The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Thương Về Quảng Trị- Triệu Dương- Nguyễn Lý Tưởng

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2023-05-22 21:48:55

Thương Về Quảng Trị- Triệu Dương- Nguyễn Lý Tưởng

Thương Về Quảng Trị- Triệu Dương- Nguyễn Lý Tưởng

50 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Cây mít cha trồng, Cho con ăn quả. Mẹ ơi ! Mẹ góa ! Mẹ ơi ! Mẹ già ! Một đàn quạ réo bên sông, Quê hương chinh chiến, ruộng đồng bỏ hoang. Ra đi, vừa độ hè sang, Quạ kêu, mít chín, hai hàng lệ rơi. Cây mít con trồng, Mít đã ra hoa. Ra đi, bỏ mẹ ở nhà, Gối nghiêng ai sửa ? chén trà ai bưng ? 1975 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 51 RA ĐI (Từ giã mẹ vào Nam, 1958) Đi cho biết đó, biết đây, Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn. Miền Trung, nhớ nắng Sài gòn, Sài gòn, nhớ sóng mắt buồn người thương. Mùa thu, lá rụng đầy đường, Tôi đi để lá vàng tương tư nhiều. Sông Hương, núi Ngự diễm kiều, Thành xưa, lối cũ, tên nêu bảng vàng. Đường vô trong Nội thênh thang, Ngự viên, công chúa đợi chàng thám hoa. Tôi về gối mộng Nam Kha, Áo điều, võng tía có ta với nàng. Có quân, có lính sẵn sàng, Trống, chiêng, cờ, quạt lọng tàn rước đi. Học trò trong Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế, bước đi không đành. Môi hường, mắt đẹp nguyên trinh, Qua đường cũng đứng lại nhìn, rồi thôi. Mẹ tôi, chỉ có mình tôi, Mẹ thương, mẹ nhớ, mẹ ngồi trông con. Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Con tàu đã tới sân ga, Tàu chưa chuyển bánh, đợi ta theo cùng. Tàu đi qua mấy dòng sông, Qua bao nhiêu núi, ruộng đồng... xuôi Nam. Thương cha, nhớ mẹ vô vàn, Dù cho bao dặm quan san chẳng nề. 1958 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


52 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng CHỜ MONG Mênh mông, biển rộng, sông dài, Đồi hoang, cồn cát, lạc loài mình tôi. Nước non rày đã đổi dời, Bồng lai, một áng mây trôi lạnh lùng. Bướm vàng trông gió mùa Xuân, Phòng thơ còn đó, người không thấy về. Gót giày phiêu bạt sơn khê, Đêm đêm đốt nến, nằm nghe gió sầu. Gối mền, lạnh suốt canh thâu, Liêu Trai, cổ sử, truyện tàu... làm khuây. Trải qua khắp nước non này, Khói mờ ải Bắc, lửa đầy thành Nam. 11, 1963 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 53 PHƯỢNG HÈ Nếp nhà: thư, kiếm, lư, đăng, Chí trai tợ cánh chim bằng bay cao. Nước nguồn dâng, rộn sóng triều, Biển hồ lênh láng, bờ yêu dạt dào. Vầng trăng khuyết, dĩa dầu hao, Đêm qua thức trắng, nghẹn ngào suốt đêm. Thư này, anh viết cho em, Con tim máu chảy, ruột mềm nhớ thương. Biết bao mắt đẹp môi hường, Mà anh chỉ biết vấn vương một nàng. Tình chung hai chữ đá vàng, Dù cho mấy dặm quan san chẳng sờn. Còn trời, còn nước, còn non, Còn cung đất đỏ, anh còn vô ra. Đường ra xứ Huế bao xa, Con đò Thừa Phủ mặn mà tình quê. Nón che nửa mái tóc thề, Lưng thon, áo trắng, rong xe qua cầu. Chiều tà trên bến Văn Lâu, Câu hò mái đẩy, điệu sầu Nam Ai. Anh đi qua quãng đường dài, Bao nhiêu kỷ niệm những ngày mộng mơ. Anh đi, để Huế mong chờ, Huế ơi, Huế hỡi, Huế chờ mong ai ? 19 tháng 4, 1969 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


54 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng LỜI CHIM NHỎ Kìa con chim nhỏ, Kêu tiếng thật dài, Trong ánh nắng mai, Phượng hè nở rộ. Kìa con chim nhỏ, Ngước mắt nhìn trời, Vỗ cánh tập bay, Cành cao ái ngại. Mỗi sáng thức dậy, Nhìn chim, chim bay. Chiều lên, trăng đầy, Đàn chim ngủ say. Mùa mưa đến rồi, Suốt đêm mưa gội. Kìa con chim nhỏ, Rét lạnh tả tơi. Mùa mưa đến rồi, Gió lạnh khung trời. Kìa con chim nhỏ, Buồn gọi ba ơi ! Mẹ chim vất vả, Nuôi con, tìm mồi. Suốt đêm không ngủ, Mẹ chim ru hời: Núi cao chi lắm núi ơi ! Núi che mặt trời, Không thấy người thương. 1976 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 55 NIỀM TIN CỦA MẸ Con chờ mẹ tuổi tám mươi, Để cho con đến bên người ngày xuân. Nhưng đời mẹ lắm gian truân, Con đi “cải tạo” cũng gần ba năm. Trải qua những mấy tuần trăng, Bao phen lá rụng, bên song đợi chờ. Trông lên mái tóc bạc phơ, Nuôi con khôn lớn, nào nhờ chi con. Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Mẹ nuôi con tuổi còn thơ, Cái cò lặn lội bên bờ sông Dương. Bình minh còn nắng lên hường, Con tim của mẹ còn thương nhớ hoài. Ca dao mẹ hát à ơi ! Đêm hè lộng gió, mẹ ngồi ru con. Trong vườn, tiếng dế nỉ non, Canh khuya thanh vắng, thả hồn bay cao. Trên trời có mấy ông sao, Ước mơ của mẹ, như sao trên trời. Đồng quê lúa tốt bời bời, Nuôi con của mẹ nên người lớn khôn. Lên năm cha đã không còn, Cảnh nhà một mẹ, một con ngậm ngùi.


56 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Sinh con ngoài tuổi bốn mươi, Đợi con ngoài tuổi tám mươi chưa về. Mẹ ơi ! Con biết nói gì, Làm con bất hiếu, não nề thân con. Kiến leo cột sắt sao mòn, Tò vò xây tổ sao tròn mà xây. Nuôi con từ thuở thơ ngây, Bây giờ con một, cháu bầy yên vui. Miềm tin của mẹ sáng ngời, Đêm đêm mẹ vẫn trông trời, trông con. 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 57 CON NHỚ MẸ (Được tin mẹ qua đời ngày 30/10/85 tức 17/9 Ất Sửu lúc 10 giờ 24, tôi cùng bạn bè họp nhau tại trại Nam Hà để tưởng niệm mẹ vào hôm 31/12/1985) Ngước mặt nhìn Trường Sơn, Tựa lưng ra Đông Hải. Ôi ! Núi cao vời vợi ! Ôi ! Biển rộng bao la ! Địa linh chốn quê nhà, Nơi mẹ hiền sinh ra. Hài nhi con ơi ! Con lớn khôn nhờ sữa mẹ. Mẹ ơi ! Mẹ ơi ! Con nhớ mẹ ngàn đời ! Lời mẹ hát bên nôi, Khi nắng ban mai, Luồn qua song cửa. Mẹ thương con, Từng hơi thở, Từng nhịp đập của con tim. Ánh trăng giãi bên thềm, Gió lành hôn mái tóc. Con bước vào tuổi ngọc. Mẹ dạy con nói, Mẹ dìu con đi. Cơm lành, canh ngọt, Vải vóc, lụa là...


58 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Mẹ cho con đi học trường xa. Lòng mẹ những xót xa, Thương con mồ côi, Từ khi lên sáu tuổi. Mỗi sáng, mỗi tối, Mẹ những cầu xin. Nhưng, Nước mắt không xóa nỗi ưu phiền. Mẹ thức suốt đêm, Vì con bệnh hoạn. Tám lần sinh con, Nay còn một đứa ! Mẹ sầu, mẹ khổ Suốt cả cuộc đời ! Hài nhi con ơi ! Con nhờ “Đức” mẹ. Ngày con ra đi, Là ngày phân ly ! ! ! Mẹ chờ con, từng năm, từng tháng, Mẹ nhớ con, từng phút, từng giây. Hơn mười năm nay, Mỗi lần Tết đến, Bao lời hứa hẹn, Xuân nay con mẹ sẽ về !


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 59 Vườn nhà cây trổ lộc, Mai vàng vẫn nở bông. Vẫn ánh nắng hồng, Vẫn bóng trăng trong. Trẻ thơ vẫn thấy rạo rực trong lòng. Hài nhi con ơi ! Mẹ nhớ, mẹ mong ! Sông kia, nước chảy xuôi dòng, Hoa kia, vẫn nở nụ hồng thắm tươi. Trông con, trông mãi, trông hoài. Nay hết số trời, mẹ rời con đi. Hài nhi ơi ! Hỡi hài nhi ! Thiên đàng quê thật, sá gì trần gian. Xa con, mẹ chết ai chôn ? Tuổi già đau yếu, lo buồn có ai ? Đưa con qua quãng đường dài, Gông cùm, tù tội, đọa đày tháng năm. Mười năm, đã quá mười năm, Xót xa nhớ mẹ, đêm nằm không yên. Nhắm mắt, thấy bóng mẹ hiền, Con ôm mẹ khóc, muộn phiền dâng cao. Nước mắt nhớ mẹ tuôn trào, Trông ra đêm tối, trăng sao đầy trời. Làm sao cho lệ đầy vơi, Làm sao cho nước biển khơi cạn dần. Mẹ ơi ! trên chốn thiên đàng, Nhìn con của mẹ, trần gian mơ về. 31 tháng 12, 1985 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


60 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng MẸ ĐẾN VỚI CON Kỷ niệm 100 ngày giỗ mẹ. Đêm qua, mẹ đến với con, Con ôm lấy mẹ cho tròn giấc mơ. Đường làng, cát trắng như xưa, Gót hài nhỏ bé, con vừa đi qua. Dòng sông, cồn cát xa xa, Thánh đường vang vọng lời ca nguyện cầu. Tiếng chim cà cưỡng trên cao, Tổ chim xưa đó, cây cau trước nhà. Mẫu đơn rày vẫn ra hoa, Tường vi mấy đóa, mặn mà tình thương. Trước mặt là dãy Trường Sơn, Sau lưng Đông Hải, sóng dồn ra xa. Mẹ sinh con vốn mộng mơ, Con tim rung động, câu thơ gieo vần. Bài thơ dâng mẹ ân cần, Công ơn trời biển, muôn phần khắc ghi. Mẹ ơi ! Con biết nói gì ? Giờ đây mẹ đã ra đi cuối trời. Con giờ trọn kiếp mồ côi, Con giờ vẫn kiếp nổi trôi quê người. Mẹ cha rày ở trên trời, Thân con vẫn sống những nơi đọa đày. Tay dài, con nắm lấy tay, Bàn tay của mẹ, bàn tay mong chờ. Đến với con trong giấc mơ, Mẹ ơi ! Hãy đến, đừng chờ đợi chi. 7 tháng 2, 1986 (Nằm ngủ mơ thấy được gặp mẹ) Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 61 ĐẾN BAO GIỜ Buổi chiều giờ điểm số (1), Tôi đứng lặng nhìn trời. Trời hôm nay ảm đạm, Những cánh chim không bay. Các con của tôi ơi ! Các con đang nói, cười, Các con đang học bài... Cho tôi tay vươn dài, Nối bàn tay thơ ngây. Vợ hiền thân vóc hạc, Vai mang nặng tình đầy. Mẹ già tóc đã bạc, Xương mai cũng hao gầy ! Cho tôi nghe tiếng sấm, Giữa mùa Xuân cấy cày. Cho tôi mưa mùa Hạ, Ngập tràn trên cỏ cây. Cho tôi vừng trăng tỏ, Khi mùa Thu mây bay. Cho tôi ánh nắng hồng, Giữa mùa Đông heo may.


62 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Bướm vàng tung đôi cánh, Vườn nhà trái cây đầy. Quả na như ngơ ngác, Mở mắt nhìn ai đây ? Mẹ già tay chống gậy, Lắng nghe tiếng chân giày. Người đi qua trước ngõ, Mùa Xuân đến rồi đây... Mùa Xuân rền pháo nổ, Mùa Xuân vui đoàn tụ, Mùa Xuân đời tự do. Ôi ! Biết đến bao giờ ? 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng 1. Trong nhà tù, lúc 6 giờ chiều là giờ điểm số, công an kiểm tra lại cho đủ số người để khóa cửa nhà giam.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 63 QUỐC KÊU Quốc kêu, khắc khoải thâu đêm, Hạt mưa rả rích, cành mềm mái tây. Ngọn đèn hiu hắt gió lay, Thân anh trong cảnh đọa đày, nhớ em. Niềm đau, nhức nhối con tim, Nghe như dĩ vãng đi tìm vần thơ. Biết bao năm tháng đợi chờ, Cung đàn biếng gảy, dây tơ đã chùng. Tiếng đồn áo lụa Hà Đông, Sông Đà chảy mãi một dòng trăng sao. Gặp em, kể những năm nào, Anh nào mơ ước hôm nào ra thăm. Ươm tơ là kiếp con tằm, Đời anh vẫn kiếp con tằm ươm tơ. Anh còn cầm bút làm thơ, Con đường hy vọng, thời cơ đến rồi. Em ơi ! Hãy nở nụ cười, Cùng nhau xây lại cuộc đời thắm tươi. 8 tháng 9, 1982 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


64 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng NIỀM TIN CAO VÚT Thăm thẳm màn trời, đêm xuống sâu, Cuối năm, mưa lạnh, dạ thêm sầu. Giang sơn nửa chiếu, trùm chăn kỹ, Ta nhớ, ngày xưa ta có nhau. Giao thừa đến giữa giấc cô miên, Đốt nén hương lòng, nhớ tổ tiên. Nước mắt chảy xuôi, tình mẫu tử, Bao năm chưa hết nỗi ưu phiền. Xa cách Bắc, Nam, nghĩa đá vàng, Công em nuôi mẹ, dạy con ngoan. Riêng anh, biết lấy gì đền đáp, Đừng tưởng công em, công dã tràng. Đôi chân mềm yếu, dáng em cao, Đi giữa mùa Xuân, lòng tự hào. Bão táp làm sao lay chuyển được, Niềm tin cao vút cõi trăng sao. Xuân 1979 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 65 CHỚP BỂ MƯA NGUỒN Kỷ niệm ngày sinh Hương Anh Đêm qua, chớp bể, mưa nguồn, Đi vào lòng mẹ, nỗi buồn xót xa. Bao năm “cải tạo” xa nhà, Các con thơ dại, đàn gà chít chiu. Miền Nam nắng sớm, mưa chiều, Ôi ! Tình phụ tử nâng niu những ngày. Mười lăm tháng sáu chia tay, Mười lăm tháng sáu là ngày sinh con. Tuổi con vừa chín năm tròn, Tào khê nước chảy, hãy còn trơ trơ. Tình buồn con nhện giăng tơ, Nhện ơi ! Nhện hỡi ! Nhện chờ mong ai ? Canh khuya, tiếng mẹ ru hời, Mẹ ru con ngủ, mẹ ngồi ru con. Còn trời, còn nước, còn non, Cha con nghĩa nặng, hãy còn tình thương. 15 tháng 6, 1979 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


66 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng GỞI CHO CON (Được tin Hương Anh là học sinh giỏi) Mười một năm tròn, con của ba, Văn chương nổi tiếng trẻ tài hoa. Xa cha, có mẹ, lo đèn sách, Gần bạn, nhờ thầy, dệt gấm hoa. Thi lễ truyền gia, nhờ đất tổ, Địa linh, nhân kiệt, vốn quê nhà. Khuyên con hôm sớm đường nhân đức, Danh vọng trần gian chỉ thoáng qua. 6, 1981 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng TỰU TRƯỜNG À ơi mẹ hát ru con, Những đêm trăng sáng, trăng tròn mùa thu. Quê ta xứ mộng, xứ mơ, Sông Hương, núi Ngự, bài thơ tâm tình. Trường Tiền mấy nhịp cầu xinh, Con đò Vỹ Dạ, in hình trong sương. Đơn sơ áo trắng, môi hường, Những cô con gái đến trường mùa thu. Heo may gió lạnh, sương mù, Bao nhiêu xác lá vàng khô trên đường. Tâm hồn thi sĩ vấn vương, Bài thơ dệt khúc yêu thương dạt dào. 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 67 QUÊ HƯƠNG Kỷ niệm ngày sinh Phương Lan Chẳng thơm cũng thể bạch đàn, Chẳng trong cũng thể đá hàn chảy ra (1). Mùa Xuân, Mai lĩnh nở hoa, Nắng hè cho trái dưa qua ruột hồng. Làng ta ở cạnh bờ sông, Phù sa bồi đắp một dòng phì nhiêu. Đò ngang đỗ bến cuối chiều, Xôn xao con nước thủy triều theo trăng. Tre già, tre lại mọc măng, Trai thanh gái lịch đâu bằng thôn Dương. Người đi xuôi ngược trên đường, Gặp em gánh nước mà thương gánh đầy. Nắng mưa, năm tháng dạn dầy, Đường vô Dương Lệ, chia tay xóm chùa. Đợi em cho tới mùa thu, Trăng rằm mở hội, anh đùa một câu. Phải duyên, xin nhận trầu cau, Ta nên chồng vợ, bên nhau suốt đời. Chiều Đông, cánh én chơi vơi, Đến khi giáp hạt, vỏ khoai đầy đồng. Nắng Xuân, cây lúa trổ bông, Hương xoan thơm ngát, chờ mong dạt dào. Bãi xa, rừng bắp phơi mao, Mãng cầu sai trái, mận đào trĩu cây.


68 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Hai tay bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần. Nắng hè, bắp lúa đầy sân, Tiếng chày giã gạo, nghe gần bên tai. Xóm làng, vui rộn tiếng cười, Bát cơm gạo mới, sáng ngời tình quê. Võng đưa kẽo kẹt, đêm hè, Mẹ ôm con ngủ, canh khuya ru hời: “Đường quan vừa rộng, vừa dài, Mặc lòng ông ký, ông cai đi về”. 30 tháng 3, 1982 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng 1. Ca dao địa phương, Đá Hàn là tên của làng Thạch Hãn, nghĩa là nước từ trong đá chảy ra rất trong.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 69 VỀ THĂNG LONG Từ Miền Nam chuyển ra Bắc ngày 11/8/76 Long Thành bỗng thấy rồng bay (1), Mười bốn tháng bảy, còng tay lên đường. Đi đâu cũng đất quê hương, Tới đâu cũng chốn đoạn trường, thế thôi. Trăng thu vằng vặc bên trời, Bốn mươi “cải tạo” cùng ngồi một xe. Nói rằng một tháng thì về, Một năm ba tháng, còn chê chưa vừa ! N.V 16 ai ngờ, Qua rằm tháng bảy, ngồi chờ sân bay. Sàigòn năm ngoái chia tay, Gió trăng man mác, nước mây gợi buồn. Đường qua nhà cũ Cầu Sơn, Chỉ trong gang tấc, dặm ngàn cách xa. Con thơ nào thấy mặt cha, Vợ hiền gối chiếc, mẹ già đèn chong. Trông ra đêm tối mịt mùng, Nghe cơn gió thoảng, cầu mong con về. Một phen cỡi phượng ra đi, Mây che mặt đất, thấy gì nữa đâu ? Đường này ra tới Cà Mâu, Hay ra Phú Quốc ? Không, tàu ra Trung. Nước non đồi núi chập chùng, Đây miền Phú Khánh, kia con sông Hàn. Sóng vờn chân núi Hải Vân, Đường ra xứ Huế cũng gần quê ta.


70 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Nước non, vẫn nước non nhà, Vì không đi lại nên ra ngại ngùng. Long Thành, bỗng thấy Thăng Long, Quê hương đất nước anh hùng ngàn xưa. Mến thương biết mấy cho vừa, Hồ gươm xanh biếc bóng dừa miền Nam. Hòa bình thống nhất giang san, Thuyền rồng lại gặp rùa vàng, kiếm thiêng. Nắng vàng, theo gió vàng lên, Gia Lâm về ngã Long Biên qua cầu. Nước sông lai láng đục ngầu, Tình quê theo tiếng còi tàu xa xa. 11 tháng 8, 1976 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng 1. - 14 tháng 7 âm lịch tức 9/8/76 từ Long Thành đi Thủ Đức. - 16 th 7 âm lịch tức 11/8/76 đi Hà Nội. - N.V.15 là trại cải tạo Long Thành tỉnh Đồng Nai. - N.V.16 là trại Thủ Đức. - Rồng bay: máy bay chở tù ra Bắc.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 71 LOÀI CHIM BÁO TIN MỪNG Kính tặng chị Mẹ yêu loài chim nhỏ, Loài chim thường làm tổ, Trên đảo, ngoài biển Đông. Loài chim báo tin mừng, Khi nắng ấm mùa Xuân. Mẹ đặt tên cho con, Một loài chim én trắng. Vào một buổi sáng, Nghe tiếng gọi đàn, Chim bỗng bay đi, Trong trời biển rộng, Trong vùng nắng ấm, Bốn mùa là mùa Xuân ! Con chim nhỏ lạnh lùng, Trong bão tuyết mùa Đông. Chị ơi ! Chim én trắng, Loài chim của mùa Xuân ! Chị ơi ! Chim én trắng, Loài chim báo tin mừng ! Hỏa lò mùa Đông 1979 Tình nghĩa đá vàng Con chim bắt sâu, Thân hình nho nhỏ, Sà xuống vườn rau, Vừa đi, vừa mổ.


72 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Này chim bắt sâu, Đến bên cửa sổ. Ta lượm cơm rơi, Dành cho chim đó. Đông Xuân rét lạnh, Lúa chẳng trổ bông. Thời tiết trái mùa, Nắng vàng, gió lộng. Thóc gạo hết rồi, Chỉ có ngô thôi. Người người kêu đói, Đâu còn cơm rơi. Con chim bắt sâu, Suốt buổi đi tìm. Người không có ăn, Có đâu cho chim. Đây hạt ngô vàng, Dành cho chim đó. Tình nghĩa đá vàng, Ôi ! Loài chim nhỏ. Hè 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 73 NHỚ TẾT Nghe gió Xuân về, nghe Tết đến, Lòng tôi bỗng nhớ mỗi Xuân sang. Mẹ tôi bán lợn, mua áo mới, Chung bánh chưng xanh với xóm làng. Cha tôi mất sớm, nhà đơn chiếc, Một mẹ, một con, cũng nhẹ nhàng. Mẹ tôi tần tảo ngày hai buổi, Dành dụm cho con học ở làng. Cháo nóng húp quanh, nợ trả dần, Nợ mòn, con lớn, nghiệp văn nhân. Tôi ra thành phố lo đèn sách, Mẹ ở quê nhà có một thân. Mùa Đông rét mướt, tường rêu phong, Mong mãi mùa Xuân, ánh nắng hồng. Ong bướm còn chờ hoa hé nụ, Đò ngang còn đợi khách sang sông. Mỗi năm vui Tết với quê hương, Bên mẹ, ngày xuân thật dịu dàng. Tuổi trẻ yêu đời, bao kỷ niệm, Lòng tràn Xuân mới, mộng muôn phương. 1, 1977 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


74 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng HÈ Tặng các con bé nhỏ của tôi Con chim chích chòe, Làm tổ đầu hè. Sớm mai thức dậy, Chim hót hay ghê. Con chim chích chòe, Làm tổ đầu hè. Em nghe chim hót, Lòng em vui ghê. Nhà em nho nhỏ, Khuất sau lũy tre. Mỗi năm đến hè, Em về thăm quê. Quê em ruộng lúa, Chín ngập bờ đê. Tiếng chim tu hú, Mùa gặt đã về. Ánh nắng thủy tinh, Luồn qua song cửa. Quạ kêu mít chín, Trời nắng tốt dưa. Ra sông tắm mát, Cùng nhau nô đùa.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 75 Một mai thức dậy, Sương trắng cỏ cây. Nghe trời đổi gió, Thu đến rồi đây. Từ giã quê hương, Em trở lại trường. Chín mươi ngày qua, Biết bao tình thương. 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng ĐÊM GIÁNG SINH Đêm thanh khúc hát thiên thần, Vinh danh Thiên Chúa, lương dân an hòa. Bê-lem, sao lạ chói lòa, Ngôi Hai Thiên Chúa, thương ta, làm người. Chiên lừa bên máng, ấm hơi, Mục đồng thức dậy, tới nơi tôn thờ. Hài Nhi bé mọn đơn sơ, Cung đàn êm ái, lời thơ Mẹ mừng. Đêm đông sương tuyết lạnh lùng, Nghe như muôn tiếng tơ lòng rung tơ. Đêm nay nhắc lại đêm xưa, Hồng ân cứu chuộc, chan hòa nhân gian. 1981 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


76 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng TRUNG THU Giấy màu, mẹ kết đèn sao, Mẹ mua bánh nướng, đêm nao trăng tròn. Nồi chè mẹ nấu thật ngon, Mẹ ngồi kể chuyện vui buồn Hằng Nga. Thằng cuội ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa, gọi cha ời ời ! Cha tôi xa vắng lâu rồi, Đêm đêm ra đứng nhìn trời, lệ rơi. Xa xôi đi chẳng tới nơi, Gởi thơ e chậm, gởi lời e quên. Cầu xin cho mẹ bình yên, Cho con khôn lớn, chóng nên thân người. Trung thu trăng sáng đầy trời, Mẹ con ta lại ra ngồi nhìn trăng. 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng QUẢ NA Miền Bắc thường gọi quả na, Ngoài da cóc, trong ngọc ngà, đố em ? Mùa thu, trái chín gợi thèm, Sáng ra em hái, em đem về nhà. Ăn trái ngọt, nhớ ơn Ba, Em càng chăm học, mới là bé ngoan. 1978 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 77 CHỨNG NHÂN Kỷ niệm ngày 8/1/81, bị cùm trong nhà kỷ luật vì hát thánh ca. Nơi tôi ở, Ngày không có mặt trời, Đêm không có mặt trăng. Mùa Hè là hỏa ngục, Mùa Đông là giá băng. Chân tôi mang xiềng xích, Tôi nằm cạnh đống phân. Tai tôi nghe tiếng hát thiên thần, Từ trời cao vọng đến, Trong một đêm huyền diệu: “Vinh danh Chúa Cả trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Bà mẹ góa Na-Im, Mười người cùi phong hủi, Người mù lòa rách rưới, Trước cửa thành Giê-ri-cô: “Lạy Đức Ki-tô, Xin thương xót tôi”.


78 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Tay cầm cành thiên tuế, Chân bước hiên ngang. Các anh hùng tử đạo Việt Nam, Tổ tiên tôi đã chết, Để làm chứng về Người. Cho tôi mặc áo trắng, Làm công dân nước Trời. Cho tôi không sợ chết, Để ca tụng danh Ngời. Cho tôi xin Đức Tin, Để được sống đời đời. 1981 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 79 CHUYỆN BÀ RUTH Người thiếu phụ tuổi còn non trẻ, Theo mẹ chồng vì lẽ hiếu trung. Tha hương về đất cha ông, Con thơ chưa có, tay không nuôi già. Ngày mùa hạ, chan hòa nắng ấm, Thợ gặt đều lấm tấm mồ hôi. Nàng đi theo nhặt lúa rơi, Đem về nuôi mẹ tuổi đời đã cao. Qua đêm tối, trăng sao lấp lánh, Nàng đi vào lối chính sân phơi... Từ nay thôi nhặt lúa rơi, Chính ông chủ ruộng kêu mời nàng đây. Lúa tốt gié vào tay quả phụ, Giúp cho nàng no đủ cả nhà. Tầng trời như đã mở ra, Thiên thần cất tiếng hát ca vang lừng. Ông chủ Booth yêu thương bà Ruth, Cuộc hôn nhân, thật tốt, thật lành. Bà sinh dòng dõi anh quân, Bởi dòng Đa-vít, giáng sinh Ngôi Trời. Bê-lem sao lạ sáng ngời, Trong đêm lạnh giá, Ngôi Hai xuống trần. Trên trời, Chúa Cả vinh danh, Bình an dưới thế, người lành chúng nhân. Đón Noel 23 tháng 12, 1993 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


80 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng QUA CƠN ÁC MỘNG Kỷ niệm một năm sum họp với gia đình 1988-1989 Hoa quỳnh nở rộ giữa đêm khuya, Cung nữ theo xe Vương đế Tùy. Sông nước Vận Hà ngời sóng bạc, Một vừng trăng sáng núi bên kia. Trên núi, trích tiên dở cuộc cờ, Trong tù, thi sĩ lựa vần thơ. Ngắm trăng chờ đón hoa quỳnh nở, Cố sự phai mờ sử sách xưa ! Trả lại trăng rằm mặc gió lay, Trả rừng thu lạnh mây giăng đầy. Trả miền đồi núi cho thần chết, Trả lại đau thương với đọa đày. Lồng lộng trời xanh, đêm lạnh giá, Con tàu chuyển bánh tới sân ga. Mười mấy năm qua, cơn ác mộng, Tang thương phủ lấy cả quê nhà. Muôn đặm mây hồng, trời sáng trong, Hân hoan như mở cả tấm lòng. Ta về quê cũ đêm trừ tịch, Tổ ấm gia đình bao ước mong.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 81 Trải bao năm tháng mẹ trông con, Ôm hận nghìn thu dưới suối vàng. Một nấm mồ hoang vùng đất lạnh, Hẹn con gặp mẹ chốn thiên đàng. Tạ ơn Thượng Đế, nhớ ơn đời, Giữa chốn phong trần, kiếp nổi trôi. Gìn giữ gia đình trung hiếu trọn, Hân hoan cùng hướng đến tương lai. Đêm 30 tháng Chạp Mậu Thìn 1988 đón Xuân Kỷ Tỵ 1989 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


82 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng CHUYỆN MỘT DÒNG SÔNG Quê mẹ đồng bằng chín cửa sông, Đại An, Cửa Tiểu, Cửa Hàm Luông, Ba Lai, Ba Sắc, Cung Hầu đó, Lúa gạo dư thừa, chẳng uổng công. Tranh Đế, Định An, Cửa Cổ Chiên, Hậu Giang cho đến miệt sông Tiền. Dừa xanh soi bóng bên dòng nước, Ngày ấy gia đình cảnh ấm êm. Bốn mùa gió mát, ánh trăng thanh, Trai gái cùng xây đắp mộng lành. Quê mẹ hiền hòa bao kỷ niệm, Nào ai nghĩ đến chuyện công danh. Mười mẫu vườn, quê mẹ tốt tươi, Dành cho con cháu đến muôn đời. Ai ngờ một sớm trời mưa gió, Quân giặc vào đây cướp sạch rồi. Đứa con của mẹ máu anh hùng, Gặp cảnh bất bình chẳng chịu dung. Cùm kẹp chúng bày trò áp bức, Vận đen dẫn đến chốn lao lung.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 83 Thế rồi con mẹ phải ra đi, Biền biệt mười năm chẳng thấy gì. Cảnh lạ quê người”tù cải tạo”, Trời ơi ! Con mẹ tội tình chi ? Xẻ núi, băng rừng, kiếp ngựa trâu, Hết đi cày ruộng lại trồng rau. Thợ nề, thợ mộc, không giờ nghỉ, Lò ngói, lò vôi, thân giãi dầu. Cái rét kinh người có sá chi, Áo quần rách rưới, lũ chim di... Chân không dày dép, đầu không nón, Gánh nặng trên vai, vẫn bước đi ! Mùa hè nắng cháy bỏng da người, Lên núi, xuống đồng chẳng thảnh thơi. Trồng cói, sục bùn: trâu lội nước, Mùi phân, nước tiểu, quá tanh hôi. Biết bao năm tháng mẹ mong chờ, Một mái tranh nghèo cảnh xác xơ. Nước mắt chan hòa, sầu đứt ruột, Căm hờn mẹ dệt một bài thơ.


84 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Chuyến tàu thống nhất Bắc vô Nam, Mơ ước ngày về thật vẻ vang. Con mẹ, trời cho còn khỏe mạnh, Nụ cười ngạo nghễ, bước hiên ngang. Vườn nhà không một bóng người quen, Nào thấy đâu đây dáng mẹ hiền. Lối cũ, đường xưa nay khác lạ, Cô đơn, con vội bước đi liền. Hàng xóm còn ai ở đó không ? Một người bạn cũ đợi bên sông... Cho hay mẹ đã ra thiên cổ, Vợ cũng bỏ con, đi lấy chồng. Ôi thôi ! Tan nát cả gia đình, Mất cả quê hương, vỡ mộng lành. Vượt biển tìm đường qua xứ lạ, Chôn vùi tuổi trẻ buổi bình minh. Mười dặm mây hồng, trời sáng trong, Bắc phong đuổi nhạn, tuyết mông lung. Đừng buồn lối trước không bè bạn, Thiên hạ ai mà chẳng biết ông ! (1) 15 tháng 6, 1989 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng 1. Đường thi: Thập lý hồng vân bạch nhật huân, Bắc phong xuy nhạn, tuyết phân phân. Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ, Thiên hạ, thùy nhân bất thức quân.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 85 ĐẠO TRỜI Anh em kết nghĩa vườn đào, Trong cơn hoạn nạn, lẽ nào quên nhau. Sử sách từ trước ra sau, Những người trung hiếu, ai đâu sánh bì. Trai mà chi, gái mà chi, Ai mà có nghĩa, có nghì thì hơn. Cùng chung một mối căm hờn, Cùng sinh vào lúc giang sơn khốn cùng. Gian nan mới biết anh hùng, Người ngay mắc nạn, người trung lao tù. Một ngày, kể đến nghìn thu, Chia cơm, xẻ áo, đền bù cho nhau. Gia đình tan nát vì đâu ? Quê cha đất tổ một màu tang thương. Tấm thân lưu lạc tha hương, Anh em xa cách đôi đường từ đây. Tưởng là gió cuốn mây bay, Kể như chuyện cũ có ngày rồi quên. Làm con chẳng được báo đền, Cha sinh mẹ dưỡng ra thiên cổ rồi ! Tôi đi khắp bốn phương trời, Bao nhiêu bạn hữu những nơi sang giàu. Lúc hoạn nạn, chẳng còn đâu... Trừ khi đã sống với nhau trong tù. Mây mù bao phủ mùa thu, Ai ngờ có lúc chu du nước ngoài. Tưởng rằng chết mất đâu rồi, Ai ngờ lại được cuộc đời thong dong. Hiếu trung, trời chẳng phụ lòng, Gặp nhau, nâng chén rượu nồng chung vui. Thiện tâm là đạo của Trời, Mong sao cho được nên người thiện tâm. 1 tháng 4, 1989 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


86 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng GIẤC NGỦ MÙA ĐÔNG Một vùng giá lạnh, trãi khăn tang, Vạn vật chìm trong cảnh hỗn mang. Xóa dấu chân chim, mờ bóng thú, Rừng cây trụi lá, mùa Thu sang. Chim én về Nam, cánh nhạn hồng, Chơi vơi trong gió rét chiều Đông. Nghe hồn thơ khóc đêm vô tận, Khúc nhạc ly hương, ôi ! não nùng... Một con gấu trắng đi trong tuyết, Từng bước cô đơn, đang kiếm mồi. Bao nhiêu muông thú, giờ đâu hết ? Mình lại trở về giấc ngủ thôi ! Tuyết tan đỉnh núi, suối tuôn trào, Cuồn cuộn dòng trăng, lấp lánh sao. Vạn vật thay màu, cây trổ lộc, Non Xuân đẹp nhất, gốc tùng cao. Thảm cỏ xanh rì, mai trổ bông, Bướm vàng bay lượn, trời mây hồng. Đàn ong theo chúa, xây nhà mới, Mật ngọt no đầy, để thưởng công. Kìa con gấu trắng ngủ trong hang, Bão tuyết mùa Đông chẳng ngỡ ngàng. Đợi gió Xuân về, vui nắng ấm, Một mai thức dậy bước thênh thang. Gấu trắng hiên ngang vượt núi đồi, Lẹ làng in dấu khắp nơi nơi. Tha hồ mật ngọt say sưa uống, Hùng dũng ra oai lúc kiếm mồi. 31 tháng 1,1996 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 87 CÂY VÚ SỮA Nhớ ngày 30/4/75 Tóc xõa ngang vai, mái tóc thề, Quần the, áo lụa, Phúc xinh ghê. Tuy rằng Phúc mới mười hai tuổi, Đã sớm yêu đàn đến say mê. Nhà Phúc có trồng cây vú sữa, Lá xanh phủ kín cả khu vườn. Chiều nao, xao xác chim về tổ, Nghe tiếng dương cầm gợi nhớ thương. Mẹ Tín qua đời, cha góa vợ, Cảnh nhà đơn chiếc, Tín ngây thơ. Mỗi lần đi học nghe ai gọi, Phúc vẫn là Phúc của đợi chờ. Làm sao hiểu được nỗi bơ vơ, Tín có ngờ đâu đến hẹn hò. Vú sữa mùa này, sai trái quá, Phúc đùa với Tín: lộc trời cho. Từ đó, Phúc thường đứng gốc cây, Vịn cành rợp bóng, dáng thơ ngây... Chờ nhau cho đến giờ đi học, Tuổi trẻ dần theo bao tháng ngày. Tháng ba trời nắng, lúc tan học, Phúc đến báo tin: Huế mất rồi. Người cha cầm súng ngoài tiền tuyến, Sống chết giờ đây mặc số trời.


88 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Sài Gòn, ngày ấy trời mưa gió, Thiên hạ từ đâu bỗng kéo về. Bao nhiêu bà mẹ bồng con nhỏ, Nằm ngủ bên đường, lạnh tái tê. Tín có người cha đang chiến đấu, Bạn bè rã ngũ bước lê thê. Cha Tín vẫn còn ngoài mặt trận, Người ta đã vội rủ nhau đi. Mười năm đi lính, mười năm tù, Cha Tín, mười năm mất tự do ! Lũ trẻ ở nhà mặc sống chết, Bữa no, bữa đói, chẳng ai lo. Nhà Phúc được tin cha đã mất, Trại tù miền Bắc quá xa xôi. Mẹ Phúc lặn lội đi bốc mộ, Đàn con côi cút mặc trời nuôi.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 89 Đất nước lầm than, dân đói khổ, Thanh niên phục quốc đứng lên rồi. Tín đã ra đi theo tiếng gọi, Bao phen chiến đấu, chết không rời. Tín cũng bị đày đi cải tạo, Rừng thiêng, nước độc, phú cho Trời. Sống chết ngày nào ai biết được, Hận thù chồng chất mãi không nguôi. Hôm nay Tín đã rời quê cũ, Cùng với người cha, với các em. Qua cơn giông tố, trời hừng sáng, Cuộc sống thanh bình, thoát bóng đêm. Tín ở bên này, nhớ Phúc ghê, Đường xa vời vợi, vọng câu thề. Một ngày nào đó, vui sum họp, Tín được lên xe, đón Phúc về. 10 tháng 4, 1995 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


90 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng VĂN TẾ VONG HỒN TỬ SĨ (Đọc trong dịp tất niên Ất Hợi 1995 tại Cali) Trời Việt Nam: Địa linh, nhân kiệt, Nơi tổ tiên dựng nghiệp muôn đời. Nước non một cuộc đổi dời, Quê hương tan nát, xứ người nương thân. Ngày cuối năm, thành tâm tưởng nhớ, Những vong linh một thuở hào hùng, Vì nợ nước phải lao lung, Chết nơi trận mạc, núi rừng hoang vu. Kẻ bỏ thây, ngục tù tăm tối, Người phơi xương, đồng nội, sông, hồ. Biển khơi, bão táp, sóng xô, Nhân dân vô tội, đáy mồ vực sâu. Cuộc tranh đấu, mặc dầu áp bức, Lớp lớp người bất khuất đứng lên. Biết bao trí thức, thanh niên, Quyết tâm đòi hỏi nhân quyền, tự do. Vì nghĩa lớn, máu tô chiến địa, Vì tổ quốc, nào kể gian nan. Pháp trường: thịt nát, xương tan, Hồn chưa siêu thoát, oán than chất chồng.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 91 Hỡi những đấng anh hùng, liệt sĩ, Xin hãy về chứng giám lòng thành. Trong khi vận nước điêu linh, Tấm thân lưu lạc, chút tình tha hương. Ngày hôm nay, bốn phương họp mặt, Trước bàn thờ TỔ QUỐC GHI ÂN. Niềm tin quyện khói nhang trầm, Lòng thành, lễ bạc, xa xăm xin về. Xin chứng quả lời thề non nước, Quyết noi theo ngọn đuốc soi đương. Ngày mai trở lại quê hương, Dẹp loài quỷ đỏ, mở đường tự do. Nguyện xin tiên tổ, Chư vị anh hùng, Nhận lễ, thương tình, Ra tay tế độ. 21 tháng 11, 1995 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


92 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng NHỚ CỤ TRẦN MỘNG CHU Tạ thế ngày 26/3/1989 Trần Mộng Chu ! Trần Mộng Chu ! Ôi thôi ! Bác đã thiên thu xa rồi ! Nhớ ngày trước cùng tôi gặp gỡ, Trại Hà Tây, duyên nợ văn chương. Khi trước ngõ, khi sau vườn, Hoa xuân hé nụ, vấn vương trong lòng. Thơ khai bút, thong dong đề tặng, Chút tâm tình mang nặng giãi bày. Chén trà trân trọng trao tay, Huyền vi Tạo Hóa, rủi may luận bàn. Cơn gió lạnh, từng làn sương mỏng, Buổi bình minh còn đọng cành Xuân. Chuyện xưa, tích cũ xa gần, Một già, một trẻ ân cần bên nhau. Sách thánh hiền, từng câu, từng chữ, Gương anh hùng, sách sử Đông ,Tây. Nào là việc dở, việc hay, Gẫm xem thế sự xưa nay khác thường. Quân khốn kiếp, những phường vô đạo, Trước sau Trời quả báo không dung. Anh hùng gặp cảnh lao lung, Nhà tan, cửa nát, vận cùng xác xơ.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 93 Chí phượng hoàng câu thơ, nét bút, Tấm lòng trung nào chút ngại ngùng. Văn chương sảng khoái, hào hùng, Khiến cho quân nghịch phát khùng, phát điên. Thân vóc hạc, cốt tiên còn đó, Trãi nắng mưa, mấy độ Xuân tàn. Nước non trong cảnh lầm than, Làm thân nam tử, dở dang một đời. Nào ai biết, cơ Trời chuyển biến, Tấm lòng son, xin nguyện thủy chung. Vừa ra khỏi cảnh lao lung, Xe mây cõi thọ, mịt mùng theo đi. Ô hô ! Sinh tử hữu kỳ, Thương mà chi ! Tiếc mà chi cõi đời ! Chúc bác đi về nơi cực lạc, Vốn là người vóc hạc cốt tiên, Thì xin cỡi hạc quy thiên, Thì xin trút hết ưu phiền lại đây. 17 tháng 6, 1989 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


94 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng LỜI TỪ BIỆT GIOANNA Tạ thế lúc 1 giờ ngày 30/04/1991 Có một dòng sông, Phù sa màu mỡ. Nơi đất lành chim đậu, Bốn mùa nắng ấm dịu dàng. Đây miền Hậu Giang, Người hiền cảnh đẹp, Địa linh nhân kiệt, Chốn quê nhà, Nơi em đã sinh ra. Mẹ đặt tên cho em, Tên một loài hoa quý phái: Tuyết Mai ! Tuyết Mai ! Em lớn lên giữa trời cao, sông rộng, Giữa mùa Xuân hoa nở, Nắng mới chan hòa Ruộng đồng bát ngát bao la. Ơn sinh thành của mẹ cha, Tình anh em bè bạn. Tình làng xóm quê hương, Em lớn lên với tất cả tình thương ! Thế rồi một mùa Xuân, Có chàng trai trẻ, Lập nghiệp tha phương. Xa gia đình, thiếu tình mẫu tử, Chàng trai đó, miền sông Hương, núi Ngự. Một lần gặp gỡ, Mà đã nên duyên !


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 95 Người con gái họ Nguyễn, Nay trở thành dâu hiền họ Phan... Mùa Xuân đó, mùa Xuân tươi sáng, Em bước đi trong nắng ấm chan hòa. Người ta gọi em là Gioanna, Là con chiên của Chúa. Ôi ! Lời diệu ca từ muôn thuở: “Con gái ta ơi, Hãy nghe, hãy lắng tai nghe... Vì hoàng đế yêu thương con... ” Ôi ! Từ muôn thở, Ngài đã chọn em, Ngài đã cho em tình yêu làm gia nghiệp. Ngài đã cho em nên vợ nên chồng. Ngài đã nuôi em bằng tình phụ tử. Tuyết Mai ! Em đến với gia đình chúng tôi, Là con của mẹ, Là em của các anh chị, Là dâu hiền hiếu thảo, Là chị của các em. Và, em đã làm mẹ... Cuộc đời của em ngắn ngủi, Em ra đi giữa tuổi thanh xuân !


96 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Tháng trước đây, nghe tin em trở bệnh, Gia đình lo tìm thầy, chạy thuốc. Em đã can đảm nhận lãnh đau thương. Em đã ra đi không một lời trăn trối, Em gánh hết mọi điều khổ ải, Để nêu gương thánh thiện giữa cuộc đời. Em ra đi, Để lại chồng, Để lại con dại, Để lại gia đình, cha mẹ, anh em. Để lại bạn bè... biết bao là thương nhớ. Ôi ! Sinh là ký mà tử là quy ! Em ra đi về nơi thiên giới, Chốn thiên đàng, Chúa Mẹ đợi chờ em. Hôm nay tháng hoa dâng kính Mẹ, Chúng con xin dâng lên Người, Một linh hồn trong sạch, Một người con của Chúa, Một người con của Mẹ. Xin Mẹ nhận lấy Gioanna Vào nơi vĩnh phúc đời đời. Tạm biệt em nơi trần thế, Hẹn ngày gặp lại trên nước trời. 1 tháng 5, 1991 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 97 NHỚ THƯƠNG MỘT NGƯỜI ANH (Anh F.X Nguyễn Văn Hội tạ thế ngày 17/3/1995) Núi cao chi lắm núi ơi, Biển sâu ngăn cách, ngàn đời xa nhau. Chờ anh kể đã bấy lâu, Trời xanh, mây trắng một bầu bao la. Đây Dương Lộc, chốn quê nhà, Nơi anh đã sinh ra. Nhà cuối thôn, bốn mùa lộng gió, Nơi quê nghèo, vất vả mẹ cha. Từ thuở ấu thơ, Niềm tin đạo hạnh. Vui vẻ, hiền lành... Thờ cha, kính mẹ nhiệt thành, Anh em, con cháu, thắm tình yêu thương. Lòng sùng kính anh hùng tử đạo, Sống nêu gương hiếu thảo, công bình. Nước nhà gặp cảnh điêu linh, Anh theo tiếng gọi thanh niên lên đường. Bỏ mẹ cha, quê hương làng xóm, Chốn quê nghèo, hôm sớm chờ mong. Cuộc đời vất vả, long đong, Vào sinh ra tử, chiến công đã từng.


98 - Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng Có những lúc thắt lưng buộc bụng, Gánh gia đình, mang nặng trên vai. Nuôi con ăn học thành tài, Dạy con đạo đức, nên người khôn ngoan. Anh đã sống, nêu gương bác ái, Việc tông đồ hăng hái nhiệt thành. Từ Quảng Trị đến Nha Trang, Bao nhiêu cảm mến đã dành cho anh. Mất quê hương, anh đành vượt biển, Đến Hoa Kỳ tìm kiếm tự do. Đêm ngày anh vẫn âu lo, Chuyện nhà, chuyện nước, sao cho vẹn toàn. Bà con đó, một đoàn đói khổ, Anh chắt chiu giúp đỡ mọi người. Tuổi già đã quá bảy mươi, Nằm trên giường bệnh gởi lời hỏi thăm. Tôi với anh, cùng làng cùng họ, Thuở ấu thơ, bồng ẵm đỡ đần. Tình anh em, quá đỗi thân, Xa nhau, mong ước có lần gặp nhau.


Thương về Quảng Trị - Nguyễn Lý Tưởng - 99 Tôi tù tội, anh đau, anh xót, Anh thương tôi, ruột thịt không bằng. Hai mươi năm, những nhớ mong, Sao cho gặp mặt, thỏa lòng anh em. Tôi vẫn hẹn thăm anh một chuyến, Nhưng cảnh nghèo, phương tiện chưa thông. Nhớ anh canh cánh bên lòng, Ai ngờ anh đã thong dong thiên đàng ! Anh ra đi, muôn vàn thương nhớ, Vợ con anh, đứng đó ngỡ ngàng. Bao nhiêu bè bạn, họ hàng, Bao nhiêu nuối tiếc, khóc thương anh nhiều. Nguyễn Văn Hội, người anh yêu, Bao nhiêu công đức, những điều lành ngay. Cuộc đời anh, tốt đẹp thay, Nêu gương thánh thiện hôm nay cho người. Đưa anh về chốn đời đời, Là nơi hạnh phúc tuyệt vời Chúa ban. Hôm nay, trên chốn thiên đàng, Xin anh nhớ đến họ hàng, anh em. Cali 18 tháng 3, 1995 Triệu Dương Nguyễn Lý Tưởng


Click to View FlipBook Version