuy vậy, lúc còn minh mẫn ông vẫn
không muốn rời chức vụ và cơ sở Địa hạt tại Vĩnh Long. Đến năm cuối cùng trước khi qua đời
(1990), ông phải lên Sài Gòn để tiện việc điều trị và chăm sóc mà lòng lo âu cơ sở Địa hạt sẽ bị tịch
thu nếu ông không còn ở đó.
Thời gian đầu của chức vụ Chủ nhiệm, 1969-1975, là thời gian kết tinh những kinh nghiệm quản
trị và giảng dạy trong suốt hơn ba thập niên hầu việc Chúa. Ông đúng là đã hành xử chức vụ chủ
nhiệm một cách đúng nghĩa của nó: chịu trách nhiệm chính về hoạt động giáo hội trong địa hạt mà
mình được giao. Trong vai trò đó, lúc nào cũng thấy ông đi, không bao giờ ngơi nghỉ. Là một người
có tư chất lãnh đạo và rất có bản lĩnh trong công tác quản lý điều hành, ông đã đảm nhiệm cách
hiệu quả các chức vụ được Chúa trao phó và Hội Thánh tín nhiệm. Những năm tháng giữ chức vụ
Chủ nhiệm Địa hạt, ông đã không quản khó nhọc viếng thăm thường xuyên tất cả các Chi hội trong
329
Địa hạt, lớn cũng như nhỏ, xa cũng như gần, không bỏ sót một nơi nào. Nhờ đó, ông luôn luôn nắm
vững tình hình phát triển của các Chi hội trong Địa hạt mình.
“Vòng thăm viếng của B.T.S. Đ.H. Miền Tây tại Mỹ Tho”(Bút tích của cụ bà)
“Vòng thăm viếng” có nghĩa là ông bà đi hết một vòng rồi bất cứ lúc nào thời gian cho phép thì
bắt đầu lại từ đầu. Cứ như thế xoay vần mà tháng ngày là những chuỗi cho-nhận đầy tình thương
và trân trọng. Ông có tâm tình chăm sóc và ơn giảng dạy.
Nhân chuyến thăm viếng Hội Thánh Quản Long.
Đây là hình ảnh thường xuyên thấy được trong 6 năm chức vụ trước năm 1975: Ông bà đi thăm
các bầy chiên khắp nơi và được tiếp đón nồng hậu. Ông có ơn thăm viếng chăm sóc đặc biệt,luôn
quan tâm đến nhu cầu bầy chiên của mình.
330
Ông cũng là một đầy tớ đầy ơn trong chức vụ rao giảng Lời Chúa. Các sứ điệp của ông – các sứ
điệp mà qua bao nhiêu canh trường của đêm ông đã tận tụy đào sâu ý nghĩa dạy dỗ từ Cha Thánh
– đã làm xúc động biết bao tấm lòng con dân Chúa và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng của tín
hữu khắp nơi đương thời. Mục sư Lê Văn Tính trong Ban Trị sự Địa hạt với ông làm chứng lại rằng:
“Cụ rất có ơn Chúa trong sự giảng dạy; cụ chuyên tâm nghiên cứu lời Chúa rất sâu nhiệm. Riêng tôi
biết chỉ Thi Thiên 23 có sáu câu mà cụ có gần 50 bài giảng với các chủ đề bố cục hoàn toàn khác nhau
rất tốt. Cụ rất gương mẫu trong cách soạn bài giảng, ghi chép ra từng bài đầy đủ các chi tiết trong
các tập sổ rất công phu”.
Một ân tứ đặc biệt của ông là nâng cao tinh thần dâng hiến của các tín hữu để xây dựng Nhà
Chúa trên đất.Vả thật, đã không thiếu các con dân Chúa đáp ứng cách nồng nhiệt cho mục đích nầy
qua các sứ điệp của ông. Cụ thể là ông đã thành công trong việc gây quỹ xây cất nhà Chúa nhiều lần
không quản ngại việc bị hiểu lầm về tiền bạc. Có lẽ vì vậy mà ông đã từng bị cho rằng thiếu minh
bạch tiền bạc qua các thư nặc danh tấn công chức vụ. Mặc dù buồn nhưng ông không bao giờ suy
sụp trong thử thách. Mục sư hưu trí Nguyễn Văn Thanh Vân, vốn là Thủ quỹ Địa hạt dưới thời cụ,
đã nhắc lại về ông như sau: “Điều tôi nhớ nhất về cụ Xuyến là sự giảng dạy của ông mang đến khích
lệ nhiều cho Hội Thánh. Tính cách ông luôn chăm sóc, chu đáo, hy sinh. Đặc biệt trong lĩnh vực dâng
hiến, tôi tuy là Thủ quỹ nhưng ít khi nhắc nhở về sự dâng hiến 1/10, nhưng cụ đi đâu cũng nhắc nhở
về bổn phận này.”
Ban Trị sự Địa hạt Miền Tây Nam phần.
Sau năm 1975, mọi hoạt động của giáo hội bước đầu bị hạn chế và kiểm soát chặt chẽ. Hệ thống
tổ chức giáo hội gần như tê liệt. Hội Thánh không có tư cách pháp nhân để hoạt động chính thức.
Cụ Xuyến vẫn miệt mài với phận sự của một tôi tớ trung kiên, đi giảng dạy thăm viếng dù “gặp thời
hay không gặp thời.” Ban Trị sự Địa hạt vẫn tiếp tục nhóm lại một thời gian nữa dưới sự chủ trì của
cụ. Cụ vẫn lèo lái con thuyền giữa bão tố ba đào.
Cụ Mục sư Chủ nhiệm cứ tiếp tục giảng dạy dù gặp thời hay không. Tại Vĩnh Long sau 1975.
Một trong những lần giảng dạy như vậy, vào năm 1978, cụ đã bị chính quyền bắt giữ 1 tháng tại
Hội Thánh Bình Minh (Vĩnh Long) khi đang giảng lời Chúa cho thanh niên Hội Thánh,cùng với thầy
Truyền đạo Chủ tọa Hội Thánh Bình Minh lúc đó. Một lần khác, cụ đi giảng ở Hội Thánh Tiên Thủy,
331
Bến Tre, thì bị bắt đêm về trụ sở Ủy ban mấy ngày với lý do “đi giảng không có giấy phép.” Sau
những lần như vậy, tuy không còn tự do giảng dạy, cụ vẫn duy trì sự thăm viếng, nhất là đối với các
trường hợp Hội Thánh có Mục sư bị bắt giữ hay Hội thánh bị thử thách, thiên tai nặng nề.Điều này
dẫn đến việc cụ lại phải tiếp tục vào tù ra khám!
Một lần, sau khi họp Ban Trị sự Địa hạt ở Tiền Giang xong thì Mục sư Ngô Văn Bửu bị bắt. Cụ
Xuyến đích thân đi thăm người anh êm đồng sự với hy vọng bằng cách nào đó có thể bảo lãnh ông
ra được, nhưng ngược lại, chính cụ bị bắt giữ 2 ngày. Sau đó, cụ cũng vẫn không quản ngại khó khăn
đi thăm viếng khi nghe tin Mục sư Tính bị bắt ở Mỹ Ân, Đồng Tháp.
Áp lực cứ theo chiều đó mà gia tăng. Sự hầu việc Chúa ngày càng trở nên vô cùng khó khăn. Cụ
cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng không phải vì cớ quá bận với sự đi lại thăm viếng hay giảng dạy,
nhưng là vì không còn được “bận rộn” với những công tác mà cụ xêm là thiêng liêng đó nữa, không
còn sự thông công với các bạn đồng lao, các bậc cao niên, và các Hội Thánh để trao đổi công việc
Chúa. Dường như một màn đêm đang bao trùm khắp nơi. Trước các tin tức như một Chi hội bị đóng
cửa, một Mục sư bị bắt giữ, Ban Trị sự của một Chi hội bị chính quyền giải thể, một Truyền đạo bỏ
chức vụ ra đi, một Mục sư ngã thêo quyền lực chính trị,… cụ rất đau lòng. Cụ tuôn đổ nước mắt với
Chúa, dẫu luôn biết “sự thử thách trăm bề thoạt đến” đều nằm trong ý chí trọn lành của Cha Từ ái.
Giai đoạn này đã tạo mối căng thẳng vô cùng cho các lãnh đạo Hội Thánh, cũng như cho chính
cụ. Nhưng tạ ơn Chúa, ông đã thêo gương các vị lãnh đạo Hội thánh lúc đó như cụ Hội trưởng Mục
sư Ông Văn Huyên, cụ Phó Hội trưởng Mục sư Đoàn Văn Miêng,… vẫn trung tín và quì gối trong yên
lặng hầu “giữ cửa nhà của Chúa qua đêm để chờ khi trời lại sáng” như lời của cụ Mục sư Ông Văn
Huyên đã từng nói.
Mặc dù thời ký khó khăn hay sung túc, ông luôn gắn chặt với bầy chiên và bạn đồng lao trong
mọi hoàn cảnh. Mục sư trí sự Nguyễn Văn Thanh Vân, nguyên thủ quỹ địa hạt, đã nhắc lại về sự tận
tụy của MS Chủ nhiệm Xuyến trong việc hỗ trợ chức vụ các Mục sư trẻ từ khi mới ra trường chủ tọa
hội thánh cho đến khi về hầu việc Chúa trong Ban Chấp sự Địa hạt. Ông luôn đôn đốc nhắc nhở và
làm gương trong sự phục vụ,chăm sóc. Khi MS Vân hầu việc Chúa ở Ô môn; khoảng năm 1967-68
Ô môn bị pháo kích nặng, MS Xuyến lúc đó chưa làm chủ nhiệm và hầu việc Chúa tại Long Xuyên đã
mời MS Vân và gia đình đến tư thất Long Xuyên tạm lánh nạn trong suốt thời gian ba tháng và lo
lắng việc ăn ở cho cả gia đình chu đáo.
Sau biến cố 1975, cụ vẫn tiếp tục tinh thần tận tụy phục vụ không thay đổi. MS Nguyễn Văn
Khoa Tràng từng ở miền Tây kể lại: “Khi tôi quản nhiệm HT Mộc Hóa (1976-1980) đang lúc chiến
tranh biên giới Tây nam ác liệt cộng với lũ lụt 1978, đường đi rất khó khăn sau lũ lụt, nhưng cụ vẫn
đến thăm HT để khích lệ tín hữu trong lúc khó khăn. Qua việc đó, tín hữu được khích lệ và HT được
giữ vững qua giai đoạn khó khăn hơn hết của HT Mộc Hóa.”
Mục sư Trần Thanh Dũng hiện quản nhiệm HT Long Ân cũng kể lại một câu chuyện về sự tận
tụy chu toàn trách nhiệm của cụ:
“…một HT nhỏ cách trụ sở Địa hạt đến gần 30 km, ông Truyền đạo chủ tọa bị bệnh hạch lao cấp,
sức khỏe suy giảm nhiều. Thầy quyết định xin nghỉ dài hạn để điều trị,dưỡng bệnh. Cụ chủ nhiệm trăn
trở, cầu nguyện với Chúa nhiều vì khi HT vắng chủ tọa có nhiều khả năng bị đóng cửa, bầy chiên sẽ
tan lạc. Thầy Truyền đạo về nhà sẽ rất khó quay lại với chức vụ vì nhiều lý do, chủ quan cũng như
khách quan.
Cụ cầu nguyện rồi đưa ra giải pháp:
332
- Địa hạt sẵn sàng cho Thầy tạm nghỉ để dưỡng bệnh, nhưng tôi đề nghị Thầy cô cứ ở lại Nhà Thờ,
có Thầy cô ở đây bầy chiên của Chúa cũng được ấm lòng, chức vụ Thầy cũng được an ủi, nâng đỡ.
- Con ở lại làm sao đủ sức giảng dạy. Thầy nêu lên lý do.
Cụ chủ nhiệm trấn an:
- Hội Thánh trong giai đoạn Thầy đau không thể thăm viếng và giảng dạy được, chúng tôi sẽ giúp
Thầy.
Trước lời đề nghị hữu lý, đầy chân tình như thế, thầy Truyền đạo nhận lời. Thế rồi mỗi tháng cụ
Chủ nhiệm xếp lịch giảng cho HT, các đầy tớ Chúa ở quanh vùng gánh vác giảng dạy hai tuần, chính
cụ Chủ nhiệm đảm trách hai tuần. Bất kể mưa nắng, cụ như con kiến siêng năng mang lương thực về
cho bầy đúng giờ. Có nhiều lần không đón được xe, cụ phải cỡi xe đạp đến với HT. Một cụ Chủ nhiệm
già đi hầu việc Chúa vất vả đến thế nên cả HT đều cảm động…”
Song song với nỗi buồn lo về sự trì trệ trong phát triển của HT trong lúc đó, cuộc sống vật
chất của cụ cũng gặp nhiều thiếu thốn. Cụ bắt đầu sống kham khổ vì Hội Thánh. Chung quanh đang
thiếu thốn, nguồn tài chánh chung không còn. Phụ cấp từ Địa Hạt cũng không còn hoặc không đủ.
Các con của cụ người mất việc, kẻ đi tù, không còn một trợ giúp nào nữa.
Từ 1975 đến 1988, mười ba năm chức vụ sau cùng của cụ chìm ngập trong thử thách nặng nề
cả tinh thần lẫn thể xác. Thoáng nhanh nhìn lại cụ, từ một ông già phương phi khỏe mạnh, sức làm
việc dẻo dai, siêng năng cần mẫn, bỗng chốc suy sụp sức khỏe toàn diện. Trong những năm đó, có
hai lần, một lần tại nhà thờ Vĩnh Long, đang giữa chừng bài giảng,cụ dừng lại rồi xin lỗi Hội Thánh
vì không nhớ gì nữa. Và một lần nữa tại nhà thờ Tô Hiến Thành, cụ giảng được độ 10 phút, thì xin
cáo lỗi, hẹn lần sau vì không nhớ gì nữa cả. Từ đó cụ ngừng hẳn giảng dạy.
Chúa đã dùng vợ chồng người con gái thứ ba lo lắng tiếp trợ khoảng 6 năm sau cùng cho cụ
được đầy đủ thuốc men, bệnh viện. Cụ cũng kịp biết sự tiếp trợ đó trước khi đi vào tình trạng trí
nhớ bị lãng quên. Hai năm suy yếu dần, đôi khi nhớ, đôi khi quên. Một năm cuối cùng cụ phải nhờ
con cháu dìu dắt.
333
VỀ VỚI CHÚA (1991)
Trong ý định trọn lành của Cha trên trời, Ngài đã tiếp rước cụ về với Ngài trong một chiều Chúa
nhật tại bệnh viện Chợ Rẫy. Cụ chỉ nằm xuống 2 ngày trước khi về cùng Chúa. Cụ nhắm mắt bình
an, không đau đớn. Trước đó vài hôm cụ có trối lại rằng: “Đến lúc Ba muốn lên Thiên Đàng” (câu
trích từ tiểu sử do MS Ngô Văn Bửu đọc tại tang lễ cụ Xuyến ngày 05.05.1991).
Nhưng lúc cụ nằm xuống mới thấy được sức mạnh của Hội thánh chung, tiềm ẩn tình yêu và
quyền năng của Chúa Jesus. Lòng quí mến của các cụ Mục sư đồng lao, lòng tiếc thương của nhiều
Mục sư, Truyền đạo và Hội Thánh khắp nơi nói lên điều đó.
Tang lễ của cụ đã được cử hành long trọng tại nhà thờ 155 Trần Hưng Đạo Sài Gòn. Có rất đông
người tham dự. từ các Hội thánh ở vùng Sài Gòn lẫn các vùng của Địa hạt miền Tây, Các vòng hoa
thương tiếc tràn ngập, Ban thanh niên Tô Hiến Thành và các Truyền đạo trẻ với vòng hoa trên tay
theo sau quan tài cụ. Hình ảnh đẹp đẽ trang nghiêm,nhưng làm sao so sánh được với vương miện
trên Trời cho người trọn đời kính yêu Chúa.
Giai đoạn đó chính quyền chưa cho phép bất cứ một cuộc hội họp nào đông người, nhất là đối
với tôn giáo. Đã nhiều năm, Hội thánh chưa được cấp phép tổ chức Hội đồng. Vậy mà tang lễ ngày
đó diễn ra trang nghiêm. Không bị chút khó dễ nào từ phía nhà cầm quyền,dù buổi lễ quá đông
người.
Đến đây, xin được nhớ lại Mục sư Nguyễn Văn Hưng, lúc đó ông còn là một truyền đạo trẻ. Ông
là người đã từng bồng ẵm cụ Mục sư lúc yếu đau khi còn ở Vĩnh Long. Rồi đến hai năm sau cùng cụ
ở luôn Sài Gòn thì Mục sư Hưng là người ở lại trụ sở Địa hạt cho đến hồi tình hình thay đổi (“tình
hình thay đổi” có nghĩa là những người chờ đợi cơ hội để tịch thu cơ sở đó không còn nữa). Mà đó
là điều mà cụ Chủ nhiệm luôn lo nghĩ, cụ không muốn “làm mất” cơ sở đó. Các người con của cụ
Xuyến rất quí mến “thầy cô Hưng”.
334
Quan tài của cụ được đưa vào ngôi nhà thờ mà cụ đã sinh hoạt, lớn lên, và từ đó cụ đã xuất thân
đi vào trường Kinh Thánh. Cũng là nơi mà lễ cưới của cụ ông và cụ bà diễn ra hơn 50 năm về trước.
Giữa Hội Thánh nầy, trước mặt vị Chủ tọa hành lễ, Mục sư Lê Đình Tươi và trong sự hiện diện của
Chúa, hai người đã đứng hứa nguyện với nhau, hứa nguyện dâng mình hầu việc Đức Chúa Trời.
Một khởi đầu, một kết thúc đầy ý nghĩa của một đời người thêo Chúa. Để lại gương sáng về lòng
tận tụy,hy sinh cho nhiều đời sống và nhiều chức vụ nối tiếp, để lại di sản vô giá về lòng trung kiên,
sắt son theo Chúa trọn đời cho con cháu và hậu duệ
Thật vậy, một người cháu từng sống trong nhà đã tưởng nhớ về cụ như sau: “Tôi nhớ về
Dượng,Dương thật là một người nổi tiếng mà tôi khâm phục. Dượng không nổi tiếng vì là một Mục
sư trịnh trọng khắt khe, không nổi tiếng vì khôn ngoan lanh lợi bon chen khánh tướng, cũng không
nổi tiếng vì là một Mục sư đã giữ chức vụ quan trọng trong Giáo Hội. Người Dượng mà tôi biết nổi
tiếng là người nhân từ khoan dung với mọi người chung quanh, Dượng nổi tiếng vì Dượng đã không
nhân danh bất cứ cái gì, và cũng không quản ngại gian lao hiểm nguy nào để lơ là trách nhiệm…. Và
trên hết Dượng nổi tiếng vì Dượng đã kiên cường sống hết đời một đầy tớ tận hiến cho nhà Chúa. Dù
ai có nói gì, với tôi Dượng đã là biểu tượng chói chang nhất của một hiện thể mang hình ảnh Thiên
Chúa đi giữa cuộc đời chứa chan tình người và trách nhiệm.”
Người con thứ nhì đã ví cuộc đời của cha mình như một dòng sông âm thầm chảy. Nắng hay
mưa,đêm hay ngày, dòng sông cứ yên lặng chảy, chở các “con thuyền” về bến với đầy ắp “cá tôm”.
Dù đôi khi chạm phải các tảng đá, nước xoáy và vỡ tung, nhưng vẫn hiệp trở lại thành một dòng
nước, rồi vẫn yên lặng và nối tiếp chảy, và chảy … về tận Nguồn.
Những người viết:
Nguyễn Thị Hồng Bích, trưởng nữ
Nguyễn Thị Hồng Liên, thứ nữ
Nguyễn Hồng Chí, thứ nam
Nguyễn Liên Lực, cháu (gọi ông bà MS Xuyến là dì dượng)
Đoàn Thị Bích Thu, cháu ngoại
Cùng các vị Mục sư đã giúp trả lời phỏng vấn về cố Mục sư Xuyến (đã nêu tên trong bài)
335
Mục Sư PHAN VĂN XUYẾN
(1914 – 2000)
TRUYỀN GIÁO SẮC TỘC MẠ
Mục Sư Phan Văn Xuyến sinh ra trong gia đình tin Chúa, nhưng cha mẹ mất sớm, ông phải sống
tự lập. Những gì mẹ ông dạy về Chúa đã ghi khắc vào tâm khảm và ảnh hưởng cả cuộc đời ông sau
này. Sau khi lập gia đình, ông đã nghe được tiếng gọi phục vụ Chúa và đã dâng mình đi học trường
Kinh Thánh Đà Nẵng năm 1947. Khi ra trường, ông lại được Chúa thôi thúc trở thành người truyền
giáo đầu tiên cho người sắc tộc Mạ tại B’Lao. Những ngày đầu tiên thật gian nan với cơ sở vật chất
nghèo nàn, thô sơ và chưa một người biết đến Chúa, ông bà đã bắt đầu gieo những hạt giống Tin
Lành đầu tiên tại vùng đất đỏ rừng núi nầy.
Chẳng bao lâu những hạt giống ông gieo ra bắt đầu nẩy mầm và kết quả. Tin Lành của Chúa Giê
Xu được đồn ra và nhiều người sắc tộc từ bỏ những tập tục mê tín, dị đoan, thờ ma lạy quỷ, bùa ngãi,
mà trở lại cùng Đức Chúa Trời. Nhiều Hội Thánh sắc tộc được dựng nên, nhiều thanh niên dâng mình
phục vụ Chúa, trường Kinh Thánh Di Linh được thành lập. Trung Tâm truyền giáo cứ tiếp tục phát
triển đem ánh sáng Phúc Âm đến cho những buôn làng xa xôi và nhiều người đã được giải cứu khỏi
những con đường tối tăm và nhận ánh sáng Phúc Âm.
Mục Sư Phan Văn Xuyến hầu việc Chúa trọn đời với những người sắc tộc tại B’Lao. Ông và bà đã
tận tâm hầu việc Chúa và đã đóng góp tất cả khả năng và sức lực trong việc đem Tin Lành đến cho
những sắc tộc và mởmang công việc Chúa tại vùng Lâm Đồng.
Sau năm 1975, công việc Chúa gặp phải rất nhiều khó khăn, nhưng ông bà vẫn cứ tiếp tục âm
thầm hầu việc Chúa và gây dựng Hội Thánh Ngài, chẳng những giữa những người sắc tộc mà cả giữa
các Hội Thánh người Kinh. Ngày nay, số người sắc tộc tin Chúa tại các vùng Di Linh, Bảo Lộc cứ tiếp
tục gia tăng. Nhiều Hội Thánh được mở ra, nhiều người tin Chúa, nhiều người tiếp tục dâng mình hầu
việc Chúa, dầu được chính thức công nhận hay chưa. Quả thật công khó của MS Phan Văn Xuyến và
bà trong công việc nhà Chúa không phải là vô ích đâu.
I. THỜI THƠ ẤU
MS Phan Văn Xuyến sinh năm 1914 tại Hòa Vang, Cẩm Lệ, Quảng Nam, trong một gia đình tiểu
thương.Cha là Phan Văn Điệu mất sớm, năm ông mới 2 tuổi, lúc đó gia đình ông chưa tin Chúa, còn
ở trong sự tối tăm. Lúc ông lên 7 tuổi, mẹ ông tin nhận Chúa và dạy dỗ ông về Chúa. Đến năm lên 9
tuổi mẹ ông cũng qua đời. Ông sống trong cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ từ tuối ấu thơ.
Ông luôn luôn nhớ lời mẹ dặn trước khi qua đời rằng: “Con ơi, mẹ về với Chúa nhưng Chúa
không bỏ con,Ngài sẽ chăm sóc con. Con đừng về bên nội vì không ai tin Chúa, hãy về bên dì dượng
dù nghèo nhưng tin kính Chúa.” Mặc dầu còn nhỏ, ông đã vâng lời và quyết tâm làm theo những gì
mẹ dặn bảo. Nên ông đã từ chối sống với gia đình bên nội có nhiều quyền lợi mà về sống với dì
dượng (ông bà thân của Mục sư Nguyễn Văn Vạn).Đến năm 16 tuổi, ông đã biết sống tự lập, và theo
giúp việc các vị giáo sĩ ở Sài Gòn, rồi tiếp tục xuống Mỹ Tho vì lúc đó các giáo sĩ bị quản thúc tại Mỹ
Tho.
II. PHỤC VỤ CHÚA
Trong thời gian đi thêo giúp việc các giáo sĩ, ông được học hỏi rất nhiều về Lời Chúa, hiểu biết
về tình yêu Ngài và học biết gương hy sinh phục vụ Chúa của giáo sĩ. Trong thời gian nầy, ông được
336
Thánh Linh thôi thúc để dâng mình hầu việc Chúa, nhưng vì những lôi cuốn trong cuộc đời nầy ông
vẫn còn lưỡng lự, không thể quyết định dứt khoát.
Sau khi lập gia đình cùng cô Võ Thị Xứng, em thứ năm của Mục sư Trương Văn Tốt, ông bà quyết
định lên sinh sống tại Đà Lạt. Nhưng tình yêu Chúa luôn thêo đuổi và bắt phục ông bà cách mạnh
mẽ ñeán noãi oâng khoâng chaàn chöø nöõa vaø saün saøng daâng mình haàu vieäc Chuùa baèng
caùch ñi hoïc trường Kinh Thánh taïi Đà Nẵng naêm 1947.
Sau ba năm học trường Kinh Thánh, ông tốt nghiệp năm 1951 và ông được Chúa kêu gọi đi
truyền giáo cho người sắc tộc. Sau kỳ Hội đồng Tổng Liên Hội, ông cùng bốn người tốt nghiệp cùng
khóa tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng được đặt tay cử lên vùng cao nguyên, đó là:
1. Truyền đạo Trương Văn Sáng lên Plâyku
2. Truyền đạo Đặng Văn Sung lên Ban Mê Thuột
3. Truyền đạo Trương Văn Tốt lên Đà Lạt
4. Truyền đạo Phan Văn Xuyến lên B’Lao
Lúc bấy giờ, B’Lao còn là vùng rừng rú, dân cư thưa thớt. Nhiều buôn làng người sắc tộc sống
sâu trong rừng núi, xa xôi, hẻo lánh. Đời sống họ rất tối tăm, thờ thần, cúng nhiều thần và bùa ngãi.
Đường đi đến các buôn làng thường chỉ là những con đường mòn đất đỏ, mùa nắng đầy bụi, mùa
mưa trơn trợt và lầy lội.
Vì B’Lao là vùng đất mới chưa có tín đồ và cơ sở nhà Chúa nên ông bà phải ở tạm tại Di Linh. Tại
đây, ông dành khoảng hai năm để học tiếng người sắc tộc Mạ và thường xuyên lên xuống B’Lao để
tìm cách rao giảng Lời Chúa.
Năm 1953, ông bà chính thức xuống ở tại B’Lao. Lúc đầu, Chúa dự bị cho gia đình của ông bà
nơi ở tạm là một căn nhà hoang của sở trà Bitchêné cho mượn. Sau đó sở trà nhường lại cho một
miếng đất 4.000 m2 ngay quốc lộ 20 rộng 50 m.Miếng đất lúc đó còn là rừng hoang, phải mướn
người dọn dẹp.
Sau đó với sự giúp đỡ của hội Truyền giáo và một người tín đồ Đà lạt là ông Ba Sô, Truyền đạo
(TĐ) Phan Văn Xuyến đã cất được một tư thất mái tôn vách ván làm nơi ở và cũng là nơi thờ phượng
Chúa.Những buổi nhóm ban đầu chỉ có thầy TĐ Phan Văn Xuyến cùng vợ và hai con (một bé 4 tuổi
và một bé 2 tuổi).
Năm đầu tiên (1953)việc giao thiệp tiếp xúc thật là khó khăn vì sự kỳ thị tôn giáo của người
Kinh.Còn người dân tộc thì họ ở quá xa xôi hẻo lánh, phải tìm cách làm quen và kiếm người môi
giới để gây lòng tin. Chúa mở đường, có một thanh niên người Mạ tên là K’Bang đến xin việc làm và
anh trở thành người dân tộc Mạ đầu tiên được nghê Tin Lành. Nhưng việc anh tin Chúa đã vấp phải
nhiều khó khăn và chống đối mạnh mẽ của gia đình cũng như những người trong làng. Mỗi khi trở
về làng, anh ở phải đi khoảng 2 ngày đường rừng. Khi anh làm chứng về Chúa Giê-xu thì ai cũng sợ
hãi, không cho anh ở chung, ngay cả khi làm rẫy trồng lúa, anh cũng phải làm riêng. Anh bị dân làng
cô lập vì họ lo sợ cho rằng khi anh đêm thần khác về thì các thần sẽ đánh nhau và họ sẽ chết hết,
nên họ không cho anh làm chung, ở chung với họ. Nhưng Chúa đã làm nhiều phép lạ để bày tỏ quyền
năng Ngài là lớn hơn các thần của dân làng đang thêo:
337
1. Khi anh bị đuổi đi thì có một con cọp lớn vào ở trong làng khiến ai cũng sợ hãi. Họ suy nghĩ
có lẽ ông Giê-xu sai con cọp đến hại họ. Họ sai những người mạnh mẽ đi tìm kêu anh K’Bang về.
Thật lạ lùng, từ đó cọp cũng không còn xuất hiện nữa.
2. Dân làng thường chung nhau làm trên cùng một rẫy lúa để có thể cùng nhau bảo vệ mùa màng
khỏi bị thú rừng phá hoại. Năm đó khi đến mùa đốt rẫy trồng lúa, dân làng không cho anh K’Bang
làm chung, có nghĩa là nếu anh có làm lúa thì không được ai bảo vệ. Khi anh và dân làng khai hoang
một mảnh đất mới, họ hạ những cây to rồi đốt đám rừng trong khu đó để lấy đất trồng lúa. Dân làng
tách phần đất của họ ra khỏi phần đất của anh rồi rào chung quanh phần của họ lại để bảo vệ. Khi
lúa chín, họ cùng nhau canh gác phần đất của họ kỹ lưỡng. Nhưng Chúa đã làm điều ngược với toan
tính của họ. Gần đến ngày thu hoạch, có một đàn voi rừng tràn đến. Chúng không đụng chạm gì đến
rẫy của K’Bang nhưng lại đi đến đám rẫy chung của dân làng, phá rào, ăn lúa và dẫm nát tất cả!
Nhìn thấy quyền năng của Chúa, một số người bắt đầu tìm hiểu và tin nhận Ngài. Ânh K’Bang
trở thành người dẫn đường và thầy Xuyến được cơ hội tiếp xúc, làm chứng, giảng Tin Lành và có
nhiều người tin Chúa trong nhiều buôn làng, dỡ bỏ bàn thờ, đốt bùa chú.Sau đó anh K’Bang được
Chúa kêu gọi trở thành nhà truyền đạo đầu tiên của sắc tộc Mạ tại B’Lao. Mặc dù anh rất đơn sơ, ít
học nhưng Chúa đã dùng anh làm hạt giống đầu tiên kết quả nhiều cho Chúa. Ânh đã đêm hằng
ngàn người về cho Chúa và mở mang nhiều Hội Thánh.
Người tin Chúa đầu tiên của sắc tộc Mạ, K’Bang, hiện nay là Mục sư Hưu trí.
Con ông cũng tiếp nối hầu việc Chúa.
338
Tại Trung tâm Truyền giáo, hàng tuần vẫn có sinh hoạt tại tư thất. Khởi đầu có vài gia đình
người Kinh tìm đến. Gia đình ông Nguyễn Văn Quới từ miền nam lên làm ăn sinh sống tại B’Lao và
tham gia sinh hoạt với Hội Thánh. Số tín hữu của Hội Thánh tăng dần, cả người Kinh lẫn người dân
tộc Mạ.
Năm 1957, nhà thờ được xây cất bởi sự đóng góp của con cái Cha tại B’Lao và sự hỗ trợ của các
ân nhân.Mặt tiền nhà thờ được xây bằng đá, vách ván, mái lợp tôn, rộng 7 m, dài 19 m,là nơi nhóm
lại khang trang cho 150 tín hữu.
Đến năm 1965, số tín hữu người Kinh tăng lên nhiều, khi nhóm lại Mục sư Xuyến phải giảng
bằng cả hai thứ tiếng, bất tiện cho người nghe và cả người giảng. Nên ông đề nghị Tổng Liên Hội
mở Hội Thánh riêng cho người Kinh và ông xin được một miếng đất tại trung tâm quận Bảo Lộc để
xây dựng nhà thờ, thành lập Hội Thánh Bảo Lộc. Cho đến nay,những tín hữu ban đầu vẫn đứng
vững và là cột trụ của Hội Thánh Bảo Lộc.
339
Nhà thờ Bảo Lộc năm 1965
Riêng Trung Tâm Truyền giáo tại B’Lao vẫn phát triển và Phúc Âm của Chúa Cứu Thế vẫn được
rao giảng trong các buôn làng xa xôi. Nhiều thanh niên người sắc tộc Mạ yêu mến Chúa, được Ngài
kêu gọi đã sẵn sàng dâng mình đi học trường Kinh Thánh tại Di Linh và Đà Lạt để tiếp nối công việc
Chúa giữa đồng bào của mình. Đó là TĐ K’Têr, TĐ K’Gêoh,TĐ K’Jon, TĐ K’Mar, TĐ K’Bông. Ngoài ra
còn có các chấp sự đặc trách các điểm nhóm như ông K’Đông Dạ Mri, ông K’Điểu ở Madaguôi.
Năm 1972, nhà thờ tại B’Lao được tái thiết, rộng 9 m, dài 23 m, tường xây, mái lợp tôn. Số tín
đồ lên đến 500, phần nhiều do chiến tranh tín đồ từ các làng ra Trung tâm Truyền giáo để tị nạn.
340
III. SAU NĂM 1975
Sau khi đất nước được thống nhất, công việc Chúa trên cao nguyên gặp nhiều khó khăn, phần
lớn các nhà Truyền giáo ra đi tị nạn, Mục sư Xuyến vẫn tiếp tục ở lại để lo công việc Chúa giữa
những người sắc tộc tại B’Lao. Nhiều Nhà thờ bị đóng cửa, bị trưng dụng làm kho, làm nhà Văn hóa
hay bỏ hoang, các điểm nhóm bị cấm đoán nhưng công việc Chúa vẫn phát triển.
Nhà thờ bị trưng dụng làm nhà Văn Hóa
Sau năm 1975, nhiều người đã từng nghĩ đạo Tin Lành dường như không tồn tại ở Lâm Đồng vì
những biến động chính trị của đất nước. Trong thời gian nầy, toàn tỉnh chỉ còn lại 9 Chi hội được
phép sinh hoạt tại nhà thờ là Đà Lạt, Bảo Lộc, Trạm Hành, Boner A, Boner B, Boner C, Dan Kia, Don
Rieng, và Tà Nung. Còn các nhà thờ khác bị đóng cửa hoặc thu giữ, chỉ còn lại điểm nhóm trong nhà
của các tín hữu, nhưng việc nhóm lại bị kể là bất hợp pháp. Các Mục sư và Truyền đạo luôn nằm
trong sự kiểm soát của chính quyền địa phương.
341
Tuy nhiên, giữa những khó khăn, bắt bớ, đạo Chúa vẫn cứ đươc rao giảng như những hạt
giống tốt tiếp tục nẩy nở và phát triển mạnh mẽ. Thay vì tập trung đông tín hữu tại một điểm, các
Chi hội được chia ra từng nhóm nhỏ theo từng khu vực. Mỗi nhóm nhỏ tập trung từ 5 đến 7 gia đình
khoảng 20 người. Mỗi nhóm đều có một nhóm trưởng đã được huấn luyện vững vàng về niềm tin,
về các phương pháp học Kinh Thánh cơ bản để có thể tự nghiên cứu Kinh Thánh và gây dựng nhóm
của mình. Tuy nhiên, có nhiều nhóm trưởng thiếu khả năng nên giờ nhóm lại thờ phượng chỉ bao
gồm hát Thánh Ca, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Thời gian nhóm lại rất đa dạng, có nơi lúc 3 giờ
sáng, nhưng cũng có chỗ nhóm lại lúc 11 giờ đêm. Địa điểm thờ phượng Chúa phải luôn thay đổi để
tránh sự chú ý. Âi đêm Kinh Thánh hay Thánh Ca phải ngụy trang, nhưng phần lớn đi tay không vì
Kinh Thánh và Thánh Ca của họ bị tạm giữ.Tuy phải sống trong sự khó khăn, thử thách và chịu
nhiều bắt bớ, tinh thần của con cái Chúa luôn nóng cháy về lòng yêu mến thờ phượng Chúa, phục
vụ Ngài và rao giảng Phúc Âm cho người chưa được cứu. Vì vậy, nhiều tín hữu không quản ngại
mưa gió, đường sá xa xôi, trơn trợt, vẫn luôn đến thờ phượng Chúa tại các điểm nhóm đông đủ, và
cũng khích lệ lẫn nhau phục vụ Chúa.
Trong giai đoạn khó khăn nầy, các Hội Thánh tại Lâm Đồng dường như bị cô lập, không thể liên
lạc với nhau thường xuyên. Vì sau năm 1977, cả hai Địa hạt Thượng duđều bị giải thể nên những
hướng dẫn của Ban Trị sự Tổng Liên Hội không thể đến được các Chi hội. Trước tình hình nầy, các
Mục sư và Truyền đạo đã quyết định tập trung lại để thành lập Ban Hiệp nguyện và cử Mục Sư Ha
Klas  làm Trưởng ban, Mục sư Phan Văn Xuyến là cố vấn và mỗi khu vực đều có Mục sư phụ trách.
Ban Hiệp nguyện
Ban Hiệp nguyện toàn tỉnh thường họp ba tháng một lần. Còn ban Hiệp nguyện của từng địa
phương thì có thể tự sắp xếp, nhưng ít nhất mỗi tháng một lần và các buổi họp được thực hiện vào
các ngày trong tuần. Chương trình họp của ban Hiệp nguyện thường vào buổi sáng, sau thời giờ thờ
phượng Chúa, làm chứng và bồi linh. Các Mục sư, Truyền đạo đã dành rất nhiều thời gian để cầu
nguyện. Nhờ tinh thần cầu nguyện tha thiết và hết lòng này, Đức Chúa Trời đã thực sự làm những
“việc lớn và khó” cho Hội Thánh Ngài tại Lâm Đồng. Trong chương trình buổi chiều,các Mục sư và
Truyền đạo đã cùng ngồi lại với nhau thảo luận những việc đã làm,cùng nêu lên những khó khăn,
trở ngại của từng khu vực và cùng hiệp với nhau đưa ra những phương hướng hay mục tiêu cho
thời gian tới. Nội dung của các buổi họp này thường được báo cáo lại khá chi tiết gửi cho Ban Trị
342
sự Tổng Liên Hội.Dựa trên những báo cáo này mà Mục sư Hội trưởng Ông Văn Huyên có những
quyết nghị hay các văn thư.
Giai đoạn 1975 -2000 là khoảng thời gian mà công việc của Chúa được bày tỏ rất kỳ diệu, công
việc của Chúa vẫn phát triển không ngừng cho dù các tổ chức truyền giáo không còn,nhiều nhà thờ
bị đóng cửa, con cái Chúa không được tự do nhóm lại, việc truyền giảng không được tổ chức, nhưng
rõ ràng “các cửa âm phủ không thắng được Hội đó”. Thêo số liệu thống kê vào cuối năm 2000 thì
toàn tỉnh Lâm Đồng đã có 125 chi hội, 97 Mục sư, Truyền đạo và 56.713 tín đồ, bao gồm cả người
Kinh và các sắc tộc. Tuy nhiên, số tín hữu người Kinh tại Lâm Đồng chỉ chiếm một phần nhỏ.
Năm 1982, giai đoạn khó khăn càng thêm. Khu Truyền giáo cho người Mạ bị trưng dụng làm
nhà văn hóa.Mục sư Phan Văn Xuyến không được phép đến giảng cho người sắc tộc và ông được
giấy bảo lãnh sang Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ gia đình. Nghê tin đó, các con cái Chúa người sắc tộc
Mạ đến khóc với ông: “Ông bà bỏ chúng tôi mà đi sao?Không ai lo cho chúng tôi như ông bà!“ Nghê
vậy ông quyết định ở lại và tiếp tục giúp đỡ họ trong việc thăm viếng, huấn luyện mặc dù rất khó
khăn, phải làm việc trong âm thầm cho đến ngày ông ra đi về nước Chúa tuổi 86.
Số tín đồ người Mạ trước năm 1975 có khoảng 2.270 tín đồ, 8 Chi hội tự dưỡng. Đến năm 2000
chỉ còn 4 Chi hội tự dưỡng nhưng có đến 43 điểm nhóm và 7.030 tín đồ, phần lớn đều do các chấp
sự đảm trách. Chỉ có 4 thầy Truyền đạo đều lớn tuổi nên công tác huấn luyện rất cần thiết. Một Hội
Thánh điển hình tại làng Bơ Kọ, cách trung tâm Truyền giáo 12 cây số, trước năm 1980 chỉ có 4
người tín đồ. Mỗi sáng Chúa nhật họ đi bộ ra nhóm thờ phượng Chúa từ rất sớm. Sau đó họ dẫn
theo vài em thiếu nhi cùng đi. Các êm tin Chúa trở về làm chứng cho anh chị. Đến năm 1983, họ mở
được điểm nhóm, rồi tăng lên 4 điểm nhóm. Đến năm 2000, họ tin Chúa gần cả làng với hơn 500
tín đồ. Họ tiếp tục đi đến các làng khác để làm chứng và họ cũng lập được 3 điểm nhóm mới trong
các làng khác. Cứ như vậy, Chúa cho công việc giảng Tin Lành được kết quả. Trong thời gian đó Mục
sư Phan Văn Xuyến phải đi thăm viếng nhiều. Tận dụng cơ hội trong các dịp đám cưới, đám tang, lễ
343
mừng tân gia và đặc biệt ngày tết, Mục Sư để ra 10 đến 15 ngày đi thăm viếng và giảng dạy. Chúa
cho ông có sức khỏe, không bệnh tật gì mặc dù rất nhiều người bị bệnh sốt rét. Hiện nay Hội Thánh
Bơ Kọ đang xây dựng một nhà thờ cho 700 chổ ngồi. Thật quyền năng Chúa lạ lùng.
Hội Thánh Bơ Kọ: Nhà thờ đang xây; tín đồ: 636; Báp têm:399; đặc trách: TĐ K’ Sếp.
Hội Thánh Nau Sri: tín đồ: 576; Báp têm: 396; Quản nhiệm:MS K’ Bress.
344
Hội Thánh Lộc Lâm: tín đồ: 681, Báp têm: 410; đặc trách:TĐ K’ Branh.
Qua các con số, có thể thấy trong những năm khó khăn Hội Thánh sắc tộc vẫn tăng trưởng mạnh
mẽ Đó là bởi sự quan phòng và bảo vệ kỳ diệu của Chúa đối với Hội Thánh của Ngài.
Cuối năm 1999, Mục Sư Phan Văn Xuyến cảm thấy yếu sức, phát hiện mình bị ung thư tuyến
tiền liệt.Ông trở về quê hương tại Hòa Vang, Cẩm Lệ, Đà Nẵng, tìm đến bà con để làm chứng về Chúa
cho họ. Lúc trở về ông vào bệnh viện, sau đó được con cháu giúp qua Mỹ để chữa trị và sẵn dịp
thăm lại các anh êm đồng lao và bà con thân thuộc. Những ngày đầu ông cảm thấy khỏe mạnh, niềm
vui gặp lại người thân, có dịp tự do làm chứng công việc Chúa, ông thỏa lòng. Ngày 27.10.2000, sau
cuộc giải phẫu, ông đã về nước Chúa bình an.
Con thứ hai của ông là thầy Phan Văn Luận, sau nhiều năm thêo phụ giúp ông cũng được Chúa
kêu gọi vào chức vụ Truyền đạo Tình nguyện. Sau khi Mục Sư Xuyến qua đời, thầy Luận tiếp tục
công việc Chúa giữa người Mạ. Hiện nay là Mục sư Nhiệm chức phụ trách điểm nhóm tại Lộc Sơn,
vốn là Trung tâm Truyền giáo cho người Mạ. Người con thứ ba là Mục sư Phan Văn Xuân đang hầu
việc Chúa tại Hoa Kỳ. Hai con rễ là Mục sư Phan Vĩnh Cự và Mục sư Lê Khắc Hiệp cũng đang hầu
việc Chúa tại Việt Nam, trong tinh thần noi gương của ông cụ.
Mục sư Nhiệm chức Phan Văn Luận và gia đình
345
Gia đình Mục sư Phan Văn Xuyến và các con.
Trần Thị Lý
Có một ngôi trường...
Có những người thầy...
Chỉ hãy kính sợ Đức Giê hô va,
lấy hết lòng trung tín phục sự Ngài;
vì khá xem những việc lớn lao mà Ngài làm cho các ngươi là dường nào!
(ISa 12:24).
Phúc Thanh
Thường ai cũng hãnh diện vì mình đã từng bước chân vào những giảng đường danh tiếng, có
đội ngũ học giả tầm cỡ giáo sư tài năng, nhưng tôi lại học ở một ngôi trường đã nhỏ lại nhiều điều
tiếng nhất thế giới, một đội ngũ giáo sư chỉ có mấy người bước đi chẳng nổi vì già, vì yếu và bệnh
tật: Trường Kinh Thánh Hà Nội. Tạp chí giáo dục hàng đầu của Anh Times Higher Education (THE)
chuyên xếp hạng đánh giá và công bố danh sách các trường trên thế giới hằng năm nếu có thiện chí
muốn giới thiệu trường tôi, chắc không biết phải viết gì và nhiều lắm cũng chỉ viết được vài dòng.
346
Tôi đến Hà Nội nhập học vào một ngày mưa phùn gió bấc, lần đầu tiên bước chân đến thủ đô,
theo lời một bài ca thì đây là thành phố chính trị của niềm tin yêu hy vọng cả nước, có ý chí quật
cường như nòng pháo vẫn vươn lên trời cao. Trời chưa sáng những cơn gió rét thổi qua từng hồi,
tôi đứng chờ đợi với ánh sáng vàng vọt của bóng đèn đường, dưới mái hiên nhà đối diện với cổng
tư thất Mục sư ở phố Ngõ Trạm. Trong bóng đêm nhìn mái nhà thờ cũ kỹ rêu phong, chạnh lòng khi
nhìn tháp chuông thấp tịt bên trên có cây thập tự như âm thầm chịu đựng qua năm tháng cùng gió
mưa cố sức vươn lên hiện diện giữa những dãy nhà trong phố cổ. Mãi rồi cũng nghê được tiếng
chuông báo thức lúc 5 giờ vọng ra, ánh sáng từ các ô cửa sổ trong dãy nhà tư thất chợt được sáng
lên. Rét quá, vẫn chưa có ai đi ra khỏi phòng. Lát sau,thấp thoáng có những bóng người trên hành
lang tầng hai, người mà tôi gọi được đã mở cổng sắt đón tôi vào trường có dáng vẻ thư sinh nói
năng nhỏ nhẹ là thầy Bùi Văn Triệu. Thầy Triệu đưa tôi đến phòng của ông bà Mục sư Phạm Xuân
Thiều,nhạc thánh hòa tấu êm dịu lúc sáng sớm trong phòng làm tôi cảm thấy dễ chịu và ấm áp. Biết
tôi đã đứng lâu ngoài trời gió lạnh, bà Mục sư thương cảm làm ngay cho tôi tô mì gói vốn rất hiếm
hoi trong thời kỳ bao cấp.
Lát sau, ngày đầu tiên tôi đến trường vào lớp, cụ Mục sư Bùi Hoành Thử là Phó Hội Trưởng Hội
Thánh Tin lành Việt Nam Miền Bắc kiêm Hiệu Trưởng với những bước chân nặng nề của tuổi già
80 đi trước dẫn tôi vào giới thiệu trong tiết học Mục sư Thiều đang dạy.Âi cũng nhìn tôi như người
đến từ hành tinh khác, ngạc nhiên vì có một người từ miền Nam xin ra học trường của Hội Thánh
miền Bắc. Ngược lại tôi cũng nhìn các bạn mười mấy người, già có trẻ có ngồi co ro trong cái giá
lạnh của mùa đông dáng vẻ trông thật khó tả. Như vậy, tôi cũng đã có một chổ ngồi, được học Lời
Chúa cùng với 15 người anh em miền Bắc, cùng với vài cô là vợ của các thầy. Sau này tôi cứ nghĩ
mãi, các cụ Mục sư, Giáo sư ngày xưa không biết vì sao đã cho tôi nhập học chỉ với một lá đơn viết
trên giấy học sinh thật đơn sơ do cụ Mục sư Dương Thạnh chứng chuyển, nếu cứ căn cứ nguyên tắc
điều kiện xét tuyển như ngày nay thì tôi đã chẳng thể trở thành một người hầu việc Chúa rồi, vì tôi
vốn không thuộc vào diện nào để có thể chấp nhận.
Các sinh viên Trường Kinh Thánh Hà Nội niên khóa 1988-1993
Những năm tháng học tại đây, tôi lắng nghe và rút ra nhiều bài học cho riêng mình qua nhiều
câu chuyện cảm động kể đến những gian lao của những vị giáo sĩ tiên phong, các Mục sư tiền bối
trên đất Bắc, những hy sinh mất mát đành phải thầm lặng chịu đựng vì con người vốn dĩ chấp nê
lên án chứ ít ai thấu hiểu sẻ chia, chứng kiến dòng lệ lăn dài trên đôi gò má nhăn nhêo khi tuổi già
yếu sức mà chưa nhìn thấy thế hệ tiếp nối. Khi hiệp định Genève ký kết thì tôi chưa ra đời, đất nước
Việt Nam đã phải chia đôi hai miền Nam Bắc, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cũng chịu cảnh phân ly
từ ngày ấy cho mãi đến bây giờ. Năm 1954, gần một triệu người gánh gồng rời bỏ nhà cửa, làng
xóm di cư vào miền Nam, trong đó có cả những ông bà anh chị êm đồng đạo với tôi, kẻ quyết ở lại,
người chọn ra đi. Chia ly nào cũng buồn,tôi con Chúa tại các Hội Thánh miền Bắc vốn đã ít ỏi nay
càng trống vắng, chỉ có hơn một nửa số người chọn cách ở lại. Những tôi tớ Chúa đã gắn bó sống
chết với bầy đã chẳng nỡ lòng dứt áo ra đi. Sau chuyến tàu cuối đưa người di cư rời cảng, vỏn vẹn
chỉ còn hơn chục người ở lại để lo cho khoảng hơn một ngàn con chiên trong 30 Hội Thánh nằm rải
rác khắp cả Miền Bắc.[29]Mấy ai có tấm lòng cảm thương nghĩ đến những tôi tớ Chúa ngày xưa chịu
nhiều khổ đau thiệt thòi cùng chung số phận đất nước chiến chinh. Viết đến đây, tôi chợt nhớ đến
câu Kinh Thánh trong Thi Thiên chắc hẳn họ đã trải nghiệm nhiều điều quý báu qua lời phán hứa
mà chẳng phải ai cũng nhận lãnh được:
“Hãy tin cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành;
347
Khá ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài”.
(Thi 37:3)
Chưa đầy một năm sau ngày kết thúc đại chiến Điện Biên Phủ, quân Pháp rút đi, chính quyền
tiếp quản thành phố, thì cụ Mục sư Nguyễn Thiện Mân là Ủy Viên Tổng Liên Hội cùng với Mục sư
Dương Tự Ấp là Phó Chủ Nhiệm Bắc Hạt hiệp lực với nhau tổ chức được ba ngày Hội đồng tại Hà
Nội vào tháng 4 năm 1955 với 200 đại biểu đến từ các nơi. Các tôi con Chúa chắc đã cầu nguyện
trăn trở nhiều ngày khi nghĩ đến ngày mai làm sao để Hội Thánh sống còn dưới một thể chế mới
mẻ mà chính họ không thể lường biết ra sao. Ngày cuối Hội đồng, 12 tháng 4, họ đã đồng lòng hiệp
ý ra một quyết nghị thành lập Tổng Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Bắc) cũng là ngày bầu
cử Ban Trị Sự Tổng Hội và tín nhiệm cụ Mục sư Dương Tự Ấp làm Hội trưởng. Một nhà nghiên cứu
tôn giáo ghi nhận rằng “Theo nguyện vọng của chức sắc và tín đồ, Nhà Nước đã giúp cho họ có điều
kiện xây dựng lại tổ chức giáo hội theo đường hướng tự trị tự lập.”[30]
Tổng Hội Hội Thánh Tin lành Việt Nam Miền Bắc ra đời với số người chăn còn lại rất ít ỏi, mỗi
người mỗi phương thường trú xa xôi cách trở. Trải qua cuộc chiến chống Pháp khốc liệt cơ sở vật
chất nay chẳng còn gì, nhà thờ tư thất nhiều nơi hư hỏng hay bị hủy phá. Chẳng còn ai để mà bổ
nhiệm thuyên chuyển, vắng bóng quản nhiệm lâu ngày Nhà Chúa hoang phế nên đành “hiến cho
Nhà nước hay bị trưng dụng.”[31] Kế hoạch khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh của
chính quyền bằng việc thực hiện 5 đợt cải cách ruộng đất năm 1955-1957, là những tháng ngày mà
cả xã hội ngày nay chẳng ai còn muốn nhắc đến, các Mục sư và vợ con của họ như người chơi vơi
giữa dòng nước xiết với nỗi lo âu miếng cơm manh áo, có người chịu cảnh thanh lọc, bắt bớ giam
cầm vì bị nghi ngờ thuộc về thành phần phong kiến tư sản bóc lột. Tuy nhiên, “Chúa đã dùng các tôi
tớ, con cái Chúa trung tín, hy sinh để hầu việc Chúa trong thời kỳ khó khăn, hắc ám nhất, hầu cho giữ
được phần nào bầy chiên của Chúa.” [32]
Tiếp theo là thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa với phương hướng sản xuất tập thể làm thay đổi
căn bản cơ cấu kinh tế xã hội mà nông nghiệp vị trí quan trọng hàng đầu. Thực hiện triệt để chủ
trương đưa tất cả lực lượng nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công vào con đường làm ăn
tập thể trong các hợp tác xã. Trong bối cảnh xã hội như vậy, Tổng hội Hội Thánh Tin Lành Miền Bắc
hoàn toàn không có khả năng “tự cung, tự cấp, tự phát triển” thêo phương sách chung của Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam xưa nay, cho nên “Sự tồn tại của tổ chức này chủ yếu nhờ sự trợ giúp từ phía Nhà
nước.” [33] Kinh Thánh cho thấy Đức Chúa Trời có cách bảo vệ và dưỡng nuôi kỳ lạ dành cho Môi-
se hay Chúa Cứu Thế trong quãng đời ấu thơ lại từ hoàng gia hay là đất nước Ai cập.[34] Tám năm
sau ngày Hội Đồng đầu tiên, sau một thời gian dài soạn thảo, thảo luận và sửa đổi bổ sung, Điều lệ
Hội Thánh đã được chấp nhận thông qua gồm 12 phần, 28 điều khoản làm nền tảng tổ chức, Nhà
nước duyệt y và có hiệu lực từ năm 1963. So sánh với bản điều lệ năm 1942, về tín lý các lẽ đạo vẫn
được lưu giữ, phần tổ chức có ít nhiều thay đổi nhằm phù hợp với hiện tình của Hội Thánh và của
đất nước.
Thêo điều lệ mới này thì Hội Thánh Tin lành sẽ hoạt động thêo đường hướng “yêu tổ quốc, bảo
vệ hòa bình, thực hiện công bình bác ái, tự do, bình đẳng và lao động”. Hội Thánh có thêm nhiệm vụ
“giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và
pháp luật của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hội thánh cùng toàn dân xây dựng tổ quốc Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.”[35] Trên cơ sở đó giáo hội Tin Lành Miền
Bắc được chính quyền công nhận tư cách pháp nhân để có thể tồn tại giữa xã hội. Một bạn học cùng
tôi đã nhận xét về phương lược hoạt động Tổng Hội trong thời kỳ này như sau: “Trong bao nhiêu
348
năm qua, Nhà nước đã giúp đỡ nhiều mặt cho giáo hội để duy trì được tiếng tăm một tôn giáo tại
miền Bắc, ngược lại giáo hội cũng đã tuân thủ triệt để Nhà nước và nổ lực làm lợi cho xã hội.”[36]
Lo nghĩ đến tiền đồ Hội Thánh và cần có người thêm để chăn bầy dầu ở hoàn cảnh đất nước
bước vào thời kỳ chiến tranh khốc liệt và chịu sự kiểm sát chặt chẽ của chính quyền, các Mục sư
lãnh đạo Hội Thánh Miền Bắc đã tổ chức được một lớp đào tạo Giảng sư đầu tiên của Trường Kinh
Thánh Hà Nội khai giảng vào ngày 15 tháng 8 năm 1962. Đức Chúa Trời thường có cách khởi đầu
thật đáng ghi nhớ, tương tự lớp học Kinh Thánh đào tạo người hầu việc Chúa đầu tiên ở Việt Nam
tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng trong một chuồng ngựa, với số học viên cũng không quá mười đầu
ngón tay.[37] Việc tổ chức và phương cách giảng dạy học tập hết sức giản đơn, mỗi năm các học viên
về tại Hà nội học tập khoảng ba bốn tháng với các môn học về giáo lý và xã hội. Thật khó hình dung
ra một lớp học mà điểm phát xuất từ không tới có, lo soạn giáo trình, lo nguồn tài chánh, ứng phó
chính quyền, chổ ăn chổ ở cho các học viên. Có hai giáo sư chuyên trách là Mục sư Bùi Hoành Thử
và Mục sư Lê Khắc Lưu; ngoài ra còn có cụ Mục sư Dương Tự Ấp,Mục sư Đỗ Đức Thống và ông Lê
Văn Dươn cũng thường tham gia giảng dạy (ông Duơn cũng đã học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng
trước khi đi tập kết). Sau mấy năm học tập, ngày 31 tháng 5 năm 1964 lớp đào tạo Giảng Sư đầu
tiên đã đến hồi bế giảng.Chỉ có năm người được công nhận tốt nghiệp, phong chức giảng sư và bổ
nhiệm đến các Hội Thánh hầu việc Chúa. Trong đó có bà Nguyễn Thị Loan (Xuân Sinh) công tác
Thường vụ Tổng Hội, ông Vũ Phiệt đi Bắc Sơn, ông Âu Trọng Cừ đi Vinh, ông Phùng Quang Huyến
đi Ninh Bình, ông Đặng Xuân Bình đi Thanh Hóa. Nhưng ngay sau đó cũng như bao thanh niên khác,
3 giảng sư trẻ đã phải lên đường vào Nam tham gia nghĩa vụ chiến đấu. Người đã hy sinh, người đã
trở về nhưng không thể tiếp tục chức vụ, nói về lớp này thì người còn sống duy nhất hiện đang nắm
giữ chức vụ và hầu việc Chúa đó là Mục sư Phó Hội Trưởng Phùng Quang Huyến.
Tối thứ tư là buổi nhóm đầu tiên tôi dự trên đất miền Bắc. Những buổi nhóm cầu nguyện trong
tuần cho tôi thấy tinh thần của các cụ già tiền bối, buổi nhóm diễn ra lặng lẽ thường với bài thánh
ca 271 hay 251, một phân đoạn nào đó trong Thi Thiên được đọc lên làm nền tảng. Ý của lời suy
gẫm trong các buổi cầu nguyện thường được cụ Mục sư Thử nhắc đi nhắc lại, đó là sự “chiếu sáng”
và “chói sáng” của Đức Giê-hô-va,có lẽ đây là lời tâm tình, nỗi niềm cưu mang của một người hầu
việc Chúa đã già yếu muốn thổ lộ chuyển gửi đến thế hệ kế tiếp về sự tương giao với Chúa, vì chỉ
hai năm sau ngày chúng tôi tốt nghiệp cụ đã về an nghỉ Nước Chúa, tôi vẫn còn nhớ cho đến bây
giờ, căn cứ vào những câu Kinh Thánh:[38]
“Tôi đã tìm cầu Đức Giê-hô-va,
Ngài đáp lại tôi,
Giải cứu tôi khỏi các đều sợ hãi.
Chúng ngửa trông Chúa thì được chói-sáng,
Mặt họ chẳng hề bị hổ thẹn.”
Nội dung là Đức Chúa Trời đã khiến ánh sáng soi trong vũ trụ tối tăm, cuộc sống chúng ta tăm
tối và lạnh lẽo, xin Chúa chiếu sáng chúng ta cả phước hạnh lẫn sự thông hiểu về Ngài,để biết được
ý muốn Ngài cho cuộc đời chúng ta. Ban cho mỗi người một cuộc sống phản ánh sự chói sáng rạng
rỡ bình an trong Đức Chúa Giê-xu. Tiếp đến là những lời cầu nguyện của các cụ già vang lên trong
khoảng không gian tịch mịch, kể lể đều đều chậm rãi thật lâu, Thiên Định và Thiên Chương (con
của Mục sư Thiều)lúc ấy còn niên thiếu bấm giờ đồng hồ cố tìm ra cụ nào cầu nguyện đạt kỷ lục,dài
nhất là bằng một bài giảng có khoảng 39 phút. Chứng kiến những buổi nhóm như thế này tôi thầm
349