phía Tây Nam. Ông bắt đầu học tiếng Giẻ, thăm viếng và truyền giáo. Nơi vùng núi nầy, thêm một
lần nữa, ông bà đã gạt lệ chôn cất đứa con trai 2 tháng bị bệnh nặng mà không có thuốc chữa trị.
Trong khi công việc Chúa đang tiến hành và phát triển, do nhu cầu công việc Chúa ở Khe Sanh,
ông bà được đề nghị trở lại lo cho người Bru, nơi mà ông đã xây dựng nền móng sau thập niên 1940
và trở nên đông đúc hơn, hơn nữa ông cũng đã biết rành tiếng Bru. Vì thế, một lần nữa ông trở lại
Khe Sanh để hầu việc Chúa giữa người Bru năm 1958, thêo sự sắp xếp của Ủy ban Truyền giáo.Rồi
tại nơi xa xôi hẻo lánh và thiếu thốn mọi bề này, một lần nữa, ông bà lại đau đớn chôn cất đứa con
gái mới 20 ngày tuổi.
Sau 10 năm hầu việc Chúa với người Bru, công việc Chúa ở đây được phát triển về mọi mặt. Tại
cơ sở truyền giáo đã có nhà thờ bằng gạch, mái lợp tôn,có trường Kinh Thánh riêng cho sắc tộc Bru.
Xây dựng được hai nhà sàn lớn: nhà sàn thứ nhất dành cho gia đình Giáo sĩ ngôn ngữ học cộng tác
với ông để bắt đầu dịch 4 sách Tin Lành ra tiếng Bru, nhà sàn thứ hai dành làm nơi tạm trú cho các
thanh niên Bru trong những dịp đến học Lời Chúa. Có hai nhà thờ được xây dựng trong làng Bù và
làng Vày nằm trên quốc lộ số 9, cách Lao Bảo khoảng hơn 15 cây số. Mục sư Bùi Tấn Lộc cùng Ủy
ban Truyền giáo lên chương trình và chuẩn bị xây cất một trường học gồm 4 lớp cho khoảng 100
thanh niên Bru đến học Lời Chúa. Cùng lúc đó cường độ chiến tranh trở nên khốc liệt. Vào những
ngày đầu năm 1968, biến cố Tết Mậu Thân xảy ra, Khê Sanh di tản, gia đình Mục Sư không thể làm
gì khác hơn là thêo đoàn người di tản. Dưới làn đạn đuổi sau lưng, ông bà chạy về Đông Hà và sau
đó về Đà Nẵng cùng các con.
Vì lòng yêu mến bầy chiên, ngay sau đó ông quay trở lại Cam Lộ, Quảng Trị để tìm chiên lạc.Ông
tìm những người Bru đương tản lạc, lo cho họ về tinh thần lẫn vật chất, dựng nhà thờ bằng tôn tại
Cam Lộ. Ông vẫn tiếp tục hầu việc Chúa như vậy cho đến năm 1970 thì xin Ủy ban Truyền giáo về
trung châu hầu việc Chúa.
d. Tiếp tục chức vụ tại Quảng Nam và sau biến cố 1975
Địa hạt bổ nhiệm ông bà về Hội Thánh Hội Ân năm 1970. Sau khi bổ nhiệm được 2 tháng, ông
bắt tay vào việc xây cất nhà thờ Hội Thánh nhánh Xuyên Long thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam. Trong thời gian nầy, ông bị bệnh phải về Đà Nẵng để điều trị. Năm 1971, ông được bổ nhiệm
đến hầu việc Chúa tại Hòa Khánh, thay thế cho Truyền đạo Đặng Ngọc Báu. Năm 1974,Hội Thánh
Hòa Mỹ mời ông bà về thay thế cụ Mục sư Lê Châu nghỉ hưu.
Cuộc chiến vào giai đoạn sau tháng ba năm 1975 là những tháng ngày không thể nào quên. Ông
bà quyết định ở lại để giữ cơ sở Hội Thánh Hòa Mỹ và bầy chiên Chúa giao, mặc cho biết bao người
chạy loạn. Buổi giao thời, cuộc sống khó khăn trong nhiều lãnh vực,song ông vẫn một lòng trung
tín với Chúa và với bầy chiên, dâng hết sức lực còn lại trong tuổi già để hầu việc Chúa, giúp ích mọi
người. Vừa lo chăn bầy, vừa trồng tỉa thêm để lo cho con cái ăn học. Vất vả nhiều nhưng chưa ai
nghe ông than thở. Trong khuôn viên nhà thờ, ông đã khéo léo trồng những khóm cà chua, khóm
hành, hay giàn khổ qua nhỏ bé, khiến ai đi ngang qua nơi đó cũng đứng lại trầm trồ.
Trong công tác hầu việc Cha, ông không cho phép mình cẩu thả dù chỉ là những công việc bé
nhỏ. Những hoa quả đầu mùa, ông luôn dành những thứ tốt nhất để mang đi biếu các tôi tớ Chúa ở
gần, phần tốt thứ nhì bà mang ra chợ bán, phần còn lại để gia đình dùng.Trong những năm tháng
nhọc nhằn thiếu thốn thuốc men, ông tìm các cây thuốc đêm về trồng trong khuôn viên nhà thờ.
Đêm hôm ai cần đến, ông bà đều không quản ngại hái thuốc để giảm nhẹ cơn sốt cho trẻ êm hay để
dứt cơn ho đang hành hạ ai đó.Cho đến nay, người dân sống quanh khu vực nhà thờ Hoà Mỹ vẫn
150
nhắc đến ông bà với lòng quý mến và đầy kính trọng. Tinh thần quên mình, hy sinh phục vụ của
ông đã ảnh hưởng không nhỏ đến các con ông sau nầy.
Chúa luôn đi cùng chức vụ và ban cho ông sự sáng suốt để lo cho nhà Ngài. Cơ sở nhà Chúa tại
Hoà Mỹ là một trong những cơ sở hiếm hoi còn giữ được khu trường học. Những năm khó khăn về
nhiều mặt, ông quyết định bán tất cả bàn ghế học sinh với trị giá 9 chỉ vàng 24, sung vào công quỹ
nhà Chúa. Nhận thấy tình hình bất ổn, ông cho gia đình dọn các phòng của trường học làm chổ ở,
còn lại ba phòng trên lầu, ông biến thành các phòng nhóm cho thiếu niên nhi đồng và thanh niên.
Ngày chính quyền đến tiếp quản, ông giải trình cách khôn ngoan và cơ sở nhà Chúa an toàn không
mất mát.
3. NHỮNG NĂM THÁNG CUỐI ĐỜI
Năm 1985, Mục sư đã bước vào tuổi 70, nhưng vẫn một mình với chiếc xê đạp lặn lội khắp nơi,
thăm viếng,chăm sóc tín hữu. Có nơi rất xa như Hoà Châu, Hoà Vang, tín đồ phải ra đồng làm ruộng
hợp tác xã từ sáng sớm, thì cụ đạp xê vào thăm họ lúc 5 giờ sáng. Một vài đầy tớ Chúa trẻ hôm nay
luôn nhắc đến tinh thần thăm viếng, nâng đỡ của cụ trong suốt những năm tháng gian nan như một
tấm gương phục vụ mà cụ đã truyền lại cho thế hệ tương lai. Mãi cho đến trước lúc cụ lâm bệnh hai
năm, cô con gái áp út của cụ mới có thể đưa cha đi thăm viếng bằng xe Honda, giúp cha bớt nhọc
nhằn còng lưng trên chiếc xê đạp đến những vùng xa.
Sáng Chúa Nhật ngày 12/11/1989, sau những lời cuối cùng của bài giảng, cụ Mục Sư Bùi Tấn
Lộc không thể rời tòa giảng. Vừa xếp cuốn Kinh Thánh lại, cụ bị đứt mạch máu não ngã tựa người
vào tòa giảng. Cô con gái áp út đã kịp thời gọi các thanh niên khác ở gần đó nhanh chân đến đỡ lấy
cụ. Sau đó, cụ được chữa trị và tỉnh lại, nhưng nửa người bị liệt phải nằm luôn trên giường.
Cảm tạ ơn Chúa,Ngài đã dự bị sẵn người lo công việc Chúa thay cho cụ lúc nầy, đó là Mục sư
Dương Đình Nguyện vừa được trả tự do sau một thời gian dài học tập cải tạo.Nằm trên giường
bệnh, cụ vẫn ưu tư lo lắng cho công việc Chúa. Cụ vui mừng tạ ơn Chúa khi có Mục sư Nguyện. Ngày
23/3/1991, cụ đang ngồi ăn cơm chiều với gia đình thì huyết áp lên cao đột ngột làm vỡ mạch máu
não một lần nữa khiến cụ bị liệt toàn thân và qua đời ngày 24/3/1991, hưởng thọ 76 tuổi. Chín
năm sau đó, bà quả phụ Mục sư Bùi Tấn Lộc, tự là Bùi Thị Dư,về nước Chúa ngày 04/02/2000,
hưởng thọ 80 tuổi.
4. Lời kết
Mục sư Bùi Tấn Lộc đã để lại một gương trung tín phục vụ Chúa cho đến những năm tháng của
tuổi già, rao giảng Lời Chúa cho đến lúc ngã gục trên tòa giảng. Quả thật, cụ đã tận trung cho đến
chết, đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy – một sự chạy đã để lại trong lòng các con dân của Chúa
những cảm phục, vì cụ đã hoàn thành một chức vụ đầy gian lao, cay đắng, mồ hôi và nước mắt. Mục
sư đã hoàn tất sứ mạng mà Đức Chúa Trời đã giao phó và đang nghỉ ngơi để chờ lãnh phần thưởng
vinh hiển đời đời trên thiên đàng.
151
(Ảnh do gia đình cung cấp)
Bùi Thị Hồng Ân
152
Mục sư VI ÚC LƯƠNG
(1899 – 1988)
Mục sư Vi Ức Lương
Cố Mục sư Vi Úc Lương sinh năm 1899 trong một gia đình nông dân tại làng Mộc Miên,huyện
Bình Nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Cụ mất mẹ từ thuở nhỏ. Từ lúc 5 tuổi đến tuổi 14, cụ được
học và lớn lên trong trường do Hội Thánh Tin Lành thành lập.Chân lý Thánh Kinh đã cảm hóa lòng
cụ, nên cụ quyết tâm trở nênmột con người ngay thẳng, lánh xa điều ác.
153
Gia đình Mục sư Vi Ức Lương
Năm 1914, trong lúc nghê giảng, chịu sự cảm động bởi Đức Thánh
Linh, cụ đã quyết định tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa cho cuộc đời
mình. Sau đó không lâu cụ nhận Báp-têm trở thành tín hữu của Hội Thánh
Hội Truyền giáo Phúc âm liên hiệp (CMA), và xin dâng mình hầu việc Chúa.
Năm 1916, thầy Vi Úc Lương vào học Thánh Kinh Thần học viện Kiến
Đạo tại Quảng Tây. Trong thời gian theo học, ngay khi cụ được nghe nói
về việc Hội Truyền giáo đã triển khai công cuộc truyền giáo tại Việt Nam,
thì cụ đã có tâm nguyện đi hầu việc Chúa tại cánh đồng Việt Nam. Cụ tốt
nghiệp vào cuối năm 1921 rồi nhậm chức truyền đạo tại Hội Thánh các
huyện Đằng, Bình Nam, Mã Bình, Nghi Sơn ở tỉnh Quảng Tây.
Năm 1923, khi hầu việc Chúa tại xứ Mã Bình, thầy Vi Úc Lương lập gia đình cùng cô Hồ Hy Quang
qua sự giới thiệu của giáo sĩ Waltêr H. Oldfiêld. Cô Hồ (người Hồ Nam) là giáo viên tại trường nữ
sinh Bồi Chân do Hội Thánh thành lập. Sau khi kết hôn, thầy cô đồng lòng hầu việc Chúa, năm sau
sinh được một cháu gái đặt tên là Mỹ Ngọc.
Năm 1926, thầy đến khai hoang gây dựng Hội Thánh tại huyện Dung Giang, Quí Châu theo các
giáo sĩ Â.F. Desterhaft và William C. Newbern. Thời kỳ ấy do phong trào chống đạo bùng nổ, nên
các nhà truyền giáo phải chịu nhiều nguy nan.
Tháng 5 năm 1929, thầy Vi Úc Lương được Hội Truyền giáo điều phái đến Việt Nam tại thành
phố Sài Gòn, trong lúc vị quản nhiệm đầu tiên của Hội Thánh Hoa kiều tại Việt Nam là Mục sư Chu
Tỉnh Hồn nghỉ phép về nước sau 7 năm rưỡi hầu việc Chúa tại việt Nam. Sau đó Mục sư Chu được
phái đi In-đô-nê-si-a để mở công trường thuộc linh mới, chức vụ quản nhiệm Hội Thánh người Hoa
do Mục sư Trịnh Khoa Lâm tiếp nhiệm, và thầy Vi Úc Lương được điều sang để hỗ trợ cho Mục sư
Trịnh.
Lúc ấy, Hội sở tọa lạc tại đường Galliéni (nay là đường Trần Hưng Đạo), mỗi lần Chúa Nhật thờ
phượng thì tiếng ồn và tiếng còi ô-tô và tàu điện ngoài đường inh ỏi, gây ảnh hưởng nhiều cho sự
nhóm họp thờ phượng. Vả lại vì đang trong thời kỳ kinh tế suy sụp, tiền thuê nhà phải chi hàng
tháng trở nên gánh nặng cho Hội Thánh Chúa, nên thầy Vi Úc Lương cùng Mục sư Trịnh bắt tay lo
154
việc huy động kinh phí mua sắm đất để Hội Thánh có thể tự xây cất nhà thờ của mình, và đã mua
được thửa đất tại địa chỉ Chi hội Tin Lành Nguyễn Trãi hiện nay.
Tháng 3 năm 1931, vợ thầy Vi Úc Lương cũng sang Việt nam cùng với con gái để phụ giúp thầy
trong sự hầu việc Chúa. Thầy cô hay cùng nhau đi thăm viếng và chứng đạo thường xuyên.Phần lớn
thầy cô đều đi bộ để tiết kiệm chi phí cho Hội Thánh và cứ thế đi suốt ngày mà không thấy mỏi mệt,
nên rất được sự quí mến của anh em tín hữu. Tháng 6 cùng năm, Giáo sĩ Jaffray sang Việt Nam tấn
phong thầy Vi Úc Lương làm Mục sư và giao phó chức vụ quản nhiệm. Mục sư Vi Úc Lương trở
thành vị quản nhiệm thứ tư của Hội Thánh Hoa Kiều.
Năm 1938, tiến sĩ Tống Thượng Tiết sang truyền giảng phấn hưng tại Việt Nam, lưu lại Chợ Lớn
một tuần.Mỗi ngày có 3 buổi nhóm, Mục sư Vi Úc Lương phụ trách thông dịch. Mục sư Vi Úc Lương
vốn mang bệnh đau dạ dày từ lúc 13 tuổi, hàng năm phát bệnh đôi ba lần và mục sư gọi đó là “cây
giằm xóc vào thân thể tôi”. Trong một buổi nhóm tối,đột nhiên cơn đau lại bộc phát, cực kỳ khó chịu
nên Mục sư xin tiến sĩ Tống cho được tạm nghỉ thông dịch. Do quá bức xúc với công việc Chúa, tiến
sĩ Tống đã trả lời rằng: “Chính tôi đây cũng đang bị đau bệnh khó chịu, nhưng vẫn phải dốc hết sức
mình để kêu gọi người ta ăn năn tin Chúa, Mục sư hãy cố lên, chớ vì thế mà ngại.” Cuối cùng hai tôi
tớ Chúa, người giảng người dịch trong cơn đau bệnh của cơ thể, mà vẫn tận trung với Chúa. Tiến Sĩ
Tống Thượng Tiết truyền giảng một tuần đươc hơn 300 người trở lại cùng Chúa, đặt tay cầu nguyện
cho hơn trăm người, và tổ chức được các đội chứng đạo, đời sống thuộc linh của tín đồ được sự
phục hưng rất lớn.
Từ năm 1939 đến 1940,Mục sư Vi đi truyền giáo tại Phnôm-pênh, Campuchia, và sau đó ra các
tỉnh miền Bắc đến Hải Phòng, Hà Nội, Lạng Sơn, Cao Bằng để truyền giảng Tin lành. Mục sư cũng
truyền giảng tại các tỉnh thành dọc đường trên chuyến đi.
Ngoài việc giảng dạy tại Hội Thánh nhà bằng tiếng Quảng Đông, hàng năm Mục sư còn được Hội
Thánh Tin Lành Việt Nam thuộc Tổng Liên hội và Địa hạt mời giảng, cơ hội ra ngoài truyền giảng
cũng nhiều. Lúc đầu, Mục sư cộng tác với Mục sư Quách Phục Hòa, mỗi lần giảng đạo có Mục sư Hòa
thông dịch. Nhưng vì cảm thấy mình là một giáo sĩ của Hội Truyền giáo hải ngoại Trung Hoa, thì có
trách nhiệm giảng Tin Lành với người nước ngoài và Mục sư rất ngưỡng mộ các giáo sĩ của Hội
Truyền giáo hải ngoại của Trung Hoa tại In-đô đã giảng bằng tiếng Mã-lai đêm được hàng vạn người
về với Chúa, nên ông quyết tâm học nói cho bằng được tiếng Việt. Ngoài việc thỉnh giáo với Mục sư
Quách Phục Hòa, Mục sư Vi còn học hỏi nơi các đồng lao và tín hữu người Việt nữa. Ông học rất
chăm chú từng chữ, từng câu một. Ban đầu học rất khó, nhưng dần dần tiến bộ khá nhanh và cuối
cùng Mục sư đã giảng được bằng tiếng Việt mà không cần thông dịch nữa. Ông đã đi rao giảng Tin
Lành tại các Hội Thánh người Việt khắp bốn mươi mấy tỉnh thành từ bắc chí nam, từ Cao Bằng biên
giới tỉnh Quảng Tây cho đến Bạc Liêu ở miền nam và rất được sự khen ngợi của tín đồ người Việt
lẫn người Hoa.
Năm 1942, Mục sư Vi Úc Lương cùng với Truyền đạo Hứa Hán Long cùng nhau mở một Hội
nhánh cho người Hoa gốc Phước Kiến tại thị xã Lái Thiêu. Mỗi chiều Chúa nhật, hai vị tôi tớ Chúa
cùng đạp xê đạp đến Hội nhánh để chủ trì buổi lễ thờ phượng và truyển giảng vào buổi tối. Mục sư
Vi giảng dạy bằng tiếng Việt và tiếng Quảng Đông, thầy Long dịch lại bằng tiếng Phước Kiến hay
ngược lại. Đến năm 1943, thầy Hứa Hớn Long xin nghỉ để trở về Trường Kinh Thánh Đà Nẵng tiếp
tục việc học. Còn lại Mục sư Vi vẫn tiếp tục phấn đấu một mình, hàng tuần cứ chiều Chúa nhật lại
đạp xê đạp về Hội nhánh Lái Thiêu để giảng Lời Chúa bằng tiếng Việt, và nhờ một tín hữu người
155
Phước Kiến dịch lại. Cuối cùng cho đến năm 1945, do ảnh hưởng bởi thời cuộc,nên công việc nhà
Chúa tại Hội nhánh người Hoa ở Lái Thiêu phải ngưng lại.
Nhà thờ Tin Lành Nguyễn Trãi (hoàn thành năm 1949).
Vốn từ năm 1939 Hội Thánh Nguyễn Trãi đã mua thêm được một miếng đất liền kế nhà thờ.
Năm 1941 bắt đầu kế hoạch xây cất nhà thờ mới, giao cho kiến trúc sư ưu tú du học tại Pháp trở về
là ông Trần Kỳ Phấn thiết kế họa đồ. Đến năm 1948, tiến hành khởi công xây lại nhà thờ mới cho
Hội Thánh Nguyễn Trãi. Để tiết kiệm chi phí cho Hội Thánh Chúa, Mục sư Vi đã tự tay đảm nhận
các công việc như là giám sát thi công, mua sắm vật liệu, v.v…một cách tận tụy và kỹ lưỡng, cho nên
công trình xây cất được hoàn thiện kiên cố, đã trải qua hơn 60 năm sương gió nắng mưa nhưng
ngôi nhà thờ đến nay vẫn vững chãi.
Năm 1956, Hội Thánh sắm được một chiếc xê hơi và xin được chính quyền lúc bấy giờ cho phép
truyền giảng lưu động. Mục sư đã dùng loa phóng thanh giảng bằng tiếng Việt và tiếng Hoa, để lại
dấu chân rao báo Tin lành tốt đẹp tại các làng mạc và thành thị phía nam.
Để có thể truyền giảng sâu rộng hơn, Mục sư Vi thúc đẩy Hội Thánh phát triển đa phương diện,
như phát sóng chương trình truyền giảng Tin Lành trên đài phát thanh, làm các công tác từ thiện
xã hội như là mở lớp học tình thương, xây dựng nhà dưỡng lão, v.v…
Bắt đầu từ năm 1963,Mục sư Vi xin được chính quyền đương thời cho phép phát sóng chương
trình truyền giảng Tin Lành, và tổ chức ban hát truyền thanh, tự thu băng các bài giảng và nhạc
thánh làm chương trình gởi cho đài phát thanh để phát sóng.
Năm 1965, xét thấy khu dân cư xung quanh nhà thờ có nhiều gia đình hoàn cảnh khó khăn,
không có điều kiện để cho con êm đến trường, nên sau khi có được kinh phí, Hội Thánh Nguyễn
Trãi đã xây thêm hai tầng lầu trên phần nhà Cơ Đốc Giáo dục sẵn có để mở lớp học tình thương.
Lớp theo chế độ học nửa buổi dành cho các cháu thiếu nhi. Hai năm sau, số học sinh đã tăng lên đến
hơn 500. Chương trình giảng dạy thêo đúng chương trình phổ thông, chỉ khác biệt là có thêm tiết
156
học Kinh Thánh và có giờ tập hợp thờ phượng Chúa, hát thánh ca và nghe kể truyện Kinh Thánh.
Do vậy, nhiều em học sinh lớn lên đã tin Chúa và sau này trở nên tín hữu sốt sắng trong Hội Thánh.
Đến năm 1975, trường tạm ngưng hoạt động do hoàn cảnh có thay đổi.
Thời kỳ từ năm 1967 đến 1975, cụ Mục sư Vi cùng với các sinh viên thần học người Hoa đang
theo học tại Viện Thánh Kinh Thần học Nha Trang như anh êm thầy Huỳnh Gia Cư, thầy Khưu Hoa,
thầy Tăng Tiêu Diêu ra sức phát triển thêm Hội Thánh trong cộng đồng người Hoa tại các nơi như
Nha Trang, Tuy Hòa, Đà Nẵng,Cam Ranh.
Thời kỳ từ năm 1975 trở đi, đất nước mới hòa bình, đời sống nhiều khó khăn. Năm 1976, vì cụ
Mục sư Vi vốn là ngoại kiều và tuổi đã cao, muốn xuất cảnh đoàn tụ cùng con gái độc sinh của mình
đang sinh sống ở nước ngoài, nên cụ xin thôi chức quản nhiệm. Ban Trị sự Hội Thánh mời thầy
Huỳnh Gia Cư kế nhiệm. Đến năm 1979, thầy Huỳnh gia Cư cũng xuất ngoại.Trước nhu cầu cấp thiết
của Hội Thánh, cụ Mục sư Vi đã hủy bỏ ý định xuất cảnh của mình và trở lại chức vụ quản nhiệm
theo thỉnh cầu của Ban Trị sự Hội Thánh trong một thời kỳ mà nhiều Mục sư Truyền đạo nối tiếp
nhau ra nước ngoài. Trong vòng các Hội Thánh Hoa ngữ chỉ còn lại vỏn vẹn một mình cụ và hai nữ
Truyền đạo là cô Tô Ngân và cô Tăng Nguyên Tiên, đến nay vẫn giữ cương vị của mình để chăn bầy
chiên Chúa.
Năm 1987, vì tuổi già sức yếu, cụ ngã bệnh vàcuối cùng, vào ngày 03.01.1988 cụ được Chúa tiếp
rước về yên nghỉ nơi nước Ngài.Mục sư Vi Úc Lương là tôi trung của Thiên Chúa, trong chức vụ hầu
việc Chúa 66 năm, cụ đã dâng hiến hơn nửa cuộc đời mình cho cánh đồng thuộc linh tại Việt Nam,
cúc cung tận tụy. Dấu chân tốt đẹp của cụđã in dấu khắp vài chục tỉnh thành Việt Nam như Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hải Phòng, Tùng Nghĩa, Sài Gòn, Tây Ninh, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh,
Rạch Giá, Hà Tiên,v.v. Cụ được sự quí mến của đông đảo tín đồ người Hoa lẫn người Việt. Đúng như
lời sứ đổ Phao-Lô nói, cụ “đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin”và giờ đây
cụ đang yên nghỉ trong nước Chúa với mão miện triều thiên đã dành sẵn cho cụ. Bằng chứng sống
của cuộc đời cụ luôn là sự khích lệ và gương sáng cho những người tín đồ Chúa để noi theo.
(Bài và ảnh theo tàng thư của Chi hội Nguyễn Trãi)
157
Mục sư LÝ TIẾN LƯU
(1949 – 2008)
Cố Mục sư Lý Tiến Lưu sinh ngày 29.07.1949 trong một gia đình tin kính Chúa tại Bắc Sơn. Lớn
lên,ông được đi học văn hóa cũng tại đây.
Năm 1970, ông được bầu vào Ban Chấp sự Hội Thánh Tin Lành Bắc Sơn và giữ chức Phó Ban
Chấp sự. Các khóa tiếp thêo ông được bầu làm Trưởng Ban Chấp sự.
Năm 1988, lúc 39 tuổi,ông đi học Trường Kinh Thánh tại Hà Nội khóa 1988-1993. Thoạt đầu,
ông gặp nhiều khó khăn vì học bằng tiếng Kinh và nhiều người ái ngại thay cho ông làm sao đủ sức
để học 5 năm. Cảm tạ Chúa, chính Chúa kêu gọi và chọn ông làm người chăn bầy cho Hội Thánh Tin
Lành Bắc Sơn nên sau đó Chúa ban ơn cho ông học càng ngày càng khá, có thể ngang sức học với
một số thầy Truyền đạo người Kinh.
Đến năm 1993, được 44 tuổi, ông tốt nghiệp trường Kinh Thánh trở về quê và được bổ nhiệm
làm quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Bắc Sơn.
Sau một thời gian dài gây dựng và phát triển công việc Chúa tại Bắc Sơn, đến ngày 08.02.2008,
Mục sư Lý Tiến Lưu bị lên cơn đau tim và được đưa đi cứu chữa tại bệnh viện Bắc Sơn. Nhưng vì
suy tim nặng nên Chúa đã rước ông về với Ngài lúc 9 giờ sáng ngày 10.02.2008, hưởng thọ 59 tuổi.
Ông quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Bắc Sơn được 15 năm.
Cố Mục sư Lý Tiến Lưu được an táng tại quê nhà ở Suối Nay, xã Tân Tri, huyện Bắc Sơn, tỉnh
Lạng Sơn.
Trách nhiệm và sự hoàn thiện chức vụ
Suốt 15 năm trong chức vụ, cố Mục sư Lý Tiến Lưu tỏ ra người hầu việc Chúa đầy tâm tình chăm
sóc và gắn bó với bầy chiên. Ông có ơn trong việc lãnh đạo Hội thánh. Một Hội thánh gồm nhiều nhà
nguyện, điểm nhóm, trải rộng qua nhiều xã của huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Tuy các nhà nguyện
và điểm nhóm trải rộng nhiều nơi, song con dân Chúa ở các xã lúc nào cũng hiệp một yêu thương
lẫn nhau.
Đặc điểm của Hội Thánh Tin Lành Bắc Sơn là được củng cố và phát triển qua việc học lời
Chúa.Chính bản thân cố Mục sư Lý Tiến Lưu cũng có sự tấn tới rõ trong việc soạn bài giảng công bố
lời Chúa sau khi học xong chương trình 6 cuốn “Cuộc Đời Chúa Cứu Thế” và “ Tuyên Đạo Pháp” vì
hoàn cảnh lúc bấy giờ Mục sư tự học nhiều hơn là có sự hướng dẫn học hỏi trực tiếp.
Mỗi nhà nguyện của từng vùng, đều có mở lớp “Cuộc đời Chúa Cứu thế”. Thời điểm bấy giờ
đường xá đi lại cheo leo hiểm trở, không tiện nghi như hiện nay. Mục sư Lý Tiến Lưu không quản
ngại địa thế hiểm trở giữa các nhà nguyện mà đến tận nơi, để hướng dẫn các lớp học đó. Cảm tạ
Chúa, nhờ vậy dân sự được trang bị lời Chúa khá phong phú. Qua công các lớp “Cuộc đời Chúa Cứu
thế” mà có được một số nhân sự có đời sống tâm linh vững vàng để giảng dạy và hầu việc Chúa rải
khắp nhiều điểm nhóm của Hội Thánh Tin Lành Bắc Sơn từ dạo ấy cho đến hiện nay.
MS Lý Tiến Lưu & và các nhân sự trong khóa học tại Bắc Sơn
158
Đã có hai lần Hội đồng ở Bắc Sơn ngày 03.03.2003 và Hội đồng lần 2 năm 2008. Mỗi lần, Chúa
cho Mục sư Lý Tiến Lưu đã tỏ ra vững chãi trong việc công bố, giảng dạy Lời Chúa cách rõ
ràng,phong phú và đầy ơn trong quyền năng của Đức Thánh Linh trước vài nghìn người Kinh, người
Dao, H’Mông cùng với sự có mặt của trên 50 người thuộc các cấp chính quyền huyện Bắc Sơn và
tỉnh Lạng Sơn. Từ đó sự vinh hiển của Danh Chúa được bày tỏ giữa dân ngoại. Mọi người vừa ngạc
nhiên, vừa ca ngợi Chúa vì hạt giống của đạo Tin Lành tại Bắc Sơn đã mọc lên.
Hội đồng tại Hội Thánh Bắc Sơn (2004)
Gương Sáng Trong Gia Đình
Lúc nào Mục sư Lý Tiến Lưu cũng tỏ ra mềm mại khiêm nhường trong cách sống và cư xử với
mọi người. Có một lần tôi được mời đến tư thất với 5 chấp sự của Hội thánh để dùng bữa. Tinh thần
phục vụ của ông thật cảm động. Chính tay ông làm gà nấu ăn đãi khách. Bà Mục sư chỉ đóng vai phụ
trong bếp. Một bữa ăn tươm tất có gà luộc lá chanh, canh miến nấu măng khô, một đĩa lớn xôi đậu
xanh đãi vỏ, hương vị của nếp miền cao vừa thơm vừa dẻo, đỗ xanh vàng ươm vừa bùi vừa ngọt,
tráng miệng là đu đủ chín. Bếp nấu chỉ là phía sau một tấm phên chê ngăn với phòng khách và
phòng ngủ đơn giản nhưng chỗ ở thoáng mát có trật tự và ngăn nắp. Suốt bữa ăn, công việc Chúa
được bàn bạc cách cởi mở.
Mục sư cũng dành thời gian để tâm tình với vợ con về sự hầu việc Chúa đó đây của mình; trên
môi ông luôn có nụ cười khích lệ. Cuộc chuyện trò luôn thể hiện gương sống đức tin và vâng phục
ý Chúa trước mọi cám dỗ và thách thức vì cớ danh Ngài. Qua nhiều lần được tiếp xúc, tôi đã chứng
kiến đức hi sinh, sự bảo vệ và thương yêu gia đình của Mục sư Lý Tiến Lưu, dù cho bà là một phụ
nữ quá ư đơn giản, chất phác có thể nói đến là quê mùa.
Cảm tạ Chúa đã kêu gọi và chọn Mục sư Lý Tiến Lưu để chăn bầy tại Hội Thánh Tin Lành Bắc
Sơn trong một giai đoạn có quá nhiều khó khăn cho việc hình thành và phát triển Hội Thánh mặc
dù thời gian quản nhiệm Hội Thánh quá ngắn, chỉ 15 năm. Nhưng chắc chắn cố Mục sư Lý Tiến Lưu
đã thỏa lòng vì cớ danh Chúa được cả sáng giữa cộng đồng người Dao, người Kinh, một số ít người
H’Mông trong thời điểm lúc bấy giờ./.
Quỳnh Lam
159
Mục sư ĐOÀN VĂN MIÊNG
(1914 – 1994)
Hội trưởng thứ VI
Tóm tắt
- 1914 Ra đời tại làng Giai Xuân tỉnh Cần Thơ trong một gia đình nghèo, thờ cúng ông bà, gồm
2 anh trai và 5 chị gái.
- 1931 Lần đầu tiên được nghe giảng Tin lành.
- 1933 Tin nhận Chúa tại Hội Thánh Ô Môn.
- 1935 Dâng mình hầu việc Chúa và theo học tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
- 1937 Được bổ nhiệm đến Hội Thánh Trà Ôn 2 năm, Hội Thánh Gia Rai 4 tháng và về Trường
Kinh Thánh để hoàn tất việc học.
- 1942 Tốt nghiệp Trường Kinh Thánh và tiếp tục hầu việc Chúa tại các Hội Thánh Lộc Thuận,
Bình Đại,Mỹ Tho và Tân Thạnh.
- 1943 Được phong chức Mục sư.
- 1944 Chủ tọa Hội Thánh Bến Tre
- 1948 Chủ tọa Hội Thánh Hàm Long.
- 1953 Chủ tọa Hội Thánh Long Xuyên.
- 1956 Được mời làm Giáo sư Trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
- 1960 Được cử làm Chủ nhiệm Địa Hạt Trung Phần.
- 0.8.1960 giữ Chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cho đến năm 1976.
- 1976 Giữ chức vụ Phó Hội trưởng cho đến khi qua đời.
160
- 19.12.1994 Về với Chúa, hưởng thọ được 80 tuổi.
TIỂU SỬ
1. Thuở thiếu thời và việc tin nhận Chúa (1914 – 1931)
Mục sư Đoàn Văn Miêng được sanh ra tại làng Giai Xuân, tỉnh Cần Thơ năm 1914, trong một gia
đình thờ cúng ông bà nghèo nàn. Họ hàng của ông không ai làm chức vụ gì quan trọng,ngoài chức
vụ lớn nhất trong làng.
Cha của ông có đời vợ trước, sanh được hai trai, ba gái; rồi bà qua đời. Cụ tục hôn với mẹ của
ông và cũng sanh được hai trai, ba gái. Nhưng một trai và một gái qua đời sớm, còn lại ông và hai
em gái. Khi ông được 8 tuổi, thì cha ông qua đời. Một năm sau, mẹ ông giao nhà cửa cho con trai cả
của người vợ lớn để lo việc thờ phụng cha rồi cùng ba con về ở tạm với ông bà ngoại tại làng Như
Long, quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Vì cảnh nghèo, không được an thân một chỗ nào mà phải trôi
giạt nhiều nơi, song mẹ ông vẫn cố gắng cho ông ăn học. Trong làng chỉ có một ngôi trường nhưng
lại rất xa nhà, nên mặc dù đã bắt đầu đi học từ năm sáu tuổi nhưng mãi đến năm tám tuổi mới biết
đọc và biết viết ngoằn ngoèo. Năm chín tuổi, ông mới chính thức vào lớp một và học đến hết bậc
tiểu học Pháp Việt tại Cần Thơ. Nhờ tinh thần cầu tiến, ông đã tiếp tục tự học, nhất là Pháp Văn.
Cha mẹ ông là người rất mê tín. Cha ông thờ ông tướng Bắc trên một cái trang thờ rất cao, phải
bắt thang mới lên tới được. Đó là một tượng người bằng gỗ sơn đên, mặc áo đỏ, có mang lục lạc nhỏ
nơi cổ. Có lẽ tượng ông tướng nầy là của một người dượng đã cho cha ông, vì người dượng là thầy
phù thuỷ có rất nhiều tượng như thế. Ông và các em, hễ lên ba tuổi, sáu tuổi, chín tuổi và mười hai
tuổi đều phải cúng,càng lớn tuổi cúng càng nhiều. Dù không đi chùa, chẳng biết Phật là ai, đã làm
gì, song gia đình ông vẫn tự nhận là theo Phật, thờ Phật.
Lúc khoảng bảy, tám tuổi, trong xóm nơi ông ở có ba gia đình tín đồ. Ông thấy có vài Giáo sĩ từ
Cần Thơ vào thăm các gia đình ấy. Một số bà con họp lại trong nhà ông và cảnh cáo nhau: Đừng ai
đến nhà đạo Hoa Kỳ mà uống nước, trong nước đó có bỏ bùa, nếu uống vào là mê đạo liền.
Mới mười lăm tuổi ông đã nổi tiếng là tay ăn nói. Chuyện xưa, chuyện nay, chuyện bên Tây, bên
Tàu, chuyện tầm phào, chuyện khôi hài ông đều nói được. Dù nhỏ tuổi, ông vẫn ra vẻ người lớn,
thường nói chuyện với người già. Ai nấy tưởng ông thông minh lắm,kỳ thật chẳng thông minh gì
hết. Phía sau những điều dường như tốt đó, ông là người tham lam, ham mê cờ bạc. Mỗi khi nghỉ
hè, ông từ Cần Thơ về Giai Xuân với các anh để đánh bạc. Bề ngoài ông có vẻ dể thương, hiền lành,
đạo đức, nhưng bề trong lại chứa đầy điều xấu xa. Ông chưa phạm tội nặng chỉ vì chưa có cơ hội mà
thôi. Nếu Chúa không kịp cứu ông chẳng biết đời ông bại hoại đến đâu.
Ân điển lạ lùng của Chúa đã bố trí mọi sự, Ngài đóng hết các cửa khác để đưa ông về với Ngài.
Cuộc sống trôi giạt của những người khốn khó đã đêm gia đình ông ra khỏi vòng họ hàng tại làng
Giai Xuân mà đến Ô Môn. Tại đây, nhằm lúc Hội Thánh được phước, rất sốt sắng đi chứng đạo nên
ông được nghe Tin Lành. Ông khoe với các nhân viên chứng đạo rằng ông có học về cuộc cải chánh
tại Âu Châu, đêm Barthélémy ở Pháp, Thập Tự Quân đến Palêstinê, v.v… Kỳ thật ông học để lấy
điểm, chứ không hiểu được bao nhiêu. Tuy nhiên ông vẫn kiêu hãnh nghĩ là họ sẽ chẳng bao giờ
thắng hơn mình và muốn hỏi họ thật nhiều câu để bắt bí họ. Nhưng ông đã đi từ ngạc nhiên nầy đến
ngạc nhiên khác vì bao nhiêu câu hỏi đặt ra, dù là hóc búa hơn hết, họ đều trả lời được. Có những
đêm ông lên giường ngủ rồi mà vẫn không ngủ cho đến chừng nghĩ ra được một câu hỏi. Sau sáu
161
tháng vừa nghe, vừa hỏi, ông “cạn túi khôn”, hết biết phải hỏi gì nữa. Nhưng vì kiêu căng, ông vẫn
cãi bướng với họ,cứ cho là mình đúng, họ sai. Bề ngoài thì nói vậy cho đỡ mất mặt, song trong lòng
đã thấy mình thua.
Một ngày nọ, ông gặp một cụ già độ sáu mươi tuổi là người đã từng nghe Tin Lành. Sau một hồi
lâu trò chuyện về nhiều vấn đề, cụ già chuyển sang vấn đề tôn giáo và chợt hỏi ông: “Em đã thuộc
về Chúa hay còn là người thế gian?” Ông giật mình và phải trả lời rằng mình còn là người thế gian,
không dám nói dối là mình thuộc về Chúa. Ông cứ suy nghĩ luôn về câu hỏi đó để tìm câu trả lời như
thế nào cho được bình an. Ông đọc các sách nhỏ như Chủ mời khách kiếu, Đến cùng Chúa Giê-Xu,
nhất là bộGiải nghĩa Thánh Kinh của Tiến sĩ Jaffray. Dù chưa tin Chúa nhưng ông vẫn đã nhiều lần
đến nhà thờ Ô Môn để nghe giảng. Chỉ có một lần nghe giảng ông được cảm động hơn hết là khi
nghe một bài hát trong Thánh Ca số 11 nhân ngày lễ Giáng Sinh năm 1930. Ý nghĩa và giai điệu của
bài hát đó như đưa ông lên thiên đàng, mà cho đến sau này, mỗi khi ôn lại, ông vẫn còn nghê văng
vẳng bên tai.
Năm 1931, sau khi quỳ gối ăn năn tiếp nhận Chúa tại nhà thờ Hội Thánh Ô Môn do Mục sư Phạm
Văn Hiệu hướng dẫn, ông biết mình đã được tha tội, được tái sanh, nên lòng nhẹ nhàng, ngập tràn
niềm vui mà trước kia ông chưa bao giờ có. Mẹ và hai êm ông cũng tin Chúa sau đó.
2. Lập gia đình
Bấy giờ mẹ ông đã gần năm mươi tuổi. Vì chỉ có ông là con trai, bà con nội ngoại không ai tin
Chúa,và cũng chưa biết anh em trong Chúa có lòng yêu nhau, nên mẹ ông vẫn luôn lo lắng cho tình
trạng độc thân của ông sau khi bà qua đời. Bà thường khuyên: “Con lo tìm vợ đi, mẹ không sống
đến sáu mươi, bảy mươi để lo cho con đâu!” Vâng lời mẹ,ông lập gia đình năm mười tám tuổi, vợ
ông mười bảy tuổi và hai ông bà yêu nhau tha thiết, vui sống bên nhau.
Sau khi tin Chúa,lòng “kính mến ban đầu” luôn bùng cháy, ông đi làm chứng đạo cho bà con,bạn
hữu. Nhưng vì sinh kế phải ở xa nhà thờ, ít được gây dựng thuộc linh nên không được trưởng thành,
lòng kính mến Chúa của ông nguội lần. Tuy vậy, lúc nào và ở đâu ông cũng xưng danh Chúa ra trước
mặt mọi người. Thỉnh thoảng, Chúa thăm viếng ông và nhen lại ân điển của Ngài.
Cuối năm 1931, ông được cảm động và bắt đầu mê đọc Kinh Thánh. Ông quyết định đọc từ trang
thứ nhất của sách Sáng Thế Ký cho đến trang cuối cùng của sách Khải Huyền. Ông học thuộc lòng
mục lục, mười điều răn và bài Tín điều các Sứ đồ. Mỗi sáng sớm, ông bắt đầu đọc, từng trang một,
câu nào được Chúa cảm động thì làm dấu hẳn hoi, đọc mải mê cho đến giờ ăn cơm trưa mới dừng
lại. Buổi chiều lại tiếp tục đọc. Ông cứ say mê đọc như vậy suốt một tuần và cảm thấy đời mình sung
sướng như đang sống trong một thế giới mới. Trước khi tin Chúa, ông vốn ghiền thuốc lá và tin
Chúa rồi ông vẫn còn tật đó. Ông sống suốt một tuần trong sự ham thích Kinh Thánh như con trẻ
ham thích sữa mẹ, đến mức quên hẳn thuốc lá, không còn ghiền nữa và sống như một người chưa
hề hút thuốc.
Khi ống đến sống tại một vùng quê của tỉnh Rạch Giá, đồng bào chưa biết Tin Lành là gì. Lòng
ông bùng cháy, muốn nói Tin Lành cho mọi người. Mỗi tối, ông mời đồng bào đến một căn nhà rộng
rãi để nghe ông giảng Tin Lành. Nhưng thật tiếc, ông không có hiểu biết căn bản về Lời Chúa, nhất
là không biết phương pháp trình bày nên có khi đã giảng sai. Vì vậy, sau một tháng, ông không còn
biết phải giảng những gì nữa,và cũng chẳng còn ai muốn nghe ông giảng. Dù sao, cũng đã có 3 gia
đình tin nhận Chúa: hai Khmer và một Việt. Ông tiếp tục đến từng nhà dạy giáo lý cho họ.
162
Sau hơn một năm, ông trở về Ô Môn, nhưng ở xa nhà thờ khoảng hai chục cây số. Không có
đường xê,không có đường tàu, phải đi bộ hay đi xuồng, nên mỗi lần đi nhà thờ phải mất hai ngày
rất là vất vả. Sinh ra trong cảnh nghèo, lớn lên trong cảnh nghèo nên ông đã quên và xêm thường
mọi sự; chỉ ước ao sống trong sạch, làm tín đồ xứng đáng cho Chúa Giê-xu. Gia đình ông quyết định
bằng bất cứ giá nào cũng phải về ở gần nhà thờ, vì thờ phượng Chúa là việc quan trọng hơn hết.
Cảm tạ Chúa, Ngài đã mở đường. Từ khi về ở gần nhà thờ Ô Môn, cách khoảng một cây số, gia đình
ông sinh hoạt đều đặn với Hội Thánh và được phước vô cùng.
Vừa dời chỗ ở đến gần nhà thờ thì cũng là lúc Hội đồng Tổng Liên Hội họp lại vào tháng 6 năm
1933. Một số tín hữu đến chào mừng gia đình ông và cũng tạm trú trong những ngày Hội đồng.Đêm
cuối cùng, ai nấy đều mệt mỏi, nên ngủ mê, kẻ trộm đào hầm vào nhà, vơ vét tất cả những gì quý
của gia đình ông. Tuy mất của cải ở dưới đất, gia đình ông được của cải trên trời bù lại, nên dù phải
tiếp tục cuộc sống vất vả vẫn vui mừng.Nhân dịp nầy, vợ chồng ông đều chịu báp-têm, sau khi tin
Chúa hơn hai năm. Kinh nghiệm trên đây đã giúp nhiều cho ông trong chức vụ sau nầy: Xưng Danh
Chúa ra và chia xẻ Lời Chúa cho mọi người đó là công tác mà mỗi con cái Chúa đều phải thực hiện
để giúp mình được vững vàng hơn.
Có đôi lúc ông thấy mình yếu đuối, thiếu thốn, ngu dại quá sức tưởng tượng. Ông không có gì và
cũng không thể làm gì ngoài ra ước ao được Chúa cho và được Chúa làm cho. Nếu không bởi sức
của Chúa thì không ai có thể vững vàng sống đời sống Cơ-đốc của mình trên bước đường theo Chúa.
Biết được điều đó, ông đã dâng cuộc đời mình cho Ngài. Một trong các bài hát mà ông thích hơn hết
là bài NGUYỆN CHÚA LẤY CẢ ĐỜI TÔI (Thánh Ca 231). Dù lời và nhạc bài hát nầy không được hoà
nhau, song ý nghĩa đã cảm động ông rất nhiều. Mỗi lần hát lên là mỗi lần ông cầu nguyện dâng đời
mình cho Chúa một cách mới hơn và trọn vẹn hơn.
3.Phục vụ Chúa trên tàu Tin Lành
Năm 1934, ông làm thư ký Hội Thánh, giáo viên Trường Chúa Nhật và nhân viên Ban Chứng
Đạo. Ngoài ra, ông cũng tham gia đào đất bồi đắp nền nhà thờ, chèo ghe góp lúa của tín hữu dâng
cho Chúa. Các bậc lão thành thấy vậy, nói với ông những câu tương tự như:Thầy Miêng, tôi tưởng
Thầy nên dâng mình đi học Kinh Thánh để đi phục vụ Chúa thì tốt lắm. Mỗi lần như vậy, ông cười
cám ơn họ và xin họ cầu nguyện, song ông cho là việc quá lớn, không đủ khả năng làm được nên
chẳng quan tâm. Ngày qua tháng lại, có lần ông đi nhóm cầu nguyện tại nhà thờ vào tối thứ tư, trên
đường về, thình lình ông nghe trong lòng có một câu hỏi: Nếu Chúa kêu gọi mình đi hầu việc Ngài
thì sao? Ông phản đối ngay: Không! Làm gì chứ làm Truyền đạo thì nhất định không làm được vì
khó lắm. Rồi tiếng đó im bặt. Khi thấy ai nấy đi học Kinh Thánh, ông vẫn thản nhiên, cho rằng họ đi
học là phải, còn ông thì không.
Một trong những ngày đầu năm 1935, ông đến thăm các gia đình tín hữu tại Vàm Nhơn, cách
nhà thờ Ô Môn bốn cây số. Tối đó, ông nhóm gia đình lễ bái với họ, rồi ở lại qua đêm. Căn nhà ông
trú ngụ lại là một cửa hàng tạp hoá, trên gác là phòng ngủ, phía trước có chợ nhóm họp. Sáng hôm
sau, ông dậy sớm, đứng trên ban công, nhìn xem những người trong chợ, kẻ đi người lại, kẻ bán
người mua, họ mặc cả, cãi vả với nhau.Ông ước chừng tất cả kẻ mua người bán vào khoảng hai trăm.
Ông chợt nảy ra ý nghĩ thử đếm xem trong số đó có bao nhiêu tín đồ vì ông quen biết từng người.Sau
một hồi cố gắng nhìn mặt mỗi người, và đếm đi đếm lại, ông thấy vỏn vẹn có hai bà tín đồ. Ông cảm
thấy xót xa trong lòng. Đây là nơi gần nhà thờ mà trong số hai trăm người đó chỉ có hai người được
cứu. Vậy thì ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, cứ hai ngàn người mới có hai người, hoặc hai chục ngàn
người mới có hai người hay không có người nào được cứu cả. Ông liền tưởng đến Chúa Giê-xu, khi
163
Ngài từ trời nhìn xuống, thấy nhân loại như bầy chiên lạc, ai thêo đường nấy. Họ sinh ra trong tội
lỗi, sinh ra trong tối tăm, rồi chết trong tối tăm, hết thảy đều hư mất đời đời trong hoả ngục. Chúa
đã động lòng thương xót, tình nguyện giáng thế làm người, chịu chết thay để cứu họ, trong đó có
ông. Chúa còn như thế,thì ông là ai lại dám chối từ, bỏ mặc đồng bào mình trong số phận khốn nạn
đó.Ông cảm thấy mình xấu xa quá, gian ác quá, ích kỷ quá, đáng chết quá! Lòng ông tan vỡ, nước
mắt ông tuôn tràn. Bấy giờ, ông như đang đứng trên một chỗ rất cao, nhìn xuống vô số đồng bào
mình đang bơ vơ, lạc lõng, quờ quạng trong tuyệt vọng. Ông đau xót đến mức độ như chưa bao giờ
có. Vội vàng trở vào phòng, ông quỳ gối xuống không thốt được lời nào với Chúa, mà chỉ khóc và
khóc... Sau một hồi khóc lóc, ông xin Chúa thương xót, tha thứ cho ông: “Kể từ đây, con nguyện đi
bất cứ nơi nào Chúa sai, làm bất cứ việc chi Chúa bảo, miễn là đêm được đồng bào con về với Ngài”.
Suốt đời, ông không bao giờ quên cảnh tượng hôm đó. Mỗi lần nhớ lại, lòng ông rung động và được
khích lệ một cách mãnh liệt trên đường theo Chúa, phục vụ Ngài.
Hội đồng Tổng Liên Hội họp tại nhà thờ Cao Lãnh từ ngày 13-17 tháng 6 năm 1935 và ông được
đến dự.Giáo sĩ G.E. Travis giảng: Thế gian với mọi tham dục nó đều qua đi. Ông Giáo sĩ làm một mô
hình trái đất bằng giấy trêo trước mặt mọi người, trong đó có đủ mọi sự như nhà cửa, đất ruộng,
tiền bạc, v.v... Khi kết thúc bài giảng, vị Giáo sĩ đốt quả đất cháy rụi, chỉ còn lại thập tự giá, rồi đọc
IIPhi 3:10-12. Cả Hội đồng chịu cảm động sâu xa. Trước giờ bế mạc, Mục sư Lê Văn Quế, Chủ nhiệm
Địa Hạt,kêu gọi ai bằng lòng dâng mình cho Chúa đi học Kinh Thánh thì đứng lên để Hội đồng cầu
nguyện. Phía trước bên trái một người, bên phải một người, và phía sau là ông. Khi ra về, Giáo sĩ D.
I. Jeffrey gặp ông ngoài đường, vui vẻ chào và nói:“Tôi cầu nguyện cho thầy, xin Chúa dùng thầy”.
Lời nói tuy đơn sơ nhưng quả quyết đó đã giục giã lòng ông. Ông ngạc nhiên vì chưa từng biết vị
Giáo sĩ, vậy mà vị Giáo sĩ đã chú ý đến ông. Vị Giáo sĩ đã thấy ông đứng lên trong nhà thờ, bây giờ
gặp nhau ngoài đường và ông nhớ liền. Dù vậy, đến tháng 9 năm 1935, ông vẫn chưa có tiền để đi
học tại Trường Kinh Thánh.
Tháng 6 năm 1936, Hội đồng Linh Tu họp tại Hội Thánh Cần Thơ ba ngày đêm, ông đến dự và
nhận được phước lớn. Sau khi Hội đồng bế mạc, Mục sư Lê Văn Cung, bấy giờ là Chủ toạ Hội Thánh
Ô Môn, cho mời ông đến. Mục sư hỏi: “Thầy Miêng ơi, Mục sư Huỳnh Văn Ngà, Trưởng ban Truyền
đạo Lưu hành Tàu Tin Lành có cho tôi biết tàu đang cần một người hầu việc Chúa. Thầy có muốn đi
không?”
Ông đã hân hạnh được biết Mục sư Huỳnh Văn Ngà, Mục sư Nguyễn Văn Trình, và Truyền đạo
Lê Văn Dương từ cuối năm 1931. Ông cũng có lần xuống thăm tàu Tin Lành. Bây giờ, được hầu việc
Chúa ở đó, ông cảm thấy thích, liền hỏi: “Thưa Mục sư, công việc dưới tàu Tin Lành là gì và lương
tiền bao nhiêu?” Mục sư đáp: “Thêo lời ông Huỳnh Văn Ngà,công việc hằng ngày dưới tàu là chèo
ghê, bơm nước, quay máy, lái tàu, cột dây,làm chứng, bán sách. Ăn uống khỏi lo vì tàu đài thọ, nhưng
lương tiền không có,chỉ có hai đồng mỗi tháng để mua xà phòng”. Xuống tinh thần quá, ông phàn
nàn trong lòng: “Hầu việc Chúa gì mà chỉ có hai đồng một tháng? Hầu việc Chúa gì mà chèo ghe,
bơm nước, quay máy, lái tàu?” Rồi ông đáp cụt ngủn: “Xin ông tìm người khác đi, tôi đi không được”.
Trở về nhà, lên giường ngủ, ông cảm thấy nặng nề, buồn bã, không thể nằm yên. Bỗng nhiên,
ông nghe trong lòng có tiếng nói rõ mồn một: “Con đã hứa nguyện đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc
gì miễn đêm được đồng bào mình về với Chúa. Tại sao bây giờ có cơ hội lại chối từ?” Ông liền nhớ
lại tất cả những gì ông đã thấy và nghê trước đây một năm, nhất là lời hứa nguyện mà ông đã dâng
lên Chúa trong cơn thổn thức, qua hàng nước mắt. Bấy giờ, toàn thân run rẩy, ông vội vàng quỳ
xuống bên giường,khóc lóc cay đắng, khẩn thiết xin Chúa thương xót tha thứ cho, và quyết định
164
thêo tàu Tin Lành để hầu việc Chúa. Sau một hồi lâu, ông cảm thấy cơn đau đớn và sợ hãi vơi đi vì
biết Chúa đã nhậm lời. Tuy nhiên, sau đó ông lại phập phồng lo sợ không ngủ được, liệu trong đêm
nay có ai đến với ông Mục sư Ngà mà xin đi thêo tàu Tin Lành chăng? Và ông cứ trông cho trời mau
sáng. Suốt đêm ông cứ hồi hộp, ông thấy trời như lâu sáng quá. Sáng sớm, trước bảy giờ, ông đã
đến tư thất Mục sư, tỏ bày tâm sự: “Thưa ông, bây giờ, tôi sẵn sàng đi thêo tàu Tin Lành,xin ông làm
ơn giới thiệu tôi với Mục sư Huỳnh Văn Ngà”. Cảm tạ Chúa, sau một tuần, ông nhận được thư của
Mục sư Ngà hoan nghênh ông và hẹn ngày ông đến Cần Thơ để cùng đi xuống Đường Mớp là nơi
tàu Tin Lành đang chờ. Lòng ông nhẹ nhàng như được bay bổng, không biết lời nào tả xiết nỗi vui
mừng.
Ông xuống tàu Tin Lành đầu tháng 7 năm 1936 và lên khỏi đó cuối tháng 7 năm 1937, tức là
mười ba tháng. Thực ra ông có nghỉ hai tháng, vì mẹ ông đau nặng, và ông phải về chăm sóc. Trên
tàu Tin Lành, ông chèo ghê, bơi xuồng, bơm nước,… Ban ngày đi làm chứng,phát sách với anh em;
tối lại dọn bàn, thắp đèn, giữ trật tự, mời đồng bào đến để nghe ông Mục sư giảng. Nhiều lần, sau
khi đồng bào ra về rồi, thầy trò ông xuống xuồng đi chài cá, ông Mục sư Ngà ném chài trên các gốc
cây mục bên bờ sông, hay những chỗ cạn, rồi ông Vũ Tam Hạnh lặn xuống mò, còn ông thì bơi xuồng.
Một buổi tối nọ, sau khi giảng xong, một bà cụ trên dưới sáu mươi tuổi ngồi lại trò chuyện rồi
tin nhận Chúa. Bà vui vẻ đặt nhiều câu hỏi về cách ăn ở của người tín đồ. Nhưng có một câu hỏi của
bà mà ông không bao giờ quên: “Tin Lành đã đến Việt Nam bao lâu rồi các cậu?” Các ông sung sướng
tranh nhau trả lời: “Thưa Bà, Tin Lành đến Việt Nam đã lâu, hai mươi lăm năm rồi”. Bà tiếp: “Vậy
thì tại sao hôm nay Tin Lành mới đến đây?” Bà cụ rất tiếc vì tin Chúa trễ quá! Các ông nghẹn ngào!!!
Bên cạnh đặc ân Chúa cho là được phục vụ Ngài, tàu Tin Lành đã phải đương đầu với nhiều khó
khăn.Nào là máy móc hư, tiền bạc kém, phương tiện eo hẹp, khả năng không đủ, nhất là lòng cứng
cỏi của đồng bào, vì ma quỉ đã giam hãm họ trong sự mê tín, thành kiến.Mục sư Ngà thường than:
“Đường xa, gánh nặng, người yếu, sức mòn...” Một lần khác, sau khi giảng xong, dù trời đã khuya
lắm nhưng tàu vẫn phải đi đến một địa điểm mới để sáng hôm sau kịp thời hoạt động. Vì con rạch
nhỏ, không chạy máy được,ông phải dùng sào dài để chống. Hai bên rạch toàn là cây bần và có rất
nhiều sâu. Vì tối không thấy, ông đã va vào một đám sâu, bị chúng làm cho ngứa cả đêm không ngủ
được và lên cơn sốt suốt hai ngày mới khỏi. Tàu Tin Lành đi đến những nơi không có đường đá sỏi,
chỉ có đường đất, bùn lầy cho nên phải đi chân trần,không mang giày dép, nhiều khi bị gai đâm rất
đau. Nhiều lần ông đi xa làm chứng lâu vì sợ không có dịp trở lại. Lúc quay về thì đã quá trễ, vừa
trời tối, vừa mệt mỏi, vừa đói khát, lại chẳng có ai cho ăn uống chi. Nhìn các bà nấu khoai lang vụn
cho hêo ăn mà ông phát thèm, giống như anh chàng phóng đãng thèm vỏ đậu được ghi trong Kinh
Thánh.
Tàu Tin Lành đã giêo giống tận những làng mạc xa xôi hẻo lánh, những hột giống ấy đã lần lượt
mọc lên và kết quả. Cho đến ngày nay, vẫn có tín hữu làm chứng rằng họ đã nhờ tàu Tin Lành mà
biết Chúa, hoặc có thân hữu nói rằng họ đã nghê giảng Tin Lành qua tàu Tin Lành. Khi phục vụ Chúa
tại tàu Tin Lành, vì yếu đuối, đôi khi ông đã phàn nàn. Về sau, ông nhớ lại và lấy làm vinh hạnh vì
đã được những ngày như vậy.Làm sao để có dịp truyền giảng Tin Lành cho đồng bào? Cơ hội đã
qua thì không tìm lại được. Trong mười một tháng phục vụ Chúa ông chỉ được ăn cơm chứ không
có tiềng lương song Chúa đã trả lương cho ông nhiều hơn điều ông đáng được, nhiều quá sức tưởng
tượng. Đó là vào tháng 6 năm 1937, ông được Cụ Đốc Học trường Kinh Thánh Đà Nẵng báo tin có
học bổng dành cho vợ chồng ông đi học Kinh Thánh cho đến khi tốt nghiệp.
165
Phục vụ Chúa mới xêm như bị thiệt thòi, song được đầy đủ và dồi dào, không những trong đời
nầy mà còn trong đời sau. Ngoài Đức Chúa Trời, không ai có thể trả lương đúng cho Mục sư, Truyền
đạo. Nếu phục vụ Chúa căn cứ trên đồng lương của Hội Thánh, không ai có thể trung tín cho đến
cuối cùng. Nhưng phục vụ Chúa căn cứ trên lời hứa của Ngài, nếu có bao nhiêu cuộc đời, chúng ta
cũng muốn phục vụ Chúa thôi. Về phương diện tâm linh, riêng ông nhận được nhiều kinh nghiệm
quý báu, chuẩn bị cho chức vụ sau nầy. Ông hết lòng cảm tạ Chúa Chí Ái, Chí Nhân đã dẫn dắt đưa
cho ông biết đến tàu Tin Lành. Ông cảm tạ các đầy tớ Chúa đã dự phần gây dựng đời sống và chức
vụ của ông.
4.Hai năm chức vụ tại Trà Ôn.
Cuối tháng 4 năm 1938, ông (lúc ấy còn là Truyền đạo) được Ban Trị sự Tổng Liên Hội bổ nhiệm
đi tập sự tại Hội Thánh Trà Ôn thay Truyền đạo Phạm Văn Năm. Khi ở Trà Ôn, Truyền đạo Phạm
Văn Năm đã phải nhờ cha mẹ giúp đỡ mới sống được, nên khi nghê ông đến thay, ông Truyền đạo
nghĩ rằng số phận của Hội Thánh Trà Ôn rồi sớm muộn gì cũng đóng cửa, vì nếu ai biết tình hình
của Hội Thánh và cảnh nghèo của ông cũng đều phải tin như vậy.
Thật vậy! Có vài Chúa Nhật, sáng ra, ông và gia đình không còn gạo nấu, tiền bạc hết sạch. Gia
đình phải nhịn đói cho đến khi tan buổi thờ phượng, ai về nhà nấy; bấy giờ gia đình mới lấy tiền
dâng của Hội Thánh ra chợ mua gạo. Trong khoảng một tháng, mỗi tuần gia đình ông phải ăn cháo
hai ngày, vì không đủ gạo nấu cơm. Nhưng ông vẫn thản nhiên, không hề cho ai biết mà cứ vui vẻ
phục vụ Chúa như thường. Thỉnh thoảng, Chúa có dùng những “con quạ” ở xa mang đến cho gia
đình ông thức ăn, tiền bạc; nhờ đó mà ông được an ủi rất nhiều. Từ đó trở về sau, Chúa không cho
gia đình ông gặp tình cảnh như vậy nữa vì Ngài kể bài học đã xong rồi.
Lần thứ nhất trong đời được làm Truyền đạo Chủ toạ một Hội Thánh, dù chỉ là một Hội Thánh
nhỏ, ông cảm thấy mình không tương xứng một chút nào với chức vụ thánh trong Hội Thánh của
Đức Chúa Trời Chí Thánh. Khi giảng xong bài giảng đầu tiên, ông ngồi bịch xuống, mệt đến lùng
bùng lỗ tai vì sợ. Một thời gian sau quen dần, ông trở nên dạn dĩ hơn.Song ông lại lo ngại về một
phương diện khác, người ta thường bảo: “Gần chùa kêu bụt bằng anh", tức là hằng đụng chạm đến
các vật thánh khiết dễ sinh ra khinh lờn như Na-đáp và Â-bi-hu mà phải thiệt mạng (Le 10:1-7).
Trong lúc mệt mỏi đó thì có Hội đồng Tổng Liên Hội họp tại Hội Thánh Vĩnh Long từ 28/5 -
3/6/1938, diễn giả là Tiến Sĩ Tống Thượng Tiết. Có rất nhiều tấm lòng tan vỡ,nhiều nước mắt đổ
ra, những niềm vui mới tràn ngập, những bài hát mới vang lừng.Ông là một trong số đó.
Từ Hội đồng trở về,ông nhận được ân tứ và quyền năng trong sự giảng dạy. Đã có lần, đang khi
ông giảng, Hội Thánh đã rất cảm động đến nỗi ông phải tạm ngưng để ai nấy ăn năn tội với Chúa,
rồi ông mới giảng tiếp. Nhưng sau thời gian khoảng tám tháng, ông bị giảm sút lần hồi về ân tứ và
quyền năng của Chúa, đến nỗi việc mỗi tuần soạn một bài giảng cũng trở thành quá khó khăn. Ông
mở hết các sách ra đọc, cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt, mà vẫn không thấy có gì hơn. Ông gửi thư qua
Pháp mua thêm sách, nhưng cũng không tiến bộ thêm được chút nào. Ông bối rối không ngủ
được.Một buổi trưa, ông không nghỉ ngơi như thường lệ mà lục lọi trong tủ sách để tìm tài liệu để
có thể giúp mình phần nào trong cơn khủng hoảng trầm trọng. Ông gặp một tờ Truyền đạo đơn
nhan đề: ĐÌNH CHIẾN ĐỂ TOÀN THẮNG của tiến sĩ Â.B.Simpson. Ông được sự thôi thúc nên đọc.
Tờ Truyền đạo đơn đại ý nói rằng chúng ta thường bị cám dỗ, cậy vào khả năng mình, cố gắng tối
đa làm công việc Chúa,mong được đẹp lòng Ngài. Động cơ rất đúng, song phương pháp rất sai. Vì
không ai có thể làm công việc của Chúa ngoài ra chính sức Ngài, cũng như chỉ có ở trong Chúa mới
có thể sống cuộc đời Cơ-đốc nhân, Ngài sẽ tái diễn cuộc đời đó trong chúng ta và qua chúng ta.
166
Chúng ta thất bại vì chưa nhận ra mình chỉ là một con số không. Chúng ta phải đình chiến, tức là
biết mình như vậy, hầu nhờ sức toàn năng của Ngài mà được thắng. Bấy giờ mắt ông thấy được, tai
ông nghê được,trí ông hiểu được, lòng ông nhận được lý do phải đình chiến và bí quyết để toàn
thắng.
Hội Thánh Trà Ôn rất nhỏ, cũng có Trường Chúa Nhật, chia làm ba lớp: (1) Tráng niên và trung
niên,(2) Thanh niên, (3) Thiếu niên và thiếu nhi. Có những lúc Hội Thánh thích nghe ông dạy bài
học hơn là nghê ông giảng. Vì vậy, ông càng quan tâm đến Trường Chúa Nhật. Những năm chức vụ
trong các Hội Thánh khác, ông cho Trường Chúa Nhật là trọng tâm công tác. Hội Thánh được gây
dựng như một cây có rễ sâu trong lòng đất, vững vàng giữa cơn bão tố là nhờ học Lời Chúa trong
Trường Chúa Nhật.
Trước cửa nhà thờ Trà Ôn là con đường ra nghĩa địa nên ông thường chứng kiến những đám
tang đi ngang qua. Cứ mỗi lần như vậy, ông cảm thấy xót xa, tự hỏi: "Người chết này đã nghê Tin
Lành chưa?". Mỗi tối thứ bảy ông dành cho truyền giảng. Có những buổi tối, ông ra chợ kêu một ly
nước ngọt, là mua một chỗ ngồi để nói chuyện với người xung quanh. Lắm lúc họ nghe ông làm
chứng và lấy làm thích thú đến nỗi tranh nhau trả tiền ly nước ngọt cho ông! Ban Chứng Đạo dù đi
ráo riết,ít nhất mỗi tuần một lần, nhưng kết quả vẫn rất hiếm. Khi đêm được một người hay một
gia đình về với Chúa, ông vui mừng và xem họ là quý vô cùng.
Dù Hội Thánh Trà Ôn rất thoả lòng về hai năm chức vụ của ông tại đó, song lúc nào ông cũng
thấy mình còn nhiều khuyết điểm.
5.Hai năm phục vụ Chúa với Hội Thánh Mỹ Tho và Tân Thạch (1942 - 1944).
Sau khi tốt nghiệp trường Kinh Thánh, ông được bổ nhiệm đến Hội Thánh Mỹ Tho thay cho Mục
sư Phan Văn Tranh chuyển đến Phú Xuân. Trong khi chờ đợi thời gian bàn giao, đầu tháng 5 năm
1942, ông được mời đến hợp tác với Truyền đạo Lâm Văn Chí để gây dựng hai Hội Thánh Lộc Thuận
và Bình Đại.
Hơn một tháng tại đây, ông được học hỏi thêm là phải nhẫn nại. Số tín hữu của hai Hội Thánh
này khá đông, lại đã tin Chúa lâu năm. Dù ai nấy có sự sống, song thiếu sự sống dư dật, có Thánh
Linh, song thiếu đầy dẫy Ngài. Vì vậy, Hội Thánh có vẻ mệt mỏi, uể oải như một cụ già gánh nặng đi
đường xa. Hội Thánh như một đàn bà son sẻ,không có thêm người được cứu, nên rất buồn. Ông cố
tìm hiểu xêm nguyên nhân nào đã dẫn đến tình trạng này, thì được biết đại ý như sau: Trước đó
khá lâu, tín đồ có nghe một ông tại Mỹ Tho giảng về sự tái lâm của Chúa. Ông trưng dẫn Kinh Thánh:
"...Chúa đã gần rồi" (Gia 5:8). Để giục giã ai nấy sẵn sàng,ông nhấn mạnh: "Ấp gà không kịp nở, trồng
chuối không kịp ăn" thì Chúa đến. Nhưng sau nhiều năm vẫn chưa thấy Chúa tái lâm, ai nấy hổ thẹn,
biết mình đã lầm, vì Chúa không bao giờ nói như vậy. Họ tuy vẫn giữ niềm tin, nhưng không dám
làm chứng cho ai, và đồng bào cũng đêm câu "ấp gà không kịp nở,trồng chuối không kịp ăn" để mỉa
mai tín đồ.
Đầu tháng 7 năm 1942, ông đến Hội Thánh Mỹ Tho. Tín đồ Hội Thánh Mỹ Tho già cả, đơn sơ,
song đức tin vững vàng. Đa số dù ở rất xa vẫn trung tín đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật. Hội Thánh có
một nề nếp tin kính, nên từ người trẻ đến người lớn tuổi đều sẵn sàng ngồi lại học Lời Chúa. Ông
rất được khích lệ, hi vọng dự phần xây dựng thân thể Chúa tại đây lâu dài. Nhưng có một bất trắc
xảy ra trong Địa Hạt, ông được lệnh thuyên chuyển qua Hội Thánh Tân Thạch vào cuối tháng 8 năm
ấy.
167
Tín đồ Tân Thạch ở gần nhau, quây quần trong một xã với một ít gia đình thuộc các xã lân cận,
nên việc đi thăm viếng, cũng như đi nhà thờ được dễ dàng. Đồng bào xã Tân Thạch nghiêng về tri
thức hơn về đạo đức, nên tín đồ chịu ảnh hưởng. Đại đa số thích học Kinh Thánh, họ giống như tín
đồ tại Bê-rê, muốn biết điều mình tin có đúng hay không (Cong 7:11). Vì vậy, cuối năm 1943, Hội
Thánh Tân Thạch đã đoạt giải nhất về Trường Chúa Nhật trong Địa hạt. Không những tín đồ sốt
sắng học Kinh Thánh tại nhà thờ mà cũng sốt sắng học Lời Chúa vào mỗi tối thứ năm khi hiệp
nguyện tại nhà tín hữu. Nhờ đó, ông được khích lệ và học hỏi thêm luôn để có thể chia sẻ cho nhau.
Vì nhà thờ Tân Thạch ở cách xa chợ hai cây số, nên có ít đồng bào đến dự buổi truyền giảng hàng
tuần. Ông nghĩ rằng đồng bào không đến nhà thờ vì ở xa, bây giờ chúng ta phải đêm nhà thờ đến
gần đồng bào. Ông xin Ban Trị sự Hội Thánh tổ chức truyền giảng tại các nhà tín đồ, nơi có đông
người.
Tại Tân Thạch, ông có được nhiều cơ hội thông công với các tín hữu các Hội Thánh của một
vùng rộng lớn gồm có Mỹ Tho, Quới Sơn, Ân Hoá, Lộc Thuận, Bình Đại, Bến Trê, Sơn Đốc, Ba Tri,Sóc
Sãi, Mỏ Cày. Tháng 2 năm 1943, ông đắc cử Thủ quỹ Địa hạt, nên mỗi tháng đều đến Sài gòn một
lần để kết sổ. Nhưng sau hai năm, ông được Chúa thúc giục xin cấp trên đổi đi nơi khác. Không ngờ
tháng 5 năm 1944, Mục sư Lê Văn Cung qua đời,nên ông được điều đến Bến Tre thay thế.
6.Ba năm sáu tháng phục vụ Chúa tại Hội Thánh Bến Tre.
Đầu tháng 7 năm 1944, ông đến Bến Trê. Tín đồ Bến Trê cũng như tín đồ Mỹ Tho, ở xa nhà thờ
nhưng số lượng thật đáng kể. Đại đa số là nông dân, chỉ một thiểu số là công chức,thương gia. Hội
Thánh Bến Tre có một nền tin kính vững vàng. Nhiều người dâng phần mười cho Chúa, thậm chí
khi trong nhà có người qua đời, được bà con, bạn hữu phúng điếu, họ cũng dâng một phần mười
trong số đó. Vì ở xa, có người đến nhà thờ từ chiều thứ bảy, để tối lại thờ phượng Chúa, dự phần
truyền giảng cho đồng bào. Tư thất chật hẹp, lại thiếu tiện nghi nên ai nấy qua đêm một cách khổ
cực.Việt Nam bị hoạ chiến tranh do quân đội Nhật chiếm đóng làm căn cứ, nên bị phi cơ Mỹ oanh
tạc làm cho nhân dân điêu đứng. Các con của ông phải mặc bằng vải ta, là loại vải rất thô, to sợi và
mau rách. Dù vậy, cũng qua ngày.
Một sáng Chúa Nhật của tháng 9, nhân viên của Quốc gia Tự vệ Cuộc đến nhà thờ, buộc gia đình
ông phải tản cư vào miền quê; nhà thờ và tư thất có chính quyền bảo vệ. Ngay sau khi giải tán, ông
và gia đình được Truyền đạo Hứa Hớn Long mời về ở nhà ông tại Mỹ Lồng,cách đó khoảng 7 cây
số. Vợ chồng ông và sáu con thu xếp quần áo để lên đường,chỉ bà thân của ông ở lại giữ nhà thờ.
Thời gian tạm trú trong nhà của Truyền đạo Hứa Hớn Long đã gần ba tháng. Ông vẫn cứ tiếp tục
thăm viếng, chia xẻ Lời Chúa để an ủi anh em, mặc dù thỉnh thoảng có máy bay của quân đội Pháp
đến bắn phá.Đã hai lần ông suýt chết. Hội Thánh tiếp tục nhóm họp lại trong nhà này để sinh hoạt
mỗi Chúa Nhật. Hoàn cảnh đặc biệt có nhu cầu đặc biệt nên Chúa cũng đã ban cho ông ân tứ đặc
biệt để giảng Lời Ngài. Nhờ đó Hội Thánh được vững vàng.
Gần đến ngày kỷ niệm Cứu Chúa Giáng Sinh, Ban Trị sự Hội Thánh đã chọn một nhà tương đối
rộng cách đó khoảng năm cây số để tổ chức lễ. Thế là gia đình ông phải dọn về một chỗ mới.Ông
cho ghe chở bàn ghế và đồ đạc từ nhà thờ vào để có tiện nghi tối thiểu cho Hội Thánh họp lại trong
kỳ lễ và sẽ tiếp tục họp hằng tuần tại đó luôn. Hội Thánh Bến Tre có một thói quen rất tốt là sau
buổi lễ Giáng Sinh, Ban Trị sự mang đến một món quà tặng cho Chủ tọa của mình. Trong hoàn cảnh
khó khăn, ông không nhớ điều đó, chỉ vui mừng cảm tạ Chúa vì được phục vụ Hội Thánh Ngài.Không
ngờ, các ông Ban Trị sự, khăn đên, áo dài, trang nghiêm, tề chỉnh, khệ nệ bưng một mâm bánh, trái
và một số tiền để trên bàn, mời ông đến. Một ông đại diện nói: "Thưa Thầy, Chúa dạy chúng tôi kính
168
trọng kẻ có công khó... nhớ đến người dẫn dắt mình. Nay là ngày kỷ niệm Cứu Chúa Giáng Sinh,
chúng tôi thay cho Hội Thánh, có chút quà mọn, xin Thầy vui nhận". Dù quà tặng không bao nhiêu,
nhưng tình yêu quý giá vô cùng!
Nhiều người tản cư rất khổ, song gia đình ông tản cư lại rất sướng! Gần ba tháng ở trong nhà
Truyền đạo Hứa Hớn Long, không phải trả một đồng nào, rồi hơn ba tháng nữa ở trong nhà ông
Huỳnh Văn Danh cũng vậy. Các gia đình tín hữu chung quanh mời gia đình ông về ăn với họ, hoặc
mang thức ăn đến cho gia đình ông. Vì vậy trong bảy tháng tản cư ông có dư tiền.
Vào cuối năm 1945,nhà cầm quyền Việt Minh có quyết định về một số nhà kiên cố trong thành
phố mà quân đội Pháp có thể chiếm đóng đồn, nên ra lệnh chất rơm sẵn trong đó, hễ khi nào quân
đội Pháp đổ bộ, sẽ thực hiện chính sách tiêu khổ kháng chiến. Thế là bà thân của ông phải ra khỏi
nhà thờ. Ông không biết làm gì hơn là cầu nguyện,xin ý Chúa được nên.
Ngày qua tháng lại,tình hình mỗi lúc một thêm trầm trọng. Sáng sớm ngày mồng bảy Tết, sau
khi ai nấy đều hạ nêu, thì tiếng súng nổ vang rền. Nhiều người trèo lên cây quan sát rồi xuống cho
biết thành phố Bến Tre khói lửa mịt mù, làm cho ông càng thêm lo ngại. Suốt ba ngày liền, ông cầu
nguyện tha thiết, nếu Chúa đã cho phép nhà thờ bị cháy,xin dạy con biết phải làm gì, làm sao để giữ
được Hội Thánh của Ngài, như bầy chiên mất chuồng. Tiếng súng lần lần im bặt, đồng bào bắt đầu
đi lại. Ông quyết định ra thăm nhà thờ. Cùng đi với ông là đứa con trai mười một tuổi. Hai cha con
lủi thủi đi, nào băng đồng, lội nước, qua cầu. Dù nhà thờ chỉ là vật chất,song đó là kết tinh của tình
yêu Chúa mà bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của con cái Ngài đã đổ ra mới có. Khi gần đến thành phố,
ông đã thấy đó đây những ngôi nhà bị đốt, có cái cháy hết, có cái cháy dở và còn đang cháy. Ông
đinh ninh nhà thờ cũng cùng một trong hai cảnh đó. Khi đến đứng trước nhà thờ, ông ngạc nhiên
không thể nào tưởng tượng được, nhà thờ vẫn còn nguyên vẹn từ trước ra sau, từ trong chí ngoài.
Ông chỉ biết thốt lên được một tiếng nhỏ đủ cho con ông nghe là: "CẢM TẠ CHÚA". Chúa Nhật kế
đó, Hội Thánh họp lại tôn thờ, ca ngợi Chúa. Ông không giải thích tại sao nhà thờ còn ngoài câu nói:
"Chúa bảo vệ nó".
Gia đình ông tản cư và trở về, không mất chi cả và cũng không có chi để mất, ngoài Kinh
Thánh,Thánh Ca, Thánh Kinh Báo và các sách giải nghĩa. Ông xêm mình thật giàu có,nhưng không
phải đếm bằng vàng và bạc, của cải, mà bằng các ơn phước thuộc linh, nên kẻ gian không thể nào
cướp được.
Chiến thuật du kích lần lượt nổi dậy khắp nơi, tiếng súng ầm ì cả ngày lẫn đêm, xê đủ loại chạy
đi chạy về không ngớt. Đây có tin nhà bị đốt, người bị giết, của bị cướp; đó có tin thây bị trôi sông,
nhiều người bị chôn sống, nhiều người bị thương vì lựu đạn nổ. Nhà cầm quyền Pháp tổ chức những
cuộc lùng bắt, bố ráp. Gần như mỗi cuộc bố ráp đều có tín đồ bị bắt chung với đồng bào. Khi một
người bị bắt, cả gia dình và thân nhân kêu khóc, vì kể như chết rồi. Đồn thì canh phòng nghiêm
ngặt,không cho ai đến gần, hỏi lính canh thì được trả lời, "Về đi, khi nào xét xong, nếu vô tội sẽ thả".
Nếu thấy lâu quá, hỏi thăm tin tức, thì có người bảo: "Về làm đơn, được chính quyền địa phương
chứng tốt, rồi đêm đây". Làm đơn thì được, song chính quyền địa phương đã bị giải tán, đâu còn
mà chứng tốt. Có biết bao trường hợp khắt khe, éo le không sao kể xiết. Tín đồ cũng chung số phận
với đồng bào. Nhưng mỗi khi có người bị bắt, thân nhân chạy đến Truyền đạo Chủ toạ xin can thiệp.
Can thiệp nhiều lần quá cho nhiều người thì không còn hiệu lực nữa. Nhà cầm quyền nói: "Ở trong
vùng Việt Minh thì hết thảy đều bị kể là Việt Minh, dù không cầm súng thì cũng đào lộ, đắp mô, phá
cầu, đốt nhà, góp tiền, v.v...". Vì vậy có nhiều tín đồ bị tra tấn, giết chết khi tại vùng họ ở có cuộc
chạm súng giữa đôi bên.
169
Lần nọ, ông đến xin gặp trưởng đồn người Pháp về việc hai tín đồ vừa bị bắt. Ông đưa danh
thiếp, nhờ một người lính đêm vào. Ânh trưởng đồn ra đứng trước cửa nhìn ông, rồi quay trở vô.
Ông lủi thủi đi về, vì biết rằng anh trưởng đồn thấy ông ăn mặc quần áo đơn sơ, quần cũ, áo tay
ngắn; anh nghĩ chắc không phải là ông nên không tiếp. Bấy giờ, ông chỉ có một bộ áo lớn để mặc
trong khi giảng mà thôi. Ông trở lại đồn,bệ vệ trong bộ áo lớn, đưa danh thiếp nhờ người lính đêm
vào cho trưởng đồn.Anh ấy đi ra nhìn ông, rồi cho lính mời vào. Ông trình bày mục đích, anh trưởng
đồn lắc đầu bảo không thể nào thả được, vì kẻ bị bắt ở trong vùng địch, một xã mà hết thảy dân
chúng đều là Việt Minh. Ông giải thích rằng người bị bắt không phải ở trong xã đó, song ở xã bên
cạnh, cách một con rạch, xã này dân chúng tốt,nhất là Cơ-đốc nhân. Anh trưởng đồn liền kêu thông
ngôn ra: "Người ta nói chúng mình bắt lầm, những tên này ở một xã khác". Thông ngôn vội vàng
vào xem lại hồ sơ rồi ra đáp: "Phải, những tên này ở một xã khác". Ânh trưởng đồn quay qua nói
với ông: "Được, ông về, chiều nay sẽ làm giấy thả hai tín đồ của ông". Có rất nhiều trường hợp như
vậy. Người Pháp nể ông. Họ biết ông nói và làm chỉ vì lý do tôn giáo, mà Tin Lành là tôn giáo đã có
trong xứ họ. Về sau, có một nhân vật đã từng cộng tác với Pháp gặp ông và bảo:"Này ông, tôi lấy
làm lạ là Phòng Nhì Pháp không bắt ông". Ông hỏi:"Thưa ông, tại sao ông nói vậy?" - "Vì ông can
thiệp cho Việt Minh luôn". Ông đáp: "Thưa ông, tôi không can thiệp cho họ vì họ là Việt Minh, mà vì
họ là tín đồ Tin Lành".
Chiến tranh mỗi lúc một ác liệt. Hơn năm mươi tín đồ bỏ nhà riêng, chạy về nhà thờ xin tạm trú.
Một số khác chạy tản lạc nhiều nơi. Ông phải đến các cơ quan chính quyền xin cấp giấy tờ hợp lệ để
những người này ở. Vì quá đông người ở chung một nhà, ồn ào làm ông ăn ngủ không yên. Vì sức
có chừng mà việc vô hạn, nên ông mệt đuối. Một sáng nọ, ông đánh răng, cảm thấy trong cổ có gì
khó chịu, ông khạc ra, thì thấy trong nước miếng có lẫn máu tươi. Ông biết ngay là phổi đã bị
thương, rất nguy hiểm, phải nghỉ ngay mọi việc. Ông tự nhủ: "Ânh êm như thế này, làm sao nghỉ
được, nếu phải chết thì chết. Ông không dám nói với bất cứ ai mà cứ tiếp tục làm việc, quên rằng
mình đang đau yếu. Mãi đến đầu tháng 7 năm 1947, ông không còn cố gắng được nữa, vì đã kiệt
quệ. Ông liền lên Sài gòn nhờ bác sĩ chiếu điện.Bác sĩ cho biết phổi ông đã lủng lỗ, ông phải nghỉ
ngay mọi việc, nếu bệnh không trầm trọng hơn mà bắt đầu thuyên giảm thì phải hai năm sau mới
làm việc lại được. Ông thất vọng, làm gì có đủ tiền ăn trong hai năm để nghỉ, nhà đâu để ở,thuốc
đâu để uống? Ông biết để trị lao phổi phải nhà giàu, phải ăn ngon, ngủ yên, vui chơi mà không làm
chi cả với trí óc lẫn tay chân. Dù sao, ông cũng phải bàn giao Hội Thánh lại cho Địa Hạt cử người
khác đến thay. Gia đình ông mười một người vào ở trong trại làm dừa của một tín đồ, cách xa thành
phố Bến Tre bảy cây số. Trại chỉ có một mái, đã bỏ hoang nên dột nát, bốn phía không có vách.Ông
phải cố gắng lắm mới sửa chữa đôi chút, vì bắt đầu mùa mưa.
Ông nghĩ thế nào cũng phải chết, vì cơm ăn hằng ngày còn không đủ thì lấy đâu ra tiền uống
thuốc.Trước thảm cảnh vợ yếu con thơ với một mẹ già và một đứa em tàn tật, ông đã tự trách: "Tại
sao quá sốt sắng, quên mình, đến nỗi phải ra như thế này? Mình chết, gia đình mình sẽ ra sao? Các
con mình bỏ học, cực khổ vô ngần, ai sẽ lo cho tương lai của chúng nó? Mình đã lỗi lầm, dại dột
quá!" Biết bao câu hỏi dồn dập đến giày vò tâm trí ông. Thêm vào đó, mỗi lần có tín đồ bị bắt, thân
nhân lại chạy đến ông, xin can thiệp. Ông không được an thân, vì mỗi lần đến đồn bót là bị mệt lả
cả trí lẫn xác, nên nhiều lần ông vẫn còn khạc ra máu tươi.Ông thấy ở nhà không tiện nên lên bệnh
viện Chợ Rẫy. Ông nằm tại đây hai tháng,được đỡ nhiều. Tuy nhiên, thỉnh thoảng có tín đồ bị bắt,
thân nhân của họ đến tìm và ông xin viết thư can thiệp, bảo lãnh. Ông làm mà không có hy vọng bao
nhiêu, song Chúa cho có kết quả tốt.
170
Ông cảm thông với tác giả Thi 42:7 “Vực gọi vực theo tiếng ào ào của thác nước Chúa; các lượn
sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi”. Đau đớn càng thêm đau đớn, sầu thảm chồng trên sầu thảm.
Đang khi ông nằm bệnh viện Chợ Rẫy, thì được tin hai con ông ở nhà đau nặng, ông phải về gặp mặt
chúng nó lần cuối cùng: một gái 6 tuổi,một trai 4 tháng. ông nhìn hai con trong cảnh tuyệt vọng, xót
xa như ruột thắt,không lời nào tả xiết. Bây giờ, ông nhớ lại một năm trước đó, con gái này là đẹp
nhất trong các con ông, nó lại rất ngoan ngoãn. Khi ông ngồi trong phòng đọc sách, nó chạy chơi với
các anh chị nó. Thỉnh thoảng, nó mở cửa, đưa đầu vào,nhìn ông, nhoẻn miệng cười rạng rỡ gọi:
"Ba!" Ông hỏi: "Con có muốn gì không?" - "Con muốn thấy Ba!" Ngay khi đó, ông nghê một tiếng
trong lòng: "Nếu Chúa đêm nó về với Ngài thì sao?" Ông tự đáp:"Con yêu Chúa, Con phải dâng điều
gì tốt nhất của con cho Ngài, như Ápraham đã dâng Ysác". Rồi ông thưa: "Xin ý Chúa được nên".
Lòng ông vui vẻ nhẹ nhàng. Nhờ đó, bệnh ông lần lần đuợc thuyên giảm. Ngày nọ, bác sĩ Trần
Đình Nam trong bệnh viện, nhìn ông, rồi nói lớn: "Ông mặt đỏ như Quan Công mà lo gì!" Sau hơn
hai tháng, bác sĩ khuyên ông bơm phổi rồi về nhà tịnh dưỡng.Thế là ông được bơm hơi có thuốc
vào bên phổi đau để cho phổi nghỉ. Cứ hai tuần lên bơm một lần. Sau hai lần bơm phổi, ông không
thấy tốt hơn. Vả lại, đi và về mệt quá, nên ông nhất định không bơm phổi nữa. Ông cố gắng áp dụng
ba phương pháp: Ăn uống bổ dưỡng, thở không khí tốt và tắm nắng. Khi các bạn đồng lao và tín
hữu biết ông đã bơm phổi nửa chừng rồi thôi, họ quả quyết ông sẽ chết. Ai nấy khuyên nhà ông nên
sẵn sàng mọi sự. Có ông bảo rằng ông là một người chết chưa chôn. Các bạn ông nói đúng thêo điều
nghe thấy của họ. Nhưng Đức Chúa Trời có chương trình của Ngài trên đời sống ông. Chương trình
đó là Ngài không bẻ cây sậy đã giập và không tắt ngọn đèn gần tàn (Es 42:3).
Gia đình ông vẫn còn trong tình trạng khủng hoảng, phải chia làm ba, ở ba nơi khác nhau, mỗi
nơi cách xa năm đến bảy cây số. Trong hoàn cảnh đó, Chúa đã cảm động Hội Thánh Bến Tre tận tâm
giúp đỡ gia đình ông, vì ngoài việc cung lương cho ông Chủ toạ, thì người này nuôi gia đình ông
trong nhà, kẻ kia giúp thức ăn hoặc tiền bạc. Chúa đã dùng nhiều cách an ủi khích lệ ông. Nhờ đó,
gia đình ông sống đầy đủ suốt thời gian sáu tháng. Nếu không được vậy chắc ông đã chết.
Tuy nhiên, tình hình xứ sở, Hội Thánh và gia đình chi phối tâm trí ông rất nhiều, làm ông dao
động đôi khi tưởng chừng hoàn toàn thất vọng. Một sáng Chúa Nhật của tháng 11 năm 1947, ông
cảm thấy yếu mệt, không đi nhà thờ nổi, nên mở Kinh Thánh ra đọc.Không hiểu sao hôm đó ông
đọc Thi Thiên 118. Khi đọc đến câu: “Tôi sẽ chẳng chết đâu, nhưng được sống, thuật lại những công
việc Đức Giê-hô-va. Chúa đã sửa phạt tôi cách nghiêm trang, nhưng không phó tôi vào sự chết”. Đủ
rồi! Ngài đã chữa lành tôi! Ông đi tìm một miếng giấy cứng, viết bằng một nét chữ thật to để trên
bàn: TÔI SẼ CHĂNG CHẾT ĐÂU, NHƯNG ĐƯỢC SỐNG. Ông quỳ xuống với lòng tràn ngập niềm vui,
nước mắt ràn rụa, không xin Chúa chữa bệnh nữa vì Ngài đã chữa rồi, mà chỉ cảm tạ và ca ngợi
Chúa. Tiếng Chúa phán trực tiếp với ông:"Đức tin con đã cứu con" (Mac 5:34). Từ đó, ông bình phục
rất mau, và đầu năm 1948, ông trở lại chức vụ. Thật là một phép lạ!
Dù không dám sánh với Gióp, Chúa cũng đã cho ông có cơ hội bày tỏ lòng ông đối với Ngài. Ông
không có tài sản gì để mất như Gióp, song ông cũng có nhiều con như Gióp. Úc đó ông có tám người
con, mấy năm sau Chúa cho bảy con nữa là mười lăm; ở với Chúa bốn, ở với ông mười một. Còn
một điều đặc biệt Chúa đã ban cho Gióp mà ông luôn luôn nài xin Chúa cũng ban cho ông, ấy là: Đức
Giê-hô-va ban phước cho tuổi già của Gióp nhiều hơn lúc đang thì, không những là phước thuộc thể
mà nhất là phước thuộc linh. Qua lời Phao-Lô viết trong IICo 1:3-5, ông nhận biết rằng có bao nhiêu
đau đớn thì có bấy nhiêu an ủi, đau đớn càng nhiều thì an ủi càng nhiều hơn. Lý do Chúa cho ông bị
171
đau đớn và được an ủi để cho ông có kinh nghiệm và tư cách an ủi kẻ khác trong sự đau đớn nào
họ gặp, cũng như Gióp đã an ủi ông.
Ông muốn nói về Hội Thánh Bến Trê như Phao-lô đã nói về Bê-rít-sin và A-qui-la (Ro 16:3-5).
Trong trường hợp nào đó, có lẽ đã xảy ra tại Ê-phê-sô (Cong 19:21-41), mà hai ông bà này đã liều
mạng sống để bảo vệ Phao-lô. Nhờ vậy, Phao-lô còn sống để phục vụ Chúa, mở mang các Hội Thánh
giữa dân ngoại bang. Cũng vậy, ông còn sống đây để phục vụ Chúa từ năm 1948 đến nay là nhờ Hội
Thánh Bến Tre. Dù họ không liều mạng sống để cứu ông, song họ đã thương yêu, chăm sóc ông. Một
trong những người ông được an ủi hơn hết là cụ Đoàn Văn Liễu. Vợ chồng con cái ông được hân
hạnh tạm ngụ trong nhà cụ Liễu hai tháng cuối cùng trước khi ông trở lại chức vụ. Chính cụ Liễu và
một người cháu đã đưa gia quyến ông từ nhà cụ Liễu đến với Hội Thánh Sóc Sãi (Hàm Long – Hiện
nay là Tiên Thủy).
7.Năm năm sáu tháng phục vụ Chúa với Hội Thánh Hàm Long.
Khi vừa được bình phục,ông xin cấp trên cho trở lại chức vụ. Bấy giờ Hội Thánh Sóc Sãi, tức
Hàm Long ngày nay đã bị bỏ trống tám tháng, không ai đến được.
Ông bàn với ông Đoàn Văn Liễu về việc ông sẽ đi Sóc Sãi. Ông Liễu hưởng ứng ngay và nói một
cách quả quyết: "Tôi sẽ lấy ghê đưa ông bà và gia đình lên đó". Với lòng tin mạnh mẽ, ông không hề
đề cập đến những rủi ro và nguy hiểm mà mình có thể gặp. Ông cảm thấy bình an lắm. Trước khi
gia đình ông lên Sóc Sãi, ông đã nhờ ông Đoàn Văn Liễu đưa ông lên đó trước. Ông gặp Ban Trị sự
Hội Thánh, ai nấy rất hoan nghênh ông vì đã quên biết nhau lâu rồi. Trở về, ông cầu nguyện và
chuẩn bị.
Vào một ngày của tháng 1 năm 1948, lúc một giờ sáng, gia đình ông xuống chiếc ghe mà ông
Đoàn Văn Liễu thường dùng đánh cá để đi Sóc Sãi. Ông Liễu chèo lái, người cháu chèo mũi. Thật là
mạo hiểm! Nếu tàu tuần của Pháp bắt gặp, họ có thể bắn ngay, cho là bộ đội Việt Minh di chuyển vì
đã có lệnh cấm thuyền bè lưu thông trên sông Hàm Long từ 8 giờ tối đến 5 giờ sáng. Ghe phải đi sát
vào bờ, núp dưới những tàng cây rậm. Cảm tạ Chúa, vừa rạng đông, gia đình Ông đến nơi bình an.
Khi ghe vào rạch nhỏ, đồng bào đổ ra hỏi dồn dập: "Ghe ở đâu tản cư đến đây? Chỗ nào bị động đó?"
Khi biết ông là Mục sư Tin Lành từ Bến Trê đến, ai nấy an lòng. Hội Thánh tiếp đón ông một cách
ân cần, niềm nở. Ông đến trình diện với chính quyền huyện Sóc Sãi và được chấp thuận, vì Hội
Thánh đã xin phép trước. Vả lại, một số tín đồ đã và đang tham gia đắc lực với kháng chiến.
Bấy giờ, Hội Thánh bắt đầu họp lại trong nhà của một tín đồ. Có nhiều anh chị em xin chịu báp
tem, nhiều thanh niên nam nữ xin cưới gả. Số người đến thờ phượng Chúa mỗi lúc một đông hơn,
kẻ ngồi người đứng, kẻ trong người ngoài, song ai nấy rất thoả lòng, không ngớt cảm tạ ơn Chúa.
Ban Trị sự Hội Thánh quyết định tìm mua ba căn nhà cũ: một làm nhà thờ, một làm tư thất, và một
dành cho các lớp Trường Chúa Nhật trên khoảnh đất của một tín đồ. Trong vòng một tháng, mọi sự
xong xuôi, nào là mua nhà, đắp nền, rồi tháo gỡ nhà đã mua ra đêm về dựng lại, đóng mặt tiền bằng
gỗ cho ra vẻ nhà thờ, quét nước vôi cho sạch sẽ và sáng sủa. Mọi người làm việc một cách vui vẻ và
hăng say, quên cả mệt nhọc. Họ nói với ông: "Ông Mục sư không cần làm gì, chỉ có mặt của ông ở
đây với chúng tôi là đủ”. Nhìn qua các nhà, bàn ghế và các vật dụng cần thiết đều chưa có. Ban Trị
sự nhờ ông vào đồn Pháp thăm nhà thờ tại chợ Sóc Sãi để biết những gì còn mất bao nhiêu, sau gần
mười tháng bị bỏ hoang. Nhà thờ ở gần đồn Pháp, mà đồn Pháp bị bao vây, bị cô lập hoàn toàn nên
đồn khoá cổng chắc chắn, canh phòng nghiêm nhặt, hễ thấy bóng một người nào là bắn ngay. Vì
vậy, vào đồn Pháp lúc này là một điều rất nguy hiểm.
172
Sau khi đọc sách Xa 4:6-7,ông cầu nguyện, nghiên cứu, rồi quyết định ra đi. Cho người liên hệ với
du kích quân, xin họ đừng bắn phá khi ông vào đồn. Ông mặc bộ y phục trắng, đội nón trắng,ông
Nguyễn Văn Mão chèo ghê cũng mặc như vậy. Từ đằng xa, lính canh đã thấy Ông. Nhiều người trong
đồn, cả nam lẫn nữ đổ ra xêm như một sự lạ vì sáu tháng qua, chưa hề có ai vào đồn. May mắn là
ông Mão trước đó đã ở giữ nhà thờ được hai tháng, rồi bị lính trong đồn đuổi về, bây giờ họ thấy
mặt ông biết là quên nên an lòng. Ông trưởng đồn người Pháp chất vấn ông nhiều điểm. Cuối cùng
ông ta hỏi ông: "Ông từ Bến Trê đến đây, vậy ông có biết đại tá của chúng tôi tên là gì không?" Rất
tiếc, ông không đêm giấy phép đi đường của đại tá thêo mà cũng quên mất tên của ông ấy. Nhưng
vì thường gặp viên đại úy trưởng phòng nhì, nên ông đã nói đúng tên của viên đại úy ấy. Viên trưởng
đồn tiếp:"Nếu không có ông già này (chỉ ông Mão), tôi giữ ông lại đây, vì ông ở Bến Tre mà không
biết tên đại tá của tôi”. Về sau, ông này rất tử tế với ông, có lẽ nhờ cấp trên của ông ta nói lại.
Ông đến nhà thờ, thật là thê thảm: nhà thờ chỉ còn là một mái ngói, vách ván bốn phía không
còn, bàn ghế, tủ giường mất hết, thậm chí nền gạch một phần đã bị gỡ ra và đêm đi. Ông Mão vừa
đi vừa khóc mếu máo. Sau chuyến đi ấy, sáu tháng sau ông Mão qua đời.Ông đau đớn xót xa vì mất
một người quý mến. Ông Mão ở Hàm Long, cũng như ông Liễu ở Bến Trê là hai thánh đồ của Chúa.
Đời sống của họ đã khích lệ ông rất nhiều.
Đến tháng năm, mùa mưa bắt đầu, ông bị cảm lạnh, rồi qua sốt rét nặng, cả ngày không uống
được chút nước mà cứ mửa ra đến mật. Trong vùng giải phóng không có bác sĩ, thuốc men không
đủ, tưởng sẽ không qua khỏi, song cảm tạ Chúa đã cứu ông. Ngài dùng anh em trong Hội Thánh
nâng đỡ Ông mọi mặt, nên chẳng bao lâu ông được lành.Sau đó, ông đến thành phố Bến Tre, dẫn
theo hai tín hữu mắc bệnh. Ông vào phòng mạch của một bác sĩ tư và được vị bác sĩ tận tâm giúp
đỡ. Vị bác sĩ nói:"Tôi biết trong vùng giải phóng khí hậu ẩm thấp, nóng bức nên đa số đồng bào bị
bịnh sốt rét, nếu để lâu trở thành kinh niên, biến chứng thì rất nguy cho tính mạng. Tôi đề nghị ông
mua thuốc về chích cho họ để kịp thời cứu chữa,vì từ vùng giải phóng ra thành phố rất khó khăn".
Ông phải ngạc nhiên trước lòng tốt của một bác sĩ, nhưng ông từ chối, vì không biết chích cũng
không biết thuốc. Vị Bác sĩ vội vàng lấy giấy, viết chỉ dẫn ông cách chích và ghi tên các thuốc chữa
bệnh sốt rét cho ông. Nhờ đó, ông đã giúp đỡ gia đình và đồng bào xung quanh một thời gian.
Đầu tháng tám, một cuộc bố ráp lớn của quân đội Pháp diễn ra, khiến cho nhà thờ tràn ngập
người tị nạn. Riêng Hội Thánh có hai thanh niên đã lập gia đình bị thiệt mạng, sáu người khác bị
bắt giữ tại Bến Tre. Hội Thánh đã khóc rất nhiều, xin Chúa an ủi hai tang quyến. Sau đó, ông phải
xuống Bến Tre, can thiệp bên cạnh Phòng Nhì của Pháp, để xin trả tự do cho các tín đồ. Cảm tạ Chúa,
ông đã sống hơn bốn năm ở Bến Tre và Sóc Sãi, quen biết nhà cầm quyền, nên họ đưa ông vào trại
giam, hễ ông chỉ ai là tín đồ, thì họ cho ra ngay. Chỉ các tín đồ xong, Ông chỉ thêm một người ở gần
nhà thờ và nói với viên trung úy Pháp: "Anh này không phải là tín đồ,song tôi biết anh ta là một
thường dân". Viên trung úy đáp: "Ông chỉ nên lo cho tín đồ mà thôi".
Tháng 10 năm 1948, Hội Thánh được phép tháo gỡ nhà thờ từ chợ Sóc Sãi đêm về chỗ mới, cách
chợ hai cây số. Số con cái Chúa họp lại mỗi sáng Chúa Nhật càng đông hơn nên Hội Thánh phải xây
thêm một gian phía sau để có đủ chỗ. Thế là nhà thờ phân nửa lợp lá, phân nửa lợp ngói. Dù nhà
thờ không được khang trang, thiếu tiện nghi, vật chất, song đối với hoàn cảnh chiến tranh, thì đó là
một nơi tốt đẹp nhất cho con cái Chúa, vì chỉ có tại đó, họ tìm được an ủi. Đến lễ Giáng sinh, Hội
Thánh tổ chức một cách trọng thể, tiếp theo là lễ Phục sinh cũng vậy. Thật là một cảnh tưng bừng,
náo nhiệt, ai nấy hồ hởi, phấn khởi.
173
Hội Thánh tiến bộ là chọc tức ma quỉ. Nên tháng 5 năm 1949, một bọn cướp mang dao găm, lựu
đạn, súng trường, xông vào tư thất trong ban đêm, cướp đoạt tiền của. Sau khi đã vơ vét hết,chúng
cũng chưa vừa lòng, nên tra khảo mọi người trong nhà: bà thân ông bị đâm bằng dao găm vào bàn
toạ, cô tín đồ con nuôi của ông bị đá và đạp vào vách rất nặng, Bà bị đánh bầm mình suýt chết. Ông
bị dí dao găm vào cổ làm rách da, dọa sẽ đâm họng, rồi bị đập một bá súng vào mặt, máu chảy ra
ướt áo, bầm cả hai mí mắt, lại bị đánh vào ngực và lưng phải khạc ra máu hai tuần sau mới hết. Con
trai ông 15 tuổi cũng bị đánh, buộc phải chỉ chỗ giấu vàng bạc. Sở dĩ bọn cướp tra khảo ông, vì họ
biết nhiều tín đồ đã mang vàng bạc gởi nhờ ông giữ, bởi không nhà nào giữ được vàng bạc trong
lúc loạn lạc. Hơn tháng sau, một bọn cướp khác cũng làm như vậy, nhưng không vơ vét được bao
nhiêu, vì còn chi mà vơ vét!Chúng liền bắt ông, trói lại, hạch hỏi dữ tợn. Không kết quả, chúng bịt
mắt ông lại, dẫn ra đồng để bắn. Ông nghĩ, nếu họ giết ông, không ai làm gì giữa thời loạn lạc. Nên
ông thầm nguyện như Ê-tiên: "Lạy Chúa Giê-Xu, xin tiếp lấy linh hồn con". Ông đứng yên để chờ
chết, chờ mãi không nghê gì, Ông đoán là họ đã đi nên lần mò về nhà.
Sau lần bị cướp này,mỗi tối ông phải đến nhà tín đồ để ngủ hơn một tuần như vậy. Địa Hạt đề
nghị Ông đêm gia đình về thành phố Bến Trê mướn nhà ở, mỗi sáng Chúa nhật đến Sóc Sãi giảng
cho Hội Thánh. Ông cầu nguyện rất nhiều và tự hỏi hai câu: (1) Mỗi tuần làm việc bảy ngày mà chưa
thấy kết quả thoả lòng, phương chi mỗi tuần chỉ làm việc một ngày thì sao? (2) Nếu đêm gia đình
mình đến một nơi an toàn để sống,còn các gia đình tín đồ thì sao? Ông thấy không thể hành động
một cách ích kỷ như vậy được nên quyết định sống hoặc chết giữa anh em ông, chớ không nỡ nào
bỏ họ.
Sau ba lần bị cướp,lần chót nhẹ, ông còn bị một nỗi đau đớn khủng khiếp hơn. Ngày nọ, ông lên
Sài gòn tìm mua một chiếc đàn phong cầm cho Hội Thánh. Ông đi hôm trước, thì hôm sau có tin con
trai ông 15 tuổi bị thổ tả nặng. Cảm thấy xót xa vô cùng, song ông cố nén lòng để chờ xong việc. Lên
xe về, Ông chuẩn bị tinh thần, có lẽ con ông đã chết. Khi xe còn ở bên này cầu đò Mỹ Tho - Rạch
Miễu, một nữ tín hữu tại Sóc Sãi từ cầu đò đi lên, thấy ông đang ngồi trên xe, chạy ngay lại nói:"Ông
ơi, êm Lực đã về với Chúa". Ông lịm đi, không nói được một lời,trước mặt ông trời đất đều tối tăm
và quay cuồng. Ông lảo đảo như người say.Sau vài phút, Ông lấy lại bình tĩnh, mượn lời của Gióp
thưa với Chúa: "Dẫu Chúa giết con, con cũng còn nhờ cậy nơi Ngài" (Giop 13:15). Cảm tạ Chúa,con
ông không vĩnh biệt Ông. Nó không thể trở lại với ông, song ông sẽ đến với nó một ngày gần đây.
Hội Thánh đã mua nửa mẫu vườn, dành một phần cho việc xây nhà thờ, tư thất và Trường Chúa
Nhật. Trường Chúa Nhật cũng là phòng họp của thanh thiếu niên. Thấy đất còn rộng, ông xin Hội
Thánh xây thêm phòng cho nhi đồng. Ai nấy tập tành phục vụ Chúa để tự gây dựng và gây dựng
nhau như hướng dẫn giờ thờ phượng, chia sẻ Lời Chúa, thuật lại ơn phước, hát ngợi khen, dâng
tiền, cầu nguyện, chứng đạo. Trường Chúa Nhật tổ chức 12 lớp, với 18 giáo viên chính thức và dự
khuyết. Số học viên được ghi tên vào sổ gần 200, bao gồm từ em bé 6 tuổi đến ông già 70. Sau khi
giải tán giờ thờ phượng mỗi sáng Chúa Nhật, Ban Giáo Viên và Ban Trị sự Trường Chúa Nhật ở lại
ăn chung nhau tại tư thất, rồi nghiên cứu bài học để ai nấy có đủ thì giờ suy gẫm trọn một tuần
trước khi dạy lại cho học viên. Con cái Chúa hăng say đến nhà thờ học Lời Ngài. Khi cổng của đồn
bót chắn ngang lộ chưa mở, tín đồ đã chực sẵn tại đó để đến kịp giờ cầu nguyện và Trường Chúa
Nhật. Một ông tín đồ đã nói:"Sáng Chúa Nhật, gia đình tôi không ai chịu giữ nhà, nên tôi phải sắp
đặt luân phiên, vì ai nấy muốn được đi nhà thờ". Phải chăng việc đó đã đêm đến kết quả là nhiều
thanh niên nam nữ đi học Trường Kinh Thánh, mà còn có nhiều người phục vụ Chúa cách đặc biệt
như Phạm Văn Â, Phạm Văn Đơ, Nguyễn Thành Tâm,Nguyễn Thế Hiển, Nguyễn văn Xoàn, Nguyễn
văn Thưởng ?
174
Sau hơn bốn năm, ông nghĩ là đã đến lúc phải dời nhà thờ ra đường cái để tránh nước ngập,
đồng thời có phương tiện truyền giảng cho đồng bào, cũng thuận lợi cho cả quận Sóc Sãi họp lại.
Hội Thánh đã tìm được khoảng đất gần hai mẫu của tín đồ bỏ hoang vì chiến tranh, nằm trên ngã
ba đường đi lên chợ Sóc Sãi, xuống Bến Tre, qua Thành Triệu,với một giá vừa phải. Hội Thánh đã
lạc quyên đủ tiền mua đất. Thanh niên, thiếu niên, tráng niên, lão thành đều nổ lực đào đất, đắp nền
nhà thờ và tư thất, làm luôn cả buổi tối cho đến 9 giờ. Phụ nữ lo nấu ăn. Công việc tiến hành một
cách rất mau lẹ. Biểu quyết nhà thờ cố định tại nơi này, nên Ban Trị sự đã mua một nhà cũ lợp ngói,
song cột kèo còn chắc chắn đêm về xây tư thất, đồng thời dự định nhà thờ sẽ xây rộng lớn hơn,
vững chãi hơn. Suốt năm năm, lúc nào Hội Thánh cũng quyên tiền xây cất, mở rộng, sửa chữa, mua
vườn đất, đóng bàn ghế, mở hội nhánh v.v...
Khi chiến tranh xảy ra ngay trong xứ, nền tài chánh của Hội Thánh bị sụp đổ, nên Hội Truyền
giáo có chương trình phụ cấp hàng tháng cho các Mục sư, Truyền đạo Chủ toạ. Giữa năm 1949, Ông
chịu cảm động bởi Lời Chúa, mời Ban Tri Sự Hội Thánh họp lại và trình bày đại ý như sau: "Tôi đến
đây phục vụ Chúa với Hội Thánh, là muốn sống chết với Hội Thánh. Con cái Chúa ở bên Mỹ đã dâng
tiền nuôi Mục sư của họ, còn dâng tiền gởi Giáo sĩ đêm Tin Lành cho chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải
dâng tiền nuôi Giáo sĩ, nhưng vì hoàn cảnh, chúng ta không làm được điều đó thì chúng ta phải lo
cho Mục sư của mình. Tôi không thoả lòng phục vụ Chúa với Hội Thánh Việt Nam mà ăn lương của
Hội Thánh Mỹ, mặc dù chỉ một phần nhỏ. Vậy, kể từ nay tôi không nhận phụ cấp của Hội Truyền
giáo nữa. Hội Thánh dâng đủ, tôi sống đủ, Hội Thánh dâng thiếu, tôi sống thiếu; tôi không đòi hỏi
cũng không từ chối. Tôi muốn làm như Phi-e-rơ là bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến
cùng Chúa (Mat 14:23-33). Cảm tạ Chúa, Ngài không để tôi thiếu thốn, nên đã dùng nhiều người đứng
lên dâng hiến và tôi được đầy đủ mọi nhu cầu thiết yếu.
Thời gian năm năm và năm tháng tại Sóc Sãi, con lớn ông bị thất học, đã 19 tuổi, học lớp bảy tại
Bến Tre, phải bỏ học trở về, vì không có tiền trả phạn phí. Vả lại, Hội Thánh Sóc Sãi đã bước sang
giai đoạn tương đối dễ dàng hơn trước, nên ông xin cấp trên thuyên chuyển nơi khác, mong có
trường để con học, vì chúng đã lớn. Ông được Hội Thánh Long Xuyên mời, nên cuối tháng 6 năm
1953, Ông từ giã Hội Thánh Sóc Sãi đến phục vụ Chúa với Hội Thánh Long Xuyên. Gia đình ông từ
giã với nhiều nước mắt vì hơn năm năm chung sống với nhau như đàn gà trong cánh mẹ.
8.Phục vụ Chúa với Hội Thánh Long Xuyên 3 năm.
Về việc truyền giảng,Long Xuyên là một cửa đang mở rộng. Giảng trong nhà thờ lúc nào cũng
được, giảng tại phòng thông tin của thành phố mỗi tuần một lần, chiếu phim giữa chợ khi có xe Tin
Lành đến, giảng tại các chợ như Mỹ Luông, Chợ Mới, Thốt Nốt, Lấp Vò, Núi Sập. Song lòng người
Long Xuyên đóng kín, vì ai có tôn giáo nấy và bị buộc chặt với tôn giáo ấy bằng thế lực.
Giữa năm 1954, hiệp định Gênèvê được ký kết, đoàn quân miền Bắc vào Nam, một số đơn vị
đến thành phố Long Xuyên. Nhân cơ hội này, ông mở cửa nhà thờ giảng mỗi đêm. Có vài binh sĩ vào
phá phách, làm ồn, mất trật tự. Anh em nản lòng, xin ông đừng giảng nữa.Ông nghĩ đến các Giáo sĩ
đi giảng cho những dân tộc bán khai hay dã man trong rừng sâu không pháp luật nào bảo vệ mình,
họ có thể bị bắt bớ, bị giết chết, song họ cứ giảng cho đến khi có người được cứu. Còn ông, ở trong
thành phố, có pháp luật bảo vệ thì tại sao lại nản lòng? Ông cứ nhẫn nại giảng luôn. Sau đó, nhờ cấp
trên cảnh cáo, nên các binh sĩ không còn phá phách làm ồn nữa mà vào nghe rất chăm chỉ. Trước
khi đoàn quân này di chuyển đi nơi khác, đã có hai người đến xin cầu nguyện tin Chúa, đúng như
Kinh Thánh dạy (IITi 4:2-5; Thi 126:5-6).
175
Hội Thánh Long Xuyên đối với gia đình ông rất trọng hậu về mọi phương diện. Ông Khúc Văn
Sến là Đông y sĩ đã chữa bịnh bao tử cho ông năm 1953. Sức khoẻ của gia đình ông đều được anh
em nhà thuốc Hiệp Thiên và Phước Thọ chăm sóc. Tại Long Xuyên ông được bồi dưỡng nhiều cho
công tác mới.
Hội Thánh Núi Sập thật đáng thương, người đã ít lại nghèo nàn, song ai nấy cố gắng hiệp nhau
xây nhà thờ và tư thất với đầy đủ tiện nghi để tiếp đón ông đến phục vụ Chúa. Ngó nhà thờ và tư
thất tưởng tín đồ khá giả, nhưng khi đến nhà họ mới biết không phải như mình tưởng, họ rất nghèo.
Tiền bạc của họ rất eo hẹp nhưng lòng họ lại rất rộng rãi. Mỗi lần vào thãm Hội Thánh Núi Sập, ông
được tiếp đãi nồng hậu hơn điều ông ao ước, hơn điều ông xứng đáng được hưởng. Có lần vợ chồng
ông đi Núi Sập bằng đò máy, dọc đường bị bộ đội Hoà Hảo xét hỏi. Khi biết là ông, họ giữ ông lại,
bảo đò cứ đi; nhưng ông chủ đò nhất định không đi, yêu cầu bộ đội cho ông cùng đi.Ông biết, nếu
ông bị giữ lại, sẽ bị giết ngay đêm đó. Sau hơn một tiếng đồng hồ,bộ đội cho ông đi. Cảm tạ Chúa, về
sau Hội Thánh Núi Sập xin tự lập và xin mời ông.
Hội Thánh Mỹ Luông còn đáng thương hơn, vì chưa có nhà thờ và tư thất chi cả. Thêm vào đó,
tín đồ ít ỏi, yếu đuối cả thể xác lẫn tâm linh. Ban đầu, chỉ có vài ông bà họp lại trong phòng ngủ của
một tín đồ. Sau một thời gian, số người họp lại đông hơn,nên có người đã dâng một căn phố cũ và
được sửa sang lại làm nhà thờ. Về sau Hội Thánh này được tự lập và có Chủ toạ riêng.
Ôn lại mười sáu năm phục vụ Chúa với các Hội Thánh Trà Ôn, Giá Rai, Lộc Thuận, Bình Đại, Mỹ
Tho,Tân Thạch, Bến Tre, Sóc Sãi và Long Xuyên, ông hết lòng ca ngợi ân điển dư dật,vô hạn của
Chúa đối với ông. Ông không đáng được như đã được, vì ông yếu đuối,ngu dại, thiếu thốn mọi bề,
khả năng không tương xứng với công tác Chúa giao.Quyền năng của Chúa đã hành động trong ông
và qua ông để gây dựng Hội Thánh của Ngài, song lúc nào ông cũng thấy mình có nhiều lỗi lầm,
thiếu sót. Ông phải luôn luôn thưa với Chúa rằng: "Con không ra chi, không có chi. Mọi điều con có
là Chúa cho, mọi điều con làm là Chúa làm. Con là người như thế nào là chỉ nhờ ân điển của Ngài.
Con không có một cớ nào dù rất nhỏ để khoe khoang,song có biết bao cớ rất lớn để tự kiểm, tự
trách, tự hạ nơi chân Ngài và xin Ngài giữ con luôn tại đây.”
Ông cũng hết lòng biết ơn các Hội Thánh đã hiệp tác, chia sẻ gánh nặng với ông, đã an ủi, khích
lệ ông trong những cơn đau yếu nặng nề. Ông còn sống đây, còn được phục vụ Chúa thế này là nhờ
các Hội Thánh đã dự phần gây dựng đời sống và chức vụ của ông trong Chúa. Ông có những người
bạn rất quý. Ông đã thấy những tín đồ sống cuộc đời tin kính Chúa mà thèm khát được như họ. Họ
không phải là ông, song họ giúp cho ông thành công.
Khi ông từ giã nơi nào thì rất ước ao trở lại thăm viếng anh êm nơi đó. Chúa đã thương xót cho
ông được toại nguyện. Nơi nào anh êm cũng dành cho ông cảm tình thân mật.
9.Bốn năm phục vụ Chúa tại trường Kinh Thánh Đà Nẵng.
Tháng 7 năm 1956,gia đình ông đến Trường Kinh Thánh Đà Nẵng theo lời mời của Mục sư Đốc
Học, được Địa Hạt và Tổng Liên Hội chấp thuận. Con đường từ Long Xuyên đến Sài gòn không có gì
đáng nói, và từ Sài gòn đến Nha Trang cũng dễ dàng vì có xe lửa, nhưng vất vả nhất là từ Nha Trang
đến Đà Nẵng. Gia đình ông mười một người, nên Mục sư Đốc Học cho xây thêm một chái bên cạnh
để gia đình ông được thoải mái. Ông luôn vui vẻ trong mọi việc, vì chỉ nhằm một mục đích là phục
vụ Chúa.
Ông đã đến trường ba lần với tư cách là học sinh, lần này ông trở lại với cương vị là giáo sư làm
cho ông nửa mừng nửa sợ. Mừng vì có môi trường thuận tiện để phục vụ Chúa và học hỏi thêm, sợ
176
vì mình không có đủ ân tứ và khả năng tương xứng với công tác mới.Vốn liếng hiểu biết của ông
quá ít, không thấm vào đâu để đầu tư vào công trường thuộc linh quá to này. Vì vậy, ngoài việc học
tập, nghiên cứu để chia sẻ, ông hoà mình với học sinh trong những giờ cầu nguyện sáng sớm. Nhờ
đó, ông được tiến bộ và giúp người khác tiến bộ. Từ mười chín năm trước, ông đã học được câu
này:“Đừng xin Chúa cho mình một công việc vừa sức, mà phải xin Chúa cho mình sức vừa với công
việc. Nếu xin một công việc vừa sức thì công việc nhỏ quá vì sức đâu có bao nhiêu, song xin sức vừa
với công việc thì công việc có lớn đến đâu, Chúa cho sức đến đó”. Thật Chúa đã làm cho ông như
vậy.
Bốn tháng hè năm 1957, ông được nhà trường cử về các Hội Thánh ở miền Nam để thăm viếng,
giảng dạy và cổ động học sinh. Cảm tạ Chúa, nơi nào ông cũng được Hội Thánh tiếp đón ân cần,tử
tế. Hè năm 1958, ông được các bạn đồng lao mời đến thăm các Hội Thánh thuộc tỉnh Quảng Nam
và Quảng Ngãi. Ông rất sung sướng được dự phần gây dựng Hội Thánh của Chúa. Một lần nọ, ông
đến Trường An giảng cho Hội Thánh vào sáng Chúa Nhật, sau đó xuống sông cử hành lễ báp têm
cho một số tín hữu. Mùa hè, trời nắng gắt, nước sông lạnh, sau khi giảng ông bị mệt, mồ hôi ra nhiều,
lúc xuống sông đứng lâu, ông bị cảm nặng. Chiều hôm đó, Mục sư Chủ Toạ qua trước bên kia sông
chuẩn bị cho buổi truyền giảng tối. Trưa và chiều, ông bị mệt không ăn được, lại phải qua sông, rồi
đi xê đạp đến địa điểm truyền giảng. Sau khi giảng xong, ông toát mồ hôi và lạnh cả người, chỉ uống
được chút sữa, rồi đi nằm. Đêm đó cứ tưởng ông có thể về với Chúa, nhưng nhờ Mục sư Chủ Toạ
cho ông một viên thuốc cảm mạnh,uống xong, ông ngủ được, nên khỏi bịnh.
Trung tuần tháng 9 năm ấy, tức là sau khi khai giảng khoá học, bịnh trĩ của ông từ mấy năm
trước,bây giờ tái phát. Những mụn trĩ sưng lên, ra máu và mủ làm cho ông đi, đứng, nằm,ngồi đều
bất tiện. Trọn một tuần lễ, ông bị đau nhức ngày đêm, ăn uống, nghỉ ngơi rất ít, nên sức khoẻ ngày
càng suy kém. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng làm việc vì là những ngày đầu khoá. Ông có xin học sinh
cầu nguyện Chúa giải cứu ông bằng một phép lạ, nếu không, ông phải vào Nam, nhờ lương y điều
trị. Đang khi bị đau đớn, ông phải chích thuốc trụ sinh cho đỡ để chờ cơ hội vào Nam. Toàn thể học
sinh được Chúa cảm động tự ý quyên tiền giúp ông bồi dưỡng và thiết tha cầu nguyện cho ông, đến
nỗi có người đã kiêng ăn cầu nguyện. Ngoài ra, họ còn gởi thư về gia đình và Hội Thánh, xin cầu
nguyện cho ông. Cảm tạ Đức Chúa Trời, là Đấng có thể làm dư dật, vượt quá mọi sự chúng ta cầu
xin và suy tưởng. Đúng mười ngày sau, bịnh ông bắt đầu thuyên giảm, qua mười lăm ngày thì lành
hẳn.
Mùa Hè năm 1959, ông được dịp ra thăm các Hội Thánh tỉnh Thừa Thiên, nhất là được tham dự
Chiến dịch Tin Lành tại Quảng Trị. Không được kết quả như các tỉnh khác, công cuộc truyền giảng
tại tỉnh Quảng Trị đã có kết quả một cách khiêm nhường. Tuy nhiên lòng kiên nhẫn đã được thưởng.
Về sau, ngoài Hội Thánh Huế đã có từ trước, dần có thêm các Hội Thánh thành lập ở hai tỉnh này
như Phú Bài, Sịa, Long Quang, Ân Thơ, Gio Linh và ngay tại thành phố Quảng Trị.
Trong bốn khoá tại Trường Kinh Thánh, ông chỉ dạy theo những bài đã có, vì ông không đủ khả
năng soạn những bài mới. Ông cũng không giải thích nổi ý nghĩa cao sâu của Kinh Thánh, song nhờ
quyền năng của Thánh Linh làm cho ý nghĩa được rõ ràng và tươi mới. Sức mạnh của ông là sự hiện
diện của Chúa trong mỗi giờ học. Ông luôn xin Chúa phán dạy trực tiếp với mỗi linh hồn, qua môi
miệng và đời sống của ông. Sự ao ước thiết tha của ông là muốn nói như PhaoLô đã nói với Hội
Thánh Phi-líp: “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe nơi tôi và đã thấy trong tôi, hãy làm đi,thì
Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở với anh em” (Phi 4:9). Ông rất sung sướng được phục vụ Chúa bốn
khoá tại Trường Kinh Thánh Đà Nẵng. Ông tiến bộ về nhiều phương diện, nên ước ao cứ được tiếp
177
tục phục vụ Chúa lâu dài tại đây.Song ý tưởng của Chúa chẳng phải là ý tưởng của ông, đường lối
của ông chẳng phải là đường lối của Chúa.
Tháng 2 năm 1960,ông đi dự Hội đồng Địa Hạt Trung Phần họp tại Tam Kỳ. Đến giờ bầu cử Chủ
nhiệm,có vài Mục sư đã tự ý rút lui. Sau một hồi lâu thảo luận mà không kết quả, Hội đồng mời cụ
Mục sư Hội trưởng lên chủ toạ cuộc bầu cử Chủ nhiệm trong những người còn lại. Quang cảnh buồn
bã, không khí ngột ngạt, vẻ lo âu hiện rõ trên mặt của mỗi người. Chưa có lần nào trong đời, ông
bàng hoàng sợ hãi về phương diện thuộc linh như lần này, tức là sợ mình đi sai ý Chúa. Trước đó,
ông chẳng bao giờ nghĩ đến việc ra ứng cử Chủ nhiệm. Bấy giờ, ông tự hỏi: "Nếu Hội đồng bầu mình
làm Chủ nhiệm thì sao?" Cụ không biết hậu quả sẽ đến đâu. Vậy thì,ông có nên rút lui khỏi phòng
họp hay không? Chúa liền nhắc lại cho ông một câu mà chính ông đã từng nói ra trong những tình
huống tương tự.
Số là trong những năm phục vụ Chúa với Hội Thánh Hàm Long và Long Xuyên (1948 - 1956),
ông đã nhiều lần long trọng tuyên bố khi họp Hội đồng Thường Niên và các Hội đồng khác có bầu
cử: "Trong khi quốc gia hữu sự, không một công dân nào được phép chối từ nhiệm vụ đã dành cho
mình. Hội Thánh của Đức Chúa Trời trong giai đoạn này cũng vậy, không một tín đồ nào được phép
chối từ bất luận một công tác nào Chúa dành cho". Trong những năm phục vụ Chúa tại Trường Kinh
Thánh, ông cũng đã lập lại câu đó với học sinh. Bây giờ ông mới thấy rằng ông đã vô tình tạo một
sợi dây xích quá chắc để rồi tự trói mình bằng chính sợi dây xích đó. Và ông đã ngồi yên như một
kẻ bị trói!
Kết quả, Hội đồng đã bầu ông làm Chủ nhiệm và ông bất khả kháng. Ông bước lên toà giảng một
cách nặng nề uể oải, không dám nhìn cụ Đốc Học, nét buồn hiện rõ trên gương mặt. Sau khi Hội
đồng bế mạc, ông ở lại họp Ban Trị sự Địa Hạt hai ngày rồi trở về Đà Nẵng.Mang một tâm trạng
buồn, ông bước vô cổng trường, thấy mọi vật đìu hiu, từ giáo sư cho đến học sinh chẳng hề có ai
hoan nghinh ông đắc cử Chủ nhiệm, thậm chí gia đình ông cũng vậy.
10.Sáu tháng làm Chủ nhiệm Trung hạt.
Sau khi đắc cử Chủ nhiệm vào tháng 2 năm 1960, ông tiếp tục phục vụ Chúa tại Trường Kinh
Thánh cho đến mãn khoá vào cuối tháng 4 năm 1960. Mỗi Chúa Nhật, ông dùng xê máy đi thăm các
Hội Thánh. Khi Trường Kinh Thánh mãn khoá, gia đình ông dọn ra trụ sở Địa Hạt.Dù ban đầu rất
ngại ngùng vì chưa quên, nhưng sau một thời gian, ông cảm thấy thích và hăng say bởi được tương
giao nhiều với tín hữu và các Mục sư, Truyền đạo.Phần thưởng của người phục vụ Chúa là cứ được
phục vụ Chúa bất luận ở đâu và lúc nào, mặc dù sự khó khăn ở đâu và lúc nào cũng có. Trong thời
gian này, ông được đi thăm các Hội Thánh suốt dọc con đường dài, từ Quảng Trị đến Phan
Thiết,nhất là các Hội Thánh ở xa như Quế Sơn, Khánh Bình, Phúc Bình, Quế Phương, Phước Ngọc,
Phước Lãnh, Phước Sơn, Trà Thung .v.v... Nhân đó ông biết sự đi lại của Mục sư, Truyền đạo và tín
hữu, cùng cảm thông sự nghèo thiếu của anh em mình mà thêm phần cầu thay cho họ.
Đáng nhớ hơn hết là lần ông đi thăm Hội Thánh Phước Sơn. Muốn đi Phước Sơn phải qua đèo
Eo Gió rất nguy hiểm. Ông đi xê máy đến nhà thờ Cẩm Long, xin ông Truyền đạo vui lòng cho một
thanh niên cùng đi với ông để hướng dẫn. Cảm tạ Chúa, cả đi lẫn về đều bình an, vui vẻ, không có
chi nguy hiểm cả. Về đến nhà thờ Cẩm Long, ông ngồi lại nghỉ ngơi, trò chuyện. Bấy giờ cậu thanh
niên mới thỏ thẻ với Cụ: "Qua đèo Eo Gió mà Cụ chạy mau quá, làm con sợ hết hồn!" Ông cười đáp:
"Cụ không thấy đèo Eo Gió đâu cả, chỉ nhìn thấy con đường phía trước và cứ đi thôi!"
178
Thăm viếng, giảng dạy là được thông công với anh chị em thân mến, lòng ông thoả mãn, nên dù
xa xôi, mệt nhọc cũng không có gì đáng kể. Ông sợ nhất là các nan đề trong Hội Thánh cần phải
được giải quyết, lại là điều không thể tránh. Chúa đã dùng nhiều điều để rèn luyện tinh thần nhẫn
nại của ông. Cảm tạ Chúa, vì Ngài đã ở với ông trong mọi việc nên có kết quả tốt. Ngoài ra, cũng nhờ
sự hiệp tác và ủng hộ của anh em hết thảy.
11.Đắc cử Hội trưởng lần thứ nhất.
Ông từ Đà Nẵng vào Vĩnh Long dự Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 28 họp tại nhà thờ Vĩnh Long
từ 14-17/8/1960 với tư cách Thủ quỹ Tổng Liên Hội kiêm Chủ nhiệm Trung Hạt. Sau hai ngày bồi
linh là 14 và 15, thì đến hai ngày thảo luận và bầu cử là 16 và 17. Nhưng Hội đồng lần này có thay
đổi thứ tự là bầu cử trước và thảo luận sau.Ông đắc cử Hội trưởng là việc ngẫu nhiên, vì Mục sư Lê
Văn Thái đương kim Hội trưởng nhất định không ra tái ứng cử. Ông thưa với Chúa như tiên tri Giê-
rê-mi:"Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, này con chẳng biết nói chi vì con là con trẻ".Ông thật lúng túng ngờ
nghệch khi phải đứng lên hướng dẫn cuộc bầu cử Thư ký và các Nghị viên Tổng Liên Hội. Khó khăn
hơn nữa là ông phải chủ toạ giờ thảo luận của Hội đồng. Ông chưa nắm vững các đề nghị, chưa
chuẩn bị gì cả cho việc đó. Vả lại, ông chưa từng chủ toạ giờ thảo luận của Hội đồng Địa Hạt mà bây
giờ lại phải chủ toạ giờ thảo luận của Hội đồng Tổng Liên Hội, là một việc quá sức của ông.Ông chới
với như một người bị ném giữa dòng sông. Nếu ai để ý nhìn sẽ thấy ông là người vừa buồn cười,
vừa thương hại. Thật lúc đó Chúa đã thêm sức cho ông vừa với công việc Ngài đã giao. Ngoài ra
cũng nhờ các đại biểu cảm thông ông nên Hội đồng đã bế mạc một cách vui vẻ.
Khi trở về Đà Nẵng,các con ông rất vui mừng, song sự vui mừng hơn hết của chúng là nhận định
tinh thần chí công vô tư của Hội Thánh. Một người con đã nói: "Chỉ trong Hội Thánh Tin Lành, ba
mới đắc cử Hội trưởng. Nếu trong các tổ chức khác, ba phải có thế lực, vây cánh của anh em, thân
thích". Ông liền nhớ lại lời của Sau-lơ trình bày với Sa-mu-ên: "Tôi chỉ là một người Bên-gia-min, là
một chi phái nhỏ hơn hết trong Y-sơ-ra-ên, nhà tôi lại là hẹn mọn hơn hết các nhà của chi phái Bên-
gia-min" (ISa 9:21). Câu đó rất đúng đối với ông. Bà con ruột thịt của ông trong Hội Thánh chưa đủ
đếm hết trên mười đầu ngón tay, nên ông đắc cử Chủ nhiệm Trung Hạt và Hội trưởng Tổng Liên
Hội là một việc kỳ diệu.Điều đó nói lên Hội Thánh Tin Lành là Hội Thánh của Đức Chúa Trời, và
Ngài đã đặt tay trên ông một cách mạnh mẽ, xức dầu lên ông một cách mới mẻ, để ông phục vụ Ngài.
Ông rất vững lòng tin cậy Chúa và hăng say thêo Ngài.
Cụ bàn giao chức vụ Chủ nhiệm lại cho Mục sư Phó Chủ nhiệm rồi vào Sàigòn, tạm trú trong một
phòng của cơ sở Ân Đông. Ông đã lấy Lời Chúa phán với Na-tha-na-ên và với Ma-thê mà áp dụng
cho mình: Ngươi sẽ thấy việc lớn hơn việc đó ... Ta há chẳng từng nói với ngươi rằng, nếu ngươi tin
thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao?” (Gi 1:50; 11:40). Đây là cơ hội áp dụng thưa với Chúa:
"Xin cho con thấy việc lớn hơn việc này nữa. Xin cho con thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời như
La-xa-rơ sống lại”.
Vào đầu tháng 10 năm 1960, ông đi thăm các Hội Thánh trong hai tỉnh Long Xuyên và Rạch Giá
suốt mười ngày. Mọi sự bình an, vui vẻ, nên ông quên cả mệt nhọc. Một sáng sớm từ Long Xuyên về
Sài gòn, ông cảm thấy bị nhuốm lạnh. Ngay sau đó, cơn sốt nổi lên, đầu đau, miệng đắng, trong
người khó chịu; nhưng đã về đến nhà bình an. Lúc còn khoẻ,mỗi ngày ông ra ngoài ăn cơm quán,
tối về ngủ. Lần này, ông không dám ra khỏi phòng, vì lạnh và chóng mặt, phải nhờ người giữ nhà
bên cạnh mua cháo ăn đỡ.May mắn đúng lúc có ông Phan Văn Triết, thư ký của Hội Thánh Long
Xuyên, cũng là Đông y sĩ nhân dịp đến Sàigòn ghé qua thăm ông. Sau khi xêm mạch, ông Triết cho
toa và dặn ông uống nhiều lắm là ba thang thì khỏi bịnh. Ông nhờ một tín hữu đến tiệm người Hoa
179
hốt thuốc. Cô ta đi khá lâu mới về, nói: "Tôi đến hai tiệm thuốc đầu, không ai chịu hốt thuốc theo
toa này, vì uống vào sẽ chết. Đến tiệm thứ ba, chủ tiệm vùng vằng một hồi mới chịu hốt". Ông nhờ
cô sắc thuốc,cũng hơi ngại về lời của các chủ tiệm thuốc đã nói vì họ là Đông y sĩ. Vả lại,ban đêm ở
trong phòng một mình, nếu bị thuốc phản ứng, không ai giúp đỡ thì nguy. Dù vậy, sau khi cầu
nguyện, ông cứ uống thuốc rồi đi nằm. Vì ba đêm trước ít ngủ nên đêm đó ông ngủ vùi một giấc cho
đến gần sáng. Khi nghe tiếng động cơ của các loại xe bên ngoài, ông không mở mắt nổi, không cựa
quậy được, vì suốt đêm nằm một chiều nên tay chân tê cứng. Ông nửa tỉnh nửa mê, không nhớ mình
đang ở đâu, còn sống hay chết. Trong vài phút chi đó, ông cố gắng để nhận biết,lần lần tai nghe rõ
hơn, biết mình còn thở, ông mở mắt ra và bắt đầu cựa quậy.Bấy giờ mới biết chắc mình còn sống.
Cảm tạ Chúa.
Cuối năm 1960, Ban Trị sự Tổng Liên Hội họp lại biểu quyết tổ chức lễ Ngũ Thập Chu Niên, kỷ
niệm ngày Tin Lành đến Việt Nam (1911-1961) cùng lúc với Hội đồng Tổng Liên Hội tại nhà thờ
Sài gòn vào tháng 6 năm 1961. Lại một công tác vượt quá khả năng của ông. Từ năm 1960, Ban Trị
sự Tổng Liên Hội đã quyết định mua một căn nhà tại Sàigòn để làm văn phòng Tổng Liên Hội và tư
thất Hội trưởng. Nhờ số tiền Tổng Liên Hội đã dành dụm nhiều năm, nên giấy tờ mua căn nhà tại
số 30 Huỳnh Quang Tiên (nay là Hồ Hảo Hớn) được làm xong ngày 1 tháng 6 năm 1961, kịp thời
với việc tổ chức lễ Ngũ Thập Chu Niên.
12.Lễ Ngũ Thập Chu Niên.
Lễ Ngũ Thập Chu Niên, kỷ niệm 50 năm Tin Lành đến Việt Nam được tổ chức tại nhà thờ Sài
gòn ngày 11 tháng 6 năm 1961. Tiếp thêo đó là Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 29. Mục đích của
buổi lễ là trình bày bằng hình ảnh và lời lẽ về sự thành lập và phát triển của Hội Thánh qua từng
giai đoạn, để cảm tạ, ca ngợi ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời Ba Ngôi. Đây là một việc quá
to tát, không ai có đủ khả năng làm trọn, vì không ai có thể biết hết, nhớ hết, không ai có thể giải
thích nổi công trình huyền nhiệm của Thánh Linh như gió muốn thổi đâu thì thổi, người nghe tiếng
động, nhưng “chẳng biết gió đến từ đâu và cũng chẳng biết đi đâu”(Gi 3:8). Dù vậy, có rất nhiều nhân
chứng là các cụ Mục sư, Truyền đạo và tín hữu thuộc hàng niên trưởng đã tin Chúa từ năm Tin Lành
mới đến Việt Nam. Ngoài ra còn có bằng chứng cụ thể qua hình ảnh các nhà thờ rải rác từ Cao Bằng
đến Cà Mau, từ trung châu đến cao nguyên, cùng những cơ sở như Thần Học Viện, Cô Nhi Viện,
Chẩn Y Viện, Bệnh viện Cùi, Nhà in và Nhà Xuất bản.
Ông là một người rất tầm thường lại phải đảm đương một việc rất phi thường, năm mươi năm
mới có một lần. Quá vụng về trong vấn đề tổ chức, lại không kinh nghiệm bao nhiêu, nên không
những ông băn khoăn, mà mọi người cũng băng khoăn dùm ông. Song cảm tạ Chúa Giê-hô-va Di-
Rê, Ngài đã dự bị mọi sự. Nhờ đó, ông nói được rằng khi Chúa sai chúng ta làm việc gì, đồng thời
Ngài cũng thêm ân tứ và khả năng cho chúng ta để ai nấy có thể làm trọn việc đó.
Diện tích của nhà thờ có hạn, Ban Tổ chức phải làm sao để có đủ chỗ cho số người bằng ba, bốn
lần lúc bình thường hợp lại. Trong thành phố nhỏ hẹp, nhà cửa chật chội, Ban Tổ chức phải làm sao
để có đủ chỗ cho trên dưới 3.000 người ngủ nghỉ? Thật là những việc gần như bất năng. Ngoài ra
số chi phí lại cao nhất xưa nay, vì có những việc bất thường, song rất cần thiết. Hơn nữa, nếu có tiền
mà không có người, cũng chẳng làm chi được. Phải có ban tiếp tân, trật tự, âm thanh, ánh sánh,
trang trí, triển lãm, bích chương, biểu ngữ, báo chí, nhất là các ca đoàn. Để cho đồng bào các giới
biết ý nghĩa hai chữ Tin Lành, và sinh hoạt của tôn giáo Tin Lành, Ban Tổ chức mượn phòng triển
lãm của đô thành ở đường Tự Do để triển lãm sinh hoạt của Hội Thánh trong năm mươi năm qua.
180
Điều cảm tạ Chúa hơn hết là mọi thành phần trong Hội Thánh đều tán đồng và hoan nghênh Lễ
Ngũ Thập Chu Niên. Do đó, việc quyên tiền rất là dễ dàng và kết quả dư dật. Ngoài ra, có nhiều
người đóng góp ý kiến, cung cấp tài liệu, giúp đỡ phương tiện. Hội Thánh vùng Đà Nẵng đã bao
nguyên một toa xe lửa để vào Sài gòn. Ai nấy náo nức chờ đợi ngày đại lễ. Vì vậy, Ban Tổ chức được
khích lệ lớn, hăng say phục vụ, quên cả nhọc nhằn, vì đây là một cơ hội hiếm có.
Ngày đại lễ đã đến,các Mục sư hưu trí, các cụ tín đồ già nua, đầu tóc bạc phơ, chân mỏi gối chùn
đã từ xa gần đi đến. Các Mục sư, Truyền đạo đương chức và tín hữu từ Bến Hải đến Cà Mau, từ cao
nguyên đến trung châu nô nức đổ về dự lễ. Số người tham dự vào khoảng 4.000. Nhà thờ được
trang trí một cách uy nghi, hùng vĩ và ý nghĩa. Cổng chào hình chữ A, bày tỏ Chúa là Âlpha (đầu
tiên). Bên trong có cây nho sai trái là kết quả đạo đức, có lưới nhiều cá là nhiều người được cứu, có
mão triều thiên là phần thưởng trên trời. Từ tinh sương hàng ngàn tín hữu đã lần lượt vào nhà thờ.
Bên ngoài, tín hữu đứng chật lề đường Đề Thám và Trần Hưng Đạo. Xe cộ ngừng chạy trên đường
Đề Thám trong giờ hành lễ.
Quan khách đến dự có Tổng trưởng Tài chánh, đại diện chính quyền, các dân biểu Quốc Hội,
ngoại giao đoàn, đại diện các Hội Thánh bạn tại Việt Nam, đại diện các Hội Thánh bạn từ Mỹ,Pháp,
Miến Điện, trong đó có hai đại diện của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp mà một là tiến sĩ Louis
L. King. Một tuần trước, đài phát thanh quốc gia đã loan tin ngày đại lễ của Tin Lành. Sau buổi lễ,
báo chí Việt ngữ và ngoại ngữ đã đăng tải hình và tin tức, cùng bản tường thuật buổi lễ, đã phát
hành hàng vạn số trong toàn quốc.
Buổi lễ đã diễn ra một cách trang nghiêm và trọng thể. Có các ca đoàn Mỹ, Hoa, Thượng, Việt
tôn vinh Chúa Ba Ngôi qua những bài thánh ca đặc biệt. Đại ý của buổi lễ là cảm tạ và ca ngợi Đức
Chúa Trời đã thương xót dân tộc Việt Nam mà trước đây 50 năm, Ngài đã kêu gọi một số Giáo sĩ
Mỹ, Pháp, Anh, Gia-nã-đại và sai họ đến Việt Nam truyền giảng Tin Lành. Họ đã đến Việt Nam như
Phao-lô đã đến Ma-xê-đoan. Chúa đã chuẩn bị lòng người Việt Nam như Ngài đã chuẩn bị lòng bà
Ly-đi, nên ngay từ ban đầu,lúc họ đặt chân trên đất Việt Nam tại Đà Nẵng, đã có người sẵn sàng tiếp
nhận Giê-xu làm Cứu Chúa của mình. Không những đến Việt Nam, còn có một số Giáo sĩ đã bỏ mình
tại Việt Nam như bà Homêra Homêr Dixon, cụ J.D. Olsen, bà W.C.Cadman, cậu David Jeffrey.
Phòng triển lãm về sinh hoạt của Hội Thánh mở cửa từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 6 năm 1961.
Có đủ các giới và các sắc dân Anh, Ấn, Mỹ, Pháp, Hoa, Việt vào xêm. Hàng ngàn sách báo được trao
tận tay mỗi người, và hơn một trăm ngàn truyền đơn chứng đạo được phổ biến. Có 16.149 người
vào phòng triển lãm, trong đó có 21 người quỳ gối tin nhận Chúa Giê-xu. Có người cho biết đây là
lần đầu mình được nghe nói về Tin Lành.
Kết quả của Lễ Ngũ Thập Chu Niên là do tài sản và công lao của con cái Chúa từ Bến Hải đến Cà
Mau đóng góp vào. Tài sản đã là đáng kể, công lao của mỗi người còn đáng kể hơn,song không thể
nào kể hết, chỉ Chúa mới biết hết và Ngài sẽ ban thưởng xứng đáng cho mỗi người. Đó là việc của
Chúa đã làm trong mỗi người. Nguyện vinh hiển thuộc về Ngài cho đến đời đời!
13.Dự Hội nghị Tin Lành Đông Nam Á do Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp Tổ chức
tại Phi Luật Tân.
Lễ Ngũ Thập Chu Niên của Hội Thánh vừa xong, ông được mời đi dự Hội nghị Tin Lành Đông
Nam Á do Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp tổ chức tại Zamboanga, Phi Luật Tân, từ 15 đến 20
tháng 7 năm 1961. Ông mệt nhoài vì toàn là những việc vượt quá khả năng và kinh nghiệm của ông.
Đây là lần đầu tiên ông ra khỏi nước, mặc dù năm 1954 ông đã đi Kampuchia với tư cách Đoàn
181
trưởng Thanh niên Nam Hạt, nhưng lúc đó chưa kể là xuất ngoại, vì bấy giờ Việt Nam và Kampuchia
còn nằm chung trong khối Đông Dương. Cùng đi với ông có Chủ nhiệm Nam Hạt Mục sư Phan Văn
Tranh và Nghị viên Nam Hạt ông Nguyễn Văn Vạn. Rất tiếc, Chủ nhiệm Trung Hạt Mục sư Y Hăm
không lo kịp giấy tờ. Phía Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp tại Việt Nam có Hội trưởng Hội
Truyền giáo Mangham, và Phó Hội trưởng P.E. Carlson. Đại biểu của mười hai Hội Thánh thuộc
mười hai quốc gia có mặt là: Ai Lao, Ấn Độ, Nam Dương,Jordaniê, Kampuchia, Cộng Hoà Ả Rập, Nhật
Bản, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Thái Lan, Tân Ghi Nê và Việt Nam. Ông được mời giảng cho Hội nghị
một bài với đề tài bắt buộc: SỰ TÁI LÂM CỦA CHÚA GIÊXU, và một bài cho Hội Thánh Zamboanga
vào sáng Chúa Nhật, qua sự thông dịch của Giáo sĩ P.E. Carlson.
Ông được khích lệ nhiều qua báo cáo của các Hội Thánh tại Hồng Kông, Đài Loan, Nam Dương,
Nhật Bản,Phi Luật Tân. Ngay khi đó, ông đã quyết định sẽ nỗ lực truyền giảng Tin Lành cho đồng
bào Việt Nam, vì lúc nào cũng thấy mình chậm trễ quá.
Trở về Manila, các đại biểu được đưa đi thăm đài phát thanh Tin Lành Viễn Đông. Ông cố học
hỏi, lượm lặt,nên không dám nói là đã chia sẻ cho ai, mà là được chia sẻ rất nhiều. Bước đầu đi ra
nước ngoài, giao thiệp với các Hội Thánh ở các quốc gia đã đêm lại cho ông nhiều sự dạy dỗ rất quý
báu.
14.Dự Đại hội Tin Lành Thông công Thế giới tại Hồng Kông.
Vì Hội Thánh Tin Lành Việt Nam là thành viên của Hội Thánh Tin Lành Thông công Thế giới,
nên ông với tư cách là Hội trưởng, được mời dự Hội nghị tổ chức tại Hồng Kông từ ngày 24 tháng
1 đến 2 tháng 5 năm 1962. Có Giáo sĩ J.S. Sawin cùng đi với ông để hướng dẫn. Nói là Hội nghị Thế
giới, song chỉ có đại biểu của Hội Thánh thuộc mười hai quốc gia gồm hai mươi bảy người đến dự.
Đại biểu của các Hội Thánh thuộc các quốc gia khác không đến được vì thiếu tài chánh. Ông nhận
thấy bất cứ Hội Thánh nào thuần tuý Tin Lành cũng đều nghèo, không lạ gì. Song Hội Thánh Việt
Nam có đại biểu tham dự Hội nghị mới là lạ. Ngồi trong nhà thờ, ông tự hỏi:"Tôi là ai mà được ngồi
đây?” Ông xúc động trước tình thương của Chúa.Ngài đã lập Hội Thánh Việt Nam, Ngài cho ông đại
diện Hội Thánh Ngài. Ngài thúc đẩy nhiều người giúp chi phí để được đến đây. Ông sung sướng vô
cùng vì được thuộc về Hội Thánh là đại gia đình của Chúa. Ông nhớ bài Tín điều các Sứ đồ: “Tôi tin
Hội Thánh phổ thông, sự cảm thông của tín đồ…”, và quyết định: "Tôi yêu Chúa, tôi yêu Hội Thánh
Ngài, tôi yêu đồng bào tôi và ước ao họ được cứu như tôi".
Điều ông cảm tạ Chúa hơn hết là các diễn giả đã căn cứ vào Kinh Thánh mà khích lệ mọi người
thông công, hiệp tác với nhau trong việc giảng Tin Lành như: Giảng ở đâu? Giảng cách nào? Giảng
cho ai? Không phải chỉ Mục sư, Truyền đạo mới giảng mà toàn thể tín hữu phải nói trong lòng: "Nếu
tôi có bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu thì giờ,bao nhiêu khả năng và ân tứ cũng sẵng sàng trút hết vào
việc truyền giảng Tin Lành. Không có gì quý bằng Tin Lành, nên không có gì quan trọng bằng truyền
giảng Tin Lành".
Tham dự Hội nghị,ông không có gì chia sẻ mà chỉ nhận lãnh. Ông nghĩ rằng đây là một lần đủ
cả,không ai muốn mời ông dự Hội nghị nữa. Song lạ thay, lần Hội nghị kế tiếp, Ban Tổ chức vẫn còn
mời ông tham dự, không phải vì cá nhân ông mà vì ông là đại diện cho Hội Thánh Việt Nam. Đi một
ngày đàng, học một sàng khôn. Ra đi, ông chưa học được bao nhiêu khôn, song biết mình “dại hơn
ai hết, dại hơn bao giờ hết, dại quá sức tưởng tượng”. Ông cứ tiếp tục học mãi mà vẫn chưa thấy
khôn bằng ai. Dù vậy, ông hôm nay đã hơn ông hôm qua, và mong rằng ông ngày mai sẽ hơn ông
ngày nay.
182
15.Dự Hội nghị Toàn Phi Châu và thăm Hội Thánh Hoa Kỳ (Từ 07.01 -07.03.1964).
Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 30 họp tại nhà thờ Thần Học Viện Nha Trang từ ngày 15 đến 19
tháng 6 năm 1962, ông tái đắc cử Hội trưởng. Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 31 họp tại nhà thờ
Sài gòn từ ngày 9 đến 13 tháng 6 năm 1963 đã đẩy mạnh công cuộc truyền giáo cho các dân tộc
miền cao nguyên và cho các lân bang như Lào, Kampuchia và Thái Lan qua Hội Thánh Việt kiều tại
đó.
Sau Hội đồng nói trên, Ban Trị sự Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp tại Nữu Ước mời ông
tham dự Hội nghị Tin Lành toàn Phi Châu và thăm Hội Thánh Chúa tại Hoa Kỳ trong vòng hai tháng.
Ông rời phi trường Tân Sơn Nhất ngày 7 tháng 1 năm 1964, được nhiều ông bà Giáo sĩ, Mục sư,
Truyền đạo và giáo hữu tiễn đưa. Niềm ưu ái của Hội Thánh chung đã an ủi ông rất nhiều.
Từ phi trường Madras, Ấn Độ đến thành phố rất xa, lại phải đến chỗ họp của Hội đồng Tin Lành
Thông công Ấn Độ, nên vừa xuống xe, thì thấy Hội đồng đứng lên hát bài cuối cùng để giải tán. Ông
chỉ kịp lên toà giảng có mấy lời chào mừng Hội đồng bằng tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Hội đồng có
khoảng 2.000 người tham dự mỗi tối, còn ban ngày thì ít hơn. Sáng hôm sau, ông đến một chỗ gọi
là Rêd Hill cách Madras mười dặm Ânh để dự Hội đồng các nhà lãnh đạo Hội Thánh. Có chừng bảy
mươi đại biểu của hai mươi lăm giáo phái Tin Lành tại Ấn Độ họp lại, gồm có Giáo sĩ, Mục sư, Truyền
đạo và giáo hữu có chức vụ lãnh đạo một cơ quan của Hội Thánh. Trước khi giải tán, ông có xin
đứng lên trước Hội đồng làm chứng ơn phước Chúa cho ông tại đó, về nhu cầu của Hội Thánh Việt
Nam, về chương trình thăm viếng của ông để xin Hội đồng cầu nguyện. Ông nói trong nước mắt
tràn dâng và thấy ai nấy lắng nghê, có người gật đầu, có người lộ vẻ cảm động. Thật là một giờ phút
khó quên.
Đến phi trường Abidjan của Côtê D’Ivoirê, ông được các Giáo sĩ đón tiếp và đưa về thành phố.
Kể từ đây, Cụ phải dùng tiếng Pháp để thuyết trình, giảng luận và chuyện trò. Có mười một nhà lãnh
đạo Hội Thánh từ các nước Congo, Gabon, Hautê Volta, Mali,Guiné và Côtê D’Ivoirê cùng với các
Giáo sĩ cùng họp lại trong một tuần lễ. Khi nghe ông làm chứng về Hội Thánh tại Việt Nam, họ được
khích lệ cảm tạ Chúa. Cụ cũng cùng đi với ông bà Hội trưởng Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp
là tiến sĩ Nathan Bailêy, Giáo sĩ Gêorgê G. Klêin và Giáo sĩ S.T. Burns bằng xê hơi, khứ hồi hơn 2.000
cây số để thăm mười địa điểm có Hội Thánh tại hai xứ Haute Volta và Mali. Tại một nơi có nhiều
Mục sư, Truyền đạo và tín hữu họp lại, ông giảng và làm chứng về Hội Thánh Việt Nam, sau đó trả
lời các câu hỏi của họ. Buổi họp kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ. Ai nấy lấy làm thích thú nghe về sự
tiến bộ và các tổ chức của Hội Thánh Việt Nam.
16.Một tuần lễ tại Paris (31/1/1964 - 5/2/1964).
Sau một tháng làm việc,ông thấm mệt, cơ thể ông lại chịu nóng hơn chịu lạnh, nên từ Phi Châu
quá nóng đến Âu Châu quá lạnh, vì nhằm mùa đông, ông bị cảm ngay khi xuống phi trường Paris.
Ông được Giáo sĩ Daniêl Bordrêuil đón tiếp ân cần, nồng hậu hiếm có, đưa ông đến khách sạn, đến
bác sĩ. Tại Paris, ông đã có dịp đến thăm nhà sách Lês Bons Sêmêurs, do êm của cụ Giáo sĩ Jêan Funé
làm quản lý, mà ông đã được quen biết qua thư tín từ năm 1938, thăm toà báo Décision, nhà thờ
Tabernacle, trụ sở Sinh viên Việt Nam và trụ sở Sinh viên Tin Lành Việt Nam, thăm các nhân vật
trong Hội Thánh, cũng thăm vài công trình kiến trúc của Pháp như điện Elysée,tháp Eiffel v.v...
Chúa Nhật ngày 2 tháng 2 năm 1964, Mục sư Daniêl Bordrêuil đưa ông đến thăm Hội Thánh
Pháp tại nhà thờ Tabernacle. Ông thay mặt Hội Thánh Việt Nam đứng lên chào thăm Hội Thánh
Pháp. Sau giờ thờ phượng, Mục sư của Hội Thánh Pháp dẫn đứng lên đến thăm vài người bạn của
183
ông. Mục sư giới thiệu ông với họ như vầy: "Đây, ông Hội trưởng của Hội Thánh Việt Nam, một Hội
Thánh mà tín đồ không hề hút thuốc lá". Họ đồng cười rộ, xêm như một việc hiếm có. Trong cuộc
trò chuyện, ông không đề cập đến thuốc lá, mà chỉ nói về ân điển của Chúa.
17.Một tháng tại Hoa Kỳ (6/2/1964 - 7/3/1964).
Dù bị cảm lạnh, một tuần lễ tại Paris ông phải đi lại luôn nên bệnh chưa dứt. Xuống phi trường
Nêw York, ông đi không vững. Tại đó có Giáo sĩ Paul E. Carlson, bà Giáo sĩ T.G.Mangham, ông bà
nguyên Giáo sĩ Van Hinê, ông R.M. Chrisman đón tiếp ông cách vui vẻ, lo liệu cho ông mọi nhu cầu,
đưa ông về khách sạn nghỉ ngơi. Hôm sau,Ban Trị sự Hội Truyền giáo Phước Âm Liên hiệp mở tiệc
trọng thể khoản đãi ông tại nhà hàng Harvard Johnsons. Trước khi ăn, có bốn vị đại diện tỏ lời chào
mừng,an ủi và khích lệ ông trong chức vụ. Kế đó, họ đưa cho ông chương trình thăm viếng trong
vòng một tháng, có Giáo sĩ P.E. Carlson hướng dẫn và thông dịch.
Ông ăn không được bao nhiêu mặc dù thức ăn nhiều và ngon. Tối hôm đó về phòng, ông không
ngủ được vì quá mệt. Khi mở tờ chương trình ra đọc, ông cảm thấy mệt hơn, vì biết rằng không thể
nào thực hiện nổi. Ông cố gắng quỳ xuống bên giường khóc với Chúa và nài xin Ngài giúp, đừng để
ông làm cho ai vấp phạm.
Ông bắt đầu thăm viếng Trường Thần Học Nyack, được gặp vài anh chị em Việt Nam và vài Giáo
sĩ đã từng phục vụ Chúa tại Việt Nam nên rất được an ủi. Ông lần lượt thăm các Hội Thánh tại các
thành phố thuộc nhiều tiểu bang. Cũng thăm Thần Học Viện Saint Paul, Thần Học Viện Simpson, vài
trường trung học tiểu học văn hoá do tín đồ làm hiệu trưởng.Đi hoặc bằng phi cơ, hoặc bằng xê hơi,
đến nơi nghỉ ngơi, ông lại làm chứng cho Hội Thánh hay cho cơ quan của Hội Thánh. Suốt hai mươi
tám ngày, ông đã làm chứng hai mươi hai lần, không kể những lần nói chuyện với các phóng viên
nhà báo, với các Mục sư và giáo hữu, với các học sinh trung tiểu học, trên đài truyền thanh,truyền
hình.
Nhớ khi vừa đến New York, Ban Trị sự Hội Truyền giáo thấy ông đã mệt nhiều trong những
ngày ở Phi Châu, lại bị cảm lạnh tại Paris, nên ai nấy đều quả quyết ông không thể nào đủ sức thực
hiện đầy đủ chương trình quá nặng mà họ đã ấn định. Ông R.M. Chrisman xin Giáo sĩ P.E. Carlson
sẵn sàng giảng thay ông khi nào ông không giảng được.Ông nói: "Nếu ông Miêng không giảng được,
thì sự có mặt của ông tại đó đủ khiến cho Hội Thánh vui rồi". Nhưng Đức Chúa Trời đã làm trổi hơn
vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng (Eph 3:20). Ông càng đi, càng làm chứng,thì càng
khoẻ mạnh. Cuối cùng, ông đã thực hiện trọn chương trình đã ấn định,mà còn thêm những mục
không có trong chương trình nữa.
Vì phải qua thông dịch,nên những bài làm chứng của ông chỉ trên dưới hai mươi phút. Sau lời
làm chứng là lời kêu gọi Hội Thánh Chúa tại Mỹ hết lòng cảm tạ Chúa, vì công khó của họ không
phải là vô ích; kêu gọi mọi người thêm cầu nguyện, thêm dâng tiền, và thêm Giáo sĩ cho Việt Nam.
Ông không hề thấy có người nào bỏ chỗ ra về trước giờ giải tán, ai nấy đều lắng nghe một cách chăm
chỉ, và có người chịu cảm động đến rơi lệ. Nhiều lần, ông đang giảng hoặc làm chứng, nghe trong
hội chúng hoặc nơi Mục sư Chủ toạ ngồi phía sau ông có tiếng Amen! Amen! Amen!
Ông rất hân hạnh được gặp lại các Giáo sĩ đã từng hầu việc Chúa tại Việt Nam như ông bà Van
Hine, cô A.B. Bailey, ông bà B.R. Henry, ông bà cụ I.R. Stebbins, ông bà cụ W.A. Pruett,ông bà J.S.
Sawin, ông bà cụ H.H. Hazlett, bà cụ J.D. Olsen. Khi nghe ông nói tiếng Việt Nam, bà cụ Olsen khóc.
Bà nói qua hàng nước mắt: "Mỗi khi nhận được thư từ Việt Nam, tôi khóc, tôi muốn trở lại Việt
184
Nam". Đối với ông,ông bà cụ P.E. Carlson là người quen thân nhất từ năm 1936. Ông bà đã cổ động
học bổng cho ông luôn ba khoá, còn giúp tiền nuôi ba con ông ở tại nhà.
Cụ rất thoả lòng về những ngày thăm viếng các Hội Thánh ở Ấn Độ, Phi Châu, Pháp, và Mỹ. Ông
được hậu đãi như trên đã kể, nào phải vì cá nhân của ông đâu, mà vì ông là đại diện của Hội Thánh
Việt Nam. Chúa đã ban cho ông đặc ân mà ông không đáng được, chỉ vì tình thương vô hạn vô lượng
của Ngài. Ông cảm động mỗi khi hát thánh ca số 364:“Nầy, là bài mà đời đời lòng hoan ca mãi. Ôi
sao Giê-xu yêu được kẻ khốn nạn này?”
Mỹ Duyên
CA TỤNG CÔNG VIỆC CHÚA
Dòng dõi nầy sẽ ca tụng công việc Chúa cho dòng dõi kia, Và rao truyền việc quyền năng của
Chúa. (Thi 145:4)
Công việc của Chúa làm thật lạ lùng! Ngài đã chọn và lập con người nhỏ bé trong vũ trụ này để
làm thành chương trình và ý muốn của Chúa. Để cao rao danh Chúa cho mọi người và để thấy được
rằng những ai đã có lòng trọn thành với Chúa thì Ngài vui lòng và sử dụng có ích cho công việc nhà
Chúa.
Đức Chúa Trời đã dùng.
Hình ảnh của một thanh niên ốm yếu, bị bệnh phổi tưởng chừng như không qua khỏi sau đó lại
trở thành một học sinh trong Trường Kinh Thánh làm chúng ta ngạc nhiên trước sự kêu gọi của
Chúa đối với một con người. Thật vậy, Chúa đã dùng người nào thì Ngài làm cho người đó thích ứng
với môi trường, công việc, và nhu cầu của chính người đó. Chúa đã kêu gọi và sử dụng thầy Miêng
trong thời gian dài trước khi bước vào chức vụ lớn lao mà Ngài đã kêu gọi. Thầy Miêng có ơn giảng
dạy, truyền đạt tốt, nhiều người thích nghe thầy giảng hoặc dạy Trường Chúa Nhựt. Trong công tác
hành chánh của Hội Thánh, Chúa cho thầy Miêng cũng có sự khôn ngoan để giải quyết vấn đề cách
hợp lý, hợp tình, thuận theo Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh.Thầy Miêng có một tâm tình rao truyền
Tin Lành cho những người chưa được cứu và đây cũng là khao khát của thầy ngay cả lúc sắp từ giã
cõi trần nầy để về gặp Cha trên trời. Thật không thể nói hết việc Chúa làm cho một con người đã
toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa.
Trong chức vụ của Chúa ban cho MS Đoàn Văn Miêng, trong công việc của Giáo Hội và trong đời
sống hàng ngày đều bày tỏ lời giảng dạy của ông. Âi cũng biết, cũng thấy, cũng nghê và ai cũng phải
chứng thật rằng: MS Đoàn Văn Miêng là một tôi tớ trung thành của Chúa. MS Đoàn Văng Miêng đã
làm Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt-nam (MN) suốt 20 năm, một thời gian dài trong một hoàn
cảnh chiến tranh, nguy hiểm. Nhất là Chúa đã dùng ông một cách đặc biệt cho giai đoạn thập niên
60 và 70.
Đức Chúa Trời tiếp tục dùng
Sau biến cố 1975, MS Đoàn Văn Miêng không còn giữ chức Hội trưởng HTTLVN nữa. Hội đồng
cuối cùng năm 1976, MS Ông Văn Huyên được Hội đồng Tổng Liên hội cử làm Hội trưởng HTTLVN
(MN), còn MS Đoàn Văn Miêng đắc cử Phó Hội trưởng. Cảm tạ Chúa đã dùng hai tôi tớ Chúa đáng
kính trọng trong giai đoạn cực kỳ khó khăn. Chưa có một thời kỳ nào phức tạp và nhạy cảm bằng
giai đoạn này cả bên trong Giáo hội cũng như bên ngoài xã hội. Một số tôi tớ Chúa, tín hữu đi ra
nước ngoài; một số tôi tớ Chúa khác về quê lập nghiệp (kinh tế tự túc); một số người bỏ đức tin
chạy theo thế gian; một số phải đi học tập; một số qua đời,... Tình cảnh thật bi thương cho Hội Thánh
185
Tin Lành tại Việt Nam. Những áp lực từ bên ngoài khi còn tranh tối tranh sáng làm cho ai nấy lo sợ,
mất phương hướng. Tin tức hoàn toàn bị hạn chế, nếu có nghê được thì cũng là những thông tin
làm hoang mang, nhiều tôi con Chúa cũng gặp khó khăn trong sự hầu việc Chúa.
Lúc bấy giờ, “Lời Chúa trở nên hiếm hoi”! Vì ít được nghe giảng bồi linh, thiếu những bài giảng
khích lệ, an ủi con dân của Chúa. Thiếu thông tin liên lạc từ nơi này đến nơi khác, dễ rơi vào tình
trạng “nghi ngờ sự dữ”,... Nhiều thông tin đau buồn,thua thiệt; phải thường xuyên học bài học nhịn
nhục, phó thác mình cho Chúa. Nhưng bên cạnh đó, Chúa vẫn dùng nhiều tôi tớ Chúa còn kiên trì,
đức tin không nao núng để giúp bầy chiên của Ngài. Ở miền Tây, có những tôi tớ Chúa phải chịu
khó khăn, không thể hầu việc Chúa cách bình thường. Ở miền Trung, tôi tớ Chúa phải đi làm ruộng,
trồng khoai trồng sắn để sống mà tiếp tục hầu việc Chúa. Ở miền cao nguyên thì hầu như tôi con
Chúa hầu việc Ngài trong tình trạng thầm lặng.Còn ở thành phố trung tâm thì gặp sự khó khăn về
nhiều phương diện khác nhau. Việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác không được thông thoáng,
phải có giấy cho phép của địa phương nơi đi cũng như nơi đến. Phương tiện vận chuyển lại càng
khó khăn hơn, muốn đi một tỉnh nào thì phải thức dậy lúc 3 giờ sáng để xếp hàng, chen nhau mua
vé. MS Đoàn Văn Miêng phải đi lập nghiệp kinh tế tự túc tại Tân Cang, Long Thành, Đồng Nai.
Mỗi tuần ông lên rẫy làm lúa, đậu, mía... Thứ bảy về để Chúa nhựt giảng trong thành phố. Việc
này kéo dài vài năm. Nhìn thấy cảnh hai ông bà mang túi xách, đội nón lá, đi làm rẫy,vác cây cuốc,
đứng giữa trời nắng cuốc cỏ lúa mà thấy thương làm sao cho tôi tớ Chúa! Ăn uống kham khổ, chỉ có
cá khô, nước tương, bắp chuối luộc, canh lá giang nấu với cá khô sặc. Ở trong một một căn nhà
tranh nhỏ, thấp thiếu tiện nghi. Nhưng nét mặt ông bà vẫn luôn hân hoan, vui vẻ cảm thông với bao
tôi con Chúa đang lao động cực nhọc mỗi ngày. Nhiều tín hữu cũng mua đất làm rẫy trong khu vực
Tân Cang được khích lệ vô cùng khi thấy hình ảnh MS Đoàn Văng Miêng đi làm rẫy. Họ bào rằng:
“Mục sư ơi! Chúng tôi chỉ cần nhìn thấy Mục sư có mặt ở rẫy đây là chúng tôi được khích lệ vô cùng".
Đây cũng là một giai đoạn cùng chia sẻ nỗi khổ với nhau. Trong khi đó, cụ MS Lưu Văn Mão lúc bấy
giờ cũng đã 70 tuổi rồi, thế mà cụ đã đi xê Mobilêttê từ Sàigòn lên Tân Cang khoảng 45 km để giảng
dạy cho HT Tân Cang. Sau khi giảng xong, trưa cụ MS Lưu Văn Mão phải nằm đỡ trên chiếc ghế dựa
dưới gốc khế để nghỉ trưa, chiều hầu việc Chúa với Hội Thánh một lần nữa mới trở về thành phố.
Thật các cụ MS đã xêm Hội Thánh của Chúa quí báu thay!
Thật cảm ơn Chúa về tinh thần làm việc của MS Đoàn Văn Miêng. Dầu tuổi cũng đã cao, sức khỏe
bị giới hạn, nhưng ý chí của ông không giảm sút. Ông đã từng giảng dạy rằng: “Chúng ta được Chúa
cứu chuộc bằng chính huyết Ngài. Chúa đã đổ đến giọt huyết cuối cùng để chúng ta được làm con
cái Ngài, vì vậy, chúng ta phải rao giảng Tin Lành cho đồng bào chúng ta để họ được nghe Tin Lành
và được Chúa cứu”. Ước ao của MS Đoàn Văn Miêng là xin Chúa cứu 10 triệu linh hồn đồng bào
Việt-nam. Dầu đi đâu,làm gì, MS Đoàn Văn Miêng cũng nhắc nhở Hội Thánh chung điều đó.
Sau năm 1975, nhà in Tin Lành không còn nữa. Phương tiện duy nhất là đánh máy chữ và quay
roneo.Không có ai soạn bài học Trường Chúa nhựt cho Hội Thánh sử dụng. MS Đoàn Văn Miêng
được Chúa ban ơn để soạn bài học Kinh Thánh cho các chi hội, đồng thời cũng soạn lại thành bài
học Trường Chúa nhựt cho tín hữu học mỗi Chúa nhựt. Những bài học Trường Chúa nhựt được
đánh máy chữ lót giấy than lúc đậm lúc mờ. Dầu vậy,bài học vẫn được phát ra mỗi tuần cho các Hội
Thánh ở khắp nơi học Lời Chúa. Từ sách Sáng thế ký cho đến Khải huyền, lần lượt được ông soạn
ra thành bài học với những chủ đề: (1) Chương trình Đức Chúa Trời cho mọi Thời Đại (2) Từ Giô-suê
Đến Sa-lô-môn (3) Tuyển Dân Y-sơ-ra-ên (4) Đấng Christ và Hội Thánh Ngài (5) Hội Thánh và Tôi (6)
Tôi và Hội Thánh (7) Thi Thiên,... Từ ngày này qua ngày khác, từ năm này đến năm khác, ông chuyên
186
chú soạn bài cho con dân Chúa học.Ông thường nói: “Công việc nhiều quá! Nhu cầu của Hội Thánh
lớn quá không sao làm hết! Không đủ thì giờ!” Có lần gia đình ngồi ăn nửa buổi bằng đậu phộng
nấu,ông ngồi lột được chừng vài hột thì đứng dậy bảo: “Mất thì giờ quá!” rồi đi soạn bài. Người nhà
và các tôi con Chúa thường nhắc ông nên viết lại tiều sử để lưu lại, ông gật đầu, cười và nói: “Tôi
chỉ có hai bàn tay và 24 tiếng đồng hồ một ngày, làm sao làm hết được? Vả lại, công việc Chúa còn
nhiều quá, làm sao có thì giờ mà viết lại được!” Rồi ông bỏ qua để miệt mài với bao nhiêu công tác
mỗi ngày. Để rồi sau khi ông về với Chúa, chẳng còn một bút tích nào của ông về khoảng thời gian
từ sau biến cố 75 đến lúc ông qua đời!
MS Đoàn Văn Miêng luôn hết lòng đối với công việc Chúa, bất cứ ban ngành nào trong một Hội
Thánh nào mời giảng, ông cũng nhận lời đến giảng dạy Lời Chúa, không từ chối. Chính vì vậy mà có
những nơi xa xôi, ít người ông vẫn đến giảng, như giảng cho một Hội Thánh đông người. Chủ trương
của ông là “không từ chối” vì nhu cầu quá lớn của Hội Thánh. Dù trời nắng hay trời mưa, dù gần hay
xa, ông vẫn đi giảng dạy một cách đều đặn. Có lần ở nhà thờ Trần Cao Vân có chương trình học tối
thứ Ba, MS Đoàn Văn Miêng dạy KT, trời mưa lớn và tín hữu rất vắng, nhưng ông vẫn đạp xê đạp
đến dạy bình thường, dạy hết lòng với tinh thần giống như là bài giảng dạy cuối cùng. Sau lần đó,
dường như ít ai bỏ buổi học Kinh Thánh dù mưa gió bão bùng!Thật là một tấm gương cho người
hầu việc Chúa.
Bài soạn tài liệu Trường Chúa nhựt của MS Đoàn Văn Miêng đã được hầu hết tín hữu học cách
thích thú vì dễ hiểu. Không những dễ hiểu mà còn có thể truyền đạt lại được cách dễ dàng. Con cái
Chúa trong Hội Thánh có nhiều trình độ, nhưng ai cũng có cùng một suy nghĩ là bài học dễ hiểu, sâu
sắc, có nhiều sự dạy dỗ. Đây cũng là một ơn Chúa cho ông, ơn soạn bài, ơn giảng dạy đến nỗi ai cũng
nghê chăm chú mà không chán, không mệt mỏi. Người có trình độ cao lẫn người trình độ thấp cũng
học nhận được bài học dạy dỗ riêng cho chính mình. Tính ra, cụ MS Đoàn Văn Miêng đã soạn bài
học Kinh Thánh từ các sách: Nhã ca, các sách Tiểu tiên tri, Bốn sách Phúc Âm, Công vụ các Sứ đồ,
Rô-ma, I,II Cô-rinh-tô, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Hê-bơ-rơ,Gia-cơ, I,II Phi-e-rơ, I,II,III Giăng, Khải Huyền.
Riêng Thi-thiên, Cụ dạy đến Thi Thiên 50 thì dừng lại vì không còn cơ hội nữa!
Lòng yêu thương ở trong MS Đoàn Văn Miêng thật dư đầy, cụ thường cầu nguyện cho các tôi
con Chúa đang thiếu thốn, khó khăn. Cụ thường kêu gọi nhiều người dâng tiền để giúp cho những
người có nhu cầu như đau ốm, tai nạn, thiếu thốn. Đặc biệt đối với các quả phụ Mục sư Truyền đạo,
MS hưu trí, Cụ đều quan tâm và kêu gọi giúp đỡ, đồng thời tìm cách đến thăm hỏi, giúp đỡ tôi tớ
Chúa. Có những giai đoạn quá khó khăn, một số con cái Chúa ở nước ngoài gửi dâng một khoản tiền
cho các quả phụ Mục sư Truyền đạo, MS hưu trí. Thế là cụ cho người đi tìm từng tôi tớ Chúa để trao
tận tay. MS Đoàn Văn Miêng cũng quan tâm đến các con cái của Mục sư Truyền đạo đã hầu việc
Chúa. Những lần họp mặt, cụ đều khuyên bảo, khích lệ, nhắc nhở và sau những lần họp mặt như
vậy đều có thêm con cái của các tôi tớ Chúa tái hiến dâng cuộc đời mình để phục vụ Chúa, tiếp nối
công việc của cha ông mình. Một lần MS Đoàn Văn Miêng đi giảng ở Mộc Hóa tỉnh Long An, trên
đường đi, tài xế là anh T.D. đã gặp tai nạn, đụng phải hai cha con một nông dân. Xe của cụ bị bể kính
phía trước,ông nông dân văng xa 5 m bị chấn thương phía dưới lưng chảy máu. Một người đưa
người bị thương đến bệnh viện Long An, còn MS bảo anh T.D. cứ tiếp tục đi đến Mộc Hóa để giảng.
Giảng xong rồi mới trình Công Ân. Trong lúc ông nông dân đang điều trị tại bệnh viện thì MS cho
người đến thăm viếng, chăm sóc. Đến khi xuất viện,MS trả hết tất cả chi phí chữa trị. Người này trở
về nhà, sau một thời gian ngắn đã mang khoai mỡ, gạo thơm lên biếu MS Đoàn Văn Miêng. Như vậy,
khi gặp tai nạn,MS vẫn cứ tiếp tục giảng dạy, chăm sóc người gặp nạn và cuối cùng lại có thêm một
người bạn tốt là ông nông dân đó.
187
Mặc dầu trong một giai đoạn, việc di chuyển rất khó khăn, nhưng Chúa cũng mở đường cho cho
MS Đoàn Văn Miêng được đi nhiều tỉnh thành để giảng dạy. Trong chuyến đi thăm các Hội Thánh ở
miền Trung, sau khi giảng ở Đà Nẵng, anh T.D. người lái xê đưa ông đến bên cầu Hiền Lương, MS
Đoàn Văn Miêng đã quỳ gối xuống tại chiếc cầu này, mặt hướng về miền Bắc cầu nguyện trong nước
mắt, xin Chúa cho Tin Lành được rao giảng ở miền Bắc!!! Sau chuyến đi đó, Cụ không còn đi trở lại
nữa nhưng Cụ đi thẳng về Thiên quốc. Cảm tạ Chúa lòng yêu thương và lời cầu nguyện của MS cùng
với nhiều tôi con Chúa, hướng về miền Bắc, đã được Chúa làm thành sau một thời gian. Hội Thánh
Tin Lành Việt-nam Tổng Hội miền Bắc đã bắt đầu phát triển. Công tác xây dựng cơ sở vật chất đã
bắt đầu đó đây, một số nhà thờ được xây dựng lại. Chương trình truyền giảng Tin Lành được tổ
chức công khai, nhiều người được biết Chúa. Ban Trị Sự Tổng Hội miền Bắc được bầu cử và có trên
30 thanh niên dâng mình đi học Lời Chúa tại Viện Thánh Kinh Thần Học của Tổng Liên hội miền
Nam. Tạ ơn Chúa, đây là điều mà con người không thể hiểu nổi,vượt quá điều cầu xin và suy tưởng.
Dù MS Đoàn Văn Miêng không thấy được kết quả như ngày hôm nay, nhưng Cụ tin rằng Đức Chúa
Trời sẽ làm thành việc ấy, Cụ cầu xin và phó thác mọi điều cho Chúa. Thế hệ của cụ đã qua, dòng
dõi sau kế tiếp.Nhưng Chúa vẫn thành tín đối với Hội Thánh Việt-nam. Thật“Người sẽ chẳng bẻ cây
sậy đã giập, và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy.Người sẽ lấy lẽ thật mà tỏ ra sự công bình” (Es 42:3).
- Những ngày MS Đoàn Văn Miêng bị té gãy chân. Cụ chịu đựng, tập thể dục, tập đi để sớm mạnh
chân mà đi giảng. Tinh thần của Cụ thật mạnh mẽ, không nao núng.
- Mắt MS Đoàn Văn Miêng bị kém, mỗi ngày mỗi yếu dần. Khi soạn bài phải viết chữ thật lớn
bằng bút lông, một tờ A4 viết chừng mươi chữ trở lại. Cụ cố gắng đọc, giảng dạy. Cụ phải dùng chiếc
kính lúp để xem từng câu Kinh Thánh cách khó khăn, vất vả.
- Tánh tình của MS Đoàn Văn Miêng rất thẳng thắn, Cụ không chấp nhận sự dối trá. Chống tội
lỗi,nhưng nhịn nhục, kiên trì chờ đợi một người có thái độ ăn năn. MS Đoàn Văn Miêng đã giảng
dạy về tội lỗi và dứt khoát với tội lỗi, không bao che, không bỏ qua. Lời giảng và cách sống của cụ
đi đôi với nhau. Cụ đã từng khuyên lơn, cảnh cáo, rầy bảo và giải quyết những người phạm tội cách
thẳng thắn, công khai, dứt khoát, dầu đau đớn. Mặc cho thể diện, cụ vẫn giữ lương tâm thanh sạch,
không tây vị ai dù cho đó là người nhà đi nữa. Điều cụ cần quan tâm là làm đẹp lòng Chúa.
- MS Đoàn Văn Miêng cũng có tính khôi hài. Khi làm việc thì cụ rất là nghiêm túc, chăm chú,
siêng năng. Nhưng khi đến giờ nghỉ, giờ ăn thì Cụ luôn mang lại cho mọi người nụ cười hả hê! Cụ
luôn “so bì” với bà cụ về phần ăn, về quà tặng... làm cho không khí vui vẻ, tự nhiên bằng những câu
chuyện vui có duyên. Bà cụ mời ông cụ ăn sáng,ăn nửa buổi, ăn trưa... ông cụ bảo: “Ăn gì mà ăn hoài
vậy? Ăn đến nỗi răng rụng rồi trồng răng giả ăn tiếp!!!”
- MS Đoàn Văn Miêng có một người “giúp đỡ” tuyệt vời. Bà cụ MS Đoàn Văn Miêng là một phụ
nữ tài đức.Trong lúc ông cụ lo giảng dạy, làm việc, tiếp khách, đi đây đi đó, thì mọi việc trong nhà
cũng như bên ngoài bà cụ đã lo một cách chu đáo. Bà cụ tiếp khách rất chu đáo, thăm viếng tôi con
Chúa đúng lúc. Thay ông cụ mà giải quyết những công việc nào có thể giải quyết được để cho ông
cụ yên tâm soạn bài và giảng dạy. Âi đã một lần tiếp xúc với bà cụ MS Đoàn Văn Miêng luôn có ấn
tượng tốt đẹp và kính trọng.
Đức Chúa Trời sẽ dùng
Thế hệ của MS Đoàn Văn Miêng đã qua, thế hệ sau nối tiếp. “Dòng dõi nầy sẽ ca tụng công việc
Chúa cho dòng dõi kia, Và rao truyền việc quyền năng của Chúa.”(Thi 145:4)
188
Những bài giảng của cụ MS còn đó, dù qua đời rồi nhưng vẫn còn nghe tiếng nói. Tiếng nói vẫn
mạnh mẽ,sắt son với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Cụ đã làm hết sức mình trong cơ hội Chúa
cho cụ. Thế hệ trước đã làm hết lòng, hết sức, để rồi thế hệ sau tiếp tục ca tụng công việc Chúa đã
làm cho con dân Ngài. Công việc Chúa thật lạ lùng!Theo từng năm tháng, thêo ơn Chúa ban, thêo ý
Chúa muốn. Chúa dùng tôi tớ Chúa và nhiều người khác nữa, để ngợi khen.
Nhân kỷ niệm 100 năm Tin Lành đến Việt nam, nhớ lại công việc Chúa đã làm cho Hội Thánh
tại Việt Nam. Có những bậc tiền nhân đã về Nước Chúa. Có những tôi con Chúa vẫn còn tiếp tục
công tác mở mang Nước Chúa. Có những đầy tớ Chúa đang tiếp nối công việc của các bậc tiền nhân
như các cụ MS Ông Văn Huyên, MS Đoàn Văn Miêng, MS Trí sự Lưu Văn Mão, MS Trí sự Phạm Xuân
Tín,... và từ dòng dõi nầy qua dòng dõi kia, Đức Chúa Trời vẫn tể trị Hội Thánh của Ngài, vẫn sử
dụng những con người toàn tâm,toàn ý cho Đức Chúa Trời cao cả. Để công việc của Chúa cứ được
khen ngợi, chúc tụng và cao rao cho muôn dân, muôn nước biết về Ngài. A-men.
Họ c trò củ a cụ N.Đ.T.
(Ảnh do người viết cung cấp)
Dù già yếu, hai cụ vẫn luôn vui vẻ và hóm hỉnh.
189
MS Đoàn Văn Miêng, Tiến sĩ Billy Graham,
Giáo sĩ T.G. Mangham Jr. (1966)
(Ảnh: photos.vnbible.com)
MS Đoàn Văn Miêng và GS Wiliam Alfred
Pruett nhân chuyến trở lại thăm VN
sau 28 năm (1971) (Ảnh: photos.vnbible.com)
190
Mục sư PHẠM VĂN NĂM
(1916-1992)
Trong thế gian nầy có rất nhiều người tài đức. Nhưng Đức Chúa Trời chỉ đại dụng những ai dâng
trọn cuộc đời cho Ngài mà không giữ lại cho mình chút nào. Họ là nhưng người đã hy sinh rất nhiều
cho công việc Chúa và sự hy sinh cao quý đó đã được lịch sử ghi lại để cho chúng ta noi theo. Mục sư
Phạm Văn Năm, một trong những nhà truyền giáo đầy kinh nghiệm được kể là người trọn vẹn khi
dâng trọn cuội đời cho Đức Chúa Trời, không chút giữ lại. Ông là một người khiêm nhường trước
mặt Chúa và loài người, bị nung đốt bởi lửa sốt sắng mang Tin Lành đến cứu vớt kẻ trầm luân vùng
cao nguyên, Đà Lạt bấy giờ.
Mục sư Phạm Văn Năm sinh năm 1916, là con trai lớn của một gia đình có tiếng tăm và khá giả
tại Ô Môn, Cần Thơ. Thân sinh ông làm Hội đồng Địa hạt, vừa am hiểu Nho hoc lẫn Tây học,vừa là
nhà doanh thương thành công nên được sự kính nể của đồng bào trong vùng.
Vì là con của gia đình có truyền thống hiếu học và yêu thích âm nhạc nên thân sinh và ông Phạm
Văn Năm sớm có thiện cảm đối với các giáo sĩ khi họ đến quận Ô Môn gần hiệu buôn của gia đình
ông để phát sách, truyền giảng Tin Lành, tổ chức dạy Kinh Thánh,dạy hát Thánh ca cho các em thiếu
nhi.
Sau ba năm nghiên cứu,tìm hiểu về Tin Lành; thân sinh ông và lần lượt những người trong gia
đình quyết định quỳ gối tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Chúa của đời mình. Cũng như bà Phạm Văn Năm
(vợ ông), sau khi tin Chúa, lòng ông Phạm Văn Năm được vui mừng bình an vì biết tội lỗi đã được
tha. Mỗi buổi sáng ông đều dành thì giờ đọc Kinh Thánh, cầu nguyện và hăng say làm chứng về ơn
cứu rỗi của Chúa cho mọi người. Lòng ông thỏa thích vô cùng khi được nghe lời Chúa qua các bài
giảng của tôi tớ Ngài như giáo sĩ Paul E. Carlson, Mục sư Lê Ðình Tươi, v. v... Cũng thấy gương hầu
việc Chúa của ông bà Mục sư Phan Văn Hiệu, nhờ đó chàng thanh niên Phạm Văn Năm được thêm
lên niềm tin.
191
Năm 1932, Ðại Hội đồng Tổng Liên được tổ chức tại Hội Thánh Tin Lành quận Ô Môn, tỉnh Cần
Thơ, và hiển nhiên ông Phạm Văn Năm cũng tham dự. Ðức Thánh Linh thôi thúc trong lòng ông khi
được nghê giáo sĩ Edwin D. Irwin (Hội trưởng Hội Truyền giáo) giảng về tinh thần truyền giáo theo
câu Ro 1:14-15: “Tôi mắc nợ cả người Gờ-réc lẫn người dã man, người thông thái lẫn người ngu dốt,
ấy vậy hễ thuộc về tôi, thì tôi cũng sẵn lòng rao Tin Lành cho anh em”. Ông nghê tiếng nói nhỏ nhẹ
bên tai:“Tôi mắc nợ cả người Kinh lẫn người Thượng” và giục giã ông mau cung hiến đời sống mình
làm công cụ của Ngài. Mặc dù ông viện ra lắm lý lẽ để thoái thác hoặc khước từ nhưng tiếng Chúa
cứ nhắc đi nhắc lại trong tâm khảm ông khiến ông đi đến quyết định lìa bỏ tiền tài, vật chất của đời
mà dấn thân phiêu lưu vào con đường nghèo khó, nhọc nhằn của người truyền đạo thêo như khải
tượng Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho ông.
Sau khi hoàn tất chương trình trung học ở trường Võ Văn, Cần Thơ, vào tháng 8 năm 1934, khi
mới được 18 tuổi, chàng thanh niên Phạm Văn Năm quyết định dâng mình lên đường ra Tourane
(Ðà Nẵng) để học Lời Chúa và trở thành học sinh trẻ tuổi nhất trường.Mãn niên khóa đó, ông trở
về nhà nghỉ ba tháng. Đến tháng 6 năm 1935, ông cùng thân sinh đi dự Hội đồng Tổng Liên họp tại
Cao Lãnh. Rồi cũng trong kỳ Hội đồng nầy một lễ hỏi rất đơn sơ giữa ông và cô Nguyễn Thị Thuấn,
quê hương Cao Lãnh,đã diễn ra cách trang nghiêm và trước sự chứng chứng kiến của nhiều tôi tớ
Chúa. Trước đó, cô Nguyễn Thị Thuấn là người đã đọc thuộc lòng Thi Thiên 23 tại Hội đồng Bồi linh
ở Sa Ðéc vào giữa tháng 10 năm 1934 và thân sinh của ông đã tìm hiểu cô cho ông (Xin nói thêm
rằng trường Kinh Thánh thời đó nếu học sinh ra học năm thứ hai buộc phải có vợ).
Thật tạ ơn Chúa, sự sắp xếp của Ngài thật diệu kỳ. Chúa đã dự bị cho ông một người vợ có cùng
một tinh thần truyền giáo đúng với điều ông mong ước. Ngày 16 tháng 8 năm 1935, thầy Phạm Văn
Năm thành hôn cùng cô Nguyễn Thị Thuấn và ba tuần lễ sau họ lên đường vào trường Kinh Thánh
học năm thứ hai (cô Phạm Văn Năm học năm thứ nhứt).
Ngày 14 tháng 6 năm 1936, hoàn tất khoá học, ông bà được bổ nhiệm đến hầu việc Chúa tại Hội
Thánh Trà Ôn trọn khóa 2 năm. Lúc đó ông mới 20 tuổi nên mỗi tháng giáo sĩ Carlson từ Mỹ Tho
qua Trà Ôn để giảng dạy và giúp đỡ ông!
Ngày 15 tháng 12 năm 1936, bà sinh con gái đầu lòng.
Tháng giêng năm 1937, trong kỳ Hội đồng Ðịa hạt tại Mỹ Tho, sau lời cầu nguyện và kêu gọi của
cụ Jackson, hai ông bà cùng đứng dậy bước lên tòa giảng để nhờ tôi tớ Chúa đặt tay cầu nguyện cho
ông bà dâng mình đi hầu việc Chúa trên cao nguyên thượng du (Lâm Đồng).
Sau hai năm thực tập tại Trà Ôn, đáng lý ra ông bà Phạm Văn Năm phải trở về trường Kinh
Thánh để học năm tốt nghiệp. Nhưng lúc ấy tại Sài Gòn, Mục sư Lê Ðình Tươi, Hội trưởng Hội Thánh
Việt Nam cũng là quản nhiệm Hội Thánh Sài Gòn có mở Hội Thánh mới tại Phú Nhuận, ông cần một
phụ tá để giúp ông tại đây. Thấy Truyền đạo Phạm Văn Năm còn trẻ quá (21 tuổi) không cần phải
về học lớp tốt nghiệp sớm nên Mục sư Tươi đã trình với Ban Trị sự Tổng Liên ý muốn này và được
chấp nhận. Ngày 18 tháng 7 năm 1938, ông bà đến Phú Nhuận nhận nhiệm sở mới trọn một năm
rồi sau đó mới trở về trường Kinh Thánh để học năm tốt nghiệp.
Tại Hội Thánh Phú Nhuận, mỗi tối thứ bảy ông có tổ chức truyền giảng có rất đông người đến
nghe và nhiều người tin. Ngoài ra, vì có học âm nhạc nơi trường Kinh Thánh, nên ông còn được các
tín hữu ở Hội Thánh Sài Gòn mời đến dạy nhạc lý cho họ vào mỗi tối thứ ba.
Sau khi tốt nghiệp,Ban Trị sự Tổng Liên hội bổ nhiệm ông đến hầu việc Chúa tại Bình Long (gần
Châu Ðốc). Đây là một Hội Thánh “tuy thành lập đã lâu nhưng có ít tín đồ, xứ nầy lối tháng 8 đến
192
tháng 10 là mùa nước nổi nên sự di chuyển và sinh hoạt rất khó khăn. Đâu đâu cũng nước ngập phải
di chuyển bằng xuồng hay bằng bè chuối, trong nhà thì dùng băng ghế kê cao để đi tới lui, rắn rít tìm
chỗ tránh nước có khi leo lên giường lên chõng, rất nguy hiểm”[22]. Tạ ơn Chúa tại nơi đây, tôi tớ
Ngài là Phạm Văn Năm dù còn trẻ tuổi nhưng đã tận tâm với chức vụ Thánh; hăng hái ra đi thăm
viếng hiệp với cụ Mục sư Hiệu ở Châu Ðốc lo truyền giảng rất vui và phước hạnh. Qua chức vụ ông,
Đức Chúa Trời đã cứu nhiều người.
Hầu việc Chúa ở Bình Long được 10 tháng thì ông nhận được thư của giáo sĩ Jackson và Mục sư
Nguyễn Văn Tầm yêu cầu lên Thượng du hầu việc Chúa. Biết rằng Chúa đã mở đường và sai đi
truyền giáo nên ông bà vui mừng nhận lời ngay.
Ngày 2 tháng 8 năm 1941, Ban Trị sự Tổng Liên hội chấp thuận cho ông đi truyền giáo tại Ðà
Lạt.Ngày 12 tháng 8 năm 1941 gia đình ông bà đáp xê lửa lên Ðà Lạt bắt đầu chức vụ truyền giáo
lần thứ nhất.
Tại Đà Lạt, việc đầu tiên của ông bà là mỗi ngày sáu tiếng đồng hồ học tiếng Kơho với thầy Ha
Sol (sau này trở thành vị Mục sư người sắc tộc đầu tiên của vùng). Hội Truyền giáo bắt buộc ông bà
sau sáu tháng phải biết nói tiếng Kơho nhưng ở Ðà Lạt được sáu tháng thì ông bà lại được yêu cầu
xuống Di Linh (lúc đó gọi là N’jiring) tạm lo việc Chúa giữa người Việt và người sắc tộc tại đó.
Thế là, ngày 12 tháng 11 năm 1942, gia đình ông bà và thầy Ha Sol dạy tiếng Kơho xuống Di
Linh.Tại đây, khí hậu rất độc, Mục sư Phạm Văn Năm bị sốt rét rừng hành hạ đến nỗi phải nằm viện
hơn hai tuần lễ nhưng sốt vẫn cao. Ông liền xin phép Chủ nhiệm Ðịa hạt cho ông được về Ô Môn
dưỡng bệnh. Sau hai tháng, Chúa đã chữa bệnh cho ông được lành, nhưng một mặt vì hoàn cảnh
gia đình, một mặt vì chiến tranh nên dự định trở lại Di Linh tiếp tục hầu việc Chúa bị gián đoạn.
Ngày 20 tháng 5 năm 1943, Ban Trị sự Ðịa hạt yêu cầu ông bà đến Hội Thánh Vĩnh Long. Trong
4 năm hầu việc Chúa tại đây, Mục sư Phạm Văn Năm đã phải đối diện không ít với những thăng
trầm và thử thách. Khi mới đến, đứa con trai qua đời; rồi khi sắp rời Vĩnh Long thì đến lượt người
con gái về nước Chúa. Hội Thánh có phát triển,nhưng vì còn trong thời kỳ chiến tranh nên mọi sự
đều khó khăn, người tin Chúa thì nhiều nhưng chỉ có vài gia đình đứng vững, lại thêm phải đối phó
với tà thuyết "Chúa tái lâm giả tạo". Chiến sự liên miên khiến tín đồ phải di tản nhiều nơi, gia đình
ông cũng mỗi người tá túc một chỗ, cứ lang thang trong các sông, rạch không dám đi đâu xa nhà
thờ.
Ngày 10 tháng sáu 1947, được sự đồng ý của Ban Trị sự Tổng Liên, ông bà trở lại miền cao
nguyên để truyền giáo lần thứ hai theo nguyện vọng của ông bà.
Tại Đà Lạt, ngoài việc mỗi sáng Chúa nhật thờ phượng Chúa với Hội Thánh người sắc tộc sau đó
đến Hội Thánh người Kinh, ông vừa tiếp tục học tiếng Kơho với Mục sư Ha Sol, vừa dạy thiếu nhi,
vừa giúp cụ giáo sĩ Jackson làm công việc văn phòng, đánh máy bản Kinh Thánh Tân Ước sách Tin
Lành Giăng bằng tiếng Kơho, vừa dịch Thánh Ca từ tiếng Việt ra tiếng Kơho. Bà cũng lo dịch bài
học: “Ðời Ðấng Christ” để giảng dạy cho anh em sắc tộc.
Tháng 6 năm 1948,ông được tấn phong Mục sư tại Sài Gòn.
Tháng 3 năm 1953, Hội đồng Truyền giáo đầu tiên được tổ chức tại nhà ông thành lập Ðoàn
Truyền giáo Việt Nam. Mục sư Truyền giáo Phạm Văn Năm được bầu làm thủ quỹ cho Đoàn. Từ
đây, cứ mùa nắng thì ông bà vào các buôn làng trong rừng sâu để truyền giáo,thăm viếng, giảng bồi
linh, hiệp với hai cụ Jackson hầu việc Chúa; còn mùa mưa thì dạy tại trường Kinh Thánh, cùng Mục
193
sư Nguyễn Văn Tầm đặt chữ cho người Kơho, đồng thời xúc tiến việc dịch toàn bộ Kinh Thánh Tân
Ước ra tiếng Kơho.Ông chịu trách nhiệm dịch thư Hê-bơ-rơ và Khải Huyền, còn bà dịch hai thư Phi-
e-rơ. Sau đó, ông bà cùng các vị khác dịch 100 bài đầu của quyển Thánh Ca tiếng Việt.
Trong thời gian 13 năm, từ năm 1947 đến năm 1960, với những vòng truyền giáo đầy mạo
hiểm, thú vị với những kỷ niệm khó quên nơi rừng thiêng nước độc, ông bà đã mang tin mừng cứu
rỗi của Chúa đến tận các buôn làng: Ðạ Blah, Ðạ Ka, Ðạ Tơrbor, Pang Pung, Tiah Soh, Bon-nơr, Ðăng-
ja, Tầm Ngân, Song Pha (Krong Pha), Suối Dầu, Phước Ðồng,Phước Ðức của các dân tộc thiểu số
Kơho, Tring, Rơglai,… Ông bà cũng quan tâm đến vấn đề khai hóa dân trí cho đồng bào sắc tộc nên
đã soạn bài học về cuộc đời Chúa Cứu Thế có hình ảnh cho họ dễ hiểu, gởi vào trong làng cho con
cái Chúa đọc. Là người truyền giáo, nhưng ông bà phải làm đủ mọi việc. Khi vào trong làng thăm
viếng, ông bà luôn đêm thêo thuốc mên để giúp đỡ con cái Chúa,có lúc phải làm tài xế đưa rước
những người có bệnh nghặt nghèo cần đến bệnh viện.Có nhiều lúc rất thiếu thốn, song ông bà không
bao giờ than thở, hay nói cho ai biết cũng không nhờ vả ai, lòng lúc nào cũng cứ cậy trông nơi Chúa
và luôn nghĩ rằng sẽ không lìa nơi đây để đi nơi nào khác.
Mỗi năm ông bà được phép nghỉ hè. Là tôi tớ trung thành đầy ơn của Chúa và từng trải nhiều
thử thách, ông bà không nghỉ ngơi mà dùng cơ hội đó để đi thăm các Hội Thánh từ Nam chí Bắc,
làm chứng về công cuộc truyền giáo hầu giục giã con cái Chúa ý thức trách nhiệm truyền giáo và
khơi dậy tinh thần truyền giáo nơi tín hữu.
Ông bà hiệp tác với ông bà Giáo sĩ Jackson, hai cụ Giáo sĩ Jêan Funé, cô Giáo sĩ Evans cùng các vị
Mục sư Truyền đạo người sắc tộc như Mục sư Hà Sáu Â, Mục sư Hà Klas A, Mục sư Ha Chu Â, Mục
sư Ha Sol, v.v... lo mở mang công việc Chúa trên miền sơn cước.Sau gần 15 năm, qua hai giai đoạn,
số Hội Thánh có được là 102 với 25.000 tín hữu,một con số khá lớn và đầy khích lệ đối với một Ðịa
hạt. Thật vậy, trong tất cả các dân tộc ít người trên đất nước tại thời điểm này, Hội Thánh Chúa giữa
sắc tộc mà ông bà phục vụ là Hội Thánh sắc tộc đầu tiên đạt được thành quả cao như vậy.
Năm 1960, Mục sư Phạm Văn Năm bị bệnh nặng nên được đề nghị xuống Nha Trang nghỉ ngơi
vài tháng. Tại đây, Mục sư Hội trưởng Ông Văn Huyên đã mời ông bà về hầu việc Chúa tại Thần Học
Viện. Lòng ông bà lúc nào cũng yêu thương anh êm người sắc tộc, không muốn rời bỏ họ chút nào.
Nhưng vì ích lợi chung của nhà Chúa, nên ngày 19 tháng 6 của năm 1960 ông bà đành rời Đà Lạt
xuống Nha Trang hầu việc Chúa tại Thần Học Viện.Tại Thần Học Viện, ông bà hầu việc Chúa trong
nhiều công tác truyền bá Phúc âm,giảng dạy Thánh Kinh và thần học, thảo luận và dự phần vào các
cuộc hội nghị quốc tế vềTin Lành, vào chương trình Nghiên cứu Phúc âm tại quê hương cũng như
tại Âu châu, Mỹ châu, Úc châu và trên hết là Chương trình Cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo
thế giới.
Năm 1970, Mục sư Phạm Văn Năm gởi đơn đến Mục sư Viện trưởng và Ban Giáo sư xin từ chức
Giáo sư tại Thần Học Viện để về Sài Gòn lo Chương trình Chứng đạo Sâu rộng và cũng vì Phòng Ghi
âm cũng đã chuyển về thành phố mà ông là một cộng tác viên mật thiết. Suốt năm năm sau đó
(1970-1975), ông bà có dịp đi đến nhiều Hội Thánh từ miền Nam đến miền Trung cũng như lên
miền cao để thăm viếng và giảng bồi linh. Bà Mục sư còn giúp các bà, các cô thành lập Ban Phụ nữ.
Hầu việc Chúa và rao truyền danh Ngài đối với ông là một ân huệ mà Ngài ban cho ông. Ông đi
đâu cũng rao truyền danh Ngài dù thân thể cường tráng của người truyền đạo ngày xưa đã trở
thành con người mang đầy chứng tích của sức tàn phá kinh khủng bởi vi trùng sốt rét. Nhưng bên
trong con người gầy mòn đó, Chúa Cứu Thế Giê-xu đã sống và hoạt động cứu người và thừa năng
lực để hoàn thành một chức vụ kéo dài đến 55 năm. Lúc còn trẻ, ông từng bị nhiều người chê là
194
không biết ăn nói trước công chúng, nhưng Chúa đã dùng ông, ban phước cho ông. Mục sư Phạm
Văn Năm không bao giờ có thể tưởng tượng ra được là Chúa đã dùng ông để đêm Tin Lành của Ngài
trồng,tưới nhiều nơi, từ thôn làng hẻo lánh đến những xứ sở xa xôi ngoài biên giới.
Biến cố tháng tư 1975 xảy đến, bởi ơn thương xót của Chúa, gia đình của ông bà rời khỏi Việt
Nam đến định cư tại Hoa Kỳ. Sau khi đến Hoa Kỳ, ông bà lại tiếp tục phục vụ Chúa với tinh thần
nóng cháy làm ngạc nhiên và khích lệ rất nhiều thanh niên, thúc giục họ dâng hiến cuộc đời cho
Chúa và thực thi công tác cứu người. Không chỉ góp phần mở mang Hội Thánh Chúa tại Hoa Kỳ và
yểm trợ cho công cuộc truyền bá Phúc âm tại Canađa, mà cả tại nhiều nước. Chỉ trong vòng 15 năm,
ông bà đã đặt gót chân của người truyền bá và huấn luyện Tin Lành đến khắp các nước: Pháp, Ðức,
Bỉ, Hòa Lan, Ðan mạch, Ðông Ðức, Liên xô, Do thái, Ai cập, Úc và cả đất nước Việt Nam mến yêu.
Xuất thân từ gia đình danh giá nhưng Mục sư Phạm Văn Năm đã không hề màng đến công danh
bổng lộc của đời mà quyết dâng trọn cuộc đời cho Chúa. Trong 55 năm phục vụ Chúa với bao thăng
trầm, Ngài đã hoàn thành những công việc lớn lao và kỳ diệu trong và qua đời sống của ông bà. Với
tinh thần “Tôi phải trả nợ yêu thương cho đồng bào”,"Nếu tôi có hai đời sống, tôi cũng sẵn sàng dâng
trọn cho Chúa",Mục sư Phạm Văn Năm đã để lại tấm gương sống bởi đức tin, “chịu khổ như người
lính giỏi” của Chúa Cứu Thế Giê-xu, và người được ơn kêu gọi từ Ðức Chúa Trời.
Từ khi mới tin nhận Chúa cho đến khi ông qua đời, Mục sư luôn thêo đuổi một đam mê: Biết
Chúa và làm cho Ngài được biết nhiều, dầu phải trả bất cứ giá nào. Cái giá mà ông phải trả là sự
nghèo khó, bệnh tật, vợ đau, con chết, thân hình tiều tụy. Năm tháng lo công tác truyền giáo tại vùng
cao, nhiều lần ông bị sốt rét rừng kinh niên hành hạ lại thêm bệnh yếu gan, nhưng ông không hề bỏ
dở công tác Chúa giao cho một giờ phút nào. Bàn chân của nhà truyền đạo không hề mệt mỏi nầy
đã bôn ba trên khắp miền Trung Nam của lãnh thổ Việt Nam để chăm lo cho đời thuộc linh, tất bật
truyền rao ơn cứu rỗi của Chúa cho đồng bào, đêm lại rất nhiều thành quả đáng khích lệ. Ông đã
ghi lại rất cảm động trong hồi ký của mình.
Tận hiến cho Chúa trong công cuộc truyền giáo, có những lúc ông ông phải đối diện với những
thử thách của nghèo đói, cô đơn, bệnh tật. “Nhà thì không có đèn điện hay đèn dầu lửa, chỉ thắp đèn
cầy (nến), mỗi tối thắp lên đủ thời gian để dọn chỗ ngủ vì đèn cầy quá đắt. Nền nhà bằng cát không
tráng xi măng vì vậy bò chét ẩn dưới cát, nhảy vào quần áo, cắn mình mẩy nổi mụt nổi ghẻ khắp nơi.
Ðứa con thứ 3 của chúng tôi bị bò chét cắn nổi ghẻ từ đầu đến chân, phải nằm bệnh viện 10 ngày. Mỗi
đêm trước khi đi ngủ phải thay quần áo khác, thay rồi là không được bước chơn xuống đất, nếu thò
chơn xuống thì bò chét nhảy vào mình, bò đi khắp nơi nhột nhạt khó chịu vô cùng, bắt thì không bắt
được vì nó nhảy lung tung không biết đâu mà bắt. Có khi cố gắng bắt được một con bò chét vừa đưa
ra đèn soi để giết nó thì nó đã nhảy mất. Thật là một tai nạn![23]Song đức tin và tình yêu Chúa vẫn
không vì thế mà kém đi. Trong đời sống phục vụ,ông bà Mục sư Năm, lúc nào cũng sẵn sàng đáp
ứng tiếng gọi của Chúa, tuân theo các quyết định của giáo hội, sống rất thanh liêm, không "dĩ công
vi tư"; luôn giữ chữ tín, giữ lời hứa dầu đối với người sắc tộc đơn sơ cũng vậy.
Trải qua một chặng đường phục vụ khá dài, hy sinh gian khổ, sức khỏe của ông ngày một kém
sức theo thời gian. Đức Chúa Trời biết kẻ Ngài chọn lựa và đẹp ý Ngài nên đến năm 1992,ông được
Chúa gọi về nước Ngài trên trời, để lại cho nhiều người một tấm gương sáng quên mình phục vụ
Chúa và đồng bào cùng tinh thần khiêm nhường, chịu học hỏi,vâng phục giáo hội.
Sau khi ông đã về Nước Chúa, bà dù tuổi đã gần 80 nhưng nhịp độ năng nổ tất bật cho công việc
nhà Chúa nơi bà vẫn không suy giảm. Đặc biệt, bà đã sưu tập những tài liệu ông để lại và in thành
quyển hồi ký “Dâng trọn cuộc đời” ghi lại những ơn phước lớn lao, những việc lạ lùng mà Chúa đã
195
đồng công với đầy tớ Ngài, trải qua 55 năm trong công trường thuộc linh mà bà cho rằng “Chúng
tôi đã trải qua những ngày trời trên đất”[24].
Gương sáng của ông bà Mục sư Phạm Văn Năm sẽ mãi mãi khích lệ những người noi theo dấu
chân ông bà để hầu việc Chúa.
(Ảnh: photos.vnbible.com)
Ông bà Mục sư Phạm Văn Năm và ông bà Mục sư Phạm Xuân Tín.
Hoài Thương – 01.2011
Thành lập Ðoàn Truyền giáo trên miền cao nguyên - Giai đoạn VII
Trích “Hồi ký 55 năm hầu việc Chúa-Dâng trọn cuộc đời”,Chương 12
của ông bà Mục sư Phạm Văn Năm
“… Mỗi khi nhắc đến Hội đồng Truyền giáo lòng chúng tôi bồi hồi xúc động, bởi vì mỗi lần họp
lại thì tất cả đại biểu của các sắc tộc từ các hạt về họp. Vì thế mỗi khi giảng hay thảo luận đều phải
dùng 3 thứ tiếng; nào tiếng Kơho, Rađê, Jơrai; đó là 3 sắc tộc lớn nhứt trên miền Cao Nguyên. Còn
các sắc tộc khác thì những vị Truyền Giáo của họ sẽ ngồi gần họ để thông dịch cho họ. Những sắc
tộc lớn thì phải có 3 người thông dịch. Cho nên giảng bài giảng nửa giờ thành ra 1 giờ rưỡi, nếu cứ
thông dịch từng chi phái thì không đủ thì giờ! Nào chi phái Xơrê, chi phái M'nông, chi phái Rơglai,
Mạ, v.v…
196
Phần chúng tôi ở Ðà Lạt hiệp với 2 cụ Jackson hầu việc Chúa. Mùa nắng thì vào các làng thăm
viếng giảng bồi linh. Mùa mưa thì dạy tại Trường Kinh Thánh; anh em Truyền Ðạo Thượng từ trong
làng ra học. Vì những anh em nầy từ trong rừng ra, từ trước đến giờ chưa biết chữ. Các vị Truyền
giáo và Giáo sĩ phải dạy họ đọc và viết chữ nên họ học rất chậm; có người học xong chương trình
Thần đạo được tốt nghiệp, thời-gian phải 20 năm! Họ chỉ ra trường học vài tháng rồi về làng giảng
dạy, mãn 2 tháng họ lại ra học nữa. Họ học rất ít vì học nhiều họ không nhớ hết. Chúng tôi phải kiên
nhẫn để dạy họ. Sau 20 năm thì có 10 người tốt nghiệp. Cũng có lớp trẻ tiếp nối. Lớp sau nầy học
khá hơn vì họ đã học chữ nơi các trường công lập cũng như tại sở truyền giáo. Tại sở truyền giáo
có mở lớp dạy văn hóa cho các thanh niên. Hiệu trưởng đầu tiên là cô Nguyễn thị Bảy, giáo viên là
bà Nguyễn Hữu Tâm và Cô Ðào thị Phước Ðức, dạy tiếng Việt cho các em thanh thiếu niên Thượng.
Về sau có mở thêm trường Thực Nghiệp, Chẩn Y Viện tại Sở Truyền giáo. Lúc nầy số các Hội Thánh
trong những làng xa được thành lập khá nhiều. Phong trào dạy chữ cho tín hữu trong làng được
các vị truyền đạo hưởng ứng nhiệt liệt. Vì thế nên bà cụ Giáo sĩ Jackson cổ động tiền mua bảng đên,
phấn viết để các vị truyền đạo mỗi tối dạy chữ cho tín hữu. Mỗi Hội Thánh đều nhứt tề làm việc ấy
cách hăng say.Ðồng thời chúng tôi cũng xúc tiến việc dịch toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước ra tiếng
Thượng, nhưng nếu họ không biết đọc chữ thì dịch ra để làm gì? Từ đó các vị chủ tọa Hội Thánh
đều nỗ lực dạy chữ cho tín hữu. Không bao lâu những người trong làng đều biết đọc, biết viết tiếng
thượng theo thổ ngữ của họ mà các vị Giáo sĩ cũng như Mục sư Nguyễn văn Tầm và chúng tôi đã
hiệp nhau đặt chữ cho họ từ trước….
Việc phiên dịch Kinh Thánh Tân Ước thì ủy ban họp lại chia ra cho các vị Truyền Giáo thuộc sắc
tộc Kơho mỗi người vài quyển để dịch. Dịch xong thì có ủy ban duyệt xét lại. Cụ Jackson xem lại
trong bản Kinh Thánh tiếng Hy Lạp, cũng có vài vị Mục sư Thượng trong Ban, vài người Mỹ như cô
Evans, cụ Jackson, phía Việt Nam thì có Mục sư Truyền giáo Trương văn Tốt và tôi, bên người
Thượng thì có ông Ha Sol , K’Sach,Ha Klas Â. v.v... Sự phân chia để dịch như sau đây: Mục sư Trương
văn Tốt dịch sánh Ma-thi-ơ, bà Tốt dịch thơ Phi-líp, Mục sư Chung Khâm Lộc dịch sách Mác, cô
Evans dịch sách Lu-ca, Mục sư Năm dịch thơ Hê-bơ-rơ và Khải Thị, bà Năm dịch 2 thơ Phi-e-rơ,
sách Giăng thì cụ Jackson và Mục sư Nguyễn văn Tầm đã dịch xong mấy năm trước nay chỉ cần
duyệt lại thôi. Còn những sách khác không biết ai dịch tôi không nhớ hết. Sau khi hoàn tất, các sách
đã duyệt xong, cụ Jackson cổ động Thánh Kinh Hội cho in ra 5 ngàn quyển. (đến năm 1973 thì làm
lễ cung hiến tại Trường Kinh Thánh Ðà Lạt. Mục sư Hội Trưởng Ðoàn văn Miêng làm lễ cung hiến
quyển Kinh Thánh tiếng Thượng đầu tiên). Các con cái Chúa vui mừng vô hạn. Họ mua và ngồi nơi
hiên nhà thờ đọc ngay!
Các vị Truyền giáo trên Ban Mê Thuột, Plêiku cũng ráo riết dịch Kinh Thánh Tân Ước trong
tiếng Ra-đê và Jơrai. In cũng rất đẹp. Ủy ban cũng yêu cầu dịch quyển Thánh Ca ít nhứt phải có 250
bài. Trước kia chỉ có vài chục bài ngắn mà thôi. Thánh Ca chia ra mỗi vị Truyền giáo dịch 50 bài.
Phần chúng tôi dịch 100 bài đầu của quyển Thánh Ca tiếng Việt. Chúng tôi cũng soạn bài học về
cuộc đời Chúa Cứu Thế, có hình ảnh cho họ dễ hiểu, gởi vào trong làng cho con cái Chúa đọc. Họ rất
thích.
Năm 1952 Hội Truyền Giáo cất cho chúng tôi một cái nhà 2 tầng, bằng gỗ, lợp tôle, có 4 phòng
ngủ,phòng khách, phòng ăn và nhà bếp, gần bên nhà Giáo sĩ Jackson. Chúng tôi ra khỏi chuồng ngựa,
dọn lên nhà mới. Có lần bà Mục sư Lộc lên thăm chúng tôi, bà nghê nói nơi chúng tôi ở trước kia là
cái chuồng ngựa; bà liền nói chơi một câu khiến bà Mục sư Tín cười lộn ruột. Bà Lộc nói: “Vậy thì
anh chị được giáng sanh trong chuồng ngựa rồi còn gì nữa!” Chúng tôi lên ở nhà mới, còn chuồng
ngựa thì cho nhân viên nhà in ở. Nhà in từ Hà Nội cũng thiên di vào Ðà Lạt năm 1954. Cụ Jean Funé
197
là Giáo sĩ người Pháp, lấy vợ người Ca-na-đa. Cụ làm quản lý nhà in... Cụ Funé có tiếng là khó; thế
nhưng đối với việc Chúa có cần thì cụ sẵn sàng giúp đỡ.Có mấy lần nhà tôi cần đi hầu việc Chúa
trong rừng độ một tuần lễ mà không ai trông coi mấy con tôi. Cụ liền cho một cô làm việc tại nhà in
đến ở nhà chúng tôi lo cơm nước và săn sóc các con tôi, cụ vẫn trả lương cho họ như họ làm cho
nhà in. Nhờ đó chúng tôi được đi vào các làng cách tự do, dễ dàng trong sự hầu việc Chúa. Có lần
kia chúng tôi phải đi thăm một Hội Thánh mới nơi làng Ðạ Tơrbor, vì anh êm Thượng vừa làm xong
con đường tắt từ trên chót núi Hòn giàu để chúng tôi đi ngang qua chót núi mà không phải ngủ đêm
giữa rừng. Chính ông Mục sư Ha Sáu Â, đã cổ võ anh em trong các Hội Thánh vùng đó lo mở con
đường nầy. Họ phải vận động mấy trăm người, đốn cây, cuốc đất, làm rào hai bên, làm những nất
thang từ dưới chơn núi lên đến đỉnh và từ đỉnh xuống rất an toàn. Tính ra họ phải tốn đến 4 ngàn
công để hoàn tất con đường tắt nầy! Khi chúng tôi đi con đường ấy mới thấy công-phu của anh em
con cái Chúa thật là lớn...
Vòng truyền giáo nầy có ông Giáo sĩ Mangham từ Pleiku xuống tháp tùng đi nữa. Ông có đêm
theo máy quay phim, ông quay rất nhiều. Có cụ Funé, cô Giáo sĩ Bowên, cô Evans, cô Holyday,
Truyền giáo Trần văn Sang và chúng tôi cùng các anh êm Thượng dẫn đường,tất cả hơn 30 người!
Sáng sớm chúng tôi dậy lo chất đồ đạc vào gùi cho người thượng mang đi. Từ sở truyền giáo chúng
tôi đi xê hơi chừng 10 cây số thì hết đường xe nên bắt đầu đi bộ. Chúng tôi phải đi bộ 2 ngày rưỡi
mới đến làng Ðạ Blah, là làng quê hương của Mục sư Hà Sáu Â. Một đoàn người đông như vậy mà
chỉ có 2 con ngựa thôi. Vì vậy nên họ nhường cho những người yếu như nhà tôi và các cô Giáo sĩ thì
được cỡi ngựa, còn chúng tôi là nam giới thì đi bộ. Thỉnh thoảng nhà tôi cũng nhường ngựa của nhà
tôi cho tôi cỡi khi đi đường bằng phẳng, còn lên dốc thì nhà tôi phải đi ngựa. Chúng tôi đi rừng lúc
nầy là mùa nắng, nhưng khi gần đến làng thì trời đổ mưa. Chúng tôi không chuẩn bị áo mưa nên tất
cả đều ướt hết, phần đi trong rừng có những cây cối rậm rạp, đang trưa mà khi vào trong rừng thì
cũng tối om, huống chi là trời mưa thì càng tối hơn nữa! Ðường đi trơn trợt, lên dốc xuống đèo, lại
thêm những con vắt gặp trời mưa thì tha hồ bò ra đêo vào chúng tôi, chúng tôi vừa đi vừa gỡ những
con vắt bám vào quần áo,nếu không gở ra nó sẽ bò vào mình hút máu. Các cô Giáo sĩ sợ vắt lắm, họ
cứ dòm tới, dòm lui, ngó qua, ngó lại để tránh vắt! Dầu mưa chúng tôi vẫn không dám ngừng lại, cứ
đi tới. Nhưng khi lên một giốc cao kia mà trời lại mưa to hơn, không thể nào leo giốc được, cả đoàn
đành ngồi lại nghỉ chân một chút, phần đói, phần mệt vì từ sáng đến giờ chưa ăn gì, mưa quá không
thể mở thức ăn ra ăn. Âi nấy đều đói bụng lắm. Chúng tôi ngồi gần với nhau rồi lấy lá chuối rừng
chê lên đầu cho đỡ mưa. Chừng 2 giờ sau, bớt mưa chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Vào đến làng là
hơn 7 giờ tối. Con cái Chúa trông đợi chúng tôi, và họ cầu nguyện cho chúng tôi quá chừng. Họ lo
sợ không biết có gì rủi ro xảy đến cho chúng tôi không, nhứt là trời đổ mưa bất thường như vậy.
Chúng tôi ở lại đây hầu việc Chúa 2 ngày, 2 đêm. Hội Thánh đây lớn và đông người. Chúa ban
phước nhiều. Ðêm đầu tiên cụ Jackson mời nhà tôi giảng cho Hội Thánh Ðạ Blah. Có hơn 200 người
nhóm lại. Chúa ban ơn cho nhà tôi dầu mệt nhưng hễ có dịp tiện hầu việc Chúa thì bà không từ chối.
Nhà tôi giảng về: “Sự đoán xét của Ðức Chúa Trời”.Khi giảng xong mọi người đều đứng lên cầu
nguyện, khóc lóc rất nhiều. Họ leo lên tòa giảng quỳ xung quanh để cầu nguyện, từ già đến trẻ ai
nấy đều ăn năn tội lỗi mình vì nếu Chúa đến hôm nay, hoặc họ qua đời chắc sẽ bị Chúa đoán xét, và
bị Ngài hình phạt. Họ cầu nguyện như vậy hơn 1 tiếng đồng hồ. Vì Thánh Linh đang làm việc nên
chúng tôi không dám bảo họ ngưng. Khi tiếng nức nở chấm dứt,lúc bấy giờ cụ Giáo sĩ Jackson liền
mời ai muốn lên để cụ cầu nguyện cho thì tất cả đều chên nhau bước lên tòa giảng, chật cả trên cả
dưới vì không đủ chỗ.
198
Sau khi hầu việc Chúa ở Ðạ Blah xong, đoàn chúng tôi lên đường đến làng Ðạ Ka (có nghĩa là
nước mắm). Hội Thánh nầy thuộc sắc tộc Tring. Nơi đây ông bà Mục sư Hà Kar là người đầu tiên
đến hầu việc Chúa. Ðường đi vào làng nầy khó và nguy hiểm. Phải leo lên chót núi bằng thang dây
mây. Ông bà Mục sư Hà Kar khi mới vào đây lần đầu tiên đã phải khóc vì đường đi quá khó khăn.
Ông Mục sư Hà Kar phải mang gùi và đêo 2 đứa con, bà Ha Kar cũng mang gùi, mang một đứa con
nhỏ. Thật tội nghiệp!Ông bà biết chi phái nầy ở rất xa, nhưng ông bà tình nguyện muốn đến đó
truyền rao Tin Lành cho họ. Kết quả rất đáng khích lệ; có hơn 300 người tin nhận Chúa tại làng nầy!
Sau nầy họ làm một con đường mới gần dưới chơn núi, dễ đi hơn nhưng hơi xa. (Chúng tôi đi con
đường sau nầy). Khi đến khúc quanh gần con đường cũ thì Mục sư Hà Kar chỉ cho chúng tôi xem
con đường đầy nguy hiểm ấy. Chúng tôi thật cảm phục cho lòng hi sinh của ông bà Mục sư Hà Kar.
Cuộc họp tại đây rất đông người có cả người chưa tin mà Mục sư Ha Kar mời họ đến. Buổi nhóm
có hơn 400 người, phải chia ra 3 chỗ cho 3 thành phần khác nhau. Người lớn tuổi và người già thì
nhóm trong nhà thờ, thanh niên nhóm lộ thiên, các em thiếu nhi nhóm trong một nhà khác. Khi
nhóm bồi linh và truyền giảng tại đây 3 ngày, 4 đêm thì có 5 người tin Chúa! Những người nầy thuộc
chi phái Rơ-glai. Người đã dẫn họ đến nghe giảng là một thầy phù thủy, tên La Yoan. Ông làm thầy
phù thủy mà các con ông chết hết (7 đứa). Sau khi nghe các Mục sư làm chứng về quyền năng cứu
chuộc của Chúa Giê-xu, ông bằng lòng tin Ngài, bỏ tất cả đồ dùng để cúng ma quỷ, nhứt quyết theo Chúa
và rất có đức tin nơi Ngài.Ông đi đâu cũng làm chứng về Chúa, gặp ai ông cũng nói về Chúa cho họ nghe,
nhờ đó nên có nhiều người tin Chúa. Ông liền mời Mục sư Ha Ðời C đến quản nhiệm Hội thánh. Còn
ông sau khi tin Chúa vợ ông sanh con không bị chết nữa! Tạ ơn Chúa….
Chúng tôi ở lại Hội Thánh Ðạ Tơrbor 3 ngày, 3 đêm, cũng vào vài làng khác thăm viếng rồi trở
lại Ðạ Tơrbor để chuẩn bị xuống núi, sẽ đi bè đến Nha Trang. Từ Hội Thánh Ðạ Tơrbor chúng tôi
phải đi hai ngày nữa mới qua khỏi những núi cao trùng điệp. Khi đến một chỗ kia là một khu rừng
rậm trước mặt thì núi cao và dốc đứng mọi người đều phải nắm những rễ cây đi từ bước một leo lên.
Phần tôi thì Mục sư Ha Kar cầm cây gậy thòng xuống, tôi nắm lấy cây gậy rồi ông kéo tôi lên, có một
anh em ở phía sau đẩy tôi lên. Còn nhà tôi thì cũng có vài anh êm giúp đỡ kéo lên. Nhưng khi nhà tôi
lên được trên núi thì mệt quá, mắt đổ hào quang, bà phải nằm xuống đất chừng 20 phút mới khỏe lại,
và cũng từ đó nhà tôi bị yếu tim, hay hồi hộp. Cám ơn Chúa không có ai bị nguy hiểm gì. Nhưng khi
đến trên chót núi rồi mới thấy phong cảnh thật là đẹp! Trên núi toàn là cát trắng,có những hàng cây
thông rất xanh tươi đều đặn dường như có ai chăm sóc, sửa sang như một vườn thông có chủ. Cũng
có các loại cây khác rất đẹp, những hoa lan rừng mà bên Mỹ rất đắt tiền thì trên chót núi nầy lại nhiều
vô số. Họ bẻ và ôm cả ôm xuống núi. Một Giáo sĩ mới đi rừng lần đầu tiên ông thấy các loại hoa lan
ông nói rằng: “Bên Mỹ một cánh lan là một đô-la!” Thật Chúa dựng nên mọi vật rất đẹp. Ðối với người
Thượng, họ không cần mua một xu nào cũng có rất nhiều thứ mà ở các nước văn minh xêm là quý
giá. Ðoàn ở nơi đây chừng vài tiếng đồng hồ thì phải đi nữa, phải qua bên kia núi mới đến bờ suối.
Ðoàn đi gần nửa ngày mới đến chơn núi. Khi xuống đến nơi thấy có dòng suối chảy xuống Nha
Trang, nước trong vắt, dòm thấy cá lội nhởn nhơ trong dòng suối. Ðến nơi chúng tôi đã thấy 9 chiếc
bè kết bằng trê để sẵn từ bao giờ. Mỗi chiếc bè chừng 40 cây tre lớn và dài, kết thật chắc bằng dây
mây. Chúng tôi chia nhau xuống bè, mỗi bè 4 người với đồ đạc và 2 người chống bè. Những người
nầy phải là người thạo việc đi đường thủy,nếu không biết cách, không biết đường thì dễ chết như
chơi. Họ phải là người có kinh nghiệm lâu năm trong việc nầy, vì phải qua gành, qua thác biết nơi
nào nguy hiểm để tránh. Họ giống như tài xế xê hơi vậy. Từ trên núi xuống Nha Trang phải mất 2
ngày đường, ngủ một đêm dựa bên mé suối lại phải qua 13 thác nước,có chỗ thấp thì bè qua dễ,
nhưng với những thác cao độ hai thước rưỡi tây thì thật là nguy, vì bè ở ngay dòng nước chảy xiết
199