Vì vậy, khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất vào mùa hè năm 1975, ông bà đang phục vụ tại
Malaysia. Hầu hết tất cả các giáo sĩ đồng lao của ông bà rời khỏi đất nước. Chỉ còn năm người trong
số họ ở lại. Họ bị bắt tại Ban Mê Thuột cùng với 3 nhân viên của Viên Ngôn ngữ Mùa Hè (SIL). Các
giáo sĩ C&MÂ bị bắt là Norm và Joan Johnson,Dick và Lil Phillips, và Betty Mitchell. Nhiều người
trong số các giáo sĩ đã rời khỏi Việt Nam đến Malaysia và ở lại trong một khách sạn gần Trường Đà
Lạt để chờ con cái của họ kết thúc học kỳ. Mỗi buổi chiều họ đều đến trường và ông bà Stemples
cũng đến gặp tất cả họ để nghe kể về những ngày cuối cùng của họ tại Việt Nam. (Về sau, tất cả các
gia đình này được sắp xếp để đến hầu việc Chúa ở các nước khác hoặc trở về Hoa Kỳ). Cuối học kỳ
năm đó, tất cả các gia đình này trở về Hoa Kỳ cùng với các con của các giáo sĩ bị bắt. Các cháu được
gửi lại cho các thành viên gia đình gần nhất của họ. Ông bà vô cùng xúc động khi được tin các giáo
sĩ bị bắt giữ đã được trả về sau 8 tháng trên đường mòn Hồ Chí Minh và ở Hà Nội như là các tù nhân
chiến tranh. Họ đã ghé qua Bangkok, sau đó về đến Hoa Kỳ và một cuộc hội ngộ tuyệt vời với con
cái và các thành viên trong gia đình của họ.
Ông bà đã không thể trở lại Việt Nam như đã hoạch định và vẫn ở lại Malaysia phục vụ tổng
cộng sáu năm. Ông Woody trở thành tuyên úy và sau đó làm Hiệu trưởng của trường. Trong khoảng
thời gian này ông cũng lấy được bằng Thạc sĩ Thần Học của trường Đại học Thần học Trinity tại
Singapore.
Năm 1980, ông bà về quê nghỉ ngơi và lo cho gia đình thêo định kỳ. Chúa đã dẫn đưa ông bà vào
chức vụ mục sư của một Hội Thánh ở miền tây New York. Hội Thánh tuy không lớn nhưng ông bà
cũng đã có thể gửi hơn 20 thanh niên đi để được huấn luyện cho chức vụ ở trong nước hoặc ở hải
ngại.
Sau gần bốn năm hầu việc Chúa tại Hội Thánh này, ông Woody đã bất ngờ được bầu làm Chủ
nhiệm Địa hạt Đông Bắc Hoa Kỳ của C&MÂ và ông bà đã đảm nhiệm chức vụ này trong 9 năm. Suốt
những năm hầu việc Chúa trong Hội Thánh và Địa hạt, bà Charlotte quay trở lại chức vụ của mình
là giúp đỡ phụ nữ Mỹ và dẫn dắt họ đi ra truyền giáo. Bà là Giám đốc Địa hạt đầu tiên của Hội Phụ
nữ Liên hiệp,sau đó là Phó Giám đốc rồi Giám đốc Toàn quốc. Bà phục vụ cho Hội tổng cộng 18 năm.
Ông Woody cũng tiếp tục học và nhận được học vị Tiến sĩ Mục vụ tại Chủng viện Luther Rice.
Sau ba nhiệm kỳ làm Chủ nhiệm Địa hạt, ông đã đồng ý một lần nữa trở lại là mục sư của một
Hội Thánh địa phương ở Cleveland, Ohio. Ông bà thấy được sự hướng dẫn của Chúa từng bước một.
Năm 2000, Văn phòng Hội yêu cầu bà Charlottê tư vấn cho các đoàn truyền giáo ngắn hạn. Bà
đã thực thi nhiệm vụ này từ nhà mình ở Cleveland, mỗi tháng một lần bà đến Văn phòng Toàn quốc
của Hội ở Colorado và ở lại trong suốt một tuần. Đối với bà, đây là một cơ hội và nhiệm vụ thú vị và
bà đã đảm nhiệm suốt trong ba năm. Bà được trường Đại học Nyack, ngôi trường cũ của bà, trao
tặng bằng Tiến sĩ danh dự. Chúa đã ban cho bà khả năng diễn thuyết và bà đã đi đến từng Địa hạt
của C&MÂ cũng như đi đến hơn 45 quốc gia để diễn thuyết.
Năm 2001, ở tuổi 66,ông Woody tìm được một mục sư có khả năng thay thế chức vụ của ông
tại Hội Thánh mình và quyết định nghỉ hưu. Ông bà chuyển đến một ngôi nhà nhỏ ở Vermilion,
Ohio, nằm trên phần đất của một trung tâm hội nghị của C&MA. Ở đó ông bà được Trung tâm mời
làm việc bán thời gian, vận động về công cuộc truyền giáo cho toàn địa hạt. Điều này có nghĩa là
ông bà đảm nhận công việc khuyến khích và hỗ trợ cho gần 100 Hội Thánh ở địa hạt của ông bà làm
cách nào để phát triển các đoàn truyền giáo, để tổ chức các buổi hội nghị, và làm thế nào để cầu
nguyện cho các đoàn truyền giáo có hiệu quả. Ông đã mời các mục sư trong các đoàn truyền giáo
ngắn hạn cho những cánh đồng truyền giáo đến thuyết trình để cho Hội Thánh nhìn thấy công việc
250
Chúa trên toàn thế giới. Ông bà cũng làm công việc tuyển chọn thanh thiếu niên cho mục vụ Đời
sống Đa văn hóa. Ông bà cũng vẫn đi diễn thuyết và tham gia giảng dạy khi được mời. Bà Charlotte
được bầu vào Hội đồng Quản trị của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên Hiệp và phục vụ ở vị trí đó trong
8 năm.
Hiện nay, con trai lớn của ông bà là Stêwart đang sống tại Hồng Kông, là một chuyên gia tư vấn.
Cậu đến châu Á vào năm 1990 và trải qua một số năm làm việc tại Việt Nam; một lần tại Hà Nội và
một lần tại TP. HCM. Khi ở Hà Nội, Chúa cho phép cậu thành lập Hội Thánh Thông Công Quốc Tế Hà
Nội cho các tín hữu nước ngoài xa xứ. Hội Thánh này hiện vẫn đang nhóm lại tại một khách sạn ở
Hà Nội. Hầu hết hoạt động của cậu là ở Trung Quốc. Năm 2008, chính phủ Trung Quốc yêu cầu cậu
mang ngọn đuốc ở tỉnh XiaMên đến Thế vận hội Olympics, đó là một vinh dự lớn. Cậu thường hướng
dẫn thờ phượng Chúa trong Hội Thánh của cậu ở Hồng Kông. Cậu đã lấy câu chuyện những chuyến
đi và các mối liên hệ của cha cậu là ông Wood như là một nền tảng cho việc làm chứng về tình yêu
thương của cậu đối với Chúa Giê-xu. Cậu yêu Châu Á và hy vọng tiếp tục sống và làm việc tại Trung
Quốc, như Chúa hướng dẫn.
Con trai út của ông bà là Samuel, hiện đang sống tại Đức cùng với vợ là Jennifer và các con là
Jordan (1995), Ellie (1997), Matthew (2003), và Katie (2004). Sam là tuyên úy tại Black Forest
Academy, một trường nội trú dành cho con của các giáo sĩ tọa lạc tại Kandêrn (Đức). Cậu được Hội
C&MA hỗ trợ. Ông bà thích thăm viếng các con và các cháu ở đó và biết ơn Chúa vì con cháu của
ông bà đều yêu mến Chúa.
Hiện nay ông bà có một nơi cư trú mùa hè ở Ohio và một nơi cư trú mùa đông ở Florida, vì vậy
ông bà có thể hưởng điều tốt nhất của tất cả các mùa. Ông bà sống trong cộng đồng Cơ Đốc ở cả hai
nơi và tiếp tục phục vụ Chúa bằng việc diễn thuyết, cố vấn, giảng dạy và viết lách. Năm 2010, bà
Charlotte xuất bản một quyển sách tựa đề là “Việt Nam của tôi” và ông bà cầu nguyện rằng đó cũng
sẽ là một lời chứng.
Chúa đã ban cho cả hai ông bà, mỗi người một "câu gốc của đời sống" từ Kinh Thánh:
Câu gốc của bà Charlottê là Giăng 15:16 "Chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và
lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: Lại cũng cho mọi
điều các ngươi sẽ nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi."
Còn câu gốc của ông Woody là Thi 40:8 "Hỡi Đức Chúa Trời tôi, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý
muốn Chúa. Luật pháp Chúa ở trong lòng tôi."
Xuân Oanh
Tháng 2 năm 2011
251
Mục sư ĐẶNG VĂN SUNG (1924 – 1975?)
Và bà DIỆP THỊ DO (1924 – 2008)
Đối với tín đồ người S’Tiêng tại Phước Long (Bình Phước), bà quả phụ Mục sư Đặng Văn Sung là
một người gần gũi đến nỗi được họ gọi bằng tiếng “má” thân thương.Phước Long là nơi đã ghi dấu
những ngày tháng gian khó gieo hạt giống Tin Lành của ông bà. Trải qua bao nhiêu thăng trầm và
thử thách, có thể nói Hội Thánh Phước Long là Hội Thánh lớn nhất của người S’Tiêng hiện nay.
1. Thuở thiếu thời
Ông Mục sư Đặng Văn Sung sinh năm 1924 tại Long Hựu, Long An, còn bà tên là Diệp thị Do
sinh ngày 17 tháng 3 năm 1924 tại Sóc Sãi, Bến Tre. Bà là con của ông bà Mục Sư Diệp Văn Cẩn,
thuộc hàng thế hệ đầy tớ Chúa đầu tiên của Hội thánh Sóc Sãi (nay gọi là Tiên Thủy), tỉnh Bến Tre.
Thuở nhỏ bà theo cha mẹ đi hầu việc Chúa ở nhiều nơi, được học hỏi lời Chúa rất nhiều. Năm
1935 bà đã tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của đời sống mình. Đến năm 1938 bà theo cha mẹ
đi hầu việc Chúa tại Hội thánh Cần Đước, Long An.
2. Được Chúa kêu gọi
Từ năm 1941 - 1942,bà theo học lớp Kinh Thánh Tiểu Học Đường tại Cần Thơ. Tại đây, bà gặp
ông Đặng Văn Sung. Qua thời gian tìm hiểu, ông bà quyết định tiến đến hôn nhân và kết hôn vào
ngày 8 tháng 6 năm 1942. Được gặp ông Đặng Văn Sung, một người có đồng tâm tình hầu việc Chúa
với người dân tộc tại cao nguyên giống như mình, là một món quà lớn mà Chúa đã nhậm lời cầu xin
từ khi bà còn là một thiếu nữ. Sau đó khi kết hôn, ông bà về sinh sống tại làng Long Hựu, Cần Đước,
Long An.
Năm 1948 ông ra học trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng, bà phải ở nhà làm ruộng để có tài chính
nuôi ông. Đến năm 1949 ông học năm thứ hai, bà ra học năm thứ nhất.
Năm 1951, ông tốt nghiệp, còn bà vì có mang nên không thể tiếp tục học. Sau đó ông bà dâng
mình hầu việc Chúa với đồng bào dân tộc Ra-đê tại Ban Mê Thuột.
Đến năm 1953, ông bà tham gia công tác truyền giáo cho đồng bào M’Nông tại Quảng Đức. Sau
đó bàn giao lại công việc tại đây cho ông bà Mục sư Lê Khắc Cung để nhận nhiệm vụ truyền giáo
cho người S’Tiêng tại Bà Rá do Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp phái đi.Đây là vùng đất mới, việc
rao giảng Tin Lành sẽ rất khó khăn nhưng ông bà vẫn rất quyết tâm: “Phàm nơi nào Chúa sai ông
bà đi thì ông bà cứ đi”.
3. Truyền giáo cho người S’Tiêng ở Phước Long
3.1.Sơ lược về Phước Long và dân tộc S’Tiêng
3.1.1.Vùng đất đỏ Bà Rá – Phước Long
Phước Long thuộc vùng cao nguyên miền Đông là một huyện cũ thuộc tỉnh Bình Phước, cách
thành phố Hồ Chí Minh khoảng 200 km. Nơi đây có một trong ba ngọn núi cao nhất Nam Bộ là ngọn
núi Bà Rá nổi tiếng. Thuở sơ khai Phước Long là vùng “rừng thiêng nước độc”,địa hình hiểm trở.
Thời Pháp thuộc, nhắc đến Bà Rá ai cũng giật mình, vì là nơi thực dân Pháp dùng để giam tù chính
trị (năm 1925 thực dân Pháp cho xây tại chân núi một nhà tù rất lớn). Âi đến đó thì một đi không
trở lại, vì nếu không bị thú dữ ăn thịt thì cũng bị sốt rét rừng mà chết.
252
Thời chiến tranh,nơi đây đi lại rất khó khăn, từ Phước Long về Sài Gòn chủ yếu vận chuyển bằng
đường hàng không. Cuộc sống người dân vô cùng khổ sở, cả vật chất lẫn tinh thần. Đồng bào dân
tộc sống trong các sóc, người ngoài rất khó tiếp cận.
3.1.2.Đồng bào dân tộc S’Tiêng
Người S’Tiêng còn được gọi là Xa Điêng hay Xa Chiêng. Dân tộc S’Tiêng cư trú chủ yếu tại các
tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh và Bình Phước. Tại Bình Phước người S’Tiêng là tộc người cư
trú sớm nhất, họ sống xen kẽ, tiếp xúc với người Khmêr, người Chăm và người M’Nông. Có hai nhóm
người S’Tiêng:
- Nhóm Bù Đêk: sống ở vùng thấp, sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước.
- Nhóm Bù Lơ: sống ở vùng cao, chủ yếu làm rẫy. Họ sống gần người Mạ và người M’Nông
Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vì thế đối với người S’Tiêng đất đai là một tư liệu sản
xuất quan trọng.
Người S’Tiêng rất mê tín dị đoan. Trong quan niệm sơ khai của họ, ngoài thế giới của con người
đang sống còn có nhiều thế giới của thần linh ma quỷ, của người đã chết. Người S’Tiêng có nhiều vị
thần, hầu hết các vật đều có thần mà họ gọi là “Yang”. Các thần linh ngự trị bên trên mặt đất, trong
không gian và ngay cả trong lòng đất.Các vị thần chịu trách nhiệm cai quản những gì thuộc về khu
vực hoặc liên quan đến mình, một mặt giúp đỡ con người trong đời sống, mặt khác sẽ trừng phạt
những kẻ độc ác xâm phạm đến thần linh bằng cách gây ốm đau bênh tật. Nên họ rất sùng bái tự
nhiên. Đất có thần đất (yangter) ngự trong lòng đất. Rừng có thần rừng (yangpri) sinh sống trong
những khu rừng thiêng. Họ nhắc nhiều đến “Yangpri”.Đây là vị thần được người S’Tiêng sùng bái
trong trường hợp bất trắc cần được giúp đỡ. Vì họ cho rằng Yangpri có quyền lực vô biên, quyết
định sự sinh tồn của mọi người sống trên vùng đất dưới quyền cai quản của thần. Khi vào rừng
phát rẫy thấy tảng đá to thì sợ không phát nữa họ nói ông bà ở đó, thấy cái gò mối họ cũng sợ, bị
bệnh thì họ nói do ông bà bắt.
Họ cũng tin vào đồng bóng. Trong nhà có người đau bệnh thì đêm đến cho các đồng bóng để họ
chữa bệnh.Ban đầu phải cúng gà, nếu không khỏi phải cúng heo, không khỏi nữa thì phải cúng trâu,
cúng cho đến khi khỏi mới thôi. Lắm nhà nghèo không có tiền nhưng muốn người nhà mình mau
khỏi bệnh đã đêm con đi bán để lấy tiền mua gà, mua heo, mua trâu đế cúng. Người S’Tiêng khốn
khổ về vấn đề đau ốm, bệnh tật, và mê tín dị đoan.
Phong tục tập quán của người S’Tiêng rất đa dạng. Họ có tục cà răng, căng tai. Trẻ em từ mười
lăm tuổi trở lên khi đã mọc hết răng thì phải cà răng, vì nếu không thì sau này sâu đục và không còn
răng. Họ còn cho rằng nếu con gái không cà răng thì sau này sẽ không hạnh phúc trong hôn nhân,
người phụ nữ nào không chịu cà răng thì bị xem là không có nhân phẩm. Đối với tục căng tai thì
người S’Tiêng cho rằng nếu không căng tai thì về già sẽ không thông minh, sáng suốt. Ngoài ra còn
có một số tập tục khác: khi xây dựng làng xong cấm khách lạ vào làng trong vòng bảy ngày,hoặc
trong nhà có người sinh con hoặc súc vật đẻ thì cấm người lạ trong vòng 3 ngày, v.v…
Về trang phục đàn ông đóng khố ở trần, đàn bà mặc váy ngắn đến bắp chân, áo chui đầu nhưng
thường ngày họ ít mặc áo mà thích ở trần. Cũng có một số phụ nữ đóng khố như đàn ông.
3.2.Tin lành đến với người S’Tiêng
3.2.1.Thâm nhập vào vùng đất Phước Long
253
Ngày 2 tháng 10 năm 1953 gia đình ông bà Mục sư Đặng Văn Sung cùng một vị giáo sĩ khác tiến
vào vùng đất Bà Rá, bắt đầu công tác chứng đạo đầy khó khăn. Với lòng tin quyết nơi lời Chúa hứa:
“Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến thì ta ban cho các ngươi”. Đến hai giờ chiều thì đến nơi,
trời gần tối mà không có nơi nào để nghỉ tạm qua đêm, trong khi hai con của ông bà còn rất nhỏ
(một lên bốn, một mới hai tháng tuổi). Ông và vị giáo sĩ phải đi kiếm chỗ mướn để dừng chân nghỉ
tạm,còn bà thì cúi đầu cầu nguyện. Cuối cùng ông bà cũng tìm được một cái nhà sàn bốn thước
vuông làm bằng lồ-ô rất lụp xụp. Mặc dù mới sinh có hai tháng nhưng mỗi ngày bà phải bước lên
xuống nhà sàn không biết bao nhiêu lần để nấu ăn và giặt giũ. Mọi phương tiện sinh hoạt cho gia
đình gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc thông tin liên lạc. Muốn liên lạc với bên ngoài phải đi xa
hơn 60 km mới có bưu điện.
Để chuẩn bị cho công tác truyền giáo thật hiệu quả, trước hết ông bà cất một ngôi nhà tranh hai
gian một bếp để ổn định chỗ ở, tiếp đến là học tiếng S’Tiêng. Việc học tiếng gặp rất nhiều khó khăn
vì dân tộc S’Tiêng chưa có chữ viết. Vì họ nhận dạy cho ông bà học tiếng với mức phí là ba ngàn
đồng trong khi Hội Truyền Giáo chỉ cho ông bà có năm trăm đồng nên hai ông bà mượn một cuốn
sách của người Pháp ở đồn điền cao su gần đó để học. Thời gian tiếp theo, ông bà làm quen với
những người buôn bán và người dân nơi đây với phương châm “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”.
3.2.2.Những thử thách ban đầu
Để có thể nói về Chúa cho đồng bào S’Tiêng quả là công việc khó khăn. Trước hết đây là vùng
đất chưa khai phá, chưa có một người nào tin Chúa. Trong khi đó các sóc của đồng bào cách nơi ông
bà ở đến 5, 6 chục cây số, sóc gần nhất cũng đã cách đến 5, 6 cây số.
Đường đi thì đèo dốc,muốn lên dốc phải dẫn bộ còn xuống dốc thì phải thắng cả hai tay và hai
chân. Để đi gặp gỡ đồng bào, ban đầu ông bà đi xê đạp vào, đến rừng sâu thì quăng xê đạp trong
rừng lồ-ô rồi đi bộ. Trong 5 năm đầu tiên ông bà vừa học tiếng vừa làm chứng về Chúa và phải đổ
nhiều mồ hôi, nước mắt. Ông bà đi làm chứng bỏ các con ở nhà, đứa lớn trông đứa nhỏ. Vì đường
xa khó đi, có khi xê bị hư nên có hôm về trễ, các con sợ mà khóc.
Rất khó tiếp cận với người S’Tiêng, mỗi khi các giáo sĩ chở ông bà vào làm chứng thì họ sợ mà
bỏ làng chạy vào rừng chỉ còn ông Tổng làng ở lại. Mọi người phải làm quen với ông Tổng làng sau
đó xin ở lại đến sáng mai khi dân làng trở về mới có dịp nói về Chúa cho họ biết.
Khó khăn nhất là đồng bào nơi đây rất mê tín dị đoan, họ sùng bái tự nhiên và cầu cúng đủ thứ
thần linh. Vì thế nói về Chúa cho họ quả là gian nan.
Bao nhiêu công sức,bao nhiêu mồ hôi nước mắt đã đổ ra cuối cùng ông bà cũng gặt hái kết quả.
Noêl đầu tiên tại vùng đất này (1953) ông bà sắm được một cái đèn Êch-đa, một băng ghế năm chỗ
ngồi và cất được cái nhà tranh, dán được cái đèn ngôi sao trêo lên và mời được năm người đến
nghe giảng. Năm năm tiếp thêo ông bà giêo được “hạt giống” đầu tiên, đó là ông Tổng Môn (già
làng) ở Bình Hà bằng lòng tin nhận Chúa. Sau đó ông bà dạy cho các con ông Tổng Môn về Kinh
Thánh để họ cùng hiệp tác với ông bà trong việc hầu việc Chúa. Tiếp thêo là anh Điểu Joan tại Sóc
Bù Ru tin nhận Chúa. Dần dần qua lời làm chứng, nhiều người tại đây trở lại tin nhận Chúa. Ông bà
cũng dạy họ văn hóa Việt và Kinh Thánh.
3.3.Hội thánh chính thức được thành lập
Năm 1959, ông bà dựng được một nhà nguyện đầu tiên tại Thác Mơ. Đây là nhà nguyện dành
cho người dân tộc, còn người Kinh chưa có Hội thánh nên vẫn nhóm chung với người S’Tiêng.
254
Ông bà Mục sư vẫn tiếp tục làm chứng về Chúa cho đồng bào sắc tộc. Mỗi ngày ông cùng bà ra
đi làm chứng,mang theo một gói bánh, một bình nước, một cái lược và chai dầu Mít-Xu. Ông bà cũng
liên lạc với Bộ Y tế xin thuốc Aspirin, thuốc cảm, thuốc đau bụng, sốt rét để vào làng vừa làm chứng
vừa phát thuốc chữa bệnh cho đồng bào. Chúa cho nhờ uống thuốc này họ khỏi bệnh và không phải
đi viện.
Năm 1960, ông bà mở mang công việc Chúa tại Bù Đăng cách Phước Long 60 km. Sau đó xây
dựng một nhà thờ và khánh thành năm 1960.
Năm 1963, Bù Đốp mất an ninh nên vị giáo sĩ người Mỹ (người cùng ông bà đến Bà Rá năm
1953) dời qua Trung tâm Truyền giáo ở một thời gian. Sau đó ông cùng gia đình về nước để lại công
việc Chúa cho ông bà mục sư tiếp tục lo liệu.
Ông bà vẫn tiếp tục làm chứng về Chúa cho người Kinh và người S’Tiêng, trong hai năm 1962 -
1963 chỉ có một số người Kinh tin Chúa
Đến năm 1968 thì công việc Chúa bắt đầu có nhiều kết quả giữa người Kinh. Vì thế ông bà cầu
nguyện với Chúa và mua được một căn phố ở Phước Long để lo cho đồng bào người Kinh. Rồi ông
bà đề nghị với Địa Hạt bổ nhiệm Mục sư Phan Chí Tâm về hầu việc Chúa tại đây.
Cũng trong năm này ông bà mở một Hội Thánh ở Đồi 320, ngang tỉnh Phước Long, với số tín đồ
hơn 200 người S’Tiêng. Chúa mở đường cho có thầy Truyền đạo Điểu Hiên về thực tập, ông bà có
thêm người phụ giúp lo công việc Chúa cho đồng bào nơi đây.
Năm 1969 ông bà mở trường tiểu học Tin Lành do Hội Hoàn Cầu Khải Tượng tài trợ và mở một
cô nhi viện nuôi khoảng 25 đến 30 êm (đa số là các êm người sắc tộc tại Bù Đăng). Cũng trong thời
gian này Hội thánh người Kinh tách ra khỏi Hội thánh người S’Tiêng để thờ phượng Chúa riêng.
Sau đó ông bà xây cất nhà thờ tại Phước Tín, tín đồ nơi đây có khoảng 600 người. Nhà thờ được
khánh thành ngày 1 tháng 12 năm 1974. Con trai thứ năm của ông bà là thầy Đặng Phước Thành
vừa tốt nghiệp trường Kinh Thánh trở về và được Giáo hội bổ về đây.
Đến tháng 1/1975,sau khi Phước Long được giải phóng, ông Mục sư Đặng Văn Sung được nhà
nước gọi “đi học tập”. Đi cùng với ông còn có con trai thứ mười một là Đặng Phước Long 15 tuổi.
Con ông được cho về với lời dặn “về nói với má con, mấy chú mời ba đi họp ít bữa sẽ về”. Qua hôm
sau con trai thứ ba của ông bà là Đặng Phước Tân 30 tuổi cũng được mời “đi học tập”. Và từ đó ông
và người con thứ ba của mình đã đi mãi không về. Người con trai thứ mười ba thì bị bom đạn mà
qua đời.
Không biết nơi nào trong rừng sâu nước thẳm đã chôn vùi xác của tôi tớ Chúa, người đã trung
kiên tận hiến cả cuộc đời mình cho đồng bào S’Tiêng. Ông ra đi âm thầm lặng lẽ, không lời từ biệt,
không chúc thư, không người đưa tiễn. Ông chỉ để lại một hình ảnh sống động trong lòng vợ con,
người thân và Hội thánh.
Trong giai đoạn này chỉ còn lại một mình bà với một đàn con còn đang tuổi ăn tuổi học, cùng
các em cô nhi. Dù vậy bà vẫn bám trụ và quyết tâm giữ lấy đàn chiên là những thành quả mà bà đã
cùng chồng vất vả gây dựng.
4. Thời kỳ khó khăn – Hội Thánh phát triển
4.1.Thời kỳ khó khăn 1975 – 1980
255
Thời gian đầu sau chiến tranh chỉ còn lại một mình gia đình bà thờ phượng Chúa cùng với vài
ba người Kinh. Sau khi ông m#ục sư bị bắt đi học tập, bà vẫn ở Trung tâm Truyền giáo, còn các tín
đồ dân tộc về làng.
Gia đình ông bà gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, thầy Đặng Phước Thành là lao động chính vì
các em còn quá nhỏ. Thầy làm thợ mộc, còn bà làm lúa trên nửa mẫu ruộng được chia để nuôi gia
đình. Mọi công việc từ gieo giống, nhổ mạ bà đều tự tay làm hết. Mỗi sáng chủ nhật thì phải đi quét
đường nhưng bà được miễn phần đó, vì ngày chủ nhật bà cùng gia đình thờ phượng Chúa.
Mặc dù không có tiền nhưng mỗi năm gia đình bà đều tổ chức lễ Noel. Những anh êm người sắc
tộc yêu mến Chúa vẫn cứ tiếp tục làm chứng về Ngài. Số cô nhi có trình độ văn hóa cũng âm thầm
tìm cách chứng đạo, các tín đồ người sắc tộc sống tản ra các sóc trên tỉnh Bình Phước, dù không
liên lạc được với nhau nhưng họ vẫn nhớ đến nhau trong sự cầu nguyện. Những chấp sự trong Hội
thánh khi đi làm rẫy vẫn cứ làm chứng về danh Đức Chúa Trời. Dù gặp hoàn cảnh khó khăn mọi
mặt nhưng bà và các con cũng như những tín đồ còn lại vẫn hết lòng với công việc Chúa và tin tưởng
nơi Ngài.
4.2.Thời kỳ phục hưng 1980 - 2011
Qua sự chứng đạo thì con cái Chúa bắt đầu nhóm lại, ban đầu nhóm lại tại vườn cà phê nhà bà,
không có điện phải dùng đèn ắc quy và đèn dầu. Chúa cho nhiều người trở lại tin nhận Chúa thông
qua những phép lạ Chúa làm. Chúa chữa bệnh và đuổi quỷ cho những người làm đồng bóng. Như
trên đã nói người S’Tiêng rất mê tín dị đoan nên số người làm đồng bóng rất nhiều. Có một số người
tin Chúa được đuổi quỷ và người ta thấy quyền năng của Chúa thì nhiều người trở lại tin nhận Ngài.
Đồng bào S’Tiêng luôn trung tín nhóm lại, ban đầu số tín đồ ít thì họ tập trung lại tại nhà của
người truyền đạo để học Kinh Thánh. Đến khi số người tin Chúa tăng lên năm bảy chục người thì
họ cùng nhau chặt lồ-ô làm nhà nguyện để thờ phượng Chúa. Phải nói rằng tinh thần yêu mến Chúa
của đồng bào S’Tiêng rất đáng quý, hồi đó để có thể đến được nhà thờ họ phải đi từ chiều thứ bảy,
đến đêm thì ra đến chợ. Rồi họ ngủ lại tại các sạp ở trong chợ để sáng ra đến nhà thờ thờ phượng
Chúa.
Thời gian sau công việc Chúa ngày càng dễ dàng nên có nhiều nhà nguyện được mở trong làng.
Hiện tại Hội thánh Phước Long có tổng số 44 nhà nguyện và một điểm nhóm, gồm 3.096 gia đình
tín hữu. Số tín hữu chính thức đã chịu Báp-têm khoảng 7.000 người.
Năm 1988 bà cùng Hội thánh xây dựng nhà thờ mới rộng lớn hơn để con cái Chúa có đủ chỗ
sinh hoạt.Năm 2007 bà cùng các con cái Chúa khởi công xây dựng khu Cơ-Đốc Giáo dục dùng làm
nơi giảng dạy Lời Chúa cho tín hữu.
4.3.Giai đoạn cuối đời
Trong những năm tháng của tuổi già, sức khỏe của bà ngày càng yếu nhiều lần phải nằm viện
và phải chịu phẫu thuật nhưng Chúa vẫn chữa lành cho bà để bà có thể hoàn thành tâm nguyện hầu
việc Chúa đến hơi thở cuối cùng.
Lễ giáng sinh năm 2007, sức khỏe của bà có phần giảm sút nhưng bà vẫn cùng với các đầy tớ
Chúa lo lắng cho chương trình lễ Giáng sinh. Chúa vẫn thương xót và chữa lành cho để bà hoàn
thành tâm nguyện của mình hầu việc Chúa đến hơi thở cuối cùng. Đó là xây dựng cho Hội thánh
một nơi để đào tạo nhân sự tiếp nối và gây dựng Hội thánh Chúa tại các nhà nguyện.
256
Mỗi ngày với cây gậy bên mình, bà đến với công trình đang xây dựng ngồi ngắm nhìn với nét
mặt vui tươi vì những ước nguyện của mình sắp hoàn thành. Trong những ngày cuối đời bà luôn
khuyên bảo, nhắc nhở các con cháu và Hội thánh cứ vững tin nơi Chúa.
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2008 trên đường đi đến thành phố Hồ Chí Minh để hiệp nguyện với
các bà quả phụ Mục sư, bà bị đột quỵ và Chúa đã cất linh hồn bà về an nghỉ trong nước vĩnh hằng
của Chúa.
Từ 1951 đến 2008, bà đã hầu việc Chúa 57 năm cho đến hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 84 tuổi,
để lại:
- 9 con (6 trai, 3 gái)
- 3 rể, 6 dâu
- 20 cháu nội
- 16 cháu ngoại
- 9 cháu cố nội
- 14 cháu cố ngoại
- Ngoài ra còn có các cô nhi gồm 12 trai, 13 gái (với 113 cháu nội ngoại, 31 cháu cố).
5. Nhìn lại những thử thách trên bước đường hầu việc Chúa
Hơn năm mươi năm hầu việc Chúa, bà Mục sư luôn cảm nhận được tình yêu thương, quyền
năng của Chúa trên chức vụ của ông bà và Hội thánh. Dẫu bà gặp không ít khó khăn, những mất mát
lớn trong gia đình (cùng một thời điểm mà mất chồng và ba con), nhưng đó là cách Chúa tôi luyện
và thử thách đức tin đối với những người hầu việc Ngài.
Ngay ngày nhận nhiệm vụ đi đến Bà Rá, gia đình ông bà gặp thử thách đầu tiên. Trời sắp tối, các
con của ông bà còn nhỏ (con trai lớn bốn tuổi, con trai nhỏ mới sinh hai tháng) mà chẳng có chỗ
nào để trú tạm. Trong khi ông mục sư và vị giáo sĩ đã đi hỏi khắp nơi để mướn chỗ ở mà chẳng có.
Bà đã cúi đầu cầu nguyện: “Lạy Chúa Ngài sai chúng con đến đây, xin Chúa cho chúng con kiếm
được một chỗ tạm che nắng mưa hầu việc Chúa”. Sau đó chồng bà và ông giáo sĩ trở lại báo tin rằng
đã kiếm được một cái gác làm bằng lồ ô bốn thước vuông lụp xụp nhưng cũng có chỗ để chê mưa
tránh nắng.
Cũng trong năm này (1953) ông bà gặp thử thách thứ hai, sau khi dự lễ Noel xong, gần đó có
nhà thờ Thiên Chúa Giáo, ông bà cho hai con ngủ để đến nhà thờ xem lễ. Khi về thấy đèn trong nhà
tắt, ông bà tưởng hết đèn cầy nên đèn tắt, không ngờ đèn cầy cháy hết rồi cháy luôn cả sườn của
đèn, trong khi đèn trêo cách mái tranh có một gang tay. Nếu Chúa không dập tắt ngọn lửa thì nhà
cháy và cháy luôn cả con của ông bà.
Năm 1954, một buổi tối ông bị rắn cắn, một loài rắn cực độc, hễ ai bị rắn này cắn thì chắc chắn
chết.Trong làng có một ông thầy lang ở cách nhà của ông bà chỉ trăm thước, biết thuốc chữa rắn
cắn nhưng trời tối ông không thể vào rừng hái thuốc được. Ông bà chỉ biết dùng dầu thấm bông
gòn bôi vào vết thương và cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong vì mệt quá ông bà ngủ một giấc
đến sáng. Lúc này mọi người xung quanh chạy lại, cả người dân tộc lẫn người Kinh, người Khờ-me.
Thấy ông Mục sư còn sống thì họ ngạc nhiên và nói: “Trời cứu ông! Chúa cứu ông!”. Vì trong cơn
thử thách bà đã cầu nguyện với Chúa: “Chúa ôi! Chúa sai chúng con đến đây để truyền rao Tin Lành,
257
nhưng mà chúng con chưa làm được gì. Nếu Chúa cho nhà con chết thì danh Chúa bế tắc”. Chúa
nhậm lời và chữa lành cho ông.
Thử thách nặng nề nhất là bà mất chồng mất con, mất bầy chiên trong thời gian chiến tranh
loạn lạc nhưng bà vẫn một lòng tin nơi Chúa và cứ tiếp tục hầu việc Ngài. Vì thế công việc Chúa tại
phước Long ngày càng phát triển.
Dù trong mọi hoàn cảnh thuận hay nghịch bà vẫn một lòng trung tín hầu việc Chúa. Bà không
những hoàn thành công việc Chúa giao mà ngay trong gia đình nhỏ của mình bà cũng hết lòng vun
vén, chu toàn. Bà là người vợ yêu chồng, hết lòng giúp đỡ chồng trong công tác hầu việc Chúa. Khi
chồng bà được đưa “đi cải tạo”, bà nén nỗi đau tiếp tục thay chồng hoàn thành ước nguyện hầu việc
Chúa giữa người sắc tộc. Bà là người mẹ thương con. Bà tự tay may áo cho con mặc, khi ông đi cải
tạo, một mình bà gồng gánh làm ruộng nuôi các con. Ngoài ra bà còn hết lòng chăm lo cho các êm
cô nhi. Bà không quên dạy dỗ các con đi trong đường lối Chúa, vì thế Chúa đã sử dụng con trai bà
là mục sư Đặng Phước Thành hầu việc Chúa tại Hoa Kỳ, và thầy Đặng Tín Trung tiếp nối hầu việc
Chúa tại chi hội Phước Long.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng Liên Hội (1971), Tin tức hội thánh, Thánh kinh báo, số 383.
2. Dương Đặng Hương Ly, Tiểu sử bà quả phụ Mục sư Đặng Văn Sung, Viện Thánh Kinh Thần
Học.
3. Đặng Việt Thủy (2009), Hỏi đáp về 54 dân tộc Việt Nam, NXB Quân Đội Nhân Dân.
4. Wêbsitê http://www.mytnpa.org “Tiểu sử bà quả phụ Mục sư Đặng Văn Sung”.
Sau khi hoàn thành, người viết có gửi bài tiểu sử này cho cháu của bà Mục sư Đặng Văn Sung xem
lại nội dung.
Hương Thảo
258
Mục sư NGUYỄN VĂN TẦM
(1909 – 2008)
MS Nguyễn Văn Tầm sinh ngày 01.08.1909 tại Bình
Trị Đông Bình Chánh Tỉnh Gia Định nay thuộc Tp. Hồ
Chí Minh.
Vào năm 15 tuổi tức năm 1924 ông và cụ thân sinh
(cụ Nguyễn Văn Tri) dắt nhau đến nhà thờ Tin Lành
Sài Gòn 155 Trần Hưng Đạo tin nhận Chúa.
Trong cuốn hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ”
của cố MS Lê Văn Thái có nói đến bà gia của Thầy Lê, bà gia đó là bà nội của ông, tức cụ bà Khưu
Thị Chung. Khi Thầy Lê (rể của bà Chung) qua đời, Thầy được an táng trong nghĩa trang gia tộc và
di sản Thầy để lại gồm 1 cuốn Kinh Thánh và 1 cuốn truyền đạo đơn “Chân Giả Luận“. Chính tài liệu
đó đã đưa ông và thân sinh của ông trở lại tin Chúa. Sau khi tiếp nhận Chúa,ông đã giải bày lẽ thật
cho bà Nội mình và bà Nội đã tán thành niềm tin của con trưởng nam và cháu đích tôn. Bà quyết
định tin Chúa. Năm 1925, cả 28 người trong gia tộc đã tiếp nhận Chúa. Sau đó cụ bà đã vui lòng
dâng một miếng đất để xây cất nhà thờ.
Trong cuộc chiến tranh 1945 – 1946, quân đội Pháp đã san bằng nhà thờ Tin Lành để làm đồn
bót (vị trí hiện nay là Ủy ban Nhân dân phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân).
Sau khi kết hôn cùng cô Nguyễn Thị Tề. ông đã vâng lời bà nội dâng mình hầu việc Chúa và vào
học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
1928 - 1930, học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
1931 - 1934, tập sự tại Hội Thánh Tin Lành Đà Lạt.
1934 - 1945, ông đến hầu việc Chúa ở vùng dân tộc K’Ho khu vực Di Linh, Đà Lạt. Do bị sốt rét
rừng,ông phải nằm bệnh viện và về quê ở Bình Trị Đông dưỡng sức. Sau đó Tổng Liên Hội bổ nhiệm
cụ về vùng đồng bằng Nam Phần.
1945 - 1947, ông hầu việc Chúa ở Sóc Sãi (Tiên Thủy, Bến Tre).
1947 - 1950, hầu việc Chúa tại Đà Lạt. Do sức khỏe không phù hợp khí hậu nên ông lại trở về
miền Tây Nam và lần lượt đến hầu việc Chúa tại các Hội Thánh sau:
1950 - 1954, Lộc Thuận.
1954 - 1955, Bình Đại.
1955 - 1956, An Hóa.
1956 - 1958, Long Thành.
Sau đó từ năm 1958 đến năm 1974, ông lần lượt quản nhiệm các Hội Thánh Cà Mau. Cao Lãnh,
Sa Đéc, Sóc Trăng và Cần Đước.
Năm 1974, bà bị tai biến nên ông nghỉ hưu.
259
Sau khi bà về nước Chúa, ông tiếp tục ở với các con tại Bình Trị Đông cho đến khi về nước Chúa
ngày 25.02.2008.
Thời gian hầu việc Chúa tại vùng Cao nguyên, ông thường kết hợp đi săn nai, cọp để tạo cơ hội
truyền giáo. Muốn đến truyền giáo tại một “buôn làng”, ông gặp già làng để hỏi xêm trong “buôn
làng” có bao nhiêu dân từ đó ông ước lượng nhu cầu bao nhiêu thịt rừng.Sau khi đã săn bắn đủ số
thịt yêu cầu. Ông mời tập trung người dân tộc lại, giảng Tin Lành cho họ. Sau buổi truyền Giảng,ông
xẻ thịt rừng cho các gia đình tân tín hữu để họ mang về bản làng.
Thưở đó vì chiến tranh nên nhiều lúc giao thông bị bế tắc. Có lần ông dùng xê đạp để đi từ Đà
Lạt về Sài Gòn, hết 3 ngày đường!
Năm 1938, Hội đồng Tổng Liên Hội được tổ chức tại Vĩnh Long được Tiến sĩ Tống Thượng Tiết
viếng thăm, Hội Thánh Chúa được một cơn phục hưng lớn. Sau khi tham dự, Giáo sĩ Jackson và MS
Tầm trở về làm chứng lại cho con cái Chúa tại khu vực. Sau ba ngày cầu nguyện,họ ăn năn xưng tội
và cơn phục hưng đã dấy lên. Khi Đức Thánh Linh thăm viếng thì mọi tấm lòng đều tan vỡ để tiếp
nhận Chúa, kể cả các thầy Mo, thầy Phù thủy.Để rồi sau khi tiếp nhận Chúa các thầy Mo, thầy Phù
Thủy đều bỏ nghề.
Hội chúng vui mừng cả thể. Cả khu vực đều cảm nhận sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Mọi lúc
mọi nơi đều tràn ngập sự ngợi khen thờ phượng và cầu nguyện. Chỉ trong vòng một tháng có hơn
200 người tin Chúa và từ đó họ kinh nghiệm quyền năng của Đức Thánh Linh (Hồi ký “Bốm mươi
sáu năm chức vụ” của MS Lê Văn Thái). Sự phục hưng mạnh mẽ đến mức hễ bản làng nào tin Chúa
thì những người không tin Chúa phải chọn một là tin Chúa, hai là bỏ làng mà đi vì không thể sống
chung với nhau mà không chung một niềm tin.
Giáo sĩ Jackson với sự hợp tác của thầy Truyền đạo Hasol, ông (và sau này thêm MS Phạm Văn
Năm) đặt chữ viết cho tiếng Kơho rồi nhờ cậy Chúa dịch Kinh Thánh ra tiếng Kơho để họ được biết
Lời Chúa qua chính ngôn ngữ của dân tộc mình.
Ông thường đi thăm người dân tộc trong vùng sâu, mỗi chuyến thường 2,3 tháng mới về với gia
đình.Ánh sáng văn minh chưa đến miền cao, đời sống người dân còn hoang dã, việc di chuyển trong
rừng chỉ có thể đi bộ hoặc bằng ngựa. Đường đi đầy rắn độc và thú dữ, chưa kể có thể bị tấn công
vì hiểu lầm. Từ làng nầy qua làng kia phải đi nhiều ngày đường không thấy nhà cửa. Để qua đêm
phải dựng trại và đốt lửa ngăn cho thú dữ không dám đến gần. Có khi nửa đêm mới đến điểm truyền
giáo và người trong sóc bản phải đốt lửa sáng rừng vừa để chờ đợi vừa ngăn ngừa thú dữ. Các tín
hữu cao tuổi thuộc đồng bào sắc tộc Kơho vẫn còn nhắc đi nhắc lại về ông. Họ thường nói ông là
Giáo sĩ người Việt đầu tiên đến truyền giáo tại khu vực tại Đà Lạt, Di Linh.
Ông có quen một tín hữu Pháp tên là Uorgaud. Ông Ourgaud có tặng ông một sở đất 24 ha tại
Hòn Chồng,Nha Trang. Ông nói đây là một thắng cảnh, khi nào Chúa tái lâm chúng ta sẽ đứng ở Hòn
Chồng để Chúa tiếp rước. Ông đã dâng 9/10 giá trị tiền đất cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, để
rồi Thần Học Viện Hòn Chồng Nha Trang được xây dựng tại đây, đào tạo những chiến sĩ thập tự cho
công trường thuộc linh.
Tạ ơn Chúa, ông đã góp phần với các tôi con của Chúa để xây dựng nhà thờ Tin Lành Cà Mau
(1958 -1962) và nhà thờ Tin Lành Cao Lãnh (1962 - 1965). Nhà thờ Tin Lành Cao Lãnh do kiến trúc
sư Ngô Viết Thụ thiết kế (KTS Ngô Viết Thụ là người thiết kế Dinh Độc Lập, ngày nay gọi là Dinh
Thống Nhất tại TP Hồ Chí Minh).
260
Từ ngày 05.02.2008 cụ không ăn được cơm, dần đến không ăn cháo uống sữa được phải truyền
dịch. Rồi cũng không còn truyền được dịch nữa. Cụ về nước Chúa lúc 7g30 ngày 25.02.2008.
Cụ có 8 con dâu rễ,18 cháu dâu rễ, 11 chắt. Hậu tự của cụ là MS Nguyễn Thanh Liêm (đã về nước
Chúa năm 1982) và cháu đích tôn là MS Nguyễn Thanh Tuyền (đang hầu việc Chúa tại Philadelphia
Hoa Kỳ).
Trong cuộc sống, cụ luôn luôn biểu lộ một tinh thần lạc quan: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn
Chúa vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy.” (ITe
5:18). Cụ thích hát bài Thánh ca 355: “Quyết rao Tin lành” và Thánh ca 385 “Hư không”. Cụ luôn luôn
nhắc con cháu, bất cứ việc gì mình góp phần cho Chúa, thì phải nhớ rằng “Chúng con chỉ là đầy tớ
vô ích, điều chúng con đã làm là điều chúng con chắc phải làm” (Lu 17:10b). Amen.
Nguyễn Thị Thiên Hương
261
Mục sư LÊ VĂN THÁI
(1890 - 1985)
Tóm tắt
- Mục sư Lê Văn Thái sinh năm 1890 tại làng Văn La, huyện Phú Lộc, tỉnh Quảng Bình.
- 1919, tin nhận Chúa tại nhà thờ Hải Châu – Đà Nẵng.
- 1922, vào học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
- 30/5/1924, lập gia đình với cô Công Tôn Nữ Tú Oanh.
- 6/1924, Truyền đạo,hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hội An, Quảng Nam.
- 9/1925, về học tiếp tục tại Trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng.
- 5/1926, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Mỹ Tho.
- 8/1927, tiếp tục học trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng
- 8/1928, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội (Hội Thánh đầu tiên tại miền Bắc Việt Nam).
- 28/11/1928, thụ phong Mục sư tại Hà Nội.
- 6/1929, kiêm nhiệm chức Phái viên địa hạt Trung - Bắc Việt Nam.
- 5/1931, đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Địa hạt Miền Bắc.
262
- 1933, hầu việc chúa tại Bắc Giang.
- 1935, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội.
- 1941, chuyển đến Thanh Hóa, chuyên trách công việc Địa hạt miền Bắc.
- 1942, chuyển về Hội Thánh Hà Nội.
- 19/8/1942, đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin lành Việt Nam, kiêm Chủ nhiệm địa hạt
miền Bắc.Tổng Liên hội bao gồm các Hội Thánh Tin lành ở Cao Miên và Ai Lao (tức Campuchia và
Lào hiện nay).
- 1945, dẫn đầu Phái bộ Tin Lành Việt Nam hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh tại miền Bắc.
- 1951, chuyển vào Đà Lạt, tiếp tục giữ chức vụ Hội trưởng, phụ trách công việc Chúa chung của
Việt Nam.
- 1953, đứng ra thành lập Cô Nhi Viện Tin Lành và Trường Trung Tiểu Học Bết-lê-hem ở Hòn
chồng Nha trang. Cô nhi viện Nha Trang hoạt động đến năm 1975.
- Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1957, tham gia và là diễn giả của Hội đồng Thường niên của Hội
Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp tại New York (Hoa Kỳ).
- 1960, thôi giữ chức vụ Hội trưởng tại Hội đồng Tổng liên ở Vĩnh Long.
- 1960 - 1968, giám đốc Cô nhi viện Tin Lành Nha Trang.
- 7/1968, hưu trí và sống tại Nha Trang.
- 1970, xuất bản cuốn Hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ”.
- 1985, ông về nước Chúa.
Thời niên thiếu
Mục sư Lê Văn Thái gọi thời chưa biết và chưa tin nhận Chúa của đời mình là “khoảng tối”. Chính
từ “khoảng tối”, Thiên Chúa đã giúp ông nhận ra một “khoảng sáng”rất khác, một con đường đến
với Chúa Giê-xu, tin nhận Chúa và đầu phục Ngài đề rồi trở thành một con người trọn đời hiến dâng
cho công việc truyền giảng Tin Lành trên đất nước Việt Nam. Sự kiện tin nhận Chúa của ông xảy ra
vào mùa Xuân năm 1919 tại nhà thờ Hải Châu, Đà Nẵng.
Xã hội Việt Nam vào những thập niên đầu thế kỷ XX vẫn còn bao rối rên, đầy biến động. Trước
cảnh bị ngoại xâm thống trị, nhiều sĩ phu yêu nước đã đứng lên đấu tranh nhằm hướng đến một
cuộc sống tự do. Người dân cũng đau đáu về một cuộc sống không còn cảnh cơ hàn, lầm than. Chàng
thanh niên Lê Văn Thái với nguồn gốc của dòng họ thuộc kinh thành Huế với qua bao biến cố đã
khắc ghi trong lòng niềm căm hận đối với những gì được gọi là “ngoại bang”. Vì vậy, khi nghê đến
đạo Tin Lành, lúc bấy giờ gọi là Gia tô, nhìn thấy những con người truyền giảng đạo ấy từ một đất
nước xa lạ đến, chàng thanh niên Lê Văn Thái đã không từ những hành động chống đối.Những việc
làm thuở ấy theo chính ông cho biết là để “bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc”. Ông
đã không ngần ngại “làm ồn ào giữa đám đông,khuấy rối bằng mọi cách không cho người khác vào
nghe giảng hoặc cãi vã la lối làm mất trật tự” khi có buổi rao giảng Tin Lành. Thậm chí, có những
lúc ông đã chuẩn bị “tay lăm le những đá” để sẵn sàng ném vào các giáo sĩ đang truyền đạo. Không
những thế, ông còn trang bị, thủ sẵn cho mình những kiến thức,triết lý nhằm bắt bẻ, hạ bệ những
người truyền đạo.
263
Thế nhưng, quyền năng của Đức Chúa Trời đã bắt phục chàng thanh niên đầy cá tính Lê Văn
Thái trong kế hoạch của Ngài để gieo hạt Tin Lành trên nước Việt thân yêu. Lê Văn Thái trở thành
một tín đồ Tin Lành – người của “Gia tô Cơ đốc” trước những thử thách, bắt bớ, khinh miệt của gia
đình, dòng họ, bạn bè và của làng xóm lúc bấy giờ. Ông đã chứng kiến người bạn cùng niềm tin Cơ
đốc của mình chấp nhận những trận đòn thừa chết thiếu sống, bị nghe nguyền rủa thà chết đi còn
hơn để sống của thân sinh người ấy. Ông lẳng lặng chịu đựng tội bất hiếu với “cảnh gia đình như có
tang” khi bao người thân không tin nhận Chúa ai oán trách móc khi trong nhà có tổ chức cúng tế.
Trong hoàn cảnh như thế, thanh niên Lê Văn Thái “cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ và theo sự
dẫn dắt của Ngài mà thôi”. Đức tin của ông được Chúa bù đắp. Trong thử thách gian nan, Ngài luôn
che chở và gìn giữ ông trên các bước đường thêo Chúa. Trước tình yêu và sự quan phòng của
Ngài,ông đã thốt lên “Cám ơn Chúa - Đức Giê hô va đã chỉ dẫn các bước của tôi”.
Những năm tháng hầu việc Chúa
Tại Hội An – miền Trung
Năm 1922, đánh dấu một bước chuyển lớn trong tín đồ Lê Văn Thái. Cơn bão thiêng liêng đã
đánh động trong lòng ông về những đồng bào đang chìm trong biển đời tội lỗi, chưa nhận thấy ánh
sáng cứu rỗi từ Thiên thượng. Năm đó, ông vào học trường Kinh Thánh tại Đà Nẵng.
30.5.1924, ông lập gia đình với người vợ yêu quý của ông là bà Công Tôn Nữ Tú Oanh, một nữ
sinh của trường Kinh Thánh. Trước khi vào chức vụ, ông đã thổ lộ: “Cám ơn Chúa đã chọn cho tôi
người vợ quý, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong chức vụ, yên lặng một cách vững vàng trên đường tin
kính và tận tụy hầu việc Chúa”.
Tháng 6.1924, ông được bổ nhiệm chức vụ truyền đạo tại Hội Thánh Hội An, lúc bấy giờ là tỉnh
lỵ Quảng Nam. Tại Hội An –, truyền đạo Lê Văn Thái sốt sắng trong việc chăn bầy của mình; đặc biệt
quan tâm đến công tác truyền giáo. Ông đã đẩy mạnh công tác chứng đạo trên khắp địa bàn chung
quanh Hội An. Bằng xê đạp, bằng thuyền, ông đã đến các vùng Phong Thử, Ái Nghĩa, Lạc Thành, Đại
Ân, Trường Ân… để làm chứng cho nhiều người tin nhận Chúa, mở thêm những những Hội Thánh
nhánh. Những lớp người đầu tiên tin nhận Chúa tại địa phương không chỉ là người dân bình thường
mà còn có cả những ông giáo, điền chủ, chánh tổng… của xã hội thời bấy giờ. Nhiều người sau này
trở thành mục sư, truyền đạo tiếp bước theo con đường rao giảng Tin Lành.
Tháng 9.1925, ông lại về trường Kinh Thánh học tiếp.
Tại Mỹ Tho – miền Nam
Tháng 5.1926, sau một thời gian về trường Kinh Thánh, truyền đạo Lê Văn Thái được bổ nhiệm
hầu việc Chúa tại Hội Thánh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), một nơi thật xa xôi khác lạ so với
miền Trung thân quên. Nhưng thuận phục ý Chúa, ông sẵn sàng đến nơi Chúa kêu gọi. Dẫu rằng,
những ngày đầu ở Mỹ Tho đầy cám cảnh và không ít những bộn bề của tình thế xã hội. Hội Thánh
Mỹ Tho đang đối diện với tình hình số tín hữu tăng vọt do có nhiều người thêo đạo vì hiếu kỳ và
thêo đạo để quan sát,theo dõi. Thế nhưng, cậy vào sức Chúa, đặt niềm tin nơi Ngài, ông “ngay thẳng
trình bày Sứ điệp đơn sơ như thấy trongKinh Thánh, chối bỏ những lời ám chỉ chính trị mà người đến
trước ông đã khôn khéo gợi ý trong bài giảng mình.”Ông cùng con cái Chúa cấp tốc mở các lớp học
Kinh Thánh, duy trì sinh hoạt của Hội Thánh với hàng ngàn tín đồ từ các nơi: Kinh Ông Lớn (Gò
Công), Long Hựu, Qưới Sơn, Ân Hữu, Lộc Thuận, Bình Đại, An Hóa, Phú Thành, Giao Long, Giao Hòa,
Rạch Miễu, Tân An, Bến Tranh, Cai Lậy, Chợ Gạo. Tinh thần nhóm lại của tín đồ ở Mỹ Tho với hình
ảnh “từng gia đình, từng đoàn, từng nhóm như đi trẩy hội”,đi từ thứ bảy, ở lại nhóm Chúa nhật, sáng
264
thứ hai mới về đã khích lệ ông rất nhiều trong chức vụ hầu việc Chúa. Từ nhà giảng thuê ban đầu,
Hội Thánh Mỹ Tho xây được nhà giảng mới - đây là nhà giảng đầu tiên tại miền Nam, xây bằng gạch
do tiền của con cái Chúa trong Hội Thánh dâng. Sau đó là nhà thờ bằng gạch thứ hai, nhà thờ Bến
Tre.Nhiều địa bàn lúc ban đầu tổ chức nhóm tại nhà tín đồ lần hồi cũng xây được nhà giảng riêng,
thuận lợi cho công việc truyền giảng đạo của Chúa. Chỉ sau một năm hầu việc Chúa tại Mỹ Tho đã
có 565 người lớn chịu lễ Báp-têm, Hội Thánh tách thành 3 Hội Thánh tự lập là Mỹ Tho, Bến Tre và
Gò Công.
Tháng 8.1927, do phải về học tiếp tại trường Kinh Thánh, truyền đạo Lê Văn Thái rời Mỹ Tho,
chia tay con cái Chúa trong tình thương yêu, quyến luyến đầy cảm động. Hội Thánh Mỹ Tho ghi dấu
trong truyền đạo Lê Văn Thái “nhiều kỷ niệm đẹp”.
Tại Hà Nội – miền Bắc
1928, Hội đồng Tổng Liên chia xứ làm 2 địa hạt: Bắc Trung bộ (bao gồm Bắc kỳ và Trung kỳ) và
Nam bộ (bao gồm Nam kỳ và các Hội Thánh người Việt ở Campuchia).
Tháng 8 cùng năm đó,sau khi tốt nghiệp trường Kinh Thánh, truyền đạo Lê Văn Thái nhận lãnh
trách nhiệm hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội. Đây là Hội Thánh đầu tiên tự trị tự lập và là Hội
Thánh duy nhất tại miền Bắc lúc bấy giờ. Lúc ông đến, Hội Thánh nhóm lại chưa đến 30 tín hữu.
Ông đã được Chúa khải tượng biệt riêng cho công việc rao giảng Tin Lành cho đồng bào toàn miền
Bắc và mở nhiều Hội Thánh mới. Tại đây, ông đã miệt mài làm công tác chứng đạo mỗi ngày. Ông
đã dùng “xe đạp đi khắp thành phố làm chứng và phân phát sách về Tin Lành cho những người trên
đường trong các cửa hàng, trong quán ăn, nơi bến xe đò, ga xe lửa, các phòng sở và ngay cả trong
khách sạn”. Hiệp cùng với con cái Chúa, được sự hỗ trợ từ các giáo sĩ của Hội Truyền giáo, công tác
làm chứng về Chúa mỗi ngày được đẩy mạnh.Hàng tuần có đến 27 buổi nhóm được tổ chức tại nhà
thờ chính, 8 giảng đường và 2 phòng đọc sách ở các vùng phụ cận. Hội thánh Chúa tại Hà Nội phát
triển thêm.Nhiều địa bàn tại Hà Nội và các vùng ngoại vi mở được các điểm nhóm mặc dầu có không
ít sự ngăn cấm xảy ra.
Ngày 28.11.1928, ông được thụ phong Mục sư tại Hà Nội.
Tháng 6.1929, ông nhận lãnh thêm chức vụ Phái viên đặc trách địa hạt Bắc Trung bộ.
Hội đồng Tổng Liên năm 1931 thành lập 2 Địa hạt riêng rẽ là Bắc kỳ và Trung kỳ. Tháng 5.1931
Mục sư Lê Văn Thái được cử làm Chủ nhiệm Bắc Hạt kiêm nhiệm Chủ tọa Hội Thánh Hà Nội.Công
việc truyền giảng được Chúa ban phước phát triển bội phần.
Năm 1933, để toàn tâm toàn ý cho chức vụ Chủ nhiệm, ông xin từ chức chủ tọa Hội Thánh Hà
Nội và lên Bắc Giang, với sự hợp tác của các giáo sĩ, ông bắt đầu một chiến dịch Tin Lành mạnh mẽ.
Trong vòng 3 tháng, có 72 người trở lại cùng Chúa và ông lập Hội Thánh mới. Sau khi xây được nhà
thờ cho Hội Thánh, ông tiếp tục đi ra giảng Tin Lành cho 4 tỉnh lân cận, cứ mỗi tỉnh 1 tuần. Sau mấy
năm truyền đạo lưu động,nhiều nơi như Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn Tây, Hải Dương, Hải
Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Thường Tín, Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Đông, Sơn
La, Lai Châu … thuộc địa phận miền Bắc đều có tín đồ, hình thành các nhà giảng Tin Lành. Tính đến
cuối năm 1934, đã có 38 Hội Thánh và giảng đường.
Năm 1935 ông trở về Hội Thánh Hà Nội hầu việc Chúa. Từ giữa năm 1935 đến năm 1936, tại
miền Bắc nổi lên phong trào sôi động được mệnh danh là Phong trào Phục hưng.
Năm 1941, ông dời vào Thanh Hóa chuyên trách công việc Địa Hạt miền Bắc.
265
Năm 1942, ông lại trở về Hội Thánh Hà Nội.
Ngày 19.8.1942, ông đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, kiêm Chủ nhiệm
Địa hạt miền Bắc.
Năm 1945, ông dẫn đầu Phái bộ Tin Lành Việt Nam hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh tại miền Bắc
để tỏ rõ Hội Thánh và đường lối của Hội Thánh.
Tại Đà Lạt và Nha Trang
Tháng 5 năm 1951,Văn phòng Tổng liên hội từ Hà Nội chuyển vào Đà Lạt. Gia đình mục sư Lê
Văn Thái cũng giã từ Hà Nội sau một thời gian dài gắn bó để vào Đà Lạt. Hiệp với các đầy tớ Chúa,
ông chuyên trách công việc Chúa chung của cả nước. Ông tiếp tục được Chúa khải tượng về phát
triển những cơ sở giáo dục, công tác văn hóa xã hội chung của giáo hội trên đất nước Việt Nam
trong tình hình mới.
Từ năm 1952, mặc dù gặp không ít khó khăn, ngăn trở lúc ban đầu nhưng ông đã cùng các đầy
tớ Chúa trong Tổng Liên hội và Hội Truyền giáo cậy sức từ nơi Chúa thành lập cơ sở xã hội,giáo dục
đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành là Cô nhi viện Tin Lành và Trường Trung Tiểu học Bết-lê-hem tại
Nha Trang, thành lập Đoàn Tuyên úy Tin Lành để lo cho tín hữu trong quân đội lưu động đây đó,
thực hiện các chương trình truyền giảng trên sóng phát thanh.
Ngay từ năm 1958 ông đã cùng với các đầy tớ Chúa và các Giáo sĩ khởi động việc xây dựng cơ
sở Thánh Kinh Thần học viện khang trang và rộng rãi hơn. Đến tháng 7.1960, Trường Kinh Thánh
Đà Nẵng được dời vào Nha Trang và tiếp tục khai giảng khóa đầu tiên vào tháng 9 năm 1960. Từ
cơ sở này, công việc Chúa được đẩy mạnh phát triển.
Năm 1960, Mục sư Lê Văn Thái thôi giữ chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại
kỳ Hội đồng Toàn quốc tổ chức tại Vĩnh Long. Chúa vẫn đại dụng ông trong công tác chăm lo cho
Cô Nhi viện Tin Lành tại Nha Trang trên cương vị giám đốc cho đến khi hưu hạ vào tháng 7 năm
1968.
Khi hưu hạ, Mục sư Lê Văn Thái cùng gia đình sống tại Nha Trang.
Ngày 24 tháng 02 năm 1969, bà Mục sư Lê Văn Thái về nước Chúa. Ông mất đi một nguồn an ủi
lớn mà Chúa đã ban tặng cho ông “Nhà tôi – một người đàn bà mảnh khảnh, hiền hòa và chân thật,
266
luôn luôn lấy sự mình có làm đủ, kiên nhẫn, trung tín với Chúa và trung tín với mọi người” trên cuộc
đời tận hiến hầu việc Ngài.
Năm 1975, ông yếu nhiều và được con cháu đón sang Mỹ để chăm sóc. Sau đó, Chúa đón ông về
nước Ngài ngày 21.01.1985 tại San Gabriel, California, chấm dứt 95 năm gian khó trên đất.
Những trải nghiệm trong chức vụ
Khải tượng sống động và niềm tin nơi Chúa
Trên suốt con đường theo Chúa, mở mang vương quốc của Đức Chúa Trời trên nước Việt, Mục
sư Lê Văn Thái đã nếm trải cả niềm vui lẫn buồn khổ. Ông vui vì công việc Chúa phát triển,đêm lại
nhiều linh hồn cho Chúa và trải nghiệm những dấu kỳ, phép lạ mà Chúa ban cho. Thế nhưng, có
những giai đoạn, thời khắc, ông lâm cảnh buồn đau, đối diện với những khó khăn, thử thách, bắt bớ
với những hiểm nguy rình rập, phủ vây, cận kề cái chết.
Năm 1928, khi chuẩn bị kết thúc khóa học tại trường Kinh Thánh, ông đã “buồn và hết sức chán
nản,muốn bỏ trường Kinh Thánh để trở về gây dựng một sự nghiệp mới” trước những biến cố chung
quanh. Nhưng trong phút giây bi quan, với tấm lòng “Quyết noi theo Cứu Chúa, sống chết với Ngài”,
ông đã vượt qua được nỗi tuyệt vọng để theo chân Cứu Chúa mà ông đã chọn cho cuộc đời mình.
Khi được điều động đến hầu việc Chúa tại Hà Nội, một nơi quá xa và lạ lẫm, ban đầu, ông đã “cầu
nguyện nhiều lần, nài xin, giải thích, thảo luận, trình bày duyên cớ” để được ở lại. Rồi Chúa đã dạy
dỗ, chỉ cho ông nhận biết ý chỉ cao cả trong kế hoạch của Ngài. Ông vâng phục Chúa “đi con đường
mà chính mình không muốn đi”. Và,ông đã cầu xin Chúa cho bản thân “có đủ khả năng, thích hợp với
Hội Thánh Hà Nội, với miền Bắc thân yêu theo ý muốn Ngài”. Trên cánh đồng xa lạ này, ông mới hiểu
được kế hoạch cao cả mà Ngài giao cho ông. Ông không chỉ mang trên mình trọng trách công việc
nhà Chúa của Hà Nội mà cả miền Bắc rộng lớn với bao linh hồn chưa nhận thấy chân lý, chưa nhận
được sự cứ rỗi từ nơi Thiên thượng.
Năm 1942, lúc còn ở miền Bắc, đang chuẩn bị vào Nam tham dự Hội đồng tại Cần Thơ, một khải
tượng từ nơi Chúa đến với ông trong giấc chiêm bao về những tín hữu dâng của cải cho việc phát
triển nhà Ngài tại miền Bắc. Tại Hội đồng ở Cần Thơ và cả miền Trung khi ông đến chia xẻ, làm
chứng về công việc Chúa, đã dấy lên một tinh thần dâng hiến cho công việc Chúa ở miền Bắc.
Trong bóng cánh của Đấng Toàn Năng
Bao nhiêu lần đối diện với bắt bớ, nhưng Chúa luôn ở bên và gìn giữ ông diệu kỳ. Trước cảnh
chỉ huy người Pháp, những lính khố xanh, dân làng với gậy gộc, dây trói tại làng Gia Thượng, Hà
Nội chực chờ trước nhà giảng, sẵn sàng xông vào bắt trói người giảng Tin Lành, Chúa dự phòng cho
ông một giáo sĩ “thay thế” để bảo đảm sự bình yên cho con cái Ngài ngày đầu tin theo Chúa. Tại đây,
Mục sư Lê Văn Thái cũng từng chứng kiến những cảnh tượng đến nao lòng khi người tín hữu giữ
chức Lý trưởng ở làng Gia Thượng, Gia Lâm (Hà Nội) đã đầu phục Ngài lại quay gót chối bỏ đạo khi
bị cường quyền đê dọa.
Trên đường đê Thọ Lão - Hạ Mỗ của vùng Sơn Tây, nhiều người vì thành kiến và cái lợi riêng đã
cầm dao, mác phục sẵn trên đường đê đợi cơ hội hạ sát Mục sư Lê Văn Thái. Chúa đã khiến một cơn
mưa kéo dài ở vùng Sơn Tây khiến ông đổi lộ trình đi thêo một con đường khác để âm mưu sát hại
tôi tớ Ngài bất thành. Nanh vuốt của kẻ dữ giương ra, gài bẫy nhưng Chúa đã giải cứu đầy tớ Ngài
một cách diệu kỳ.
267
Năm 1936, khi công việc Chúa tại Hà Nội đang phát triển nhiều mặt, một cơn bạo bệnh đã làm
ông suy sụp sức khỏe. Ông bị bệnh phổi nặng đến nỗi bác sĩ Patêrson cho rằng ông sẽ qua đời trong
vòng ba tháng. Thế nhưng, Chúa đã chữa bệnh ông cách lạ kỳ đến mức y học hiện đại lúc đó không
thể lý giải. Đó là một trong những phép lạ của Chúa dành cho ông.
Năm 1945, với tư cách là người đứng đầu Giáo hội Tin lành, Mục sư Lê Văn Thái đã nương cậy
Lời Thánh Kinh và sự soi sáng của Thánh Linh để ngăn chặn những tuyên bố về sự kiện đoán định
được thời gian “Chúa tái lâm". Tà thuyết này do ông Trần Như Tuân khởi xướng đi ngược với Kinh
Thánh, gây nên hậu quả khá nghiêm trọng đối với những tín hữu không nắm vững Lời Chúa, làm
ảnh hưởng nhiều đến đạo của Ngài ở miền Trung. Sau khi đã dùng Lời Chúa để khuyên can, ông
chứng kiến được hậu quả là những cảnh trạng đau lòng của Hội Thánh.
Lo công việc Chúa, Mục sư Lê Văn Thái đã thực hiện chuyển hành trình Bắc - Nam vào thời điểm
đầy biến động ở Việt Nam sau biến cố lịch sử tháng Tám năm 1945. Đây là thời điểm đầy khó khăn
đối với công việc Chúa. Khi thì đối diện với chính quyền,các lực lượng vũ trang trong và ngoài nước
trên chặng đường đầy thử thách, ông đã nhờ cậy Chúa ban cho sự khôn ngoan để gặp gỡ các bậc
cầm quyền, đối đáp bày tỏ cách khôn ngoan về công việc của đạo để quy vinh hiển cho danh Ngài.
Khi thì mất giấy tờ tuỳ thân, giấy thông hành tại Nha Trang nhưng Chúa dự bị cho người tìm lại
được. Chúa dự liệu những điều mà chính ông không hề nghĩ tới khi đưa ông đến Biên Hòa hay Mỹ
Tho một cách an toàn. Lúc ông bị hiến binh Nhật bắt tại Mỹ Tho, tưởng chừng như cái chết chực
chờ nhưng Chúa giải cứu ông ra khỏi một cách bất ngờ, bình an. Chúa đã đêm ông về với gia đình,
với Hội Thánh tại Hà Nội sau “Chuyến đi lịch sử” kéo dài 5 tháng, khi mà mọi người tưởng chừng
như tuyệt vọng vì không nhận được một tin tức mảy may nào.
Khi công việc Chúa đang phát triển ở miền Nam, trên cương vị chức vụ Hội trưởng, ông cũng
trải qua bao lần bị vu oan, giá họa. Thế nhưng, Chúa cũng đã đưa ông ra khỏi những đám mây u ám,
bao quanh vì những sự không thông hiểu kỹ càng. Đó là những câu chuyện mà ông gọi là “Cười ra
nước mắt” và “Án không thành án”. Trước những tình cảnh ấy, ông đã “Không biết phải làm cách
nào khác hơn là cầu nguyện xin Chúa làm sáng tỏ mọi việc để cho những đám mây mù tan đi. Đồng
thời cũng cầu xin Chúa cho nhân viên công quyền biết nhiều hơn về Hội Thánh Ngài và cho những
người lầm lạc được trở lại con đường sáng”.
Khi đọc Hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ” của cố Mục sư Lê Văn Thái, tôi bỗng nhớ đến hình
ảnh của Sau-lơ, một con người hung hăng từng bắt bớ những ai tin Chúa, trấn áp đạo Cứu rỗi của
Đấng Chirst đã bị Đức Chúa Trời bắt phục, trở nên một sứ đồ tận tụy rao giảng Phúc âm của Thiên
thượng. Thời niên thiếu của chàng thanh niên Lê Văn Thái cũng có những việc làm giống như vậy
trong thời còn bầu nhiệt huyết chống đạo Cứu rỗi, khi được truyền bá đến Việt Nam. Nhưng, Đức
Chúa Trời của Tin Lành cứu rỗi có kế hoạch của Ngài. Người đã “bắt phục” chàng thanh niên Lê Văn
Thái trở thành một tín hữu trung tín, một người truyền đạo được ơn và một mục sư cần mẫn trên
con đường hầu việc Chúa tại Việt Nam.
Trên đất nước Việt Nam của thế kỷ XX, Chúa đã đưa dấu chân Mục sư Lê Văn Thái - người hầu
việc Ngài trải khắp từ miền Trung, miền Nam, miền Bắc thân yêu. Đó là những cánh đồng thuở ban
đầu mà những giáo sĩ truyền giáo, các tín hữu đầu tiên, các truyền đạo,mục sư khi Tin Lành mới
truyền đến Việt Nam đi “khai khẩn, vỡ hoang và gieo hạt”trong nước mắt. Ngài đã tôi luyện ông
trong mọi hoàn cảnh để rồi trao cho ông những trọng trách lớn thực hiện kế hoạch gây dựng vương
quốc của Ngài tại Việt Nam.
268
Ông và gia đình đã trọn đời dâng hiến cho công việc của Chúa, cùng góp phần để Tin Lành có
những mùa gặt lớn trên những cánh đồng thuộc linh ở Việt Nam. Chính sách của Hội Thánh Tin
Lành Việt Nam đối với quốc gia có sự đóng góp vô cùng quan trọng của Mục sư Lê Văn Thái. Khi đối
diện với bao vấn đề nan giải, đầy biến động nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn của tinh thần truyền
giảng thuần túy đạo Cứu rỗi của Đấng Chirst, không can dự vào chính trị. Trên hành trình của chức
vụ, mục sư Lê Văn Thái đã “Vâng lời Chúa dạy và chỉ nương nơi Ngài” và ông “Đi với Chúa và Chúa
đồng sống” với ông.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Văn Thái. Hồi ký Bốn mươi sáu năm chức vụ. Tác giả xuất bản, giữ bản quyền, năm 1970.
2. Lê Hoàng Phu. Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911 – 1965. Chương trình Thần học
Phúc Âm,TEE, 1996.
3. http://www.mytnpa.org/index.
4. http://Wikipedia.
5.http://www.vietcampus.net/modules.
* Những chữ in nghiêng, đóng ngoặc kép của bài viết này được trích từ Hồi ký của Mục sư Lê
Văn Thái.
Đình Dũng
269
Mục Sư Nguyễn Văn Thiệt
(1927-2000)
Mục Sư (MS) Nguyễn Văn Thiệt sanh ra và lớn lên trong gia đình yêu mến Chúa tại Quảng Nam.
Ông đã sớm tham gia hầu việc Chúa tại Hội Thánh địa phương. Sau đó ông đã nhận được sự kêu gọi
và dâng mình đi học trường Kinh Thánh. Ông đã hầu việc Chúa tại nhiều Chi hội và cũng góp phần
trong Ban Đại diện Tin Lành tại tỉnh Lâm Đồng.
MS Thiệt và gia đình đã phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn trong chức vụ, nhất là sau biến
cố 1975. Dẫu sóng gió dập dồi, ông và gia đình vẫn cứ đứng vững tiếp tục hầu việc Ngài. Riêng MS
Thiệt vẫn cứ trung tín trong chức vụ và sẵn sàng hầu việc Chúa trong mọi nơi, khi còn cơ hội. Trong
nhưng tháng năm dài lao tù, MS Thiệt đã âm thầm chịu đựng mọi gian khổ, đau đớn cả thể xác lẫn
tinh thần. Ông đã hy sinh vì Danh Chúa, vì cớ Hội Thánh Ngài và trung tín trong chức vụ Chúa giao
phó cho đến hơi thở cuối cùng.
270
1.Thuở thiếu thời và sự kêu gọi
MS Nguyễn Văn Thiệt,sinh ngày 13 tháng 9 năm 1927 (năm Đinh Mão), tại làng Hạ Nông, xã Kỳ
Ngọc (nay là Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Ông là người con thứ ba (gọi theo thứ
bậc của người miền trung) của cụ ông Nguyễn Văn Giới và cụ bà Nguyễn Thị Đạm. Anh của ông là
Nguyễn Văn Việt, sinh năm 1925 (hi sinh trong kháng chiến chống Pháp từ khi còn rất trẻ, khoảng
năm 1948 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương). Em gái là bà Nguyễn Thị Thà (bà Quả phụ MS Mã Phước
Minh - cố MS Mã Phước Minh nguyên là chủ tọa Hội Thánh Tin Lành (HTTL) Đà Nẵng, Chủ nhiệm
Địa hạt Bắc Trung Phần thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Miền Nam).
Gia đình thân phụ MS Nguyễn Văn Thiệt sống bằng nghề nông, là một trong những trái đầu mùa
của HTTL Phong Thử (Điện Bàn, Quảng Nam). Gia đình các anh êm của thân phụ ông đã góp phần
đáng kể trong việc hình thành HTTL Phong Thử thuở ban đầu (1).
Không ai hiện nay còn nhớ gia đình cụ Nguyễn Văn Giới tin Chúa từ lúc nào, chỉ biết MS Thiệt
đã trưởng thành trong một gia đình yêu mến Chúa và ông là một trong những Trưởng ban Thanh
niên nhiệt thành của Hội Thánh địa phương. Ông hứa nguyện dâng mình hầu việc Chúa từ thời niên
thiếu nhưng năm 1945 trường Kinh Thánh bị đóng cửa do chiến tranh nên ông không đi học Kinh
Thánh được.
Năm 1947, ông bị bắt đi lính Quốc gia, nhưng đến năm 1949 lại bị Pháp bắt giam tại lao xá Thừa
Phủ Huế vì hoạt động Việt Minh. Mãi đến năm 1951 mới được trả tự do. Sau đó do có học nên ông
làm thư ký cho Sở Khai thác Đá tại Non Nước (Đà Nẵng, Quảng Nam).
Năm 1953, ông lập gia đình cùng cô Nguyễn Thị Xin, sinh năm 1933, người làng Yến Nê (Hòa
Vang, tỉnh Quảng Nam (2). Năm 1957 ông nghỉ Sở Khai thác Đá về làng Hạ Nông dạy học. Năm 1960,
ông dạy tiếng Việt cho một gia đình giáo sĩ (Suwain?) tại huyện Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi và góp
phần tích cực thành lập Hội Thánh tại đây.
Tháng 5 năm 1960 ông được Chúa nhắc nhớ lại lời hứa nguyện của mình lần thứ 3 bằng một
trận ốm nặng.Các giáo sĩ đang họp tại Quảng Ngãi đã được mời đến cầu nguyện, ông ăn năn và Chúa
đã chữa lành. Ngay khi ra khỏi giường bệnh, ông liền đi đến HTTL Quảng Ngãi lúc bấy giờ do cụ MS
Lê Đình Tố chủ tọa. Ông xin đơn để đi ngay vào Thần Học Viện khóa 1960-1961 (dù lúc này ông đã
có gia đình với bốn con nhỏ cần nuôi dưỡng).
Tháng 6 đến 9 năm 1961 ông tập sự mùa hè tại Hội Thánh Buôn Hằng (một dinh điền tại tỉnh
Daklak) (3).
Ông về Thần Học Viện học năm thứ hai niên khóa 1961-1962. Trong niên khóa này ông được
quy ước gọi là thầy Thiệt  để phân biệt với một sinh viên trùng cả họ tên lẫn cả chữ lót,người miền
Nam - quy ước gọi là thầy Thiệt B.
2.Những năm chức vụ
Năm 1962-1964, ông hầu việc Chúa (chủ tọa) tại HTTL Thâm Trạch, quận Lạc Thiện, tỉnh
Daklak. Ông gặp lại vị giáo sĩ mà ông từng dạy tiếng Việt năm 1960 đang hầu việc Chúa tại trung
tâm truyền giáo Ban Mê Thuột. Chính vị giáo sĩ này đã không ngại nguy hiểm, khó nhọc,đích thân
lái xe chở từng khối cát từ xa về để xây nhà thờ Thâm Trạch trong giai đoạn đó. Trở về trường, ông
tốt nghiệp Thánh Kinh Thần Học Viện khóa 1964-1965.
Năm 1965-1967, ông chủ tọa HTTL Di Linh, tỉnh Tuyên Đức, nay thuộc tỉnh Lâm Đồng (4).
271
Năm 1967-1970, chủ tọa HTTL Trạm Hành, quận Đơn Dương, tỉnh Tuyên Đức, nay thuộc xã
Trạm Hành, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Năm 1970-1971, chủ tọa HTTL Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Năm 1971-1974, chủ tọa HTTL Ban Mê Thuột, tỉnh Daklak.
Năm 1974-1975, chủ tọa HTTL Đơn Dương, tỉnh Tuyên Đức.
Năm 1975-1978, chủ tọa HTTL Thạnh Mỹ, tỉnh Lâm Đồng, kiêm Phó Ban Đại diện Hội Thánh
Tin Lành tại tỉnh Lâm đồng (chức vụ nầy do Ban Trị sự Địa hạt Trung Nam Bộ cử để chăm sóc Hội
Thánh dân tộc Kinh và các Hội Thánh sắc tộc trong tỉnh Lâm Đồng vì trong giai đoạn này, chính
quyền đã giải tán Địa hạt Nam Thượng Hạt).
Từ tháng 4 năm 1978 cho đến 1984, ông cùng với MS Nguyễn Văn Huệ, chủ tọa HTTL Đà Lạt;
Thư ký Ban Đại diện, và một số Mục sư, Truyền đạo sắc tộc bị chính quyền đưa vào trại cải tạo tại
trại Đại Bình, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
Năm 1984, rời trại cải tạo, ông về ở tại xã Tân Hiệp, Long Thành, Đồng Nai. Sau khi mãn thời
gian gần 2 năm quản chế, ông góp phần hầu việc Chúa tại đây và các Hội Thánh lân cận.
Năm 1994, ông sang Hoa Kỳ, do con bảo lãnh theo diện đoàn tụ gia đình và hầu việc Chúa làm
quản nhiệm HTTL Báp Tít tại Fort Smith, Arkansas.
Khi từ Hoa Kỳ về thăm gia đình tại Việt Nam năm 2000, thì ngày 11/10/2000 ông về nghỉ yên
trong Chúa tại nhà riêng thuộc xã Tân Hiệp, Long Thành, tỉnh Đồng Nai sau cơn bạo bịnh.Ông được
an táng tại nghĩa trang Tin Lành Ân Từ Viên, huyện Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương (5).
Trước những khó khăn, hoạn nạn, thử thách không ngừng trên con đường theo Chúa ông
thường chia sẻ với các anh chị êm mình trong đức tin và với các bạn đồng lao: “Hãy yên lặng chờ
đợi Đức Giê Hô Va.” Cả gia đình ông đều giữ vững đức tin, tích cực hầu việc Chúa trong khả năng
Chúa ban cho, vượt qua được những biến động lớn trong Hội Thánh mà gia đình ông là một trong
những gia đình gắn liền với những biến động mang tính lịch sử trong Hội Thánh Tin Lành Việt Nam
(6).
Chú Thích
(1) Hiện có hơn 10 Mục sư là con, cháu của gia đình anh êm cụ Nguyễn Văn Giới. HTTL Phong
Thử là HT có nhiều MS xuất thân nhất trong HTTL-VN tính đến nay.
(2) Bà MS Thiệt đã là người cộng tác đắc lực với ông trong chức vụ ở mọi giai đoạn. Đặc biệt là
giai đoạn 1978-1984, bà đã được Chúa cho một nghị lực đến khó tin để vượt qua thử thách. Bà cũng
là cháu gọi cụ MS Ông Văn Huyên bằng cậu ruột. Ông bà MS Nguyễn Văn Thiệt có 7 người con (3
trai, 4 gái, các dâu, rể, cháu nội, ngoại hiện nay có tất cả 29 người hiện đang sinh sống và hầu việc
Chúa tại Hoa kỳ).
(3) Hội Thánh chỉ gồm vài gia đình nhóm trong nhà của một tín hữu. Danh từ kép “Chủ Tọa” chỉ
Mục sư hoặc Truyền đạo được Giáo Hội bổ nhiệm chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt đọng thuộc
linh cũng như tổ chức của một Chi hội địa phương. Sau hiến Chương năm 2001, giáo hội dùng danh
từ “Quản nhiệm” thay cho “Chủ tọa”.
(4) Giai đoạn bắt đầu khốn khó với chính anh em mình cả bạn đồng lao trong đức tin. Câu châm
ngôn của ông: “Hãy yên lặng chờ đợi Đức Giê hô va.” Trong HTTL-VN, ông là người có biệt danh:
272
“Người chịu Thiệt đúng như tên gọi “ (lời MS Trần Bá Thành - nguyên chủ tọa HTTL Nguyễn Tri
Phương, TP. HCM, nguyên thủ quỹ Ban Trị sự Địa hạt Miền Đông Nam Bộ).
(6) Giai đoạn mới trong lịch sử của HTTL-VN với Hiến Chương 2001. Trong số 11 Ủy viên Ban
Soạn thảo Hiến Chương của HTTL-VN, gia đình MS Nguyễn Văn Thiệt có hai người: Luật Sư Nguyễn
Văn Thanh là Trưởng Nam và MS Khấu Anh Tuấn là con rể.
Nguyễn Văn Thanh
273
Mục sư PHẠM XUÂN THIỀU
(1942 -2002)
Nhìn lại lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trong 100 năm qua, chúng ta sẽ biết được công việc
của Đức Thánh Linh. Ngài làm việc qua những con người đầu phục hoàn toàn dưới bệ chân của Ngài.
Sự đầu phục đó tức là dâng trọn cuộc đời cho Chúa sử dụng, làm một người đầy tớ trung thành. Cố
Mục sư Phạm Xuân Thiều, nguyên Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thời kỳ 2001-2002 là
một trong những người như vậy.
Tiểu sử
Mục sư Phạm Xuân Thiều sinh ngày 6
tháng 4 năm 1942 tại Tống Vũ, Vũ Tiến,
tỉnh Thái Bình, là con thứ 6 trong gia đình
cụ cố Mục sư Phạm Xuân Lai. Cố Mục sư
Phạm Xuân Lai là con trưởng nam của
một gia đình phú nông ở Thái Bình. Sau
khi tin Chúa, cụbị cha bắt bớ, đánh đập và
đuổi ra khỏi nhà. Hai vợ chống cụ rời
miền Bắc vào miền Trung, sau đó dâng
mình đi học Trường Kinh Thánh Đà
Nẵng.
Mục sư Phạm Xuân Lai đã từng hầu
việc Chúa ở nhiều nơi tại miền Trung và
miền Nam.Khi phục vụ Chúa tại Ma Lâm, Bình Thuận thì bà bị đau tim, lạihàng ngày phải nghe tiếng
pháo kích khiến bịnh tình ngày thêm nặng. Gia đình lại quá nghèo, không có tiền và phương tiện
chữa trị.Bà được Chúa đêm về nước Ngài khi Mục sư Thiều còn là một thiếu nhi 10 tuổi.(Sau này
Mục sư Phạm Xuân Lai tiếp tục chức vụ tại miền Nam và về với Chúa ngay sau một buổi thờ phượng
tại Mỹ Luông, Chợ Mới, An Giang).
Cuộc sống thời thơ ấu của mục sư Phạm Xuân Thiều đầy những khó khăn. Ông lớn lên trong
một gia đình nghèo vàđông anh êm. Các anh chị em của Mục sư Phạm Xuân Thiều là: Phạm Thị Kim
Chung,Phạm Xuân Trường, Mục sư Phạm Xuân Hiển, Phạm Xuân Quang, Phạm Xuân Thảo, Phạm
Xuân Thiên, Phạm Thị Ânh Thư và Phạm Thị Kim Quý.
Khi Mục sư Phạm Xuân Lai được cử đi hầu việc Chúa tại Hội Thánh Huế, ông đã tục huyền.Cậu
bé Thiều và hai êm trai được đưa vào sinh sống và học tập trong Cô nhi viện Tin Lành Nha Trang
năm 1953. Rời khỏi Cô nhi viện trong lứa tuổi thiếu niên, cậu Thiều sống tự lập với sự hỗ trợ ít ỏi
của anh chị vì cũng thiếu thốn là gia đình Mục sư Phạm Xuân Hiển. Mỗi đầu năm học là mỗi lần tâm
trạng lo âu và bấp bênh lại đến với cậu Thiều vì không biết năm nay mình có tiền để tiếp tục đi học
hay không. Năm đệ Tứ (lớp 9), cậu ở trọ tại nhà ông Hà Thông ở Phan Rang, một con cái Chúa rất
có lòng với những đứa trẻ mồ côi. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu Thiều phải vừa đi học vừa phải đi
dạy kèm để kiếm sống và mua sách vở. Sau khi thi đậu kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp (cấp 2), cậu
lên Đà Lạt ở trọ tại đường Bùi Thị Xuân để đi học trường Trần Hưng Đạo. Mặc dầu cuộc sống của
một thiếu niên mồ côi sống xa gia đình thật khó khăn, thiếu thốn nhưng hoàn cảnh đã không làm
274
nhụt chí cầu tiến của cậu Thiều.Lúc nào trong cậu cũng nung nấu quyết tâm học lên Đại học trong
khi hoàn cảnh buộc phải đi làm kiếm tiền nuôi em.
Năm tháng và cuộc sống hầu việc Chúa khó khăn của ba mẹ đã để lại ấn tượng khó phai trong
tâm khảm cậu thiếu nhi Thiều: những bữa ăn không có gì ngoài mắm cà,nước trà thay nước canh.
Dẫu vậy, ông bà Mục sư Lai đã không một lời phàn nàn mà luôn tạ ơn Chúa. Đức tin nơi Chúa từ cha
mẹ đã ảnh hưởng và giúp cậu Thiều vượt qua cảnh ngộ để vươn lên với lòng tin vào chương trình
tốt đẹp Chúa dành cho mình.
Cuộc sống vừa đi học, vừa dạy kèm để tồn tại vẫn tiếp tục trong những năm học cuối cấp. Vượt
qua ngưỡng Tú Tài I (xong lớp Đệ Nhị) cậu Thiều lại học tiếp lên Tú Tài II với mong ước là vào đại
học, rồi tốt nghiệp, ra trường làm giáo sư kiếm tiền. Nhưng năm đó,suốt mấy tháng ròng, cậu học
trò siêng năng vượt khó luôn cảm thấy đau xót trong lòng về những linh hồn đồng bào đang đùa
đến sự chết mất. Tiếng Chúa thúc giục cậu dâng mình hầu việc Chúa.Nhưng hình ảnh những bữa
cơm đạm bạc và cuộc sống thiếu thốn khiến cậu Thiều đắn đo, tranh chiến bởi cũng như bao người,
cậu không muốn tiếp tục cuộc sống thiếu thốn, khó khăn và bị người khác khinh dễ vì nghèo.
Chúa vẫn không ngừng kêu gọi cậu Thiều đi hầu việc Ngài trọn thời gian. Cậu Thiều thi đậu kỳ
thi Tú Tài II với số điểm khá cao và có thể vào bất cứ trường đại học nào mà không cần phải thi
tuyển. Cậu thanh niên Thiều liền vào học trường Đại học Đà Lạt, ngành Chính trị Kinh doanh. Được
một năm, khi chuẩn bị lên năm thứ hai thì tiếng gọi của Chúa lại vang vọng trong tâm. Sinh viên
Thiều bây giờ đã thẳng thắn thưa với Chúa về nỗi sợ nghèo của mình, Đức Chúa Trời từng ngày trả
lời ông qua những phân đoạnKinh Thánh đọc hàng ngày và qua bài giảng của một tôi tớ Chúa.Cuối
cùng, năm 1962, thanh niên Thiều và một thanh niên nữa tên là Lê Thế Đinh (hiện nay là Mục sư
đang hầu việc Chúa tại Têxas) đã quyết định gạt bỏ ước ao kiếm tiền để sống đời giàu có, bằng lòng
dâng mình hầu việc Chúa trọn đời.
Thật vậy, Mục sư Thiều đã thực hành đúng như vậy trong suốt cuộc đời mình. Và Chúa không
hề để cho cậu Thiều thiếu thốn mà sự quan phòng của Ngài luôn theo sát bước chân của chàng trai
Phạm xuân Thiều.
Trước khi lên đường vào trường Kinh Thánh, cậu Thiều đã viết một lá thư xin ba cậu cầu nguyện
cho mình. Và cậu đã nhận được bức thư hồi âm rất cảm động từ cha mình rằng ông rất tiếc không
thể hỗ trợ gì cho con bằng vật chất, chỉ có thể cầu nguyện cho con đi suốt con đường bằng sự tin
cậy Chúa như ông mà thôi. Bức thư đó đã đi thêo Mục sư Thiều suốt cuộc đời hầu việc Chúa của
mình.
Năm 1967, ông tốt nghiệp Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang.Truyền đạo Thiều đến làm
việc tại Trung tâm Thanh niên Nha Trang trong hai năm và phục vụ trong Ban Phát thanh Tin Lành.
Với tinh thần đầu phục ý chỉ của Chúa, Ngài đã mở đường cho ông để ông được trau dồi thêm
về lời Ngài. Năm 1968, Ban Trị sự Tổng Liên hội, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã chọn Truyền đạo
Phạm Xuân Thiều đi du học tại trường Cao Đẳng Thần học Canada (Canadian Bible College) một
năm để lấy bằng Cử nhân Thần học và sau đó học 3 năm tại Chủng Viện Gordon-Conwell,
Theological Seminary của Hoa kỳ (1970-1973).
Năm 1973, ông tốt nghiệp bằng Thạc sĩThần học (M. Div.)cùng với Mục sư Nguyễn Anh Tài. Ông
được lãnh đạo Hội Thánh tại Việt Nam khuyến khích ở lại học tiếp để lấy bằng Tiến sĩ, nhưng ông
bộc bạch rằng “chỉ muốn về nước để hầu việc Chúa giữa vòng đồng bào, vì nếu trong lúc anh chị em
khó khăn,nguy khốn mình không ở với họ thì lúc hanh thông biết khuyên dạy họ điều gì.”
275
Về nước giữa lúc tình hình đất nước rối ren, Truyền đạo Thiều được bổ nhiệm làm Chánh Văn
phòng Tổng liên hội từ 1973 đến l975. Trong thời gian này, có lời mời ông đi Manila để thay thế
Mục sư Nguyễn Bá Quang và Mục sư Nguyễn Thỉ, nhưng sau một thời gian cầu nguyện ông không
thấy cảm động để nhận lời.
Ngày 11 tháng 4 năm 1974, ông được tấn phong làm Mục sư tại nhà thờ Tin Lành Sài Gòn cùng
với Truyền đạo Nguyễn Hữu Viễn.
Ngày 28 tháng 4 năm 1974 ông lập gia đình với cô Đặng Thị Phương Lan. Tháng 4 năm 1975
giữa cơn biến loạncủa thời cuộc, nhiều người gặp và rủ ông rời bỏ quê hương để di tản sang Mỹ
nhưngông đều từ chối.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông ôm vợ con (đứa con trai mới sinh được 18 ngày) trong lòng và
cầu nguyện xin phó dâng cuộc đời mình một lần nữa trong tay Chúa. Ông và một số tôi tớ Chúa khác
được Tổng Liên hội bổ nhiệm ra Thần Học Viện Nha Trang để thế vào chỗ các Giáo sư đã di tản. Cả
gia đình ba người ra đến Nha Trang vào một buổi chiều tháng 6 năm 1975 trongtâm trạng vừa hồ
hỡi vì đến một nơi thân quên (ông đã sống nhiều năm tại NhaTrang)vừa lo lắng (bà không có bà
con thân tộc ở đó). Tại đây, mục sư Thiều được cử làm Giám học và Giáo sư Thánh Kinh Thần Học
Viện Nha Trang.
Mùa hè năm 1976, sau một năm được mở cửa vui vẻ thì Thần Học Viện được lệnh phải đóng
cửa. Đây cũng là giai đoạn thử thách cho chức vụ của ông, vì sau khi Thần Học Viện tạm ngưng thì
các Giáo sư vẫn ở lại trường, vừa để giữ trường vừa sẵn sàng khi trường được phép mở cửa lại.
Nhưng chính quyền địa phương,sau một số lần làm việc với Ban Giáo sư màkhông ai chịu bàn giao
Thần Học Viện, nên đã ra lịnh tịch thu cơ sở với lý do đã chứa chấp người vượt biên.
Đầu tháng 11 năm 1978, hàng đoàn xê cơ giới và xe chữa lửa đến để kiểm kê đồ đạc, tịch thu
tất cả những gì không có giấy tờ mang tên cá nhân. Tất cả các Giáo sư phải rời Thần Học Viện. Những
gia đình Giáo sư và sinh viên nào còn sót lại tại Thần Học Viện được yêu cầu trở về quê quán hoặc
họ sẽ tạo điều kiện nếu muốn đi đến đâu.Hầu hết các sinh viên đều trở về quê, còn Ban Giáo sư ở
lại Nha Trang vì mong chờ một ngày Chúa cho Viện được mở cửa trở lại. Gia đình Mục sư Phạm
Xuân Thiều và gia đình Mục sư Nguyễn Lâm Hương được Hội Thánh Nha Trang mời về ở tại trên
lầu tư thất cũ của Hội Thánh. Đây cũng là thời gian các giáo sư Thần Học Viện phải hầu việc Chúa tự
túc. Lúc bấy giờ ông Mục sư Thiều góp phần phục vụ Chúa trong vai trò giáo viên Trường Chúa
nhật.
Từ năm 1982 đến 1988 ông được mời làm Phó Chủ tọa Hội Thánh Nha Trang.
Năm 1988, miền Bắc được Chúa thăm viếng, trường Kinh Thánh được Thủ tướng Chính phủ
cho mở lớp đào tạo. Mục sư Phạm Xuân Thiều cùng với Mục sư Nguyễn Hậu Nhương được mời đảm
nhiệm chức Giáo sư các niên khóa từ tháng 7 năm 1988 đến tháng 5 năm 1993. Tạ ơn Chúa, dù chỉ
một thời gian ngắn, nhưng trường đã đào tạo được 15 truyền đạo và hai vị được phong chức mục
sư (cùng các bà) để tạm ổn định và phát triển công việc Chúa tại miền Bắc trải nhiều năm qua.
Tháng 5 năm 1993, khóa học duy nhất tại miền Bắc kết thúc.Ông trở lại miền Nam sống tại lầu
tư thất Hội Thánh NhaTrang suốtmột năm mà không có nhiệm sở.
Tháng 9 năm 1994, ông thấy cơ thể suy yếu cùng với quá nhiều căng thẳng dồn dập nên ông và
gia đình vào Sài Gòn sinh sống và trị bệnh mà vẫn không có nhiệm sở nào.
276
Vào đến Sài Gòn được 2 tuần,thì đến tuần thứ ba, ông được giấy mời làm việc của Công an quận
4. Họ hỏi ông vào đây với ý đồ gì. Sau đó, họ nói rằng ông không được phép giảng hoặc chúc phước
cho đến khi ông có nhiệm sở chính thức. Lúc bấy giờ chỉ có Mục sư mới được phép chúc phước,còn
truyền đạo thì không được, nên sau khi được bầu vào Ban Trị sự Tổng Liên Hội,ông đã xúc tiến việc
phong Mục sư nhiệm chức cho tất cả các truyền đạo quản nhiệm các hội thánh.
Dù hầu việc Chúa tự nguyện, ông đã âm thầm giúp đỡ giới trẻ trong việc học tập phục vụ Chúa.
Trong những năm từ 1994 đến 1999, ông và gia đình tạm trú tại lầu hai nhà anh chị Trần Ngọc Dư.
Trong những năm này ông và một vài tôi tớ Chúa tiếp tục đào tạo người hầu việc Chúa cách âm
thầm tại một vài trung tâm. Khi có tư cách pháp nhân năm 2001 thì đã có được trên 300 Truyền
đạo Tình nguyện được công khai ra mặt.
Ông cũng góp phần hiệu đính bản Kinh Thánh truyền thống (1926) cùng với một số các tôi tớ
Chúa tại Việt Nam (Sau khi ông qua đời,bản Kinh Thánh Tân ước Hiệu đính đã được Chương trình
Xuất bản Kinh Thánh phát hành năm 2004).
Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 2 năm 2001, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) được chính
quyền cho phép tổ chức Đại Hội Đồng để bầu ra Ban Trị sự cho giai đoạn mới.Mục sư Phạm Xuân
Thiều đắc cử Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam), lãnh đạo tân Ban Trị sự Tổng
Liên Hội gồm 23 vị, nhiệm kỳ 4 năm (2001-2004).
Trải qua hơn một phần tư thế kỷ, Hội Thánh đã gặp rất nhiều gian nan khốn khó. Tân Ban Trị
sự Tổng Liên Hội đã phải đối đầu với nhiềuthách thức cam go, vừa ổn định sinh hoạt Hội Thánh
chung,vừa nghiên cứu phương hướng phát triển theo nhiệm vụ mới, thành lập các Ban Đại diện, bổ
nhiệm và thay đổi các quản nhiệm, giải quyết những khó khăn tồn đọng tại các Chi hội, nhất là tập
trung cho việc mở lại Viện Thánh Kinh Thần học để đào tạo lớp người kế thừa. Trước kỳ Hội đồng
Tổng Liên Hội năm 2001, ông bị bệnh phải nằm bệnhviện ba tuần. Các bác sĩ đã khuyên ông phải
giảm bớt cường độ làm việc, nếu không sẽ nguy hiểm cho tính mạng. Nhưng sau khi rời bệnh viện
thì ông lại được bầu vào chức vụ Hội Trưởng với trăm công ngàn việc phải giải quyết của Tổng Liên
Hội sau nhiều năm không họat động.
Những ngày bận rộn với công việc Chúa ở Tổng Liên hội,ông thường tâm sự: “Ước ao lớn nhất
của tôi là được về với Chúa lúc đang hăng say hầu việc Ngài, giống như ba tôi vậy”. Thật vậy, mục
sư Phạm Xuân Thiều chỉ thực hiện chức trách của mình hơn một năm. Giữa lúc công việc đang tiến
triển tốt đẹp thì Đức Chúa Trời thấy thời giờ của Mục sư trên đất đã đủ và các công tác của ông đã
trọn, nên Ngài đã tiếp ông về an nghỉ trong nước vĩnh sanh vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 24 tháng 6
năm 2002 tại tư thất Hội trưởng, số 30 đường Hồ Hảo Hớn, phường Cô Giang, quận 1, thành phố
Hồ Chí Minh, hưởng thọ 60 tuổi. Lễ an táng cử hành vào lúc 8 giờ ngày 28 tháng 6 tại Hội Thánh
Tin lành Sài Gòn, sau đó di quan và an táng tại nghĩa trang Ân Từ Viên, huyện Thuận An, tỉnh Bình
Dương.
Mục sư Phạm Xuân Thiều đã về nước Chúa. Sự ra đi của ông đã để lại sự thương tiếc cho gia
đình, bạn bè và tín hữu cả nước giữa lúc đồng lúa đang chín vàng tại Việt Nam. Thợ gặt đã ít lại càng
ít hơn. Dẫu vậy, “sự chết của các người Thánh là quý báu trước mặt Đức Giê-hô-va ”(Thi 116:15).
Cuộc đời hầu việc Chúa của ông đã để lại tấm gương sáng cho những ai đã được gặp ông, chứng
kiến về cuộc đời ông, nghe những bài giảng, lời dạy và đọc những tác phẩm của ông.
Mục sư Phạm Xuân Thiều trải qua nhiều năm tháng âm thầm hầu việc Chúa mà không được biết
đến, không được nhà nước công nhận. Tổng cộng là hai mươi năm (từ 1976 –1988 và từ 1993 –
277
2001). Một thời gian dài ông không có một chức vị gì trong giáo hội, ngay cả chức Phó Chủ tọa cũng
không được chính quyền địa phương công nhận. Nhưng điều đó không ngăn chận bầu nhiệt huyết
trong ông. Ông vẫn siêng năng, đều đặn làm công tác của mình, vì với ông: cửa đóng nhưng không
khóa. Nếu cửa không khóa,mình vẫn có thể mở được. Và đó là lý do có nhiều người ngày hôm nay
đang được hầu việc Chúa nhờ sự huấn luyện, dạy dỗ của ông trong những năm tháng âm thầm ấy.
Hơn nửa đời người hầu việc Chúa, trước khi lên tòa giảng, bao giờ Mục sư Thiều cũng chuẩn bị
kỹ lưỡng. Ông nói rằng: “Tuy tôi đã hầu việc Chúa và giảng dạy nhiều năm, nhưng không bao giờ tôi
bước chân lên tòa giảng mà không run sợ, vì tôi biết những lời tôi nói ra sẽ ảnh hưởng đến người
nghe cho nên tôi luôn luôn xin Chúa dắt dẫn trong mỗi lời tôi chia sẻ.” Tối thứ bảy ông luôn thao
thức, bài giảng của ông luôn được viết chi tiết, có dấu gạch dưới vì ông đọc đi đọc lại nhiều lần.Ông
không muốn mình bạ đâu nói đó. Càng không muốn mình bị ngắt dòng tư tưởng nếu đang khi giảng
buổi tối mà bị cúp điện.
Với Mục sư, trên hết là đức tin của mình với Chúa và sự tin cậy Ngài. Điều đó được thể hiện rõ
nét trong những lúc ông đối diện với khó khăn, thiếu thốn của gia đình. Châm ngôn sống của Mục sư
là không bao giờ ngại khó. Một trong những thói quen của ông là luôn đến trước giờ hẹn, ông nói: “Thà
chờ đợi nửa tiếng, còn hơn đến trễ năm phút”.Trong bất cứ chuyện gì ông cũng luôn tìm điều tích cực,
bởi vậy sự hiện diện của ông trong bàn ăn luôn đêm lại tiếng cười. Bản tính rất dung dị, dễ gần, vui tính
mà cũng rất khiêm nhường, ngay thẳng. Ông sống nhiều về nội tâm, nên tình cảm của ông luôn dạt dào
với các bạn đồng lao và các môn sinh. Dầu khi ông còn là Truyền đạo hay đã được bầu làm Hội Trưởng
cũng không thay đổi trong cách xử sự. Khi làm công việc Chúa thì dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời
và những sự khích lệ cho đồng lao, còn về mình thì ông không muốn đề cập tới. Tâm niệm của ông là
đã chấp nhận đi thêo tiếng gọi của Chúa thì phải hoàn toàn giao phó sự sống mình cho Chúa. Chúa cũng
đã thành tín với ông trong suốt cuộc đời nên ông cũng không màng tìm kiếm danh lợi hay quyền hành
gì. Điều gì ông có thể làm cho Hội Thánh và anh chị em thì ông sẵn sàng. Với ông, tình cảm giữa người
với người là điều quan trọng; chức tước, học vị chỉ nhằm để giúp mình dễ làm việc hơn mà thôi nên
ông không hề lợi dụng sự quen biết của mình để làm lợi cho bản thân hay cho con cái, điều đó đã để lại
một tấm gương cho gia đình.
Nhớ về ông, người ta nghĩ đến một bó lúa cúi đầu vì trĩu hạt.
278
Gia đình Mục sư Phạm Xuân Thiều trong mùa giáng sinh năm 1997
Mục sư Phạm Xuân Thiều nhận Chứng nhận Tư cách Pháp nhân tại buổi lễ Nhận Tư cách Pháp
nhân và Kỷ niệm 90 năm Tin Lành đến Việt Nam, tổ chức tại Hội Thánh Sài Gònvào ngày 4 tháng 4
năm 2001.
279
Mục sư Hội trưởng Phạm Xuân Thiều trong buổi lễ Khánh thành đền thờ Khả Cảnh, Thái Bình
vào ngày 23 tháng 5 năm 2001.
Mục sư Phạm Xuân Thiều trong lễ Tạ ơn Chúa 40 năm chức vụ và sinh nhật lần thứ 60 vào ngày
06 tháng 04 năm 2002.
Hoài Thương - 01.01.2011
280
Mục sư NGUYỄN CHÂU THÔNG
(1895 – ……)
“Người cũng chẳng hề bị lay động; Kỷ niệm người công bình còn đến đời đời. Người không sợ cái tin
hung; Lòng người vững bền, tin cậy nơi Đức Giê-hô-va”. Thi Thiên 112:6-7
Tôi còn nhớ năm ấy tôi còn là một Truyền đạo trẻ tuổi,đã được cụ Mục sư mời ra giảng một sáng Chúa Nhật
cho Hội Thánh Ninh Hòa. Vợ chồng chúng tôi đi xe lửa ra Ninh Hòa và trước một hội chúng khá đông trong một
nhà thờ bé nhỏ, Cụ đã giới thiệu tôi một cách trịnh trọng làm cho tôi thêm lo lắng.Tim đánh mạnh và ngại ngùng
bước lên tòa giảng. Chúng tôi nhận biết mình là một đầy tớ Chúa còn thiếu kinh nghiệm và hèn hạ trước mặt
Ngài. Sau khi hầu việc Chúa, chúng tôi từ giã ra về nhưng hai Cụ đã thân thiết mời ở lại dùng bữa trưa. Nhơn đó
chúng tôi có dịp tìm hiểu hai cụ nhiều hơn.
Cụ Mục sư Nguyễn Châu Thông sanh ngày 07 tháng 02 năm 1895 tại An Phước, Quảng Nam trong một gia
đình đạo đức theo Nho giáo và có khuynh hướng về Phật giáo. Thân sinh cụ là người rất nghiêm nghị nên đã dạy
dỗ con cái rất mực nghiêm khắc và chu đáo. Ai nấy đều răm rắp vâng lời cha mẹ dạy dỗ sống đạo hạnh, là con
chí hiếu, anh em ăn ở hòa thuận, đối với làng xóm chẳng làm phiền ai cả. Cụ lúc còn trẻ cũng như các bạn thanh
thiếu niên thời xưa đều được gia đình cho học chữ Nho, cho đến khi có phong trào học chữ Quốc ngữ.
Năm 1911, Tin Lành đến Cửa Hàn tức Đà Nẵng bây giờ. Tiếng đồn đạo Huê-kỳ đã đến, nên ai nấy kéo nhau
rầm rộ tìm hiểu xem đạo nầy nói gì?Lúc bấy giờ một số người cũng đã bắt đầu tin Chúa cách chân thật. Trong số
người đến nghe và tin nhận, được tái sanh đổi mới, nhận được nhiều ơn phước, có cụ bà Nguyễn Thị Châu Tuấn,
nhũ danh là Nguyễn Thị Cương. Nhà bà ở tại An Phước và là chị dâu của cụ Thông. Cụ bà là một nữ thánh đồ
của Chúa, sau khi được ơn cứu rỗi của chúa, thì bà rất sốt sắng, nôn nả nói về Chúa cho nhiều người khác. Bà đã
say sưa làm chứng về Chúa cho cụ Thông, bà khuyên lơn, ép nài nên cụ Thông được cảm động ăn năn tin nhận
Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa mình. Lúc bấy giờ cụ còn là một thanh niên 20 tuổi. Cụ làm chứng lại rằng sau khi
đã tìm gặp Chúa thì lòng rất vui thỏa. mang nặng tội lỗi trong tâm hồn đã được Chúa cất bỏ nơi chân thập tự giá.
Linh hồn nhẹ nhàng phơi phới, bước đi trên con đường cứu rỗi. Cụ về làm chứng lại cho đồng bào, và nhất là
người trong gia đình. Cụ bắt đầu gặp nhiều thử thách khó khăn. Một gia đình lâu nay theo Nho giáo, sống an lành,
nề nếp trong xóm làng ai ai cũng kính mến, đột nhiên nay có có người tin nhận đạo mới thì xúc động biết bao.
Tiếng gièm chê không ít, tiếng quở trách cũng nhiều, nên sự bắt bớ la rầy trong gia đình đối với cụ Thông trong
281
lúc ấy không phải là vừa đâu. Tuy nhiên Cụ cũng đã cậy ơn Chúa mà vượt qua, cố chịu đựng và bắt đầu học
Phước Âm Yếu Chỉ, tìm hiểu thêm đạo Chúa cho đến khi được kể là xứng đáng chịu báp-tem. Chính cụ Giáo sĩ
Stebbins đã làm báp-tem cho cụ Thông sau tám tháng tin nhận Chúa.
Có tân tín hữu chưa hiểu ý nghĩa thuộc linh và kinh nghiệm của lễ báp-tem nên xem thường, nhưng đối với
cụ Thông thì đây là một thánh lễ cao quý và linh nghiệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Nhơn lễ nầy cụ đã hiến dâng
đời sống mình phục vụ Chúa trọn đời. Cụ đã lập ước với Chúa qua lễ nầy và lễ Tiệc thánh. Bởi vậy, sau khi nhận
lễ báp-tem thì cụ ghi tên vào học Trường Kinh Thánh. Khi học xong một năm thì liền được bổ chức đi ra phục vụ
Chúa ở Hội An được một năm. Cụ là người đầu tiên được cử đến Hội An lập Hội Thánh nên gặp nhiều chống đối
khó khăn. Nhưng Chúa vẫn ở với cụ và đồng công cộng tác với cụ nên đã đem lại nhiều kết quả cho Chúa. Có
nhiều người tin Chúa, chịu báp-tem và đứng vững trước sự phũ phàng của ma quỉ.
Sau 9 tháng phục vụ Chúa ở đây, cụ lại được thuyên chuyển đến chi hội Sa Đéc thay thế cụ Mục sư Trần
Dĩnh. Bốn tháng sau, lại vì nhu cầu của Giáo hội nên cụ được mời đến Mỹ Tho. Chúa mở cho cụ một cửa Tin
Lành rộng lớn ở đây, nên công việc Chúa đã rất tiến bộ. Nhiều tội nhơn quay lại với Chúa Giê-xu. Tin Lành lúc
bấy giờ được truyền đến các nơi phụ cận như Tân Thạch, An Hóa, Quới Sơn. Từ giã Mỹ Tho, cụ về Trường Kinh
Thánh tiếp tục học Lời Chúa.Sau năm thứ hai, Cụ lại được bổ chức đến chi hội Bến Tre. Đây là một chứng cớ
Chúa đã đại dụng cụ trong trách nhiệm cao quý. Chi hội lúc bấy giờ chỉ có năm,mười tín hữu nhưng Đức Chúa
Trời đã vùa giúp Cụ nên sau 4 tháng chi hội nầy đã đạt đến địa vị tự trị, tự dưỡng.
Sau 2 năm chuyên lo gây dựng nhà Chúa ở Bến Tre, cụ đã được tái hồi Trường Kinh Thánh để học năm tốt
nghiệp. Cụ đã tốt nghiệp khóa 1929 đúng như Tập Kỷ yếu 50 năm Trường Kinh Thánh và Thần học Viện đã ghi
nhận.Tiếp đó, cụ được cử vào hầu việc Chúa tại chi hội Long Xuyên thời gian 1 năm. Từ đây cụ cũng có dịp đến
truyền đạo Chúa tại Sóc Sãi. Đến năm 1930, cụ được tấn phong thánh chức Mục sư. Như vậy, trong thời gian từ
ngày tìm gặp Chúa và hiến dâng đời sống mình phục vụ Chúa năm 1920 cho đến lúc này là 10 năm. Chúa đã đại
dụng cụ gây dựng nhà Chúa có rất nhiều thánh tích qui vinh Danh Chúa.
Lúc bấy giờ Chúa đã xức dầu mới cho cụ và được Giáo hội ủy thác đi chăn bầy Chúa. Trước hết ở Hội thánh
Hàm Long một khóa 2 năm, Chúa có ban ơn cách đặc biệt nên qua thánh chức của cụ, chi hội nầy tăng trưởng.
Sau 2 năm, cụ được chi hội Mỹ Tho mời và suốt qua một thời gian 6 năm, cụ tiếp tục chăn bầy chiên Chúa ở đây.
Chúa Thánh Linh có dùng cụ để phấn chấn Hội Thánh nầy và phát triển mạnh. Từ năm 1939, cụ lại được Chúa
đưa về miền Trung hầu việc Chúa. Trước hết ở chi hội Trường An và trải qua 8 năm trường, cụ kiên trì chăn bầy
của Chúa tại đây cách có ơn.
Hội thánh sau cùng mà cụ được Chúa và Giáo hội sai phái đến là chi hội Ninh Hòa, Khánh Hòa. Cụ được
thuyên chuyển đến đây năm 1950.Trong thời gian hầu việc Chúa ở đây, cụ đã chịu rất nhiều vất vả, khó khăn,
thiếu thốn vì mục đích duy trì và gây dựng nhà Chúa. Trải qua một thời gian khá dài 6 năm, cụ đã cậy ơn Chúa
kiên trì chiến đấu với bao sự ngăn trở, mệt nhọc, lao khổ để hoàn tất thánh nhiệm mình. Chúa là Đấng Toàn năng,
Toàn thắng nên đã nâng đỡ và giúp Cụ hoàn thành thánh nhiệm.
Qua năm 1957, cụ cảm thấy mình sức yếu vì cao niên nên cụ đã đưa đơn xin về hưu trí. Trong thời gian hưu
hạ Cụ đã được sống sum họp với gia đình con cái tại Nha Trang. Cụ kết hôn với cụ bà năm 1922 và sanh được 4
trai, 1 gái. Hai cụ thường đi thờ phượng Chúa ở các chi hội Nha Trang, Vĩnh Phước,Phước Hải và Thành. Trước
đây, cụ cũng thường đi dự nhóm ở nhà thờ Thần Học Viện hay nhà thờ ở Cô Nhi Viện cùng các nơi khác nữa.
Cụ bà tên là Lê Thị Di ở Long Phước (Duy Xuyên, Quảng Nam), lúc bấy giờ cũng là một thiếu nữ tin kính
Chúa. Sau khi làm lễ thành hôn thì cả hai đều vào học Kinh Thánh. Cụ bà có một em trai, cũng đã học Lời Chúa,
đó là Mục sư Lê Thiện Thị.
Cụ ông thường nói chức vụ của cụ được thành công và chạy xong cuộc đua một phần lớn cũng nhờ sự cộng
tác của cụ bà. Cụ bà cũng rất tin kính Chúa và sống một đời rất mực đạo đức, hết lòng kính Chúa yêu người, yêu
Giáo hội. Cụ bà là người rất dịu hiền, ít khi tranh cãi với ai một lời nặng hay tiếng to. Thật hai cụ đã treo một
gương sáng về đời sống tin kính Chúa cùng thánh chức cho các thế hệ trẻ sau này.
282
Đức Chúa Trời cũng tỏ nhiều phép lạ trong đời sống cụ ông. Lâu năm về trước, cụ bị bệnh đau bụng nhưng
cụ đã biệt thì giờ cầu nguyện và Chúa đã chữa bệnh cho cụ lành hẳn. Trong thời gian cụ hầu việc Chúa tại Bến
Tre, chỉ trong 3 tháng đã có 70 người chịu báp-tem và nhiều người tin Chúa, nên Hội thánh này đạt đến nền tự trị
tự lập. Đặc biệt là lần cuối cùng tháng 06 năm 1980, cụ từ Sài Gòn về xe ca bị lật, và cụ đã mê man; nhưng Chúa
đã cứu sống Cụ sau khi nằm ở bệnh viện Phan Thiết trở về nhà một mình. Và một lần khác trên đường ra miền
Trung xe bị lật nhưng được Chúa giữ gìn.
Trong cuộc họp Bồi linh ở nhà thờ Vĩnh Phước từ tối ngày 27 đến hết ngày 29 tháng 06 năm 1982 của các
Mục sư, Truyền đạo tỉnh Phú Khánh,cụ cũng cố gắng đến dự với tôi con Chúa. Tất cả mọi người đều được an ủi
và rất hoan nghênh cụ. Cụ chẳng những dự mà còn đứng lên để khuyến khích dạy dỗ các tôi con của Chúa hãy
thức tỉnh để hầu việc Chúa, chăn giữ bầy chiên của Chúa.Và sau hết, cụ đã dạy cho tất cả hát một bài Thánh Ca
rất có ý nghĩa (nhạc điệu Thánh Ca 170).
Như vậy, chúng ta nhìn thấy thể nào lời kêu gọi thánh của Chúa ứng nghiệm trên đời sống cụ Mục sư Nguyễn
Châu Thông, cũng như đã ứng nghiệm trên chức vụ tiên tri Giê-rê-mi (Gie 1:4-7) và trên nhiều tôi tớ Chúa khác
nữa.
Cầu Chúa vùa giúp mỗi chúng ta và các bạn trẻ trong những ngày tới, nếu Chúa Giê-xu chưa tái lâm, thì được
ơn và sức Chúa trung kiên làm trọn tiếng gọi thánh và có thể nói như Phao-lô: “Tôi đã xong sự cuộc đua, đã đánh
trận tốt lành và sẵn sàng lãnh mão miện vinh hiển Chúa dành cho”.
Bài nầy viết theo:
- Những lời tự thuật của cụ Mục sư Nguyễn Châu Thông trong dịp phỏng vấn cụ tại các Hội đồng.
- Lời làm chứng của cụ ông và cụ bà.
- Tập “Kỷ yếu 50 năm Trường Kinh Thánh và Thần Học Viện”.
- “Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam”.
- “Tin lành là gì?” – Mục sư Phạm Xuân Tín.
- “Người được Chúa dùng” – Mục sư Phạm Xuân Tín.
Mục sư Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 26-30.
283
Mục sư HOÀNG TRỌNG THỪA
(1875 – 1953)
HỘI TRƯỞNG ĐẦU TIÊN
CỦA HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM
(1927-1928)
Vừa bước vào nhà,tôi gặp ngay cụ Hoàng Trọng Thừa, vị Mục sư
cũ của tôi, nét mặt nhơn từ, phúc hậu,đang ngồi ở bàn làm việc. Niềm
nở bắt tay, cụ vui vẻ chào hỏi tôi.
Nghe giọng cụ ai ai cũng tưởng giọng cụ là người Thừa Thiên.
Nhưng thật ra quê hương cụ ở làng Nam Trung, tỉnh Gia Định, phủ Tân
Bình, huyện Bình Xương, thôn Tân Khai.
Cụ sinh ra tại Kinh đô nên sớm thêo đòi bút nghiên. Đức Chúa Trời
đã biệt riêng Cụ từ trong lòng mẹ nên dầu học hành không thua kém
ai, nhưng hai lần ứng thí không đậu nổi, cụ đổi qua nghề Đông y. Chí
nam nhi những muốn vẫy vùng nên cụ đâu thỏa lòng với nghề nầy. Cụ
liền bôn ba vào Đà Nẵng. Lúc bấy giờ tiếng đồn “Đạo Huê-kỳ” nghê
khắp đó đây trong tỉnh Quảng Nam. Mới bước chân xuống tàu cụ đã
nghê người ta bàn tán về “Đạo Huê-kỳ”. Kẻ khên người chê, kẻ phục người chỉ trích. Cụ nhứt định
đến cho rõ chân lý.
Sau khi dự thính một vài lần, Cụ nhận thấy “Đạo Huê-kỳ” nầy chỉ giảng về Đức Chúa Trời yêu
thương thế gian, ban Con độc sanh của Ngài xuống cứu nhân loại. “Đạo lạ”, “Đạo rối” nầy chỉ nói về
một Tin lành quí báu, một ân điển nhưng không Đức Chúa Trời ban cho thế gian. Như thế “Đạo Huê-
kỳ” mà dân chúng đồn đại đây chính là Đạo Tin Lành, Đạo Đức Chúa Trời, nhưng vì thấy phần đông
Giáo sĩ là người Huê-kỳ nên gọi là “Đạo Huê-kỳ” đấy thôi.
Không còn bận tâm với lời đồn bậy, chẳng chút lưu ý đến sự tuyên truyền xuyên tạc nữa, lòng
khao khát sự cứu rỗi mở toang ra nên cụ cứ để riêng nhiều thì giờ kê cứu sách vở, báo chí Tin Lành
và Kinh Thánh nữa.
Dầu lúc bấy giờ cụ đã bắt đầu làm Giáo sư dạy tiếng Việt cho các Giáo sĩ và các Giáo sĩ cũng luôn
luôn khuyên giục cụ sớm tin Chúa, nhưng cụ vẫn chưa chịu. Một tối kia, trong năm 1916, khi ngồi
nghe ông Phúc rao truyền đạo Chúa thì Đức Thánh Linh đã dùng lời Ngài cảm động cụ cách sâu xa.
Cụ không thể nào chống cự nổi với quyền năng Ngài nên quí gối ăn năn tội, tiếp nhận Giê-xu Christ
làm Cứu Chúa mình. Một biến động phi thường tức thì xảy đến trong tâm hồn cụ. Sự buồn rầu, tối
tăm, lo lắng,nặng nề, bối rối biến mất và sự vui vẻ, sáng láng, nhẹ nhàng, bình an đầy dẫy lòng cụ.
Cụ thật đã được tái sinh. Phép lạ Đức Chúa Trời đã thi thố trong tâm linh cụ nên cụ đã hóa ra một
người mới, mới từ lòng dạ đến tâm chí. Thật ra, cụ đã trở nên một người hoàn toàn mới. Trong thời
gian dạy tiếng Việt Nam cho các Giáo sĩ, cụ luôn luôn nghe tiếng Chúa kêu gọi dâng mình phục vụ
Ngài. Nhưng đã lắm lần cụ từ chối tiếng gọi viện nhiều duyên cớ. Một ngày kia, Giáo sĩ tiền phong
R.Â. Jaffray đến thăm công việc Đức Chúa Trời ở Đông Dương, khuyến khích cụ học Trường Kinh
Thánh Trung Hoa bằng cách hàm thụ. Trường Kinh Thánh nầy do ông Triệu Liên Dương làm Đốc
học và Giáo sĩ E. Irwin làm Giáo sư. Tên trường là Kiên Đạo Thánh Kinh Học hiệu ở Quảng Tây. Nhờ
284
ơn Chúa vùa giúp nên khi học xong chương trình, cụ tốt nghiệp vào ngày 13-09-1924. Lễ tốt nghiệp
được cử hành long trọng tại nhà thờ đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam là Chi hội Đà
Nẵng.Giáo sĩ Jaffray từ Trung Hoa mang bằng tốt nghiệp qua trịnh trọng trao cho cụ.Giáo sĩ E. Irwin
và Wm.C. Cadman thành kính đặt tay cầu nguyện Chúa dùng Cụ cho công việc Nhà Đức Chúa Trời
ở nước Việt Nam.
Đức Chúa Trời là Đấng Toàn tri và cũng Toàn năng. Ngài biết kẻ Ngài lựa chọn. Khi xưa Ngài đã
truyền phán cùng Giê-rê-mi thể nào thì nay Ngài cũng phán truyền với đầy tớ Ngài thể ấy.Ngài kêu
gọi sứ giả Ngài thì Ngài đưa đi và xức dầu cho. Chúa từng phán: “Ta đi cùng các ngươi”. Chúa Giê-
xu cũng hứa: “Ta đã gọi các ngươi để các ngươi kết quả cho ta”.
Vị Truyền đạo đầu tiên đã chịu đựng bao cuộc tấn công của ma quỉ. Những sự thử thách xảy
đến. Cơn giận hoảng của kẻ ghen ghét lẽ thật lên đến cực độ đổ dần vào vị Truyền đạo đơn độc nầy.
Nhưng đầy tớ Đức Chúa Trời là người đã quyết chí vâng lời Đức Chúa Trời thì không có điều gì làm
cho người lui bước được. Bởi vậy, Đức Thánh Linh đã giúp cụ đắc thắng khải hoàn. Đức Chúa Trời
đã dùng cụ trong công việc lớn. Những cuộc hành trình truyền đạo đây đó từ Trung ra Bắc hay vào
Nam đều được kết quả tốt đẹp, vinh hiển Danh Ngài và rạng rỡ Hội thánh. Nhiều con cái Chúa được
phước khi nghe cụ rao sứ mạng Đức Chúa Trời, vô số tội nhơn được cứu bởi chức vụ của Cụ nữa.
Sau một thời gian hành chức Giảng sư, cụ được phong chức Mục sư. Lễ phong chức Mục sư cho
cụ được cử hành cách cảm động trong dịp Hội đồng Tổng Liên. Hội đồng thẩm vấn gồm có các Giáo
sĩ tiền phong lão luyện hỏi cụ về sự kêu gọi, từng trải và thần học cách kỹ lưỡng và tuyên bố rất
thỏa lòng về sự trả lời của cụ. Vì việc mà có chức.Đức Chúa Trời phong chức cho cụ là vì công việc
to tát Ngài giao phó cho cụ. Bởi thế nên sau khi đã nhận ân tứ mới, cụ giữ nhiệm vụ Hội trưởng Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam, Giáo sư Trường Kinh Thánh và Mục sư các chi hội trải qua nhiều năm.
Chúa cũng đưa cụ sang Trung Hoa ban bố sứ mạng Ngài trong một Hội đồng đông đúc của Hội
Thánh Tin Lành Trung Hoa nhóm ở Quảng Tây. Suốt mấy ngày đêm cụ giảng dạy Lời Đức Chúa Trời
cách linh động, có Mục sư Quoc-Foo-Wo thông dịch.Nhiều tín đồ được dức dấy và một số tội nhơn
trở lại đầu phục Cứu Chúa.
Cụ rất yêu thương đồng bào Thượng. Cụ thường tha thiết cầu nguyện cho họ. Cụ cũng từng lên
miền cao nguyên làm chứng Tin Lành cho họ nữa. Cụ sốt sắng làm chứng Danh Cứu rỗi Giê-xu cho
họ. Lần ấy họ đang bị một cơn hạn hán lâu ngày nên họ đang ở trong tình trạng khốn đốn. Họ bèn
xin cụ cầu nguyện với Đức Chúa Trời Quyền năng ban cho họ một cơn mưa. Đức Chúa Trời không
hề để tôi tớ Ngài bị hổ thẹn trước dân ngoại nên đêm ấy Ngài đã ban cho một cơn mưa lớn. Nhơn
đó, dân chúng nhận biết Chúa của cụ là Đức Chúa Trời thật, Đấng Chơn thần bèn tin cậy và thờ lạy.
Vì tận tâm với chức vụ thánh nặng nhọc nên sức càng ngày càng yếu mòn. Bởi vậy đến tháng
09.1942, cụ về hưu trí. Trong lúc già yếu cụ vẫn sốt sắng tìm dịp tiện hầu việc Chúa. Cụ dùng nhiều
thì giờ để phiên dịch các sách Hoa văn ra Việt văn và từng hồi từng lúc cũng rao giảng Lời Chúa ở
các chi hội trong ngày Chúa Nhựt. Thật là một tang chung cho Hội thánh Tin lành Việt Nam khi được
tin vị Mục sư đầu tiên đã về Nước Chúa vào ngày 28.07.1953. Dầu cụ đã mất nhưng chức vụ đầy
thành tích quí báu lưu lại đang nói với mỗi chúng ta.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
MS Hoàng Trọng Thừa (1947)
MS Phạm Xuân Tín - “Đời tận tụy”, tr. 9-13.
285
Mục Sư PHẠM XUÂN TÍN
(1912 – 2008)
Mục sư Phạm Xuân Tín (1912-2008) là Mục sư truyền giáo đầu
tiên cho dân tộc Ê-đê ở Ban Mê Thuột (1937-1938), dân tộc Jơ-rai,
Bahnar ở Pleiku (1941-1951), và dân tộc Chru,Chil, Tring, và Rơglai ở
Dran (1952-1962).
Ông đi đến đâu cũng rao giảng, làm chứng về Phúc Âm cứu rỗi của
Chúa Giêxu, và huấn luyện người lãnh đạo. Vì vậy, nhiều Hội Thánh đã
được thành lập và có nhiều Truyền đạo tập sự giảng dạy Lời Chúa.
Ngoài ra, ông còn viết nhiều sách và dịch Kinh Thánh,Thánh Ca và
nhiều sách đạo bằng tiếng của các dân tộc.
Sau 23 năm truyền giáo (1937-1938, 1941-1962), ông chính thức
làm giáo sư tại Thánh Kinh Thần Học Viện và cũng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Trưởng đoàn
Truyền Giáo, Giám Đốc Chẩn Y Viện, Trưởng ban Phát thanh Tin Lành, Trưởng Trung tâm Thiếu
nhi (1962-1975). Ngoài ra, ông còn làm Chủ nhiệm Địa hạt Nam Trung bộ (1975-1987).
Ông đã viết nhiều tác phẩm và dịch nhiều sách hiện đang được Hội Thánh sử dụng làm tài liệu
tham khảo để giảng và dạy, và một số tác phẩm được các nhà ngôn ngữ học dùng làm tài liệu để
nghiên cứu các dân tộc Cao nguyên.
1.Gia thế
Mục sư Phạm Xuân Tín sinh ngày 4.9.1912 tại làng Xuân Tùy, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa
Thiên (Huế).Ông thuộc đời thứ 18 dòng họ Phạm Xuân, con trai út của ông Phạm Văn Kháng.
Ông nội tên là Phạm Văn Chấn tức Minh Chí, là người rất hiếu học, cần mẫn, yêu thích văn
chương,sách vở, phóng khoáng và giỏi chữ Nho, đã mở nhiều trường dạy nhiều môn sinh thành tài
và làm tộc trưởng 16 năm. Do ảnh hưởng của gia đình vừa theo Khổng,Lão, Phật giáo vừa thờ cúng
ông bà nên Mục sư Tín đã được bố dạy biết chữ Hán,Tam Tự Kinh khi lên 7, 8 tuổi, biết giữ phép
tắc, lễ nghĩa đối với mọi người và biết cách thức thờ cúng trong gia đình. Mục sư cũng chịu ảnh
hưởng bởi tính tình siêng năng và ngay thẳng của mẹ, là người hết lòng thương yêu con cái, đã hy
sinh, tảo tần kiếm tiền nuôi con. Vì bịnh tình, bà qua đời và đã để lại trong tâm trí non trẻ của Mục
sư Tín nhiều kỷ niệm khó quên.
Sau khi mẹ mất, ông được bố gởi vào Đà Nẵng rồi vào Bình Định ở với chú thím ruột là ông bà
Phạm Xuân Đài, một giáo viên trường tỉnh, và cũng hết lòng thương yêu, chăm sóc ông với mong
ước ông sẽ trở thành con nuôi, sau này cúng giỗ, thờ phụng chú thím khi qua đời. Ông lớn lên học
ngành bào chế thuốc và mở tiêm thuốc Tây ở phố Đồng Hới.
2.Con đường gặp Chúa và được kêu gọi
Chứng kiến cái chết của mẹ, những nghi thức thờ cúng người quá cố khiến cho ông tự hỏi linh
hồn mẹ sẽ đi về đâu? Âm ti là gì? Âi cai quản? Sáng hay tối? Nhưng không ai có thể thỏa đáp những
thắc mắc mà còn làm cho ông càng thêm lo lắng. Ông lo sợ cơn thạnh nộ của ông Trời, nên đi chùa,
cúng lạy ở các am miễu, có lần bỏ học vào chùa đi tu. Nhưng rồi ông cũng được toại nguyện.
286
Một ngày kia ông được thím mua mấy quyển sách ở chợ tựa đề là “Tin Lành”, “Sách Phúc Âm”,
“Tranh Minh Tâm” in ở Hà Nội. Qua những quyển sách nầy, ông biết đến danh Chúa Giêxu, người
tin Chúa chết sẽ về thiên đàng, còn người không tin sẽ đi địa ngục và những thắc mắc của ông đã
được giải đáp. Nhưng làm sao đến với Chúa? Chúa ở đâu? Thờ phượng Ngài thể nào? Cảm tạ Chúa,
ông được bạn mời xem phim cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Một đêm, ông nằm mộng thấy Chúa hiện ra gọi đích danh: “Hãy thêo ta” giống như trong các
sách Phúc Âm và Công Vụ mà ông đã đọc. Nhưng ông hẹn hai năm sau sẽ theo Ngài. Sau khi tốt
nghiệp ngành thuốc Tây và đi thực tập ở Quảng Ngãi, ông gặp Mục sư Tin Lành giải thích về Đức
Chúa Trời,đạo Tin Lành và quyết định tin Chúa vào tháng 9/1933, cho dù phải gặp bắt bớ và gia
đình chống đối.
Bắt đầu từ giờ phút tin Chúa, cuộc đời ông biến đổi hoàn toàn và niềm vui mừng từ thiên đàng
tràn ngập trong lòng. Ông sung sướng làm chứng về sự cứu rỗi mà ông đã nhận được cho gia đình
và nhiều người. Sau đó, ông dời về Đà Nẵng và có dịp tiếp xúc với nhiều Giáo sĩ, Mục sư, thờ phượng
và tham gia phục vụ Chúa ở Hội Thánh Đà Nẵng. Tuy nhiên, ông vẫn khao khát muốn biết Chúa và
lời Ngài hơn nữa nên có ý định học trường Kinh Thánh. Ông chịu phép báp têm vào ngày 02.06.1935
tại Đà Nẵng. Ông nghe tiếng Chúa kêu gọi lần thứ hai, nên quyết định làm đơn xin học trường Kinh
Thánh vào năm 1935.
Tại trường Kinh Thánh ông được gặp Chúa cách riêng tư qua lời Ngài và qua sự cầu nguyện, và
cũng nhận được khải tượng truyền giáo cho các dân tộc thiểu số ở vùng Cao Nguyên. Không được
gia đình ủng hộ và cũng không nhận được sự giúp đỡ về tài chánh từ gia đình, nhưng từng hồi từng
lúc Chúa mở đường cho ông, ông đi làm thêm vào những dịp hè, dạy Việt Văn trong trường Thần
Học kiếm tiền đóng học phí.
3.Gia đình
Với ước nguyện đi truyền giáo ở Cao nguyên, Chúa đã sắm sẵn cho ông người vợ thật tuyệt vời
là cô Nguyễn Thị Sen sanh năm 1916 ở Vinh, xuất thân từ một gia đình trung tín, yêu mến Chúa. Cô
bằng lòng đồng hành với ông đi truyền giáo những nơi nghèo nàn và khổ cực ở vùng Cao nguyên.
Hôn lễ của ông bà được tổ chức vào ngày 08.05.1937, cũng là lúc ông hoàn tất năm thứ hai của
trường Kinh Thánh.
Hiện nay, ông bà có tất cả 10 người con gồm 6 trai và 4 gái. Hai con trai đã mất sớm trong những
năm ông bà đi truyền giáo. Đến nay, ông bà có thêm 3 dâu, 4 rể, 14 cháu và 4 chắt.Theo lòng mong
ước của ông bà, các con cái trong gia đình cũng nối gót bố mẹ tiếp tục hầu việc Ngài trong nhiều
lãnh vực khác nhau ở Việt Nam cũng như hải ngoại.Người thì tiếp tục chức vụ Mục sư, người là
Truyền giáo ở Bangadesh, Mông Cổ,người thì cống hiến thì giờ dịch thuật và viết sách, người thì
sáng tác. Tất cả đều cùng một một mục đích chia sẻ Phúc Âm và nói về tình yêu Chúa cho mọi
người.Ông bà đã thoả nguyện để nói lên như trong Gios 24:15b “Nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức
Giê-hô-va”.
4.Những năm chức vụ
a.Truyền giáo cho dân tộc Ê-đê tại Ban Mê Thuột, 1937-1938
Tháng 7/1937, sau khi lập gia đình, ông bà đến Ban Mê Thuột với tư cách là Truyền đạo Tập sự.
Tại đây, ông bà bắt đầu học tiếng Ê-đê và làm chứng, cũng mở các lớp học chữ, dạy thêu, may, dạy
thiếu nhi. Kết quả có nhiều người tin Chúa và có người sau nầy trở thành Mục sư, Truyền đạo.
287
Trong giai đoạn truyền giáo tại cao nguyên, ông bà không tránh khỏi những khó khăn. Khó khăn
vì các tranh tra Pháp, nơi ở nghèo nàn, ăn uống kham khổ, bịnh sốt rét, đời sống thiếu thốn, đối
diện nhiều mối nguy hiểm từ những côn trùng nhỏ bé cho đến rắn rít và thú dữ. Tuy nhiên, những
khó khăn đó không làm chùng lòng hay ngăn trở bước chân của ông bà đêm Tin Lành đến những
buôn làng xa xôi, hẻo lánh. Ngoài ra,ông bà cũng đi truyền giáo ở Cheo-reo (Phú Bổn) vào năm 1938
và tìm hiểu các chi phái Jơ-rai, Hơdrung, Krung, v.v…
Ông bà là Truyền giáo người Kinh đầu tiên đêm Tin Lành đến cho người Ê-đê. Năm 1938, ông
soạn xong sách “Đường Cứu Rỗi”, sách làm chứng nhan đề “Jêsus Christ”, và một số sách nhỏ khác
bằng tiếng Việt. Bên cạnh đó, ông cũng dịch một phần Kinh Thánh và một số bài hát ra tiếng Ê-đê.
Trải qua nhiều nhà truyền giáo kế nhiệm, hạt giống đầu tiên đã nẩy nở và kết quả, hiện nay có hơn
100.000 người Ê-đê tin Chúa.
b.Truyền giáo cho dân tộc Jơ-rai và Bahnar ở Pleiku, 1941-1951
Sau hai năm thực tập tại Ban Mê Thuột, ông bà cùng con gái là Lily Son trở về trường Kinh
Thánh để học năm tốt nghiệp vào năm 1939-1940. Trong khóa học nầy, ông bà có thêm một ái nữ
là Pham Thị Sô. Trong trường, ông làm Đại diện học sinh, Trưởng ban Cầu nguyện cho việc truyền
giáo, cũng trong Ban Ẩm thực. Tuy phải gánh vác nhiều trách nhiệm,ông bà cũng hoàn thành những
bài thi lễ tốt nghiệp.
Theo nguyện vọng truyền giáo ở cao nguyên, ông bà được bổ nhiệm đến Plêiku để truyền giáo
cho người Jơ-rai và Bahnar. Tại đây, ông học tiếng Jơ-rai rất nhanh, không bao lâu sau đã có thể
giao dịch và giảng dạy. Ông cũng dựng một nhà sàn bằng tre với mái tranh có phòng nhóm, phòng
khách, phòng ngủ, nhà bếp và được khánh thành vào ngày 04.05.1941. Mỗi tối đồng bào thượng
đến nghe giảng rất đông đảo.
Đây là vùng đất mới,lạnh lẽo, nước độc, nhiều bệnh tật, sốt rét, nghèo nàn thiếu thốn mọi bề, và
cũng là nơi đầy mê tín dị đoan, bùa ngải, ếm chú, thờ nhiều thần. Tuy nhiên, mọi khó khăn gian khổ
không làm ông bà sờn lòng, nản chí. Cánh tay Chúa vẫn dang ra che chở, cứu giúp và tiếp trợ từng
hồi từng lúc cách diệu kỳ. Có lúc bà bị bệnh sốt rét nặng ở một nơi xa nhà thương, thiếu thuốc men,
tưởng chừng không qua khỏi.Cảm ơn Chúa, sau 10 ngày chữa trị bà khoẻ trở lại, tiếp tục cùng ông
gùi con đi vào buôn làng thăm viếng và giảng dạy Kinh Thánh.
Nhiều lúc để con ở nhà, từ sáng sớm ông bà cỡi ngựa vượt đồi băng suối từ làng nầy qua làng
kia giảng dạy, thăm viếng tín đồ đến tối mịt mới trở về. Biết bao nguy hiểm cận kề theo những con
đường mòn lên đồi xuống dốc, khi gặp cọp dữ, lúc mắc mưa dầm. Nhưng Đức Chúa Trời đã sai thiên
sứ xua đuổi hết thú dữ và bảo vệ ông bà trong gang tấc.
Có một lần ông đi một mình thăm tín đồ ở xa khoảng 60 cây số. Ông không quên đem theo gạo,
nước, cá khô, muối, tập hình ảnh Chúa Giê-xu, bài hát, mền, v.v… Ông vừa đi vừa giảng, vừa dò
đường tới địa điểm. Tuy mệt nhọc vì đường xa xôi, nhưng ông vui mừng biết bao vì có nhiều người
đang chờ đón nghê Tin Lành. Khi về ông bị lạc đường đến một làng cùi. Tại đây, ông lại có cơ hội
giúp đỡ thuốc men và rao giảng về Chúa Cứu Thế. Có lúc ông chợt hoảng sợ vì thấy mình và ngựa
đang băng qua một bãi đất lún sâu rất nguy hiểm. Khi về đến nhà, ông không ngớt tạ ơn Chúa vì
trong hành trình đầy cô đơn đó luôn có bàn tay quyền năng Ngài đưa ra cứu giúp.
Bao nhiêu lần ông đi giảng đạo bị nhiều quan chức cao cấp cấm đoán, dọa nạt; hay chịu đói khát
và bịnh tật, nhưng Chúa vẫn giữ gìn đi và về đến nhà bình an. Có những con đường rừng nguy hiểm,
một người một ngựa giữa núi rừng hoang vắng, nhiều thú dữ, vừa buồn tẻ vừa đáng sợ, nhưng vì
288
trách nhiệm Chúa giao ông không thể trễ nãi. Có lần lêo lên đến một dốc đá cao, trơn trợt, ngựa
trượt chân ngã quỵ gãy răng, nhưng Đức Chúa Trời bảo vệ ông bình an. Có nhiều lúc bị đỉa, rận, rệp,
bọ chét tấn công, ông chịu dựng hết, chỉ để rao giảng Tin Lành nước trời.
Thời chiến tranh Nhật chiếm Đông Dương trong những năm 1943-1945, ông bà đã có ba con là
Lily Son,Mimiê Sô và Titi Thành. Gia đình ông bà rơi vào hoàn cảnh thiếu hụt trầm trọng,áo quần
rách nát, không còn đủ lương thực. Mắm, muối, gạo khan hiếm có khi phải ăn cơm không. Đức Chúa
Trời thương xót, tiếp trợ và chăm sóc gia đình ông bà cách lạ lùng. Nhiều lúc vì không đủ tiền, bà
phải mua muối để đổi gạo và nước uống cho gia đình.
Năm 1945, bà sanh một con trai. Sau 5 ngày, cháu lên cơn sốt, bỏ bú, rồi qua đời. Không có hòm
để chôn và cũng không ai giúp đỡ, sức bà còn yếu và buồn bã vì con chết. Cuối cùng ông liệm con
trong một chiếc thùng mới và khiêng đi chôn. Trong những ngày đau buồn đó, chỉ có Chúa mới hiểu
thấu nỗi lòng của ông bà.
Sau khi con qua đời,ông được thuyên chuyển qua Ban Mê Thuột nhưng kiêm lo cho Plêiku. Vì
tình hình khó khăn nên ông đưa bà và các con về Vinh. Từ giã vợ con, ông trở lại Pleiku một mình
để thu xếp và chuyển qua Ban Mê Thuột. Bước đi nặng nề cô đơn giữa núi rừng,gió lộng cộng với
sương đêm lạnh thấu buốt, tiền bạc không có bao nhiêu, lòng lại nhớ vợ thương con còn thơ dại.
Chặng đường đi từ Pleiku qua Ban Mê Thuột trên 200 cây số, di chuyển bằng voi đầy gian nan. Tuy
nhiên, đi qua làng nào ông cũng không quên nhiệm vụ Chúa giao là rao giảng Tin Lành và khuyên
giục đồng bào Thượng sớm tin nhận Chúa.
Ông đến Ban Mê Thuột vào tháng 10.1945, tại đây ông được tự do rao giảng đạo. Trách nhiệm
nặng nề cả hai nơi, Ban Mê Thuột và Pleiku, nỗi cô đơn, thương nhớ vợ con, ăn uống kham khổ,thiếu
thốn mọi bề, bệnh tật, lắm lúc làm ông không khỏi nản lòng, muốn bỏ cuộc.
Sau một tháng, tình hình chiến sự trở nên căng thẳng, ông phải chạy lánh nạn. Không thể tả hết
hoàn cảnh một mình và sự lo lắng. Ông đã phải ăn cỏ tàu bay chấm muối, đi đào củ chuối để luộc ăn
sống qua ngày giữa rừng hoang vắng. Thân thể ốm yếu, quần áo rách nát, không tắm rửa, phải đóng
khố để che thân làm cho ông càng cảm thấy hãi hùng cảnh núi rừng âm u. Sau 50 ngày, ông mới trở
về được với anh em trong sự bình an. Giữa muôn ngàn khó khăn và vì tín đồ chưa biết dâng hiến,
nên ông phải tự túc để hầu việc Chúa. Có lần ông đã phải bán bộ Âu phục lấy tiền làm vốn mua chuối
bán kiếm tiền mua gạo, cá khô và muối. Sau 22 tháng không tin tức, ông mới được gặp lại vợ con.
Thật không thể nào tả hết ơn Chúa đã phù hộ, cứu giúp,nuôi nấng chăm sóc gia đình ông bà.
Năm 1947, ông và gia đình trở lại Pleiku. Tất cả đồ đạc đều mất hết nhưng ông bà cảm tạ Chúa
vì còn sống sót để hầu việc Ngài. Ông được cử làm Đoàn trưởng Đoàn Truyền giáo. Tại Pleiku, Chúa
ban cho ông bà có thêm hai con trai là Phạm Xuân Bahnar Trung (17.4.1948) và Phạm Xuân Nghĩa
(21.3.1950).
Tại Pleiku, ông bà không chỉ xây dựng trụ sở truyền giáo, giảng đạo, thăm viếng và dịch Kinh
Thánh, mà còn mở lớp dạy Kinh Thánh và huấn luyện người hầu việc Chúa. Sau 10 năm ở Pleiku,
ông bà đã dịch xong Tân Ước, sách Sáng Thế Ký, nhiều sách nhỏ,sách giáo lý, bài hát, Phước Âm Yếu
Chỉ ra tiếng Jơ-rai và viết quyển sách đầu tiên bằng tiếng Jơ-rai nhan đề “Tơlơi Ơi Âdai” (Lời Đức
Chúa Trời). Sau nhiều gian nan, sách đã được in ra. Người Jơ-rai và Hơdrung rất vui thích đọc quyển
sách đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ. Sau đó, những bài Thánh Ca, các sách Tin Lành lần lượt cũng được
in ra bằng tiếng Jơ-rai và Bahnar. Ngoài ra, ông bà còn dịch một số bài hát, các thư Giăng I, II, III và
Giu-đê ra tiếng Ê-đê.
289
Khởi đầu cuộc hành trình truyền giáo 10 năm tại Pleiku chỉ là một khu vực đất mới rộng lớn
của người Jơ-rai, Bahnar và Hơ-drung, chưa có tín đồ, chưa có một nhà thờ, chưa có một quyển
sách đạo. Ông bà đã vượt Trường sơn, băng rừng lội suối, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, mệt
nhọc đi từ làng gần tới làng xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin Lành Cứu rỗi. Mặc dầu lòng người ở
Pleiku thật cứng cỏi vì mê tín dị đoan,tối tăm và tội lỗi, ông bà vẫn kiên trì dạy Đạo, rao giảng Tin
Lành. Dần dần,những người tin Chúa được học hỏi lời Ngài đi về làng làm chứng và có nhiều người
hơn nữa tin nhận Chúa.
Bên cạnh phụ giúp chức vụ của ông có bà. Không chỉ lo cho con cái, tới buôn làng nào, bà cũng
đều dạy may, dạy đan, dạy học chữ, dạy viết, dạy nấu ăn, dạy vệ sinh thường thức và dạy Kinh
Thánh bằng hình ảnh cho các phụ nữ dân tộc.
Sau 10 năm truyền giáo tại Plêiku, ông được phong chức Mục Sư vào ngày 18.06.1950. Đến năm
1951,có 6 Hội Thánh với các Truyền đạo Tập sự từ những buôn làng trong núi rừng xa xôi rủ nhau
đi dự Hội đồng. Lòng ông bà vui mừng thấy được kết quả của mình,quên hết bao nỗi nhọc nhằn.
Theo biểu quyết của Giáo hội, ngày 01.01.1952, ông bà từ giã Pleiku và công việc nhà Chúa ở
đây để chuyển đến Dran. Ngày từ giã là ngày khó quên trong chức vụ của ông bà với tiếng khóc lóc
chia tay đưa tiễn đầy xúc động của những con người thật thà đơn sơ của núi rừng.
c.Truyền giáo cho dân tộc Chru, Chil, Tring, Roglai ở Dran, 1952-1962
Ông bà và gia đình đến Dran, nơi đó có khoảng 150.000 người gồm dân tộc Chru, Chil, Tring và
Rơglai.Khi hầu việc Chúa tại Pleiku và Ban Mê Thuột ông biết nói Ê-đê, Jơ-rai, Bahnar,Hơdrung,
quen với khí hậu và phong tục, nhưng nay chuyển tới chỗ mới, ông bà thật bỡ ngỡ.
Bắt đầu chức vụ, ông bà góp phần xây dựng Trung tâm Truyền giáo tại Dran và khánh thánh
ngày 04.05.1952. Trong thời gian nầy ông vừa lo học tiếng Chru vừa làm chứng dần dà có người
thượng tin Chúa. Mỗi buổi nhóm sáng Chủ Nhật đều có thêm người đến nhóm, cũng có cả người
Kinh.
Trong 8 tháng đầu tiên đã có hơn 60 người Chru tin Chúa. Ông dịch xong sách Tin Lành Mác,
Phước Âm Yếu Chỉ, Tranh Minh Tâm, một số Thánh ca và các sách nhỏ về lẽ đạo ra tiếng Chru. Ông
bà thường đi vào các buôn làng làm chứng phát sách, rao giảng và dạy các lớp Kinh Thánh, nhưng
đồng thời cũng không quên người Kinh.
Ngoài việc truyền giáo tại Dran, vì ông giữ chức Đoàn trưởng Đoàn Truyền giáo ở cao nguyên
nên ông còn phải đi thăm viếng và giảng dạy nhiều nơi cho các dân tộc khác như Chrao, Ri-ôn, Chil,
Mạ trải dài từ Túc Trưng cho đến Khê Sanh. Ngày 01.08.1952,ông được thuận cho phép xuất bản
“Tạp chí Truyền giáo” do ông làm chủ nhiệm và kiêm chủ bút.
Mặc dầu phải đảm đương nhiều trách nhiệm, ông không quên nhắc nhở bầy chiên đọc và học
Kinh Thánh, mở các lớp huấn luyện tín đồ, chấp sự, truyền đạo địa phương về phương pháp làm
chứng, cách phục vụ Chúa và chăn bầy. Bên cạnh đó, ông tiếp tục viết sách và dịch Kinh Thánh, các
sách giáo lý căn bản, truyện tích Kinh Thánh ra tiếng Chru. Ông bà còn phân phát các sách học vần,
tập đọc cho những người chưa biết đọc. Ông bà cổ động và xây dựng một nhà thờ bằng vách ván,
khánh thành ngày 11.12.1955. Trọng tâm của ông bà trong chức vụ là đào tạo và huấn luyện ngưòi
hầu việc Chúa. Các lớp Thánh Kinh Tiểu học đường được mở ra. Nhờ đó, khi các nhà thờ lần lượt
được xây dựng, có truyền đạo tập sự giảng dạy lời Chúa và coi sóc bầy chiên, tín đồ không phải đi
xa đến tận Dran để thờ phượng Chúa.
290
Tháng 03.1957, ông được đi học về ngôn ngữ học và bổ túc Ânh Văn tại Đại học đường
Philippines, nhờ đó biết thêm về phương pháp đặt chữ viết cho người Chru, Stiêng, Katu và soạn
sách vần cho người Chru. Ngày 09.11.1959, ông có dịp học lớp Truyền đạo Thiếu nhi ở trường Huấn
luyện Thiếu nhi tại Philippines. Sau khi học về, ông được cử làm Trưởng ban lo phát động chương
trình thiếu nhi khắp nước.
Năm 1959, tại Dran có 8 Chi hội được thành lập với khoảng trên 800 tín hữu và có 5 người Chru
trở thành Truyền đạo đầu tiên. Tuy nhiên, còn biết bao linh hồn chưa được cứu. Cũng trong năm
nầy, Hội đồng Đoàn Truyền giáo Tin Lành Việt Nam tuyên bố giải thể;ông được đắc cử chức vụ Phó
Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.
Năm 1960, có 13 Chi hội được thành lập với khoảng 3.000 tín đồ và 13 Truyền đạo Tập sự
hướng dẫn.Do nhu cầu chung của Giáo hội, năm 1960 ông nhận thêm công tác tại Chẩn Y Viện.Đồng
thời, ông cũng được yêu cầu dạy Phương pháp Truyền đạo Thiếu nhi và thị cụ,phương pháp tổ chức
và dạy trường chủ nhật cho Thánh Kinh Thần Học Viện khóa đầu tiên, 1960-1961. Như vậy, ông
phải nhận lãnh ba trách nhiệm cùng một lúc: truyền giáo, xã hội, và huấn luyện.
Tại Dran, ông bà có thêm bốn người con nữa là Phạm Xuân Trí, Phạm Xuân Nhân, Hồng Đức,
Hồng Hạnh.Tuy công tác truyền giáo của ông bà tại Dran không quá cam go như Ban Mê Thuột và
Plêiku, nhưng không phải là không có khó khăn. Chứng sốt rét rừng hành hại,té ngựa, đời sống
thiếu thốn, ăn uống thiếu dinh dưỡng nên bà ngày càng kém sức khỏe. Tại Dran, con trai đầu của
ông bà là Titi Thành, lên kinh phong và sốt rét nặng đã về nước Chúa năm 1952, được 11 tuổi.
d.Phục vụ Chúa tại Thần Học Viện, 1952-1975
Theo quyết định của Mục sư Viện trưởng ngày 21.06.1962, ông được yêu cầu rời Dran về Thánh
Kinh Thần Học Viện tại Nha Trang để làm nhiệm vụ giáo sư toàn thời gian.
Ông đảm trách nhiều môn học cho học sinh ngũ niên, đồng thời cũng đi dạy các lớp cao đẳng ở
Sài Gòn, các lớp cán sự và Thánh Kinh tiểu học đường ở các địa hạt. Ông luôn bận rộn soạn bài vở,
học hỏi lời Chúa, vun trồng thánh chức. Sau đó ông còn giữ chức Phó Viện trưởng.
Năm 1967, vì áp lực công việc quá lớn, ông xin rút lui khỏi công tác Giám đốc Chẩn Y Viện vào,
để dành trọn thời gian cho công việc của một giáo sư. Nhưng rồi ông lại được cử làm Trưởng ban
Trung tâm Truyền đạo Thiếu nhi và Trưởng ban Phòng Phát thanh Tin Lành tại Nha Trang. Trong
sự cầu nguyện, dâng hiến của nhiều Hội Thánh, và nỗ lực của ông bà, Trung tâm Truyền đạo Thiếu
nhi của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được khánh thành ngày 21.04.1970. Ngoài ra còn có một số
Trung tâm Thiếu nhi được mở ra tại Sài Gòn và Đà Nẵng.
Năm 1969, Phòng Phát thanh Tin Lành, trước là Phòng Ghi âm tại Hội Thánh Gia Định, sau đó
được chuyển ra Nha Trang. Khi ông làm Trưởng ban Phòng Phát thanh Tin Lành, mọi công tác cứ
được tiếp tục, có thêm chương trình phụ nữ, thiếu nhi, và nhiều chương trình khác nữa. Sau đó,Ban
Trị sự Tổng Liên Hội quyết định dời Phòng Phát thanh Tin Lành vào thành phố Sài Gòn và chuyển
giao công việc cho người khác.
Vì nhu cầu giảng dạy,Chúa cho ông cơ hội đi học thần học tại trường Đại học Thánh Kinh Moore
(Moorê Biblê Collêgê), Sydnêy (Úc) năm 1967. Ông hoàn tất chương trình M.R.E. tại trường Thánh
Kinh Goshen (Goshen Biblical Seminary) (Mỹ) năm 1972-1974. Trở về nước,ông tiếp tục giảng dạy
tại Thần Học Viện và đảm trách Trung tâm Thiếu nhi.Trong thời gian ông làm giáo sư, bà vừa lo
291
nuôi dạy con cái và cũng vừa tham gia giảng dạy tại Thần Học Viện các môn học như Người Nữ
Truyền đạo, Việt Văn,đồng thời giúp ông trong việc dạy bài mẫu thiếu nhi.
e.Chức vụ Chủ Nhiệm địa hạt Nam Trung Bộ, 1975-1987
Ngày 03.03.1975, ông được tín nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Điạ hạt Nam Trung bộ. Đây là thời
gian bận rộn vì ông vừa phải lo chu toàn việc giảng dạy ở Thần Học Viện, vừa phải lo việc trong hạt.
Sau ngày giải phóng Miền Nam, ông không tiếp tục dạy tại Thần Học Viện,nhưng vẫn cùng với các
Mục sư và Truyền đạo lo công việc Chúa trong hạt.
Đây là giai đoạn đầy khó khăn, thách thức và gánh nặng. Là Chủ nhiệm Địa hạt, ông phải lo giải
quyết nhiều nan đề trong hạt. Những ngày sau giải phóng là cảnh hỗn loạn ồn ào, nhiều người di
tản bị thiếu thốn, mất mát trong đó có nhiều tín hữu kéo về Nha Trang,ông bị báo cáo sai sự thật.
Tại Thần Học Viện, học viên và giáo viên tự động bỏ ra về, chỉ còn lại số ít. Nhiều nhà thờ bị bỏ trống
vì thiếu người chăn. Ông phải đi thăm các Chi hội gần xa giải quyết nhiều vấn đề, lo bổ nhiệm Mục
sự và Truyền Đạo đến những Hội Thánh thiếu người chăn.
Mười năm làm Chủ nhiệm là những năm than khóc khi nghê nhiều nhà thờ đóng cửa, nhiều Mục
sư, Truyền đạo đi cải tạo, việc đi lại khó khăn, lao đao lận đận, lại còn bị hạch sách, nhục mạ.Trong
thời gian nầy, bà là người luôn cầu thay, an ủi, chia sẻ và giúp đỡ ông trong những năm tháng mà
ông gọi là “những năm tháng lao đao khốn đốn.”
5.Những năm hưu hạ, 1987-2008
Ban Trị sự Tổng Liên Hội chấp thuận ông về hưu ngày 01.05.1987 sau 50 năm hầu việc Chúa
(1937-1987).Trong những ngày hưu hạ ông vẫn có cơ hội thăm viếng và giảng dạy trong nhiều Hội
Thánh. Sau năm 2000, vì mắt quá yếu, không nhìn thấy rõ nên ông chỉ giảng ở những Hội Thánh
gần và viết sách nhờ sự giúp đỡ của hai thanh niên.
Ngay từ những năm bắt đầu chức vụ truyền giáo đầy khó khăn gian khổ, ông đã viết và dịch
nhiều tác phẩm cho người Ê-đê,Jơ-rai, Bahnar, Chru và cả cho người Việt. Trong đó có những tác
phẩm dành cho thiếu nhi, sách giải nghĩa Thánh Kinh và sách giáo khoa dùng trong trường Thần
Học. Có những công trình dài hạn như bản dịch Kinh Thánh (từ năm 1970 đến 1990)hoặc bộ Thánh
Kinh Phù dẫn với sự cộng tác đắc lực của bà. Hiện nay, nhiều tác phẩm của ông bà để lại đang được
sử dụng trong Hội Thánh và được các nhà ngôn ngữ học Việt Nam dùng làm nền tảng tìm hiểu về
ngôn ngữ của các dân tộc vùng cao nguyên.
Những năm tháng hưu hạ, ông bà hưởng tuổi già bên con cháu, nhưng bà vẫn tiếp tục phải chịu
dựng căn bệnh sốt rét hành hạ bắt nguồn từ những năm truyền giáo tại cao nguyên. Mặc dầu vậy,
bà vẫn sát cánh giúp đỡ ông trong chức vụ và khích lệ con cái trong sự hầu việc Chúa. Một trong
những điểm nổi bật trong đời sống theo Chúa của bà là sự cầu nguyện. Mỗi ngày bà cầu nguyện ba
lần cho nhiều người, cho công việc Chúa chung và cho gia đình con cái.
Trong những cuối,ông thường bị đau nhói trong ngực và khó thở. Đẹp ý Chúa, ông đã về nước
Chúa ngày 02.01.2008. Bà là người cầu nguyện, luôn hy sinh, đảm đang, yêu thương chồng con và
cũng hết lòng yêu kính Chúa, đã cũng ông trên mọi nẻo đường truyền giáo gian khổ, cùng ông viết
và dịch sách. Chức vụ của ông thành công và còn đứng vững vàng trong những lúc khó khăn sóng
gió cho tới cuối cùng là nhờ bà đứng phía sau hỗ trợ. Đẹp ý Chúa bà đã về nước Chúa ngày
15.01.2008.
6.Kết luận
292
Mục sư Pham Xuân Tín xuất thân từ gia đình không tin Chúa, nhưng với tấm lòng khao khát tìm
kiếm và đã tin Chúa. Ông được Chúa kêu gọi dâng cuộc đời hầu việc Chúa và được ban cho khải
tượng truyền giáo giữa các dân tộc cao nguyên. Là người vỡ đất mới, ông đi đến đâu cũng rao giảng,
làm chứng, dạy dỗ, huấn luyện, học tiếng và viết sách và dịch Kinh Thánh.
Ông bà đã hy sinh rất nhiều cho công cuộc truyền giáo, tận tâm tận lực nhiều năm trong chức
vụ giảng dạy và huấn luyện người hầu việc Chúa trong Thần Học Viện và các lớp Cao đẳng.Ông còn
phục vụ tại các trung tâm như Chẩn Y Viện, Trung tâm Thiếu nhi, đài Phát thanh Tin Lành; giữ chức
vụ Chủ nhiệm Địa hạt Nam Trung bộ, huấn luyện và giảng dạy nhiều nơi.
Ông bà đã trải qua nhiều khó khăn, gian nan, nguy hiểm, đói khát và bịnh tật, tưởng chừng như
không thể nào có thể tiếp tục. Bởi ơn Chúa, ông bà không chùng bước hay nản lòng, cứ trung tín tận
dụng tất cả những khả năng phục vụ Chúa cho tới hơi thở cuối cùng. Nơi nào bàn chân ông bà đã
đặt chân đến đều mở ra trang sử mới của Hội Thánh tại nơi đó, nhiều dân tộc thiểu số tìm được
ánh sáng và sự Cứu rỗi trong Chúa Giê-xu, nhận được tình yêu của Đức Chúa Trời, kinh nghiệm
quyền năng Đức Thánh Linh và còn được đọc Kinh Thánh, các sách đạo bằng tiếng mẹ đẻ. Nhiều
phụ nữ các dân tộc được bà dạy dỗ, hướng dẫn cách chăm sóc gia đình và hiểu biết lời Chúa.
Từ những bước đầu tiên đầy mồ hôi và nước mắt của ông bà Mục sư Phạm Xuân Tín, ngày nay
nhiều Hội Thánh các dân tộc vùng cao nguyên mọc lên khắp nơi, nhiều người được giải thoát khỏi
hồ lửa đời đời và trở thành con cái Đức Chúa Trời, nhiều người được kêu gọi trở thành người hầu
việc Chúa, rao giảng Tin Lành.
Đời sống và chức vụ của ông bà là một sự đóng góp vô cùng lớn lao cho sự phát triển Hội Thánh
Tin Lành Việt Nam giữa dân tộc Kinh cũng như các dân tộc thiểu số. Ông bà đã để lại những tấm
gương sáng trong chức vụ hầu việc Chúa, sự cầu nguyên, đức tin, tấm lòng ngay thẳng rao giảng lời
của lẽ thật, và trong sự tin cậy hoàn toàn vào Đức Chúa Trời. Mặc dầu ông bà đã về với Chúa, nhưng
sự giảng dạy của ông và công sức của bà vẫn cứ tiếp tục vang vọng trong từng trang sách của ông
bà để lại cho Hội Thánh. Hình ảnh của ông bà vẫn còn lắng đọng trong trái tim nhiều người từ trẻ
đến già, từ người Kinh cũng như người dân tộc và là tấm gương cho nhiều người hầu việc Chúa noi
theo.
Vì vậy, nói đến lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và sự phát triển Hội Thánh không thể nào
không nói đến sự đóng góp của ông bà Mục sư Phạm Xuân Tín. Quả thật, ông bà đã hoàn thành sự
kêu gọi của Đức Chúa Trời trên đất nầy, đã xong sự chạy và đã giữ được đức tin (2 Tim 4:5-8). Amen!
293
Đám tang cụ Mục sư Phạm Xuân Tín, nguyên Phó Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam,
ngày 07.01.2008 tại nhà thờ Tin Lành Nguyễn Tri Phương.
7.Sách Tham Khảo
1. Mục sư Phạm Xuân Tín, Hồi ký Mục sư Phạm Xuân Tín (Lưu hành nội bộ).
2. “Ba tôi - Tiểu sử cụ Phạm Xuân Tín, Mục sư Trí sự” và “Mạ tôi - Tiểu sử bà Quả phụ Mục sư
Phạm Xuân Tín.” http://www.cdn5t.nêt.
Trần Thị Lý
294
Giáo sĩ CHESTER E. TRAVIS (1897-1984)
và Bà MARY TRAVIS (1893-1979)
GIÁO SĨ HẦU VIỆC CHÚA LÂU NHẤT TẠI VIỆT NAM
Bạn sẽ kinh ngạc lẫn xúc động khi thấy cách Đức Chúa Trời hành động qua những con người đã
đem ánh sáng của Ngài đến với dân tộc Việt Nam.
Ông bà giáo sĩ Chester và Mary Travis là một trong những công cụ đặc biệt hữu dụng trong tay
Chúa. Ngài đã sử dụng ông bà suốt 50 năm trên mảnh đất Việt nghèo nàn tăm tối và tấm lòng, tình
cảm của ông bà dành cho dân tộc này là điều lạ lùng,khó hiểu khiến chúng ta không khỏi rưng rưng…
TẤM LÒNG CỦA NGƯỜI GIÁO SĨ TIÊN PHONG
Từ miền đất xa xôi ngàn dặm, bỏ lại sau lưng mình cuộc sống tiện nghi với tương lai hứa hẹn,
năm 1925, Chêstêr và vợ dấn thân vào con đường truyền giáo – một hành trình xa xôi vượt Địa
Trung Hải, đi qua kênh đào Suêz, ra Ấn Độ Dương, đi ngang qua Malaysia, Singaporê rồi đến Việt
Nam. Đây là hành trình dài, vượt xa mọi điều mà ông bà suy nghĩ. Cuối cùng, ngày 16.01.1926 đôi
vợ chồng trẻ đặt chân lên mảnh đất Sàigòn và lần đầu tiên trong đời được kinh nghiệm cái nóng
của vùng nhiệt đới.Đó là cảm giác mới mẻ không sao quên được! Lạ lẫm, bỡ ngỡ đi giữa những con
người chưa từng gặp với những khác biệt về màu da, ngôn ngữ, văn hóa… Trong một tâm trạng như
thế, có thể ai đó sẽ cảm thấy lạc lõng… Thế nhưng ngược lại, ông bà xêm nơi đây như là “nhà” của
mình và là nơi mình sẽ gắn bó trọn đời theo sự kêu gọi của Chúa.
Ông bà vô cùng ngạc nhiên vì trải qua nhiều thế kỷ mà Tin Lành cứu rỗi trọn vẹn của Chúa vẫn
chưa đến được với những người dân sống trên mảnh đất nhỏ bé hình chữ S này – một đất nước
mà hầu hết đều theo Phật giáo và Giáo hội Công giáo cũng đang phát triển mạnh mẽ.Sự mê tín, tối
tăm đáng sợ đang ẩn khuất trong cuộc sống của nhiều con người chưa một lần được biết đến ánh
sáng thiên thượng. Ông bà bắt đầu hòa nhập vào cuộc sống người dân Việt Nam với sự đồng cảm
sâu xa và tấm lòng trắc ẩn đến từ Chúa. Hơn lúc nào hết, họ nhận biết để có thể chạm đến những
tấm lòng tăm tối,không thể nào không nhờ cậy vào sự dẫn dắt đầy trọn của Thánh Linh và lời hứa
tuyệt diệu của Ngài: “Ta hằng ở cùng các con luôn…” Điều này trở thành kinh nghiệm tuyệt vời suốt
những năm dài của ông bà trong chức vụ truyền giáo tại Việt Nam.
Sau khi được vị Hội trưởng Hội Truyền giáo là Mục sư Edwin F. Irwin đón chào, công việc đầu
tiên ông được giao là lái xê hơi vượt hàng trăm cây số trên những con đường dằn xóc còn rất thô
sơ để cùng với vị Hội trưởng ra Đà Nẵng, vì thời ấy, rất ít người biết lái xê hơi hoặc có bằng lái. Tiếp
theo, vấn đề rắc rối và đáng sợ mà ông bà phải đương đầu chính là ngôn ngữ - là người chưa từng
cảm thấy hứng thú với bất kỳ ngôn ngữ lạ nào, nay lại phải học thứ ngôn ngữ đa âm gồm năm
thanh… Dù vậy,điều lạ lùng mà Chúa đã làm: Cả hai ông bà đều yêu thích thứ ngôn ngữ hóc búa này
và tận dụng mọi cơ hội để học hỏi, tiếp xúc và trao đổi bằng tiếng Việt. Chỉ một năm sau, dù chưa
thể nói thành thạo nhưng ông bà đều nóng lòng được bắt đầu ra đi hầu việc Chúa.
Nha Trang là nơi đầu tiên ông bà được chính thức bổ nhiệm, một vùng đất tuyệt đẹp nằm dọc
theo bờ biển nhưng lại là vùng “đất cấm”. Mọi người đều lo lắng vì biết ông bà có thể bị tống cổ ra
khỏi khu vực này bất kỳ lúc nào. Dù vậy, sự kêu gọi của Chúa thật rõ ràng. Cả hai ra đi với tấm lòng
tin quyết: “Có Ngài trên thuyền, mọi sự đều bình yên!” Hành trang họ mang theo bên mình là câu
Kinh Thánh quý báu “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự
bình yên trọn vẹn” (Es 26:3)
295
Với chiếc xê Ford cũ kỹ chất đầy truyền đạo đơn và sách Phúc âm, Chêstêr và Mary Travis đi
vào vùng đất cấm. Đây là công việc mạo hiểm và đầy bất trắc. Nhưng thật ngạc nhiên vì nơi nào ông
bà dừng chân thì đám đông lại kéo đến, thích thú lắng nghê người ngoại quốc nói tiếng dân mình,
rồi họ tìm hiểu, đón nhận những truyền đạo đơn.Đây là điều khiến ông bà cảm động và được khích
lệ vô cùng vì chưa bao giờ ông bà chứng kiến cảnh tượng như thế trong đời. Dù vậy, có những lần
chính quyền sai người đến để giải tán đám đông và nhắc nhở mọi hoạt động tôn giáo đều bị nghiêm
cấm! Ông bà lễ phép, lặng lẽ rời khỏi nơi đó và rồi vâng lời Chúa, sáng hôm sau, trên chiếc xe Ford
cũ kỹ chất đầy sách, ông bà lại tiếp tục cuộc hành trình theo tiếng gọi của Cha Thiên Thượng.
Nơi nhóm lại của con cái Chúa trong những ngày đầu, không đâu khác hơn là bãi cỏ trên một
miếng đất trống. Rồi sau đó, một nhà nguyện đơn sơ được mở ra với vài chiếc ghế và một cái thùng
lớn để làm bục giảng. Thế nhưng, Chúa là Đấng đã nuôi con cái Ngài lớn lên, Ngài cũng là Đấng dọn
đường cho đầy tớ Ngài đi tới để vui mừng nhìn thấy nhiều linh hồn được cứu.
Đến ngày 02.3.1928,thông báo của Hoàng đế Bảo Đại được ban hành: ngoài đạo Công giáo La
mã và đạo Phật là đạo được xem là phong tục cổ truyền, việc truyền bá tất cả các đạo khác đều bị
nghiêm cấm. Có lẽ chúng ta sẽ hỏi “Vậy thì làm sao đây?” – Chẳng làm gì cả ngoài việc cầu nguyện
vì khi tôi con của Chúa cầu nguyện thì Ngài hành động.Lời Hằng Sống của Chúa qua những cuộc đời
tận hiến cứ tiếp tục được rao ra cách âm thầm và đã cứu nhiều người thoát khỏi đời sống tăm tối.
Thậm chí, chốn tù đày giam cầm tôi tớ Chúa, cũng là nơi gặt hái nhiều linh hồn về cho Ngài. Sự chở
che của Chúa trong những ngày này tựa như một chiếc tàu lớn vượt đại dương, cứ hùng dũng lướt
trên những con sóng thét gào, chống chọi với cuồng phong, bão tố trong đêm đên… Còn con cái
Ngài cứ ẩn mình tin cậy trong căn phòng nhỏ bé, ấm cúng giữa lòng con tàu vĩ đại vẫn từng ngày
vượt sóng đến bờ đắc thắng.
Sau ba năm “ẩn mình”trong Chúa, tất cả tôi con của Ngài khắp nơi vui mừng nhìn thấy bàn tay
Chúa can thiệp cách lạ lùng: Chính quyền chấm dứt việc cấm đoán rao giảng Phúc âm tại Việt Nam.
Đây là giai đoạn mở ra những cơ hội tốt đẹp để cùng ngợi khen Chúa và tiếp tục tiến tới.
Tại Đà lạt, Chester và Mary Travis cùng một số người khác thuyết phục được Hội Truyền giáo
xây dựng một trường học và khu ký túc xá trên một ngọn đồi xinh đẹp, yên tĩnh luôn đắm mình
trong sương mù và làn gió mát lạnh (Villa Alliance). Con gái của ông bà là một trong những học sinh
đầu tiên được học nội trú tại ngôi trường này để ông bà yên tâm tiếp tục trọng trách mà Chúa giao
phó.
Chúa đặt trong lòng ông bà giáo sĩ Travis một tình cảm yêu thương gắn bó đặc biệt với người
dân đất Việt. Mỗi ngày, họ đều học cách thích nghi với hoàn cảnh và cũng học cách thưởng thức
hương vị lạ của nước mắm Việt Nam. Ông bà luôn chân tình, sống vui với kẻ vui và khóc với kẻ khóc.
Những người chung quanh không còn xêm ông bà là người Mỹ xa lạ nhưng họ trở thành người bạn
đầy yêu thương, đáng tin cậy giữa mọi người.Tại mảnh đất nhỏ xa xôi mà ông bà nhận là quê hương
mình, những đứa con trai kháu khỉnh lần lượt ra đời.
Con đường cam go không ngăn nổi bước chân của người Truyền giáo, có khi ông đi xê đạp, có
lúc ông lái chiếc xê hơi do ông tự chế tạo thành một ngôi nhà di động. Cứ thế, ông đêm Lời Chúa
đến nhiều nơi trên đất nước thân yêu của chúng ta, giúp nhiều người nhận biết có một Đấng cao cả
ở trên trời và danh Ngài là Đức Chúa Trời. Mỗi lần đi ngang những miếu nhỏ đầy dẫy nhang, đèn,
gạo, chuối… hoặc dự những đám tang đầy tiếng khóc than và mịt mù nhang khói, nhìn những bàn
thờ với những giấy dán đỏ ghi ngoằn ngoèo chữ Hán cùng hình ảnh tổ tiên giữa những ngọn đèn
dầu âm u…lòng ông bà trăn trở, quặn thắt khi chứng kiến sự tối tăm bao trùm cuộc đời họ.Đó là lý
296
do khiến ông bà không bao giờ muốn nghĩ đến việc rời khỏi đất nước đáng thương này. Hầu hết
thời gian của ông bà là ở ngoài đường để tìm kiếm và chinh phục những cuộc đời hư mất về cho
Chúa. Đi đến đâu, ông bà đều tìm cách để có một người truyền đạo địa phương đi thêo. Cả những
thời gian đi nghỉ ngơi tại vùng quê, ông bà cũng biến nó thành những buổi truyền giảng, lúc bên vệ
đường,khi trên bãi đất trống… Thậm chí, ông bà cũng tận dụng những đứa con của mình như một
phương tiện quí giá để thu hút mọi người đến nghe về Chúa, vì bất kỳ nơi đâu, những đứa bé mặt
trắng bóc, tóc hoê vàng cũng khiến cho mọi người tò mò thích thú! Tóm lại, ông bà không bao giờ
bỏ qua những cơ hội để tiếp cận với mọi người để dắt họ đến với Ngài.
Nhưng chẳng phải con đường hầu việc Chúa lúc nào cũng hanh thông dễ dàng. Làm sao kể hết
những gian nan vất vả trên bước đường hầu việc Chúa, có những ngày đi thăm viếng các Hội Thánh
vào mùa mưa bão, cả gia đình đã từng kinh nghiệm những đêm đên, cầu bị sập,mênh mông bốn bề
là nước lũ, cây rừng, ông phải lội nước hàng trăm mét trong khi mang thêo 3 con nhỏ mà có một
đứa vừa bị bệnh kiết lỵ. Ông từng xin tá túc trong những căn nhà nghèo nàn và nằm ngủ trên những
chiếc ghế dài của người Việt nhưng lại quá ngắn cho một người ngoại quốc như ông! Thật cảm động
vì có những ngày bị bệnh sốt rét quật ngã. Ông yếu đến nỗi không thể đứng vững mà phải ngồi trên
một chiếc ghế và Lời Chúa vẫn không ngừng được rao ra.
Trong một lần đi giảng đạo cho người Chăm tại Phan Rang, vì truyền giảng ban đêm ở ngoài
trời, ông bà phải ngủ tạm trong một chiếc lều và mọi trang thiết bị, đồ đạc đều đặt bên ngoài, phủ
lên một tấm bạt. Đó là một đêm mưa, ông bị đánh thức bởi tiếng rương đóng sập xuống, trườn mình
ra khỏi lều, ông chỉ kịp nhìn thấy những bóng đên chạy trốn trong đêm và mọi đồ đạc của mình
biến mất! Đây là một thành phố nóng bức,nên khi ngủ ông chỉ mặc duy nhất một chiếc quần ngắn,
và đó là lý do khiến ông lâm vào tình cảnh dở khóc dở cười. Mưa mỗi lúc một nặng hạt, áo quần mất
hết còn chiếc xe thì mỗi lúc một lún sâu trong bùn. Sau hàng giờ đào bới để đẩy nó ra, buổi sáng
hôm ấy, đám đông người Việt kinh ngạc đứng nhìn một ông Mỹ đáng kính đã giảng đạo trong những
ngày trước, nay người đầy bùn đất với độc một chiếc quần cụt trên người. Đám đông kéo đến mỗi
lúc một nhiều hơn, thay vì bối rối,giận dữ, ông đã thể hiện sự bình thản và tấm lòng nhu mì, ông
bước đến giếng nước cạnh đó và xối sạch bùn đất rồi tận dụng cơ hội có một không hai này để minh
họa một bài học thực tế về sự tẩy sạch đến từ Thập Tự Giá. Thật khó tìm ở đâu một bài giảng dễ
hiểu như thế! Khi ông chuẩn bị lên đường, mọi người nơi đây đều tạm biệt ông với lòng trông mong,
trìu mến:
Ông đáp:
- Có chứ! Chắc chắn chúng tôi sẽ trở lại đây!
Lòng ông đã sẵn sàng cho một chiến dịch huy hoàng giữa vùng tăm tối.
Thật tốt khi được sống cho một Đấng có thể giải quyết và hướng dẫn chúng ta trong mọi tình
huống. Chúa đã thêm ơn và hành động một cách đặc biệt tại mỗi nơi ông bà đi qua. Như một người
dọn đất và gieo hạt, ông bà làm công tác truyền giáo và gây dựng Hội Thánh rồi giao công việc lại
cho những người bản xứ điều hành.
Dù gian khổ, bắt bớ,tù đày, chiến tranh… Nhưng Chúa đã dùng ông bà và nhiều đầy tớ trung
kiên của Ngài để khiến công việc Chúa trở nên hiện thực và bất diệt. Tất cả đều được tiến hành dưới
sự dẫn dắt tuyệt vời và trọn vẹn của Đấng Chí Cao. Những khó khăn trong cuộc sống không thể dập
tắt niềm đam mê tìm kiếm những linh hồn về cho Đức Chúa Trời.
297
Năm 1950 – 1955, Chúa kêu gọi ông bà đến vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hơn lúc nào hết,
ông bà phải hoàn toàn dựa nương vào sự che chở của Chúa vì cuộc chiến tranh giữa Pháp và quân
kháng chiến đang lúc căng thẳng. Ông bà phải sinh hoạt trong những điều kiện khó khăn, phải đi lại
giữa bom đạn và bẫy mìn, phải chứng kiến biết bao cảnh tượng buồn thảm, chết chóc… Nhưng thật
kinh ngạc vì tình huống đên tối ấy lại là thời khắc ấm áp tuyệt vời giữa vòng con cái Chúa. Họ nhóm
lại, thờ phượng ca ngợi Chúa cả ngày lẫn đêm. Và người lính giỏi của Chúa biết rằng, cuộc sống rối
loạn bất an lại là cơ hội quí báu để chia sẻ về một đời sống chắc chắn trong chính Chúa Cứu Thế.
Năm1956, Chúa tiếp tục sử dụng ông bà tại Qui Nhơn – Bình Định. Ông bà sống nhiều năm nơi
đây và quên biết nhiều bạn bè hơn bất cứ nơi nào khác! Tình hình chiến sự vẫn tiếp diễn nhưng
ông bà kinh nghiệm được sự bao phủ của Chúa cách diệu kỳ. Bất cứ nơi đâu ông bà đi đến đều có
nhiều linh hồn được cứu. Dù vậy, ông bà vẫn nóng lòng vì thấy những gì mình làm chỉ như giọt nước
trong biển cả - còn quá nhiều người chưa được biết đến danh Giê-xu.
Cho đến năm 1958,ông bà vẫn là giáo sĩ duy nhất trong khu vực trải dài từ Nha Trang, Phan
Rang,Phú Yên, Ninh Thuận…
Từ năm 1968 trở đi,chiến tranh vẫn không ngừng dày xéo đất nước Việt Nam nhỏ bé và những
cuộc giao tranh ngày càng ác liệt! Có những cuộc điện thoại từ quê nhà gọi đến thúc giục ông bà trở
về nhưng chiến sĩ của Đấng Chist vẫn không có ý định rời khỏi trận địa.Trong những thời khắc hiểm
nguy nhất, ông bà lại được kinh nghiệm nhiều điều kỳ diệu nhất. Hơn lúc nào hết, ông bà dốc lòng
cầu nguyện cho đất nước đang bị tàn phá vì chiến tranh này. Và cũng hơn lúc nào hết, phước lành
của Chúa tuôn trào trên dân tộc Việt Nam. Lời Chúa đã được rao ra từ Đà Nẵng cho đến Cà Mau -
là vùng đất tận cùng của đất nước - và hàng ngàn người đã tìm thấy ánh sáng của Chúa. Mọi thiếu
thốn, khó nhọc, mọi hy sinh, gian khổ được bù đắp xứng đáng bởi sự vùa giúp đầy thương xót của
Chúa.
Suốt mấy mươi năm dài, chiếc xe cọc cạch lăn bánh trên khắp các nẻo đường Việt Nam, mang
thêo “đôi chim già” tận tụy vì những cuộc đời nghèo khổ. Người Việt gọi giáo sĩ bằng cái tên đẹp đẽ
“ÔNG BÀ TIN LÀNH”. Nhưng họ không thể nào hiểu điều gì đã ràng buộc những con người này ở
đây, bất chấp hiểm nguy, miệt mài nói về một Chúa Cứu Thế!
Năm 1971 trở đi, ông bà đã quá tuổi về hưu, sức khỏe kém sút nhưng lòng nhiệt huyết không
hề suy giảm.Rất ít được nghỉ ngơi và phải luôn chứng kiến quá nhiều thảm cảnh đau lòng quanh
mình. Nhiều đêm thức trắng nghe tiếng trực thăng vần vũ trên cao cùng tiếng súng, đạn pháo và
hỏa tiễn vang dội. Sự lo lắng tuyệt vọng và chết chóc bao trùm khắp nơi cũng là cơ hội tốt lành để
ông bà mang đến cho người dân nơi đây niềm hy vọng duy nhất trên trần gian này. Chẳng bao giờ
ông bà bỏ qua những năm tháng Chúa cho một cách vô ích. Kiên trì, chịu khó, từ nhà này sang nhà
khác, từ làng này đến làng kia… Thật cảm tạ Chúa, suốt 50 năm truyền giáo, ông bà gặt hái nhiều
linh hồn về cùng Chúa và trên 30 nhà thờ được xây dựng.
Nhưng rồi, cũng đến lúc phải nói những lời từ biệt cuối cùng. Tháng 02.1975, vì tình hình chính
trị,ông bà đành phải đau lòng chia tay những người bạn thân thiết tại bến cảng,ngay chính nơi cách
đây 50 năm, lần đầu tiên ông bà đặt chân lên mảnh đất hình chữ S này. Con tàu U.S.S. President
Grant rời bến, mang thêo người lính giỏi của Chúa tiến thẳng ra biển. Ông bà bùi ngùi nhìn lại lần
cuối cùng đất nước, con người mà Chúa đã đặt trong lòng ông bà tình mến yêu sâu đậm. Hành trình
6 tuần lễ trở về Mỹ là những ngày dài tràn đầy nước mắt. Điều an ủi duy nhất Chúa ban cho ông bà
là sự nhắc nhở: Mảnh đất Việt nam đã có Hội Thánh của Ngài, Chúa sẽ cẩn thận gìn giữ những gì
thuộc về Ngài và tất cả rồi sẽ hội ngộ vào ngày vĩ đại lúc Chúa tái lâm.
298
ĐÌNH TRÂN (Ghi lại bản tường thuật trực tiếp 50 năm chức vụ của một giáo sĩ tiên phong giữa
chiến tranh Việt Nam – Trena Chellino biên soạn)
Giáo sĩ Chester và Mary Travis đã tận hiến cuộc đời mình cho dân tộc Việt Nam như thế…Còn
chúng ta, là người dân Việt, chúng ta làm gì cho đồng bào mình ngày hôm nay?
299