vọt mạnh xuống, chiếc bè chìm lĩm, người ngồi trên bè cũng chìm xuống nước đến cổ nên phải nắm
thật chặt vào hai bên bè, để khi chiếc bè chìm sâu dưới nước sẽ không văng ra khỏi bè, nếu bị văng
ra thì sẽ bị va đầu vào đá chết, đã có vài người chết cách thê thảm như vậy rồi, nên anh êm căn dặn
chúng tôi rất kỹ. Ðồ đạc phải cột thật chặt vào bè, hầu khi bè bị chìm sâu dưới thác sẽ không bị dòng
nước cuốn trôi. Kể ra đi bè như vậy rất ngoạn mục mà cũng rất nguy hiểm. Khi bè trôi lâu lâu không
thấy thác nước thì buồn, nhưng khi nghê nói sắp đến thác thì lại hồi hộp lo! Dọc đường có mấy
người lính đêm thêo lựu đạn quăng xuống nước, cá chết nhiều họ lặn xuống vớt lên (vì suối trong
nên thấy rất rõ). Cá vớt lên nướng ăn rất ngon, nhưng vì nhiều xương nên các cô Giáo sĩ không
thích.
Sau 2 ngày một đêm trên “sơn thủy lộ”, đoàn truyền giáo đến Nha Trang Thành (Citadel) vào
lúc 4 giờ chiều…Khi về đến Nha Trang, tối hôm ấy chúng tôi chia nhau ngủ tại Cô Nhi Viện Tin Lành,
nhà thờ Nha Trang, nhà cụ Mục sư Trần văn Ðệ, nhà Mục sư Trần Trọng Thục. Sáng hôm sau chúng
tôi đi xê hơi về Ðà Lạt. Ðó là vòng truyền giáo đầy mạo hiểm, thú vị với những kỷ niệm khó quên và
cũng là lần cuối cùng chúng tôi đi vào rừng sâu. Nhớ lại những kỳ đi hầu việc Chúa trong rừng trước
kia, cũng có những rủi ro bất ngờ. Có một lần kia chúng tôi đi vào làng xa thăm viếng giảng dạy.
Cùng đi với chúng tôi có 2 cụ Giáo sĩ Jackson, Mục sư Truyền giáo Chung Khâm Lộc ở Di Linh được
mời lên Ðà Lạt đi rừng để rút kinh nghiệm, dầu ông chưa biết nói tiếng Thượng. Chúng tôi đến làng
Pang Pung rồi sau đó sẽ đi làng Tiah Soh. Khi từ giã anh em trong làng cả đoàn lần lượt lên đường.
Tôi cỡi một con ngựa trắng có tên là Chop, trên vai đêo 2 máy chụp hình. Con ngựa bước đi thế nào
mà thình lình tôi bị té nhào xuống đất, cấn máy chụp hình bên cạnh sường nên có vài cái xương
sường bị nứt, đau nhức vô cùng không bước đi được. Phải có 2 người đỡ nhẹ lên lưng ngựa rồi cụ
Jacson và Mục sư Ha Klas  vịn hai bên đi thật chậm để ra đường cái đi xê hơi về Bịnh viện. Vào
bịnh viện Bác sĩ rọi kiến cho biết có 2 xương sườn bị nứt phải nằm nhà thương một tuần lễ! Vậy tôi
phải nằm bịnh viện để chữa trị…
Về việc rủi ro té ngựa thì nhà tôi cũng có kinh nghiệm một lần, cô Evans là cháu bà cụ Jackson
cũng bị té, nhưng không bị thương tích gì trầm trọng cả. Lúc nhà tôi có thai đứa gái út được 8 tháng.
Lúc đó vào cuối tháng 3 năm 1959. Chúng tôi tổ chức một vòng truyền giáo ngắn, đi gần vì không
thể đi xa được nữa. Cũng có cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ,ông Trần Xuân Quang (con cụ Hỉ), Giáo sĩ
Newman, Mục sư Ha Klas  và vợ chồng tôi cùng một ít anh êm người Thượng. Chúng tôi đi thăm
làng Thác Trại, gần Nha Trang. Chúng tôi đi một đoàn dài, đến một khúc quanh và lên một cái dốc
không cao lắm. Cụ Mục sư Hỉ cỡi ngựa đi trước nhà tôi chừng 10 thước, thình lình con ngựa cụ Hỉ
phát chạy lên dốc, tức thì con ngựa của nhà tôi đang cỡi cũng vụt chạy theo lên dốc, vì nhà tôi không
ngờ con ngựa chạy như vậy nên không đề phòng vì vậy bị té xuống đất. Ai nấy đều hoảng hốt chạy
lại đỡ nhà tôi đứng lên và hỏi thăm lăng xăng. Cám ơn Chúa, nhà tôi không sao cả chỉ bị trầy đầu
gối một chút thôi. Chúng tôi cứ tiếp tục lên đường. Hôm sau Giáo sĩ Nêwman nói đùa một câu:“Tôi
tưởng khi hôm bà đã sanh con trong rừng rồi chớ?”
Suốt 15 năm chúng tôi làm truyền giáo trên Cao nguyên, cũng trải qua nhiều nỗi thăng trầm,
nhiều cơn thử thách đến với chúng tôi. Nhưng lòng chúng tôi lúc nào cũng cứ cậy trông nơi Chúa,
luôn nghĩ rằng chúng tôi sẽ không lìa nơi đây để đi nơi nào khác. Có nhiều lúc rất thiếu thốn, song
chúng tôi không bao giờ than thở, hay nói cho ai biết cũng không nhờ vả ai; dầu chúng tôi cũng có
thể nhờ cậy nơi các anh chị em mình. Chúng tôi chỉ muốn nhờ cậy Chúa thôi. Chúa biết rõ nhu cầu
của chúng tôi nên Ngài bù đắp lại cách đầy đủ và dư dật nữa…
200
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Mục sư Hà Sol, người dạy tiếng Kơho cho Mục sư Phạm Văn Năm và bà.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Sáu Mục sư đã được thụ phong tại Sài-gòn tháng 6 năm 1947: Từ trái sang phải: MS Phạm Văn Năm,
MS Đoàn Văn Miêng, MS Lê Văn Phải, MS Nguyễn Văn Tửu, MS Phạm Văn Thâu, Mục sư Cẩn.
201
(Ảnh: photos.vnbible.com)
GS Franklin Irwin (giữa), MS Phạm Văn Năm (bên phải)đang sử dụng bình điện xe để ghi băng
Phúc Âm cho dân tộc Chăm vào khoảng năm 1960-1961.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Nhóm phiên dịch và hiệu đính trong Lễ Cung hiến Kinh Thánh Tân Ước tiếng Koho tại Đà Lạt,
tháng 4. 1967. Cô Helen Evan (giữa)là dịch giả chính. Đứng phía sau có MS Trương Văn Tốt, GS H.
A. Jackson và MS Phạm Văn Năm.
202
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Đoàn truyền giáo: Hàng đầu (từ tráisang): Bà Chung Khâm Lộc, bà Phạm VănNăm, bà Phạm
Xuân Tín, bà Trương VănTốt, bàNguyễn Hậu Nhương, bàPhan Văn Xuyến. Hàng sau: MS Nguyễn
Hậu Lương, MS Phạm Xuân Hiển, MS Phạm Xuân Tín, MS Đặng Văn Sung, Không rõ, MS Trương Văn
Tốt, MS Phạm Văn Năm, MS Phan Văn Xuyến, MS Trương Văn Sáng.
203
Mục sư HUỲNH VĂN NGÀ
(? – 1950)
MS Huỳnh Văn Ngà là con trai thứ ba trong một gia đình có truyền thống thờ Phật ở vùng Cần
Thơ. Từ nhỏ khi còn ở với cha mẹ, ông hết mực cung kính thờ lạy và giữ gìn tôn giáo của gia tộc.
Vốn rất thông minh nên từ nhỏ, Huỳnh Văn Ngà đã nổi tiếng học giỏi và được nhiều người biết
đến.Cũng vì thế nên vừa đến tuổi trưởng thành, ông làm việc cho Nhà nước Pháp và sau đó được
sang Pháp du học. Tại đây không những tiếp thu những kiến thức văn minh và tiến bộ của xã hội
phương Tây mà ông còn làm bạn và kết thân với rất nhiều người Pháp.
Sau khi trở về Việt Nam, ông được chính quyền Pháp mời làm việc tại Sở Mật Thám, vì thế vào
thời điểm lúc đó, ông rất có oai quyền trong vùng, có thể tự do bắt người theo ý mình, thậm chí
muốn đánh ai thì đánh mà không sợ bất kỳ chuyện gì.
Cũng trong thời gian này, Huỳnh Văn Ngà lên một kế hoạch đảo chính Pháp. Dựa vào mối quan
hệ thân tình với những người bạn khi còn học bên Pháp, ông bí mật thu góp và lưu trữ súng ống,
đợi thời cơ sẽ nổi dậy lật đổ chính quyền.
Thế nhưng kế hoạch bị bại lộ, Huỳnh Văn Ngà cùng những người theo ông bị bắt hết và bị nhốt
trong khám. Tuy nhiên lúc bấy giờ, chính quyền Pháp còn cần ông nên đã buông tha và không nhắc
đến biến cố này. Huỳnh Văn Ngà được thả ra và vẫn tiếp tục làm việc cho Pháp cách đắc lực trong
thời gian dài. Nhân cơ hội này, ông tìm bắt những người làm lộ bí mật về kế hoạch lật đổ chính
quyền và giết những người đó.
Lúc đó tại chợ tỉnh Cần Thơ, ông Ngà có quyền lực mạnh hơn hết. Lúc này đạo Tin Lành bắt đầu
được rao giảng cách mạnh mẽ tại đây. Giống như Phao-lô khi xưa, ông Ngà là một trong những
người bắt bớ Tin Lành nhiều nhất. Cũng nhiều lần ông chọi đá hoặc đốt pháo ném vào chỗ những
người giảng Tin Lành.
Một ngày nọ, ông đến chỗ giảng Tin Lành đặng phá nữa thì bỗng dưng trong tâm trí vang vọng
một giọng nói vô hình rằng: “Đừng phá nữa, không ích chi!”. Lập tức ông dừng lại,suy nghĩ trong
lòng rồi lắng tai nghe giảng đạo. Quá cảm động về Phúc Âm cứu rỗi,ông lập tức hạ mình ăn năn và
cầu nguyện tin nhận Chúa. Từ đây cuộc đời ông đã chuyển sang một bước ngoặc mới.
Sự việc Huỳnh Văn Ngà thêo đạo Tin Lành là một chấn động trong gia đình và dòng tộc vì ở vùng
này, ai cũng đều nghe rằng Tin Lành là đạo bỏ ông bỏ bà. Cha mẹ ông nhiều lần đã đánh đập, bỏ đói
và đuổi ra khỏi nhà. Dầu chịu đói khát, cực khổ nhưng ông Ngà vẫn trung kiên tin Chúa, không chịu
bỏ đạo và đặc biệt, ông cầu nguyện xin Chúa bắt phục để cha mẹ mình có thể tin nhận Chúa.
Ban ngày ông đi làm việc cho chính quyền Pháp và cứ cầu nguyện không thôi cho cha mẹ mình.
Đời sống từ một người hống hách, cậy quyền thế và hay hà hiếp người khác đã trở nên thay đổi làm
cha mẹ ông lưu tâm. Cha mẹ ông nhận biết rằng chỉ có Chúa mới có thể làm thay đổi đời sống của
con mình, giúp con mình nhịn nhục trong những khó khăn và có đời sống tốt hơn.
Ông bà đã cho phép Huỳnh Văn Ngà trở về và nhờ ông cắt nghĩa rõ ràng hơn về Tin Lành, về
Chúa Giê-xu. Thấy tin Chúa là phải lẽ nên cả hai ông bà đã quỳ gối xuống và nhờ con trai mình là
Huỳnh Văn Ngà cầu nguyện để tin nhận Chúa. Sau đó ông bà không thờ cúng nữa khiến những
người còn lại trong gia đình không khỏi thắc mắc. Ông bà đã mạnh dạn nói với những người con
của mình rằng “Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chết vì tội lỗi nhân loại, các con cũng hãy tin Chúa như ba
má để được nhận sự sống đời đời”, cả nhà tin nhận Chúa và dẹp bỏ bàn thờ.
204
Đến khi được 25 tuổi,Huỳnh Văn Ngà quyết định dâng đời sống mình cho Chúa, đi học trường
Kinh Thánh và gởi lại 4 người con cho cha mẹ. Sau khi học xong khóa thứ nhất, ông trở về.Lúc này
cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra. Vào thời điểm được nghỉ học trường Kinh Thánh đợt đầu, ông
nhận dạy tiếng Việt cho ông Cạt-sinh. Lúc này, Chính quyền Pháp kêu ông quay lại làm việc với mức
lương cao gấp 3-4 lần trước đây.Khi đó, ông có ý định nghỉ học trường Kinh Thánh để làm việc với
mức lương hấp dẫn. Nhưng cảm tạ Chúa, Ngài đã nhắc nhở ông nên ông đã mời ông Cạt-sinh đến
cầu nguyện cho mình, ông ăn năn tội và hứa nguyện dâng đời sống mình hầu việc Chúa.
Sau đó ông Ngà trở lại trường Kinh Thánh học năm thứ hai. Khi trở về, ông đã đi giảng đạo theo
đường lộ Đông Dương và lập nhiều Hội Thánh như Hội Thánh Chợ Lớn, Phú Lâm, Long Xuyên,Chợ
Gạch, …
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Trường Kinh Thánh Tourane, Lớp Tốt nghiệp năm 1928. Từ trái sang: Hàng trước: Không rõ, Lê
Văn Trầm, GS John Olsen, Lê Văn Thái, Huỳnh Kim Luyện. Hàng sau: Không rõ, Huỳnh Văn Ngà, Lê
Đình Tươi, Bùi Tự Do, Lê Văn Quế, Nguyễn Đằng, Ông Văn Huyên.
Đến khi Hội Đồng Tổng Liên nhóm tại Hà Nội năm 1936 thì ông và ông Thái chấp thuận theo
sự bầu cử của Hội Đồng, ông Lê Văn Thái giảng đạo ở miền Bắc còn ông, Huỳnh Văn Ngà giảng đạo
ở miền Nam.
Sau kỳ Hội đồng, ông trở về rủ thêm một số người cùng đi giảng đạo lưu hành bằng tàu. Những
người nhận lời ông như thầy Trình, thầy Hiến, thầy Vọng, Huỳnh Văn Đức đã kết ước đi chung để
rao truyền Phúc Âm nơi miền sông nước. Tới đâu, ông Ngà đều đến trước để trình báo giấy tờ cho
ông quận tại đó, rồi ông nói các thầy đi làm chứng đạo,bán sách, và mời dân chúng đến nghe giảng
Tin Lành.
Tàu Tin Lành của MS Huỳnh Văn Ngà.
205
Trước giờ giảng, mọi người tụ tập lại bởi tiếng kèn với những bài Thánh Ca của đoàn, sau đó
ông Huỳnh Văn Ngà giảng về Phúc Âm và sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Khi giảng xong, ông mời ai
muốn tin Chúa thì xuống tàu để ông cắt nghĩa thêm rồi giúp họ cầu nguyện tin Chúa. Vừa giảng, ông
vừa huấn luyện các thầy tập sự để đi chứng đạo. Sau một thời gian, các thầy đi cùng đã trở nên
những người giảng đạo đầy kết quả cho Chúa Giê-xu.
Trong hành trình truyền giáo của mình, ông Huỳnh Văn Ngà tiếp tục mời gọi những người có
tâm tình cùng tham gia với Ban Lưu hành rao giảng Tin Lành và Chúa cho có thêm một số người
nữa như thầy Đoàn Văn Miêng, thầy Lâm Văn Chí, thầy Trần Mỹ Bê nhận lời tham gia cùng đi giảng
Tin Lành một cách có kết quả.
Một ngày nọ khi đi đến chợ quận Hồng Ngự, ông Ngà đêm giấy tờ trình cho quận để xin phép
giảng đạo. Tại khu vực này, đạo Hòa Hảo rất nhiều nên đã nhiều lân ông bị tuyên án mổ bụng dồn
trấu. Không sợ hãi, ông Ngà vẫn chuẩn bị mọi thứ rồi thổi kèn vang dội, đến nỗi những chỗ xa xôi
nghe thấy cũng rủ nhau đến để nghe Tin Lành.
Ông Ngà giảng rất nhiều ngày ở nhiều nơi khác nhau. Có lần khi giảng xong, nhiều người có học
thức cao tụ tập xuống tàu Tin Lành để chất vấn ông, họ hỏi ông rất nhiều về đạo. Mãi đến tận khuya
thì họ cúi đầu tin nhận Chúa. Tạ ơn Chúa đã có rất nhiều người tin Chúa và Hội Thánh ở tại chợ
Hồng Ngự được thành lập.
Sau đó ông Ngà cho tàu chạy đến chợ Bến Đuổi. Người dân ở đó rất ít. Sau khi đêm trình giấy
cho làng, ông cùng đoàn đi mời các nhà ở xa đến để nghe giảng Tin Lành. Đến chiều ông dọn bàn
lên thổi kèn vang hết cả khu vực, những người ở xa kéo đến rất đông, giảng xong có rất nhiều người
tin Chúa.
Trong lúc lưu lại tại đây có một sự kiện đặc biệt xảy ra. Một chiếc xuồng chạy đến, có hai người
bước lên tàu Tin Lành. Ông Ngà mời họ ngồi xuống làm chứng đạo thật lâu rồi ông hỏi:“Hai anh
nghê đạo rồi suy nghĩ làm sao?” Hai người trả lời: “Tôi tin Chúa”. Ông bèn cầu nguyện cho họ. Sau
khi cầu nguyện xong, hai người mới này dẫn ông qua chiếc xuồng của mình và giở lá trầm lên cho
ông nhìn vào. Họ nói: “Tôi đến đây để đánh ông và cướp của, nhưng được ông giảng Tin Lành nên
hai anh em tôi không biết làm thế nào.” Khi ông trở về, hai người còn nói thêo: “Xin chào ông giảng
đạo Tin Lành, chúng tôi quyết lòng bỏ nghề đi ăn cướp!” Quả thật Chúa đã làm những việc lạ lùng.
Sau khi lập Hội Thánh tại chợ Bến Đuổi, tàu tiếp tục chạy đến chợ Hỏa Lựu. Giảng đạo tại đây
có nhiều người tin Chúa, trong đó có cả những thầy cúng thêo đạo và sau đó họ làm chứng cho
nhiều người khác tin theo. Hội thánh Tin Lành ở chợ Hỏa Lựu được thành lập.
Tàu trở lại Hội thánh Mỹ Luông và đậu tại bên chợ. Ông lên bờ và đi giảng bằng xê đạp từ Mỹ
Luông đến Châu Đốc, trong mấy ngày cũng có nhiều người tin Chúa. Ông khuyên những người tin
Chúa đến nhà thờ Mỹ Luông và nhà thờ Châu Đốc để ghi tên và nhóm lại thờ phượng Chúa tại đó.
Khi quay trở về thì trời đã tối. Đến một chỗ vắng có hai người ăn cướp cầm hai cây gươm bén
chực sẵn chờ đợi ông về để chém ông. Khi đến gần, thấy hai người đưa gươm lên, ông liền bước
xuống, ngay lập tức hai người té xuống đất và chết ngất. Sau đó ông lên xê chạy về tàu Tin Lành một
cách an toàn.
Ông tiếp tục chạy tàu theo sông Cửu Long mà giảng đạo cho đến cửa Đại Ngải. Có nhiều người
tin Chúa và các Hội Thánh Đại Ngải, Hội Thánh An Lạc Tây, Hội Thánh Đông Phú được thành lập.
206
Ngày nay nhiều tín đồ ở các khu vực này còn mãi nhắc đến ông Mục sư Huỳnh Văn Ngà, người thành
lập và gây dựng Hội Thánh tại đây.
Rời Đông Phú, tàu chạy đến Đường Mốp thì được một tín đồ tên là Ông Văn Lộc kéo tàu lên để
tu sửa lại,trét chai cho kín và chắc chắn để có thể đi đến vùng nước mặn không hư. Trong khi tàu
nêo đậu lại để sửa, những người trong đoàn truyền giáo tạm về nhà để nghỉ ngơi, đợi đến khi tàu
sửa xong thì sẽ đi tiếp. Trong lúc chờ đợi sửa tàu,ông giảng đạo tại đó cho gia đình thân tộc của ông
Bộ Tùng và Văn Lộc, rất nhiều người tin Chúa.
Khi tàu sửa xong, có thêm người tham gia đoàn truyền giáo là thầy Nguyễn Văn Phú ở Cả Tàu,
thầy Huỳnh Văn Chước, thầy Nguyễn Văn Ngộ và bắt đầu đi giảng Tin Lành từ những con sông nhỏ
ở Rạch Giá cho đến Ranh Hạt và chợ Thới Bình. Có rất nhiều người tin Chúa và tiếp tục thành lập
Hội Thánh tại chợ Thới Bình. Sau đó tàu tiếp tục chạy đi giảng ở Tân Bằng, Cán Giáo và Cái Tàu, lập
Hội Thánh Tin Lành tại Cái Tàu cũng như gây dựng những tín đồ mới tin Chúa ở vùng lân cận cho
vững vàng.
Rời khỏi đó, tàu chạy ra đảo Phú Quốc. Vừa chạy khỏi cửa biển hơi xa thì gió thổi lên rất mạnh,
sóng cao và to khiến tàu không thể chạy được nữa. Ông liền kêu mấy thầy cùng đi quăng nêo trước
và neo sau xuống bằng bốn sợi dây lớn, phía trước hai sợi và sau hai sợi nhưng chiếc tàu vẫn lắc
qua lắc lại cách dữ tợn, mọi vật dụng trong tàu đều đổ bể hết, các thầy thì nằm nghiêng ngả và nôn
mửa. Trước tình cảnh như vậy, ông lên mũi tàu, quỳ gối và cầu nguyện. Lập tức gió và sóng đều
lặng, tàu Tin Lành trở vô an toàn. Nghỉ ngơi ít ngày để các thầy hồi sức, sau đó tàu chạy về Cần Thơ,
đậu tại bến bắc. Lúc đó, Mục sư Lê Đình Tươi dầu bệnh nặng vẫn chống gậy đi xuống thăm đoàn.
Năm 1945, tình hình chiến sự trở nên gay gắt, Nhật đảo chính Pháp. Trước tình thế khó khăn,
ông cho tàu chạy xuống Cà Mau, vào một rạch nhỏ là Kinh 16 và đậu tại đó, còn các thầy thì về nhà.
Ông hầu việc Chúa tại Hội Thánh Cà Mau 4 năm. Ông thường tới lui vùng Đầm Dơi để giảng đạo
và thành lập Hội Thánh Đầm Dơi. Tiếp đó, ông đi bằng xuồng và ghe tam bản có một người chèo để
đến Tân Đức giảng đạo. Rất nhiều người đã tin nhận Chúa Giê-xu tại đây. Sau đó ông trở về Cà Mau
và cứ mỗi tháng ông đi thăm viếng Hội Thánh ở Đầm Dơi và Tân Đức một lần.
Mãn bốn năm, ông chạy tàu Tin Lành về Tân Đức. Khi gần đến rạch Rằn Ri, rất nhiều tín đồ chạy
ra đón ông. Ông nghỉ lại tại nhà một tín đồ tên Ngô Văn Đợi và đi đến các nhà lân cận để tiếp tục
giảng đạo, có nhiều người bằng lòng tin Chúa.
Tại đó có một gia đình rất có uy quyền trong xóm và tin thêo đạo Phật rất là cung kính. Nhắc
đến đạo Tin Lành bỏ ông bỏ bà là ông ghét dữ lắm. Một ngày kia ông Ngà đến nhà, ông chạy ra cản
không cho vô và đuổi đi, ông Ngà vẫn đứng đó, cắt nghĩa một hồi lâu, ông chủ nhà dịu lại và ông
xuôi tay mời ông Ngà vào nhà ngồi. Ông Ngà làm chứng mãi đến khi ông chủ nhà hiểu được Phúc
Âm, bèn hỏi: “Phải làm sao đây Mục sư?”Ông Ngà dạy quỳ gối xuống, nhắm mắt lại và cầu nguyện
theo. Xong ông Ngà tiếp tục cắt nghĩa và nói phải dẹp bàn thờ đi, ông chủ nhà dẹp hết trên bàn thờ,
và đêm ra ngoài chất đống mà đốt từ sáu giờ chiều cháy cho đến khuya mới hết. Các con cháu là
người tin Chúa thấy ông cha mình được Chúa bắt phục cách lạ lùng nên rất vui mừng. Tại đó ông
Ngà cũng cầu nguyện cho một người điên và một người đau bại được chữa lành nên mọi Tin Lành
được đồn ra và nhiều người biết đến.
Ông Ngà cũng luôn tới Đầm Dơi thăm viếng và chăm sóc tín đồ. Ông đi bằng xuồng chèo cùng
với ông Ngô Văn Được, người rất trung tín cùng đi với ông. Chèo đi đến chợ Thới Bình nghỉ lại nhà
giảng và dạy thêm lẽ đạo cho tín đồ được vững vàng.
207
Đến nhà thờ Cái Tàu,ông nghỉ tại đó rồi giảng dạy và gây dựng con cái Chúa trong sự nhóm lại
thờ phượng.
Sau đó ông Ngà trở lại Tân Đức nghỉ. Đến ngày Chúa Nhật, Hội Thánh nhóm lại thờ phượng
Chúa tại nhà tín đồ Ngô Văn Được, rồi luôn phiên nhóm lại mỗi tuần một nhà các tín hữu khác như
Ngô Hữu Đạo, Trương Văn Quảng. Cứ vậy ông Ngà luân phiên giảng từ nhà này sang nhà khác mỗi
tuần để gây dựng đức tin của con dân Chúa. Ông cũng đi đến giảng tại Đầm Chiêm và có nhiều người
tin Chúa nên ông tiếp tục gây dựng công việc Chúa tại đó. Ông huấn luyện đặc biệt một nhân sự để
học Kinh Thánh, dạy trường chúa nhật và cầu nguyện cho mọi người.
Năm 1945, Nhật đầu hàng đồng minh, chiến tranh thế giới kết thúc. Riêng tại Việt Nam, Việt
Minh lên cầm quyền, nhiều nơi trên đất nước tình hình vẫn còn rất phức tạp. Ông Ngà phải tìm đủ
mọi cách để kiếm sống như đi mua bán lúa hay đi bán chiếu, Chúa đã gìn giữ và nuôi nấng ông qua
giai đoạn khó khăn nhất.
Ngày 08 tháng 07 năm 1946, tình hình trở nên yên ổn hơn, ông tiếp tục đến Hội Thánh Bạc Liêu
bằng xuồng chèo. Ở đó, ông giảng dạy trong 20 ngày cùng với MS Trầm.
Đến năm 1947, ông được thầy Dương đến mời và dẫn ra Bắc, nhưng chỉ đi được mấy ngày thì
ông lâm bệnh phải quay trở về. Có một thời gian, ông được đưa ra Cà Mau để trị bệnh nhưng vẫn
không thuyên giảm, cuối cùng gia đình quyết định đêm ông về Tân Đức. Thời điểm này trị bệnh rất
khó khăn vì không có thuốc men, vả lại hoàn cảnh gia đình cũng thiếu thốn.
Đến tháng 10 năm 1950, ông về với Chúa trong niềm tiếc thương của con dân Ngài. Cuộc đời
hầu việc Chúa tận tụy, tín trung và đặc biệt là rất yêu thương bầy chiên luôn được mọi người ghi
nhớ.
Nói về Mục sư Huỳnh Văn Ngà, Mục sư Phan Đình Liệu, trong tài liệu Lịch Sử Hội thánh Việt Nam
(1966) có viết như sau: “Một người có thiên tài và nhận lãnh ân tứ của Thánh Linh ban cho để lưu
hành truyền đạo, trong vòng giáo mục chúng ta, ai cũng nhận ông Mục sư Ngà là đứng hàng số một.
Từ năm 1931 đến năm 1942 ông cỡi một chiếc tàu, khi nước ngược ông chạy lên các tỉnh trên, lúc
nước xuống ông trở về các tỉnh dưới (nhiều lúc thiếu tiền mua xăng nhớt, thật là đáng thương). Từ
thành thị cho đến bưng biền, không chỗ nào mà không được nghe ông giảng đạo.Hàng ngàn người
tin Chúa, và sáng lập ít nhất là 20 nhà giảng Tin Lành như: Trà Miên, Cù Bà, Móc Quả, Hỏa Lựu (cất
nhà giảng 1933), Xẻo Kè (năm 1933 có 40 người tin Chúa và mướn đất cất nhà giảng trong năm ấy).
Từ tháng 10 năm 1928 đến tháng 10 năm 1929 ông giảng 214 lần trong làng, 154 người tin Chúa,
cất xong hai nhà giảng mới: Thời Bình và Khánh An ở Cà Mau, v.v...”
Ngày nay, khắp vùng sông nước đồng bằng Sông Cửu Long, con cái Chúa vẫn tưởng nhớ Mục sư
Huỳnh Văn Ngà và lưu truyền nhau bài thơ về ông:
Ôi kẻ chăn dừng bước khoan đi
Để chiên nỉ non tỏ bày
Hơn mấy năm hầu Chúa ở đây
Cùng nhau xẻ chia ngọt bùi
Nhớ lắm lúc khốn khó trên đường chông gai
Dìu chiên, dắt chiên
208
Phút chốc thấy nước mắt nóng tuôn
Chan hòa người chăn với chiên
Vâng tiếng Cha dìu dắt chúng tôi
Đến nơi nước trong cỏ nhiễu
Thân sẵn dâng tùy ý Chúa sai
Nào than núi non hiểm nghèo
Xin Chúa cho còn lúc thấy nhau
Bõ khi nhớ thương hỡi Ngài
Trung tín luôn này ý tưởng trung
Đoàn viên buổi sau trên trời
Tp.HCM 10.04.2011
L.T. (Viết theo lời kể của ông Huỳnh Văn Nhơn)
209
Mục sư NGUYỄN KIM NGÂN
(1919 – 1957)
Mục sư Nguyễn Kim Ngân sinh năm 1919 tại làng Kim-Bồng, tỉnh Quảng Nam, Trung Phần. Ông
là trưởng nam của Mục sư và bà Nguyễn Đằng. Lúc mới sinh, ông bị bệnh tưởng chết. Ông nội của
ông là cụ Nguyễn Khanh – lúc bấy giờ chưa tin Chúa – bồng cháu ra giữa trời khấn: "Nếu có Thượng
Đế, xin cứu cháu tôi!" Sau đó ông được sống và đó là khởi điểm khiến cụ Nguyễn Khanh đến cùng
Chúa năm 1920.
Năm 1924 Mục sư Ngân thêo cha mẹ vào Nam, khi Mục sư Nguyễn Đằng bắt đầu chức vụ tại Mỹ
Tho. Thuở nhỏ,ông đã tỏ ra là một cậu bé rất thông minh, xuất sắc trong việc học. Lớn lên,ông được
học bổng để học tại Trường Kỹ Nghệ Thực Hành.
Năm 1939, ông ra trường và kiếm được việc làm với mức lương khá cao. Là một thanh niên yêu
mến Chúa,ông hăng hái hoạt động trong Hội Thánh. Theo lời cụ Giáo Sĩ D.I. Jêffrêy, Mục sư Nguyễn
Kim Ngân là Trưởng ban Thanh niên đầu tiên của Hội Thánh Sài Gòn; lúc ấy ông đảm nhiệm cả chức
vụ thư ký Trường Chúa Nhật. Ông có khiếu âm nhạc và đàn hát rất hay. Ông còn khéo tay và có
khiếu về ngoại ngữ.
Năm 1940, nghê tiếng Chúa gọi, ông xin thôi việc để theo học tại Trường Kinh Thánh. Sau hai
năm học tại Trường Kinh Thánh, ông về làm phụ tá cho Giáo Sĩ J.D. Olsên ở Mỹ Tho để soạn và dịch
Thánh Ca. Lúc bấy giờ tất cả các giáo sĩ ở Việt Nam đều bị Nhật giam giữ tại Mỹ Tho. Việc đi lại rất
khó khăn và nguy hiểm nhưng ông vẫn hy sinh hầu việc Chúa cùng với giáo sĩ Olsên, đến nỗi yêu
cầu hoãn hôn lễ của mình lại để có thể tiếp tục chức vụ tại Mỹ Tho cho đến ngày các giáo sĩ được
giải phóng.
Ngày 21 tháng 11 năm 1944, ông thành hôn cùng cô Lê Ngọc Diện, con thứ tám của cụ Huyện
Diệp ở làng Thành Lợi, Vĩnh Long. Cùng năm ấy chiến cuộc bùng nổ nên đôi vợ chồng trẻ phải tản
cư một thời gian, rồi sau đó được bổ qua Cao Miên hầu việc Chúa tại Kampot.Sau hai năm tại đây
ông đã có thể giảng bằng tiếng Cao Miên.
Năm 1948 ông về học thêm hai năm tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, và sau khi tốt nghiệp ông
được bổ chức trợ giáo, dạy Việt văn cho sinh viên nữ của trường.
Năm 1952, ông hợp tác với giáo sĩ Travis tại Cần Thơ để lo việc thu thanh các chương trình
truyền giảng cho đài phát thanh Tin Lành Manila. Đến năm 1954, ông lên Gia Định hợp tác với Giáo
Sĩ J.S. Sawin xây cất Phòng Thu thanh "J.D. Olsen" và phụ trách phòng này.
Khoảng tháng 7 năm 1956, ông nhuốm bịnh ung thư. Tuy đau yếu nhưng ông vẫn tìm mọi cách
để hầu việc Chúa. Chính ông đứng ra sáng lập Đoàn Truyền đạo Thanh niên để giảng Tin Lành tại
Sài Gòn. Ông cũng là thư ký của Ủy ban Cổ động Học bổng và Tuyển trạch Du Học sinh.
Tháng 5 năm 1957,sau khi ông được phong chức Mục sư, bệnh ung thư bộc phát và ông phải
vào bệnh viện, trước tiên là Bệnh viện Cơ Đốc, sau đến Bệnh viện Grall.
1 giờ 30 sáng ngày 9 tháng 8 năm 1957, Mục sư Nguyễn Kim Ngân ngủ yên trong Chúa tại tư
thất ở Gia Định.Lễ an táng được cử hành rất trọng thể vào chiều Chúa Nhật, 11 tháng 8, năm 1957.
Trong những ngày nằm trên giường bệnh, Mục sư Nguyễn Kim Ngân đã tập hai đức tính cao
quý là hạ mình và hy sinh. Qua ánh sáng Thánh Linh, ông đã xét mình và xưng ra từng khuyết điểm
210
trước mặt Đức Chúa Trời. Lòng ông được nhẹ nhàng thư thái, cảm nhận tình yêu thiên thượng tràn
đầy, để được Chúa đón về thiên quốc vĩnh an.
Một đêm kia ông bị mệt nhiều và được đưa vào phòng lạnh của nhà thương Grall. Trong cơn
đau ông cảm nhận nhiều điều mới mẻ trong Lời Chúa. Nửa đêm, ông chỗi dậy giảng Tin Lành một
cách hùng hồn cho những bệnh nhân cùng phòng, khiến mọi người ngạc nhiên, nhất là ông gọi đích
danh các người bệnh và khuyên họ phải mau mau tin nhận Chúa.Lúc ấy không có dấu hiệu ông bị
mê sảng; trái lại, ông rất bình tĩnh, mạch huyết áp rất đều. Cũng có lần đang nửa đêm, Chúa cho ông
một bản thánh ca mới, cả lời lẫn nhạc, ông đánh thức bà dậy để chép lại rõ ràng. Mục sư Nguyễn
Kim Ngân nói chỉ trong vài giờ mà ông đã học được nơi Đức Thánh Linh nhiều hơn là mọi điều học
cả đời. Chúa đã "bổ lại linh hồn" của tôi tớ yêu dấu Ngài, khiến tâm thần người được đầy dẫy Sự
Sáng và Sự Sống trước khi về với Chúa.
Bà Nguyễn Kim Ngân qua đời ngày 20 tháng 10, 1968 tại Gia Định. Mục sư và Bà Nguyễn Kim
Ngân có ba con gái: Nguyễn Thị Kim Tuyến (qua đời tại Thành Lợi lúc còn nhỏ), Nguyễn Thị Kim
Cúc (vợ Mục Sư Nguyễn Xuân Bình, California) và Nguyễn Thị Kim Anh (vợ Mục Sư Huỳnh Trang
Tỉnh, Virginia). Ông bà có 5 cháu ngoại và 5 chắt hiện đang sống ở Hoa Kỳ và Canada.
Huỳnh Trang Tỉnh
(hiệu đính theo Báo Rạng Đông)
211
Mục Sư Nguyễn Hậu Nhương
(1912-2002)
Mục sư Nguyễn Hậu Nhương sinh ngày 4 tháng 4 năm 1912 (Quý Sửu) tại làng Lý Nhân huyện
Đông Thanh, Phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Mồ côi mẹ từ lúc mới ra đời, được ông bà nội nuôi dưỡng
cho đến khi 3 tuổi. Khi bà nội qua đời,ông được về ở với bên ngoại.Lúc thiếu thời được ở bên nội
nhiều hơn nên đã được học chữ Nho với ông nội.Mãi đến năm 1920 mới xin được học lớp Năm
(Cours Enfantine) toàn bằng chữ Pháp.Rất thông minh. Lần nào có cuộc thi đều được thưởng tiền
rất nhiều. Ở trường học lớp nào cũng đứng hạng nhất, năm nào cũng được phần thưởng đặc biệt,
ưu hạng.Nhưng ra khỏi khuôn viên trường ông lại cũng được nổi danh về tính nghịch ngợm,phá
phách (đúng như câu: Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò!). Về tính tình, tuy còn nhỏ nhưng đã tiêm
nhiễm và sáng tạo ra rất nhiều tội lỗi.
Vào một tối thứ Năm cuối tháng Ba năm 1924 ông đã tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa của đời
sống mình tại nhà giảng Hội Tin Lành Vinh và cứ hàng tuần đi nhóm lại hát thơ thánh, nghê giảng
và tham gia sinh hoạt, công tác phát sách hoặc bán sách Tin Lành.
Năm 1928 được sinh hoạt với Hội Thánh Tự Nhiên, tỉnh Hà Đông khi thân phụ là Truyền đạo
Nguyễn Hậu Phúc, hầu việc Chúa tập sự tại đây. Năm 1930 ông về làm việc tập sự tại nhà in Tin
Lành ở số 2 phố Ngõ Trạm, Hà Nội. Tại đây, ông sống chung với hai cụ Mục sư Hội Trưởng Lê Văn
Thái và được học Kinh Thánh mỗi chiều thứ Năm tại nhà thờ. Do công việc, ông phải kiểm bản in
Kinh Thánh bằng cách đọc lại bốn lượt trước khi cho in. Lễ Giáng Sinh năm 1932 là kỳ lễ vui nhất.
Các con cái Chúa hiệp nhau trang trí nhà thờ, tập hát và tập kịch trình diễn cho kỳ lễ và trong ngày
lễ nhận được rất nhiều quà quý báu ích lợi cho việc học Kinh Thánh. Lễ năm đó ông được Chúa thúc
giục và đã quyết định dâng hiến đời mình phục vụ Ngài.
Ngày Chúa Nhật 05.04.1933, ông lập gia đình với cô Dương Thị Nghĩa, con gái cụ Mục sư Dương
Tự Ấp tại nhà thờ Thanh Hóa. Sau đó trở về Hà Nội tiếp tục công việc tại nhà in Tin Lành. Được sự
thúc giục hầu việc Chúa, ông đã xin nghỉ việc tại nhà in để có nhiều thì giờ học, nghiên cứu Kinh
Thánh và tham dự tất cả các buổi giảng mỗi đêm tại các nhà giảng nhánh ở phố Huế, phố Hàng
Than, ở Cầu Giấy, phố Sơn Tây,làng Sở Thượng. Ông cũng được phân công hướng dẫn vài buổi giảng
trong tuần lễ.Ngày 12.01.1934, con trai đầu lòng, tức là Mục sư Nguyễn Hậu Lương sau này, ra đời.
Sau khi học Thánh Kinh Tiểu Học Đường, ông được giao nhiệm vụ giúp các buổi nhóm của cụ Mục
sư Lê Văn Thái và chị Hoa Hồng bằng công việc hướng dẫn buổi nhóm, kết luận bài giảng, kêu gọi
người tin nhận Chúa và cầu nguyện cho người mới tin nhận Chúa. Mục sư Lê Văn Thái tình nguyện
đi mở chỗ mới và được Tổng Liên Hội chấp thuận cho đến Phủ Láng Thượng, ông được tiếp tay với
cụ hầu việc Chúa tại đây trong việc giảng cho người chưa tin Chúa và khi cụ đi vắng thì giảng Tin
Lành cho tín đồ.
Công việc đang được phước và phấn khởi, thình lình ông nhận được thư của Trường Kinh Thánh
Tourane nhắc, đồng thời cho biết đã có người giúp học phí cho niên khóa 1934-1935 và nếu không
gì trở ngại, ông phải đến trường vào tuần lễ thứ ba của tháng Tám để kịp ngày khai giảng. Vào nửa
khóa sau của năm Thứ Hai và năm Tốt Nghiệp, nhà trường tạo điều kiện cho mọi sinh viên tỏ bày
ước vọng về tương lai. Ông được cảm động truyền giáo cho người thượng du, nhưng không hề tiết
lộ cho ai trừ một người cùng hiệp nguyện. Ông đã hứa nguyện trong lòng sẽ đi bất cứ nơi nào và
làm bất cứ việc gì Chúa kêu gọi và giao phó cho.
212
Bắt đầu năm Tập sự,khi về đến Hà Nội, ông được Mục sư Chủ nhiệm tạm bổ nhiệm vừa lo cho
Hội thánh nhánh của Hà Nội và nhà giảng Phố Huế, vừa lo giúp việc Tiểu Học Đường ở phố Ngõ
Trạm. Ông rất sung sướng bước vào chức vụ và hăng say làm tất cả các công việc từ 6 giờ sáng đến
10 giờ đêm mới nghỉ. Đột nhiên, ngày 26 tháng 8 năm 1936, ông nhận được một lá thư với nội dung
tóm tắt như sau: “Nếu Chúa mở đường,thầy Nhương có bằng lòng đi thượng du không?” Sau một
thời gian cầu hỏi ý Chúa và nghe rõ tiếng gọi của Ngài, ông trả lời “Nếu Chúa mở đường đi thượng
du thì bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào tôi cũng sẵn sàng đi ngay.”
Giữa tháng 9 năm 1936, Chúa đã dẫn dắt ông cùng với giáo sư J. Funé đến Sơn La để xem xét
tình hình, gặp nhà cầm quyền Pháp và Thái, rồi xin phép mở cửa giảng Tin Lành tại đó. Sau khi hỏi
kỹ nhiều điều về nhiều việc, một cách miễn cưỡng, vị công sứ Pháp không thể từ chối một Mục sư
mang quốc tịch Pháp là Jêan Funé nên đã chấp nhận cho ông đến Sơn La một ngày nào đó thuận
tiện để học tiếng Thái. Đầu tháng 11 năm 1936, ông từ giã các tín hữu Hội Thánh Hàng Da, Hội
Thánh Phố Huế lên đường.Vượt chặng đường trên 300 cây số, lót đá lởm chởm, đầy bụi cát, lúc lên
dốc lúc xuống phà, ông bà đến Chợ Bờ nghỉ đêm rồi sáng hôm sau ông bà phải tìm xê khác đi mãi
đến 9 giờ tối hôm sau mới đến Sơn La.
Hội đồng Mục sư Giảng sư tại Nam Định 1937.
Mục sư Nguyễn Hậu Nhương hàng trên cùng, thứ hai từ trái sang.
Truyền giáo Nguyễn Hậu Nhương truyền giảng Tin Lành cho người miền cao tại Ban Mê Thuột.
Thuở ấy, mọi người đều ở trần, nam giới chỉ đóng khố, còn nữ quấn xà-rông.
Nơi ông ở cũng là nơi tiếp các quan Thái như Tri Châu, Bố Chánh, Mường La và các công chức
Việt Nam. Công việc đầu tiên là học tiếng và tiếp khách, chuẩn bị cho công cuộc truyền giáo. Trong
thời gian ở đây Chúa cũng cho ông có cơ hội đi xa hơn đến Lai Châu,một tỉnh cách Sơn La 250 cây
số, sát biên giới Trung Hoa.
Trung tuần tháng 8 năm 1939, ông từ giã tất cả mọi người, các bạn hữu, các con cái thuộc linh
non trẻ, mới mẻ và ngôi nhà nhỏ hẹp đầu tiên ở Sơn La để trở về Tourane học năm tốt nghiệp.
Những tưởng sau khi tốt nghiệp sẽ trở về Sơn La, nhưng chương trình của Chúa là khác hẳn. Sau
213
khi tốt nghiệp, ông được nhà trường giữ lại làm thư ký và sau một năm Chúa lại đưa đến một công
trường mới: Ban Mê Thuột, năm 1941.
Tại Ban Mê Thuột,ông học tiếng Ra-đê, cộng tác với các giáo sĩ Mỹ để dạy trường Kinh Thánh
Ban Mê Thuột, đi giảng trong buôn vào những ngày cuối tuần và giảng dạy trong các buổi nhóm tối.
Tin Lành của Chúa Giê-xu đã cứu họ, quyền năng Ngài biến đổi đời sống họ. Họ bỏ thuốc, bỏ rượu,
bỏ tục cà răng, căng tai.
Thuở ấy, người Ra-đê đều ở trần, nam giới chỉ đóng khố, còn nữ quấn xà-rông. Người nữ phải
cà răng,căng tai. Trong buổi nhóm tối Chúa Nhật đầu tiên, các con ông rất ngạc nhiên vì người
hướng dẫn buổi nhóm không mặc quần. Về sau này, những người tin Chúa đã quyết định mặc âu
phục, đi nhà thờ thì mặc cả áo vét, các thiếu nữ không bao giờ cởi trần hở ngực nữa. Người ta có
thể phân biệt người chưa tin Chúa với người đã tin Chúa qua cách ăn mặc và quần áo của họ.
Gia đình Truyền giáo Nguyễn Hậu Nhương tại Ban Mê Thuột, 1943 (Ông bà cùng các con:
Nguyễn Hậu Lương, Nguyễn Hậu Ân, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Nguyễn Thị Điển, Nguyễn Hậu
Bình)
Ông cũng dành thì giờ để kết hợp một số con cái Chúa người Kinh để thành lập hội thánh người
Kinh.Ngày 10-6-1944, người vợ yêu dấu của ông đã về yên nghỉ trong nước Chúa. Rồi đến trưởng
nữ của ông năm 1947. Năm 1948 ông tục huyền với bà Nguyễn Thị Bạch Liên.
Cuối thập niên 50,chính phủ rầm rộ tổ chức Khu Dinh điền. Ông cùng giáo sĩ Franklin Irwin
thành lập các Hội Thánh tại những nơi đó. Trong tỉnh Darlac, thành lập được Hội Thánh Quảng
Nhiêu, Phước An, Thâm Trạch, Quảng Trạch, Thuận Hiếu, Khuê Ngọc Điền. Trong tỉnh Quảng Đức
có Hội Thánh Đức An, Thuận Hạnh, Gia Nghĩa. Tỉnh Bình Tuy có Hội Thánh Võ Xu, Võ Đắt. Tỉnh
Pleiku có Hội Thánh Lệ Chí và Lệ Thanh.
Năm 1952, thêo đề nghị của Ban Trị Sự Hội Truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp họp tại Đà Lạt,
Ban Trị sự Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành thuận cử ông kiêm lo nhiệm vụ Giám đốc kiêm Truyền
giáo cho Bệnh viện Phung Ea Ana tại Ban Mê Thuột. Có rất nhiều bệnh nhân được chữa lành, trở về
buôn làng làm chứng và thành lập được nhiều Hội Thánh tại quê nhà của họ.
214
Tháng 3 năm 1953,Các nhà Truyền giáo tổ chức Hội đồng Truyền giáo lần đầu tiên tại nhà Mục
sư Phạm Văn Năm và thành lập Đoàn Truyền giáo. Hội đồng cử Mục sư Phạm Xuân Tín làm Đoàn
trưởng, Mục sư Nguyễn Hậu Nhương làm Thư ký và Mục sư Phạm Văn Năm làm thủ quỹ. Chúa cho
thêm nhiều cơ hội mở mang Nước Ngài.
Hội đồng Tổng liên hội 1962 tại Nha Trang. MS Nguyễn Hậu Nhương bìa phải hàng đầu.
Năm 1962, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Liên Hội, ông lên đường qua Âi Lao làm giáo sĩ
người Việt Nam đầu tiên của Hội Thánh. Chúa có ban phước nhiều cho công việc Chúa tại đây giữa
vòng người Việt Nam và người Thái. Ông đã gặt hái những hột giống đã giêo ra tại Sơn La và công
việc Chúa được phát triển.
Những người chịu Báp têm cuối cùng trong nhiệm kỳ tại Vientiane
Năm 1973, Chúa cho phép ông bà trở về Việt Nam hầu việc Chúa tại Pleiku với chức vụ giám
đốc Chẩn Y Viện Tin Lành.
Năm 1975 ông được thuyên chuyển về Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang cho đến năm
1978 khi Viện bị đóng cửa, ông phải rời khỏi Thần Học Viện và chính thức xin về hưu năm 1980.
Ông đã phổ thơ các sách Ru-tơ, Gióp, Châm Ngôn, Truyền Đạo, Ê-xơ-tê, Giô-na, Thiên Lộ Lịch
Trình.
Tuy “hưu trí nhưng Chúa cho trí chưa hư”, năm 1988, ông được mời ra Hà Nội cùng với Mục sư
Phạm Xuân Thiều giảng dạy tại trường Kinh Thánh Hà Nội trong 4 năm 1988-1992 và sau đó được
yêu cầu kéo dài thêm một năm nữa. Trong thời gian này, bà đã về yên nghỉ trong Nước Chúa tại Hà
Nội vào ngày 09.11.1992.
215
Trong giờ Lịch sử Truyền giáo tại Trường Kinh Thánh Hà Nội.
Tháng 6 năm 1993,sau khi các sinh viên trường Kinh Thánh đã tốt nghiệp, ông trở về Nha Trang
nghỉ ngơi và yếu đi nhiều.
Tháng 10.1993 dời về Trạm Hành ở với gia đình người con gái là ông bà Mục sư Lưu Tự An,
cộng tác với Hội Thánh trong khu vực để thăm viếng khích lệ và giảng dạy những lúc Chúa cho có
cơ hội.
Đẹp ý Chúa cụ đã được về an nghỉ trong nước vinh hiển của Ngài ngày thứ Ba 19.02.2002 tại
Trạm Hành,Xuân Trường, Đà Lạt, hưởng thọ 90 tuổi, Cụ để lại 5 con, trai, gái, và dâu rể,23 cháu nội
ngoại và dâu rể và 8 chắt. Là giáo sĩ đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đến Ai Lao, bắt đầu
bằng chữ Â, ước vọng của ông là sẽ có giáo sĩ Việt Nam đi tới B (Balê) Chữ C (California) v.v... và cho
đến cùng trái đất nay đã thành sự thực./.
Lưu Quốc Hùng
216
Giáo Sĩ JOHN DRANGE OLSEN
(1893-1954)
Một trong những người giữ vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo và xây dựng Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam là giáo sĩ tiền phong đầy ơn và lẽ thật, John Drange Olsen. Ông là vị đốc học
nổi tiếng của trường Kinh Thánh Đà Nẵng, hết lòng hầu việc Chúa, tận hiến đời mình để truyền rao
Tin lành cứu rỗi và khi gửi xác thân lại tại Việt Nam đã để lại cho Hội Thánh tại Việt Nam nhiều di
sản quý giá.
John Drangê Olsên ra đời tại đảo Tusnes, gần Bêrgên (Na Uy) ngày 23 tháng 7 năm 1893 trong
một gia đình tin kính Chúa. Cha ông là giáo sư; mẹ là một tấm gương sáng về người nữ cầu nguyện
trong Hội thánh và gia đình. Bà sớm được Chúa gọi về nước Ngài khi Olsen mới tròn bảy tuổi.
Mười sáu tuổi, John Drange Olsen phải đến Mỹ để sống cùng với anh chị em của mình. Cũng từ
lúc đó, ở trong xứ mà chàng cho là đượm sữa và mật,chàng thiếu niên Olsên đã ôm mộng trở thành
triệu phú và bắt đầu sự nghiệp bằng những chuyến phiêu lưu kiếm tiền. Hằng ngày chàng những
mong giấc mơ làm giàu của mình sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực. Rủi thay chàng đã vướng
phải bệnh lao.Một thân trơ trọi nơi đất khách quê người, lòng cô đơn, chán nản, chàng lang thang
hết phố này đến phố khác trong sự tuyệt vọng vì bệnh tật. Đức Chúa Trời“chẳng bẻ cậy sậy đã gãy,
chẳng tắt ngọn đèn gần tàn, cho đến chừng nào người khiến sự công bình được thắng”(Mat. 12:20).
Một ngày trong những ngày tháng u ám đó, John Drangê Olsên đã được nghe Tin Lành cứu rỗi và
tình thương yêu của Đức Chúa Trời tại nhà thờ Gospêl Tabêrnaclê, Nêw York, nơi mục sư Âlbêrt B.
Simpson đang hành chức ở đó.
Ngày đó, tiến sĩ Radêr đã chia sẻ về sự chữa lành thân thể là món quà của Thiên Chúa cho chúng
ta qua Chúa Giê-xu. John Drange Olsen rất được khích lệ bởi lẽ thật này nên quyết định tin nhận
Ngài. Sau buổi thờ phượng, mọi người hiệp lại cầu nguyện chữa lành cho ông và Chúa đã đáp lời.
Một thời gian ngắn sau, khi kiểm tra lại sức khỏê, ông đã được lành hoàn toàn. Đây là sự chữa lành
đặc biệt từ Thiên Thượng ảnh hưởng đến kế hoạch tương lai của ông.
Càng bước theo Chúa,ông càng ý thức được sự kêu gọi của Chúa dành cho mình trong chức vụ
truyền giáo nên đã quyết định ghi danh theo học tại Học viện Đào tạo Giáo sĩ Nyack,Yêw York
chuẩn bị cho chức vụ thuộc linh tương lai. Ngay trong khi còn là sinh viên, John Olsên đã có những
hoạt động cho công việc truyền giáo. Với tài năng âm nhạc và giọng nam cao của mình, ông đã có
những ngày tháng trải nghiệm thật quí giá cho sự nghiệp truyền giáo của mình.
Năm 1916, sau khi tốt nghiệp, ông trở thành mục sư tại thánh đường Phaolô, Hội Thánh Hazel
Park. Thời gian tại đây đã mang lại cho ông kinh nghiệm quý báu trong việc quản lý một Hội Thánh.
Cũng tại thành phố này, ông đã gặp cô Edith Frost, người mà sau này sẽ trở thành vợ ông. (Ông bà
kết hôn vào năm 1932. Đám cưới diễn ra tại nhà nguyện của Trường Kinh Thánh do tiến sĩJ.D.
Williams làm chủ lễ. Trước khi kết hôn, bà Olsên cũng là một nhà truyền giáo ở Đông Dương. Bà đã
là giáo viên nhiều năm tại Trường Kinh Thánh tại Tourane).
Năm 1917, sau khi ông được công nhận là một thành viên cho công tác truyền giáo hải ngoại
của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp, ông được Hội phái sang phục vụ ở Viễn Đông. Ông đến
217
Nam Trung Quốc khi đang có chiến tranh và đã bị bắt giam trong một năm. Tại đây, ông dành thời
gian để học tiếng Quảng Đông và thu thập những kiến thức cơ bản về văn hóa khu vực Đông Dương.
Năm 1918, chiến tranh kết thúc, ông đặt chân tới Đà Nẵng. Sau đó cùng với Giáo sĩ I.R. Stêbbins
được cử vào Sài Gòn, thành phố cảng lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, để chuyên về truyền giảng
Tin Lành tại đó và các vùng phụ cận. Ngay khi còn đang học tiếng Việt và tiếng Pháp, hai ông thiết
lập cơ sở truyền giáo thứ ba trong nước. Qua nỗ lực của hai ông, một Hội Thánh người Hoa ở Chợ
Lớn và một Hội thánh người Việt ở Sài Gòn được hình thành ngay giữa lòng thành phố phồn hoa
nhưng đầy dẫy hình tượng.
Năm 1919, ngôi nhà nguyện đầu tiên được lập lên ở Sài Gòn.
Năm 1920 có 7 người chịu báp tem.
Năm 1925, sau kỳ nghỉ đầu tiên của ông, ông được bổ nhiệm làm Đốc học (Viện trưởng) trường
Kinh Thánh Tourane và tiếp tục giữ chức vụ đó cho đến năm 1952. Chúa đã dùng giáo sĩ Olsên đào
tạo những "tay đánh lưới" thuộc linh người Việt trong suốt 25 năm. Đời sống và chức vụ của ông
có ảnh hưởng lớn đến các sinh viên của trường cũng như ông trở thành người có tiếng nói trong xã
hội lúc đó. Thêo Mục sư Lê Văn Thái, năm 1927, sau khi được cử làm đốc học thì chính giáo sĩ D.J.
Olsên đã thiết kế lại toàn bộ chương trình đào tạo của Trường Kinh Thánh Đà Nẵng thêo hướng căn
bản hơn.
Ông bà đốc học John Drange Olsen và các học viên Trường Kinh Thánh.
Không chỉ là người giảng Tin Lành có ơn, có năng khiếu huấn luyện cấp lãnh đạo cho Hội Thánh
Tin Lành bản xứ, mà giáo sĩ John D. Olsên còn là một học giả uyên thâm, một dịch giả có tài. Ông đã
hiệp với giáo sĩ W. Cadman dịch toàn bộ Kinh Thánh ra Việt ngữ và được xuất bản lần đầu năm
1926. Chính ông Olsên đã dịch và hiệu đính quyển “Thiên lộ lịch trình” (một quyển sách nổi tiếng
của John Bunyan), “Kinh tiết sách dẫn”, bộ “Thần Đạo học”, “Sử ký Hội Thánh”, quyển “Điều lệ Hội
218
Thánh Tin Lành Việt Nam” cùng khá nhiều sách giải nghĩa Thánh Kinh khác nữa. Riêng cuốn “Thần
đạo học” của Mục sư John Drangê Olsên được xem là cuốn sách thần học Tin Lành đồ sộ nhất ở
nước ta trước 1975. Bộ sách dày gần 1.000 trang, được soạn theo kiểu giáo trình thần học truyền
thống Âu - Mỹ,lần đầu tiên ở Việt Nam, trình bày cặn kẽ, Tổng luận về thần học trước khi Luận về
Thánh Kinh, Luận về Đức Chúa Trời, Luận về loài người, Luận về tội lỗi, Luận về Đấng Christ… Nhiều
thế hệ mục sư của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của bộ sách này.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ông trở lại Việt Nam cộng tác trong Ban Nhuận chánh Thánh
Kinh Tân ước và Thánh ca. Năm 1948, giáo sĩ J. D. Olsen và Mục sư Ông Văn Huyên đã lãnh đạo một
nhóm học giả bắt đầu nhuận chánh Kinh Thánh Tân Ước.
Năm 1953, ông đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp tại Việt Nam
và dành nhiều thời gian để giảng dạy tại các Hội Thánh.
Đầu tháng 2 năm 1954, giáo sĩ Olsên từ Đà Lạt xuống Sài Gòn để họp Ban Trị sự Hội Truyền
giáo.Vào lúc 22 giờ 10 phút đêm ngày 9 tháng 2 năm 1954, trên đường từ Gia Định trở về với 2 giáo
sĩ khác trên ba chiếc xích lô, ông bị tai nạn giao thông nghiêm trọng. Ông được đưa vào bệnh viện
cấp cứu, nhưng vì vết thương quá nặng nên ông đã về an nghỉ trong nước Chúa ở tuổi 61.
Lễ an táng giáo sĩ John D. Olsên đã được cử hành một cách trang nghiêm, thật cảm động tại nhà
thờ Tin Lành Sài Gòn, ngày 10 tháng 2 năm 1954 và được an táng tại Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi, nay
là công viên Lê Văn Tám.
Bốn ngày trước khi về nước Chúa, ông đã được Chúa dùng đặc biệt giảng dạy cho Hội đồng
Thanh niên Toàn quốc họp tại nhà thờ Tin Lành Sài Gòn. Đã có 150 thanh niên thiếu nữ ăn năn
xưng tội và bằng lòng dâng mình hầu việc Chúa.
Sự nghiệp 35 năm truyền giáo vẻ vang của ông đã kết thúc. Ông đã được toại nguyện khi làm
xong công việc Chúa giao cho mình ngay trên đất nước mà ông đã mến yêu, đã đổ bao công khó, mồ
hôi, nước mắt để xây dựng và bảo tồn. Từ một người tuyệt vọng ông đã được gặp Chúa rồi tin Chúa,
và Ngài đã sai John D. Olsên ra đi truyền giáo. Khi thì làm thầy, khi thì rao giảng Tin Lành, khi thì
dùng lời Chúa để gây dựng, khích lệ, khi thì viết bài giảng, viết sách, viết báo, giải nghĩa Kinh
Thánh.... Cả cuộc đời của Giáo sĩ John D. Olsên chỉ biết chăm chỉ, tận tụy để đặt nền móng xây dựng
Hội Thánh Tin Lành Việt Nam dấu yêu. Chắc chắn ông đã nhận mão miện vinh quang Chúa dành
cho những "đầy tớ ngay lành trung tín" đã tận tâm với thánh chức, kiên quyết tin thờ và phụng sự
Ngài cho tới hơi thở cuối cùng.
219
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Ảnh chụp tháng 11 năm 1918 tại Tourane. Hàng trước từ trái sang: William Cadman với bé
Agnes Elizabeth, Grace Cadman,Robert A. Jaffray, Marie Irwin, EF Irwin với George. Hàng sau:
Richmond Jackson, Marion Foster, Irving Stebbins, Hartman Mary (Stebbins), John D.Olsen.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Các giáo sĩ (từ trái sáng phải): John D. Olsen, Irving Stebbins, Irwin Marie, E.F. Irwin, R.A. Jaffray,
Stebbins Mary, Marion Foster. Ảnh chụp năm 1919.
220
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Từ trái sang phải: Mục sư Vũ Văn Cư , Mục
sư Ông Văn Huyên, bà Giáo sĩ Edith Olsen, ông
Giáo sĩ John Olsen, Mục sư Lê Nguyên Anh. Ảnh
chụp năm 1950.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Ngày tốt nghiệp Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, 05 tháng 5 năm 1952.
Hàng trước (trái sang phải): 1. Lê Khắc Cung, 2.Dương Thạnh, 3. Mã Phước Minh, 4. Đào Văn Diệu, 5. Trần
Thượng Hiền, 6. Nguyễn Lĩnh, 7. Nguyễn Thanh Liêm, 8. Nguyễn Sơn Hà. Hàng sau: Ban Giáo sư:Paul Carlson, Ruth
Carlson, Lê Nguyên Anh, Ông Văn Huyên, Vũ Văn Cư, Edith Olsen, John Olsen.
221
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Buổi họp mặt chia tay với ông bà J.D. Olsen tại Sài Gòn năm 17.7.1952.
Hoài Thương
222
Anh PATRICK TITSWORTH
Tên anh là Patrick Titsworth, nhưng mọi người vẫn gọi anh bằng một cái tên thật gần gũi “Ânh
Pat”. Từ một vị lãnh đạo cấp cao, đến một êm bé bán bưu thiếp trước cổng khách sạn đều gọi anh
bằng cái tên thân thương đó.
Là con trai duy nhất trong một gia đình Cơ đốc với một chị gái, và một êm gái, anh Pat được
sinh ra tại Mỹ, lớn lên trên đất Mỹ. Sau khi tốt nghiệp đại học chuyên ngành Quản trị tài chánh, anh
được Chúa kêu gọi về làm việc cho một tổ chức Tin Lành có tên là Roever Evengelism Association
(REA).
Người sang lập ra tổ chức REA là Ngài Chủ tịch Dave Roever. Ông Dave Roever rất được ơn
trong việc chia sẻ và đêm nhiều người đến với Chúa. Câu chuyện về ông Dave Roever là một câu
chuyện dài, gắn liền với chiến tranh VN. Ông đến VN trong vai trò của một thanh niên làm tròn
nhiệm vụ với đất nước ông và chiến tranh đã để lại trên thân thể ông nhiều thương tích. Nhưng
chính Chúa đã đêm ông trở lại VN để thực hiện cho bằng được một trong chín trái Thánh Linh là
“Yêu thương”. Thêo ông “Muốn yêu thương thì điều trước tiên là phải học tha thứ”. Ông đã đến VN
với một trái tim đầy tình yêu thương để giúp đỡ cho trẻ em nghèo, có hoàn cảnh khó khăn có nguy
cơ phải bỏ học. Ông đã từng nói “Nếu không bởi Chúa, tôi sẽ không làm được những việc này”.
Ânh Pat đã làm việc với ông Davê Roêvêr hơn 20 năm, từ khi tổ chức REÂ được thành lập. Qua
ông, anh được nghe rất nhiều về VN, nhưng anh vẫn cảm thấy mình không có một mối quan hệ gì
với VN. Anh sắp xếp mọi công việc cho ông Dave Roever trong nhiều chuyến sang Việt Nam từ năm
1993, và anh luôn tự hỏi “Sao lại thương VN đến thế?” Vẫn không tìm được câu trả lời!
Cho đến một ngày kia, vào năm 1997, Chúa đã đưa anh đặt chân lên đất nước VN. Và chính mốc
thời gian này, Chúa đã gắn chặt cuộc đời của anh với VN, cho đến ngày anh về với Chúa vào đúng
ngày kỷ niệm sinh nhật của mình ở một tuổi rất trẻ, 46 tuổi (vào ngày 21 tháng 9 năm 2004).
Chúng tôi là những người đã có cơ hội được gặp anh, làm việc với anh trong nhiều năm. Chúng
tôi biết rằng giờ đây anh đang rất phước hạnh bên cạnh Chúa. Nhưng với tấm lòng thương nhớ anh,
223
chúng tôi muốn viết lại những câu chuyện về anh. Qua bài viết này chúng tôi muốn dâng lên Chúa
lời cảm tạ đã đưa anh sang VN. Chúng tôi muốn gởi lời cám ơn đến Ngài Davê Roêvêr, cám ơn gia
đình anh, đã đêm đến cho chúng tôi một người bạn đã yêu thương VN, và nhất là yêu thương Hội
thánh Việt Nam với tất cả trái tim mình.
Ngay chuyến viếng thăm VN đầu tiên của anh Pat vào năm 1997, Chúa đã cảm động lòng anh để
thấu hiểu hết những nỗi khó khăn của đồng bào. Anh bảo rằng: “Sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ, đến
hơn 30 tuổi tôi mới đến một quốc gia Châu Á đầu tiên, là VN. Giờ đây tôi được chứng kiến hết cái
khó khăn, nghèo khổ của một đất nước sau chiến tranh, đang từng bước hồi sinh. Tôi thầm cám ơn
Chúa đã cho mình một cuộc sống với đầy đủ mọi tiện nghi về vật chất trên quê nhà. Nhưng đây cũng
là lúc tôi gần với Chúa nhiều hơn. Tôi đã cảm nhận một cách sâu sắc những từ trong Kinh Thánh
“Sống bởi đức tin” khi tôi có dịp tiếp xúc với các tín hữu và tôi tớ Chúa tại VN. Họ phải đối mặt với
bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn một lòng yêu mến Chúa, dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào
họ vẫn tìm đủ mọi cách để thực hiện đại mạng lệnh của Chúa là đêm nhiều người đến với Chúa”.
Và sau lần đầu tiên đó của năm 1997, anh tiếp tục đến VN. Passport của anh chỉ có Visa của VN
mà không có của nơi nào khác. Ânh đã dành hết tình yêu và thời gian của mình cho VN. Có năm anh
đến VN 5 lần. Ânh đã đi đến rất nhiều nơi trên đất nước VN:Sapa, Lào Cai, Tuyên Quang, Phú Thọ,
Vĩnh Phúc; vào đến Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Nha Trang, Huế, Phan Thiết, Đà Lạt, Sài Gòn,
Mỹ Tho, Cần Thơ và anh cũng đã ra tận huyện đảo Phú Quốc... Mỗi một chuyến đi, chúng tôi lại ghi
nhận được một câu chuyện từ anh, ghi nhận được tấm lòng yêu mến Chúa của anh. Dù bây giờ anh
không còn hiện hữu quanh chúng tôi, nhưng những câu chuyện về anh tiếp tục khích lệ chúng tôi
trên bước đường theo Chúa.
Chuyến đi Sapa
Trong một chuyến đi Sapa, chuyến đi thật vất vả, chúng tôi phải lên tàu tại Hà nội từ 10g khuya
để đi Lào Cai. Đây quả thật là một chuyến đi khó quên với anh Pat, vì đều là toa nằm,nhưng giường
thì lại ngắn hơn chiều cao của anh. Ânh đã phải trải qua một đêm thật vất vả. Bốn giờ sáng tàu đến
Lào Cai, chúng tôi lên xê đi tiếp lên Sapa.
Đến nơi, sau khi đi thăm một vòng thành phố, câu đầu tiên anh hỏi chúng tôi: “Đây có nhà thờ
không?Mình có tín hữu ở đây không?” Hầu hết những người chúng tôi tiếp xúc là người dân tộc, họ
đơn sơ mộc mạc. Chúng tôi đi một vòng chợ Tình, gặp rất nhiều người dân tộc mua bán, cười nói.
Anh cứ hỏi chúng tôi “Có cách nào chia sẻ về Chúa với họ không?”.
Thế là anh nhất quyết phải làm một điều gì đó để nói về Chúa với đồng bào tại đây. Ânh quan
sát và bảo chúng tôi “Dường như người dân tại đây họ mang một kiểu giầy xăng-đan bằng nhựa
dẻo, vậy là có cách rồi”.
Chúng tôi tìm đến một trường học cấp 2. Sau khi liên lạc với địa phương, chúng tôi đề nghị tặng
giầy cho tất cả các học sinh của trường. Để mua được 270 đôi giầy trên đất Sapa quả thật không
phải là chuyện dễ. Chúng tôi hỏi sao anh lại muốn tặng giầy. Anh bảo chỉ muốn tặng một vật gì đó
cho các em học sinh, để khi các em nói lời cám ơn,mình sẽ có cơ hội để hướng dẫn các em về Chúa.
Vì nếu không bởi Chúa thì làm sao một người Mỹ như anh lại biết đến các em ở tận Sapa.
Chúng tôi phải dành trọn một ngày để “vét” hết giầy ở chợ. Đêm đó anh trằn trọc không ngủ
được, anh suy nghĩ không biết phải nói như thế nào với các em học sinh, để các em hiểu được về
tình yêu Thiên Chúa. Sáng hôm sau chúng tôi đi với Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em, cùng với Ban
Giám hiệu đến từng lớp để tặng giầy. Thấy gương mặt háo hức của các em chờ đợi đôi giầy mới
224
trông thật đáng yêu. Khi cho các em thử giầy, có những êm mang vào dư gót chân ra gần 2 cm,
chúng tôi bảo các em cởi ra để hôm sau người bán sẽ mang vào đôi khác thêo ni chân các êm, nhưng
các em sợ lấy ra rồi sẽ không còn cơ hội có đôi giầy mới. Cứ bảo “Dạ vừa rồi cô ạ”. Nhìn cảnh đó anh
bậc cười mà nước mắt cứ tràn ra quanh khóe mắt. Cứ mỗi lớp trước khi từ giã các em học sinh, anh
đều nói “Chúng ta hãy cùng nhau cám ơn Chúa, vì nếu không bởi Ngài biết nhu cầu của các em, thì
làm sao anh có thể đến được nơi này mà mua tặng giầy cho các êm”.
Anh rời khỏi trường mà cứ thầm cảm ơn Chúa đã đưa anh đến đây. Ânh cứ ước ao mình có được
một Hội Thánh tại nơi này, các êm học sinh này sẽ là một ca đoàn đẹp nhất với gương mặt ngây thơ,
hai má hồng hồng của trẻ êm người dân tộc. Anh đã dạy các em dấu hiệu quốc tế của người khiếm
thính, diễn tả từ “I lovê you” (Với bàn tay đưa ra,ngón giữa và ngón đêo nhẫn gấp lại). Và rồi anh
lại nói “I lovê you” có nghĩa là anh yêu mến các em, Chúa Giê-xu cũng đang nói vậy với tất cả chúng
ta”
Chuyến đi Tuyên Quang
Sau chuyến viếng thăm Sapa, anh Pat tiếp tục được Chúa cảm động về các cháu người dân tộc.
Ânh đặt câu hỏi với chúng tôi: “Các cháu tại Sapa còn có trường để học tiếng Kinh, còn những vùng
khác thì sao? Nếu không biết đọc chữ, làm sao các em có thể đọc được lời Chúa?”. Nỗi băn khoăn
đó cứ tiếp tục làm anh mất ngủ nhiều đêm liền.
Qua Ủy ban Bảo vệ Chăm sóc Trẻ êm, chúng tôi được biết có một vùng tại tỉnh Tuyên Quang,
thuộc vài xã vùng núi, trẻ em không thể đi đến trường, vì đường đi rất xa xôi. Thế là chúng tôi quyết
định đến thăm các êm nơi đó.
Ngày đến thăm các êm quả thật rất gian nan cho chính chúng tôi là người Việt Nam. Nhưng đối
với anh thì ngược lại. Anh luôn cảm ơn Chúa đã cho anh có cơ hội đi đến những vùng khó khăn như
thế. Chúng tôi đi từ Hà Nội qua các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc… Chúng tôi đi trên một đoạn đường rất
đẹp, bên này là sông và bên kia là vách núi.Chúng tôi được nghe kể những câu chuyện lịch sử về
Sông Lô, Sông Gầm. Và anh êm chúng tôi cũng được nếm bưởi Đoan Hùng. Nhưng suốt một chặng
đường dài, anh luôn dõi mắt tìm kiếm một nhà nguyện, một Hội Thánh. Ánh mắt anh luôn đăm
chiêu nhìn ra ngoài. Anh không cảm thấy cái vất vả của một chặng đường dài, mà anh luôn nghĩ đến
làm sao đêm được Tin Lành đến cho đồng bào vùng nầy. Một lần nữa,anh lại cảm ơn Chúa cho anh
được tham dự chuyến đi đó.
Điều làm chúng tôi nhớ đến anh nhiều nhất trong chuyến đi này là vào lúc dừng chân để dùng
cơm trưa, bữa cơm chỉ có đậu hũ, rau rừng luộc và một loại tương của người dân tộc.Mùi tương rất
nồng và khó ăn. Chúng tôi lo lắng cho đường tiêu hóa của anh,nhưng sau khi cầu nguyện Anh vẫn
ăn vui vẻ. Lên xe Anh nói với chúng tôi: “Quả thật mùi tương rất khó ăn với tôi, nhưng lúc đó tôi
chợt nghĩ nó cũng không đến nỗi chua cay như vị giấm mà Chúa phải nếm. Và nếu không gần gũi
được với người dân, thì làm sao nói về tình yêu thương của Chúa với họ được”. Cảm ơn Chúa cho
sức khỏê anh được bình an sau chuyến đi.
Khi đến nơi, các êm nhỏ tuổi từ 8 đến 15 ra đón chúng tôi. Quần áo trông thật đáng thương.
Nhưng trên những gương mặt lem luốc đó là những đôi mắt vô cùng đẹp. Anh bế một bé gái lên
trong lòng, cháu bé cứ tròn xoe mắt nhìn anh. Anh hỏi cháu mấy tuổi và cháu 12 tuổi. Chưa một lần
được đến trường. Anh hỏi cháu có thích đi học không,cháu bé trả lời rất thích. Thế là họ tiếp tục trò
chuyện, đến khi anh nói: “Con hãy cầu nguyện xin Chúa Giê-xu cho con có một ngôi trường nghê”.
Cháu bé mở tròn xoê đôi mắt nhìn anh một hồi lâu, và hỏi “Làm sao xin đươc, Chúa là ai,sao Chúa
225
không đi cùng chú lên đây? Bộ chú quen Chúa Giê-xu đó hả?” Những câu hỏi ngây ngô của một bé
gái 12 tuổi đã làm anh chảy nước mắt. Vậy là từ lúc sinh ra đến giờ chưa ai nói về Chúa cho cháu
nghe! Anh tự nói với lòng lỗi nầy đâu phải tại cháu bé!
Anh trở về Mỹ, trình bày và thuyết phục ban lãnh đạo tổ chức, và dự án xây một trường cấp 1
với 12 phòng học được chấp thuận với kinh phí 30.000 USD. Ngày khánh thành trường,chúng tôi
trở lại thăm các êm tại xã vùng núi thuộc tỉnh Tuyên Quang đó lần nữa.Chúng tôi mang thật nhiều
quà: tập vở, bánh kẹo, đồ chơi, và quyển sách “Book of Hopê”.
Khi đến nơi, nhìn các êm đến trường trong bộ quần áo lem luốc, nhưng tất cả gương mặt và ánh
mắt vô cùng rạng rỡ. Anh lại quyết định tặng cho mỗi em một bộ đồng phục, và góp thêm kinh phí
để xây dựng hệ thống lấy nước lên núi và xây hệ thống nhà vệ sinh. Như vậy là các êm đã có được
ngôi trường hoàn thiện.
Khi được mời phát biểu với các em học sinh, anh đã nói: “Chúa biết các em cần một ngôi trường,
Chúa biết các em cần đồng phục, Chúa biết tất cả những gì các em cần, nên Ngài đã sai anh đến để
mang những thứ cần dùng cho các em. Vậy chúng ta hãy cùng nhau nói cảm tạ Chúa nghê”. Và một
lần nữa Anh lại chỉ các em dấu hiệu quốc tế “I lovê you”.Lúc ra về, anh nói với chúng tôi “Mình về
không để lại được gì quý giá cho các êm, ngôi trường rồi sẽ cũ, áo quần rồi cũng sẽ phai màu, tập
vở rồi sẽ dùng hết,nhưng Chúa sẽ ở lại với các êm và đồng bào vùng núi. Chúng ta đã để lại những
hạt giống trong lòng các êm”.
Ânh đã mỉm cười mãn nguyện và chìm vào trong giấc ngủ trên chuyến xe trở về Hà Nội sau một
chặng đường dài.
Chuyến đi vịnh Hạ Long
Trong một chuyến đi thăm vịnh Hạ Long, trên tàu du lịch, chúng tôi say sưa ngắm cảnh đẹp
thiên nhiên. Lúc tàu gần đến một hang động, có rất nhiều chiếc thuyền con cặp theo tàu du lịch của
chúng tôi. Trên mỗi thuyền có từ 2 đến 3 em bé tuổi từ 8 đến 15, nam có, nữ có. Các em cố chào mời
du khách mua những món quà lưu niệm. Nhìn vóc dáng các em, mọi người cứ ngở các em khoảng
7-8 tuổi, vì tất cả đều suy dinh dưỡng.
Qua trao đổi với những người lái tàu, chúng tôi biết được rằng các em là con cái của những ngư
dân sống trong vùng vịnh. Các êm không được đến trường, vì đời sống của cha mẹ rày đây mai đó,
suốt ngày chỉ đi mưu sinh bằng nghề đánh cá.
Lại một lần nữa câu hỏi quen thuộc được anh đặt ra: “Ở đây có nhà thờ nào không? Nếu các em
biết Chúa làm sao đọc được Kinh Thánh?”
Anh yêu cầu người lái tàu cho tàu chậm lại. Để cho công bằng, chúng tôi đã mua trên mỗi ghe
một vài món quà lưu niệm. Sau đó anh hỏi các em muốn lên tàu chơi với chúng tôi không? Thế là
những bàn tay vỗ lên reo mừng, nụ cười rạng rỡ trên gương mặt.Chúng tôi bế từng em lên tàu,
người lái tàu cho tàu dừng lại giữa biển của vịnh Hạ Long và cột những chiếc thuyền con vào thuyền
lớn. Cuối cùng trên tàu chúng tôi có được 9 em.
Sau khi cho mỗi em một ít bánh kẹo mang theo, chúng tôi bắt đầu trò chuyện và hỏi về hoàn
cảnh của từng em. Có những em từ lúc sinh ra cho đến lúc đó vẫn chưa một lần được vào đất
liền,ngược lại các em hiểu biết vô cùng rành rọt những ngóc ngách của các hang động.Chúng tôi
chụp hình cho các em, và in ra ngay cho mỗi em một tấm ảnh. Đối với các em, việc này như một
điều vô cùng kỳ diệu, khi các em chờ đợi hình mình hiện ra từ từ sau khi tấm ảnh được in ra. Nhìn
226
gương mặt háo hức của các em lúc chờ đợi tấm ảnh, cả 9 cái đầu châu vào một tấm ảnh bé tí, và nụ
cười rạng rở khi thấy hình mình hiện ra trong tấm ảnh.
Đột nhiên Ânh đề nghị chúng tôi giúp anh thành lập một ca đoàn thiếu nhi. Chúng tôi cho các
em ngồi vào các băng ghế hai bên tàu và tập cho các em bài hát “Chúa yêu êm”. Những giọng hát
lánh lót cất lên, lúc đầu còn có vẻ e thẹn, sau khi tập từng câu đến lần thứ 6 thứ 7 thì ca đoàn trên
biển của chúng tôi hát vô cùng mạnh mẽ. Giọng hát vang lên cả một vùng biển yên tỉnh, nhiều tàu
du lịch khác vượt qua chúng tôi nhìn thêo và cười.
Sau gần 2 tiếng,chúng tôi đành phải chia tay với các em, chúng tôi không thể giữ các em lâu, vì
các em phải tiếp tục “công việc kinh doanh” được cha mẹ giao cho. Trước khi chia tay, Ânh đề nghị
các êm cùng cúi đầu để chúng tôi cầu nguyện cho các em.Sau khi cầu nguyện, một em hỏi: “Các cô
chú vái cái gì vậy?”. Một anh trong đoàn đã giải thích cho các em rằng: “Các cô chú đang thưa chuyện
với Cha của chúng ta, chúng ta đều có một Cha trên trời rất yêu thương chúng ta. Khi các em về nhà
nếu có tâm sự gì, hãy nhắm mắt lại mà thưa chuyện với Cha. Cha sẽ lắng nghe tất cả lời cầu xin của
các êm.”
Chúng tôi đưa các êm lần lượt trở về thuyền của mình. Lên thuyền xong các em vẫn chưa muốn
đi, cho đến khi tàu chúng tôi nổ máy, các em mới chèo thuyền tìm đến một tàu du lịch khác.Nhìn
những em bé nhỏ xíu, vóc dáng gầy nhom chèo thoăn thoắt những chiếc thuyền mà tất cả anh em
chúng tôi đều mang một tâm trạng ngầm ngùi.
Anh lái tàu báo với chúng tôi rằng vì mất gần 2 tiếng, nên chúng tôi phải bỏ bớt một số hang
động theo hợp đồng thuê tàu. Anh trả lời rằng: “Tôi biết các hang động ở vịnh Hạ Long rất đẹp,
nhưng tôi có thể tìm thấy cái đẹp đó qua ti vi, sách báo, nhưng để có được những giờ phút vui vẻ
bên các êm bé ngây thơ đó, chia sẻ về Chúa với các em, tôi không biết tìm ở đâu. Đối với tôi, cuộc
gặp gỡ này là ý nghĩa nhất của tôi trong chuyến thăm vịnh Hạ Long”.
Trở về đất liền, anh đã mang thêo hình ảnh những êm bé không được đến trường về đến đất
Mỹ. Thế là dự án “Lớp học trên biển” được hình thành trị giá 6.000 USD. Lớp học là một chiếc tàu,
trên đó có 3 phòng học, với đầy đủ bàn ghế và bảng đên. Đặc biệt có một phòng dành riêng để cô
giáo ở lại trên tàu. Tàu được đậu vào khu vực đông tàu thuyền đánh cá nhất.
Chúng tôi trở lại vịnh Hạ Long lần nữa, trong ngày “Khai trường”. Nhìn 25 êm nhỏ ngồi vào
những chiếc bàn con nghiêm chỉnh đứng dậy chào đón mọi người. Sau phần lễ nghi là phần trò
chuyện và tặng quà cho các em, 7 em nhỏ trong 9 em chúng tôi gặp lần trước đã có mặt. Chúng chạy
đến ôm chúng tôi rất vui mừng. Một êm đã nói “Mấy cô chú dạy con cầu nguyện lần trước, con về
nhà nói với ba mẹ, cứ mỗi lần nhà con hết gạo,con nhắm mắt xin Cha trên trời, là ba mẹ con bán
được nhiều cá và anh êm con có cơm ăn liền”. Một êm khác nói “Chú nói sẽ giúp tụi con đi học, con
tưởng chú nói chơi, vậy mà chú làm thiệt”. Ânh bắt ngay cơ hội và nói “Chúa dạy chú không được
nói dối, Chúa cũng dạy chú tình yêu thương phải thể hiện bằng việc làm.Chú không thể nói thương
tụi con mà không làm điều gì đó giúp tụi con”. Các êm lại khoe với chúng tôi rằng tụi con đã dạy
được bài hát của mấy cô chú cho đám bạn tụi con nữa đó, và chỉ tụi nó cầu nguyện nữa.
Chúng tôi hỏi về sự vắng mặt của 2 em, một êm cha đã mất ngoài biển trong một chuyến ra khơi,
mẹ em nuôi không nổi 5 anh êm, nên đã cho êm cho một gia đình trong đất liền. Một em phải ở nhà
phụ mẹ mới sinh em bé. Chúng tôi gởi quà nhờ chuyển đến em bé này.
Lần chia tay này,chúng tôi không còn cảm giác ngậm ngùi nữa. Một niềm vui tràn ngập trong
lòng vì ít nhất có được 9 hạt giống đã giêo vào vùng đất mới.
227
Chuyến đi Phú Quốc
Anh Pat lại tiếp tục đến Việt Nam. Theo lời kêu gọi của một vị Mục sư trong đất liền, chúng tôi
lại có dịp thăm một vùng biển rất đẹp trên huyện đảo Phú Quốc. Chúng tôi được đi thăm rất nhiều
bãi biển đẹp, những khu rừng nguyên sinh hùng vĩ. Huyện đảo Phú Quốc đang chuyển mình thành
một trung tâm du lịch.
Tại đây chúng tôi được biết có một số lượng khá đông tín hữu gần 250 người, nhưng không có
nhà thờ.Anh em nhóm lại trong căn nhà của một tín hữu rất là chật chội, nằm khuất sau một lò bánh
mì. Đến thăm điểm nhóm thờ phượng của anh em, chúng tôi không khỏi chạnh lòng. Một căn phòng
chật hẹp khoảng 12 m2, trần bằng mái tôn nên rất nóng bức, nhưng đã được trang trí như một nhà
thờ nhỏ.
Sau chuyến viếng thăm đó, Ânh nhất định phải tìm cách giúp con cái Chúa tại đảo có được một
nơi thờ phượng kỉnh kiềng hơn. Nhưng xêm như ước mơ này không dễ thực hiện, vì qua tìm hiểu
chúng tôi biết rằng giá đất tăng mỗi ngày theo sự chuyển mình của huyện đảo thành trung tâm du
lịch.
Anh Pat trở về Mỹ với hình ảnh con cái Chúa thờ phượng trong một căn phòng nhỏ hẹp. Anh
trình bày với lãnh đạo tổ chức, và mọi người lên kế hoạch gây quỹ cho dự án mua đất xây nhà thờ
trên đảo Phú Quốc.
Ânh đã đưa một đoàn anh êm con cái Chúa đến đảo. Chúng tôi tìm đến một miếng đất khá rộng,
người chủ đất cho cả đoàn vào thăm. Sau khi tham quan khu đất, hỏi giá cả, số tiền không phải nhỏ.
Ânh đề nghị cả đoàn cùng cầu nguyện ngay trên mảnh đất đó. Sau khi cầu nguyện, anh bảo mọi
người đứng yên chờ anh. Anh mở ba lô và đêm ra 30 hũ nhựa nhỏ với một mảnh giấy đã được in
và dán lên cẩn thận bên ngoài, trên đó có in dòng chữ “Praying for Phú Quốc Island” (cầu nguyện
cho đảo Phú Quốc). Ânh nói “Các anh êm hãy lấy đất trên mảnh đất này cho vào hũ, mang về để nơi
nào mà anh em dễ thấy nhất mỗi ngày, để nhớ mà cầu nguyện cho đảo Phú Quốc sớm có nhà
thờ”.Một số anh em tín hữu trên đảo đi thêo chúng tôi đã chảy nước mắt khi thấy tâm tình của anh
Pat. Các anh êm đã nói “Cho dù có mua được đất hay không, nhưng tấm lòng của anh đã đêm lại
một khích lệ lớn lao cho chúng tôi trong bước đường theo Chúa. Từ đây chúng tôi không còn cảm
thấy cô đơn trên huyện đảo nầy, mà lòng chúng tôi vô cùng ấm áp”.
Trước tình hình kinh tế Mỹ bị khủng hoảng vào những năm 1999- 2000; việc gây quỹ rất khó
khăn, nhưng anh Pat và các bạn trong tổ chức đã không nản lòng và tiếp tục công việc trình bày về
ước mơ “Nhà thờ cho Phú Quốc” của mình cho mọi người. Công khó của các anh, và lời cầu nguyện
đã được Chúa đáp lời.
Hội thánh Phú Quốc đã mua được một mảnh đất khá rộng, ngang 25m dài 100m, và đã hoàn
thành một khu Cơ đốc Giáo dục rất khang trang, anh em tín hữu tạm thời sử dụng làm nơi thờ
phượng.
Ngày dự lễ cảm tạ của Hội Thánh Phú Quốc, anh em chúng tôi vô cùng hạnh phúc vì ước mơ đã
được Chúa đáp lời hơn cả điều chúng tôi mong đợi. Nhưng bên cạnh đó chúng tôi không khỏi ngậm
ngùi vì anh Pat không đến dự được để thấy công khó của anh đã được Chúa đáp lời. Ânh đã về với
Chúa trước ngày Hội Thánh Phú Quốc làm lễ cảm tạ. Chúng tôi nhớ anh da diết, nhưng chúng tôi
biết rằng anh đang phước hạnh trong vòng tay Chúa yêu thương, và mỉm cười nhìn thấy công việc
Chúa đang được phát triển trên huyện đảo Phú Quốc xa xôi.
228
Khu Cơ đốc Giáo dục của Hội Thánh Phú Quốc lúc vừa hoàn thành (04.11.2009).
Chuyến thăm Quảng trị
Một lần, tổ chức của anh đưa một đoàn gồm các cựu chiến binh Mỹ đến Quảng Trị để thăm lại
các vùng căn cứ trong chiến tranh xưa.
Trên đoạn đường dài từ Huế ra Quảng Trị, đoàn chúng tôi hát thánh ca trên xê, cầu nguyện và
chia sẻ.Ngài Dave Roever (chủ tịch tổ chức) cũng là một cựu chiến binh Mỹ, đã nói: “Trước 1975
chúng ta cũng đã từng đến đất nước này với một khẩu súng, nhưng cám ơn Chúa hôm nay chúng ta
trở lại đây với một trái tim đong đầy tình yêu thương của Chúa”.
Trong chuyến đi nầy anh đã chia sẻ “Các bạn còn có ký ức, và động cơ để trở lại Việt Nam. Các
bạn đã trở lại Việt Nam để thực hiện lời dạy của Chúa về lòng tha thứ và tình yêu thương. Tôi không
có ký ức về Việt Nam trước chiến tranh, tôi chỉ biết cảm ơn Chúa đã đưa tôi đến Việt Nam để học
bài học đức tin. Tôi đã học được rất nhiều bài học từ các tín hữu và tôi tớ Chúa tại Việt Nam, họ thật
sự đã bước đi với Chúa từng ngày. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được sâu sắc từ “sacrificê” (hy
sinh)cho đến khi tôi đặt chân đến Việt Nam.
Đoàn chúng tôi đến thăm Hội Thánh Khê Sanh, được biết tại đây có một số trẻ êm người Bru.
Các em bị bỏ rơi vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, có em mồ côi cha hoặc mẹ, hoặc cả hai. Gia đình
không thể lo lắng chăm sóc nên các êm cứ đi lang thang trong buôn làng để tìm miếng ăn từ gia
đình này đến gia đình khác. Cả đoàn đều rơi nước mắt trước hoàn cảnh thương tâm đó. Tổ chức
của anh Pat đã đồng ý hỗ trợ cho một dự án nuôi 10 trẻ em mồ côi người Bru với một hoài bão khi
các em lớn lên, vừa biết tiếng Kinh vừa biết tiếng Bru thì chính các em sẽ là người trở về buôn làng
và giúp đỡ đồng bào mình.
Những ngày đầu triển khai dự án, mọi người đều bàng hoàng trước một cảnh ngộ không thể
đoán trước. Một số em mồ côi đã trốn khỏi nhà trẻ vì không quên đánh răng mỗi ngày, không quen
229
tắm mỗi ngày, không quen rửa tay trước khi ăn, v.v... Ânh Pat đã dành ra mỗi tuần hai ngày kiêng
ăn cầu nguyện cho các em. Sau gần một năm các êm đã đi vào nề nếp.Các êm đã thuộc rất nhiều
Kinh Thánh và hát thánh ca rất giỏi, bằng cả tiếng Việt,tiếng Bru lẫn tiếng Anh.
Vậy là hằng năm chúng tôi đều đến Khê Sanh để thăm các êm bé người Bru, số em bây giờ đã
tăng lên con số 20. Một điều thật đáng tiếc là khi các êm đã đi vào nề nếp, đã trưởng thành trong
Chúa, đã biết cầu nguyện, biết hát thánh ca thì anh đã về với Chúa.Ânh không nhìn được ca đoàn
thiếu nhi người Bru mà anh đã dày công cầu nguyện,vận động tài chánh để nuôi các êm. Nhưng
chúng tôi rất vui vì biết rằng chúng tôi đang tiếp tục thực hiện hoài bão của Ânh là “Hãy biến các
em thành những chiếc chìa khóa mở cửa ánh sáng văn minh đến buôn làng, và đêm Tin Lành đến
cho đồng bào người Bru của các êm”.
Anh Pat và dự án viện trợ thiết bị y tế cho BV. Nguyễn Trãi TP.HCM
Tổ chức của anh có một nhóm anh êm Bác sĩ rất yêu mến Chúa, được biết tình hình đột quỵ do
bệnh tim mạch khá phổ biến tại Việt Nam nhưng chi phí điều trị rất cao. Tổ chức đã hỗ trợ BV
Nguyễn Trãi một máy Cath Lab giá 3.000.000 USD dùng để chụp chẩn đoán và điều trị cho những
trường hợp “Hẹp mạch vành” (mạch máu dẫn máu đến nuôi cơ tim)
Anh hoàn toàn không biết gì về chuyên môn trong lãnh vực nầy, nhưng từ giai đoạn gởi máy
qua Việt Nam, đến đưa đoàn kỹ thuật viên qua lắp đặt, đến việc đưa Bác sĩ Mỹ qua huấn luyện cho
các Bác sĩ Việt Nam, tất cả đều do anh sắp đặt và chuẩn bị. Trong thời gian này anh gần như ở Việt
Nam nhiều hơn ở Mỹ.
Ngày máy được gởi qua Việt Nam, từ Cảng Sài Gòn, xe tải chở về BV. Nguyễn Trãi, do quy định,
xe tải chỉ có thể lưu thông trên tuyến đường đến Bệnh viên sau 9 g tối, máy được chở đến Bệnh
viện gần nửa đêm. Ânh đã có mặt từ 8 g tối cùng anh em sắp đặt mọi sự chuẩn bị đưa máy về. Anh
đã không nề hà từ công việc khuân vác đến việc quét dọn theo sự hướng dẫn của các Kỹ sư chuyên
môn. Các Bác sĩ và nhân viên Bệnh viện vô cùng yêu mến anh về tính hòa đồng và chịu khó.
Sau khi máy được lắp đặt, nhiều đoàn Bác sĩ và Kỹ thuật viên từ bên Mỹ sang huấn luyện cho
các Bác sĩ Việt Nam, Ânh Pat đều có mặt trong mỗi lần đưa đoàn qua. Ânh phải ở lại từ 2 đến 3 tuần
lễ cho việc huấn luyện, chỉ để làm một công việc tầm thường là lo hậu cần (từ việc ăn uống, mua
sắm, đi lại…) cho các chuyên gia. Tinh thần và thái độ làm việc của anh êm trong đoàn đã khiến các
Bác sĩ bệnh viện nhận định “Chúng tôi có cơ hội làm việc với nhiều đoàn nước ngoài, nhưng đây là
đoàn đầu tiên mà chúng tôi thấy có sự khác biệt là anh êm đã làm việc quên cả bản thân mình, điều
này làm chúng tôi cũng muốn tìm hiểu về người Tin Lành.”
230
Khi các anh êm bác sĩ đến khám cho bệnh nhân trước khi đưa vào phòng mổ, anh luôn xin phép
bệnh viện và bệnh nhân cho được cầu nguyện. Anh luôn nói, chúng tôi chỉ giúp cho quý vị được
50%, 50% còn lại chúng tôi phải nhờ Chúa.
Vào một đêm, lúc 2 g sáng, chúng tôi nhận được một cú điện thoại từ Bệnh viện gọi đến. Có một
ca cấp cứu cần đưa vào phòng để thông tim, nhưng lúc đó các Bác sĩ bệnh viện chưa tự tin để làm
một mình. Chúng tôi gọi ngay đến khách sạn cho anh. Anh lập tức đánh thức các bác sĩ và kỹ thuật
viên trong đoàn từ Mỹ sang. Sau 15 phút đoàn chúng tôi đã có mặt tại Bệnh viện và bệnh nhân được
đưa vào phòng thông tim. Kết quả đã cứu được bệnh nhân, anh ấy là một doanh nhân thành đạt.
Sáng ngày hôm sau khi được các bác sĩ thông báo cho anh biết rằng anh vô cùng may mắn được
cứu bởi một nhóm anh êm bác sĩ Mỹ người Tin Lành, rất giỏi chuyên môn và có một tấm lòng nhân
hậu.
Bệnh nhân xin được gặp.Ânh đáp rằng “Chúng tôi làm tất cả bằng sức của Chúa, và chúng tôi
làm bằng tình yêu thương như Chúa thương chúng tôi”, và anh lại tiếp tục chia sẻ “Đến lúc này anh
có thấy rằng đồng tiền không giúp gì cho anh được, chỉ có tình yêu thương của Chúa mới có thể cứu
anh ra khỏi cơn nguy kịch”. Bệnh nhân xin được hậu tạ, anh bảo rằng anh chỉ nhận một món quà
hậu tạ là được phép cùng cầu nguyện với bệnh nhân. Sau khi cầu nguyện, người vợ của bệnh nhân
đã khóc rất nhiều, và xin chúng tôi tiếp tục cầu nguyện cho cô. Anh bảo: “Chúng tôi sẽ về Mỹ, nhưng
bạn chúng tôi sẽ tiếp tục đến thăm anh chị để báo cho chúng tôi biết về sức khỏe của anh.”
Chúng tôi rời bệnh viện lúc 5 g sáng. Mọi người đều mỏi mệt, nhưng anh Pat lại nói “Một linh
hồn nữa đã được cứu, anh tin rằng gia đình này không sớm thì muộn sẽ tìm đến với Chúa”.Anh nhờ
chúng tôi chuyển tên và địa chỉ bệnh nhân đến Hội Thánh gần nhất cho Ban Thăm viếng.
231
Cũng trong dự án nầy,anh đã có dịp gặp một bệnh nhân, cô khoảng 35 tuổi. Cô mắc chứng bịnh
“Tim bẩm sinh: Hẹp hở van 2 lá” - một bệnh có thể hoàn toàn trị khỏi bằng phẫu thuật nếu được
mổ và điều trị sớm. Thế nhưng cô bệnh nhân bé nhỏ nầy đã phải chịu đựng hơn 30 năm.
Qua tìm hiểu chúng tôi biết được rằng vì điều kiện tài chánh nên cô không thể mổ tim được và
đành chấp nhận bịnh càng ngày càng diễn tiến xấu đi. Ngày chúng tôi đến bịnh viện,cô đang nằm
trong tư thế nửa nằm nửa ngồi và đang thở ô-xy. Hai người bạn trong đoàn đã đồng ý hỗ trợ toàn
bộ tài chánh để cô được phẫu thuật. Bên cạnh giường bệnh, anh đã hỏi cô “Nếu cho cô một điều
ước, cô sẽ ước gì?” Câu trả lời đã khiến tất cả chúng tôi phải chạnh lòng. Cô ước: “Có thể nằm ngủ
thật ngon một đêm trong tư thế nằm bình thường như mọi người”. Lời ước nguyện đã khiến mọi
người phải đổ nước mắt, vì hơn 10 năm qua cô đã phải vật vã hằng đêm vì những cơn khó thở.
Việc chuẩn bị đưa cô qua Viện Tim để phẩu thuật được tiến hành. Sau 5 ngày, chúng tôi trở lại
bệnh viện và nhận được câu trả lời: “Viện Tim đã làm mọi xét nghiệm cận lâm sàng,nhưng bệnh
nhân đã để lâu, hiện thời áp lực động mạch phổi đã tăng rất cao nên trường hợp này không thể tiến
hành mổ được”. Chúng tôi vô cùng đau lòng, nhưng không dám nói hết với bệnh nhân.
Ânh Pat đã đến ngày rời Việt Nam trở về Mỹ, nhưng anh đã quyết định đổi chuyến bay và ở lại
thêm 10 ngày nữa. Anh nói với chúng tôi: “Chúng ta đã không giúp cô gái này có được cuộc sống
khỏe mạnh trong đời sống tạm thời, thì bằng mọi cách chúng ta phải giúp cô có được một cuộc sống
hạnh phúc trong đời sống vĩnh cữu”.
Ânh cũng ngại làm phiền các bác sĩ điều trị, nên anh đã xin phép được đến thăm và an ủi bệnh
nhận vào buổi tối. Được sự chấp thuận của bệnh viện, mỗi ngày chúng tôi được phép thăm bệnh
nhân vào lúc 7 g tối. Ânh đã xin đóng tiền thêm để được chuyển bệnh nhân vào phòng riêng, thuận
tiện cho việc thăm viếng, chia sẻ và cầu nguyện của chúng tôi.
Vậy là đều đặn mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 g đến 9 g tối chúng tôi đến thăm bệnh nhân cùng anh
Pat.Chúng tôi đã chia sẻ với Cô rất nhiều về lời Chúa, cầu nguyện cho Cô. Thời gian còn lại trong
ngày, Ânh đã mời tất cả chúng tôi đến phòng khách sạn của anh để cùng cầu nguyện. Chúng tôi đã
xin Chúa cho bệnh nhận đừng khó thở nhiều lúc chúng tôi đến thăm, vì như vậy mới có thể chia sẻ
lời Chúa được. Đến ngày thứ 3, Chúa đã nhậm lời cầu xin của chúng tôi. Cô có vẻ bớt khó thở nhiều,
để có thể nằm yên mà nghe chúng tôi chia sẻ và cầu nguyện. Cô đã nói “Thật sự em chấp nhận cho
các anh chị đến thăm và cầu nguyện vì nghê nói anh Pat đã vì êm mà ở lại 10 ngày nữa. Trong đời
em, từ lúc ngã bệnh, êm đã bị mọi người xêm như một gánh nặng, hay đúng hơn là cục nợ, ai cũng
giúp đỡ em trong một thái độ lạnh lùng.Đã lâu rồi êm không tìm được cái ánh mắt đầy tình yêu
thương nầy như đã tìm thấy từ anh chị. Anh chị là người dưng sao lại thương êm nhiều như vậy?”
Chúng tôi lại có cơ hội để chia sẻ với cô về tình yêu của Chúa.
Đến ngày thứ 6, khi chúng tôi vào phòng cô đã nói ngay: “Em muốn được cầu nguyện làm con
của Chúa”.Tất cả chúng tôi đều khóc, cô lại hỏi: “Sao các anh chị khóc?” Chúng tôi trả lời:“Ânh chị
khóc vì biết rằng Chúa của anh chị lúc nào cũng nhậm lời cầu xin của anh chị. Anh chị khóc vì vui
mừng, đây là nước mắt của niềm vui không phải của nỗi buồn”.
Ngày chúng tôi tiễn anh ra phi trường, anh nói rằng nếu anh rời Việt Nam cách đó 10 ngày Ânh
sẽ hụt hẫng và mang theo một nỗi buồn không thể nào quên về cô gái có ước mơ vô cùng đơn giản
mà anh không giúp được, nhưng cảm ơn Chúa anh đã rời Việt Nam vì biết rằng anh sẽ gặp lại được
cô bạn nhỏ vào một ngày nào đó, lúc đó anh sẽ thấy cô sẽ được nằm và ngủ bình an như bao nhiêu
người bình thường khác.
232
Anh vui vẻ nói rằng:“Lần này các bác sĩ tài ba đã cứu được rất nhiều bệnh nhân, nhưng Bác sĩ
Pat đã cứu được hai linh hồn: Anh doanh nhân trẻ tuổi giàu có và cô gái nghèo với ước mơ đơn sơ”
Đôi dòng tạm biệt Anh
Thời gian 7 năm không phải là quá dài, nhưng cũng là khoảng thời gian mà anh Pat đã dành
trọn cuộc đời mình cho Việt Nam, nhất là cho Hội Thánh Việt Nam từ khi anh đặt chân đến đất nước
này vào năm 1997.
Những câu chuyện về Anh không sao kể hết. Nhưng điều anh đã để lại trong lòng tất cả những
người gặp gỡ anh là tấm lòng yêu mến Chúa, và sự khát khao đêm mọi người đến với Chúa. Sự khao
khát trong lòng anh lớn lao đến nỗi đã khiến anh không còn nhớ đến chính bản thân mình. Anh sẵn
sàng đi đến những nơi khó khăn nhất, sống trong những hoàn cảnh thiếu tiện nghi nhất, ăn những
thức ăn mà anh chưa bao giờ nếm trong đời, miễn là anh thực hiện được hoài bão của mình là “Nói
về Chúa, tạo điều kiện để mọi người biết Chúa, nghe về Chúa, tạo điều kiện để mọi người đọc biết
lời Chúa và cầu nguyện cho mọi người tin Chúa.”
Giờ đây chúng tôi không còn gặp người bạn thân thương này nữa. Mỗi khi nghĩ về anh, nhớ về
anh chúng tôi lại tự nhủ lòng: “Hãy tiếp tục công việc mà anh đang bỏ dở…”. Một ngày nào đó chúng
tôi sẽ được đứng trong ca đoàn để tôn vinh Chúa, gồm những em bé ở Sapa, những êm bé người
Bru, những em bé trên biển vịnh Hạ Long, gia đình anh doanh nhân nọ, cô bé có ước mơ đơn sơ và
nhiều người nữa, nhất là sẽ được gặp lại người bạn vô cùng thân thương của chúng tôi “Ânh Patrick
Titsworth”. Tạm biệt Anh./.
Bài và ảnh: Ngọc Anh
233
Mục Sư Nguyễn Hữu Phiên
(1910 – 1981)
Đà Nẵng là nơi Giáo sĩ truyền đạo Tin Lành khởi đầu chức vụ truyền giáo vào năm 1911. Các
giáo sĩ đầu tiên đã dành nhiều năm để học tiếng Việt và bắt đầu giao dịch truyền giáo cho người
Việt. Người dân Tourane, tức là Đà Nẵng, gọi họ là những “người giảng đạo Hoa-kỳ” và tò mò tìm
hiểu.
Năm 1919, có ba công chức người Việt thuộc Sở Thương Chánh Hải cảng Touranê đến gặp giáo
sĩ E.F.Irwin để hỏi đạo và muốn biết cặn kẽ. Họ đã được ông Irwin tiếp vào giờ nghỉ trưa để học đạo
mỗi ngày, để sau đó về sở làm việc. Một trong ba công chức này là ông Nguyễn Hữu Thành, đã tin
nhận Chúa sau đó. Ông Thành là một trong những người Việt đầu tiên tin Chúa tại Tourane. Ông
Nguyễn Hữu Thành vì được huân chương Hồng Lô Tự Thiếu Khanh của Nam Triều, nên thường
được gọi là ông Hường Thành.
Sau khi tin Chúa,ông Thành xin vào học khóa đoản kỳ của Trường Kinh Thánh Touranê để được
hiểu rõ về Kinh Thánh. Ông nhận thấy việc mình làm ở Sở Thương Chánh (Thuế quan)Tourane
không mấy xứng hợp cho người tin Chúa, vì nhân viên thuế quan rất dễ ăn hối lộ và làm việc gian
trá, nên ông đã xin nghỉ hưu sớm hơn tuổi hưu và trở thành người tự nguyện làm chứng về Chúa.
Sau đó ông cũng đã lần lượt đưa hai con trai và hai con gái vào học Trường Kinh Thánh, đó là các
ông Nguyễn Hữu Khanh, Nguyễn Hữu Phiên và các bà Nguyễn Thị Biên, Nguyễn Thị Mai.
Ông Nguyễn Hữu Khanh tốt nghiệp Trường Kinh Thánh Touranê năm 1927, khóa học đầu tiên
của Trường này. Ông trở thành Mục sư phục vụ Chúa tại miền Nam trong nhiều năm, sau đó được
bổ nhiệm làm Mục sư cho Việt Kiều tại Campuchia trong nhiều năm.
Bà Nguyễn Thị Biên cũng học Trường Kinh Thánh và kết hôn với Mục Sư Dương Nhữ Tiếp, cũng
tốt nghiệp khóa đầu tiên của trường cùng với Mục Sư Nguyễn Hữu Khanh. Mục Sư Dương Nhữ Tiếp
từng là Hội Trưởng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và đã phục vụ Chúa ở Bắc Trung và Nam bộ.
Bà Nguyễn Thị Mai học Trường Kinh Thánh sau đó và kết hôn với Mục Sư Lê Khắc Lưu, phục vụ
Chúa tại miến Bắc.
234
Riêng Mục Sư Nguyễn Hữu Phiên, ông sinh năm 1910. Thân sinh là ông Nguyễn Hữu Thành.
Ông được trưởng dưỡng trong một gia đình tin kính Chúa. Ông vào học trường Kinh Thánh Đà Nẵng
và tốt nghiệp năm 1935. Ông kết hôn với cô Lê Thị Cưỡng khi học năm thứ ba Trường Kinh Thánh.
Cô Lê Thị Cưỡng là em của Mục Sư Lê Văn Long và Mục sư Lê Văn Thái.
Lạng Sơn.Sau khi tốt nghiệp, Truyền đạo Nguyễn Hữu Phiên bắt đầu chức vụ tại Lạng Sơn,miền
Bắc. Ông xây cất nhà thờ Lạng Sơn năm 1937. Lúc ấy, ông bà giáo sĩ Van Hinê cũng cộng tác trong
việc truyền giáo cho các làng sắc tộc Thổ, Mán (Dao),…tại khu vực Lạng Sơn.
Thái Bình.Sau 9 năm phục vụ tại Lạng Sơn, năm 1943, Truyền đạo Nguyễn Hữu Phiên được
thuyên chuyển về Hội Thánh Thái Bình thay cho Mục Sư Huỳnh Kim Luyện được thuyên chuyển đi
Hải Phòng.
Khả Cảnh - Kiến Xương - Thái Bình. Năm 1946, trong giai đoạn tiêu thổ kháng chiến, Truyền đạo
Nguyễn Hữu Phiên và gia đình phải tản cư về làng Khả Cảnh - huyện Kiến Xương - Thái Bình. Hội
Thánh tại đây đã có sẵn mấy sào đất để làm nhà giảng và tư thất cho người quản nhiệm.
Hải Dương. Năm 1950 Truyền đạo Nguyễn Hữu Phiên hồi cư về Hà nội và được bổ nhiệm đến
Hải Dương. Năm 1953, sau nhiều năm chiến tranh và tản cư,miền Bắc có 7 vị Truyền đạo được tấn
phong Mục sư, trong số đó có Truyền đạo Nguyễn Hữu Phiên. Năm 1953 cũng là năm mà Nhà thờ
Hải Dương được xây dựng và khánh thành.
Hải Phòng. Năm 1953 Mục sư Huỳnh Kim Luyện được thuyên chuyển đi Đà Lạt và Mục sư
Nguyễn Hữu Phiên được bổ nhiệm đến Hải Phòng thay thế.
Sài Gòn.Năm 1954, đất nước bị chia đôi, một số đông tín hữu Tin Lành di cư vào Nam cùng với
chín Mục Sư và Truyền Đạo. Mục sư Nguyễn Hữu Phiên vào Sài Gòn cộng tác với hai giáo sĩ D.I.
Jeffrey trong việc rao giảng Phúc Âm cho tù nhân tại khám Chí Hòa.
Trương Minh Giảng - Sài Gòn. Năm 1957, Giáo sĩ D.I. Jêffrêy mở một phòng đọc sách Tin Lành
tại khu phố Trương Minh Giảng - Trương Tấn Bửu và sau đó mua căn phố 16 đường Trần Quang
Diệu để làm nhà thờ. Năm 1957, Mục sư Nguyễn Hữu Phiên được mời làm quản nhiệm Hội Thánh
Trương Minh Giảng. Năm 1962, Hội Thánh mua thêm căn phố kế cận, số 18 đường Trần Quang
Diệu và số tín hữu gia tăng đến trên 250.
Cơ sở Tin Lành An Đông - Sài Gòn. Sau 15 năm phục vụ Chúa tại Hội Thánh Trương Minh Giảng,
Mục Sư Nguyễn Hữu Phiên được bổ nhiệm làm Giám đốc Cơ quan Thánh Kinh Hàm Thụ tại cơ sở
Tin Lành Ân Đông - Sài Gòn cho đến năm 1975.
Bà Mục sư Nguyễn Hữu Phiên về an nghỉ nơi nước Chúa năm 1974. Còn ông Mục Sư Nguyễn
Hữu Phiên về an nghỉ nơi nước Chúa năm 1981, hưởng thọ 70 tuổi.
Ông bà Mục Sư Nguyễn Hữu Phiên sinh hạ tám con, bốn trai và bốn gái, trong số đó có bốn người
theo gót ông bà phục vụ Chúa trong Hội Thánh và cơ quan truyền thông Tin Lành.
235
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Lớp tốt nghiệp 1935 Trường Kinh Thánh Tourane.
Truyền đạo Nguyễn Hữu Phiên là người giữa ở hàng ngồi.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Truyền Đạo Nguyễn Hữu Phiên và gia đình năm 1935 tại Lạng Sơn.
236
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Lễ phong chức Mục Sư cho 7 vị Truyền đạo tại Hà Nội 30.01.1951. Từ trái sang phải, hàng
trước: Các tân Mục sư: Nguyễn Thiện Sỹ, Nguyễn Hữu Phiên, Đào Thúc, Nguyễn Thiện Mân, Phan Sỹ
Kiểm, Nguyễn Văn Bảng, Lưu Văn Mão. Hàng sau: MS Huỳnh Kim Luyện, Không rõ, GS J.J. Van Hine,
MS Lê Văn Thái, GS D.I. Jeffrey, MS Trần Văn Đê.
Nguyễn Hữu Ái
237
Mục sư LÊ HOÀNG PHU
(1926-2003)
Mục sư Lê Hoàng Phu sinh ra và lớn lên trong gia đình người hầu việc Chúa. Ông đã sớm biết về
tình yêu Chúa và nhận được sự kêu gọi đặc biệt. Ông sẵn sàng đáp ứng tiếng gọi và dâng trọn cuộc
đời để phục vụ Đức Chúa Trời và rao truyền tình yêu của Ngài cho dân tộc Việt Nam.
Ông đã giảng dạy và huấn luyện nhiều người phục vụ Chúa, gây dựng nhiều Hội Thánh trong nước
cũng như hải ngoại. Qua sự giảng dạy của ông, nhiều người tin Chúa và gặp Ngài. Ngoài ra ông dốc
hết sức lực và hiểu biết để viết và soạn nhiều tài liệu, sách vở quí giá cho Hội Thánh và được dùng để
giảng dạy, nghiên cứu học hỏi Lời Chúa.
Khi nói đến lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, không thể không nói đến Mục sư Lê Hoàng Phu,
người đã đóng góp rất nhiều trong việc xây dựng Hội Thánh, huấn luyện người lãnh đạo và để lại tấm
gương hầu việc Chúa trung kiên.
1.Thuở thiếu thời và sự kêu gọi
Mục sư Lê Hoàng Phu chào đời ngày 17 tháng 6 năm 1926 tại Đà Nẵng. Ông là trưởng nam của
Mục sư Lê Văn Long, lúc bấy giờ hầu việc Chúa tại miền Nam và vừa trở về trường Kinh Thánh Đà
Nẵng học năm tốt nghiệp (1926-1927).
Năm 1938, Hội đồng Tổng Liên Hội được tổ chức tại Vĩnh Long và Hội đồng Phục hưng tại Đà
Nẵng và Hà Nội.Hội Thánh Chúa tại Việt Nam được một cơn phấn hưng lớn qua một đầy tớ Chúa
đầy quyền năng Thánh Linh, từ Trung Hoa sang là Tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Hai cụ Mục sư Lê văn
Long lúc đó đang hầu việc Chúa tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Cậu bé Lê Hoàng Phu mới 12 tuổi
nhưng cũng đã đi dự và nghe giảng suốt mấy ngày liền.Một buổi tối, tiến sĩ Tống Thượng Tiết đặc
biệt kêu gọi tinh thần hầu việc Chúa và cầu nguyện đặt tay cho các thiếu niên và thiếu nhi. Cậu bé
Phu cũng trong số đó. Cậu liền được tái sinh và vui mừng nhận lấy lá cờ hình tam giác màu trắng
có cây thập tự đỏ ở giữa, một biểu hiệu cho việc làm chứng cho Chúa mà đến nay hơn 80 năm sau
vẫn còn. Từ đó cậu ham mến lời Chúa và siêng năng cầu nguyện. Những ngày nghỉ học, cậu thường
ở luôn trong phòng cầu nguyện cho đến trưa, bỏ cả ăn sáng.
Năm 1946, cậu tốt nghiệp Trung học tại Huế. Cuối năm đó, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng
lên,gia đình cụ Mục sư Lê văn Long phải tản cư vào Tam Kỳ. Một biến động lớn cho đời sống cậu Lê
Hoàng Phu tại đây. Cậu đọc sách giải nghĩa về sự khổ nạn và hy sinh của Chúa trong tiên tri Es 53:4,5:
“Nguời đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng ta.... Người đã vì tội lỗi
chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương; bởi sự sửa phạt Người chịu chúng ta được
bình an,bởi lằn roi Người chúng ta được lành bệnh...” Cậu được Chúa cáo trách và cầu nguyện ăn
năn khóc lóc nhiều ngày đêm tại nhà thờ Tam Kỳ. Rồi cậu tìm đến những người xung quanh xin tha
thứ những lỗi mình đã phạm và viết nhiều thư tạ lỗi gửi đến những người ở xa. Từ đó ai cũng thấy
cậu được Chúa biến đổi trở nên hiền hoà, khiêm tốn, quyết tâm dâng mình cho Chúa, sẵn sàng chịu
cực khổ giúp đỡ người xung quanh, siêng năng đi làm chứng đưa dẫn đồng bào đến với Chúa.
Năm 1947, gia quyến cụ Mục sư Lê văn Long hồi cư về Đà Nẵng.
Năm 1948, Trường Kinh Thánh mở cửa lại sau ba năm đóng cửa vì chiến tranh. Chàng thanh
niên 22 tuổi Lê Hoàng Phu liền nạp đơn xin học. Ngay trong những tháng ngày học tại Trường Kinh
Thánh, chàng thanh niên Lê Hoàng Phu đã thường dành thì giờ dịch các sách có ích cho Hội Thánh,
238
như sách “Bởi Thần Ta” (By My Spirit) của tiến sĩ Jonathan Goforth, soạn dịch “Thánh Kinh Tự
Điển”, v.v.
Những năm chức vụ
Năm 1951, thầy Lê Hoàng Phu tốt nghiệp Trường Kinh Thánh và được bổ nhiệm đến hầu việc
Chúa tại Hội Thánh Huế. Thầy Truyền đạo trẻ tuổi đã đạp chiếc xê đạp cũ kỹ đi khắp thành phố Huế
và các vùng ngoại ô, như Ân Cựu, Bao Vinh, Bến Ngự, Kim Luông, Thiên Mụ,...để phát sách và làm
chứng về Tin Lành cứu rỗi.
Năm 1954, Truyền đạo Lê Hoàng Phu được tấn phong Mục sư. Ông viết trong lời cám ơn đăng
trên Thánh Kinh Báo tháng đó như sau: “Xin Quí vị cùng các Hội Thánh cứ cầu thay cho chức vụ tôi,
để tôi có thể dắt đưa nhiều tội nhân đến với Chúa Jesus...” Dắt đưa nhiều tội nhân đến với Chúa Giê-
xu là mục đích chính của đời sống Mục sư Lê Hoàng Phu. Trong những năm hầu việc Chúa ở Huế,
Mục sư Phu còn viết nhiều sách Truyền bá Phúc Âm.
Năm 1957, Mục sư Lê Hoàng Phu được Hội Thánh cử đi du học tại Đại học Nyack, Nữu Ước. Đây
là ngôi trường chính của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp đào tạo giáo sĩ gửi đi nhiều nước
trên thế giới, kể cả Việt Nam.
Năm 1959, tốt nghiệp trở về bằng đường thủy qua Châu Âu và Biển Đỏ. Mục sư được Tổng Liên
Hội bổ nhiệm làm Giáo sư Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
(MS Lê Hoàng Phu đứng bìa trái)
Năm 1960, ông thêo trường Kinh Thánh dời vào Nha Trang và trường đổi tên thành Thánh Kinh
Thần Học Viện.
Trước và sau khi về dạy ở Trường Kinh Thánh, Đức Thánh Linh đại dụng ông đi thăm viếng và
giảng bồi linh phấn hưng tại nhiều Hội Thánh từ Trung vào Nam. Nhiều người được Chúa cứu và
biến đổi. Nhiều người khác quyết định dâng mình hầu việc Chúa. Tại Hội Thánh Cần Thơ, qua lời
giảng của ông, Đức Thánh Linh cảm động một thiếu nữ, sau này khi qua Hoa Kỳ đã hầu việc Chúa
rất có ơn. Chồng cô cũng là một người được Mục sư Phu dắt dẫn, dâng mình hầu việc Chúa.
Năm 1960, một Giáo sĩ người Mỹ đã viết: “Suốt năm qua, Mục sư Phu đã giảng dạy tại nhiều Hội
Thánh, thời khoá biểu của ông đầy ắp những cuộc nói chuyện, hơn 50 buổi nhóm trong vòng ba
tuần. Qua sự chia sẻ Lời Chúa cách đơn sơ của Mục sư, hàng trăm người đã gặp Chúa Giê-xu cách
mới mẻ”. Vị giáo sĩ này làm chứng lại mình từng rất hãnh diện về chức vụ của mình, nhưng sau khi
nghe Mục sư Phu giảng, ông đã ăn năn và học làm người khiêm nhường hầu việc Chúa. Một giáo sĩ
khác, trong lần viếng thăm Hội đồng Thường niên thứ 30 của Giáo hạt Tin Lành Hoa Kỳ cũng làm
chứng lại mình đã thay đổi cái nhìn sai lầm về việc làm giáo sĩ ra sao sau khi nghê Mục sư Phu giảng.
Một Mục sư Việt Nam đang hầu việc Chúa tại Hoa Kỳ cũng đã làm chứng lại Đức Thánh Linh đã
dùng Mục sư Phu rất mạnh mẽ ở Việt Nam, đưa dắt nhiều người vào con đường phục vụ Chúa và
hầu hết những thanh niên đã nghê Mục sư Phu giảng đều được cảm động dâng mình hầu việc Chúa.
Ngoài trách nhiệm ở Thần Học Viện, Mục sư Phu còn được bầu vào chức vụ Tổng Thư ký Ban
Trị sự Tổng Liên Hội từ năm 1960 đến năm 1965.
239
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Tân và cựu Ban Trị sự Tổng Liên hội tại Hội đồng Tổng Liên hội Vĩnh Long 14 - 18.08.1960. Từ
trái qua phải, hàng trước: MS Ông Văn Huyên, MS Phạm Xuân Tín, MS Đoàn Văn Miêng, MS Lê Văn
Thái, MS Lê Hoàng Phu. Hàng sau: Ông Vũ Quyến, MS Phan Văn Tranh, MS Nguyễn Văn Xuyến, MS
Trần Văn Đê, ông Nguyễn Văn Vạn, MS Nguyễn Xuân Vọng.
Năm 1965, ông được Hội Thánh cử đi du học lần thứ hai, tại trường Đại học Wheaton, Illinois
và tốt nghiệp Cao học (M.Â.) năm 1967. Ngay sau đó, Mục sư tiếp tục đến học Tiến sĩ tại Viện Đại
học Nêw York. Đầu năm 1968, ông trở về nước để nghiên cứu làm luận án Tiến sĩ và tiếp tục giảng
dạy Thần Học Viện Nha Trang.
Năm 1972, ông trở lại New York trình luận án “Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911-
1065” và nhận văn bằng Tiến sĩ rồi trở về Nha Trang cùng năm.
Năm 1972, ông làm Giám Học Viện Thần Học cho đến tháng 4 năm 1975.
Trong những năm hầu việc Chúa tại Thần Học Viện Nha Trang, Mục sư Lê Hoàng Phu đã soạn
nhiều sách,như:
- Thần học Lịch sử.
- Thần học Thánh Kinh.
- Thần học Thực hành.
- Thần học Hệ thống.
- Lịch sử Phấn hưng (ông luôn luôn tha thiết cầu xin Chúa Thánh Linh phấn hưng Hội Thánh
của Ngài).
- Các sách Giải Kinh, như Ga-la-ti,Ê-phê-sô, Phi-líp, Công vụ v.v.
Từ tháng 5 năm 1975,Mục sư Lê Hoàng Phu sang định cư tại Whittier, California và tham gia
các công việc:
240
- Truyền giảng Phúc Âm về Việt Nam, qua đài phát thanh Nguồn Sống;
- Điều hành chương trình Huấn luyện Lãnh đạo dành cho những người hầu việc Chúa tại Việt
Nam;
- Cộng tác trong việc truyền giảng cho đồng bào tại các nước Đông Âu;
- Điều hành chương trình Điện thoại Phúc Âm, dùng điện thoại để truyền giảng tại Bắc Mỹ và
Âu châu;
- Thăm viếng các Hội Thánh, truyền giảng Lời Chúa tại Bắc Mỹ, Âu châu và Úc châu;
- Cộng tác với một số Mục sư Việt và Mỹ mở Thần Học Viện Garden Grove.
- Cộng tác với một số anh em, thành lập Hiệp Hội Truyền giảng Phúc Âm Thế giới.
- Cộng tác với một số anh em, dịch toàn bộ Kinh Thánh thêo phương pháp của Living Bible
International. Tân Ước được xuất bản năm 1982 và toàn bộ Tân Cựu Ước được xuất bản năm 1994.
- Cộng tác với một số anh em trong việc dịch Kinh Thánh thêo phương pháp của Liên Hiệp
Thánh Kinh Hội.
- Từ năm 1995 ông tiếp tục cộng tác trong việc duyệt lại các bản dịch Kinh Thánh trong đó có
Bản Kinh Thánh dịch sát nguyên văn Hy Lạp đã được xuất bản và phổ biến ở Việt Nam từ năm 2006,
chủ yếu dành cho các cuộc truyền giảng, cũng như cho việc nghiên cứu lời Chúa.
Trong thời gian ở Hoa Kỳ, ông đã đi thăm viếng rất nhiều Hội Thánh ở Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu
Úc.Ông cùng với các bạn đồng lao đi truyền giáo ở Đông Âu, Liên Xơ. Ông góp phần huấn luyện rất
nhiều người trở thành người hầu việc Chúa hiện nay ở khắp nơi trên thế giới.
Những ngày tháng cuối đời
Trong thời gian đau yếu không đi lại được, Mục sư Lê Hoàng Phu đã lãnh lấy chức vụ cầu thay
theo tinh thần mà Chúa đã dùng tiên tri Giô-ên kêu gọi các thầy tế lễ “khóc giữa khoảng hiên cửa và
bàn thờ để kêu cầu: ‘Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy tiếc dân Ngài.” (Gio 2:17). Ông liên tục cầu thay cho
các tôi tớ, con cái Chúa, các Hội Thánh Việt lẫn đồng bào sắc tộc tại Việt Nam, cho công cuộc truyền
giảng Phúc Âm khắp thế giới. Dù thân thể ông mòn mỏi, nhưng tinh thần vẫn minh mẫn,sáng suốt.
Ông vẫn nhớ tên nhiều người ở nhiều nơi, nhớ tên từng sắc tộc, dân số,nơi sinh hoạt và Hội Thánh
của họ cũng như nhiều nan đề khác để cầu thay.
06g40 phút chiều thứ năm ngày 30 tháng 1 năm 2003, Chúa đẹp lòng đón Mục sư Lê Hoàng Phu
về ở bên Ngài đời đời.
Lời kết
Mục sư Lê Hoàng Phu không lập gia đình, không có con cái. Chỉ vì ông muốn dâng trọn đời sống,
tâm hồn và thì giờ của mình cho Chúa. Tuy vậy, ông có “nhiều con”, tất cả các cháu của ông đều kính
yêu ông và xem ông cha ruột của mình.
Ông sống một đời sống thanh bạch. Tác phong của ông nghiêm trang, đứng đắn. Dù vậy, ông lại
rất nhạy cảm, cảm thông, chia sẻ với những khổ đau, khốn khó của người khác. Ông là người “lo
trước cái lo của người, vui sau cái vui của người.” Chỉ thấy cái tốt nơi người khác, hầu như không
hề để ý đến cái xấu của ai; lời nói luôn thân mật, dịu dàng, không hề nặng lời, không hề trách mắng
ai, dù họ có lỗi mà chỉ bày tỏ tình thương và cầu xin Chúa cảm hóa họ. Đó là đặc điểm của ông.
241
Tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam có nhiều người như Mục sư Lê
Hoàng Phu,hầu việc Chúa tận lực tận trung, đóng góp lớn lao trong việc xây dựng Hội Thánh, để lại
nhiều tài liệu quý giá trong việc nghiên cứu và học hỏi Lời Chúa.Một Mục sư từ Tây Nguyên đã nói:
“Mục sư Giáo sư là đầy tớ tận trung . . .hiến trọn đời mình cho Chúa, cho Hội Thánh Việt Nam và cho
chúng tôi là thế hệ nối tiếp”.
Có thể nói, tinh thần của Mục sư Lê Hoàng Phu giống như của sứ đồ Phao-lô trong thư Ga 6:14:
“Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe khoang, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jesus Christ chúng
ta; bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh và tôi đối với thế gian cũng vậy.” Ước ao
Chúa dấy lên nhiều Lê Hoàng Phu khác nữa cho Hội Thánh Ngài tại Việt Nam.
(Nguồn:Tiếng nói Phúc Âm, http://www.mytnpa.org, và một số tài liệu khác)
Lê Văn Sanh
242
Mục sư Tiến sĩ ALBERT BENJAMIN SIMPSON
(1843-1919)
Mục sư Tiến sĩ Albert Benjamin Simpson là nhà thần học, nhà truyền giáo và cũng là nhà văn.Ông
sinh năm 1843 và qua đời năm 1919. Xuất thân từ gia đình yêu mến Chúa, ông được Chúa kêu gọi và
quyết định đi học trường Kinh Thánh Knox tại Canada. Sau khi tốt nghiệp năm 1865, ông hầu việc
Chúa tại nhiều Hội Thánh ở Canada và Nữu Ước.
Năm 1885, với khải tượng truyền giảng Tin Lành và đem nhiều người về với Chúa, ông thành lập
Hội Truyền giáo. Ngoài ra, ông cũng thành lập trường Kinh Thánh và Hội Liên hiệp Cơ Đốc. Sau đó,
cả hai hội hợp nhất lại lấy tên là Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp (Christian and Missionary
Alliance) gọi tắt là C&MA.
Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp hoạt động ở 81 quốc gia. Chính Hội đã gởi giáo sĩ Jaffray là
người đầu tiên đem Tin Lành đến Việt Nam năm 1911. Kể từ thời điểm nầy,Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam được hình thành và nhiều người được cứu cả người Kinh lẫn người sắc tộc.
Mục sư Tiến sĩ Â.B.Simpson sinh ngày 15 tháng 12 năm 1843 tại Bayviêw, đảo Prince Edward,
Canada.Ông xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu, yêu mến và kính sợ Chúa.Cha của ông
là James Simpson và mẹ là Janet Clark, cả hai gốc Scotland di cư đến Canada. Lúc còn ở Scotland,
cha ông đã từng làm thợ đóng tàu và sau đó chuyển sang ngành kinh doanh xuất nhập khẩu. Để
tránh thua lỗ trong việc kinh doanh,gia đình ông chuyển đến một trang trại tại Chatham, Ontario,
Canada vào năm 1847. Tại đây, cha ông đã trở thành một người nổi bật trong đời sống cộng
đồng,một trưởng lão được mọi người trong vùng yêu mến và kính nể.
Simpson lớn lên trong một gia đình lễ giáo có nề nếp. Ông rất thông minh, giàu óc tưởng tượng
nhưng cũng rất nhút nhát. Nhờ cách giáo huấn của cha mẹ, ông được học biết về Chúa ngay từ lúc
nhỏ và khép mình trong kỷ luật của gia đình. Cha mẹ mong muốn ông tương lai trở thành mục sư.
Nhưng lúc đó, ông chưa nhận được sự kêu gọi để bước vào chức vụ, mặc dù thừa hưởng một nền
tảng đạo đức tốt từ gia đình. Mỗi sáng ông thường thấy cha mình thức dậy sớm, ngồi bên ngọn đèn
chăm chú đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Hình ảnh này đã ghi khắc sâu vào trong tâm khảm của
Simpson.
Không bao lâu sau,ông được kêu gọi vào chức vụ rao giảng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu
cho người chưa được cứu. Tuy nhiên, trong ông xảy ra một cuộc tranh chiến nội tâm khiến ông phải
suy nghĩ và cầu nguyện. Ông thật sự không muốn trở thành mục sư để làm vui lòng cha mẹ, vâng
theo ý muốn của cha mẹ hay vì muốn bắt chước người khác.Nhưng bởi lòng thương xót và ân điển
của Đức Chúa Trời, Ngài có chương trình tốt đẹp cho đời sống ông. Ngài đã mở đường và tạo mọi
thuận lợi để ông bước vào chức vụ thánh, nhận lãnh những nhiệm vụ quan trọng Chúa giao.
Sau khi hoàn tất bậc trung học, ông học tiếng Hy-lạp và Hy-bá-lai với một mục sư hưu trí và học
giáo lý với mục sư của Hội Thánh ông là William Walkêr. Đồng thời ông đi dạy kèm một thời gian
để kiếm tiền học trường Cao đẳng Thần học Knox ở Toronto.
Tại trường Thần học,áp lực của việc học tập quá lớn làm ông bị suy sụp cả tinh thần lẫn thể
chất.Lúc đó, ông chỉ mới 14 tuổi. Ông nghĩ rằng mình có thể chết bất cứ lúc nào. Tâm trí ông luôn
tràn ngập ý tưởng bi quan, nghi ngờ, không biết chắc có Chúa hay không và cũng không chắc có sự
sống đời đời.
243
Năm 1858, trong thời gian học tập nghiên cứu tại trường thần học, ông đã có một sự thay đổi
quan trọng trong sự hiểu biết về Chúa nhờ đọc quyển “Sự huyền bí thiêng liêng của Phúc Âm”của
Walter Marshall. Quyển sách trình bày rõ ràng về những bước cần thiết để tiếp nhận Chúa Giê-xu
Christ làm Cứu Chúa, tất cả những việc làm khác đều vô nghĩa.Con người được tha tội do tiếp nhận
chỉ một mình Chúa Giê-xu, dựa vào đó để được đầy dẫy Đức Thánh Linh và nhận được một tấm
lòng mới. Thật kỳ diệu, ông nhận biết đây chính là khải tượng mà Thánh Linh của Chúa soi sáng cho
ông. Ông quì xuống dâng đời sống mình cho Đấng Christ, tức thì sự bình an tràn ngập trong lòng và
Lời Chúa trở thành nguồn năng lực và sức sống của ông.
Sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Thần học Knox năm 1865, có hai Hội Thánh mời ông hầu
việc Chúa.Thứ nhất là Hội Thánh Dudas ở thành phố Ontario, một Hội Thánh nhỏ ở vùng nông thôn.
Thứ hai là Hội Thánh Trưởng Lão Knox ở Hamilton, một Hội Thánh có 1.200 tín hữu lớn thứ hai và
có ảnh hưởng nhiều tại Canada. Trong ông lại dấy lên cuộc tranh chiến gay gắt. Ông thiết tha tìm
cầu ý Chúa muốn ông chọn nơi nào để hầu việc Ngài. Cuối cùng, Chúa Thánh Linh cảm động ông
chọn phục vụ Ngài tại Hội Thánh Knox.
Trong suốt 8 năm ông hầu việc Chúa tại Hội Thánh này, Chúa đã thêm vào Hội Thánh 750 tín
hữu mới và Hội Thánh trả hết được số nợ 5.000 trong việc mua đất cất nhà thờ. Có thể nói Mục sư
Simpson là người chăn bầy rất thành công trong suốt những nhiệm kỳ tại Hội Thánh Knox.
Tháng 12 năm 1873,ông được kêu gọi đến hầu việc Chúa tại Hội Thánh Trưởng Lão đường
Chestnut,thành phố Louisville, tiểu bang Kentucky. Tại đây, các chiến dịch truyền giáo rộng rãi trên
toàn thành phố đã làm thay đổi quan điểm của ông trong chức vụ. Các chiến dịch này đêm lại cho
ông một tầm nhìn mới mẻ về công cuộc rao giảng Phúc Âm. Kể từ đó, sứ mệnh truyền giáo là ưu
tiên hàng đầu của ông. Mặc dù nhiều lãnh đạo giáo hội không đồng ý về việc làm của ông, nhưng
các tín hữu thấy sự nhiệt tình và gánh nặng của ông về biết bao linh hồn tội nhân đang kêu la ngày
đêm mà Đức Chúa Trời cho ông thấy qua các khải tượng, nên họ đã yểm trợ ông trong việc tổ chức
một cuộc truyền giảng Tin Lành tại đại sảnh thư viện công cộng.Kết quả là số tín hữu trong Hội
Thánh tăng thêm nhiều đến nỗi Hội Thánh phải tìm chỗ xây thêm một nhà thờ lớn hơn với kinh phí
lên đến 100.000 USD. Nhà thờ đó có tên là “Thê Broadway Tabêrnaclê”.
Ngoài ra, ông cũng thành lập các khu vực truyền giáo trong toàn thành phố để những người
không thể đủ khả năng đến nhà thờ có được nơi nhóm lại. Ông tiếp tục làm việc quá sức mình đến
nỗi cha ông lo lắng cho ông sẽ tự giết mình qua công việc.
Tinh thần truyền giáo của ông lúc nào cũng nóng cháy đến nỗi một đêm nọ, trong giấc chiêm
bao ông thấy có hàng triệu người đang vây quanh ông. Trong số đó có người ở một đất nước Trung
Hoa xa xôi nào đó cũng đến. Ông biết ngay Chúa muốn ông phải làm một điều gì đó qua sự hiện thấy
này. Khi thức dậy, ông liền quỳ gối bên giường và cầu nguyện với Chúa trong nước mắt rằng: “Lạy
Chúa, chính con sẽ ra đi rao báo Tin Lành cho mọi người.”
Sau 5 năm, ông cảm thấy mình đã làm xong tất cả những gì có thể làm ở Louisville, ông nhận lời
mời đến hầu việc Chúa tại Hội Thánh Trưởng Lão ở đường số 13, Nêw York, năm 1879. Tại đây,
ông có cơ hội tìm hiểu và biết có một số đông tín hữu chưa gia nhập giáo hội.Cũng từ trung tâm
chiến lược này, một chương trình truyền giáo đã đưa ông lên địa vị lãnh đạo. Từ đó chương trình
truyền giáo nầy trở thành phong trào truyền giáo quan trọng nhất ở Bắc Mỹ vào thế kỷ 20.
Sau khi hướng dẫn khoảng 100 dân nhập cư người Ý đến với Chúa, hội chúng của ông cảm thấy
đây là “dị tượng truyền giáo” và những cố gắng giảng Tin Lành của ông không phù hợp với truyền
244
thống của giáo hội thời bấy giờ. Vì vậy họ đề nghị ông tìm một Hội Thánh khác để phục vụ. Năm
1881, sau hai năm tại New York, ông xin từ chức vì tin rằng Đức Chúa Trời kêu gọi ông vào công
việc khác.
Sau khi từ chức, ông thành lập một tổ chức riêng nhưng kiên quyết không là một giáo phái mới.
Đầu tiên, ông tổ chức các buổi nhóm truyền giảng độc lập tại thành phố New York. Về sau, ông liên
kết với các các mục sư và tín hữu từ nhiều hệ phái khác nhau để cùng góp phần trong việc rao giảng
Tin Lành cho những người chưa được cứu ở những nơi xa xôi. Như đã nêu, ông không có ý định
thành lập một nhóm tín hữu riêng biệt,nhưng đúng hơn là một sự thông công hoặc một sự cam kết
ràng buộc các tín hữu hiệp lại với nhau để giúp nhau thực hiện sự cam kết với Chúa.
Năm 1882, ông sáng lập Hội Truyền giáo Tin Lành với 35 người cộng tác. Sau một năm, số người
cộng tác tăng lên đến 217. Mỗi tối Chúa Nhật có khoảng 700 thân hữu đến nghe giảng Tin Lành của
Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Năm 1884, Hội Truyền giáo này đã bắt đầu gởi 5 giáo sĩ đi truyền giáo tại Congo (Phi Châu).
Mục sư Simpson và Hội Truyền Giáo đã giữ đúng tôn chỉ của mình là chỉ truyền giảng để đêm
nhiều người đến với Chúa. Họ cho rằng việc Đấng Christ tái lâm phụ thuộc vào việc rao giảng Phúc
Âm của Chúa trên toàn cầu. Để đạt được điều đó, họ thành lập một trường Kinh Thánh và trường
đào tạo các giáo sĩ tại Nyack,Nữu Ước chuyên đào tạo giáo sĩ hải ngoại cũng như cho những ai muốn
học để phục vụ tại quê nhà. Mục sư Simpson phục vụ với tư cách là người hướng dẫn. Ông không
ngừng cầu nguyện cho những người được sai đi và hướng dẫn công việc của họ trong các cánh đồng
truyền giáo.
Năm 1885, Hội Truyền giáo đã đến với những người cùng khổ bị xã hội lãng quên, với phạm
nhân trong các nhà tù. Ông đã giúp thành lập hai hội truyền giáo: Hội Liên hiệp Cơ Đốc chuyên
khuyến khích, dạy dỗ để đời sống tín hữu được trưởng thành, sâu nhiệm hơn; và Hội Liên hiệp
Truyền giáo Tin Lành nhắm vào việc rao giảng Tin Lành cho những nơi đang bị lãng quên trên toàn
thế giới.
Dần dần có đến hàng ngàn người gia nhập vào hai Hội này. Ông thấy cần phải kết hợp hai tổ
chức này với nhau. Vì vậy, ngày 02.04.1897, hai tổ chức này đã hợp nhất lại thành Hội Truyền giáo
Phúc Âm Liên hiệp (Christian and Missionary Alliance, gọi tắt là C&MA).
Trong những năm đầu,C&MÂ như một hiệp hội phi-giáo-hội của các thành viên từ nhiều hệ phái
khác nhau. C&MA không phải là một giáo phái riêng biệt, mà là một nhóm thông công gồm các tín
hữu có chung khải tượng và chung một mục đích rao truyền Tin Lành Cứu rỗi.
Ngày nay, C&MÂ có hơn 18.000 Hội Thánh trên toàn thế giới. Gần 90% ở nước ngoài, tại 81
quốc gia trên khắp các lục địa. Có khoảng 890 nhân viên của C&MÂ cư trú và phục vụ tại 61 quốc
gia. Hàng năm, các Hội Thánh C&MÂ địa phương tổ chức những cuộc hội thảo về các hoạt động
truyền giáo để các giáo sĩ làm chứng lại những gì Đức Chúa Trời đang làm việc tại đất nước mà họ
đang phục vụ. Hàng ngàn giáo sĩ người bản xứ và hải ngoại đang chung sức nỗ lực rao truyền ơn
cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu trên toàn cầu. Mục sư Simpson cũng xuất bản tạp chí "Tin Lành
cho muôn dân", cơ quan truyền thông chính thức của C&MÂ để cổ vũ cho công tác truyền giáo trên
thế giới.
Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp là tổ chức đã gởi giáo sĩ Jaffray, người tiên phong đêm Tin
Lành đến Việt Nam vào mùa xuân năm 1911. Bắt đầu từ thời điểm đó, Tin Lành được rao giảng ra
245
trên khắp mọi vùng đất nước Việt Nam, vô số người biết đến Tin Lành, nhiều người được cứu, cả
người Kinh và người dân tộc, nhiều nhà thờ đã được dựng lên để thờ phượng Đức Chúa Trời.
Năm 1910, Mục sư Simpson tuy đã yếu sức, nhưng ông vẫn thường đi thăm viếng các Hội Thánh,
các cơ sở của Hội Truyền giáo, hiệp chung với các lãnh đạo địa phương để đẩy mạnh công tác của
Hội. Ông sốt sắng cầu nguyện, động viên các bạn đồng lao, tín hữu tích cực hơn trong công tác cứu
vớt tội nhân. Ông đã tìm mọi cách để đến với những người bị lãng quên và những người chưa được
cứu. Đến khi tuổi trên 70, ông không còn đủ sức để đi nhiều nơi như trước nữa.
Ngày 28.10.1919, Mục sư Simpson ngồi ở tư thất trong tình trạng mệt nhọc để tiếp chuyện với
giáo sĩ Judgê Clark từ Jamaica trở về. Hai người đã cầu thay cho công việc Chúa tại Jamaica và nhất
là cho chức vụ của giáo sĩ và bà Hêorgê H. Â. Ucllarê đang phục vụ Chúa cách gian khổ tại đó. Sau
khi từ giã người bạn đồng lao của mình, ông bị bất tỉnh rồi rơi vào tình trạng hôn mê không hồi
phục.
Rạng sáng ngày 29.10.1919, nhà lãnh đạo và cũng là người sáng lập Hội Truyền giáo Phúc Âm
Liên hiệp nghỉ yên trong Chúa. Lễ tiễn đưa ông về cõi vĩnh hằng đã được tổ chức trọng thể, trang
nghiêm và cũng thật cảm động tại nhà thờ The Gospel Tebernacle trong sự chứng kiến của hàng
trăm Mục sư, Giáo sĩ, tín hữu và nhiều bạn bè. Thi hài ông được an táng trên một ngọn đồi trong
khuôn viên của Trường Thần học Nyack.
Các thành viên trong gia đình nhớ lại, những lời cầu nguyện cuối cùng của ông với Chúa là dành
cho tất cả các giáo sĩ mà ông đã gởi đi khắp thế giới. Cho đến giây phút cuối, Mục sư Simpson vẫn
tận tâm, tận hiến với Cứu Chúa yêu thương và với tất cả những người dám đêm sứ điệp Tin Lành
đến cho một thế giới đang bị chết mất trong tội lỗi. Mục sư Tiến sĩ Âlbêrt Bênjamin Simpson đúng
thật là một người của khải tượng và đức tin.
Tài liệu tham khảo
1. Thompson, A.E. The Life of A.B. Simpson. Brooklyn, NY; The Christian Alliance Publishing
Company, 1920.
2. Tozer, A.W. A Biography of A.B. Simpson. Wingspread. Christian Pubications,1943.
3. Phu, Lê Hoàng. Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911-1965. Chương trình Thần học Phúc
Âm TEE, 1996.
Xuân Oanh
246
Ông bà Giáo sĩ WOODY và CHARLOTTE STEMPLE
Charlotte Stewart
Charlottê Stêwart sinh ngày 27 tháng 9 năm 1937. Cha là Carlos Harrison Stewart và mẹ là
Charlotte Ruth Leppe Stewart sống ở Akron, bang Ohio (Mỹ). Cha mẹ “Carlos và Ruth” là tín hữu có
đức tin mạnh mẽ nơi Chúa và thường xuyên thờ phượng tại Hội Thánh địa phương của Hội Truyền
giáo Phúc Âm Liên hiệp (C&MA) gọi là "Hội Thánh ở phố Brown". Carlos Harrison Stewart được
sinh ra ở Argentina (Nam Mỹ),nơi mà cha mẹ của ông đã từng làm giáo sĩ tại đó. Mẹ của ông được
Tiến sĩ Â.B.Simpson, người sáng lập C&MA, gửi đi truyền giáo. Carlos là một thợ in chuyên nghiệp.
Ruth được sinh ra và lớn lên ở St. Louis, Missouri (Mỹ), và khi lớn lên trở thành một giáo viên tiếng
Pháp và tiếng Anh. Họ gặp nhau tại một trại hè C&MA tại Ohio và chẳng bao lâu sau họ kết hôn với
nhau.
Charlottê là con gái đầu lòng trong ba người con gái của Carlos và Ruth.Bà lớn lên trong một gia
đình tin kính Chúa và đều đặn đến nhà thờ từ khi còn thơ ấu. Mỗi ngày cha mẹ bà đều có giờ cầu
nguyện cùng với các con. Họ thường xuyên dâng một phần mười thu nhập của họ, và tham dự tất
cả các buổi nhóm trong Hội Thánh, kể cả nhóm cầu nguyện, các buổi nhóm phụ nữ và các buổi hội
nghị truyền giáo. Họ gửi bà Charlottê đến trại hè Kinh Thánh vào năm bà được tám tuổi; chính nơi
đó bà đã dâng đời sống mình cho Chúa và cũng cho việc hầu việc Chúa như là một giáo sĩ. Bà không
hề lay động trong sự hiểu biết về sự kêu gọi của Chúa trên cuộc đời mình. Bà lớn lên trong đức tin
qua việc cầu nguyện hàng ngày, qua việc học Kinh Thánh và việc nhóm lại với ban thanh niên của
mình. Ngay trước năm học cuối của bậc trung học,tại trại hè Kinh Thánh, một lần nữa bà được nghe
một sứ điệp rõ ràng về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Bà xin gặp Mục sư và yêu cầu ông cầu nguyện
cho mình và giúp bà biết làm thế nào để sống với quyền năng của Chúa Thánh Linh. Khi xong bậc
trung học, Charlotte tiếp tục theo học một khóa đào tạo y tá trong ba năm ở Chicago, Illinois. Sau
đó bà trở thành một sinh viên tại trường Đại học Truyền giáo Nyack ở New York. Tại trường, bà
gặp Woody, chồng tương lai của bà.
Woodford Clair Stemple,Junior
Woody là con cả trong gia đình có sáu người con, ba trai và ba gái. Cha của ông tên là Woodford
Clair Stemple, Senior (cha) lớn lên tại tiểu bang West Virginia và ở tuổi hai mươi đã đến
Pênnsylvania để tìm việc làm. Mẹ ông, Allie Cox, làm việc ở thị trấn nơi ông sống và họ đã gặp nhau
rồi cùng "chạy trốn với người yêu" để cưới nhau. Cả hai ông bà đều làm việc chăm chỉ, nhưng không
biết Chúa. Khi Woody ra đời, ông được đặt theo tên của cha mình, vì vậy, ông được gọi là Woodford
Clair Stemple, Junior (con).
Woody và em trai của ông được cho phép đi nhà thờ cùng với những đứa trẻ láng giềng. Khi
ông được 11 tuổi, gia đình ông chuyển đến thành phố Salt Lakê (Utah) để tìm việc làm. Đây là trung
tâm của đạo Mormon, vì vậy, ông và êm trai đi thờ phượng cùng với các bạn láng giềng thêo đạo
Mormon. Woody dù là trẻ con nhưng đã đủ tuổi để được nhận phép báp-têm thêo điều lệ của đạo,
do đó, ông tham dự học về đức tin Mormon, chịu phép báp-tem tại đền thờ Mormon ở Salt Lake
(một nơi thánh dành cho những người thêo đạo Mormons) và được thừa nhận vào Hội Thánh Latter
Day Saints (tên chính thức của tổ chức Mormons tại đây). Một năm sau, vì nhớ quê nhà nên gia đình
ông chuyển về lại Pennsylvania. May mắn thay, ở đó không có nơi thờ phượng của Mormon, vì vậy
Woody không tiếp tục theo Mormon nữa mà bắt đầu đi đến các nhà thờ địa phương trở lại cùng với
các bạn láng giềng.
247
Một ngày nọ, khi Woody được khoảng 15 tuổi, một người cùng làm việc với cha ông mời cha
ông và gia đình đến tham dự một buổi nhóm truyền giảng tại Hội Thánh C&MÂ địa phương. Họ
sống gần đó, nên quyết định đi. Tại đó, lần đầu tiên họ được nghe về chương trình cứu rỗi của Đức
Chúa Trời. Thầy truyền đạo đã dùng Lời Chúa trong sách Tin Lành Giăng đoạn 3, đặc biệt là câu thứ
16 để giải thích Phúc Âm cho những người hiện diện trong nhà thờ. Cha, mẹ, em trai của Woody và
ông đã bước lên phía trước quỳ gối tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình. Từ đó, ông trở
thành thành viên tích cực trong nhóm thanh niên, tích cực nghiên cứu Lời Chúa cách cá nhân và
cầu nguyện. Sau khi hoàn tất bậc trung học, ông quyết định đi làm để kiếm tiền mua một chiếc xe
hơi và có lẽ sau đó sẽ vào đại học. Ông làm việc hai năm cho một công ty sản xuất nước nho ép. Sau
đó xin đến làm việc như một người học nghề tại Gênêral Elêctric. Nơi đây đã cho ông một nền giáo
dục đại học và đào tạo ông trở thành một kỹ sư.
Mùa hè trước năm cuối cùng của ông tại Gênêral Elêctric, Woody đến tham gia trại hè của Hội
Thánh với tư cách là một cố vấn cho thanh niên. Tại tuần trại đó, Chúa đã kêu gọi ông dâng đời sống
mình cho công việc Ngài trong chức vụ mục sư. Trong ông có sự tranh chiến kịch liệt giữa sự kêu
gọi của Chúa với tương lai mà ông đã hoạch định khó có thể từ bỏ. Nhưng Đức Thánh Linh của Chúa
đã làm việc trong lòng ông. Hai tháng sau ông từ bỏ kế hoạch và công việc của mình để ghi danh
vào trường Đại học Nyack. Tại đây ông gặp Charlotte.
Đồng hành hầu việc Chúa
Sau khi Charlotte tốt nghiệp Cử nhân Truyền giáo năm 1961, chàng thanh niên Woody 25 tuổi
và cô thiếu nữ Charlotte 23 tuổi đã kết hôn với nhau ngày 25 tháng 8 năm 1961 tại Hội Thánh nhà
của Charlotte ở Âkron. Sau đó hai người trở lại Nyack để Woody hoàn tất chương trình Cử nhân
Thần học và sau đó tiếp tục vào chủng viện. Trong khi đó Charlottê làm y tá tại một bệnh viện địa
phương.
Trong thời gian đó,hai ông bà tham gia hầu việc Chúa với chức vụ Truyền đạo Đặc trách Thanh
niên tại một Hội Thánh C&MA ở West Hartford, Connecticut.
Sau đó, trong hai năm 1963-1964, hai ông bà là "Truyền đạo sinh" hầu việc Chúa trong một Hội
Thánh C&MA lớn ở Toledo, bang Ohio. Tại đây, hàng tuần ông bà nghiên cứu và giảng dạy về các
vấn đề ảnh hưởng đến đời sống truyền giáo và sự kêu gọi.
Cuối cùng, sau khóa đào tạo ngôn ngữ đặc biệt ở Toronto, Canada, ông bà được chỉ định đến
Việt Nam với tư cách là các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (C&MÂ).Ông bà đến Sài
Gòn vào tháng 10 năm 1964 và được phái đến thành phố Đà Nẵng để học tiếng.
Các chi tiết về chức vụ đa dạng của ông bà Stêmplês được bà kể lại trong một quyển sách có tựa
đề "Việt Nam của tôi" và được xuất bản vào mùa thu năm 2010.
Sau một năm học tiếng tại Đà Nẵng, ông bà di chuyển đến tỉnh Quảng Ngãi để sống và phục vụ
trong ba năm nữa. Trong thời gian này, tại Hội đồng Truyền giáo hàng năm ở Đà Lạt, ông Woody
được Ban Lãnh đạo Đoàn Truyền giáo tấn phong Mục sư Giáo sĩ. Mục sư Robêrt Ziêmêr là người đỡ
đầu trong việc phong chức cho Woody, một năm trước khi mục sư Robêrt Ziêmêr bị giết trong cuộc
chiến Tết Mậu Thân tại Ban Mê Thuột.
Ông bà Stemples hoạt động bên cạnh Hội Thánh Tin Lành, hầu việc Chúa giữa những người tị
nạn, giảng dạy thiếu nhi và thanh thiếu niên, thăm viếng tù nhân và truyền giáo. Mục sư và bà Lê
248
Châu cùng với 5 mục sư “ngoại thành” và các bà đã trở thành bạn, thành giáo viên và thành đồng
nghiệp tuyệt vời của ông bà.
Con trai lớn của ông bà là Stêwart David Stêmplê được sinh ra ở Sài Gòn ngày 27 tháng 4 năm
1966 và được đưa về Quảng Ngãi. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân xảy ra và Quảng Ngãi bị chiếm giữ
trong một thời gian ngắn trong thời gian ông bà ở Quảng Ngãi. thành phố của họ bị chiếm lấy trong
một thời gian ngắn là một kinh nghiệm sâu sắc đối với ông bà. Hội Truyền giáo yêu cầu tất cả các
giáo sĩ nữ và trẻ êm con cái giáo sĩ người Mỹ và Gia Nã Đại rời khỏi đất nước, hoặc đến Thái Lan,
hoặc trở về gia đình họ trong thời gian ít nhất một tháng. Do đó, Charlottê và bé Stêwart 2 tuổi qua
Thái Lan ở đúng một tháng. Sau đó bà trở về “quê hương” Quãng Ngãi với ông. Trải qua bốn tháng
nữa làm việc cùng với các truyền đạo, ông bà được nhìn thấy một nhà thờ mới được xây dựng, được
cung hiến và vui mừng cảm nhận Chúa ban phước cho chức vụ. Sau đó ông bà trở về Hoa Kỳ một
năm để lo cho gia đình và các công tác khác tại các Hội Thánh quê hương của ông bà.
Trong thời gian một năm ở Ohio, Woody đi thăm các Hội Thánh bảo trợ để báo cáo lại mục vụ
của ông bà, tìm kiếm người cầu thay và tìm thêm người tài trợ cho công việc của Hội Truyền giáo.
Cũng trong năm này, con trai thứ hai của ông bà là Samuêl Cox Stêmplê chào đời.
Tháng 9 năm 1969,gia đình Stêmplês gồm bốn người trở lại Việt Nam. Ông bà được bổ nhiệm
đến thành phố Đà Nẵng hầu việc Chúa cùng với Chủ nhiệm Địa hạt là Mục sư Nguyễn Xuân Vọng
trong việc đào tạo nhân lực, hỗ trợ các mục sư và các giáo sĩ thuộc đoàn truyền giáo ở 6 tỉnh Địa
hạt Bắc Trung phần. Một lần nữa ông bà lại dành nhiều thời gian và tâm trí cho người tị nạn trong
những năm chiến tranh khốc liệt.Các thương binh, bệnh binh tàn tật hay đang nằm bệnh viện cũng
là trọng tâm của ông bà. Ông bà cũng có các dự án lớn là xây dựng một nhà sách và cơ sở địa hạt
với sự giúp đỡ của các ân nhân. Nhiều cơ quan cứu trợ Cơ Đốc muốn giúp đỡ Hội Thánh trong
những tháng ngày khó khăn và ông bà là người liên lạc giữa họ với Hội Thánh. Bà Charlotte còn
tham gia đào tạo y tá tại Bệnh viện Nhi ở địa phương.
Hai con của ông bà là Stewart và Sam lớn lên mau chóng ở Đà Nẵng và cả hai đều thông thạo
tiếng Việt cũng giống như tiếng Ânh. Khi Stêwart lên năm, cậu học ở một trường mẫu giáo địa
phương, và mùa thu năm 1972 cậu đến nội trú tại "Trường Đà Lạt" tại Penang (Malaysia) và là học
sinh lớp đầu tiên của Trường. Trường Đà Lạt lúc đầu được xây dựng tại Đà Lạt, là trường nội trú
dành cho con cái giáo sĩ, giảng dạy bằng tiếng Anh. Do chiến tranh càng lúc càng nặng nề, Đại sứ
quán Hoa Kỳ đề nghị trường di chuyển khỏi đất nước vào năm 1965, vì họ cảm thấy tập trung như
vậy là nguy hiểm, không thể bảo vệ. Do đó, trường di chuyển đến Bangkok (Thái Lan),sau đó đến
Cao nguyên Cameron (Malaysia) và cuối cùng là Pênang (Malaysia). Trường vừa mới được chuyển
đến Penang thì Stewart nhập học. Trường vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
Bốn năm sau, ông bà trở về quê nhà một năm để lo cho gia đình. Năm này hiệp định hòa bình
Paris được ký kết, người Mỹ rời khỏi chiến trường, nhưng chiến tranh vẫn đang lêo thang từng
ngày. Từ tháng 7.1973 đến tháng 8.1974, ông bà dù sống ở Ohio nhưng vẫn đi khắp nước Mỹ để
khuyến khích các Hội Thánh hoàn thành đại mạng lịnh của Đấng Christ. Ngay trước khi dự định
quay trở lại Việt Nam, Hội Truyền giáo hỏi ông bà có muốn nhận hai năm nhiệm vụ tại trường Đà
Lạt hay không. Hội thiếu người chăm sóc con cái giáo sĩ và giúp đỡ chúng trong con đường tin kính.
Hội hứa với ông bà chỉ khoảng hai năm mà thôi. Lúc đầu ông bà từ chối, nhưng sau nhận ra rằng
chính Chúa đã phán bảo với ông bà qua các nhà lãnh đạo nên ông bà nhận lời. Ông bà được hứa là
ông bà có thể trở về vào dịp Giáng sinh năm đó (1974) để thăm bạn bè và thực hiện một nhiệm vụ
ngắn mà ông bà đã định làm.
249