The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-12-02 19:47:11

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ

TIỂU SỬ CÁC MỤC SƯ
Mục sư Phan Văn Cử

cảm phục cả vị Mục sư lẫn các tín hữu với sức chịu đựng bền bỉ, đức tin kiên trì bốn chục năm qua.
“Những khó khăn, gian khổ, thử thách mà Hội Thánh Chúa tại miền Bắc đã trải qua là vô cùng to lớn,
không thể kể hết và có nhiều điều không thể thở than nói ra được.”[39] Mùa đông năm đó lạnh thật,
lạnh hơn cả những gì tôi nghĩ, mặc dù đã biết trước gió rét khắc nghiệt miền Bắc. Để diễn tả cái
lạnh,tôi còn nhớ nhà văn Thy Hương viết trong Thánh Kinh Nguyệt San viết về cái lạnh đúng là “ở
ngoài thấm vào, ở trong lạnh ra, ở giữa tái tê”.

Sáng Chúa Nhật lần đầu tiên được thờ phượng Chúa với Hội Thánh Hà nội. Ngôi nhà thờ cũ kỹ
đã được sự giúp đỡ từ các tổ chức và Hội Thánh nước ngoài vừa mới sửa chữa khang trang ấm
cúng. Sáng Chúa Nhật hôm đó có phái đoàn Tin lành Châu Á đến thăm nên ai nấy như có thêm phần
được khích lệ phấn khởi. Vì được báo trước, ban hát của Trường Kinh Thánh góp phần ca ngợi danh
Chúa thánh ca 420. Chúng tôi đã dành thì giờ tập luyện trước đó mấy ngày và có lẽ đây là bài thánh
ca đầu tiên hợp ca bốn giọng tại nhà thờ Hà nội mà đã lâu không có. Hướng nhìn chúng tôi là những
tín đồ cụ ông cụ bà mắt mờ tai lãng, một ít người vào tuổi trung niên tia mắt không giấu được vẻ
rạng rỡ mừng vui, hướng đến tiền đồ Hội Thánh như trông cả vào mấy người đang hát ít ỏi.

Tối Chúa Nhật cửa nhà thờ Hà Nội mở ra để truyền giảng Tin Lành có vài ông già bà lão quanh
đó tham dự với cả Trường Kinh Thánh, cả thảy được khoảng vài chục người. Đạo diễn điện ảnh Bùi
Thạc Chuyên sau này có kể cho tôi nghe, hồi còn bé tối tối chạy sang Nhà thờ, nhìn qua khe hở của
bình phong gỗ, thấy ông bà nội và vài ba cụ nữa nhóm lại truyền giảng Tin Lành, nhà thờ rộng lớn
chỉ có mấy người, ông cụ Mục sư ở trên tòa giảng, bà cụ bên cây đàn, có vài tín đồ ngồi nghe. Lời
Chúa vẫn cứ rao ra, tiếng hát vẫn cứ cất lên, tha thiết mời gọi đồng bào, không người lắng nghe, cán
bộ nhân dân qua lại trước cổng nhà thờ nhưng ai dám bước vào, hết năm này sang tháng nọ cứ phải
trung tín giảng rao. “Dù đã được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, song Hội Thánh lúc đó vẫn
mang tiếng là “đạo của Mỹ”, là “đạo phản động”, “chống Cộng” nên Hội Thánh vẫn bị chính quyền các
địa phương nhìn bằng con mắt nghi ngờ dò xét.” [40]

Trường Kinh Thánh Hà Nội được mở lớp thứ hai đào tạo Giảng sư vào năm 1987 vì nhu cầu
sống còn của Hội Thánh Miền Bắc. Nhân sinh thất thập cổ lai hy, các cụ Mục sư hiện còn chỉ có mấy
người lại đã hơn tám mươi, sức cùng lực kiệt không biết giờ nào đi về Nước Chúa. Nối tiếp những
ngày học ở trường, tôi được đi đến một vài Hội Thánh còn nhóm lại, viếng thăm thấy cảnh nhà thờ
hiu quạnh cũ nát cụ ông đi rồi, cụ bà ở lại tiếp tục chức vụ Chúa giao chăn bầy, chấp sự xốc nách dìu
lên tòa giảng nhưng sức đâu mà đứng cho nổi, nói được vài câu thều thào tiếng được tiếng mất,tín
đồ thì buồn thiu ngơ ngác, khiến tôi rưng rưng nước mắt. Trước đó, Đoàn Truyền Hình của Hội
Thánh Tin lành Cộng Hòa Liên Bang Đức sang thăm, quay phim cảnh trạng của Hội Thánh Miền Bắc
đêm về chiếu tại Đức và Âu châu. Tình yêu Chúa thôi thúc trong lòng tín đồ bên Tây, cho nên các
Hội Thánh đã cảm động lập tức quyên góp tài chính, trang thiết bị xây sửa lại các nhà thờ tại ba
thành phố lớn như Hà Nội, Nam Định, Hải phòng và gấp rút tài trợ cho Trường Kinh Thánh để đào
tạo Giảng sư kế thừa.

Số học viên chính thức được phép của Chính phủ chỉ có 10 người, lòng nhiệt thành các cụ Mục
sư mặc cả lần dạy lần khó thuyết phục cho thêm 5 người dự thính, còn tôi ra sau thì chẳng vào hàng
ngũ nào. Xưa nay vốn phép vua thua lệ làng, chính quyền trung ương cho phép mở trường, nhưng
các tỉnh thành có cấp giấy đồng ý cho người đi học hay không lại là chuyện khác. Để có đủ 15 người
học, các cụ Mục sư lại phải về từng địa phương giải thích thuyết phục mới làm được thủ tục xét
tuyển nhập học chuyển khẩu cho từng học viên trong số 30 người từ các Hội Thánh xin học. Kể lại
chuyện xa lơ xa lắc trong lúc chiến tranh hay thời bao cấp để mở một Trường Kinh Thánh, không

350


biết phải làm sao cho lớp trẻ ngày nay hình dung ra những khó khăn thủ tục hành chánh quan liêu
hay thiếu thốn lo gạo từng bữa, các cụ Mục sư từng bước đức tin vượt qua đêm tối trước ngày đất
nước đổi mới.

Trường Kinh Thánh Hà nội mới vừa được phép chưa biết ra sao thì đã mang thêo mình hai tiếng
“quốc doanh”. Việc xin phép 3 giáo sư của Thần Học Viện ra giảng dạy cùng với các cụ Mục sư Tổng
Hội Miền Bắc được dư luận chung cho là không thể trở thành hiện thực vì tổ chức Hội Thánh hai
miền Bắc Nam khác biệt. Hơn nữa tình hình chính trị lúc bấy giờ tại Đông Âu và Liên Bang Xô Viết
bắt đầu chuyển biến phức tạp,trong nước chính quyền có chính sách thận trọng. Ba cụ Mục sư
Hoàng Kim Phúc, Mục sư Bùi Hoành Thử và Mục sư Đào Xuân Minh bắt đầu việc giảng dạy Lời Chúa
với giáo trình tìm được của Trường Kinh Thánh và Thần Học Viện ngày xưa. Để người hầu việc
Chúa tương lai ngoài việc trau giồi thần học cũng có thêm chút ít kiến thức về kinh tế, âm nhạc và
ngoại ngữ, các cụ đã mời thêm vài ba giảng viên của các trường Đại học Hà Nội giúp thêm. Việc này
cùng với vài định kiến thêm vào nên không được nhiều người đồng tình gây ra tai tiếng, nghi nghi
ngờ ngờ: Trường này ngó như đạo đời lẫn lộn, không biết đào tạo người chăn sau này ra sao. Các
môn kiến thức tổng quát tôi học tại đây chẳng thấy có sự lồng ghép chính trị vào các môn học tiếng
Anh, âm nhạc hay quản trị công việc.

Vài tôi con Chúa ở miền Nam biết tin tôi đi học ngoài đó, mặc dù cầu thay nhưng cũng tỏ bày ái
ngại,cũng có người đàm tiếu nhất là lúc tôi gặp những trải nghiệm khó khăn tưởng chừng không
vượt qua nổi để ngồi trong lớp cho đến ngày tốt nghiệp. Chẳng những mình tôi, vài bạn trong lớp
cũng gặp trắc trở như vậy, nhưng cảm tạ Chúa, ngày tốt nghiệp đúng 15 người ra trường như sĩ số
đã có từ trước. Thầy Bùi Văn Nghĩa,Bùi Văn Triệu, Bùi Văn Sản (Hải Phòng); Vũ Hùng Cường (Hải
Dương); Vũ Quang Huyên, Hoàng Đức Luân (Nam Hà); Đào Văn Thắng, Nguyễn Hữu Mạc (Thái
Bình); Hoa Văn Trực (Nghệ An); Lý Tiến Lưu (Lạng Sơn); Bùi Bình Thoại, Nguyễn Đức Đồng,Nguyễn
Gia Huấn, Âu Quang Vinh (Hà Nội) và tôi là Mã Phúc Thanh Tươi (Quảng Nam). Nhiều lúc nhìn lại,
mới thấy tất cả chuyện xảy ra trong đời mình chẳng phải là tình cờ ngẫu nhiên, nhưng Chúa đã sắp
đặt chi li. Một điều bây giờ tôi vẫn chưa nghĩ ra, đó là tại sao Chúa lại cho tôi vào học lớp này của
Hội Thánh Tin Lành Miền Bắc, chắc không phải chỉ vì cho đủ số 15, mặc dù đã hai mươi năm trôi
qua.

Khi tôi ra học thì ông bà cụ Mục sư Nguyễn Hậu Nhương và ông bà Mục sư Phạm Xuân Thiều đã
được phép chính quyền đến Hà Nội giảng dạy. Các cụ Mục sư Hoàng Kim Phúc và Đào Xuân Minh
không thể tiếp tục giảng dạy vì bệnh tật sức yếu, các bà cụ đã an nghỉ nên sống trong cảnh tuổi già
cô đơn cần có sự chăm sóc, cụ Mục sư Minh tiếp tục dạy được ít tháng với sách Thi thiên rồi cũng
vào Saigon sống với con cháu. Còn lại chỉ có ba vị giáo sư giảng dạy cho đến ngày bế giảng năm
1993. Đức Chúa Trời dùng ba người ba cách khác nhau để dạy dỗ tôi và các bạn trong lớp, chẳng
những được học qua lời giảng dạy, nhưng cũng học thấy thực tiễn qua gương mẫu đời sống cá nhân,
cách thức điều hành và công việc đối ngoại của Hội Thánh. Con người vốn yếu đuối bất toàn, mỗi
người lại có cá tính và phương sách riêng để lo cho công việc Nhà Chúa, cho nên tôi gạn lọc để nhìn
thấy sức mạnh đức tin, vẻ đẹp đạo hạnh nơi các Mục sư tiền bối để mà noi thêo hơn là quan tâm
đến tính cách riêng biệt,những giới hạn tình thế mà họ chưa thể vượt qua hay cả phương thức mỗi
người lựa chọn quản trị điều hành. Ba vị thầy đã gần gũi với chúng tôi trong Trường Kinh Thánh
Hà Nội, ba Mục sư đều là người gốc gác miền Bắc, nhưng trong công việc Chúa thì mỗi người bộc lộ
tính cách khác nhau.

351


Ba vị Mục sư Giáo sư Trường Kinh Thánh Hà Nội niên hóa 1988-1993

Tôi ở miền Nam tiếp xúc thường với các cụ Mục sư cao niên, gần gũi tôi nhất có cụ Mục sư
Nguyễn Xuân Vọng. Họ là những vị đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nho học, họ nhấn mạnh đạo lý
áp dụng trong cuộc sống, lấy tôn ti trật tự làm chuẩn mực ứng xử của mỗi người.Trong Hội Thánh,
các Mục sư quan tâm xây dựng sự ổn định nền nếp, một trật tự chặt chẽ và có phần nghiêm khắc.
Nho học vốn cung cấp được một hệ giá trị lấy kỷ cương và phục tùng làm gốc, không thể một sự
nghiệp nào thành công trong bối cảnh xêm thường tổ chức, cá mè một lứa. Chính vì thế, chức vụ
lãnh đạo là dấu hiệu tôn quý Chúa ban cho, những người thuộc quyền cần kính trọng và có nhiệm
vụ phục tùng. Tất nhiên trong cách điều hành Hội Thánh để lại dấu ấn rõ rệt ở tác phong gia trưởng
của vị Mục sư, trong quan niệm tôn sư trọng đạo của người Việt, cách giữ gìn tôn ti trật tự rất
nghiêm phần nào thiếu đi sự bình đẳng và dân chủ trong mối quan hệ giữa mục sư và tín đồ, giữa
nam và nữ. Cụ Mục sư Thử có phong cách làm việc như thế, hơn nữa dưới chế độ chuyên quyền xã
hội đương thời đã tạo nên một Mục sư phải tự quyết định đường hướng và nhận chịu trách nhiệm
điều hành.

Ngoài giờ học tập,tôi được chỉ định giúp việc giấy tờ văn phòng Tổng Hội, nên có dịp gần với
các cụ Mục sư lãnh đạo, nhất là cụ Mục sư Bùi Hoành Thử. Trước khi ra ngoài miền Bắc học tập, tôi
đã được nghê dư luận về cụ Mục sư như một người kiêm nhiều chức vụ,ba trong một làm cả thủ
trưởng, thủ quỹ, thủ kho trông nom Nhà Chúa. Chứng kiến một người thức dậy từ sáng sớm khi
màn đêm vẫn còn, thường xuyên cùng tập thể dục với sinh viên bất kể mùa đông giá lạnh hay mùa
nắng nóng bức, làm việc cho đến đêm hôm khuya khoắt của một người cao tuổi, mới thấy công việc
nặng nhọc lao tâm khổ trí của một người lãnh đạo Hội Thánh. Làm việc trong lạnh giá cô đơn,tuổi
già sức yếu. Tôi từng chứng kiến những giọt nước mắt, lời cầu nguyện nức nở trình dâng lên Chúa
trước những nan đề, áp lực, những trái ngang đành phải im lặng chấp nhận mà tôi nghĩ chắc người
ngoài hiếm khi thấy được. Việc chăm lo đời sống phụ cấp tối thiểu cho những người chăn còn lại
đang đau yếu bệnh tật, vận động tài chính, lo tái thiết các nhà thờ, công việc đối nội đối ngoại của
Hội Thánh và Tổng Hội thật là vất vả, đứng giữa cơ chế dưới thời bao cấp, hầu như ít nhận được sự
hậu thuẫn của những người bạn đồng lao và cả số tín đồ vốn đã ít ỏi. Cụ Âu Đăng Trình có lẽ là
người gắn bó, sát cánh kề vai với cụ Mục sư nhiều nhất,lắng nghe tâm sự kể cả lúc vui hay buồn,
Mục sư Nhương và Mục sư Thiều được Chúa cho phép ra Hà Nội giảng dạy như là nguồn động viên
an ủi và thương xót của Chúa ưu ái dành do cụ lúc cuối đời. Cụ Mục sư Thử tuổi cao nhưng trong
công việc rất năng động, cách giải quyết vấn đề thường linh hoạt, nhiều người nhận xét cụ độc đoán

352


gia trưởng, nhưng ở gần mới thấy cụ sống tình cảm, quan tâm và rộng rãi đối với các Mục sư và cả
sinh viên. Ngày cụ lâm trọng bệnh vì tai biến, tôi và một bạn đến thăm cụ tại Bệnh viện Việt-Xô, đây
lần gặp cuối cùng nhưng cụ không còn nói được, ú ớ cụ cố nói, cố viết xuống mấy chữ để chúng tôi
có thể lờ mờ nhận ra lời khuyên giục: “Kinh Thánh......hầu việc Chúa... Hội Thánh... hết lòng hết sức”.
Trong một lần nói chuyện với chị Tâm và chị Thơm ái nữ của cụ Mục sư, tôi mới biết ông bà cụ về
an nghỉ Nước Chúa trong sự thanh bạch. Khi cụ Mục sư nằm xuống trong bóp da cũ kỹ chỉ có vỏn
vẹn 139 ngàn đồng (30.12.1995)là tất cả số tiền của cả hai cụ để lại dưỡng già, chẳng có một quyển
sổ tiết kiệm hay tài sản gì để lại cho con cháu, ngoài cuộc sống tận hiến của người hầu việc Chúa
nhưng không mấy người cảm thông.

Cụ Mục sư Nhương dạy chúng tôi bằng những câu chuyện quyền năng Chúa đã thể hiện cách kỳ
diệu qua tinh thần hy sinh cống hiến của các giáo sĩ, hay đức tin đơn sơ nhưng năng động của những
tín đồ Hội Thánh Việt Nam sơ khai, trải nghiệm về chức vụ truyền giáo tại Tây Nguyên và trên đất
nước Lào. Tất cả được nối kết vào chân lý Kinh Thánh như cách vừa ôn lại những phước lành Chúa
ban và cũng vừa dạy chúng tôi kiến thức về thánh chức, sự kêu gọi, lòng yêu thương hy sinh của
người chăn bầy cùng với một nếp sống xứng hiệp. Năm 1960, ba má tôi từ Trường Kinh Thánh Đà
Nẵng đến hầu việc tại Hội Thánh Gia Nghĩa, vùng dinh điền khai hoang, ông bà cụ Mục sư như ba
mẹ thuộc linh trong lúc ba tôi lâm bệnh sốt rét tưởng chừng không qua khỏi,má tôi đang mang thai
sinh nở giữa cảnh rừng thiêng nước độc tại Đắc Nông. Cũng với tinh thần đó ông bà cụ Mục sư dành
cho anh em sinh viên chúng tôi tình cảm thân thiết như con cháu trong đại gia đình của Chúa. Hình
ảnh ông bà cụ già yếu thường sóng đôi chậm chạp bước đi với nhau hạnh phúc, nhưng bà lâm trọng
bệnh và rời xa ông đi về an nghỉ Nước Chúa ngay tại Trường Kinh Thánh. Sau tang lễ của bà cụ,
những ngày học tiếp với cụ Mục sư chúng tôi cảm nhận được một cuộc sống trần gian mỏng manh
cô đơn, cụ Mục sư tận tâm tận lực hoàn tất nhiệm vụ cho đến ngày bế giảng. Ngày chúng tôi lên
đường về với gia đình thì cụ Mục sư lẩm chẫm lên tàu rời Hà Nội trở về miền Nam một mình, để
người bạn đời nằm lại nghĩa trang Văn Điển.

Thêo ý nghĩ của tôi thì Mục sư Thiều có ơn tứ dạy dỗ, cách nói của ông nhẹ nhàng với giáo án
soạn thảo kỹ lưỡng sâu sắc, những môn học khó như Thần học, Lịch sử Tuyển dân, Thánh Kinh
Lược Khảo... qua cách sử dụng từ ngữ chuyển tải sứ điệp của ông làm cho chúng tôi quên đi khoảng
cách thời gian, bối cảnh, văn hóa của những nhân vật trong Kinh Thánh, tái hiện rõ nét hình ảnh và
nếp sống của họ với cách luận giải phong phú, tìm về ý nghĩa nguyên thủy để áp dụng thực tiễn cho
Hội Thánh ngày nay. Môn học Lịch sử Hội Thánh qua các thời kỳ rất ấn tượng với tôi, Mục sư phân
tích bối cảnh với nhiều góc độ khác nhau, từng biến cố được nêu lên, cuộc đời của sứ đồ, cách cai
trị của giáo hoàng và nhiệt tâm của các nhà lãnh đạo Cải Chánh Hội Thánh trong quá khứ, những
thách thức, thăng trầm, vui buồn của cộng đồng tôi con Chúa trải qua các đời chính là những bài
học sinh động cho các sinh viên chúng tôi. Chân lý Kinh Thánh cùng với thực tiễn lịch sử, được cô
đọng định hướng cho chúng tôi trong từng trường hợp cụ thể, phải biết nên ứng xử như thế nào,
phương sách lãnh đạo Hội Thánh ra sao để đi theo sự tể trị và ý muốn của Đức Chúa Trời. Ông bà
Mục sư Phạm Xuân Thiều dù rất gần gũi với sinh viên chúng tôi, nhưng tập tành cho chúng tôi tính
nghiêm túc học tập, hướng dẫn việc nghiên cứu học thuật như các chủng viện nước ngoài. Một điều
luôn nhớ đối với chúng tôi đó là ông luôn yêu cầu sinh viên phải đặt nền tảng Lời Chúa cách vững
chắc trong các bài viết suy luận của mình, thuộc lòng tất cả những câu Kinh Thánh được trích dẫn
trong môn thần học. Vì thời tiết ở miền Bắc lúc lạnh rất lạnh,khi nóng rất nóng không hợp cho nên
hai năm cuối sức khỏe của Mục sư rất yếu,chứng bệnh tiền đình thường làm cho những bước đi của
ông phải có điểm tựa. Đời sống Mục sư Thiều để lại cho chúng tôi hình ảnh một Mục sư hòa đồng

353


giữa mọi người nhưng không làm mất đi những nguyên tắc khuôn phép nhất định, hình ảnh của
một nhà giáo mô phạm yêu thương học trò. Cuối tháng 6 năm 2002, sau một thời gian dài tôi mới
được Tổng Liên Hội chính thức bổ nhiệm, chính quyền tỉnh Quảng nam vừa hồi báo bằng văn bản
chấp nhận chức vụ Phó Quản nhiệm Hội Thánh Tam Kỳ,ông gọi điện báo tin cho ba má tôi và có lời
chúc mừng tôi, chỉ hai ngày sau ông đã về an nghỉ Nước Chúa. Chấm dứt kỳ vọng lâu nay của tôi đối
với ông trong cương vị Viện Trưởng hơn là chức vụ Hội Trưởng.

Đang lúc khan hiếm sách báo Cơ Đốc, thì có 40.000 Kinh Thánh và Thánh ca của Hội Thánh
Đông và Tây Đức biếu tặng tín đồ Việt Nam, có được một bộ hai quyển là niềm ao ước của tôi con
Chúa, nhưng quá trình vận chuyển về đến tay người nhận thì quyển còn quyển mất, nhiều người
mừng hụt ngỡ ngàng tiếc nuối vì 33.000 quyển sách thánh quí giá không ai biết đã xuôi về đâu. Tiền
bạc và vật chất cũng vậy, từ Tổ chức Hội Đồng Nhà Thờ Thế giới (WCC), các Hội Thánh khắp nơi
gửi tặng Tổng Hội, Trường Kinh Thánh và các Hội Thánh cũng là mối bận tâm nghi ngờ và phê phán
của nhiều người, theo nguyên tắc tổ chức dân chủ cần có sự công khai tài chính trong Hội Thánh từ
xưa đến nay. Việc xây dựng dãy nhà làm trụ sở Tổng Hội và Trường Kinh Thánh đã nẩy sinh vấn đề
có liên quan đến chính sách quản lý ngoại tệ của chính quyền. Có sự chênh lệch tỷ giá rất lớn khi
giao dịch trong ngân hàng so với bên ngoài chợ đên. Chỉ có công ty xây dựng thuộc Nhà nước Hay
để được cấp giấy phép xây dựng cần phải có ủng hộ công ích địa phương. Đơn thư khiếu kiện tố
giác thường là một trong những cách thể hiện hình thức dân chủ để thanh tra giám sát hàng ngũ
lãnh đạo của giáo hội Tin lành. Cách thức phổ biến này ít khi giải quyết được vấn đề, mà lại càng
thêm nẩy sinh mâu thuẫn chia rẽ nội bộ, dù nguyện vọng của tín hữu chỉ để bảo vệ tính chất thiêng
liêng, độc lập và thuần khiết của Hội Thánh.

Nhiều khi chúng ta lại quên đi Chúa Cứu Thế là Đấng Sống đang tể trị và đi giữa Hội Thánh với
thanh gươm hai lưỡi và ánh sáng cực đại [41],quên đi sự hiệp một là điều quan trọng sống còn của
Hội Thánh hơn những giá trị vật chất tạm bợ, vô tình đánh mất tình thương yêu với nhau, lại trúng
kế người đời. Người chăn đang cần sự thấu hiểu cầu thay cho những nan đề và chia sẻ gánh nặng
hơn là nghi ngờ, lên án kết tội thêo cách làm như những người bạn của Gióp ngày xưa.[42]

Tổng Hội và Trường Kinh Thánh trong suốt thời gian tôi theo học cho thấy sự tiếp trợ của Chúa
từng ngày, có lúc dường như bế tắc không biết ngày mai ra sao, nhất là đầu thập niên 90. Khi biến
cố tại Đông Âu làm cho Hội Thánh Đức và tổ chức từ thiện không còn tiếp tục tài trợ, thì Chúa lại
dùng Hội Thánh và tổ chức Phúc Lợi Hàn Quốc lúc này chú ý đến Việt Nam và thay thế giúp đỡ cho
đến ngày tốt nghiệp. Cũng có những tôi con Chúa ở miền Nam hay ở hải ngoại âm thầm cầu nguyện
cho miền Bắc, gửi tặng sách vở, tiền bạc áo quần đến trường giúp cho anh em sinh viên. Ngày ấy tôi
thật cảm động khi nhìn thấy những Mục sư, những tín hữu Hàn Quốc đến viếng thăm cầu nguyện
cho chúng tôi, cho đất nước Việt Nam mà nước mắt chảy dài, tôi không hiểu tiếng Hàn, nhưng nghê
thấy lời cầu xin khẩn thiết của họ, biết họ yêu thương dân tộc tôi và Hội Thánh Việt Nam. Ước gì tôi
con Chúa tại Việt Nam của mình thay cho lời phê phán chỉ trích, lên án kết tội là những lời cầu
nguyện yêu mến đẫm lệ như vậy, chắc chắn Hội Thánh hai miền đã có nhiều đổi khác, dân tộc Việt
Nam được Đức Chúa Trời xót thương hơn nữa.

Dầu nhiều khó khăn như vậy, Hội Thánh chung trong thời điểm này lại gia tăng. Như Hội Thánh
Hải phòng, bà cụ Mục sư Mân già yếu, nhưng tinh thần người mới tin Chúa đã đêm lại sức sống mới,
đức tin năng động, tình thương hiệp một giữa các tín đồ làm cho Hội Thánh tăng trưởng mau chóng,
người tin Chúa kín chật nhà thờ. Từ năm 1990, các sinh viên Trường Kinh Thánh bắt đầu về các
Hội Thánh thực tập truyền giảng và chia sẻ Lời Chúa, đêm lại sự gây dựng phát triển cho nhiều Hội

354


Thánh ở vùng đồng bằng sông Hồng. Lòng sốt sắng của các sinh viên càng được nhân lên, chỉ trong
mấy năm thôi đã đêm được khoảng cả ngàn người tin Chúa gia nhập Hội Thánh. Tâm trạng phấn
khích làm cho một sinh viên trong lớp cuốn thêo phong trào “tiếng lạ” đang được dấy lên, vi phạm
kỷ luật rời bỏ lớp học. Ngoài lớp học dành cho các nam sinh viên, đến hè các thầy về quê thì các cô
là vợ lại đến Hà Nội học tập, các ông bà Mục sư Giáo sư tiếp tục hướng dẫn để họ sau này cùng
chồng ra đi phục vụ tại các Hội Thánh.

Ngày chúng tôi tốt nghiệp vào cuối tháng 5 năm 1993, 15 anh êm đứng chung với nhau thật
vinh dự hạnh phước. Qua rồi những ngày miệt mài đèn sách, những khó khăn thách thức gặp
phải.Niềm vui càng hơn khi cụ Mục sư Đoàn Văn Miêng được mời giảng luận Lời Chúa cho ngày Bế
Giảng, nhưng vì hoàn cảnh bấy giờ chương trình lễ cũng chỉ được giới thiệu có “lời tâm tình” chuyển
đến sinh viên. Các Mục sư từ miền Nam ra dự thật đông, ở nước ngoài cũng về, thể hiện tấm lòng
quan tâm nâng đỡ đến công việc Chúa miền Bắc. Tính đến ngày Bế Giảng, 13 người ở lại miền Bắc
sau năm 1954 chỉ còn lại hai cụ Mục sư đương chức là Mục sư Hội Trưởng Hoàng Kim Phúc và Phó
Hội Trưởng kiêm Tổng Thư Ký Bùi Hoành Thử. Nhân lễ này cấp thiết phong chức thêm cho ba
người đứng tuổi thuộc khóa 1 và khóa 2 là Mục sư Phùng Quang Huyến, Mục sư Vũ Hùng Cường và
Mục sư Vũ Quang Huyên để có người kế nghiệp lo các thánh lễ cho cả miền Bắc.

Trước ngày tốt nghiệp đã xuất hiện nhiều nhóm người H’Mông tìm đến Tổng Hội, cho biết họ
đã tin nhận Chúa trên các vùng núi Tây Bắc qua đài Nguồn Sống (F.E.B.C.). Số lượng tín hữu sắc tộc
ngày càng tăng lên mau chóng trong khoảng thời gian rất ngắn tại các vùng núi miền Bắc, giống
như phép lạ đã từng xảy ra ở trong Hội Thánh đầu tiên.Ngay sau ngày lễ tốt nghiệp năm 1993,
những Giảng sư trẻ tuổi bắt tay vào công việc Nhà Chúa, dấn thân tìm cách để giúp đỡ đức tin, gây
dựng các Hội Thánh vùng cao vùng sâu bằng nhiều phương cách khác nhau. Trên một trăm ngàn
người với cả ngàn điểm nhóm cần được hướng dẫn cách thức thờ phượng, trang bị Lời Chúa nuôi
dưỡng tâm linh, tìm cách in ấn cung ứng Kinh Thánh, Thánh Ca ngôn ngữ H’Mông đưa lên các vùng
biên giới đang chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt. Hướng dẫn người tín hữu sống đạo làm sao để chính
quyền hiểu rõ người H’Mông tin nhận Chúa để chỉ được cứu rỗi, đạo “Vàng Chứ” hay “Thìn Hùng”
là đạo của Đức Chúa Trời theo ngôn ngữ H’Mông và Dao chứ không phải là tổ chức chính trị mà bớt
đi sự đối kháng khốc liệt từ chính quyền địa phương. Hằng ngày từng nhóm người sắc tộc đại diện
cho các tín hữu mới tin từ các vùng núi xanh biên giới các tỉnh Tây Bắc tìm đến số 2 Ngõ Trạm để
báo tin, kết nối, giúp họ làm đơn thư khẩn xin Chính Phủ, Quốc hội xêm xét cho được tin thêo đạo
Tin Lành, gia nhập Hội Thánh. Tiếp đón, an ủi và giúp đỡ họ lúc này có các thầy cô Âu Quang Vinh,
Nguyễn Gia Huấn và Nguyễn Đức Đồng hiện còn ở lại trong khuôn viên Nhà thờ sau khi tốt
nghiệp.Hai cụ Mục sư cuối cùng của Ban Trị Sự Tổng Hội đã về an nghỉ Nước Chúa chẳng còn một
ai trong thời điểm này.

Tin Lành phát triển nhanh và lan rộng tại các vùng cao nguyên Tây Bắc, chính quyền các cấp tại
địa phương đều nhấn mạnh quá mức cho rằng do trình độ nhận thức yếu kém nên bị dụ dỗ,lôi kéo
và mua chuộc của các thế lực thù địch bên ngoài. Nhưng trong thực tế,những thay đổi bước đi thêo
cuộc sống mới của người tin Chúa là nguyên nhân chính làm cho nhiều người tin đạo.

Theo nghiên cứu của Viện Dân Tộc Học về người tín hữu H’Mông cho thấy cộng đồng Tin Lành
đã “tạo ra mối quan hệ cố kết và sự giúp đỡ lần nhau cả về vật chất và tinh thần rộng hơn của dòng
họ.” Điều này cho thấy đức tin và lòng yêu thương đã tạo nên sự gắn bó và đùm bọc lẫn nhau thân
thiết hơn những người có cùng huyết thống. Đồng thời “Tin Lành đề cao sự tiến bộ vì vậy giúp người
Hmông dễ bỏ được những cái lạc hậu và tiếp thu những cái tiến bộ. Trên thực tế, việc người Hmông

355


bỏ tín ngưỡng truyền thống để thay đổi theo Tin Lành cũng có tác động tích cực nhất định tới tình
hình phát triển kinh tế xã hội của người Hmông. Bằng cứ là việc các tín đồ người Hmông bỏ các tập
tục lạc hậu động viên con cái đi học và lên tới các lớp cao hơn, sử dụng thuốc nam và y học hiện đại
để chữa bệnh, thực hiện tốt chương trình kế hoạch hóa gia đình, bỏ các tệ nạn xã hội như đánh chửi
nhau,nghiện hút, nghiện rượu, trộm cắp…” [43] Điều này các nhà nghiên cứu xưa nay cũng đều nhận
thấy ở tất cả các đồng bào sắc tộc thiểu số khác trên đất nước Việt Nam “có nếp sống lạc hậu: đã
chịu sự thay đổi quyết liệt liên hệ đến cơ cấu xã hội, phong tục tập quán, giáo dục, điều kiện vệ sinh...
nhiều cuộc cải cách là kết quả phát xuất từ đức tin Cơ Đốc.”[44]

Dù không còn Trường Kinh Thánh sau khóa thứ II 1988-1993, nhưng dưới nhiều hình thức và
phương cách khác nhau, từng hồi từng lúc việc trang bị kiến thức và tâm tình của người chăn dắt
bầy chiên vẫn được cấp bách tiến hành giúp cho các nhân sự, trưởng điểm nhóm người H’Mông,
Thái, Dao, Tày, Sán Chỉ... ở các vùng cao vùng sâu để họ có thể chăm lo bầy chiên đông đảo của
Chúa. Thật chẳng dễ chút nào vì những cản trở ngôn ngữ, người biết chữ người không, trình độ văn
hóa chênh lệch, công việc có lúc tưởng chừng bế tắc, thất bại, ngã lòng nhưng nhờ ơn lớn của Chúa
với những tin vui ơn lành phước lạ cho thấy ngày càng tiến bộ và dần dần đã có những thành quả
đáng khích lệ phản hồi từ xã hội.

Các sinh viên học trong khóa II ngày nay đã trở thành những vị Mục sư lãnh đạo từ chức vụ Hội
Trưởng cho đến Ủy Viên trong Tổng Hội, 12 người còn chính thức hầu việc Chúa tại các Chi Hội, 1
người đã về an nghỉ Nước Chúa. Tất cả đều vẫn tiếp tục công việc của mình. Chính sách của Nhà
Nước và thái độ của chính quyền tại các địa phương ngày càng thay đổi qua những nghiên cứu thực
tiễn nơi đời sống tín hữu Tin Lành tại các tỉnh vùng cao vùng sâu. Những năm gần đây các Lớp học
Thần Học Căn bản bắt đầu chính thức được mở ra với sự cho phép của Chính Phủ. Cuối tháng 11
năm 2010 Ban Trị Sự Tổng Hội đã tổ chức lễ Phát Chứng Chỉ cho 65 người Khóa 1 (2008-2010),
nhìn họ mặc đẹp trong ngày lễ Bế Giảng, hát ngợi khen Chúa bằng tiếng H’Mông, qua lời dịch tiếng
Việt trên màn chiếu, thật ơn lạ lùng của Chúa chẳng những dành cho người ở thâm sơn cùng cốc
mà còn cho toàn Hội Thánh miền Bắc.

65 người được Mục sư Hội trưởng Nguyễn Hữu Mạc, Ban Trị sự Tổng Hội và tất cả các Mục sư
hiện diện đặt tay cầu nguyện sai đi về các bản làng để lo chăn bầy, cho thấy số người phục sự Chúa

356


tại Miền Bắc không giới hạn chỉ có mười mấy người trong khóa 1 và 2 của Trường Kinh Thánh
nhưng vẫn còn nhân lên mở rộng.

Các khóa còn lại 2,3,4 cũng sẽ hoàn tất trong các năm đến, mở ra một giai đoạn mới, nhiều Hội
Thánh được mở ra, các Hội Nhánh được công nhận, các nhà nguyện dần dần hiện thực tại các vùng
xa xôi hẻo lánh cho thấy quyền năng của Chúa trên Hội Thánh Miền Bắc thật kỳ diệu. Những hy sinh
và công khó của những người thầy tiền bối, của những người bạn tôi âm thầm làm cho Chúa tưởng
cũng nên tỏ cho nhiều người biết đến để cầu thay và cảm tạ Chúa.

Bây giờ, Hội Thánh Hà Nội nhóm lại Chúa Nhật hai lễ đông đúc, các Hội Thánh khác đã có nhà
thờ, tư thất khang trang, không còn cảnh đổ nát vắng lạnh như ngày xưa. Hình ảnh Chúa nhật ngày
lễ tín hữu khắp nơi tìm về Nhà Chúa hăng hái, tấp nập mà tôi thấy được như tại miền núi Bắc Sơn,
một vài Hội Thánh tôi có dịp nhóm lại phải chăng là kết quả của những đời sống hiến dâng tận tụy,
chẳng giữ cho mình điều gì, còn chút danh dự cũng bị lấy mất? Phải chăng là kết quả của những lời
cầu nguyện của những cụ già mà tôi đã lắng nghê hai mươi năm trước; hay những giọt nước mắt
của các vị khách quí ngoại quốc đến thăm đứng khóc trình dâng lên Chúa giữa cảnh nhà thờ đổ nát,
cơ sở hoang tàn bom đạn cày xới như tại Kiến An, Sở Thượng,...? Những Hội Thánh của các tỉnh
thành hay tại thôn quê rồi đây cũng sẽ có được những nhà thờ, nhà nguyện xinh đẹp hiện diện khắp
nơi trên đất nước này, con dân Chúa được hoan hỉ thờ phượng chúc tụng danh Chúa. Tôi luôn tin
rằng Đức Chúa Trời vẫn luôn tể trị, thành tín, Chúa Cứu Thế đã mua chuộc và luôn bảo vệ Hội
Thánh,Thánh Linh luôn làm cho sống động lớn mạnh mà mấy chục năm qua tôi đã chứng kiến.Chỉ
có những ông bà cụ Mục sư tiền bối và các ông già bà lão tin kính là chưa kịp nhìn, vì họ “chỉn trông
thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa.”(He 11:13)

357


Click to View FlipBook Version