The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by May Tran, 2023-11-08 06:26:54

LSĐB Binh Thanh_1975-2015

LSĐB Binh Thanh_1975-2015

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Ban Chấp hành ĐẢNG BỘ QUẬN Bình thạnh THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP Thành phố Hồ Chí Minh LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015)


CÁC ĐỒNG CHÍ THAM GIA BIÊN SOẠN 1. Đại tá Trần Phấn Chấn 2. Tiến sĩ Hồ Sơn Đài 3. Tiến sĩ Lê Hữu Phước 4. Thạc sĩ Nguyễn Đệ 5. Thạc sĩ Cao Phương Thảo 6. Tiến sĩ Bùi Thị Ngọc Trang 7. Đồng chí Trương Thị Bích Đào BAN CHỈ ĐẠO 1. Đồng chí NGUYỄN TRUNG TRỰC Bí thư Quận ủy (1996 - 1998) 2. Đồng chí TRẦN CÁT ĐIỀN Bí thư Quận ủy (1998 - 2000) 3. Đồng chí CHÂU MINH TỶ Bí thư Quận ủy (2001 - 2002) 4. Đồng chí NGUYỄN HỮU NHÂN Bí thư Quận ủy (2003 - 2007) 5. Đồng chí ĐINH THỊ LANG Bí thư Quận ủy (2007 - 2009) 6. Đồng chí HUỲNH THANH HẢI Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy (1996 - 2004) 7. Đồng chí NGUYỄN ANH DŨNG Phó Bí thư Thường trực Quận ủy (2008 - 2012), Trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy (2004 - 2008) 8. Đồng chí NGUYỄN QUỐC HÙNG Bí thư Quận ủy (2009 - 2014) 9. Đồng chí NGUYỄN THỊ THU HÀ Bí thư Quận ủy (2014 - 2018) 10. Đồng chí VŨ NGỌC TUẤT Phó Bí thư Thường trực Quận ủy (2012 - 2017) Bí thư Quận ủy (2018 - 2020)


3 Lời giới thiệu Quận Bình Thạnh - thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào tháng 6 năm 1976. Bình Thạnh là tên gọi gộp chung hai địa danh Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây - trung tâm của tỉnh Gia Định trước năm 1975, một vùng đất có truyền thống đấu tranh cách mạng. Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh là một bộ phận của Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quận Bình Thạnh xưa và nay. Việc biên soạn Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh có ý nghĩa rất quan trọng giúp cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quận hiểu được những chặng đường lịch sử vẻ vang mà Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh đã đi qua, đặc biệt trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Đồng thời, giúp cho Đảng bộ rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu để vận dụng trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của quận. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc biên soạn Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh nên Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ quận lần thứ 5 khóa VII ngày 25 tháng 3 năm 1997 đã ban hành Nghị quyết chỉ đạo biên soạn và xuất bản cuốn sách Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2005). Sau 15 năm phát hành, cuốn sách đã trở thành tài liệu chính thức để giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân trong quận. Đồng thời, Ban Chấp hành Đảng bộ quận cũng nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của các đồng chí lão thành cách mạng cùng bạn đọc trong và ngoài quận. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03-02-1930 - 03-02-2020), 75 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là Cộng


4 hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02-9-1945 – 02-9-2020), 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2020), 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2020), 45 năm thành lập quận Bình Thạnh (tháng 6-1976 – tháng 6-2021) và Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Bình Thạnh lần thứ XII (nhiệm kỳ 2020 - 2025), Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) quyết định tái bản và viết bổ sung cuốn sách Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2005). Cuốn sách Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2015) được biên soạn trên cơ sở kế thừa toàn bộ nội dung của cuốn sách Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2005), bổ sung thêm lịch sử 10 năm (2005 - 2015) tương ứng với hai kỳ Đại hội Đảng bộ quận lần thứ IX và lần thứ X; trong cấu trúc của cuốn sách có phân thành hai thời kỳ lịch sử là: Thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1975) và Thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975 - 2015). Lịch sử truyền thống của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh (1930 - 2015) là những trang sử hào hùng trong đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1975) và xây dựng xã hội chủ nghĩa (1975 - 2015) của Đảng bộ và Nhân dân quận Bình Thạnh. Mỗi thời kỳ lịch sử đều để lại dấu ấn chiến công, thành tựu và cả những trăn trở, suy tư. Nhưng tất cả đều đáng quý, đáng trân trọng. Ban Chấp hành Đảng bộ quận Bình Thạnh khóa XI (nhiệm kỳ 2015 - 2020) trân trọng giới thiệu cuốn sách đến các đồng chí lão thành cách mạng, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong quận cùng bạn đọc xa gần. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ QUẬN BÌNH THẠNH


BÌNH THẠNH VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI và TRUYỀN THỐNG


7 I. VÙNG ĐẤT BÌNH THẠNH Ở về phía Đông Bắc Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Bình Thạnh gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của thành phố. Nhìn trên bản đồ thành phố Hồ Chí Minh, vùng đất Bình Thạnh có thế đất xuôi dần về phía Nam. Ở khu vực trung và tây của quận có địa hình cao với dạng gò lồi lõm, đường sá đổ dốc, mùa mưa nước chảy tràn như thác lũ; khu vực phía đông có địa hình trũng thấp, luôn bị nước tràn do triều cường nên phải đắp đê; khu vực hạ nam tương đối bằng phẳng. Sông Sài Gòn là ranh giới tự nhiên giữa quận Bình Thạnh với thành phố Thủ Đức về phía Đông Bắc; ở phía Nam, quận Bình Thạnh và Quận 1 cách nhau bởi con rạch Thị Nghè; về phía Tây - Tây Bắc, quận Bình Thạnh giáp với quận Phú Nhuận, quận Gò Vấp và Quận 12 tạo thành thế liên hoàn giữa ba địa phương mà xưa kia đã có thời được gọi chung là “xứ Gò Vấp” hay “miệt Gò Vấp”. Cũng như các quận, huyện khác ở thành phố Hồ Chí Minh, khí hậu ở quận Bình Thạnh mang nét đặc trưng của khí hậu Đông Nam Bộ, nằm hoàn toàn trong vùng nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo nên nhiệt độ có tính ổn định, không quá nóng và rét, chỉ cảm thấy lạnh từ giữa khuya cho đến hừng sáng. Nhiệt độ không khí bình quân năm là 27 độ C, cao nhất lên đến 40 độ C (tháng 8 năm 1992) thấp nhất là 13,8 độ C (tháng 1 năm 1937), độ ẩm bình quân năm là 79,5%. Lượng mưa trung bình năm đạt 1.979 mm với số ngày mưa trung bình năm là 154 ngày. Sông Sài Gòn bao quanh mạn đông bắc đã biến vùng Thanh Đa - Bình Quới thành một bán đảo xinh đẹp, đồng thời tạo nên sự trong lành cho môi trường và khí hậu nơi đây. Trải qua các thời kỳ lịch sử, từ thời nhà Nguyễn cho đến năm 1975, Bình Thạnh chỉ là một vùng ven đô, được xem là vành đai đỏ bảo vệ cho các cơ quan đầu


8 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) não của chính quyền thực dân đế quốc ở trung tâm thành phố. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước được thống nhất, Bình Thạnh trở thành một quận ven nội thành với diện tích tự nhiên là 2.078,6 ha, trong đó diện tích nông nghiệp chiếm gần 44% (900 ha) và 15,3% diện tích là ao hồ, sông rạch. Tuy nhiên với quá trình đô thị hóa, cùng với sự phát triển ngày một đi lên của thành phố, diện tích đất nông nghiệp ngày một giảm xuống: năm 1995 còn 24% (khoảng 500 ha) và hiện nay còn 12,6% (262,9 ha) theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2019. Quận Bình Thạnh là đầu mối gặp gỡ của các quốc lộ và tỉnh lộ: Quốc lộ 1 Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh đi ra Bắc và xuống miền Tây Nam bộ, Quốc lộ 13 đi Bình Dương sang Campuchia. Sông Sài Gòn - một trong những con sông lớn của hệ thống sông Đồng Nai và nhiều sông nhỏ khác đã tạo địa giới tự nhiên giữa Bình Thạnh với thành phố Thủ Đức, Quận 12, làm cho vùng đất này có vị trí quan trọng, là cửa ngõ đi vào nội thành từ hướng đông bắc. Sông Sài Gòn ăn thông ra biển, trải dài ở mạn đông bắc của vùng đất Bình Thạnh ngày nay chính là thủy đạo quan trọng mà các thế hệ lưu dân người Việt từ biển ngược dòng vào khai phá, định cư ở những vùng đất cao hai bên bờ sông, trong đó có những khu vực thuộc Bình Thạnh ngày nay. Cùng với sông Sài Gòn, các kinh rạch: Thị Nghè, Cầu Bông, Văn Thánh, Hố Tàu, Thủ Tắc, Vàm Thuật,... đã tạo thành một hệ thống đường thủy đáp ứng lưu thông cho xuồng ghe nhỏ đi sâu vào các khu vực trên khắp địa bàn Bình Thạnh, thông thương với các địa phương thuộc Sài Gòn - Gia Định cũng như các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Cuối thế kỷ XIX, rạch Thị Nghè còn khá rộng, nước trong suốt “hây hây tờ quyến trải” và chảy thông. Trên rạch Thị Nghè ghe tải cỡ nhỏ dễ dàng di chuyển tới tận thượng nguồn (khu vực chợ Ông Tạ - quận Tân Bình) để trao đổi buôn bán. Chính vì vậy Bình Thạnh là một trong những khu vực sớm quy tụ dân cư đến sinh cơ lập nghiệp trong buổi đầu khai phá vùng đất phương Nam. Quận Bình Thạnh có vị trí thuận lợi về đường sông, đường bộ và nguồn dự trữ đất đai phong phú... nên trong điều kiện đất nước hòa bình, nhất là từ đầu thập niên 1990 đến nay, tuy chưa sánh bằng nhiều địa phương khác thuộc thành phố Hồ Chí Minh nhưng nhờ xác định đúng hướng phát triển cho nền kinh tế của quận “sản xuất - dịch vụ - du lịch - xuất nhập khẩu” trong đó dịch vụ - du lịch là mũi nhọn nên bước đầu đã khai thác được tiềm năng và thế mạnh của quận, tạo dựng được mạng lưới kết cấu hạ tầng kỹ thuật... Đây là xu thế phát triển phù hợp với hướng phát triển của thành phố Hồ Chí Minh cho


9 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đến những năm đầu thế kỷ XXI, đồng thời được đánh giá “là hướng phát triển đúng đắn đối với Bình Thạnh với tư cách là một quận nội thành”(1). Lịch sử địa lý hành chính của vùng đất Bình Thạnh ngày nay gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử địa lý hành chính Sài Gòn - Gia Định - thành phố Hồ Chí Minh. Vào thời điểm chúa Nguyễn lập đồn thu thuế ở Bến Nghé và Sài Gòn (1623), tuy chưa tìm thấy nguồn sử liệu nào cho biết tên của các thôn ấp lúc bấy giờ ở thành phố nói chung và Bình Thạnh nói riêng, nhưng căn cứ vào danh sách các thôn chép trong Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, ghi trên bản đồ do Trần Văn Học vẽ năm 1815, trên địa bàn Bình Thạnh ngày nay đã có tên các thôn: Phú Mỹ, Bình Quới, Thạnh Đa, Bình Hòa và Thới Hòa (là vùng Bà Chiểu, ngã năm Bình Hòa). Đời Gia Long, chưa có xã Bình Hòa, về sau từ Thái Hòa tách ra. Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, một trong số những nguồn tài liệu xưa nhất nói về Gia Định, thì từ ngày đặt nền tảng hành chính đầu tiên đến năm Gia Long thứ 7 (1808), trên địa bàn trấn Phiên An trong đó có vùng đất Bình Thạnh ngày nay không có sự thay đổi nào về cơ sở hành chính. Đồng thời, theo Địa chí tỉnh Gia Định năm 1902 thì Hạnh Thông xã (thuộc Gò Vấp ngày nay) đã được thành lập từ năm 1698. Như vậy, trên phần đất là quận Bình Thạnh ngày nay (mà lúc bấy giờ là thuộc quận Gò Vấp) chắc chắn đã có một số xã, thôn trực thuộc huyện Tân Bình. Do đó chúng ta có thể phỏng đoán các tên xã, thôn mà Trịnh Hoài Đức ghi trong Gia Định thành thông chí đã có từ thời Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược và thiết lập đơn vị hành chính năm 1698, trừ thôn Bình Hòa. Năm 1802 vua Gia Long (Nguyễn Anh) bãi bỏ Gia Định kinh, “cải Gia Định phủ làm Gia Định trấn”. Gia Định trấn gồm có các dinh: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn và trấn Hà Tiên. Năm 1808, do địa thế Gia Định rộng lớn, Gia Định trấn được đổi làm Gia Định thành, dinh Phiên Trấn đổi làm trấn Phiên An. Các đơn vị hành chính trong trấn đều được nâng cấp và thay đổi: huyện Tân Bình đổi làm phủ Tân Bình, thuộc 1. Phát biểu của đồng chí Trương Tấn Sang - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng - Phó Bí thư Thành ủy - Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ quận Bình Thạnh lần thứ VII (1991).


10 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) sự quản trị của trấn Phiên An; cấp tổng đổi thành cấp huyện. Phủ Tân Bình cai quản 4 huyện. Trong đó hai huyện Bình Dương và Tân Long bao gồm đại bộ phận địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, gồm cả vùng đất Bình Thạnh. Riêng huyện Bình Dương chia làm hai tổng: Bình Trị và Dương Hòa. Năm 1832, Gia Định thành giải thể. Trấn Phiên An đổi ra tỉnh Phiên An. Tỉnh Phiên An chia ra hai phủ: phủ Tân Bình và phủ Tân An. Phủ Tân Bình quản lý hai huyện: huyện Bình Dương và huyện Tân Long. Huyện Bình Dương chia làm hai tổng: tổng Bình Trị và tổng Dương Hòa. Các thôn Thạnh Đa, Phú Mỹ, Bình Quới, Thới Hòa và Bình Hòa thuộc quận Bình Thạnh ngày nay nằm trong tổng Bình Trị - huyện Bình Dương - phủ Tân Bình - tỉnh Phiên An. Năm 1836 dưới triều Minh Mạng, công cuộc đo đạc ruộng đất, lập địa bạ cho các xã thôn trên toàn lãnh thổ Nam Kỳ Lục tỉnh được tiến hành. Địa bàn và tên gọi các thôn trên địa bàn quận Bình Thạnh không thay đổi, nhưng lại được sắp xếp vào các tổng mới thành lập. Các thôn Bình Quới, Phú Mỹ, Thạnh Đa thuộc tổng Bình Trị Thượng; thôn Bình Hòa và Thới Hòa thuộc tổng Bình Trị Hạ. Trước đó, năm 1832 để tỏ rõ việc trọng nông, vua Minh Mạng cho lập một đền thờ thần Tiên nông ở thôn Phú Mỹ. Năm 1862, thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông. Đến năm 1867, sau khi chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây, chính quyền thực dân tiến hành chia lại ranh giới hành chính và thay đổi địa danh. Ba tỉnh miền Đông được chia thành 16 hạt tham biện (Inspection), trong đó phần đất quận Bình Thạnh ngày nay gồm các làng Bình Quới Tây, Thạnh Đa, Phú Mỹ, Bình Hòa, Thới Hòa thuộc các tổng Bình Trị Thượng và Bình Trị Hạ - huyện Bình Dương - hạt Sài Gòn. Năm 1872, hạt Sài Gòn có 3 huyện, 16 tổng với 218 làng. Địa bàn Bình Thạnh thuộc tổng Bình Trị Thượng với 4 làng Bình Hòa, Bình Lợi Trung, Bình Quới Tây, Thạnh Đa. Từ năm 1874, tòa Tham biện của hạt Sài Gòn được chuyển về vùng Bình Hòa, gọi là Tòa Bố nằm ở vị trí trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh hiện nay. Cũng trong năm 1874, Pháp đổi tên hạt tham biện (Inspestion) thành địa hạt (Arrondissement). Năm 1876, Pháp phá khung hành chính “lục tỉnh”, chia thành 4 khu vực có tính cách quân sự, trong đó khu vực Sài Gòn gồm 5 dinh hạt. Địa hạt Sài Gòn thuộc Khu vực Sài Gòn. Năm 1885, địa hạt Sài Gòn đổi tên thành địa hạt Gia Định. Năm 1889, khu vực hành chính và quân sự bị bãi bỏ, tên địa hạt đổi thành tỉnh. Vùng đất


11 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Bình Thạnh ngày nay thuộc tỉnh Gia Định lúc bấy giờ. Năm 1910, tỉnh Gia Định chia ra 18 tổng. Vùng đất Bình Thạnh ngày nay gồm các xã Bình Hòa, Bình Lợi Trung, Bình Quới Tây, Thạnh Đa thuộc tổng Bình Trị Thượng; các xã Phú Mỹ, Phú An thuộc tổng Bình Trị Trung. Năm 1940, chính quyền thuộc địa Nam Kỳ lập ra cấp quận (gần như phủ huyện xưa). Tỉnh Gia Định được chia ra làm 4 quận là Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Đức và Nhà Bè, với 16 tổng và 80 xã. Tổng Bình Trị Thượng thuộc quận Gò Vấp với 8 xã trong đó vùng đất 2 xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây chính là vùng đất Bình Thạnh ngày nay. Như vậy xã Bình Hòa trước đây vẫn được giữ lại tên gọi và địa bàn, còn Thạnh Mỹ Tây là do các xã Thạnh Đa, Phú Mỹ, Phú An và Bình Quới Tây nhập thành một xã lấy tên mới. Một vài tài liệu cho rằng năm 1929 xã Thạnh Đa nhập với 2 xã Phú Mỹ và Phú An thành Thạnh Mỹ An. Đến năm 1934, Thạnh Mỹ An lại nhập với Bình Quới Tây thành xã Thạnh Mỹ Tây; hoặc xã Thạnh Mỹ Tây là do 3 xã Thạnh Đa, Bình Lợi Trung và Bình Quới Tây sáp nhập lại. Ngày 11 tháng 5 năm 1944, chính quyền thuộc địa lại ra nghị định thành lập tỉnh Tân Bình. Tỉnh Tân Bình mới lập này gồm 3 khu vực: khu vực Gia Định, khu vực Thủ Thiêm và khu vực Nhà Bè. Hai xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây thuộc vào khu vực Gia Định. Tỉnh lỵ đặt tại xã Phú Nhuận. Tòa Bố tỉnh Tân Bình đặt tại góc đường Phan Đăng Lưu và Phan Đình Phùng ngày nay; còn bót Tân Bình nằm ở khu vực cây xăng tại ngã tư Phú Nhuận hiện nay. Tỉnh Tân Bình thành lập chưa được bao lâu thì Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, tỉnh Tân Bình bị giải thể ngay sau đó. Từ năm 1945 đến năm 1975 các đơn vị hành chính tiếp tục có nhiều thay đổi ít nhất 10 lần từ tỉnh đến quận và xã. Trong giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1953, cấp hành chính cơ sở được gọi là hộ. Xã Thạnh Mỹ Tây trở thành Hộ 19, xã Bình Hòa thành Hộ 20. Từ năm 1953 đến năm 1959, Hộ 19 và Hộ 20 thuộc Quận 2. Năm 1959, chính quyền ngụy Sài Gòn thực hiện một cuộc cải cách toàn diện về mặt hành chính. Đô thành Sài Gòn được chia làm 8 quận vừa có nhiệm vụ cảnh sát và hành chính, lại chia mỗi quận ra nhiều xã (thay cho hộ dưới thời Pháp). Địa bàn Bình Thạnh lúc đó vẫn thuộc quận Gò Vấp với 2 xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây. Cấp hành chính dưới xã là ấp. Các ấp thuộc xã Bình Hòa được gọi là ấp Bác Ái và đánh số thứ tự từ 1 trở đi; các ấp thuộc xã Thạnh Mỹ Tây được gọi là ấp Nhất Trí cũng được đánh số thứ tự từ 1 trở đi. Tổ chức hành chính cơ sở này tồn tại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.


12 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sau ngày giải phóng, tháng 5 năm 1975, xã Bình Hòa đổi thành quận Bình Hòa, xã Thạnh Mỹ Tây thành quận Thạnh Mỹ Tây. Ngày 04 tháng 5 năm 1976, Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh ra Chỉ thị 01-CT/TC-76 về việc sát nhập quận và điều chỉnh, thành phố còn 3 cấp: thành, quận, cơ sở. Hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây nhập lại làm một lấy tên là quận Bình Thạnh cho đến ngày nay. Quận Bình Thạnh lúc đầu chia làm 28 phường, đánh số từ 1 đến 28. Quyết định số 1470-HĐBT ngày 26 tháng 8 năm 1982 của Hội đồng Bộ trưởng phân vạch lại địa giới một số phường của quận Bình Thạnh: giải thể Phường 8 và Phường 20, sát nhập vào Phường 14 và Phường 18, hạ số phường xuống còn 26 phường. Ngày 27 tháng 8 năm 1988, Quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng lại một lần nữa điều chỉnh địa giới một số phường của quận Bình Thạnh. Các Phường 9, 10 và 18 giải thể, tách địa bàn một số tổ dân phố nhập vào các phường lân cận; đồng thời sáp nhập Phường 3 với Phường 4 thành Phường 3, hợp nhất Phường 15 và Phường 23 thành Phường 15, nhập Phường 16 và Phường 17 thành Phường 17. Từ đó đến nay, quận Bình Thạnh bao gồm 20 phường: 1, 2, 3, 5, 6, 7, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 19, 21, 22, 24, 25, 26, 27 và 28. II. CƯ DÂN, TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Cư dân Bình Thạnh là một bộ phận của cư dân thành phố Hồ Chí Minh. Nguồn gốc và sự phát triển của cư dân Bình Thạnh gắn liền với nguồn gốc và sự phát triển của cư dân Sài Gòn - Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Cho đến nay vẫn chưa tìm thấy tư liệu cho biết một cách cụ thể là từ lúc nào những cư dân Việt đầu tiên đến lập nghiệp ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cũng như trên địa bàn Bình Thạnh. Nhưng, qua các sử liệu có liên quan đến thời điểm những năm đầu thế kỷ XVII, đặc biệt với sự kiện chúa Nguyễn được vua Chân Lạp cho lập đồn thu thuế thương chánh ở Sài Gòn - Bến Nghé vào năm 1623, hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định từ đầu thế kỷ XVII lưu dân Việt đã có mặt ở vùng đất này khá đông trước khi Nguyễn Hữu Cảnh thừa lệnh chúa Nguyễn vào Nam lập nền hành chính đầu tiên (1698). Lưu dân người Việt vào Đồng Nai, Gia Định lập nghiệp trong buổi đầu đi dọc theo đường biển, đầu tiên là đổ bộ lên vùng đất Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay) khai hoang, lập ấp, xây dựng cơ nghiệp, cùng sống với cư dân bản địa ở đây. Lâu dần người đông đất hẹp, họ đi lần lên vùng Đồng Nai, rồi vào Gia Định. Vùng đất màu mỡ nằm dọc hai bên bờ sông Tân Bình (sông Sài Gòn), trong đó vùng đất Bình


13 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Thạnh ngày nay với mạn Đông Bắc tiếp giáp sông Sài Gòn chắc chắn cũng là một trong những địa điểm đầu tiên mà lưu dân chọn để dừng chân. Ngày nay, ở vùng Xóm Gà, Bình Hòa vẫn còn vài nhánh họ xưa từ đời tằng tổ. Những cư dân người Việt đầu tiên là những người nông dân nghèo rời quê cha đất tổ đi tìm đất sống, là những người đi buôn lâu ngày rồi định cư luôn ở vùng đất mới, là những vị chân tu đi tìm những nơi thanh tịnh để tu hành, là những người có chí phiêu lưu muốn thử thời vận, những tội phạm trốn tránh tầm nã của triều đình... Sau khi lập phủ Gia Định, chúa Nguyễn mới đẩy mạnh công cuộc khai phá vùng đất phía Nam. Những người giàu có ở xứ Quảng Nam, các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn được khuyến khích chiêu mộ lao động vào Nam khẩn hoang. Từ đời Gia Long trở về sau, khi tổ chức hành chính và quân sự nhà Nguyễn đã ổn định thì những tội đồ bị lưu đày vào Nam càng nhiều. Những điền chủ đi khẩn hoang sẵn tiền của, lại dễ dàng giao thiệp với quan lại địa phương đã thuê mướn những tù lưu, tù đồ đã mãn hạn để đưa đi khai thác vùng đất mới. Chính vì vậy, trong thành phần cư dân lại có thêm những người là tội nhân không trở lại xứ sở sau khi mãn án, những người nô tì thuộc dân tộc ít người được điền chủ trả tự do và có cả những người Chân Lạp đã sinh sống lâu đời trên các gò nổng cao rải rác khắp Nam bộ hoặc vừa được chúa Nguyễn cho định cư ở đất Gia Định. Năm 1679, việc chúa Nguyễn cho hai nhóm di thần nhà Minh vào định cư ở Biên Hòa và Mỹ Tho đã đánh dấu sự hiện diện của một bộ phận người Hoa ở vùng đất Nam bộ. Với sở trường về thương mại, những vùng đất giao thông thuận tiện ven sông rạch đã sớm thu hút một bộ phận người Hoa chọn làm nơi lập nghiệp và không ngừng bổ sung qua các thời kỳ lịch sử. Cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX, sản xuất và giao lưu hàng hóa ngày càng phát triển, các chợ được hình thành như chợ Thị Nghè, chợ Bà Chiểu, chợ Bình Hòa... càng đẩy nhanh quá trình tụ cư ở đây. Dưới thời thực dân Pháp chiếm đóng lại có thêm nhiều thành phần dân cư từ các miền của đất nước (đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam bộ) và cả từ nước ngoài tìm đến vùng đất Bình Thạnh ngày nay dừng chân xây dựng quê hương thứ hai cho mình. Họ là những người nông dân thất cơ lỡ vận phải bán thân vào làm công nhân đồn điền cho tư bản thực dân Pháp ở miền Nam; là những người từ miền Bắc bỏ làng ra đi khi nạn mất mùa đói kém xảy ra, do chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và lan sang châu Á (1943 - 1945); là những người dân Khmer, Chăm hiền lành rời bỏ những vùng quê miền Đông, miền Tây và miền Trung Việt Nam về thành phố tìm kế sinh nhai và để tránh địch họa, thiên


14 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) tai; là những người yêu nước từ nhiều địa phương khác đến để cùng công tác và chiến đấu với Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đến thời miền Nam Việt Nam, trong đó có Sài Gòn - Gia Định đặt dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, quá trình đô thị hóa ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây diễn ra mạnh mẽ. Vùng Bà Chiểu của quận Bình Thạnh ngày nay trở thành nơi tập trung các cơ quan đầu não hành chính, quân sự của tỉnh Gia Định và là một trong ba thị trấn của tỉnh Gia Định: Thị Nghè, Bà Chiểu và Phú Nhuận. Dân cư liên tục gia tăng. Do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh chống thực dân và đế quốc xâm lược, một bộ phận dân cư từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ và cả ở miền Trung, miền Bắc Việt Nam đã chạy về Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây sinh sống. Đặc biệt là đợt di cư rầm rộ vào cuối năm 1954 theo mưu đồ chính trị của chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa đến vùng đất Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây một bộ phận đông đảo giáo dân từ miền Bắc. Bên cạnh đó, người nghèo không chịu nổi cuộc sống đắt đỏ ở Sài Gòn cũng ra Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tìm kế sinh nhai và định cư luôn ở đây. Trên đà đô thị hóa, hai cụm dân cư phố chợ Bà Chiểu và Thị Nghè phát triển, mở rộng dần phạm vi và tiến đến nối liền với nhau. Xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa được thiết lập từ năm 1958 đã làm tăng thêm sức thu hút dân cư từ mọi miền đến đây sinh cơ lập nghiệp. Những cánh đồng ruộng mênh mông, những khu đất sình lầy, ngập nước dần dần được lấp đi để làm nơi cư trú hoặc biến thành ruộng vườn. Hoạt động kinh tế của cư dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây chuyển mình dần từ nông nghiệp sang các ngành thương mại, tiểu thủ công nghiệp, kỹ nghệ, dịch vụ... Hai chợ Bà Chiểu, Thị Nghè ngày một phát triển, lại nằm trên cửa ngõ của Sài Gòn nên hàng hóa đều thông qua hai chợ này để vào nội đô. Do vậy, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã trở thành vùng đô thị hóa khá nhanh. Mật độ dân cư ở các vùng chợ Bà Chiểu, Thị Nghè, Bình Hòa ngày càng dày hơn, đồng thời những điểm quần cư mới dọc theo các trục lộ giao thông cũng được hình thành như Xóm Gà, Cầu Sơn... Tuy thế, thương mại ở đây chỉ là tiểu thương, quy mô không lớn, vốn liếng không dồi dào vì các thương gia giàu có đều tập trung ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Sinh hoạt thương mại chỉ giới hạn trong việc trao đổi ở địa phương, hàng hóa phần nhiều là nông sản, hoa lợi từ các ruộng vườn, ao hồ quanh các khu vực cư trú. Chính vì vậy, bên cạnh đại bộ phận nông dân thì ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn có những công chức cấp thấp, thợ thuyền... bán sức lao động trong các hãng xưởng của chủ người Pháp, người Hoa và cả người Việt ở Sài Gòn - Gia Định.


15 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đến vùng đất mới này, từ những người “có vật lực” cho đến những người “nghèo khổ xiêu tán” đều không thiếu trong hành trang của mình thứ “của cải tinh thần”, đó là phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo... Chính vì vậy, Bình Thạnh ngày nay là nơi hội tụ của nhiều sắc thái văn hóa khác nhau mà các cộng đồng cư dân đã mang theo từ nơi chôn nhau cắt rốn của họ. Ở Bình Thạnh có mặt gần như đầy đủ những tôn giáo lớn hiện diện ở nước ta: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài. Ở quận Bình Thạnh ngày nay vẫn còn di tích những cơ sở tín ngưỡng tôn giáo đã được xây dựng từ rất sớm như: chùa Sắc Tứ Tập Phước (cuối thế kỷ XVIII), nhà thờ Thị Nghè (giữa thế kỷ XVIII), đình Bình Hòa (đầu thế kỷ XIX). Theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2019 thì 31,54% dân số của quận là tín đồ của các tôn giáo, trong đó 20,25% dân số của quận là tín đồ Phật giáo, 10,45% dân số là tín đồ Thiên Chúa giáo. Song, dù có hay không theo tôn giáo nào, hầu hết các gia đình đều lập bàn thờ ông bà, tổ tiên ở nơi trang trọng nhất trong nhà. Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam mà lưu dân đến Bình Thạnh luôn giữ gìn và phát huy suốt 3 thế kỷ qua. Bên cạnh đó, từ khá sớm, các cơ sở văn hóa cũng được thành lập trên địa bàn quận Bình Thạnh ngày nay: trường tỉnh học Gia Định được dựng lên vào năm Minh Mạng thứ 5 (1824) ở địa phận thôn Phú Mỹ, Văn Miếu (đền Văn Thánh) được dựng vào năm 1832 cũng ở xã Phú Mỹ để thờ Khổng Tử... Từ đó đã tạo điều kiện để người dân ở vùng đất này giữ gìn truyền thống hiếu học của cha ông ta trên vùng đất mới. Vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây ngày càng thêm đông người và trở thành vùng ngoại ô quan trọng, nối liền giữa nội đô với các địa phương miệt Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức... Nhưng cho đến đầu thế kỷ XX, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn là vùng đất rộng, thưa dân. Đất đai vẫn còn nằm trong tay bọn thực dân và được khai thác để trồng cao su. Từ đầu đường Nguyễn Thiện Thuật ra tới đường Bạch Đằng và từ ngã năm Bình Hòa đến cầu Băng Ky (Rạch Lăng) ngày nay là những vườn cao su ngút ngàn của các chủ đồn điền người Pháp. Còn giới lao động nghèo tập trung sống thành từng khu vực, đông đảo nhất là ở vùng Thị Nghè, Bà Chiểu. Tuy nghề nghiệp, mức sống khác nhau, song cũng như các lớp cha ông, họ tự nguyện tham gia vào các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ quê hương, viết nên những trang sử oanh liệt của địa phương và thành phố. Với quá trình hình thành, phát triển hơn 3 thế kỷ, trên vùng đất Bình Thạnh ngày nay đã có 21 dân tộc khác nhau cùng hội tụ về sinh sống, lập nghiệp, trong đó chiếm đa số là người Kinh, người Hoa, Khmer và Chăm. Theo kết quả Tổng


16 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) điều tra dân số năm 2019, trong tổng số 499.164 cư dân ở Bình Thạnh, người Kinh chiếm 98,73%; người Hoa đứng thứ hai, chiếm 0,89%. Các sự kiện văn hóa quan trọng diễn ra trong hơn 300 năm qua trên vùng đất Bình Thạnh ngày nay và các vùng lân cận đã cho thấy tầm quan trọng của vùng đất cửa ngõ này cũng như tính cách của cư dân ở đây đã được định hình trong quá trình đấu tranh khắc phục những trở ngại từ thiên nhiên, chiến đấu với giặc ngoại xâm để bảo vệ quê hương Tổ quốc. Chưa thấy sử liệu nào ghi chép rõ ràng về thời gian thành lập vùng đất Bình Thạnh ngày nay. Nhưng với sự kiện năm 1736, vua Chân Lạp là Nặc Tha vì nội chiến phải lưu vong đã được chúa Nguyễn cho đến định cư ở đất Gia Định, tại một khu đất bên hữu ngạn sông Bình Trị (sông Sài Gòn) thì vùng đất Bình Thạnh ngày nay chắc chắn đã đặt dưới sự quản lý của chúa Nguyễn từ khoảng 3 thế kỷ trước. Khi đó, để việc liên lạc giữa vùng đất này với vùng đất thị tứ cũng như giữa chính quyền sở tại với Nặc Tha được dễ dàng, chúa Nguyễn đã cho bắc một cầu gỗ qua sông gọi là cầu Cao Miên, ngày nay là cầu Bông. Đến thế kỷ XVIII, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, cư dân đã đến khai khẩn và định cư khá đông tại vùng đất bên hữu ngạn sông Bình Trị và dọc theo các con rạch. Thống suất Nguyễn Cửu Vân có người con gái tên là Nguyễn Thị Khánh sau khi lấy chồng đã đến khai khẩn vùng đất mé sông Bình Trị. Chồng của bà Nguyễn Thị Khánh là một ông Nghè làm thư lại trong thành Gia Định. Theo Đại Nam nhất thống chí, bà Nghè vì thương chồng cũng như dân trong vùng vất vả mỗi khi phải đợi đò qua sông, qua rạch nên đã bỏ tiền huy động dân công bắc một cầu gỗ qua rạch. Từ đó cầu có tên gọi là cầu Thị Nghè. Trong khoảng thời gian này, lưu dân người Việt đủ mọi tầng lớp vẫn tiếp tục tìm đến định cư tại vùng đất cao ráo, hữu tình bên hữu ngạn rạch Thị Nghè. Trong đoàn người di cư có cả các nhà sư đi tìm nơi yên tĩnh để tu hành. Chùa Sắc Tứ Tập Phước (tọa lạc trên đường Phan Văn Trị - Phường 11 ngày nay) là một trong những di tích còn lại hiện nay ghi nhận sự hiện diện của những thiền sư dòng Chúc Thánh trên đất Bình Thạnh từ những năm đầu thế kỷ XVIII (thời chùa Nguyễn Phúc Khoát). Vào năm 1748, con đường Thiên Lý ra phía Bắc được khai mở nối lỵ sở Gia Định với các tỉnh phía Bắc. Con đường này được xây dựng dưới sự chỉ huy của


17 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Nguyễn Hữu Doãn. Ông cho giăng dây, vạch đường thẳng, hễ gặp chỗ bùn lầy thì đắp cây và đất, gặp mương ngòi thì gác cầu, tạo thành một con đường thẳng tắp nối liền trung tâm lỵ sở Gia Định băng qua rạch Cầu Sơn cho đến bến đò Bình Đông. Đó là con đường Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày nay, chạy từ thành phố qua cầu Thị Nghè, vùng Hàng Xanh, Cầu Sơn rồi rẽ qua Thanh Đa, Bình Quới. Đây là con đường được mở sớm nhất trong hệ thống đường liên tỉnh của Nam bộ vì mãi đến năm 1818 đường Thiên Lý đi về phía Tây mới được xây dựng. Khi ấy con kênh Thanh Đa chưa được đào và do đó cũng chưa có cây cầu Kinh, vì thế con đường Thiên Lý trở thành con đường huyết mạch trong giao thông, nối liền Gia Định với vùng Đông Nam bộ, Trung bộ và kinh đô Phú Xuân. Năm 1772, thành phố lần đầu được quy hoạch sơ bộ bằng việc quan Điều khiển Nguyễn Cửu Đàm cho đắp Lũy Bán Bích. Năm 1790 (18 năm sau) thành Bát Quái được xây dựng để lập Gia Định kinh. Cửa phía Đông của thành Bát Quái (cửa Cấn Chỉ) được mở ngay con đường Thiên Lý ra Bắc và một con lộ được mở từ giữa kinh thành đi lên phía Bắc qua cầu xóm Kiệu (Cầu Kiệu), qua Phú Nhuận lên Gò Vấp rồi qua cầu Bông quay về vùng Đất Hộ (Đa Kao). Vùng đất Bình Thạnh lúc này nằm sát ngoại thành ở về phía Bắc - Đông Bắc của thành Bát Quái, chỉ cách thành Bát Quái bằng con rạch Thị Nghè. Trong suốt 12 năm (1776 - 1788), người dân ở đây đã chứng kiến sự xáo trộn thay nhau làm chủ vùng đất này giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh với 8 trận đánh lớn giữa hai bên. Năm 1779, trong một lần cùng tướng tá chạy trốn quân Tây Sơn, Nguyễn Anh đã đến tá túc tại chùa Sắc Tứ Tập Phước. Tương truyền, nhờ có vị sư trụ trì cầu xin Đức Phật mà Nguyễn Ánh thoát nạn; về sau khi lên ngôi (1802), nhớ đến ơn xưa nên Nguyễn Ánh đã sắc phong cho nhà chùa nên mới có tên gọi “Sắc Tứ Tập Phước tự” (trước đó chùa có tên gọi là Tập Phước tự). Lúc bấy giờ làng mạc, ruộng vườn ở các vùng phụ cận Sài Gòn bị đốt phá, bỏ hoang. Quá trình tụ cư trên mảnh đất này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự tàn phá của chiến tranh. Chính vì vậy, cho đến cuối thế kỷ XVII, đại bộ phận đất đai thuộc Bình Thạnh ngày nay còn rất hoang vu, dân cư chỉ lác đác, trong đó có nhiều vùng chưa được khai phá. Chỉ có các vùng quanh cầu Bông, Thị Nghè, Bà Chiểu đã khá đông đúc dân cư. Đặc biệt ở vùng Thị Nghè, phố xá đã xuất hiện ở hai bên con đường Thiên Lý. Đến thời Tây Sơn làm chủ đất Gia Định, vùng Cầu Sơn được tướng Tây Sơn là Nguyễn Trấn dự định chọn làm nơi dựng doanh trại để giữ Gia Định vì vùng Cầu Sơn “nằm trên đường quan lộ Thiên Lý nối Hậu Giang với Thuận Hóa, giữa vùng sông rạch thuận tiện giao thông ghe thuyền, xung quanh có sông Tân Bình


18 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) (Sài Gòn), sông Thị Nghè (trước là Nghi Giang) bao bọc”. Nguyễn Trấn dự kiến nơi gò bằng thì lập phố chợ, cho dời cả dân Sài Gòn đến ở vùng này. Nhưng dự án này không thực hiện được vì sau này nội bộ anh em Tây Sơn có sự bất hòa, Nguyễn Trấn theo lệnh của Nguyễn Nhạc rút quân về để yểm trợ. Với vị trí thuận lợi là vùng đất ven rạch Nghi Giang khá cao ráo nên không chỉ có thứ dân mà các quan chức làm việc trong nội thành cũng đã ra vùng đất thuộc Bình Thạnh ngày nay khai đất, lập vườn sinh sống hoặc chọn nơi đây làm nơi an táng. Chính vì vậy, trên một khu vực vòng cung khá dài từ Phú Nhuận - Gò Vấp - Bình Thạnh ngày nay chúng ta còn thấy có nhiều lăng mộ của một số quan tướng thời nhà Nguyễn như: Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Tánh... Khi giữ chức Tổng trấn Gia Định thành, Lê Văn Duyệt đã từng có một vườn hoa ở ngoài thành Gia Định - khu vục cầu Cao Miên (lúc ấy tên cầu được dân gian đổi tên thành cầu Hoa, sau đó đọc trại là cầu Bông vì kỵ húy bà Hồ Thị Hoa – người vợ đầu tiên của vua Minh Mạng). Năm 1832, Lê Văn Duyệt mất, được an táng tại xã Bình Hòa trên một vùng đất cao thượng du Nghi Giang (góc đường Đinh Tiên Hoàng - Phan Đăng Lưu ngày nay). Cũng vậy, Giám thành sứ khâm sai chưởng cơ Trần Văn Học mất năm 1837 cũng được an táng tại xã Bình Hòa trong thửa đất của ông Ngô Văn Đức, về sau được dời đến hoa viên trước trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định (nay là khu vực Đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ trước trường Đại học Mỹ thuật). Sau khi Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt mất (1832), Lê Văn Khôi - con nuôi của Lê Văn Duyệt do bất bình đã dấy binh chiếm thành Bát Quái, chống lại triều đình. Chính nhờ hệ thống giao thông đường thủy quan trọng là sông Sài Gòn cùng với các kinh rạch và lợi dụng vị trí cửa Tây thành Gia Định mở ra ở phía cầu thứ hai và thứ ba của rạch Thị Nghè (tức cầu Bông và cầu xóm Kiệu) mà trong cuộc khởi binh của Lê Văn Khôi năm 1835, nông dân ở quanh thành đã táo bạo lợi dụng các kênh rạch chằng chịt của sông Thị Nghè mà họ rất thông thạo để cung cấp các nhu yếu phẩm cho quân lính của Lê Văn Khôi vào lúc đêm tối, bất chấp các đơn vị thủy binh của quân triều đình đóng trên sông. Quân triều đình phải điều động thủy, bộ, tượng binh đối phó với cuộc nổi dậy do Lê Văn Khôi lãnh đạo. Trương Minh Giảng đem đại quân và voi tới bến Bình Đồng (Thanh Đa - Bình Quới) lên bờ theo đường Thiên Lý tiến đóng ở phía Bắc cầu Cao Miên. Bộ binh do Trương Minh Giảng chỉ huy đã đánh nhau với quân của Lê Văn Khôi ở xã Bình Hòa và chiếm cầu Cao Miên. Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi thất bại, năm 1836 vua Minh Mạng đã ra lệnh phá bỏ thành Bát Quái (thành Quy) để xây dựng lại thành mới có tên gọi là thành Phụng.


19 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Cũng trong năm 1836, Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế được cử vào Nam thực hiện việc đo lại ruộng đất và lập địa bạ. Địa bạ các thôn xã bấy giờ cho thấy thôn Bình Hòa tuy mới lập dưới triều Gia Long nhưng có diện tích khá lớn. Ruộng đất thực canh 216 mẫu 7 sào 3 thước, trong đó ruộng xấu điền tô chỉ bằng 1/4 ruộng tốt thảo điền. Đất thổ cư hơn 28 mẫu với 75 sở chủ. Vùng đất phì nhiêu này thu hút nông dân ở các vùng lân cận đến đây định cư và khá nhiều lao động, nhất là từ vùng Phú Nhuận đến làm thuê, khiến cho vùng Bình Hòa đã nhanh chóng phát triển để trở thành một xã có đông dân hơn các xã, thôn khác. Ruộng ở thôn Phú Mỹ có trên 52 mẫu, ngoài ra còn có 3 mẫu dùng làm ruộng tịch điền (ngày mùng 5 Tết hằng năm, Tổng trấn Lê Văn Duyệt đều đến cử hành lễ tịch điền tại đây), đất thổ cư trên 38 mẫu. Thôn Thạnh Đa có 124 mẫu ruộng. Còn thôn Bình Quới Tây thì có 239 mẫu. Gia cư hai thôn Thạnh Đa và Bình Quới nằm trên các gò đồi, chiếm diện tích không nhiều. Từ đó ta có thể hình dung được rằng, hiện tượng quần cư tại thôn Phú Mỹ và Bình Hòa lúc bấy giờ đông hơn hai thôn Thạnh Đa và Bình Quới Tây. Từ năm 1848 đến năm 1857, dưới thời Tự Đức, phương thức đồn điền lập ấp của Nguyễn Tri Phương đã góp phần tích cực vào sự phát triển của vùng đất Sài Gòn - Gia Định nói chung và vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Tháng 2 năm 1859, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh chiếm Sài Gòn. Chiến hạm L’ Avalanche đã được điều động tiến vào rạch Thị Nghè để thực hiện nhiệm vụ trinh sát hệ thống phòng thủ của lũy thành phía Bắc. Vì vậy mà rạch Thị Nghè còn có tên gọi là rạch L’ Avalanche (L’ Aroyo D’Avalanche). Từ tháng 2 năm 1859, khi quân Pháp đánh chiếm Gia Định, ngay từ những ngày đầu, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã có mặt trong những trận đánh ác liệt để bảo vệ vùng đất thân yêu của mình. Năm 1860, Nguyễn Tri Phương được cử vào Nam chỉ huy cuộc chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ông tăng cường củng cố đại đồn Chí Hòa dài 3 cây số, rộng 1 cây số với 5 điểm tựa để hỗ trợ nhau và có nhiều tiền đồn bao bọc bên ngoài; tâm điểm là phòng tuyến Chí Hòa cách Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây hơn 1000 mét theo đường chim bay. Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nằm ở vị trị tiền đồn phía Đông Bắc của tuyến phòng thủ đó. Ở phía Đông, rạch Thị Nghè chính là chiến lũy thiên nhiên hết sức quan trọng với hai nhóm chiến lũy và hai pháo đài được xây dựng ở tả ngạn và hữu ngạn. Rạch Thị Nghè được quân Pháp chọn là một trong những con đường quan trọng để thọc sâu đánh chiếm Đại đồn Chí Hòa và Sài Gòn. Trong những ngày tháng diễn ra cuộc chiến đấu quyết liệt giữa quân ta và liên quân xâm lược Pháp - Tây Ban Nha, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng Nhân dân Phú Nhuận đã có mặt trong hàng ngũ nghĩa quân và đội ngũ hậu cần tiếp


20 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) tế lương thực cho quân triều đình. Những cánh quân Pháp dùng thuyền ngược rạch Thị Nghè nhằm thực hiện việc tuần tiễu, điều tra và đánh phá công sự của ta đều bị đánh lui với nhiều thiệt hại, điển hình như trận đánh vào đồn Phú Nhuận của địch vào cuối năm 1860. Đại đồn thất thủ, Gia Định hoàn toàn rơi vào tay của quân xâm lược Pháp, triều đình Huế bất lực nhưng Nhân dân Gia Định vẫn tiếp tục chiến đấu chống ngoại xâm dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước. Sau khi triều đình Nguyễn ký hòa ước giao 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp, cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định và ba tỉnh miền Đông, hoạt động quấy rối quân Pháp của Nhân dân không ngừng diễn ra trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Nổi bật là trận phục kích của dân làng Phú Mỹ bắn trọng thương tên Harmand - đại úy hải quân Pháp khi hắn đi tuần thám trên sông Thị Nghè vào năm 1860. Trước sự nổi dậy phản kháng liên tục của Nhân dân ta, quân Pháp tăng cường lực lượng phòng thủ, đặc biệt là ở khu vực cầu Thị Nghè - Cầu Bông. Trong Dự án Sài Gòn thành phố 500.000 dân của trung tá công binh Coffyn ngày 30 tháng 4 năm 1862 trình bày về việc phòng thủ nêu rõ: “Về phía sông và rạch Bến Nghé, rạch Thị Nghè, nội thành được bảo vệ bằng chính các sông rạch đó, ngoài ra còn bằng hai đồn và hai pháo đài... Pháo đài thứ hai đặt ở điểm Nam của khoảnh đất chùa vua cũ (tức Văn Thánh miếu, ở góc sông Sài Gòn với rạch Thị Nghè phía bên kia xưởng Ba Son)”(1). Tiếp theo tháng 10 năm 1862, Phó đô đốc, Tổng tư lệnh quân Pháp Louis Adolphe Bonard ký lệnh yêu cầu thực hiện: “quân số các đơn vị quân đội tại Sài Gòn không được vượt quá số quân đồn trú tại 3 cầu trên rạch Thị Nghè”. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc phòng thủ ở vùng đất cửa ngõ này. Giữa năm 1864, P.Vial - một sĩ quan phụ tá đặc trách sự vụ bản xứ thuộc bộ tư lệnh quân viễn chinh đã phải gửi thư yêu cầu quan phủ dùng các biện pháp cần thiết để bắt tất cả “những kẻ lang thang sống dọc lũy thành cũ, gần rạch Thị Nghè... không để trốn thoát một người nào có tham dự vào những vụ hỗn loạn vừa qua” và đề nghị tăng cường thêm lực lượng canh giữ các cầu ở vùng Thị Nghè, cầu Bông, đồng thời hối thúc làng Phú Mỹ lập thêm trạm gác trên lề đường lộ mới ở lối vào Thị Nghè để kiểm tra lối ra này cả ngày lẫn đêm. Song mọi sự phòng bị của thực dân Pháp vẫn bị vô hiệu hóa trước tinh thần phản kháng kiên cường của những người dân yêu nước. Cùng với việc xây dựng hệ thống phòng thủ để bảo vệ thành phố, chính quyền thực dân cũng đã không ngừng đẩy mạnh việc khai thác quy hoạch đất đai và xây 1. Trương Vĩnh Ký, (Nguyễn Đình Đầu dịch), Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận, tr. 84.


21 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) dựng phố xá trên mảnh đất cửa ngõ này. Làng xóm mới được lập nên. Cầu, đường được khai mở, tu sửa lại. Một ngôi làng mới đã được thành lập ở vùng đất giữa cầu Bông và cầu Kiệu vào năm 1864 theo đề nghị của quan bố Sài Gòn là Boresse. “Làng Đà Nẵng” ở vàm Thị Nghè được dời về phía cầu Bông để lấy chỗ xây dựng xưởng Ba Son. Một con lộ mang tên Hoàng Gia dài 1200m cũng được lệnh phác họa để khai mở giữa khu Văn Thánh và Cầu số 3 (cầu Kiệu) vào tháng 2 năm 1865... nhiều hương lộ, tỉnh lộ cũng được xây dựng làm thay đổi cảnh quan của vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Đất đai vẫn còn rộng và hoang vu sau trận chiến 1859, chính quyền thực dân đã thực hiện chế độ khuyến khích khai thác đất đai vào việc trồng cây công nghiệp bằng cách chia đất thành từng lô và định giá bán. Việc bán đất được tổ chức hai tháng một lần. Những lô đất có đơn nộp đăng ký mua trước sẽ được đưa ra đấu giá trên bến sông rạch Bến Nghé và Thị Nghè được xếp vào loại 3 với giá 15 quan 1 mét vuông. Vì vậy từ cuối thế kỷ XIX, Bình Hòa - Phú Nhuận - Gò Vấp trở thành vùng đất để thực dân Pháp thử nghiệm trồng cây công nghiệp, nhất là cao su. Những vườn cao su tươi tốt đã lần lượt mọc lên ở vùng ngã năm Bình Hòa, đồng Ông Cộ cùng với những dinh thự và hệ thống đồn bót của các chủ đồn điền người Pháp. Năm 1874, vùng Bà Chiểu được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Gia Định, Tòa Bố được dời về đây. Đoạn đường từ cầu Bông đến ngã ba Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên Hoàng hiện nay được đặt tên là Avenue de l’Inspection, nhưng dân trong vùng thường gọi là Hàng Thị vì hai bên đường có trồng nhiều cây thị. Phong trào đấu tranh yêu nước của Nhân dân ta vẫn tiếp tục nổ ra như thách thức mọi hoạt động tăng cường an ninh phòng thủ của thực dân Pháp. Năm 1885, Đề Bường (Nguyễn Văn Bường) - một sĩ phu yêu nước có nhà ở ngay chân cầu xóm Kiệu đã tập hợp nhân dân, kết hợp với lực lượng của Phan Công Hớn ở Hóc Môn dự định tổ chức một cuộc khởi nghĩa lớn mà trước hết là nghĩa quân của Đề Bường đánh qua cầu xóm Kiệu, đốt phá công sở, đồn bót giặc ở vùng Tân Định, đốt chợ khu Đất Hộ (Đa Kao) rồi tiến thẳng về Sài Gòn. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lúc bấy giờ thuộc Gò Vấp đã lập tức có mặt trong hàng ngũ những người nông dân yêu nước sẵn sàng chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Nhưng cuộc khởi nghĩa chưa kịp nổ ra theo dự định thì Đề Bường bị bắt. Một mặt ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của Nhân dân ta, mặt khác thực dân Pháp vẫn không ngừng đầu tư phát triển về giao thông ở Sài Gòn - Gia Định để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa của chúng.


22 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Năm 1896, tuyến đường sắt nối Sài Gòn, Gia Định và Gò Vấp được khởi công xây dựng. Năm 1897, kênh Thanh Đa được khởi đào, thu ngắn được 12km tuyến đường thủy trên sông Sài Gòn. Kênh rộng 60m, dài 1,35km và sâu 6m nối hai nhánh eo của sông Sài Gòn đến Phú An, là đường lưu thông thuận tiện cho các tàu thuyền có trọng tải nhỏ, đồng thời biến bán đảo Thanh Đa thành một cù lao có 4 mặt giáp với sông. Chính địa thế hiểm trở này đã tạo nhiều thuận lợi cho phong trào đấu tranh yêu nước của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sau này. Vào đầu thế kỷ 20, khi phong trào “Hội kín“ đang phát triển mạnh ở Nam Kỳ, mà đặc biệt là “Hội kín Phan Xích Long” ở Sài Gòn thì một tổ “Hội kín” đã được Bùi Văn Lê thành lập ở Bình Quới Tây thu hút sự tham gia đông đảo của giới thợ thuyền và nông dân trong vùng. Các hoạt động rải truyền đơn, tấn công những vị trí quan trọng của Pháp ở nội thành... của tổ “Hội kín” này đã gây cho chính quyền thực dân nhiều khó khăn. Không chỉ ở Bình Quới Tây, Nhân dân khắp nơi đều tích cực hưởng ứng phong trào đấu tranh của “Hội kín Phan Xích Long”. Một chủ trại thợ khá lớn ở Bình Hòa tên là Tám Giàu đã nhận lời chế tạo trái phá chuẩn bị cho kế hoạch khởi nghĩa của Phan Xích Long vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng 2 âm lịch năm 1913 ở Sài Gòn. Cuộc khởi nghĩa năm 1913 bị thất bại, Phan Xích Long bị bắt. Tổ “Hội kín” do Bùi Văn Lê đứng đầu tham gia trận đánh Khám Lớn Sài Gòn (1916) để giải thoát cho Phan Xích Long, nhưng việc không thành. Thực dân Pháp bắt và xử tử nhiều chiến sĩ và đồng bào yêu nước. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp thực hiện cuộc “đại khai thác lần thứ nhất”. Năm 1902, cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn được xây dựng. Năm 1903, đường tàu điện Sài Gòn - Gò Vấp, Gò Vấp - Hóc Môn, Sài Gòn - Chợ Lớn được xây dựng... Giao thông giữa Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây với các vùng dân cư khác và trung tâm Sài Gòn ngày càng thuận lợi. Bấy giờ từ Sài Gòn đi Bà Chiểu có thể qua các ngõ cầu Kiệu, cầu Bông hay cầu Thị Nghè. Những người buôn bán nhỏ từ Hóc Môn, Gò Vấp đến vùng Bà Chiểu, Thị Nghè và những công nhân viên chức sống tại Bình Hòa nhưng làm việc tại các công sở, hãng xưởng ở Sài Gòn đã có điều kiện di chuyển dễ dàng hơn. Đầu thế kỷ XX, số lượng công nhân ở Sài Gòn đã tăng lên đến 25.000 người. Phong trào đấu tranh của công nhân đã xuất hiện song hình thức đấu tranh buổi đầu còn lẻ tẻ, manh động. Từ năm 1920, tổ chức “Công hội bí mật” do đồng chí Tôn Đức Thắng thành lập ở xưởng Ba Son đã sớm gây được ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp Nhân dân Gia Định. Một bộ phận Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ


23 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tây trước hết là những công chức, thợ thuyền làm việc ở xưởng Ba Son, hãng mỡ Guyonnet và hãng dầu Phú Mỹ... đã tích cực tham gia vào tổ chức công hội và các hoạt động đấu tranh do tổ chức Công hội bí mật phát động. Đồng thời, lúc này với phong trào “vô sản hóa” những học trò ưu tú của Nguyễn Ái Quốc đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đến với phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Trong hai năm 1925 và 1926, phong trào bãi công, bãi thị, bãi khóa của công nhân Sài Gòn - Gia Định đấu tranh đòi thả cụ Phan Bội Châu và đưa tang cụ Phan Chu Trinh - những chí sĩ cách mạng yêu nước lại một lần nữa được đông đảo Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực hưởng ứng với ý thức chính trị sâu sắc hơn. Có thể nói, sự có mặt của mọi tầng lớp nhân dân ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong các phong trào đấu tranh yêu nước diễn ra từ nửa đầu thế kỷ XIX cho đến đầu thế kỷ XX đã tạo cơ sở xã hội cho phong trào đấu tranh cách mạng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây sau này dưới sự lãnh đạo của Đảng từ những năm 1930 đến khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Trong lịch sử chống ngoại xâm và đấu tranh cách mạng của dân tộc, của nhân dân thành phố, có những đóng góp, hy sinh lớn lao của các thế hệ cư dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Đó là những con người cần cù, tiêu biểu cho đức tính cần cù, chịu thương chịu khó, nhân hậu, thủy chung; tiêu biểu cho tinh thần nghĩa hiệp hào phóng, bất khuất nhưng lãng mạn yêu đời cũng như tính năng động nhạy bén với thời cuộc của người Việt Nam trên vùng đất mới Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây - Bình Thạnh ngày nay.


THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP DÂN TỘC (1930 - 1975)


27 Chương một PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY TỪ KHI CÓ ĐẢNG ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 I. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI Ở BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY TỪ KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC ĐẾN TRƯỚC NĂM 1930 Sau khi cơ bản hoàn thành việc đánh chiếm bằng quân sự, thực dân Pháp tiến hành áp đặt bộ máy cai trị và triển khai việc khai thác nguồn đất đai, vật lực ở Nam Bộ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng. Để tiến hành khai thác thuộc địa, một trong những công việc đầu tiên mà thực dân Pháp thực hiện là phát triển hệ thống giao thông. Tại Sài Gòn - Gia Định, nhiều hương lộ, tỉnh lộ, cầu ở vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được nâng cấp, sửa chữa hoặc xây dựng mới. Trong số đó đáng kể là đường làng số 15 Bình Hòa nối với Thủ Dầu Một, qua cầu Bình Lợi (được xây dựng năm 1902); đường Bến Cát nối vùng Bình Hòa với Gò Vấp; tỉnh lộ 1 bis từ vùng Chợ Lớn đi Phú Mỹ (vùng Thị Nghè hiện nay), vòng qua Bà Chiểu, ngã tư Phú Nhuận lên Lăng Cha Cả dài 10,290 km. Về đường bộ lúc bấy giờ từ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đi Sài Gòn có thể theo các tuyến qua cầu Bông, cầu Thị Nghè, cầu Kiệu... Trong những năm 80 của thế kỷ XIX, nhiều đường làng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được mở rộng, nâng cấp để xe bò, xe ngựa, xe thổ mộ... có thể lưu thông dễ dàng và đáp ứng mật độ lưu thông ngày một nhiều của các loại xe. Năm 1896 tuyến tàu điện chạy bằng hơi


28 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) nước Sài Gòn - Gò Vấp được khởi công xây dựng. Tuyến này xuất phát từ Sài Gòn qua đại lộ Charner đến bờ sông, dọc theo bến cảng Primangnet ngược lên Đường Thành (Boulevard de la Citadelle) vòng qua phố Bangkok, trại lính thủy đánh bộ và Trường Thi cũ. Ở Đa Kao đường tàu vượt qua rạch Thị Nghè trên cây cầu Sắt dài 40m để đi vào tỉnh Gia Định dọc theo đường cũ Bình An Đông, chạy tiếp đến chợ Bà Chiểu (Bình Hòa). Cho đến năm 1900, đây là tuyến tàu điện duy nhất được xây dựng và hoạt động trên địa bàn tỉnh Gia Định, với 3 trạm: trạm Gia Định (cạnh chợ Bà Chiểu), trạm chùa (cách trạm Gia Định một quảng ngắn) và trạm Gò Vấp (ở quảng đường đi vào chợ Gò Vấp, đây cũng là trạm đặt máy và than đốt). Mỗi ngày tàu hoạt động từ 5 đến 19 giờ, mỗi chuyến cách nhau 30 phút. Hành khách đi tàu điện chủ yếu là thợ thuyền, công nhân viên chức trú ngụ ở Gia Định, Bình Hòa nhưng làm việc tại các cơ quan, nhà máy, xưởng kỹ nghệ ở Sài Gòn và những người buôn bán nhỏ. Năm 1897, kênh Thanh Đa được khởi đào và hoàn thành năm 1898, nối hai nhánh eo của sông Sài Gòn từ Bình Lợi đến An Phú, rút ngắn được 12 km tuyến đường thủy trên sông Sài Gòn. Với hệ thống giao thông khá thuận lợi, bao gồm đường thủy, đường bộ và đường tàu điện, các vùng phát triển sớm của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây như Bà Chiểu, Thị Nghè, Bình Hòa... ngày một tập trung đông dân cư. Những khu dân cư mới cũng được hình thành như: Xóm Gà, Cầu Sơn... Từ năm 1930, vùng đất còn hoang vu, rộng lớn phía sau chợ Bà Chiểu kéo dài đến khu vực Thị Nghè và khu vực Hàng Xanh bắt đầu được khai thác, định cư bởi những lớp cư dân mới. Đường bộ nối trung tâm thành phố với quốc lộ 1 (ngày nay) qua địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lúc ấy chỉ là con đường đất nhỏ hẹp, song đã góp phần rất quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa, phương tiện chiến tranh ra các tỉnh miền Đông. Do vậy tại ngã ba Hàng Xanh, thực dân Pháp xây bót và canh gác ngày đêm. Cùng với việc mở rộng hệ thống giao thông thủy bộ, thực dân Pháp tiến hành khai thác nguồn đất đai rộng lớn, phì nhiêu và nguồn nhân công rẻ mạt của vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Chính quyền thuộc địa cho phép các nhà tư bản thực dân thâu gom ruộng đất, kể cả việc chiếm đoạt để lập đồn điền trồng các loại cây công nghiệp như vani, cà phê, cao su và trồng lúa. Chỉ tính riêng các khu vực Bình Hòa và Bình Quới Tây đã có 3 đồn điền lớn: đồn điền của Berland ở Bình Hòa rộng 3 ha, trồng 6.000 gốc cà phê và 200 gốc vani; đồn điền của Relland, ở Bình Hòa với 5 ha đất sét pha cát, trồng cà phê Liberia từ năm 1897; đồn điền của Mauler, gồm 40,6 ha đất sét ở Bình Quới Tây, trồng lúa từ năm 1893.


29 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Bên cạnh việc khai thác nguồn lợi đất đai, giới tư bản Pháp còn đầu tư vào nhiều ngành nghề khác. Tính đến đầu thế kỷ 20, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã có đến hàng trăm cơ sở sông nghiệp, thủ công nghiệp cỡ nhỏ, chủ yếu tập trung ở các ngành: dệt, nhuộm, chế biến gỗ, nấu đường, nấu rượu... của các tư bản người Pháp, một số người Hoa và người Việt. Trong đó đáng chú ý là các cơ sở: xưởng Trường Tiền Cây Quéo, xưởng Trường Tiền Phú An, xưởng Trường Tiền Gia Định, hãng Orciny, hãng mỡ Guyonnet... Riêng lĩnh vực nấu rượu thuộc độc quyền của thực dân Pháp, nên ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây chỉ có xưởng nấu rượu của Massari người Pháp tại Bình Hòa. Đây là một trong những cơ sở nấu rượu ở Gia Định lúc bấy giờ. Về mặt hành chính, khu vực Bà Chiểu (Bình Hòa) được thực dân Pháp chọn làm tỉnh lỵ cho tỉnh Gia Định. Cùng với việc chính quyền thực dân đặt Tòa Bố ở đây (nay là trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh) thì đường sá cũng được mở rộng, dân cư ngày một đông hơn và phố thị cũng theo đó phát triển ngày càng thêm sầm uất. Hoạt động thương mại ở tỉnh Gia Định mà trung tâm là khu vực Bà Chiểu bắt đầu phát triển nhanh. Theo Monographie de la Province de Gia Định 1902 (Địa chính tỉnh Gia Định 1902) thì “hoạt động thương mại của tỉnh Gia Định những năm cuối thế kỷ 19 đang trên đà phát triển, vì giao lưu thuận lợi với hai thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Hàng hóa của tỉnh tập trung tại các chợ quan trọng (ở Bình Hòa, Phú Nhuận, Gò Vấp, Hóc Môn, Thủ Đức....). Những thương gia cỡ lớn đều là người Hoa. Một số người Việt cũng bắt đầu tham gia nhiều hơn vào hoạt động thương mại của tỉnh. Họ mở những cửa hàng bề thế bên cạnh các chợ quan trọng, nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán bằng thuyền ghe”(1). Cùng với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cho đến đầu thế kỷ XX, xã hội Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã có những thay đổi mà quan trọng nhất là sự biến đổi trong thành phần dân cư. Một bộ phận cư dân nông nghiệp ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã chuyển thành công nhân công nghiệp, làm việc trong các đồn điền cao su, các hãng xưởng công nghiệp của các chủ tư bản Pháp và của cả tư sản bản địa. Phần lớn lực lượng công nhân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây thời kỳ này tập trung làm việc ở các cơ sở lớn: xưởng đóng - sửa chữa tàu Ba Son nằm bên bờ sông Thị Nghè - sát với khu vực Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè); xưởng xe điện; Sở Bưu điện...; các công xưởng khác trên khắp địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Với phương tiện đi lại chính của họ là tàu điện, chính vì vậy mà trong Monographie de la Province de Gia Định 1902 (Địa chính tỉnh Gia Định 1902) đã cho biết: “Khách 1. PGS. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam cận đại - Những sử liệu mới, tập 2, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh 1998.


30 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đi tàu điện chủ yếu là thợ thuyền trú ngụ ở Gia Định, Bình Hòa, Gò Vấp đi làm việc tại các hãng kỹ nghệ trong thành phố Sài Gòn...”(1). Bên cạnh đội ngũ công nhân chuyên nghiệp, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn có lực lượng công nhân bán chuyên nghiệp, cũng có thể gọi họ là công nhân theo thời vụ. Bởi lẽ, họ vốn là những nông dân, nhưng khi thời vụ mùa đã thu hoạch xong thì họ đi vào thành phố, xin làm công cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhằm kiếm thêm thu nhập cho gia đình, cải thiện đời sống. Khi vụ mùa đến, họ lại trở về nhà để lo việc đồng áng. Đầu tiên khi đến làm thuê cho các hãng xưởng, những người nông dân này chỉ nghĩ đến vấn đề trước mắt là kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Nhưng chính cuộc sống lao động như vậy đã giúp họ được tiếp xúc với các máy móc, thiết bị công nghiệp và tác phong của một công nhân công nghiệp cũng bước đầu được hình thành. Đây là một lực lượng xã hội đông đảo, một trong những thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập và nhanh chóng phát huy được ảnh hưởng trong các tầng lớp nhân dân địa phương. Như vậy, cùng với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cho đến những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội nông thôn truyền thống ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã có những biến đổi quan trọng. Số dân lao động nghèo tập trung ở đây ngày một đông hơn, nhất là ở khu vực gần các tuyến đường tàu điện, đường bộ và ven sông rạch. Trong đó đội ngũ thợ thuyền, công nhân trên địa bàn được bổ sung ngày càng nhiều. Đây là những người sớm được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin và lực lượng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin đến các tầng lớp nhân dân lao động ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Từ những năm 20 của thế kỷ XX, nhất là từ năm 1926 trở về sau, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là một trong những địa bàn ở thành phố sớm có ảnh hưởng của tư tưởng Mác-xít trong công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc và lý luận về chủ nghĩa cộng sản được truyền đến người dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây qua các báo Người cùng khổ (Le Paria), Việt Nam hồn, Đấu tranh (La Lutte) và nhiều tài liệu bằng tiếng Pháp khác. Năm 1926, tại Quảng Châu - Trung Quốc, để tập hợp những người yêu nước Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng 1. PGS. Nguyễn Phan Quang, sđd, tr. 58.


31 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Thanh niên. Người đã trực tiếp huấn luyện và giáo dục hội viên theo xu hướng cộng sản, rồi phái về nước hoạt động nhằm gây dựng cơ sở, chuẩn bị cho việc tiến tới thành lập một chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Trong khi đó, từ năm 1920, giai cấp công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã có tổ chức công hội bí mật do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập và đã được tôi luyện qua một số phong trào đấu tranh chống áp bức, bất công dưới sự lãnh đạo của Công hội. Tháng 10 năm 1926, sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, hai đồng chí Phạm Trọng Bình và Nguyễn Văn Lợi được bố trí về Sài Gòn hoạt động. Chỉ trong một thời gian ngắn, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không chỉ phát triển mạnh ở Sài Gòn mà còn gây dựng cơ sở, phát triển lực lượng ở nhiều địa phương khác. Riêng khu vực thị xã Gia Định, đến tháng 5 năm 1929 mới thành lập được một tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, do đồng chí Phạm Trọng Quảng xây dựng ở hãng dầu Phú Mỹ (Thị Nghè), gồm 4 đồng chí: Quảng, Hướng, Bồ và một đồng chí nữ (không rõ tên). Từ tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên này, các đồng chí đã tích cực hoạt động, xây dựng nhiều tổ hạt nhân nòng cốt, tạo tiền đề cho sự ra đời của hệ thống cơ sở, hạt nhân nòng cốt của Đảng, của cách mạng khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Cùng với sự hoạt động tích cực để gây dựng cơ sở của các đồng chí trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, các tầng lớp nhân dân lao động ở Sài Gòn - Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng còn được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin qua các số báo Thanh niên do đồng chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập và chủ trì; các tài liệu cộng sản khác từ Trung Quốc hoặc từ Pháp gửi về: báo L’ Humanité (Nhân đạo), La vie Ouvrière (Đời sống công nhân); các tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin: A.B.C du Communisme (Cộng sản chủ nghĩa sơ học) của Boukharine, La Doctrine Soviétique du droi international (Lý thuyết Xô Viết về luật quốc tế), La Monde Soviétique (Thế giới cộng sản), Cahiers des droits de l’homme (Sách về nhân quyền)... Ngoài ra, Kỳ bộ thanh niên Nam kỳ còn phát hành được một vài số tạp chí Bôn Sê Vích, báo Công Nông Binh do đồng chí Phạm Văn Đồng và Nguyễn Kim Cương phụ trách. Tất cả các tài liệu này trước hết được lực lượng công nhân tiếp nhận, chuyền tay nhau đọc và qua họ chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá đến người thân, bà con trong xóm làng, đồng nghiệp. Từ đầu năm 1927, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, các đảng viên thuộc tổ chức Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Tân Việt) hoạt động mạnh mẽ.


32 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đây là một tổ chức được thành lập ở ngoài Bắc, trụ sở cơ quan lãnh đạo đặt ở miền Trung, lấy nội dung tài liệu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên huấn luyện cho đảng viên của mình và đã mở rộng phạm vi hoạt động vào Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh Nam Kỳ. Tháng 3 năm 1927, khi được cử vào hoạt động ở Sài Gòn - Gia Định, các đồng chí đảng viên Tân Việt như: Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Trần Phạm Hồ, Nguyễn Khoa Hiền... đã đến dạy học tại trường tư thục An Nam học đường ở phố Hàng Keo - Bà Chiểu (còn gọi là trường Xích Hồng, nay là Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Thạnh - số 24C đường Phan Đăng Lưu). Thông qua việc dạy học, các đồng chí mở rộng mối quan hệ giao tiếp và khéo léo truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục tư tưởng yêu nước và những khái niệm, những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa cộng sản cho học sinh, giáo viên ở trường và nhiều viên chức, trí thức ở cơ sở khác trên địa bàn như: giáo viên và học sinh trường vẽ Gia Định, anh chị em công nhân Lò Heo - Bà Chiểu, anh em trí thức và lao động Xóm Gà và các tầng lớp nhân dân lao động ở vùng Bà Chiểu, Thị Nghè. Trong hai năm 1927 và 1928, Tân Việt Cách mạng Đảng đã nhanh chóng phát huy được ảnh hưởng sâu rộng, mở được hai lớp huấn luyện đảng viên mới vào năm 1928 theo chương trình chính trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu, trong đó có một số đảng viên ở thị xã Gia Định. Đặc biệt là đồng chí Hà Huy Tập đã có những năm tháng hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi và oanh liệt ở Sài Gòn - Gia Định nói chung và Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Từ tháng 3 năm 1927, với tư cách là đảng viên của Hưng Nam (sau là Tân Việt), đồng chí từ Vinh vào dạy học ở trường An Nam học đường và len lỏi vào các xóm lao động, xóm thợ ở các vùng phụ cận tuyên truyền cách mạng. Đến tháng 6 năm 1928, đồng chí bị đình chỉ dạy học vì hoạt động chính trị trong học sinh các trường và tổ chức nhiều cuộc bãi khóa ở An Nam học đường. Từ năm 1929, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn có sự hoạt động của Đông Dương Cộng sản đảng. Đặc biệt là những khu lao động nghèo ở vùng Thị Nghè đã được đồng chí Ngô Gia Tự chọn làm nơi trú ngụ và hoạt động trong những tháng ngày thực hiện chủ trương “vô sản hóa”. Cũng tại đây, đêm 31 tháng 5, rạng ngày 1 tháng 6 năm 1930, giặc Pháp bất ngờ lùng sục vào xóm Phú An (nay thuộc Phường 22) và bắt được đồng chí Ngô Gia Tự trong một căn nhà lá lụp xụp. Lúc ấy, đồng chí đang giữ chức vụ Bí thư Lâm thời Chấp ủy Nam Kỳ. Như vậy, cùng với cả nước và Sài Gòn - Gia Định, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, hoạt động của các đồng chí trong Hội Việt Nam Cách mạng


33 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã diễn ra sôi nổi, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị những điều kiện, những tiền đề cho việc xây dựng cơ sở, lực lượng cách mạng, tiến tới thành lập một chính đảng của giai cấp vô sản, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. II. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY TỪ NĂM 1930 ĐẾN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 năm1945 Khi cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản bắt đầu diễn ra, Đông Dương - trong đó có Việt Nam đã phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề. Cùng với chính sách cai trị hà khắc như tăng cường đàn áp, khủng bố, lập thêm nhiều nhà tù, trại giam để giam cầm những người yêu nước, đấu tranh cho độc lập dân tộc, những người dám chống lại ách áp bức bất công, thực dân Pháp còn ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân lao động ở Sài Gòn và trên cả nước nói chung trong những năm khủng hoảng kinh tế. Nông dân không trả nổi nợ cho địa chủ nên bị chiếm đất. Công nhân, thợ thuyền thất nghiệp hoặc bị giảm lương trong khi tăng thêm thời gian lao động... Tuy nhiên, cũng chính trong năm 1929, xu hướng cộng sản nổi lên mạnh mẽ ở cả ba kỳ và chỉ trong vòng nửa cuối năm 1929, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời: An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Cả ba tổ chức đều tuyên truyền tinh thần yêu nước và chủ nghĩa Mác - Lênin trong quảng đại quần chúng lao động. Nhưng thực tế hoạt động biệt lập của ba tổ chức cộng sản đã đặt ra một yêu cầu bức bách là cách mạng Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của một chính Đảng. Trước yêu cầu lịch sử đó, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, tại một xóm thợ ở Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc) đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để lập ra một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Việc hợp nhất các tổ chức cộng sản trên địa bàn thành phố được tiến hành ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Tính đến cuối năm 1930, trên địa bàn tỉnh Gia Định có khoảng 26 xã đã thành lập được chi bộ, với gần 180 đảng viên. Trong đó, quận Gò Vấp có 20 chi bộ. Riêng khu vực Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây (thuộc Gò Vấp), lúc này chưa thành lập được chi bộ, nhưng đã có một tổ Đảng ở ấp Trung - vùng Cây Thị (nay thuộc Phường 10, 11) hình thành từ giữa năm 1930, gồm 3 đồng chí: Võ Thị Tiếng, Nguyễn Văn Nghi và Võ Văn Tâm. Bên


34 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) cạnh đó, còn có khá nhiều cơ sở của Đảng đã được xây dựng ở khắp nơi trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây như: hãng dầu Phú Mỹ (nay thuộc Phường 19), Sở Bông (nay thuộc Phường 19), xóm Cầu Sơn (nay thuộc Phường 26), xóm Ụ Tàu (nay thuộc Phường 25), xưởng Trường Tiền Gia Định (nay thuộc Phường 3), xưởng Trường Tiền Cây Quéo (nay thuộc Phường 5, 6), trường vẽ Gia Định (Đại học Mỹ thuật ngày nay), xóm Lò Vôi (nay thuộc Phường 12) và một tổ Công hội đỏ ở hãng dầu Phú Mỹ. Để tạo thế hoạt động hợp pháp, đồng chí Nguyễn Văn Nghi, Võ Thị Tiếng và một số đồng chí khác đã thành lập đoàn cải lương lấy tên là “Đồng Nghĩa Hiệp”, quy tụ khoảng 40 thanh niên là quần chúng tích cực và cảm tình Đảng. Thực chất đây là tổ chức cách mạng được thành lập sớm trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây với danh nghĩa là một đoàn nghệ thuật phục vụ cho rộng rãi quần chúng. Đoàn đã khéo léo khơi dậy tinh thần đoàn kết dân tộc, lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất của các thế hệ cha ông trong các tầng lớp nhân dân Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng thông qua nội dung các vở diễn. Bên cạnh đó, với thế hoạt động hợp pháp, đoàn đã tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đóng góp để xây dựng quỹ hoạt động cho Đảng. Tại hãng dầu Phú Mỹ, ngay sau khi ba tổ chức cộng sản hợp nhất thì một tổ Công hội đỏ cũng được thành lập. Đây là một trong 12 tổ Công hội bí mật của thành phố lúc bấy giờ đặt dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy và Tổng Công hội Nam Kỳ. Theo chủ trương của Tổng Công hội, tổ Công hội ở hãng dầu Phú Mỹ tổ chức ra đội tự vệ và đội đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ thành công nhiều cuộc mít tinh do công hội tổ chức tại đây trong năm 1930 và đầu năm 1931. Thành tích của các đội tự vệ - tổ Công hội trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định nói chung và ở hãng dầu Phú Mỹ nói riêng được nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3 năm 1931 ghi nhận: “Chung quanh Sài Gòn trong mấy tháng nay, nếu không có một vài đội công nhân tự vệ thì thợ thuyền không thể hành động được. Các cuộc diễn thuyết ở Nhà Bè mà được hoàn toàn, làm cho bảy, tám thợ bỏ việc ra về là nhờ có công nhân tự vệ ở Nhà Bè đánh vào đầu tên cảnh sát và vất khẩu súng của nó đi, buộc nó phải thả người diễn thuyết, nói xong rồi mới giải tán. Ở Phú Mỹ (hãng dầu) cũng vậy, có đội tự vệ ngăn ngừa tụi chó săn thì cuộc mít tinh mới được hoàn toàn”(1). 1. Ban Chấp hành Đảng bộ quận Bình Thạnh, Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân quận Bình Thạnh (Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây) dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1975), Ban Tuyên giáo Quận ủy quận Bình Thạnh, 1989, tr. 18, 19.


35 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Chỉ trong khoảng tháng 3 năm 1930, việc hợp nhất các tổ chức Cộng sản và thành lập các chi bộ mới của Đảng tại Sài Gòn - Gia Định đã được thực hiện. Cùng với Ban Lâm thời Chấp ủy thành phố Sài Gòn, Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Gia Định cũng được thành lập, đồng chí Lê Trọng Mân được cử làm Bí thư. Ngay sau đó, Tỉnh ủy lâm thời Gia Định cử các đồng chí Lưu Minh Châu, Hồ Văn Long, Tư Hè, Năm Giò... về các địa phương thuộc quận Gò Vấp hoạt động để củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức, cơ sở Đảng. Tháng 9 năm 1930, Đại hội lần thứ I Đảng bộ Gia Định đã chính thức thành lập Tỉnh ủy Gia Định, gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Văn Tây làm Bí thư và các đồng chí: Nguyễn Chí Hiếu, Hồ Văn Long, Lê Văn Phận, Bùi Văn Châu. Tháng 12 năm 1930, Quận ủy đầu tiên của quận Gò Vấp được thành lập, đồng chí Nguyễn Thiệt được cử làm Bí thư. Như vậy, từ cuối năm 1930, các phong trào đấu tranh của Nhân dân Gia Định nói chung, Gò Vấp, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng đã có sự lãnh đạo thống nhất, trực tiếp của các cấp ủy Đảng. Riêng vùng Thạnh Mỹ Tây, với vị trí ở sát xưởng Ba Son - một trong những trung tâm cách mạng của cả thành phố, trong năm 1934, đồng chí Nguyễn Văn Nghi - Thường vụ Xứ ủy về hoạt động tại chi bộ Ba Son và lãnh đạo phong trào cách mạng ở cả vùng Đông Bắc, đã cử nhiều đảng viên thuộc chi bộ Ba Son về các công xưởng, xóm, ấp trong khu vực Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây để xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng. Trong số đó, đồng chí Tám Thạnh đi vào vùng Phú An (nay thuộc Phường 22). Sau một thời gian hoạt động, đồng chí Tám Thạnh đã giác ngộ được một số quần chúng. Trên cơ sở đó, một tổ hạt nhân của Đảng được thành lập ở vùng Phú An gồm các đồng chí: Phan Văn Đặng (công nhân thợ nguội xưởng Tràng Tiền Phú An), Phan Văn Thời, Chín Đinh... Các đồng chí này lần lượt được kết nạp vào Đảng và là những đảng viên thuộc thế hệ đầu tiên ở địa phương. Ngay sau khi thành lập, bằng nhiều hình thức, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức quần chúng đấu tranh với quy mô ngày càng sâu rộng, tạo nên một cao trào cách mạng trên phạm vi cả nước: cao trào cách mạng năm 1930 - 1931. Mặc dầu chưa thành lập được chi bộ riêng, song, người dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã sớm đi theo Đảng bằng những hành động cụ thể. Hòa cùng khí thế cách mạng sôi sục của cả nước và Sài Gòn - Gia Định, mà trước hết là đợt hoạt động kỷ


36 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) niệm ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1930 và hưởng ứng phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã thực hiện cuộc biểu tình tuần hành từ Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng ngày nay kéo về Tòa Bố Gia Định, vừa đi vừa hô khẩu hiệu, rải truyền đơn, ngay từ đầu đã tạo nên một khí thế đấu tranh mạnh mẽ. Cũng trong tháng 5 năm 1930, lực lượng công nhân cao su vùng Cây Quéo (nay thuộc Phường 5, 6) đã bãi công hưởng ứng cuộc bãi công đấu tranh đòi cải thiện đời sống của công nhân cao su Phú Riềng. Theo chủ trương của Tỉnh ủy Gia Định, một cuộc biểu tình tuần hành lớn được tổ chức tại quận Gò Vấp, với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân lao động mà đông đảo nhất là nông dân ở Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Hòa và lực lượng công nhân cao su vùng Cây Quéo. Đoàn biểu tình giương cao cờ, biểu ngữ, vừa đi vừa rải truyền đơn kéo lên quận lỵ Gò Vấp đòi giảm sưu thuế, giảm tô, chống địa chủ cường hào cướp đất của nông dân, chống bắt dân đi phu... Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp, làm một số người bị chết, bị thương và bắt đi nhiều người khác. Tuy có mất mát, hy sinh nhưng tinh thần, khí thế đấu tranh của quần chúng không hề giảm sút. Tiếp tục hưởng ứng ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5, trong tháng 9 năm 1930, Nhân dân vùng Thị Nghè cùng với công nhân xưởng Ba Son dưới sự lãnh đạo của chi bộ Ba Son và một số cán bộ đảng viên người địa phương đã xuống đường mít tinh ở cạnh Sở Bông (nay thuộc Phường 19). Sau khi dự mít tinh, lực lượng biểu tình phân tán, theo bố trí từ trước, tiến hành treo khẩu hiệu ở ngã ba đường Nguyễn Hữu Thoại (nay thuộc Phường 19) rải truyền đơn ở những khu vực đông người như: chợ Thị Nghè, bến xe ô tô buýt, hãng mỡ Guyonnet..., dán cờ Đảng trước các cửa hiệu, quán ăn... Tức tối, chính quyền thực dân đã trả đũa bằng cách sáng hôm sau cho lính kín, mật thám bao vây khu chợ Thị Nghè, lục soát các quán ăn, cửa hiệu; chặn đường khám xét người qua lại; lùng sục vào tận các xóm, ấp bắt tất cả những người mà chúng tình nghi đem về bót Catinat tra hỏi. Trong năm 1931, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tiếp tục nổ ra dưới nhiều hình thức. Ngày 18 tháng 1 năm 1931, đông đảo Nhân dân Thạnh Mỹ Tây cùng lực lượng công nhân tham gia cuộc biểu tình do đồng chí Lý Tự Trọng tổ chức trước hãng dầu Phú Mỹ. Trong đó, nổi bật nhất là cuộc biểu tình tuần hành của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, Gia Định vào ngày 4 tháng 2 năm 1931 ở quận lỵ Gò Vấp, chống sưu cao thuế nặng, chống chính sách khủng bố của chính quyền thực dân. Bên cạnh đó, còn có các


37 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm thuế, phạt vạ, chống đàn áp, bắt người vô tội... của thợ thuyền, những người buôn bán nhỏ ở chợ Bà Chiểu - Thị Nghè - Cây Quéo, của học sinh các trường học... Cùng với các cuộc đấu tranh, một số nơi quần chúng còn phá điếm canh, diệt những tên ác ôn làm tay sai cho địch; cờ đỏ búa liềm, truyền đơn, biểu ngữ xuất hiện ở nhiều nơi, gây hoang mang lo sợ cho bọn thực dân và tay sai. Tuy các cuộc đấu tranh trong thời kỳ đầu cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nổ ra với quy mô không lớn, nhưng thể hiện rõ nét tinh thần cách mạng của người dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, góp phần cùng Nhân dân cả nước nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng, làm nên một cao trào cách mạng sâu rộng ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Mặt khác, những cuộc đấu tranh này còn mang tính chất khơi nguồn, tạo khí thế cho những cuộc đấu tranh tiếp theo trong giai đoạn lịch sử với quy mô ngày một lớn hơn, với sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các lực lượng, các tầng lớp nhân dân ở địa phương và giữa nhân dân địa phương với lực lượng công nhân ở các nhà máy, công xưởng... dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhằm đối phó phong trào đấu tranh của quần chúng, thực dân Pháp tăng thêm lính, thẳng tay đàn áp phong trào, ráo riết lùng sục, bắt bớ đảng viên, cán bộ cách mạng và quần chúng tích cực. Trong năm 1931, nhiều đảng viên, cán bộ đã bị bắt. Trong số đó, có một số người không chịu nổi cực hình tra tấn dã man đã khai ra những điều có hại cho tổ chức, cho cách mạng. Chính vì vậy, thực dân Pháp đã lần lượt “bắt được cả Ban Thường vụ Trung ương, cấp Xứ ủy, Tỉnh ủy Gia Định, Chợ Lớn khiến cho các cấp ủy phải nhiều lần “lột xác”. Nhiều chi bộ bị “xóa sổ” nhiều lần”(1). Trong bối cảnh khó khăn chung của cách mạng cả nước, phong trào cách mạng của Nhân dân Gia Định nói chung và Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng dần lắng xuống. Một số cơ sở Đảng bị đánh phá. Nhiều cán bộ đảng viên bị bắt, bị sát hại hoặc bị đày đi Côn Đảo. Các đồng chí còn lại hoặc tạm ngưng hoặc chuyển địa bàn hoạt động. Đến giữa năm 1932, đồng chí Võ Văn Ngân và Võ Văn Tần đã thành lập lại Tỉnh ủy Gia Định, do đồng chí Võ Văn Ngân làm Bí thư. Huyện ủy Gò Vấp cũng được củng cố, tổ chức lại, đồng chí Bùi Văn Ngữ được cử làm Bí thư. 1. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, tập 1 (1930 - 1945), 1995, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 62.


38 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sự hồi phục nhanh chóng của tổ chức Đảng không chỉ thể hiện sự không ngại hy sinh, tích cực hoạt động của các đồng chí đảng viên, mà còn cho thấy trong bước tạm lắng của phong trào, các tầng lớp nhân dân Sài Gòn - Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng vẫn một lòng tin vào Đảng, vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng. Đặc biệt là quần chúng đã được tôi luyện qua cao trào cách mạng 1930 - 1931. Chính vì vậy, ngay cả khi tình thế cách mạng gặp lúc khó khăn nhất thì những cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục nổ ra ở nhiều nơi trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định theo đường hướng mà Đảng đã vạch ra. Trong đó có sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Ở khu vực Bình Hòa - Bà Chiểu (nay thuộc Phường 14), sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không bao lâu, nơi đây đã thành lập được một đội tự vệ, thực hiện nhiệm vụ tuần tra canh gác, kẻ khẩu hiệu, rải truyền đơn và nhất là theo dõi, cảnh cáo bọn phản động, tay sai, nhằm hạn chế bọn chúng tự tung tự tác, gây hại cho Nhân dân. Tháng 4 năm 1932, cùng với lực lượng xe kéo Gia Định, anh em xe kéo ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đình công, bãi công. Cuối năm 1932 lại nổ ra các cuộc đấu tranh bằng những hình thức bãi thị, đình công suốt 3 ngày của chị em tiểu thương và lực lượng chạy xe ngựa ở Gò Vấp - Gia Định, phản đối việc đánh đập, phạt vạ những người hành nghề xe ngựa đậu xe rước khách ở các ga xe điện tuyến Gò Vấp - Hóc Môn. Đây là một trong những cuộc đấu tranh có quy mô lớn trong năm 1932 ở Gia Định với sự tham gia của đông đảo lực lượng chủ xe ngựa ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Năm 1933, hòa cùng các cuộc đấu tranh của đội ngũ tiểu thương chợ Bến Thành, Chợ Lớn, Chợ Đa Kao,... chị em tiểu thương chợ Bà Chiểu tổ chức bãi thị, chống tăng thuế hoa chi. Từ năm 1933, một số cán bộ của Đảng ở Sài Gòn - Gia Định bước đầu vận dụng khả năng công khai hợp pháp của mình để hoạt động cách mạng. Việc ra tranh cử và thắng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn của đồng chí Nguyễn Văn Tạo - đảng viên Đảng Cộng sản có ý nghĩa như bước khởi đầu. Vận dụng khả năng này, nhiều cuộc mít tinh, diễn thuyết về chính trị, kinh tế, xã hội do Đảng chủ trương, với sự tham dự của hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp xã hội được tổ chức. Đây là một nét mới mà trước đó, ta chỉ có thể bí mật thực hiện theo phương thức “rỉ tai” để tuyên truyền, vận động từng người hoặc tổ chức mít tinh chớp nhoáng.


39 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Những cuộc vận động chính trị công khai, hợp pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành thắng lợi ở Sài Gòn trong những năm 1933 - 1935 đã tác động mạnh mẽ tới tinh thần của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực vào việc khôi phục và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng trên phạm vi toàn quốc và ở Sài Gòn - Gia Định, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Trong năm 1935, nhân dân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực hưởng ứng hai cuộc bãi công quy mô lớn của phu xe kéo, xe thổ mộ ở thị xã Gia Định và các vùng phụ cận. Sáng ngày 6 tháng 11 năm 1935, hàng ngàn chủ phương tiện xe kéo, xe thổ mộ ở Bình Hòa, Bà Chiểu, Thạnh Mỹ Tây, Phú Nhuận, Tân Sơn Nhất, Phú Thọ, Bà Hom, Bà Quẹo, Bình Trị Đông, Gò Vấp... bắt đầu thực hiện cuộc bãi công kéo dài 2 ngày để phản đối bọn thực dân xét xe, đàn áp, phạt vạ những người chạy xe kéo, xe thổ mộ. Mặt khác, cuộc bãi công còn nhằm kỷ niệm lần thứ 18 Cách mạng tháng Mười Nga. Đây là cuộc bãi công ôn hòa, bọn thực dân không có cớ đàn áp. Song đó là một hình thức biểu dương lực lượng với sự hưởng ứng nhiệt tình của mọi tầng lớp nhân dân thành phố và ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Hàng ngàn xe kéo, xe thổ mộ được sử dụng làm chướng ngại vật, nằm ngổn ngang trên các đường, làm cho hệ thống giao thông từ nội thành ra ngoại thành và ngược lại bị tê liệt. Tuy vậy, bọn thực dân vẫn ngoan cố không giải quyết những yêu sách của quần chúng đưa ra. Chính vì vậy, ngày 26 tháng 12 năm 1935 lại nổ ra đấu tranh tiếp theo của lực lượng xe kéo, xe thổ mộ. Ngoài sự tham gia đấu tranh của các chủ phương tiện này còn có sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân lao động khác ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Lần này địch phải nhượng bộ, chấp nhận yêu sách của lực lượng đấu tranh. Bên cạnh các phong trào đấu tranh của công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, các tổ chức quần chúng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng dần dần được củng cố, các cơ sở cách mạng, quần chúng tích cực, cảm tình Đảng được xây dựng làm hạt nhân cho phong trào cách mạng ở địa phương để cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định bước vào một cao trào cách mạng mới - cao trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936 - 1939. Năm 1936, bên Pháp chính phủ Léon Blum lên nắm quyền, quyền tự do dân chủ ở các thuộc địa trong đó có Đông Dương và Việt Nam phần nào được nới rộng. Đây chính là một trong những điều kiện thuận lợi để Đảng Cộng sản phát động quần chúng đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ.


Click to View FlipBook Version