140 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) lập cơ quan chỉ huy quân sự nội thành; thành lập Đoàn F100 biệt động; xây dựng các đơn vị bảo đảm của lực lượng biệt động; tăng cường lực lượng biệt động các cánh, các ngành; gấp rút huấn luyện các tiểu đoàn mũi nhọn; kiện toàn lực lượng du kích ven đô,... F100 gồm 9 đội biệt động nội đô (mỗi đội có từ 15 đến 20 người), 3 đội đặc công hoạt động ven đô và 3 đội đặc công nước. Đội 1 biệt động đứng chân ở Gò Vấp - Hóc Môn, hướng hoạt động là khu vực Bà Chiểu và thị trấn Gò Vấp. Địa bàn Phân khu 5 (hướng đông bắc) gồm có Bình Hòa, Phú Nhuận, một phần Quận 1 và hai phường của Quận 3 (phường Yên Đỗ, phường Trương Minh Giảng) quận Dĩ An. Phân khu ủy gồm: đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu) khu ủy viên là Bí thư; đồng chí Năm Hai là thường vụ phân khu; đồng chí Ba Thành là phân khu ủy viên (sau này đồng chí hy sinh); đồng chí Nguyễn Văn Phương (Tư Phương) là ủy viên dự khuyết. Thạnh Mỹ Tây thuộc Phân khu 4 (hướng đông) gồm: Thủ Đức, Thạnh Mỹ Tây, một phần Quận 1, Quận 9, Bí thư là đồng chí Đoàn Công Chánh (Sáu Bảo)(1). “Kế hoạch X” đang được triển khai thì ngay trong tháng 5 năm 1965, một đơn vị quân viễn chinh Mỹ (lữ đoàn dù 173) đã vào chiến trường Đông Nam bộ. Việc này báo trước sự chuyển hướng chiến lược của Mỹ. Mặc dù phương án thắng địch trong chiến lược chiến tranh đặc biệt theo “Kế hoạch X” không thực hiện được, nhưng “đã tạo thêm những điều kiện cần thiết để quân dân Sài Gòn - Gia Định chuẩn bị bước vào giai đoạn chiến tranh quyết liệt mới, trực tiếp đối đầu với quân viễn chinh Mỹ. Tháng 7 năm 1965, đế quốc Mỹ chính thức quyết định chuyển chiến lược từ “chiến tranh đặc biệt” sang “chiến tranh cục bộ”. Lực lượng quân viễn chinh Mỹ trên chiến trường lúc cao nhất là 541.000 tên. Theo gót quân Mỹ có trên 200.000 quân “đồng minh”. Mùa mưa và mùa khô năm 1965 là thời gian quân Mỹ triển khai lực lượng, đồng thời thực hiện giai đoạn 1: ngăn chặn chiều hướng thua. Tháng 12 năm 1965, chúng chuyển sang giai đoạn 2 gọi là phản công chiến lược, gồm 2 bước: - phản công lần thứ nhất từ tháng 1 năm 1966 đến giữa năm 1966. - Phản công lần thứ hai từ tháng 10 năm 1966 đến giữa năm 1967. 1. Từ đầu năm 1965, để chuẩn bị cho “kế hoạch X”, Khu ủy đã chủ trương đổi tổ chức 5 cánh ở các huyện ngoại thành thành 5 phân khu. So với 5 phân khu này, các phân khu sau hội nghị Suối Dây có điều chỉnh về địa bàn, thêm các khu vực nội đô, các bí thư phân khu là khu ủy viên.
141 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Trong phản công lần thứ nhất, ở miền Đông Nam Bộ địch mở cuộc hành quân then chốt mang tên “Cái bẫy” (Crimp) với 12.000 quân (trong đó có 8.000 quân Mỹ và Úc) đánh lên vùng Bắc Sài Gòn, chủ yếu là Bắc Củ Chi, vùng căn cứ của Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Trong cuộc phản công lần thứ hai ở miền Đông Nam bộ có ba cuộc hành quân lớn là Attleboro và Junction City đánh lên vùng Bắc Tây Ninh; Cedar falls (30.000 quân, trong đó 15 tiểu đoàn Mỹ, Úc) đánh lên vùng “Tam giác sắt”, Bắc - Tây Bắc Sài Gòn, căn cứ của Quân khu Sài Gòn - Gia Định. Bộ Chính trị xác định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới: “Nắm thế chủ động là phải giữ và phát triển hơn nữa quyền làm chủ rừng núi, đồng bằng chung quanh đô thị và tiến tới cả từng vùng của đô thị nữa”(1). Tháng 12 năm 1965, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết tình hình - nhiệm vụ trong thời kì đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, xác định quyết tâm đánh Mỹ. Đầu năm 1966, tám tháng sau hội nghị Suối Dây, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định mở hội nghị về tình hình – nhiệm vụ mới, quán triệt quyết tâm của Trung ương Đảng, xác định những vấn đề cụ thể như: tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị gắn với đấu tranh vũ trang, không ngừng tích lũy lực lượng tiến lên tổng công kích - tổng khởi nghĩa, phát động tinh thần dân tộc, chuyển toàn lực đánh Mỹ, phát động phong trào toàn dân diệt Mỹ từ nông thôn ven đô đến nội đô. Đến cuối năm 1965, lực lượng địch bảo vệ an ninh vùng trong Sài Gòn tăng vọt(2). Chúng chia Sài Gòn - Gia Định thành 4 vùng: vùng A (do địch tạm thời kiểm soát) là vùng “phát triển”, vùng B (vùng tranh chấp) là vùng trọng điểm bình định, vùng C (vùng có căn cứ du kích) là vùng đánh phá tranh chấp mạnh, vùng D (vùng giải phóng và căn cứ cách mạng ) là vùng “tìm diệt”, tự do oanh kích. Tại thị xã Gia Định, địch tăng cường nhiều đại đội cảnh sát dã chiến, chốt đồn bót quanh vùng, tổ chức các đội quân đặc biệt “bình định” các xóm ấp, tăng cường kiểm soát việc đi lại và hoạt động của Nhân dân ở các xóm lao động, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là hai trong các khu vực hành quân của cảnh sát, quân cảnh. Dưới chiêu bài an ninh, chúng lùng sục, bắt bớ, cướp bóc, quấy nhiễu nhân dân... 1. Trích thư Bộ Chính trị gửi Trung ương Cục ngày 6 tháng 11 năm 1965. 2. Trung đoàn bộ binh (thiếu), 10 chiến đoàn ứng chiến, 1 liên đoàn an ninh thủ đô, 3 tiểu đoàn và 10 đại đội bảo an, 50 trung đội dân vệ và 1 đại đội quân cảnh. Ngoài ra, Quân khu thủ đô còn được tăng cường 10 tiểu đoàn biệt động quân, tiểu đoàn 2 thủy quân lục chiến.
142 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Về phía ta, bộ máy tổ chức và lãnh đạo của Đảng bộ Khu được tăng cường. Năm phân khu trong “Kế hoạch X” thành năm cánh, địa bàn mỗi cánh sau khi điều chỉnh có phần nông thôn, phần đô thị, cơ quan lãnh đạo có cánh ủy và ban quân sự. Bên cạnh cánh địa bàn, còn có các cánh đoàn thể, ban ngành, có phân công địa bàn hoạt động. Cánh năm Gò Môn (Gò Vấp - Hóc Môn) phụ trách đến kênh Nhiêu Lộc gồm vùng Phú Nhuận, Bình Hòa, Bà Chiểu, một phần Quận 1, Quận 2 nội thành. Cánh bốn Thủ Dĩ (Thủ Đức - Dĩ An) phụ trách các vùng thuộc Thủ Đức, Dĩ An đến Hàng Xanh, Thị Nghè, Thủ Thiêm... và một phần Quận 1. Cánh phụ vận phụ trách các chợ và các xóm lao động quanh chợ. Cánh thanh niên phụ trách địa bàn Quận 1 và những nơi có các trường trung học, đại học, cư xá sinh viên; các cánh ngành quân sự, an ninh, tuyên huấn... cũng được phân công một số địa bàn phù hợp. Mỗi cánh có ban cán sự Đảng do một hay hai đồng chí Khu ủy viên phụ trách. Năm 1966, Phân khu ủy 5 được tăng cường gồm: đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu), thường vụ Khu ủy, Bí thư; đồng chí Lâm Hiếu Trung (Sáu Trung), Phó Bí thư; đồng chí Sáu Tấn, Khu ủy viên, Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Ty (Sáu Nam) - Khu ủy viên, Phó Bí thư (sau này đồng chí hy sinh); đồng chí Nguyễn Vĩnh Nghiệp (Sáu Tường) - Thường vụ; đồng chí Năm Mai - Thường vụ; đồng chí Nguyễn Văn Phương (Tư Phương) - Phân khu ủy viên; đồng chí Ba Giang - Phân khu ủy viên. Cùng thời gian này, Ban cán sự Thị Nghè được củng cố do đồng chí Hai Thành làm Bí thư. Dưới Ban cán sự Đảng ở từng cánh là các chi bộ hay Đảng bộ cơ sở được tổ chức theo yêu cầu của từng xí nghiệp, nhà máy, trường học, chợ ấp khu phố, hay phường, liên phường. Những năm 1966 - 1967, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây có các chi bộ: - Chi bộ xóm đình Vạn Kiếp: thuộc Đảng ủy các chợ khu Sài Gòn - Gia Định (từ năm 1966 đến năm 1968), cấp ủy gồm các đồng chí: Nguyễn Thị Bích (Ba Thái) - Bí thư; Nguyễn Sơn Quế - Phó Bí thư (được bổ sung vào tháng 12-1967). - Chi bộ ấp Bác Ái 7 thuộc Ban Phụ vận Thành (từ năm 1967 đến năm 1969), cấp ủy gồm các đồng chí: Lê Tấn Nghiêm (Hai Nghiêm) - Bí thư; Bảy Nhiên - Phó Bí thư.
143 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ban cán sự Thị Nghè chỉ đạo thành lập các chi bộ xóm trên cơ sở các lõm chính trị, đến tháng 2 năm 1967 chi bộ Xóm Cối thuộc ấp 8 đã hình thành cấp ủy gồm các đồng chí: Tăng Văn Phàm (Tư Phàm) - Bí thư, Nguyễn Văn Mẫn - Phó Bí thư, Nguyễn Văn Năng - Chi ủy viên. Ngoài số đảng viên được sinh hoạt ở các chi bộ cơ sở còn có một số đảng viên sinh hoạt đơn tuyến để đảm bảo yêu cầu bí mật. Đến giữa năm 1966, hầu hết các chi bộ và đảng viên được tập huấn về năm bước công tác cách mạng, được phân công nắm quần chúng qua hội viên các đoàn thể và quần chúng nòng cốt. Trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, việc xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, việc củng cố các lõm căn cứ trước tiên nhắm vào các xóm lao động. Ở các khu vực như Bình Quới Tây, ấp Bác Ái 7... nơi địch kìm kẹp bằng các ấp chiến lược, việc xây dựng cơ sở, xây dựng lõm chính trị được kết hợp với hoạt động diệt ác phá kìm. Bước sang giai đoạn chống chiến lược chiến tranh cục bộ, nét mới trong phong trào toàn Thành là Đảng bộ đã đánh bại ảnh hưởng của các thế lực phản động, giành quyền lãnh đạo và chủ động định hướng phong trào. Từ đầu năm 1965, thực lực cách mạng phát triển nhanh(1). Ở các xã ấp bị địch kìm kẹp có du kích mật, tự vệ mật. Lực lượng quân sự tăng cả về số, về chất(2). Với sự phát triển của thực lực cách mạng, trước việc quân chiến đấu Mỹ ồ ạt vào chiến trường, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, lực lượng và phong trào đã được xây dựng vào những năm chống chiến lược chiến tranh đặc biệt tiếp tục tiến lên những bước chuyển mới về quy mô, nội dung, lẫn hình thức, đặc biệt nổi bật tinh thần chống Mỹ xâm lược và tay sai Thiệu - Kỳ. Ngay từ tháng 2 năm 1965, khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, đông đảo đồng bào Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã nhập cuộc, phong trào nhân dân thành phố đấu tranh chống Mỹ oanh tạc bừa bãi, giết hại Nhân dân Việt Nam trên cả hai miền. Tiếp sau đợt “sáu đêm không ngủ” của Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đòi lật đổ Thiệu - Kỳ (đỉnh cao ngày 7-4-1966, có hàng chục vạn người biểu tình bao vây nơi làm việc của Nguyễn Cao Kỳ), ngày 1 tháng 5 năm 1966, ngày Quốc tế lao động, công nhân và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với 40.000 công nhân và 1. Từ tháng 1 năm 1965 đến tháng 4 năm 1966, trên toàn Khu đảng viên tăng gần 100%, Đoàn viên tăng 100%, hội viên tăng trên 300%, quần chúng cảm tình tích cực tăng 300%. 2. Trong nội thành, ngoài lực lượng biệt động của Khu, mỗi ngành, đoàn thể còn có thêm những tổ, đội biệt động hay trinh sát vũ trang và tự vệ mật. Số đảng viên trong lực lượng vũ trang tăng nhanh.
144 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) nhân dân lao động Sài Gòn - Gia Định thực hiện cuộc biểu tình tuần hành qua nhiều đường phố, hợp điểm trước tòa đại sứ Mỹ, nêu cao các khẩu hiệu: “Người Mỹ không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”, “Thiệu - Kỳ phải từ chức ngay”, “chấm dứt các cuộc oanh tạc bừa bãi giết hại nhân dân”, “chấm dứt rải chất độc tàn phá nông thôn”.... Mặc dù đã lường trước, địch đã lập chướng ngại, huy động cả cảnh sát, công an, cảnh sát dã chiến chuẩn bị ngăn chặn và đàn áp nhưng chúng đã bất lực trước lực lượng quần chúng quá đông và đầy khí thế. Tiếng hô “đả đảo đế quốc Mỹ”, “quân Mỹ cút đi” vang lên trước tòa đại sứ Mỹ. Đánh giá cuộc đấu tranh ngày 1 tháng 5 năm 1966, hội nghị Thường vụ Khu ủy mở rộng (tháng 10 năm 1966) nhận định: “Trong vòng mấy năm nay, đây là lần đầu tiên quần chúng đô thị biểu thị một khí thế chống Mỹ mạnh mẽ nhất, với nội dung đúng đắn nhất... Nó đã chứng tỏ khả năng phát động và tập hợp công nhân, lao động của Đảng ta, khả năng đưa phong trào công nhân, lao động thành nòng cốt của phong trào quần chúng đô thị nói chung”. Ngoài Tiểu đoàn Quyết Thắng là lực lượng tập trung của Khu, các cánh đều có tiểu đoàn địa phương và các xã có du kích tập trung từ tiểu đội tới trung đội. Tháng 6 năm 1966, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lại nhập cuộc cao trào đấu tranh rộng lớn nhất ở các đô thị, tập trung vào các mục tiêu đòi Thiệu - Kỳ phải từ chức, Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi hòa bình, dân chủ. Song song với cao trào chung, phong trào Phật giáo lại “tái phát một cách mạnh mẽ trên các đô thị lớn ở miền Nam” (tập trung là Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn), nội dung đấu tranh không chỉ có vấn đề của giáo giới, mà còn trực tiếp đòi lật đổ “thủ tướng” Nguyễn Cao Kỳ, chống Mỹ và tay sai dưới hình thức cầu nguyện hòa bình, trương các khẩu hiệu “Đại sứ Mỹ hay toàn quyền Lodge”, “Giải quyết bằng vũ lực là xâm lược”... Phật tử bày bàn thờ Phật ra đường để tố cáo Thiệu - Kỳ chiếm chùa. Hàng trăm Phật tử Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây xuống đường tham gia biểu tình, phía trước là bàn thờ Phật, phía sau là tăng ni, Phật tử. Đoàn biểu tình vừa đi vừa tụng kinh cầu nguyện cho đất nước sớm chấm dứt chiến tranh, quê hương hòa bình, Nhân dân ấm no, an lạc. Giới tăng ni, Phật tử Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực, tham gia phong trào “tôi xin đi ở tù” của Phật giáo Sài Gòn - Gia Định do hai hội đồng: Viện Tăng thống và Viện Hóa đạo tổ chức, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh, hòa bình cho dân tộc và thống nhất đất nước. Phong trào đấu tranh của Phật giáo tiếp tục kéo dài, góp phần làm cho tình thế chính trị của chế độ tay sai Mỹ vốn đã rối ren càng rối ren hơn.
145 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Những cuộc đấu tranh dân sinh, dân chủ ở Sài Gòn cũng vào đợt mới, không đơn thuần chỉ đòi tăng lương, chống sinh hoạt đắt đỏ, chống sa thải, đòi tự do nghiệp đoàn mà còn kết hợp chống Mỹ và tay sai. Công nhân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nhiệt tình tham gia đấu tranh đình công ở các xưởng, đặc biệt là cuộc tổng bãi công của toàn thể 5.000 công nhân, người Việt Nam ở hãng thầu xây dựng RMK, BRJ của Mỹ ở Sài Gòn. Nhân dân Thạnh Mỹ Tây nhiều lần tổ chức các cuộc biểu tình chống Mỹ - Thiệu - Kỳ sa thải 600 công nhân người Việt Nam làm việc tại Tân Cảng(1) để đưa công nhân người nước ngoài vào thay thế. Đặc biệt, công nhân Tân Cảng đã đấu tranh không khuân vác đạn dược cho Mỹ. Những cuộc đấu tranh của công nhân nói trên đã tăng rất nhanh về quy mô lực lượng, phạm vi, làm tê liệt hàng chục công trường xây dựng, công trình quân sự thuộc loại ưu tiên nhất của Mỹ, trong đó có bến số 1 cảng mới Sài Gòn, nơi lục quân Mỹ đóng Bộ chỉ huy hậu cần. Sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ và quân “đồng minh” Mỹ đã gây ra nhiều xáo trộn trong sinh hoạt văn hóa - xã hội ở những vùng địch chiếm, đặc biệt ở các đô thị lớn như Sài Gòn - Gia Định. Triết lý “hiện sinh, lối sống Mỹ, tệ nạn trụy lạc, du đãng...” đe dọa những giá trị đạo đức - tinh thần truyền thống của dân tộc. Tình trạng đó gây ra một làn sóng phản ứng mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân đặc biệt là giới thanh niên, dẫn đến quá trình đấu tranh bảo vệ văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, nhiều tổ chức tiến bộ ra đời. Năm 1966, Phân khu đoàn 5 (đoàn cánh 5) quyết định thành lập đoàn văn nghệ lấy tên là Đoàn văn nghệ dân tộc Bừng Sáng do đồng chí Nguyễn Ngọc San (Bảy Việt), Ủy viên Ban chấp hành phân khu đoàn trực tiếp chỉ đạo. Đoàn quy tụ khoảng 30 anh chị em tham gia, được sự hỗ trợ của nhiều văn nghệ sĩ tiến bộ ở thành phố. Đoàn văn nghệ dân tộc Bừng Sáng chuyên trình diễn những bài hát, vở kịch có nội dung yêu nước, tiến bộ, nhằm khơi dậy tình cảm dân tộc, làm trỗi dậy tinh thần đấu tranh chống ngoại xâm, giành hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc cho Nhân dân. Với nội dung, chương trình hoạt động có sức hấp dẫn, Đoàn văn nghệ dân tộc Bừng Sáng trở thành một trung tâm công khai tập hợp được đông đảo thanh niên và quần chúng các giới. Những năm 1966 - 1967, với quá trình hoạt động tích cực, khôn khéo, các đồng chí trong phân khu đoàn cũng đã đưa được người vào nắm các cương vị quan trọng trong ban đại diện học sinh các trường trung học tại thị xã Gia Định như: trường Hồ Ngọc Cẩn, trường Lê Văn Duyệt, trường Cao đẳng Mỹ thuật... Bằng 1. Ngày 11 tháng 1 năm 1967 địch ra sắc lệnh số 5-SL/QP thành lập quân cảng lấy tên “Quân cảng Sài Gòn” tại cầu xa lộ Thạnh Mỹ Tây.
146 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hoạt động công khai, hợp pháp dưới nhiều hình thức khác nhau, các đồng chí đã tuyên truyền, giác ngộ được nhiều thanh niên, học sinh, xây dựng lực lượng nòng cốt, cảm tình cách mạng tại các trường. Dựa vào ban đại diện học sinh, ta đã lái phong trào văn nghệ và báo chí các trường đi sâu vào nội dung dân tộc, tiến bộ, hạn chế và loại trừ các nội dung đồi trụy, lai căng.... Bên cạnh đó, thanh niên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn tổ chức nhiều “đêm không ngủ”, đốt lửa trại, đi “picnic” mở các cuộc hội thảo, mạn đàm, xuất bản tuần san Hồn trẻ... nhằm tuyên truyền sâu rộng nền văn hóa dân tộc, đấu tranh cho một nền văn hóa tiến bộ, xóa bỏ nọc độc văn hóa đồi trụy, lai căng của Mỹ - ngụy. Giới phụ nữ thành phố trong đó có phụ nữ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực nhập cuộc phong trào chung đồng thời tạo thành phong trào riêng của giới. Được sự chỉ đạo của Khu ủy, năm 1966, Ban Phụ vận thành phố xúc tiến thành lập Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam, lấy nhà số 202 đường Lê Quang Định (Bình Hòa) làm trụ sở. Mục đích của tổ chức Hội - như tên gọi - là tập hợp đông đảo chị em phụ nữ, đấu tranh với Mỹ - ngụy để bảo vệ nhân quyền nhân phẩm của phụ nữ; phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất của phụ nữ Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Hội Phụ nữ giải phóng Sài Gòn - Gia Định và tổ chức Đảng tại cơ sở, Hội đã vận động, tổ chức chị em phụ nữ thực hiện nhiều đợt đấu tranh chống ngụy quyền, đòi dân sinh, dân chủ. Hội thường xuyên phổ biến sách báo, tập san văn nghệ có nội dung tiến bộ, tổ chức các buổi lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng tại đền thờ Hai Bà ở số 48 đường Hoàng Hoa Thám... Trong thời gian này, phụ nữ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn tham gia phong trào phụ nữ Long Hoa của khối phật giáo Ấn Quang. Tổ chức này phát triển khá mạnh ở Thị Nghè do đồng chí Phan Thanh Kiều (Tư Kiều), Nguyễn Thị Phong Thu, Thái Thị Nhạn (Năm Nhạn) phụ trách, nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong khối tăng ni Phật tử để làm cơ sở đấu tranh và quyên góp tiền bạc, thuốc men ủng hộ cách mạng. Các tổ chức trên thường xuyên diễn thuyết, mạn đàm về truyền thống yêu nước của dân tộc, qua đó khơi dậy vai trò, trách nhiệm của phụ nữ Việt Nam trong tình hình một nửa đất nước còn bị lệ thuộc ngoại bang, góp phần đấu tranh bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi của phụ nữ. Tham gia bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, ngoài các tổ chức của thanh niên và phụ nữ, còn các tổ chức của giáo chức trong “nghiệp đoàn giáo học tư thục Việt Nam”. Cùng với hai tổ chức trên, nghiệp đoàn giáo học tư thục Việt Nam đã tổ chức nhiều diễn đàn, các buổi thảo luận về nhiệm
147 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) vụ bảo vệ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào các giới tham dự. Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc thực chất đã trở thành phong trào rộng lớn của quần chúng các giới, góp phần nâng cao tinh thần đấu tranh chống Mỹ và tay sai. Ảnh hưởng cách mạng ngày càng sâu, cả trong nhận thức và hành động của quần chúng Ngày 20 tháng 11 năm 1967 các “Hội Ái Hữu giáo chức bậc tiểu học, Nghiệp đoàn giáo học tư thục Việt Nam và Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ Việt Nam tổ chức lớp huấn luyện giáo viên mẫu giáo, có 90 học viên chia thành một liên toán và 9 toán. Nội dung được rút từ kinh nghiệm giáo dục mẫu giáo trên thế giới và mẫu trường mẫu giáo đã làm thí điểm ở Gia Định. Lớp học có tổ chức trưng bày dụng cụ mẫu giáo do học viên làm. Các lớp học trên đều có cấp chứng chỉ tốt nghiệp, sau này được Sở Giáo dục thành phố Hồ Chí Minh công nhận. Cùng với sự phát triển của lực lượng và phong trào đấu tranh chính trị trong quá trình chống chiến tranh cục bộ, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, lực lượng và hoạt động vũ trang phát triển, hỗ trợ đắc lực cho mũi đấu tranh chính trị. Với hoạt động du kích, du kích mật, đặc biệt là hoạt động diệt ác, phá kìm, lực lượng vũ trang Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã trừng trị chủ xưởng dệt Nam Á, tay sai địch ở Phú Nhuận; trừng trị hai sĩ quan Mỹ ở đường Trương Minh Giảng (nay là đường Trần Quốc Thảo). Du kích Bình Quới Tây, Cầu Kinh dùng mìn ĐH tiến công câu lạc bộ sĩ quan Mỹ tại Bình Quới, diệt 25 tên. Kết hợp xây dựng hệ thống cơ sở chính trị, ta tiếp tục củng cố và phát triển các lõm căn cứ, lõm chính trị, đặc biệt là ở các xóm lao động như ở Bình Quới Tây, ấp Bác Ái 7,... tạo điều kiện củng cố và phát triển đường dây liên lạc bí mật trong - ngoài, đặc biệt chú trọng xây dựng các cơ sở ém người, ém vũ khí chuẩn bị đón thời cơ tiến công sào huyệt, đầu não địch: cơ sở điệp báo T4 tại số 171 đường Bạch Đằng, Phường 15; cơ sở 328/41 đường Phan Văn Trị; cơ sở chùa Giác Quang số 334 đường Phan Văn Trị, Phường 11; cơ sở 93/22 đường Cường Để (nay là đường Bùi Đình Túy, Phường 12); cơ sở 194/43/5 đường Bạch Đằng; cơ sở chùa Long Vân, số 111 đường Bạch Đằng; cơ sở 97/1 đường Cường Để; cơ sở 62 đường Ngô Đức Kế là hầm chứa vũ khí; nhà đồng chí Trần Văn Miêng - Võ Thị Sang số 348/38B đường Bác Ái, Bình Hòa (nay là đường Phan Văn Trị, Phường 11), nhà đồng chí Nguyễn Nông số 241/5 đường Bạch Đằng, khu chùa Long Vân là cơ sở ém cán bộ; nữ đồng
148 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chí Tư Dương (tự là Đờ) xây dựng một hầm bảo vệ cán bộ tại tiệm giày Hồng Tiến - Gia Định; đồng chí Trần Văn Lợi (tức Tô Minh Liêm) xây dựng một hầm kho vũ khí ở khóm 4, Phường 7 quận Bình Hòa - Gia Định để đánh Bộ Tư lệnh Hải Quân ngụy; đồng chí Ba Sắc xây dựng một hầm ém quân ở đường Nguyễn Đình Chiểu - Gia Định phục vụ đánh tòa Đại sứ Mỹ (hầm này sau bị lộ nên năm 1968 không sử dụng). Chi bộ Xóm Cối tổ chức các cuộc đấu tranh cùng với Nhân dân ấp Nhất Trí 7, Hàng Xanh chống địch giải tỏa khu vực, đồng thời xây dựng cơ sở, chuẩn bị nơi ém trú, khu vực hậu cần cho lực lượng kháng chiến. Trong năm 1967, chi bộ đã xây dựng được 10 cơ sở, tổ chức quần chúng cốt cán nuôi giấu cán bộ, dẫn đường cho bộ đội, tổ chức xây dựng hầm bí mật ém vũ khí các loại. Miếu ấp Lâm, chùa Hồng Liên, nhà Nguyễn Văn Hữu, Nguyễn Văn Lúa và Hồng Văn Sắng là những nơi cán bộ bí mật hội họp, làm trạm liên lạc. Bên cạnh các lõm căn cứ, lõm chính trị, ở các xóm lao động như Bình Quới Tây, ấp Bác Ái 7; Đồng Ông Cộ, Hàng Xanh... ở khu vực tiếp giáp nối ngoại ô, ta đã xây dựng được nhiều lõm nội thành. Lõm chính trị ở ấp Bác Ái 7 - Cầu Bông gồm 5 gia đình cốt cán và nhiều hộ cảm tình đã được đồng chí Đỗ Tấn Phong (một cán bộ biệt động, năm 1978 được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang), xây dựng từ năm 1963. Chị Ba Phong đã được cách mạng giác ngộ bản thân và giác ngộ cho bà con dòng họ, trong đó có Trần Phú Cường (Năm Mộc, cán bộ biệt động năm 1968 tham gia đánh đài phát thanh Sài Gòn, năm 1975 được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang) là một thành viên lãnh đạo của lõm chính trị này (cùng vợ tạo được ngôi nhà 65 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là cơ sở phục vụ tiến công Đài phát thanh Sài Gòn Xuân 1968). Trong lõm chính trị nội thành đã được xây dựng trước Xuân 1968, có các lõm ở Gia Định, trong đó ở Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây có lõm Lê Quang Định - Cây Quéo; lõm Lê Văn Duyệt (nay là Đinh Tiên Hoàng) - Bùi Hữu Nghĩa - Chợ Bà Chiểu; khu vực bót Hàng Keo; lõm Hàng Xanh - Bạch Đằng- Hồng Thập Tự (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) khu vực Bình Hòa - Hàng Xanh có 22 cơ sở được sử dụng làm điểm chuyển tiếp, ém, ngụy trang vũ khí phục vụ chiến đấu. Đồng chí Năm Phùng (thượng sĩ Nguyễn Văn Phùng), công nhân lái xe chở mủ cao su Janett Bến Cát (Thủ Dầu Một) cùng vợ con ở tại Kho mủ Bình Lợi được A20 (một trong hai đơn vị bảo đảm của F100 biệt động) xây dựng thành giao liên điều khiển phương tiện vận chuyển vũ khí. Khoảng tháng 10 năm 1967 đồng chí
149 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) được giao nhiệm vụ chuyển một tấn vũ khí chuẩn bị đánh vào Bộ Tổng tham mưu ngụy. Đồng chí được A10 cho nhận diện ngôi nhà, ám tín hiệu an toàn để xuống hàng, nhưng hôm sau lái chiếc xe chở vũ khí (ngụy trang dưới các bành mủ cao su) đến nơi không thấy ám tín hiệu an toàn, liền chuyển hướng theo phương án dự phòng (do đồng chí Sang chỉ đạo), đưa xe về, xuống hàng trong Kho mủ cầu Bình Lợi, sơ tán vợ con đi nơi khác (theo lệnh cấp trên), một mình ở lại giữ vũ khí suốt 1 tháng 27 ngày mới có người đến nhận. Như vậy địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là một trong những khu vực mạnh của thành phố về mặt xây dựng lõm chính trị và các điểm lõm vũ khí phục vụ chuẩn bị đón thời cơ. Qua hơn hai năm trực tiếp đối đầu với quân chiến đấu Mỹ, lần lượt đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của chúng, quân dân miền Nam đã khẳng định khả năng đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh cục bộ. Trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, trong thời gian đó, ta đã tạo được những bước phát triển rất cơ bản về tình hình tại chỗ: tổ chức cơ sở đảng được củng cố, tăng cường, thực lực cách mạng và phong trào đấu tranh chính trị, hoạt động vũ trang đều phát triển qua đó củng cố và mở rộng các lõm căn cứ, lõm chính trị, hệ thống cơ sở bí mật, góp phần tạo thế liên hoàn giữa các vùng du kích ven đô và các lõm căn cứ nội đô, trực tiếp phục vụ hoạt động và tác chiến nội thành, tuy về cuối năm 1967 tình hình khó khăn hơn. Tình hình trên gắn liền với những chuyển biến chung trên địa bàn Sài Gòn – Gia Định, như đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương Cục đã đánh giá (sau hội nghị Thường vụ Khu ủy tháng 2 năm 1967): Đảng bộ nắm sát tình hình, lãnh đạo kịp thời, nhạy bén, dám nghĩ dám làm, truyền đạt được quyết tâm của Đảng đến cơ sở, hệ thống chỉ đạo thông suốt, chặt chẽ. Bên cạnh đó còn những khuyết điểm như: phong trào công nhân các xóm lao động chưa đều, thực lực tuy đã phát triển khá nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiều nơi vẫn còn vi phạm nguyên tắc ngăn cách giữa bí mật và công khai, nhất là những lúc phong trào lên. Tuy không tránh khỏi những nhược điểm chung nói trên, những chuyển biến mới của phong trào ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần tạo thế, tạo lực tại chỗ trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, góp phần chuẩn bị đón thời cơ thực
150 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hiện quyết tâm chiến lược mới của Trung ương Đảng: Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. II. CÙNG TOÀN THÀNH PHỐ THỰC HIỆN TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY XUÂN HÈ MẬU THÂN 1968 Tháng 7 năm 1967, sau khi phân tích tình hình mọi mặt, nhận rõ tình thế và thời cơ chiến lược đã xuất hiện, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Trong hàng loạt vấn đề được cụ thể hóa, Trung ương Đảng xác định miền Đông Nam bộ và Sài Gòn - Chợ Lớn là chiến trường quyết định(1). Ngày 25 tháng 10 năm 1967, sau khi tiếp nhận tinh thần cơ bản về quyết tâm của Trung ương, Trung ương Cục miền Nam ra nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên chiến trường Nam bộ - Cực Nam Trung bộ. Nội dung cụ thể về tổng công kích - tổng khởi nghĩa là tiến công quân sự kết hợp phát động quần chúng nổi dậy. Quá trình sẽ diễn ra nhiều đợt, nhiều cao điểm, liên tiếp cho đến khi thành công. Để phục vụ tổng công kích - tổng khởi nghĩa, Quân khu miền Đông được thu nhỏ và Quân khu Sài Gòn - Gia Định được giải thể để thành lập Khu trọng điểm. Trên cơ sở tổ chức năm cánh tiến công vào Sài Gòn của Kế hoạch X, “Khu trọng điểm” được bố trí thành 6 phân khu, trong đó Phân khu 4 gồm Quận 1, Quận 9, Thạnh Mỹ Tây, Thủ Đức, Long Thành, Nhơn Trạch (thuộc Biên Hòa). Phân khu 5 gồm Phú Nhuận, Bình Hòa, và Dĩ An, Tân Uyên, Phú Giáo, Lái Thiêu (Thủ Dầu Một); Phân khu 6 (ban đầu không có địa bàn riêng) gồm các tổ chức thuộc các ban ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang, biệt động, an ninh nội thành. Toàn bộ lực lượng vũ trang ngoại thành Sài Gòn - Gia Định (các tiểu đoàn mũi nhọn, đặc công, bộ đội địa phương đều chuyển về các phân khu). Phân khu ủy Phân khu 4 gồm: đồng chí Đoàn Công Chánh (Sáu Bảo) – Bí thư; đồng chí Nguyễn Ngọc Lộc - Phó Chính ủy. Phân khu ủy Phân khu 5 gồm: đồng chí Hoàng Minh Đạo (Năm Thu) – Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Tỷ (Sáu Nam) – Phó Bí thư; Thường vụ Phân khu gồm có: đồng chí Nguyễn Vĩnh Nghiệp (Sáu Tường), đồng chí Sáu Mai; Phân khu ủy viên gồm các đồng chí Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Đầy (Sáu Đầy), Ba Bình, Ba Giảng. Bí thư Phân khu ủy Phân khu 6 là đồng chí Trần Bạch Đằng. Đảng ủy Khu trọng điểm tổ chức thành hai phân ban Đảng ủy nòng 1. Đường 9 - Trị Thiên, Quảng Đà là chiến trường quyết định thứ hai, ba trọng điểm tiến công là: Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng.
151 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) cốt cho hai Bộ tư lệnh tiền phương: Bộ tư lệnh tiền phương Bắc (gồm các đồng chí Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ) trực tiếp chỉ đạo các phân khu 1, 2 (một phần), 4, 5 và khối quân chủ lực. Bộ Tư lệnh tiền phương Nam (gồm các đồng chí Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Trần Hải Phụng) trực tiếp chỉ đạo các phân khu còn lại (trong đó có một phần Phân khu 2), lực lượng biệt động an ninh và mũi nổi dậy. Để phục vụ mũi nổi dậy, các lực lượng quần chúng nòng cốt ở cơ sở được gấp rút bồi dưỡng để bổ sung đội ngũ cán bộ trong các tổ chức quần chúng bí mật và công khai, nửa công khai để đủ sức đáp ứng những đòi hỏi của phong trào, có thể có bước nhảy vọt sắp tới. Để phục vụ nhiệm vụ trước mắt, lực lượng Thành đoàn được tổ chức thành ba khối: lực lượng chính trị công khai, lực lượng chính trị vũ trang, lực lượng biệt động vũ trang. Phân tích tình hình mọi mặt, Trung ương Đảng dự kiến tổng công kích - tổng khởi nghĩa sẽ dẫn đến ba khả năng(1), ta phải nỗ lực đạt khả năng 1, nhưng cũng sẵn sàng đối phó với khả năng 2, đề phòng khả năng 3. Tuy có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có khó khăn rất lớn, đặc biệt là về tương quan lực lượng quân sự nói chung (địch còn trên 1 triệu 20 vạn quân cả Mỹ - ngụy, “đồng minh” Mỹ), bên cạnh đó lực lượng chính trị đô thị còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của một cuộc tổng khởi nghĩa. Trên chiến trường Sài Gòn - Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, đều có những hạn chế rất cụ thể trước ngày tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Phong trào đấu tranh chính trị năm 1967 có giảm đi so với năm 1966. Địch dùng mọi thủ đoạn tàn bạo và thâm độc cả về chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng... để đánh phá, triệt hạ các cơ sở cách mạng(2). Phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh, sinh viên và Phật tử chống ngụy quyền bằng cách lợi dụng các tổ chức công khai vẫn diễn ra nhưng thiên về bề nổi, chưa vững chắc bề sâu. Hội nghị lần thứ 5 của Trung ương Cục (tháng 5 năm 1967) đã nhận định: “Phong trào đấu tranh chính trị chưa theo kịp phong trào đấu tranh vũ trang và ưu 1. Khả năng 1: ta thắng to ở các chiến trường quan trọng, tổng công kích – tổng khởi nghĩa thành công ở các đô thị lớn, đập tan âm mưu phản kích của địch, địch không gượng dậy được nữa, ý chí xâm lược của Mỹ bị đè bẹp, chúng phải chịu thương lượng kết thúc chiến tranh theo điều kiện, mục tiêu của ta. Khả năng 2: ta giành được thắng lợi ở nhiều nơi nhưng địch vẫn giữ được nhiều vị trí quan trọng để tiếp tục chiến tranh. Khả năng 3: Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương (cả miền Bắc) hòng xoay chuyển cuc diện chiến tranh, gỡ thế thua. 2. Trước xuân 1968, một số đồng chí Khu ủy viên đã bị bắt như: Trần Văn Kiểu, Lê Thị Riêng, Hồ Hảo Hớn.
152 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) thế chính trị của ta... Việc xây dựng thực lực chính trị còn quá chậm, nhất là ở đô thị và vùng nông thôn địch tạm chiếm, thực lực chính trị của ta quá yếu. Số cốt cán quần chúng nội thành còn quá ít so với dân số chung, nhưng cơ sở đặt niềm tin là lòng dân hướng về cách mạng, ta đã giành được quyền lãnh đạo nhiều tổ chức, lực lượng, đoàn ngũ công khai. Lực lượng chính trị khởi nghĩa bao gồm đảng viên, đoàn viên, quần chúng cách mạng, hội viên đoàn thể do cơ sở Đảng, đoàn làm nòng cốt. Trước khi vào đợt Tết, Ban cán sự Bình Hòa - Phú Nhuận (thuộc Phân khu 5) được thành lập (từ tháng 1 đến tháng 5 năm 1968), gồm: Bí thư Nguyễn Vĩnh Nghiệp; Phó Bí thư Nguyễn Văn Phương; các ủy viên: nữ đồng chí Tư Xuân, các đồng chí Trần Công Thoại (Sáu Nam), Nguyễn Thị Tràm (Tám Thư). Trực tiếp phụ trách Bình Hòa - Phú Nhuận trong đợt I gồm các đồng chí Nguyễn Văn Phương, Trần Công Thoại... Mọi công việc chuẩn bị cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa đều phải tuyệt đối bí mật. Công tác động viên được thực hiện dưới hình thức lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam: “Các tầng lớp nhân dân trong các thành thị và các vùng tạm chiếm, bị địch kiểm soát, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, tôn giáo, tín ngưỡng, chính kiến xã hội, hãy đoàn kết đứng lên vũ trang khởi nghĩa. Ai có súng dùng súng, ai có dao dùng dao, quyết phối hợp với các lực lượng quân sự cách mạng, đập tan bộ máy ngụy quyền, chấm dứt cuộc sống nô lệ, giành lấy quyền làm chủ, giành lấy hòa bình, độc lập, tự do, cơm áo...”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận, trong những ngày cận Tết, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, nhiều nhóm vũ trang tuyên truyền xung phong xuất phát từ Đồng Ông Cộ, Lò Vôi đến khu vực chợ cũ Sài Gòn, tập hợp quần chúng, diễn thuyết chớp nhoáng (khoảng năm, mười phút) tố cáo tội ác của Mỹ - ngụy, kêu gọi đồng bào đứng lên chống Mỹ cứu nước. Ở trường nữ trung học Lê Văn Duyệt, tổ tuyên truyền xung phong thuộc chi đoàn thanh niên cách mạng của trường rải nhiều truyền đơn, kẻ khẩu hiệu tuyên truyền chính sách của Đảng và Mặt trận. Tại các khu vực Hàng Xanh, Thị Nghè, Bình Lợi, xóm Đình, xóm Cây Thị, Cây Quéo, ngã năm Bình Hòa, xóm Lò Vôi, Đồng Ông Cộ, nhiều truyền đơn, biểu ngữ đã sẵn sàng, các cơ sở vận chuyển, ém vũ khí, ém người, nuôi giấu chiến sĩ bị thương, tích trữ lương thực, thực phẩm,... đều được chuẩn bị... Đêm mồng một Tết Mậu Thân (30 tháng 1 năm 1968), đồng chí Võ Văn Thạnh (Ba Thắng), chính ủy Phân khu 6 từ cơ sở nhà đồng chí Nguyễn Nông, số 241/5 Bạch
153 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đằng đến cơ sở chỉ huy số 7 Yên Đỗ - tiệm phở Bình (nay là số 7 Lý Chính Thắng) để phổ biến lời hiệu triệu của Mặt trận Dân tộc giải phóng và lệnh chuẩn bị nổ súng. 2 giờ sáng 31 tháng 1 năm 1968, giờ “G” đã được báo hiệu bằng 8 phát đạn cối 82 ly bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất(1). Tại Thạnh Mỹ Tây, Tiểu đoàn 3 Dĩ An(2) được sự hỗ trợ của các cơ sở tại chỗ do Ban cán sự Đảng Thị Nghè tổ chức, từ điểm ém quân tại khu vực Cầu Sơn, đúng 2 giờ sáng 31 tháng 1, tiến đánh chiếm chi cảnh sát Hàng Xanh, diệt nhiều tên, làm chủ khu vực này. Địch điều tiểu đoàn 30 biệt động quân hành quân bằng ô tô từ Thủ Đức về ứng cứu. Đoàn xe lọt vào trận địa phục kích, Tiểu đoàn 3 đồng loạt nổ súng, bắn cháy một số xe (có một xe M113) và xung phong, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 30 biệt động quân, giữ vững trận địa suốt ngày hôm ấy. Trong quá trình chiến đấu, bộ đội Giải phóng được Nhân dân giúp đỡ đắc lực. Sáng 01 tháng 02, một bộ phận Tiểu đoàn 3 phát triển tiến công sang khu vực tây Cầu Sơn. Địch tiếp tục điều quân đến, phản kích giải tỏa, có máy bay lên thẳng vũ trang và máy bay chiến đấu yểm trợ. Chúng bắn bừa bãi vào khu dân cư, khói lửa ngùn ngụt một vùng trời. Chiến sự tại chỗ ác liệt, Tiểu đoàn 3 Dĩ An trụ ở khu Hàng xanh cả ngày 1 tháng 2, đến đêm mới rút. Tại Bình Hòa, từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 2 (mồng ba đến mồng năm Tết), một cánh quân ta giao tranh ác liệt với tiểu đoàn 38 và tiểu đoàn 41 biệt động quân ngụy tại ngã năm, bắn cháy một xe M113, diệt nhiều tên địch. Sau đó quân ta kéo qua Cây Thị, rút về Xóm Thơm (Gò Vấp) an toàn. Tuy vậy, phải mấy ngày sau địch mới kiểm soát được khu vực Bình Hòa. Tại Bình Quới Tây, được sự chỉ đạo của Ban cán sự Thị Nghè, chi bộ địa phương do đồng chí Bùi Văn Mới lãnh đạo đã tổ chức quần chúng nổi dậy kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ chiếm đồn dân vệ Cây Me. Lúc 11 giờ mồng ba Tết, đồng chí Bí thư chi bộ cùng du kích giả vờ vào chúc rượu cho lính, rồi bất ngờ dùng súng colt áp vào bắt sống 5 tên, diệt 2 tên ác ôn, chiếm đồn, thu 18 súng các loại, một số máy móc. Nhân dân Bình Quới Tây tổ chức mít tinh mừng thắng lợi. Trong khi đó Tiểu đoàn 4 Thủ Đức tiến công phá cầu xa lộ không thành, tối 31 tháng 1, Đại đội 2 của tiểu đoàn vượt sông sang ấp 10 xã Bình Quới Tây. Ngày 4 tháng 2, Đại đội 2 từ ấp 10 phát triển ra ấp 9, diệt bót Bình An; ngày 5 tháng 2 đánh sập Cầu Kinh. Địch triển khai hai tiểu đoàn thủy quân lục chiến gần ấp 9 và ấp 10 Bình 1. Theo đúng hợp đồng, giờ “G” được báo hiệu bằng những loạt DKB bắn vào sân bay Tân Sơn Nhất - trụ sở Bộ chỉ huy MACV nhưng không thực hiện được. 2. Nhiệm vụ chính là vào tiếp sức đội 5 biệt động chiếm dinh Độc Lập.
154 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Quới Tây kết hợp với tàu chiến trên sông và một đại đội bảo an rải dài trên trục lộ từ ấp 9 đến ấp 10, dưới sự yểm trợ của máy bay, pháo, thực hiện phản kích. Quân ta ngoan cường chống trả, giữ vững trận địa. Một mình chiến sĩ Lý Hùng dùng súng B40 diệt 5 xe tăng và xe bọc thép. Các nữ chiến sĩ vừa tận tụy phục vụ chiến đấu vừa chiến đấu rất dũng cảm. Nữ chiến sĩ biệt động Bé Sáu vừa vận chuyển trên 100 kg thuốc nổ theo đơn vị vừa tổ chức đưa 7 chiến sĩ bị thương của Tiểu đoàn 3 Dĩ An bị kẹt ở khu vực Cầu Sơn về căn cứ an toàn. Ngày 28 tháng 2, tiếng súng trong nội thành mới tạm dứt, đợt I tổng công kích - tổng khởi nghĩa kết thúc. Ngay từ đợt 1, Nhân dân Đồng Ông Cộ đã giành quyền làm chủ, tạo bàn đạp và cơ sở hậu cần phục vụ quân giải phóng từ đợt 1 sang đợt 2. Các cơ sở ém người, ém vũ khí ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã trực tiếp phục vụ các đơn vị chiến đấu trong nội thành. Nhà số 81/44/144 đường Đinh Tiên Hoàng (Phường 3 hiện nay) là cơ sở biệt động C10 (I4) và quân báo Phân khu 4, có hai hầm bí mật, ém cán bộ và chiến đấu viên lúc chuẩn bị vào đợt. Chủ nhà 348/38B đường Bác Ái là đồng chí Trần Văn Miêng, gốc là một người làm nghề chích thuốc dạo và thổi bong bóng nên có biệt danh là “Ông Ba Chích”, “Ông Ba Bong Bóng”, đồng chí đã âm thầm nhận nhiệm vụ bán nhà cũ ở Xóm Chùa Tân Định, cùng vợ con đến xây dựng cơ sở ém vũ khí này, tiếp nhận vũ khí an toàn, bí mật. Nhưng trong khi đi làm thuê để nuôi vợ, con, đồng chí bị tai nạn. Trước khi chết, đồng chí gọi vợ đến đưa nửa đồng bạc, nói: “Tôi có một gia tài rất quý là nửa đồng bạc này. Bà giữ, khi tôi đã nhắm mắt rồi mà có người nào cầm nửa đồng bạc đến, khớp với nửa đồng bạc này thì giao ngôi nhà này cho người đó...”. Đúng 20 giờ đêm 30 tháng 1 năm 1968, Ban chỉ huy cụm biệt động 679 đã được bà Võ Thị Sang, vợ đồng chí Miêng, giao toàn bộ vũ khí dưới hầm nhà, lấy lên lau chùi và nổ súng đúng giờ G vào cổng 5 Bộ Tổng tham mưu ngụy. Nhà số 348/38 đường Phan Văn Trị của đồng chí Trần Tú Lệnh, thuộc đơn vị bảo đảm, có hầm bí mật (từ năm 1966) là nơi xuất phát một mũi chiến đấu tiến đánh Bộ Tổng tham mưu ngụy. Nhà số 93/22 đường Cường Để (nay là đường Bùi Đình Tuý, Phường 12) là cơ sở biệt động xuất kích đánh Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy. Chùa Long Vân, số 111 đường Bạch Đằng là cơ sở cách mạng từ năm 1965, là nơi các đồng chí Võ Văn Thạnh, Nguyễn Đức Hùng đến đây chỉ đạo cánh biệt động đánh Tòa đại sứ Mỹ, Đài phát thanh và Bộ Tư lệnh Hải quân.
155 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Qua 7 ngày tiến công quyết liệt kết hợp với nổi dậy, nhiều ngày đánh phản kích, quân dân miền Nam với quyết tâm cao nhất và sẵn sàng chấp nhận hy sinh đã làm nên chiến công có ý nghĩa lịch sử, gây choáng váng bất ngờ nhất cho đế quốc Mỹ trong quá trình xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, đợt 1 Tết Mậu Thân còn nhiều hạn chế so với yêu cầu do cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó vấn đề chi phối rất lớn là sự chênh lệch về lực lượng quân sự có lợi cho địch. Sau cơn choáng váng, địch hồi phục và tăng cường lực lượng về Sài Gòn - Gia Định, phản kích ác liệt, các lực lượng ta vừa chiến đấu giữ bàn đạp vừa chuẩn bị vào đợt 2. Phản kích của địch sau đợt 1 gây thiệt hại nặng nề về nhà cửa, tài sản của Nhân dân trên nhiều khu vực ven thành phố. Với khẩu hiệu “tay nắm tay”, Tổng hội sinh viên, Hội đồng sinh viên, Ủy ban thanh niên - học sinh sinh viên phối hợp tổ chức cứu trợ đồng bào bị nạn, cử Nguyễn Thành Công phụ trách hình thành trụ sở trung tâm cứu trợ đồng bào ở số 4 đường Duy Tân (nay là đường Phạm Ngọc Thạch), sau đó tiếp tục triển khai 13 điểm, trong đó có trường nữ trung học Lê Văn Duyệt, Viện ung thư Gia Định. Các điểm đã huy động nhiều gạo, thực phẩm để cứu trợ đồng bào, tổ chức khám bệnh, phát thuốc. Chuẩn bị vào đợt 2, Quận ủy Thạnh Mỹ Tây (mật danh Quận ủy Quận 10) được thành lập gồm: Bí thư Phan Thị Cúc (Tư Cúc), Phó Bí thư Trường Thắng (sau này đồng chí hy sinh); các Ủy viên thường vụ: Đặng Chí Hướng (Hai Hướng), nữ đồng chí Sáu Ngân, quận ủy viên Hai Bông. Quận ủy có một chi bộ ở Xóm Cối (Phường 26 hiện nay) gồm Bí thư Tư Phàn, các chi ủy viên Hai Năng, Tư Thợ Mộc (sau này đồng chí hy sinh). Ở Bình Hòa, cấp ủy liên Phường 10 do đồng chí Trần Hữu Phước làm Bí thư. Ta vào đợt 2 trong tình thế không còn yếu tố bất ngờ. Tại khu vực Đồng Ông Cộ và các vùng phụ cận, ngày 28 tháng 4 năm 1968, một đơn vị quân chủ lực Giải phóng thuộc trung đoàn Đồng Nai về ém quân để chuẩn bị vào đợt 2, quần chúng tại đây tích cực che chở và tiếp tế. Trưa ngày 4 tháng 5 năm 1968, chuẩn bị vào đợt 2, năm chiến sĩ biệt động tiến công Đài truyền hình Sài Gòn. Lúc 0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5 năm 1968, mở màn cao điểm đợt 2, hỏa tiễn H12 và DKB của ta bắn vào các mục tiêu sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập....
156 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Hai tiểu đoàn của Phân khu 5 tiến công khu cầu Bình Triệu, ngã ba Hàng Xanh và cầu Bình Lợi. Ba giờ sáng ngày 5 tháng 5, một đại đội bộ binh của ta dùng xe tải hành quân về phía Quận 1, đến cầu Phan Thanh Giản (cầu Điện Biên Phủ ngày nay), dùng B40 bắn bót gác của địch, vượt cầu, chiếm các nhà cao tầng ở khu vực cuối đường Tự Đức. Hải quân ngụy đóng ở cầu Thị Nghè bỏ chạy, một số trụ lại chống cự yếu ớt. Địch điều lực lượng đến phản kích. Một bộ phận thuộc Tiểu đoàn Phú Lợi 1 được quần chúng hỗ trợ, chiến đấu quyết liệt nhiều ngày bắn cháy nhiều kho địch ở Tân Cảng. Sau đó, quân địch trong khu vực hồi phục và phản kích ác liệt. Chuẩn tướng Giám đốc Tổng nha cảnh sát ngụy Nguyễn Ngọc Loan đã đích thân ra đốc chiến. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1968 địch tung một tiểu đoàn biệt động quân có thiết giáp yểm trợ từ Hàng Xanh đánh vào, tiểu đoàn 5 thủy quân lục chiến từ Sở thú đánh qua, kết hợp với tâm lý chiến phát loa ầm ĩ. Quân ta dựa vào công sự và các vật kiến trúc để bẻ gãy từng đợt phản kích của địch, bắn cháy 2 xe M113 (9 giờ 35 phút ngày 6 tháng 5), dùng cối 60 ly bắn vào cây xăng Thị Nghè, Ty nông cụ, Đài phát thanh Sài Gòn. Ở khu vực phía tây cầu Thị Nghè, quân ta đánh trả tiểu đoàn thủy quân lục chiến “Cọp biển”, làm chủ trận địa đường phố có nhiều quân ngụy, bắn gãy chân tên chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan (tên này phải vào bệnh viện, mất chức giám đốc Tổng nha cảnh sát). Cao điểm một của đợt 2 tạm lắng trong những ngày 12, 13 tháng 5 năm 1968. Ta vẫn làm chủ khu vực Đồng Ông Cộ. Chuẩn bị vào cao điểm hai, Trung đoàn Đồng Nai vượt sông ở Bình Quới Tây, tắt sang Đồng Ông Cộ. Ngày 25 tháng 5, ta tiến công một đơn vị cảnh sát ngụy ở gần chùa Quảng Tám (đường Hoàng Hoa Thám). Ngày 26 tháng 5 ta đánh bật địch ra khỏi khu tứ giác Nguyễn Văn Học (nay là đường Nơ Trang Long) - Lê Quang Định - Ngô Tùng Châu (nay là đường Nguyễn Văn Đậu) - Chi Lăng (nay là đường Phan Đăng Lưu). Địch phải ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn thị xã Gia Định, đồng thời điều lực lượng đến phản kích hòng đẩy lùi quân giải phóng ra khỏi thị xã. Ban ngày quân ta phân tán mỏng, đánh lẻ, ban đêm tập trung pháo kích vào các vị trí quan trọng của chúng như tiểu khu Gia Định, biệt đoàn 86 dã chiến. Địch phản ứng bằng cách cho máy bay lên thẳng bắn phá dữ dội khu vực này, làm cháy và hư hại nhiều nhà dân.
157 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đêm 30 tháng 5 thêm hai tiểu đoàn của Phân khu 1 tiến vào Gò Vấp, liên lạc được với Trung đoàn Đồng Nai. Đó là các tiểu đoàn Quyết Thắng 1 và 2 thuộc Trung đoàn Quyết Thắng có nhiệm vụ đánh vào tỉnh lỵ Gia Định. Đêm 28 tháng 5, cả hai tiểu đoàn từ rạch Ông Nên đã vượt qua đường sắt, chọc thủng tuyến phòng thủ của địch, đánh sập cầu Rạch Dừa, bắn cháy bồn xăng Shell, mở cửa vào thành Gia Định lúc 6 giờ sáng 29 tháng 5. Ngày 31 tháng 5 địch điều một chiến đoàn thủy quân lục chiến, một tiểu đoàn dù và cảnh sát dã chiến, có pháo, máy bay yểm trợ, thực hiện giải tỏa. Chiến sự rất ác liệt, các chiến sĩ Trung đoàn Quyết Thắng chiến đấu ngoan cường, chiếm giữ được đường Ngô Tùng Châu, phần đầu đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ), hạ một máy bay lên thẳng (xác rơi xuống Đồng Ông Cộ). Trong đợt này, chính ủy Lê Hoàng Phái nêu tấm gương dũng cảm xả thân vì cách mạng, khi vượt sông Rạch Cát, địch án ngữ dày đặc không thể bí mật “dùi” qua đường được, phía sau chúng lại rải bom bi, bom xăng, tạo nên một tuyến lửa. Nếu chần chừ, cả tiểu đoàn có thể bị tiêu diệt trong vòng vây người và lưới lửa của địch. Lê Hoàng Phái ôm khẩu AK đứng dậy, hô lớn: - Đạp lên đầu thù xốc tới. Đảng viên, đoàn viên xung phong! Anh dẫn đầu hàng quân lao lên, băng qua lưới lửa, quét sạch quân địch trên một tuyến dài khoảng trăm mét. Chớp thời cơ, tiểu đoàn băng qua đường, đánh thẳng xuống phía ngã ba Cây Thị... Đồng chí Lê Hoàng Phái anh dũng hy sinh. Địch buộc phải huy động cả máy bay khu trục đến ném bom, tiếng nổ rung chuyển thị xã Gia Định. Ngày 1 tháng 6, quân ta chia ra ba mũi đánh ở ba nơi: ấp Đông Nhì (cách cầu Băng Ky khoảng 400 mét), khu Sở Rác (gần ngã ba Cây Thị) và ấp Trung Nhất (gần khu Gò Vấp), ác liệt nhất là trận đánh ở khu Sở Rác. Trong hai ngày 1 và 2 tháng 6, địch bắn hàng ngàn đạn pháo lớn và ba lần cho xe bọc thép tiến công, nhưng đều bị ta đánh bạt. Có hai xe bọc thép bị bắn cháy ở Sở Rác và đường Ngô Tùng Châu. Ngày 3 tháng 6 và 10 ngày sau đó, quân ta chuyển sang đánh địch ở Đồng Ông Cộ, làm thiệt hại nặng tiểu đoàn dù số 5 của địch. Tại khu vực Cây Quéo - Cây Thị, đầu tháng 6 năm 1968, tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn Quyết Thắng do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Minh Trân, chỉ huy ở Cầu Hang (Gò Vấp) tiến chiếm vùng Cây Thị và khu Tịnh xá Trung tâm. Một cánh quân khác thuộc Trung đoàn Đồng Nai từ Đồng Ông Cộ kéo sang chiếm vùng Cây Quéo. Quân ta làm chủ vùng Cây Thị - Cây Quéo nhiều ngày.
158 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sáng ngày 4 tháng 6, quân ta tiến công bót cảnh sát Nguyễn Văn Gập, tiêu diệt toàn bộ cảnh sát trong bót. Địch điều một tiểu đoàn thủy quân lục chiến đến phối hợp với tiểu đoàn 5 dù mở các cuộc phản công có máy bay yểm trợ, nhưng đều bị quân ta đẩy lùi. Ngày 5 tháng 6 chúng tăng viện tiểu đoàn dù, cố chiếm lại vùng Cây Quéo - Cây Thị để chặn đường rút của ta. Chiến sự diễn ra ác liệt ở các khu vực chùa Trúc Lâm, chùa Linh Sơn, tịnh xá Trung Tâm, chùa Giác Hoa, chùa Quảng Tám, trường Đức Tín, phía sau rạp Đại Đồng,... Bộ đội di chuyển, kéo địch từ điểm này sang điểm khác để đánh. Sau 4 ngày giao tranh, tiểu đoàn 9 dù bị thiệt hại nặng, địch lại điều thêm tiểu đoàn 81 biệt kích dù từ Nha Trang vào cứu viện, nhưng vẫn không xoay chuyển được tình thế. Ngày 9 tháng 6, ta đánh địch ở khu Trần Bình Trọng, Ngô Tùng Châu, ven Xóm Thơm và chuyển sang ấp Bác Ái 10 thuộc vùng Cây Thị. Trưa ngày 12 tháng 6, ta tiến công một đơn vị thủy quân lục chiến ngụy đóng ở khu cư xá Hiền Vương (đường Ngô Tùng Châu). Sáng ngày 15 tháng 6, ta tiến công Bộ chỉ huy biệt kích dù đóng tại chùa Bửu Lăng, diệt hàng chục tên, trong đó có một thiếu tá cố vấn Mỹ. Đến trưa địch tăng viện phản công, ta bắn cháy một xe tăng tại đầu hẻm 143 Ngô Tùng Châu. Địch dùng cả hơi độc đánh vào trận địa quân Giải phóng. Một số chiến sĩ chiến đấu hết đạn buộc phải chôn súng. Đêm 17 rạng 18 tháng 6, trong tình thế bị tổn thất nặng, Trung đoàn Quyết thắng quyết định rút ra hướng Củ Chi, Thủ Dầu Một, nhưng một số cán bộ, chiến sĩ bị lạc đơn vị. Sau đó, cơ sở của ta trong dân đến và đưa ra căn cứ. Ngày 18 tháng 6, đợt 2 kết thúc. Suốt 18 ngày đêm chiến đấu ác liệt trong nội thành Gia Định, Trung đoàn Quyết thắng đã loại khỏi vòng chiến trên dưới 500 tên địch, phá hủy nhiều vũ khí trang bị quân sự của chúng. Hiệp đồng với Trung đoàn Quyết thắng, Trung đoàn Đồng Nai chiến đấu ngoan cường, nâng số địch bị loại khỏi vòng chiến đấu trong khu vực Gia Định lên hàng ngàn. Nhưng trong tình thế bất lợi về lực lượng, một tiểu đoàn của Trung đoàn Đồng Nai thương vong gần hết. Trong đợt 2, cấp ủy Thạnh Mỹ Tây (còn gọi là Quận ủy Quận 10) do đồng chí Phan Thị Cúc làm Bí thư và cấp ủy liên phường 10 (Bình Hòa) do đồng chí Trần Hữu Phước làm Bí thư, hoạt động rất tích cực, do đó đã tạo được nhiều cơ sở phục vụ chiến đấu như nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ, để tiếp tế lương thực cho bộ đội, vận tải, giao liên hướng dẫn các mũi tiến công đánh trúng mục tiêu địch.
159 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Cơ sở trí vận ở số 97/1 đường Cường Để (nay là đường Bùi Đình Túy, Phường 12) là nơi đặt sở chỉ huy một trung đoàn. Từ đợt 1 đến đợt 2, đình Cầu Sơn đã được chọn làm cơ sở hậu cần cho toàn mặt trận, do chi bộ Xóm Cối (nay là Phường 26) đảm trách. Các y, bác sĩ của ta được đưa đến đây để chăm sóc chiến thương, bệnh binh trong gần một tháng trước nanh vuốt kẻ thù. Riêng đợt 2, ấp 8 là chỗ ém quân Giải phóng, là nơi được chọn làm địa bàn hậu cần cho hai mặt trận Thị Nghè và Đồng Ông Cộ - Bình Hòa. Ở Bình Quới Tây, Nhân dân cùng bộ đội thành lập trạm xá dã chiến có thể điều trị một lúc cho khoảng bốn năm mươi người. Cơ sở 62 đường Ngô Đức Kế là nơi đặt trạm quân y và đài quan sát mặt trận Đồng Ông Cộ trong đợt 2. Ở đây có hầm bí mật để ém cán bộ bí mật. Địch nhiều lần tiến công khu vực Đồng Ông Cộ đều bị đánh bật trở ra, cơ sở hậu cần ở đây vẫn tiếp tục duy trì suốt đợt 2. Cuối đợt 2, rất nhiều cơ sở nội thành trở thành nơi nuôi giấu cán bộ chiến sĩ bị lạc đơn vị sau những trận đánh ác liệt. Cơ sở điệp báo quân khu Sài Gòn - Gia Định tại nhà 171 đường Bạch Đằng là nơi che giấu 8 chiến sĩ biệt động. Trung đoàn Đồng Nai có 5 cán bộ, chiến sĩ bị địch vây ở nghĩa địa trước xưởng dệt Nam Á. Được một chủ nhà che chở, các đồng chí đào hầm ngay trong nhà và được nuôi giấu suốt 5 ngày trước sự lùng sục của địch. Năm đồng chí tiếp tục được chuyển sang nhà anh Ba Lân (gia đình thân thuộc của bà Nguyễn Thị Bình, sau là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), được chủ nhà dùng ô tô chuyển lên Lai Khê (vòng qua Thủ Đức, Lái Thiêu, thị xã Thủ Dầu Một, qua Bến Cát...). Trung đoàn Quyết Thắng khi rút có 6 đồng chí cán bộ bị kẹt lại tại số nhà 328/41 đường Phan Văn Trị, được quần chúng nuôi giấu hơn 20 ngày và sau đó được cơ sở đưa ra căn cứ an toàn. Bên cạnh việc phục vụ chiến đấu, Bình Quới Tây còn tổ chức được một tiểu đội vũ trang tuyên truyền vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động quần chúng ủng hộ cách mạng vừa diệt ác, phá kìm, hỗ trợ nhân dân đứng lên giành quyền làm chủ. Tiểu đội vũ trang tuyên truyền đã diệt được 4 tên mật báo viên thuộc Nha cảnh sát Hàng Keo, hai tên ác ôn khác thuộc Nha cảnh sát Sài Gòn, tiến công trụ sở ấp Bác Ái 7, Bác Ái 8, tịch thu toàn bộ sổ sách, giấy tờ của địch. Chính hoạt động này đã hỗ trợ cho đồng bào khu vực Đồng Ông Cộ đứng lên giành quyền làm chủ. Mặc dù yếu tố bất ngờ không còn, với đợt 2 ta đã tiếp tục “đưa chiến tranh vào thủ đô địch”, làm chủ nhiều khu phố trong nhiều ngày và gây cho chúng thiệt
160 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hại lớn về sinh lực. Đợt 2 nổi bật về hậu cần nhân dân, sự phối hợp giữa nhân dân với quân Giải phóng. Nhìn lại, với hai đợt tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tuy còn những hạn chế về kết quả so với mục tiêu đề ra do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, song quân dân ta đã làm nên một cột mốc lớn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Sau khi đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô, đợt 1 và đợt 2 tổng công kích và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã góp phần quyết định đánh sụp chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ. Đồng bào Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần xứng đáng vào chiến công chung, đồng thời qua cuộc tổng công kích và nổi dậy, càng hiểu thêm về lực lượng vũ trang cách mạng, càng gắn bó và tin tưởng vào thắng lợi của kháng chiến. Sau hai đợt tiến công và nổi dậy xuân hè, căn cứ tình hình và lực lượng thực tế, lãnh đạo mặt trận Sài Gòn - Gia Định trong khi chờ đợi sự chỉ đạo chính thức của cấp trên, đã chủ động đề nghị không tiến công vào Sài Gòn đợt 3 và báo cáo sự cần thiết phải chuyển hướng hoạt động để bảo tồn cơ sở theo hướng căn cơ lâu dài. Qua gần ba năm cùng cả nước chống chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, với nỗ lực cao, cán bộ, đảng viên trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tạo những chuyển biến tích cực cho phong trào tại chỗ. Với tính chất là địa bàn tiếp giáp nội ngoại ô, cư dân tập trung thành phần công nhân và lao động hướng về cách mạng vừa có địa bàn trú ém vừa có thể tiếp cận các mục tiêu đầu não của địch. Trong quá trình tạo thế, tạo lực chuẩn bị đón thời cơ và thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã giữ vai trò tạo cửa ngõ và cơ sở ém quân, ém vũ khí quan trọng phục vụ các lực lượng xung kích và mũi nhọn tiến công nhiều mục tiêu chiến lược của địch. Trong chiến đấu ác liệt trên đường phố sào huyệt địch, đồng bào đã vượt bao nguy hiểm ác liệt, tích cực hỗ trợ quân Giải phóng cả trước, sau khi nổ súng và trong quá trình lui quân trong tình thế địch đang tập trung lực lượng phản kích. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy tuy không tránh khỏi sự tổn thất cơ sở cách mạng, nhưng đồng bào càng thêm gắn bó, tin tưởng kháng chiến, qua đó xuất hiện nhiều nhân tố mới thuận lợi để phát triển cơ sở, thực lực cách mạng và phong trào tại chỗ.
161 Chương tám NHÂN DÂN BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY RA SỨC BẢO VỆ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG VÀ ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ - THIỆU (1969 - 1972) I. ĐẤU TRANH BẢO TOÀN VÀ KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG SAU SỰ KIỆN TẾT MẬU THÂN Do thất bại ê chề ở Việt Nam trong Mậu Thân (1968), nước Mỹ phải thay tổng thống. Nixon lên cầm quyền và đề ra chiến lược toàn cầu mới (còn gọi là “học thuyết Nixon”) vào tháng 3 năm 1969. Học thuyết Nixon được áp dụng vào Việt Nam bằng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tức là dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam để cho Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam mà vẫn giữ được miền Nam lệ thuộc Mỹ. Để thực hiện âm mưu trên, một mặt Mỹ nói đến “đàm phán”, mặt khác ra sức đẩy cuộc chiến tranh Việt Nam lên đỉnh cao và vô cùng khốc liệt. Chúng tăng cường mật độ ném bom miền Bắc, phản kích quyết liệt trên chiến trường miền Nam; ra sức xây dựng ngụy quân, ngụy quyền; thực hiện “bình định” với kế hoạch “Phượng hoàng”(1); mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương hòng cô lập và tiến đến tiêu diệt cách mạng ở miền Nam. Sài Gòn - Gia Định trở thành trọng điểm số một trong âm mưu khẩn trương lập lại an ninh của Mỹ - Thiệu. 1. “Kế hoạch Phượng hoàng” (còn gọi là “Con chim của tử thần”) là kế hoạch chiến tranh tình báo do tình báo Mỹ (C.I.A) điều hành nhằm âm mưu đánh phá tận gốc cơ sở cách mạng và tiêu diệt Đảng Cộng sản.
162 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Về mặt quân sự, Mỹ - Thiệu thực hiện chiến lược “quét và giữ” thay cho chiến lược “hai gọng kìm” đã bị phá sản, đẩy lực lượng vũ trang cách mạng ra xa thành phố, liên tục mở nhiều cuộc hành quân cảnh sát. Tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, cảnh sát thường phối hợp với thủy quân lục chiến(1), biệt động quân,... mở các cuộc ruồng bố vào các xóm lao động; hành quân trên quy mô lớn vào các vùng như Đồng Ông Cộ, xóm Lò Vôi, Cây Thị, Bình Quới Tây, Bình Lợi... để bảo vệ an ninh cho đô thành(2). Địch ra sức xây dưng bộ máy kìm kẹp từ tỉnh, thành xuống cơ sở. Chúng tăng cường bộ máy cảnh sát và mạng lưới “tình báo nhân dân”; xây dựng và “tình báo hóa” lực lượng “nhân dân tự vệ”; bắt quần chúng vào “phòng vệ dân sự”; mở các lớp huấn luyện quân sự cho trưởng, phó ấp và cấp cho lực lượng bán quân sự này ở mỗi khóm từ 30 đến 40 cây súng. Chúng còn thiết lập hệ thống chỉ đạo “bình định” từ trung ương xuống cơ sở. Đó là: - Hệ thống cố vấn Mỹ (MACV & CORDS) xuống đến cấp quận; - Hệ thống hội đồng bình định xuống đến xã; - Hệ thống Ủy ban Phượng hoàng xuống đến quận. Các cơ quan chỉ đạo trên đã kết hợp chặt chẽ, huy động toàn bộ lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội vào một nục tiêu đánh phá, tiêu diệt tận gốc lực lượng cách mạng. Mỹ - Thiệu một mặt bày ra nhiều trò chính trị để lừa bịp nhân dân, tranh thủ các tầng lớp bên trên, trung lưu, trí thức, học sinh, sinh viên... mặt khác tăng cường đàn áp tất cả mọi lực lượng chống đối. Thiệu ra luật “10-68” cấm quần chúng tổ chức hội họp, biểu tình, đình công... Chúng tập trung đánh vào công đoàn và phong trào công nhân; uy hiếp phong trào sinh viên; quân sự hóa học đường; đổi thẻ căn cước mới; đàn áp báo chí tiến bộ và đối lập; ráo riết bắt lính, đôn quân. Những âm mưu, thủ đoạn phản kích của địch từ sau Mậu Thân đã gây ra cho Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định nói chung và phong trào cách mạng của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng vô vàn khó khăn và thử thách mới. Lực lượng vũ trang và chính trị của cách mạng bị tổn thất nặng; một bộ phận còn lại không bám được địa bàn, phải rút ra ngoài(3). Đường tiếp tế, giao liên bị ngăn chặn; cán bộ hoạt động hợp pháp phải thay đổi chỗ ở vì giấy tờ, căn cước giả bị địch phát hiện. 1. Riêng Thạnh Mỹ Tây địch điều thêm một tiểu đoàn thủy quân lục chiến về để bảo vệ các cơ sở và nút giao thông quan trọng. 2. Ở ven đô trong những năm 1969 - 1970 trung bình mỗi tháng địch mở 377 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên (chiếm 38% toàn miền). 3. Tại Bình Quới Tây - một căn cứ cách mạng của Gia Định, địch cho phá sạch cây cối. Một cán bộ cách mạng hy sinh, số còn lại không bám trụ được phải tạm chuyển ra ngoài; hoạt động vũ trang của ta ở đây không còn nữa.
163 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Nhưng cũng qua cuộc tổng công kích và nổi dậy Mậu Thân 1968, lần đầu tiên, nhân dân thành phố được tận mắt nhìn thấy, được tiếp xúc với các chiến sĩ cách mạng, với anh bộ đội Giải phóng. Hình ảnh đẹp đẽ, tinh thần chiến đấu, hy sinh cao cả của chiến sĩ cách mạng càng khắc sâu trong lòng dân, tăng thêm lòng yêu thương và niềm tin tưởng của Nhân dân vào cách mạng. Đó là điều mà kẻ thù không sao tiêu diệt nổi, giúp cho Nhân dân vững bước vượt qua mọi khó khăn, thử thách để tiếp tục đấu tranh chống Mỹ - Thiệu. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Cục (tháng 6 năm 1968), Thành ủy Sài Gòn - Gia Định được lập lại do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư. Tháng 8 năm 1968, Thành ủy họp Hội nghị tại Ba Thu (Long An) và ra Nghị quyết Bình Giã I. Xuất phát từ tình hình thực tế của thành phố, Nghị quyết Bình Giã I đề ra chủ trương: - Không tổ chức tổng công kích - tổng khởi nghĩa đợt 3, mà chỉ phối hợp với toàn Miền ở mức độ có thể như pháo kích vào một số mục tiêu ở Sài Gòn - Gia Định. - Chuyển trọng tâm công tác sang lãnh đạo đấu tranh chính trị; củng cố tổ chức; đi vào bảo vệ xây dựng cơ sở, lực lượng cách mạng có tính vững chắc, lâu dài. Chủ trương tiếp tục cụ thể hóa và bổ sung trong quá trình chỉ đạo của Thành ủy, nhất là qua các hội nghị Bình Giã 2 và Bình Giã 3 (1969). Để triển khai Nghị quyết của Thành ủy Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định và Liên quận 4 được tổ chức như sau: ĐẢNG BỘ SÀI GÒN – GIA ĐỊNH LIÊN QUẬN 1 LIÊN QUẬN 2 LIÊN QUẬN 3 LIÊN QUẬN 4 QUẬN 1, 3, 10 QUẬN 2, 4, 7, 8 QUẬN 5, 6, 11 PHÚ NHUẬN HẠNH THÔNG BÌNH HÒA THẠNH MỸ TÂY
164 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sau hội nghị Bình Giã 1, các phân khu trả về cho thành phố thành phần đất của các quân nội đô và thị xã Gia Định. Như vậy, lúc này Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nằm trong Liên quận 4, do đồng chí Nguyễn Vĩnh Nghiệp (Sáu Tường) làm Bí thư. Trạm liên lạc của liên quận ủy đặt tại nhà 262/85 đường Bùi Hữu Nghĩa thuộc Thạnh Mỹ Tây (tức Phường 2 ngày nay). Đứng trước những khó khăn, thử thách mới, cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã kiên cường tổ chức thực hiện chủ trương liên quận ủy nhằm: “Tích cực phát triển phong trào đấu tranh của quần chúng ở các khu xóm lao động bằng cách hình thành và phát triển các tổ chức công khai biến tướng, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, kết hợp mạnh mẽ phong trào đấu tranh chính trị với hoạt động vũ trang, từng bước tiến lên làm chủ xóm ấp lao động”(1). Cùng với việc xây dựng cơ sở Đảng ở các ấp, các đoàn thể quần chúng cũng lần lượt tổ chức với nhiều hình thức phong phú. Công đoàn Giải phóng được bí mật thành lập do đồng chí Nguyễn Tấn Tước làm Chủ tịch và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Chí Hiếu - Phó Bí thư liên Quận ủy. Cũng trong năm 1970, Nghiệp đoàn bán hàng chợ Thị Nghè ra đời. Các tổ chức công khai, bán công khai của thanh niên, học sinh, sinh viên, thanh niên trốn lính và lính trốn không ngừng phát triển. Tại Bình Hòa có Liên đoàn thanh niên học sinh Phật tử Gia Định, Thạnh Mỹ Tây có nhóm Điện Biên, trường Lê Văn Duyệt có nhóm Áo trắng, trường tiểu học Chi Lăng có nhóm Liên đoàn Chi Lăng 1,... Các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn tham gia Lực lượng quốc gia tiến bộ (tháng 6 năm 1969), Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống (tháng 8 năm 1970)(2), Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình (tháng 11 năm 1970), Hội phụ nữ(3)... Vượt qua mọi thủ đoạn kìm kẹp với những đạo luật phát xít và mạng lưới tình báo dày đặc của Mỹ - Thiệu, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã bảo toàn và khôi phục lại lực lượng cách mạng. Tại ấp Bác Ái 1, chi bộ đảng và chi bộ đoàn thanh niên vẫn liên tục hoạt động. Nhiều cán bộ Thành đoàn và Ban sinh viên Sài Gòn - Gia Định đứng chân ở đây. Nhiều gia đình vẫn tiếp tục là cơ sở vững chắc của cách mạng như: nhà đồng chí Phan Văn Thư là cơ sở của báo Cờ Giải phóng; nhà bà Trần Thị Gái nuôi cán bộ hoạt động suốt từ năm 1969 đến năm 1972, chồng 1. Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Bình Thạnh (Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây) dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1975), Ban Tuyên giáo Quận ủy Bình Thạnh, 1989, tr. 129. 2. Tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây ủy ban có 3 phân khu: Phân khu Cây Thị, Phân khu Bà Chiểu và Phân khu Bình Hòa (Sách đã dẫn, trang 135). 3. Hội phụ nữ Việt Nam của Gia Định có từ năm 1957 đến năm 1963. Sau Mậu Thân (1968) nữ đồng chí Nguyễn Thị Tư (Tám Kim) đã lập lại Hội này tại chùa Hòa Khánh, hoạt động mạnh. Riêng ấp Bác Ái 3 thường xuyên có khoảng 100 chị em tham gia.
165 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) bà là một cảnh sát của chính quyền Sài Gòn từng canh gác cho những chuyến hàng của ta đi qua rạch Thị Nghè an toàn; nhà ông Trần Trinh Tiết giấu cờ Giải phóng và chất nổ cho biệt động Thành; nhà ông Hoàng Văn Được là cơ sở của Ban An ninh, có 5 hầm bí mật để nuôi giấu cán bộ và những sinh viên, thanh niên trốn quân dịch bị truy nã; nhà bà Sáu My là cơ sở liên lạc của Liên quận 4 và nơi cất giấu nhiều tài liệu, truyền đơn; nhà chị Nguyễn Thị Điệp là cơ sở của quân báo Miền; quán cơm Thanh Bình, nhà bà Nguyễn Thị Hường, bà Tư ở ấp Nhất Trí 5, nhà ông Tư Trọng (trưởng liên gia Đồng Ông Cộ) đã nuôi giấu nhiều cán bộ cách mạng... Trên cơ sở đó, phong trào đấu tranh chống Mỹ của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được từng bước phục hồi và phát triển trở lại kể từ sau sự kiện Tết Mậu Thân 1968... II. THAM GIA CÁC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG CỦA THÀNH PHỐ VÀ TỔ CHỨC ĐẤU TRANH TẠI ĐỊA PHƯƠNG TẠO THẾ VÀ LỰC MỚI Do đặc điểm về vị trí địa lý, từ lâu tổ chức Đảng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây hoặc nằm trong Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn (1954 - 1960) hoặc thuộc nội thành của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định. Sau Bình Giã 1, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được trả ngay về với Thành ủy, còn phần lớn đất Gia Định vẫn thuộc về các phân khu. Chính điều thuận lợi này đã giúp cho phong trào đấu tranh cách mạng của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây luôn luôn gắn chặt với phong trào của đô thành Sài Gòn. Sau tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân, Thành ủy và Ban Công vận chủ trương phát động cuộc đấu tranh đòi Mỹ - ngụy phải bồi thường, cứu trợ cho những người bị nạn do bom đạn gây ra. Trước áp lực của Nhân dân, chính quyền ngụy đã phải tổ chức cứu trợ. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây không những tham gia vào phong trào nói trên của toàn thành phố mà còn đấu tranh vạch mặt tên Trần Vĩnh Sinh (Trưởng ty y tế) và Nguyễn Văn Thuận (Trưởng ty cảnh sát Gia Định) tham ô trong việc phát gạo cho dân. Các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, chủ yếu là học sinh, sinh viên, công nhân đã tham gia hoạt động hội thảo sôi nổi của toàn thành phố vào những tháng cuối năm 1968. Hàng loạt hội thảo đã diễn ra ở các trường đại học, trụ sở Tổng Công đoàn nhằm phản đối những chính sách phản động của Mỹ - Thiệu, đòi chấm dứt chiến tranh, thay đổi nội các hiếu chiến Thiệu - Kỳ - Hương, đòi vãn hồi hòa bình. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng tích cực tham gia phong trào Phụ nữ Phật tử và các tổ chức Liên đoàn Phật tử cầu nguyện cho hòa bình, cầu nguyện cho nạn nhân chiến tranh. Phong trào được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia và lan nhanh ra các tỉnh. Điểm sáng của phong trào là tịnh xá Ngọc Phương của ni sư
166 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Huỳnh Liên nằm sát ngay Bình Hòa và thuộc sự chỉ đạo của Liên quận 4. Phong trào đòi hòa bình ngày càng sôi động vào cuối năm 1968 và đỉnh cao là tháng 12 năm 1968 đã lôi cuốn nhiều ngành, nhiều giới của thành phố tham gia. Mặc dù Thiệu ban hành đạo luật phát xít cấm tổ chức biểu tình, nhân dân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây và thành phố vẫn sôi nổi kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1969. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Trong không khí đau thương của toàn dân tộc Việt Nam, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng toàn thành phố theo dõi tin tức về lễ tang Bác Hồ. Nhiều nơi, Nhân dân bí mật lập bàn thờ, tổ chức lễ truy điệu và cầu siêu. Đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã nêu cao quyết tâm biến đau thương thành hành động cách mạng, thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Từ cuối năm 1969 đến năm 1970, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã cùng với nhân dân thành phố đấu tranh liên tục và quyết liệt chống Mỹ - Thiệu, tiêu biểu là phong trào đấu tranh chống thuế kiệm ước, phong trào tổng bãi công ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân xe buýt (tháng 1 năm 1970), phong trào tổng bãi khóa của học sinh, sinh viên (tháng 3 năm 1970), phong trào chống bọn Lon Nol tàn sát Việt kiều ở Campuchia (tháng 4 năm 1970) và cao trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, thanh niên đòi đuổi Mỹ, lật Thiệu vào cuối năm 1970... Ngoài ra, tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, công nhân còn tổ chức bãi công để ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân kho tồn trữ Thủ Đức (tháng 6 năm 1970). Chị em tiểu thương các chợ, bà con các xóm lao động liên tục tổ chức ủng hộ các phong trào của công nhân, của học sinh, sinh viên, tích cực quyên góp tiền bạc, thuốc men, lương thực ủng hộ cho cách mạng. Các tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên đã lãnh đạo các tổ chức quần chúng trong thanh niên, học sinh tập trung vào công tác xã hội và bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Thanh niên, học sinh đi vào các xóm lao động giúp đỡ bà con đắp đường sá, làm vệ sinh công cộng, dựng lại nhà cửa và dạy học cho con em các gia đình nghèo. Nhóm Hoa vông vang của trường Lê Văn Duyệt đã đem đến cho học sinh, sinh viên Bình Hòa những bài hát có nội dung tiến bộ và mang bản sắc dân tộc. Tổ chức thiếu niên Liên đoàn Chi Lăng 1 đã tập hợp hơn 600 học sinh và đã cùng các em trường Bình Hòa lập ra các nhóm văn nghệ (nhóm văn nghệ thiếu nhi xóm Lò Vôi, Đồng Ông Cộ,...) để tập và phổ biến các tiết mục văn nghệ có tinh thần dân tộc và
167 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) yêu nước. Các em còn ra tập san Áo trắng, nội san Chi Lăng 1 nhằm giáo dục trong học sinh lòng yêu nước, tự hào dân tộc và tinh thần chống ngoại xâm. Hoạt động của thanh niên, học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây hòa chung với các phong trào của “phụ nữ đòi quyền sống”, của giới Phật giáo yêu nước (Giáo hội Khất sĩ ni giới Việt Nam ở Bình Hòa, giáo phái Hồng Môn ở Thạnh Mỹ Tây), của Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình tỉnh Gia Định đã tạo nên làn sóng đấu tranh chống Mỹ - Thiệu rộng lớn, mạnh mẽ và ngày một dâng cao. Sau tổng công kích và nổi dậy Mậu Thân 1968, hoạt động vũ trang cách mạng ở thành phố ngày càng vô cùng khó khăn do bộ đội chủ lực, đặc công, biệt động của Sài Gòn - Gia Định bị tổn thất nặng nề và địch thì phản công quyết liệt. Trước tình hình đó, Thành ủy đã nhanh chóng cùng với Ban An ninh Miền củng cố lại lực lượng an ninh Thành. Ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở bí mật lâu dài trong nội bộ địch và bảo vệ các cơ quan Thành ủy, lực lượng an ninh còn lãnh trọng trách tổ chức diệt ác, phá kìm, trấn áp bọn phản cách mạng để hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực hỗ trợ cho những hoạt động vũ trang nói trên. Được Nhân dân giúp đỡ, vào đầu năm 1969 lực lượng vũ trang Thành Đoàn đã đánh vào ty Chiêu hồi Gia Định; tháng 4 năm 1969 đánh vào ty Bưu điện Gia Định và ngay sau đó (tháng 5 năm 1969) đánh vào ty Thông tin Gia Định. Ngoài ra, lực lượng vũ trang của Liên quận 4 cũng đánh vào bộ máy kìm kẹp ở ấp Bác Ái 3 và trụ sở ngụy xã Bình Hòa. Trong bối cảnh địch đang ra sức “bình định” với một bộ máy kìm kẹp, đàn áp khổng lồ để trước hết nhằm lập lại an ninh cho đô thành thì những hoạt động vũ trang trên đây có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nó không những cổ vũ, củng cố niềm tin trong quần chúng nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây mà còn ảnh hưởng trong toàn thành phố, góp phần tạo ra một bộ mặt thủ đô của ngụy quyền không hề được ổn định như Mỹ - Thiệu mong muốn. Phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang nói trên của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần quan trọng cùng thành phố chống lại âm mưu bình định của địch, chia lửa với các chiến trường ở miền Nam trong giai đoạn khó khăn, thử thách này.
168 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Từ giữa năm 1970, Mỹ tiếp tục thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào. Chúng ráo riết đẩy mạnh việc bắt lính, đôn quân, gây nên phản ứng càng quyết liệt trong Nhân dân. Về chính trị, Nguyễn Văn Thiệu sợ Mỹ bỏ rơi nên càng ra sức củng cố thế lực, tăng cường đàn áp nhân dân, càng gây không khí khủng hoảng chính trị ngay tại thủ đô Sài Gòn. Về kinh tế, miền Nam ngày càng gặp khó khăn do viện trợ của Mỹ giảm sút, thuế má tăng vọt và mức sống của nhân dân lao động tiếp tục đi xuống, khiến mâu thuẫn giữa Nhân dân và chính quyền Thiệu vô cùng gay gắt. Trước những khó khăn và tổn thất nặng nề của cách mạng miền Nam do những âm mưu mới và sự phản công quyết liệt của Mỹ - ngụy sau Mậu Thân, Trung ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 18, hạ quyết tâm phải đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ trong các năm 1970 - 1971; tập trung chống phá “bình định” của địch với hướng chủ yếu là nông thôn. Từ đây, phong trào cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới. Phong trào đấu tranh ở nông thôn từng bước được phục hồi, giành lại thế chủ động. Quân Giải phóng chiến thắng lớn ở biên giới Campuchia, đường 9 – Nam Lào tiến lên mở đợt tiến công chiến lược trên toàn Miền. Chiến dịch Nguyễn Huệ từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 6 năm 1972 đã tác động mạnh mẽ đến đô thị, nhất là Sài Gòn - Gia Định. Được sự chỉ đạo sát và kịp thời của Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định qua các hội nghị Bình Giã 4 (tháng 5 năm 1970), Bình Giã 5 (tháng 1 năm 1972), Hội nghị bàn công tác liên quận (tháng 2 năm 1971),... đã ngày càng làm tốt công tác xây dựng thực lực cách mạng để chuẩn bị cơ sở vững chắc cho lâu dài và đủ sức khi thời cơ đến giành thắng lợi quyết định. Với quyết tâm đó, Đảng bộ thành phố chú trọng phát triển lực lượng cách mạng trong Nhân dân, học sinh, sinh viên, củng cố tốt ở cơ sở đồng thời không ngừng mở rộng mặt trận lên trên và đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ - Thiệu. Từ giữa 1972, Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định càng được củng cố và tăng cường gồm 6 liên quận, 7 huyện và một quận độc lập. Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn nằm trong Liên quận 4 (Hạnh Thông, Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây); riêng Phú Nhuận được nhập về liên quận 6). Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định được tổ chức như sau:
169 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Trước những chuyển biến của tình hình nói trên, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây bước vào những tháng năm đấu tranh cách mạng sôi nổi của toàn thành phố. Phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tiếp tục dâng cao trong Nhân dân, học sinh sinh viên. Tháng 5 năm 1970, Hội nghị Thành ủy lần thứ 4 đánh giá phong trào công nhân đang phát triển rộng, mạnh hơn trước nhưng vẫn còn có mặt hạn chế; Đảng bộ cần phải nắm quyền chủ động trong công tác đô thị và chú trọng đẩy mạnh phong trào công nhân lên. Thực hiện chủ trương trên, tháng 8 năm 1970, Thành ủy mở hội nghị bàn công tác công vận. Từ đây phong trào công nhân lao động thành phố có những bước tiến mới. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân được tổ chức trên quy mô rộng lớn và kéo dài. Tháng 01 năm 1971, công nhân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng như toàn thành phố đã hưởng ứng cuộc đấu tranh phản đối thuế lương bổng do Ban Công vận Thành ủy phát động. Phong trào này kéo dài trong cả năm 1971. Nhiều cuộc hội thảo của công nhân đã diễn ra, Ủy ban vận HỆ THỐNG TỔ CHỨC ĐẢNG BỘ SÀI GÒN - GIA ĐỊNH Đảng bộ ngoại thành Đảng bộ nội thành Củ chi lIÊN QUẬN 1 lIÊN QUẬN 3 lIÊN QUẬN 5 lIÊN QUẬN 2 lIÊN QUẬN 4 lIÊN QUẬN 6 qUẬN ĐỘC LẬP (Thủ Thiêm - An Khánh) ban cán sự 41 (HẠNH THÔNG) ban cán sự 42 (bÌNH HÒA) ban cán sự 43 (tHẠNH MỸ TÂY) tân bình hóc môn gò vấp bìnhchánh thủ đức Ban Đảng Văn phòng tU Các ngành Đoàn thể Nhà Bè
170 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) động giảm thuế lương bổng được thành lập. Các nghiệp đoàn, báo chí lên tiếng ủng hộ. Ngày 29 tháng 7 năm 1971 có 40.000 công nhân thuộc 26 nghiệp đoàn bãi công hưởng ứng, làm tê liệt cả thành phố trong 2 ngày liền. Tiếp đó, 10 vạn công nhân, tư chức thuộc 21 nghiệp đoàn bãi công đòi hủy bỏ thuế lương bổng. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng đã ủng hộ hàng trăm cuộc đấu tranh khác của công nhân nổ ra vào tháng 3 năm 1971. Đặc biệt là ủng hộ cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt của công nhân hãng pin Con Ó (từ giữa năm 1970 đến năm 1971). Riêng tháng 3 năm 1972, toàn thành phố đã có 150 cuộc đấu tranh của công nhân. Và lớn nhất là cuộc đấu tranh của công nhân cảng Sài Gòn (17 tháng 3 năm 1972). Công nhân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, ngoài những người trực tiếp tham gia các cuộc đấu tranh nổ ra ngay nơi họ làm việc, số còn lại đã tích cực hưởng ứng các hoạt động nhằm ủng hộ vật chất và tinh thần cho phong trào công nhân lao động thành phố. Chị em buôn bán ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng tích cực đấu tranh chống áp bức, bảo vệ quyền lợi cho giới mình. Vào những năm 1970 - 1971, khu Bà Chiểu và ấp Bác Ái 1 lập được một phân hội Phụ nữ Giải phóng và đã làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của chị em ở đây. Năm 1971, nghiệp đoàn bán hàng chợ Bà Chiểu được thành lập. Như vậy, tại hai chợ lớn nhất của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là Thị Nghè và Bà Chiểu đều có tổ chức nghiệp đoàn để công khai lãnh đạo chị em đấu tranh. Cuối năm 1972, hàng trăm chị em buôn bán ở chợ Bà Chiểu đã cùng bà con ấp Bác Ái 7 và Bác Ái 8 tổ chức cuộc mít tinh để phản đối sự đàn áp của cảnh sát, nhiều truyền đơn đã được tung ra làm cho bọn địch bất ngờ và lúng túng. Các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng nhân dân thành phố đấu tranh chống chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Từ 1971, Mặt trận nhân dân tranh thủ hòa bình của Gia Định đã tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chính phủ Thiệu - Kỳ - Khiêm, tập trung mũi nhọn vào Nguyễn Văn Thiệu hiếu chiến và phát xít. Đặc biệt là từ tháng 5 năm 1971, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đấu tranh sôi nổi chống Mỹ - Thiệu tổ chức bầu cử gian lận. Cuộc đấu tranh này được Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo với quyết tâm đưa phong trào cách mạng thành phố tiến lên một bước mới, trở thành một mũi nhọn tiến công chính trị chủ yếu ở miền Nam. Thực hiện chủ trương trên, Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định phát động nhân dân toàn thành phố đấu tranh cho khẩu hiệu “hòa bình, cơm áo, dân chủ và độc lập dân tộc”, “chống bầu cử gian lận”. Từ tháng 8, địch tổ chức bầu cử nghị viện đến tháng 10 năm 1971 bầu cử tổng thống là khoảng thời gian phong trào đạt được đỉnh cao. Nhiều Ủy ban chống bầu cử gian
171 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) lận, chống độc diễn được thành lập. Quần chúng tham gia phong trào với nhiều hình thức phong phú như: công nhân bãi công, sinh viên, học sinh mở chiến dịch đốt xe Mỹ, đánh lính Mỹ đi trên đường phố, các ủy ban họp báo tố cáo Thiệu, ra tuyên ngôn đòi Thiệu hủy bỏ độc quyền tranh cử, rải truyền đơn, tổ chức mít tinh vạch trần âm mưu của Mỹ - Thiệu, tổ chức đi vận động nhân dân trong từng khu, ấp tẩy chay bầu cử và ủng hộ các ứng cử viên do Ban Trí vận Thành ủy giới thiệu tranh cử vào hạ viện,... Vào những năm 1970 - 1971, địch cho làm đường xe lửa phục vụ quân sự nối Tân Cảng và cầu Bình Lợi, xây cầu Bình Triệu, mở dài thêm đường Hùng Vương. Vì vậy, trong thời gian này ở Thạnh Mỹ Tây rộ lên phong trào đấu tranh của Nhân dân chống giải tỏa, đòi bồi thường thiệt hại. Đặc biệt “phong trào học sinh, sinh viên... đã trở thành trung tâm đột phá của phong trào đô thị” (Nghị quyết Bình Giã 4). Sau hội nghị Bình Giã 4, Đảng bộ và Thành Đoàn càng ra sức xây dựng thực lực và tổ chức phong trào đấu tranh trong học sinh - sinh viên. Tháng 7 năm 1970, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh đã góp những ý kiến quan trọng cho Thành ủy trong việc chỉ đạo phong trào này. Học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực tham gia vào phong trào học sinh, sinh viên toàn Thành đang tiếp tục dâng cao, sôi nổi và quyết liệt từ cuối năm 1970 đến giữa năm 1972. Tiêu biểu là những phong trào chống văn hóa đồi trụy, lai căng (1970 - 1971); tổ chức những tuần lễ: nữ thanh niên mặc áo dài, ra quân Hai Bà Trưng, Trần Văn Ơn, Nhất Chi Mai...; phong trào chống tăng học phí, chống quân sự hóa học đường, chống đàn áp, khủng bố (tháng 1 năm 1971); chống Thiệu tổ chức bầu cử gian lận, độc diễn, phản đối bọn Lon Nol tàn sát Việt kiều ở Campuchia; phong trào chống Mỹ - Thiệu với khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đốt xe Mỹ, rải truyền đơn, kẻ khẩu hiệu chống Mỹ; thành lập “phong trào chống chiến tranh và chống tổng động viên”; tổ chức biểu dương lực lượng nhân đám tang Phạm Hạnh. Nhóm Áo trắng của trường Lê Văn Duyệt là một điển hình trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Nhóm được Thành Đoàn trực tiếp chỉ đạo và hoạt động rất sôi nổi. Đầu năm 1972, học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tham gia đấu tranh chống Thiệu xét xử những người đứng đầu phong trào công khai của thành phố, trong đó có Huỳnh Tấn Mẫn, Lê Văn Nuôi; tham gia bãi khóa trong ngày 18 tháng 3 năm 1972; tham gia các đội xung kích “Nói cho đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi nói”... Từ giữa năm 1972, phong trào học sinh, sinh viên bị chính quyền Sài Gòn đàn áp quyết liệt. Chúng bắt bớ, giam cầm, tra tấn dã man những người đứng đầu phong trào. Chúng giải tán các “trung tâm” đấu tranh, ra lệnh đóng cửa trường... Đứng
172 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) trước sự phản công toàn diện của địch, thực hiện sự chỉ đạo của Thành Đoàn, học sinh sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng như học sinh sinh viên toàn thành phố tổ chức đi vào nhân dân lao động làm công tác văn hóa - xã hội để duy trì lực lượng, tạo dựng cơ sở mới và phong trào mới. Song song với các hoạt động nêu trên, công tác xây dựng cơ sở và hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị cũng được đẩy mạnh. Từ tháng 4 năm 1971, Ban chỉ huy quân sự Sài Gòn - Gia Định đã tổ chức một đội công tác đi xuống xây dựng cơ sở và lực lượng vũ trang cho nội đô và các huyện ven đô. Những tháng cuối 1971, hoạt động vũ trang ở nội thành mạnh dần lên. Lực lượng trinh sát vũ trang đã tích cực diệt ác, phá kìm ở cơ sở và xây dựng nhiều lõm chính trị mới. Riêng vùng Thị Nghè của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây và Quận 8 đã có hơn 60 lõm chính trị(1). Nhờ có những cố gắng trên mà các tổ chức phòng vệ dân sự của địch ở Sài Gòn - Gia Định hoạt động kém hiệu quả. Suốt từ năm 1969 đến năm 1972, tuy phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trước những âm mưu, thủ đoạn mới của Mỹ - Thiệu, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với toàn thành phố đã phấn đấu giữ vững và đưa phong trào đấu tranh cách mạng đi lên, giành thắng lợi lớn về đấu tranh chính trị; góp phần cùng với toàn chiến trường miền Nam làm thất bại chương trình “bình định” của địch, phá sản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ trên không ở miền Bắc đã buộc Mỹ - ngụy phải ký kết Hiệp định Paris (tháng 1 năm 1973), tạo thế và lực mới cho giai đoạn lịch sử kế tiếp. 1. Báo cáo của Hội nghị cán bộ Nội thành lần thứ 4 (ngày 3 tháng 12 năm 1971) (lưu trữ Ban Nghiên cứu lịch sủ Đảng thành phố Hồ Chí Minh).
173 Chương chín NHÂN DÂN BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH PHÁ HOẠI HIỆP ĐỊNH PARIS VÀ GÓP PHẦN KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (tháng 1-1973 – ngày 30-4-1975) I. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG VÀ ĐẨY MẠNH PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ - THIỆU TRONG NHỮNG NĂM 1973 - 1974 Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết vào ngày 27 tháng 01 năm 1973. Theo hiệp định này, Mỹ thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước; công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (tức là ở miền Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội và 2 vùng kiểm soát); ... Mặc dù ngày 29 tháng 3 năm 1973, những tên lính cuối cùng của Mỹ và chư hầu đã phải rời khỏi miền Nam Việt Nam nhưng chính phủ Mỹ vẫn đuổi theo mục tiêu: biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt dưới quyền một chính phủ nằm trong vòng lệ thuộc và chi phối của Mỹ. Vì vậy, Mỹ - Thiệu ráo riết thực hiện các biện pháp chủ yếu sau đây:
174 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) - Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho Thiệu, xây dựng ngụy quyền, ngụy quân mạnh lên; chuyển 20.000 cố vấn quân sự sang đội lốt dân sự trong tổ chức DAO (Cơ quan Tùy viên quốc phòng Mỹ). - Mỹ ủng hộ Thiệu phá hoại Hiệp định Paris, kéo dài chiến tranh, tiếp tục lấn chiếm và bình định với chỉ tiêu 75% ấp, xã trên toàn miền Nam; khẩn trương thực hiện chương trình kinh tế hậu chiến (phòng khi bắt buộc phải đi đến giải pháp chính trị); thực hiện “kế hoạch Hùng Vương” tràn ngập lãnh thổ; Thiệu đưa ra 10 biện pháp phát xít và luật 009-SLVN để đàn áp tất cả các lực lượng đối lập với Thiệu và ủng hộ hòa bình. Trong lúc đó, Nhân dân Sài Gòn - Gia Định hồ hởi, vui mừng chào đón Hiệp định Paris, chào đón các đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban liên hiệp quân sự 4 bên đến thành phố. Để đối phó lại, Thiệu mở nhiều đợt tuyên truyền về cái gọi là “thắng lợi” của chúng; kêu gào “tràn ngập lãnh thổ”, bung ra đánh chiếm các vùng giải phóng của ta; tăng cường kìm kẹp, quân sự hóa bộ máy hành chính ở các cấp phường, khóm. Chiến tranh vẫn tiếp diễn, sản xuất đình trệ, đồng tiền bị sụt giá, tệ nạn xã hội lại gia tăng, nghèo đói và bệnh tật phát triển. Tình hình đó càng dẫn đến sự phân hóa cao độ trong xã hội đô thành. Lực lượng đòi hòa bình chống Thiệu ngày càng đông đảo. Tại Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, địch tăng cường bộ máy kìm kẹp, đưa nhiều loại cảnh sát “chìm”, “nổi” dã chiến, các loại lính quân cảnh, thủy quân lục chiến xuống tận các xóm, ấp, xí nghiệp, trường học để đánh phá cơ sở cách mạng và ráo riết bắt lính, đôn quân. Chúng xây dựng thêm nhiều bót cảnh sát để kiểm soát chặt chẽ trên các lộ quan trọng và các khu đông dân cư như: Bà Chiểu, Hàng Xanh, Thị Nghè. Mặt khác, địch cũng ra sức phát động “chiến tranh tâm lý” nhằm reo rắc sự hoài nghi, hoang mang trong Nhân dân. Do ảnh hưởng của tình hình kinh tế đang giảm sút ở đô thành, cuộc sống của công nhân, lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây ngày càng khó khăn, nạn thất nghiệp gia tăng và nạn đói đã xảy ra ở một số khu, xóm lao động. Vì vậy, sự căm ghét chế độ của Thiệu trong Nhân dân càng lên cao và Nhân dân càng nỗ lực thực hiện chủ trương mới của Đảng. Ngay sau khi có Hiệp định Paris, Thành ủy Sài Gòn - Gia Định đã đề ra những nhiệm vụ trọng tâm như: tổ chức tuyên truyền về thắng lợi của ta; bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của địch; đấu tranh đòi địch thi hành Hiệp định Paris; đưa một
175 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) số phong trào đấu tranh cho những quyền lợi thiết yếu về dân sinh, dân chủ đi lên để tiếp tục tạo thế, tạo lực cho cách mạng với phương châm “Đứng vững trên thế võ trang, dựa vào pháp lý Hiệp định tấn công mạnh về chính trị”. Tháng 6 năm 1973, Quân ủy Miền quyết định: kiên quyết và chủ động phản công tấn công địch. Tháng 7 năm 1973, Trung ương Đảng ra Nghị quyết 21 khẳng định con đường cách mạng miền Nam vẫn còn là con đường bạo lực, phải tiếp tục tấn công địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện những chủ trương trên, tháng 8 năm 1973, Ban Thường vụ Thành ủy họp và ra chỉ thị nêu rõ nhiệm vụ cho thành phố là phải xoáy sâu vào các quyền lợi, yêu cầu bức thiết của quần chúng mà tổ chức quần chúng đấu tranh với tinh thần triệt để tiến công địch, chủ động đánh địch ngay trong vùng chúng kiểm soát. Tình hình trên đây đòi hỏi Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, sau khi có Hiệp định Paris vẫn phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống Mỹ - Thiệu để giành lại những quyền lợi thiết thân cho chính mình và góp phần giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. Năm 1973, tổ chức Đảng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn bao gồm Đảng bộ Bình Hòa (K42) và Đảng bộ Thạnh Mỹ Tây (K43) nằm trong Liên quận 4. Ban cán sự K42 gồm Bí thư Lê Khắc Bình, Phó Bí thư Nguyễn Ngọc San và ủy viên Nguyễn Thị Nguyệt. Ban cán sự K43 gồm Bí thư Nguyễn Chí Hiếu, Phó Bí thư Nguyễn Ngọc Sơn và ủy viên Nguyễn Hữu Giáp. Các Đảng bộ đã kiên cường bám sát địa bàn dân cư, ra sức xây dựng lực lượng cách mạng dưới mọi hình thức. Đầu năm 1973, K42 đã chỉ đạo thành lập “Ban vận động đoàn ủy thanh niên học sinh Gia Định”. Tháng 10 năm 1973, thành lập chi đoàn thanh niên P3 (gồm bộ phận bí mật, bộ phận công khai và bộ phận vũ trang). P3 được phân công phụ trách các ấp Bác Ái 1, 2, 4, 13 và 14. Sau đó từ P3, bộ phận bí mật đã xây dựng thêm được một chi đoàn mới. Cũng trong thời gian này, K43 đã nắm và lãnh đạo các tổ chức thanh niên như: Chi đoàn thanh niên Phật tử và các chi đoàn Hướng Dương, Trường Sơn, Liên Việt thuộc tổ chức “Đoàn Thanh niên xã hội dấn bước”(1).Trên cơ sở đó, K42 đã phát triển thêm đảng viên mới thuộc chi bộ A104 và thành lập tổ đảng mới tại ấp Bác Ái 3. K43 phát triển thêm chi bộ Đảng ở ấp Nhất Trí 6 (đồng 1. “Đoàn Thanh niên xã hội dấn bước” phát triển từ nhóm Điện Biên (thành lập năm 1972). Nhóm lúc đầu có 4 người, đến giữa năm 1974 có 3 chi đoàn với gần 300 đoàn viên; mở lớp dạy học, giúp đỡ thiếu nhi nghèo, tuyên truyền cách mạng. Đến năm 1973, tổ chúc này đã xây dựng được 1 đội tự vệ võ trang thuộc ấp Nhất Trí 3 (Phường 15).
176 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chí Huỳnh Văn Hên làm Bí thư). Lực lượng Đảng và Đoàn thanh niên đã đi sâu, gắn bó với quần chúng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng. Từ đây, lực lượng vũ trang và cơ sở cách mạng (hội viên Giải phóng, quần chúng tích cực, cảm tình) không ngừng tăng lên và tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh cách mạng của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tiếp tục dâng cao(1). Phong trào đấu tranh của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tiếp tục phát triển trong hai năm 1973 - 1974. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định bằng nhiều hình thức tổ chức chào mừng Hiệp định Paris và vạch trần bộ mặt phát xít của Thiệu. Phong trào diễn ra sôi nổi ngay từ ngày 28 tháng 1 năm 1973. Các Đảng bộ K42, K43 đã nhiều lần huy động và tổ chức quần chúng xuống đường đấu tranh ở ngã tư Phú Nhuận, chợ Cầu Muối, chợ Vườn Chuối, chùa ấn Quang... Đặc biệt là Đoàn thanh niên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã sáng tạo ra hình thức “biểu tình bỏ túi”, “biểu tình chạy”. Đó là những cuộc biểu tình cũng có đủ truyền đơn, biểu ngữ và hô các khẩu hiệu nhưng số người tham dự ít, bí mật đi đến điểm tập trung và diễn ra hết sức nhanh để bọn địch không kịp đối phó. Các cuộc biểu tình ấy thường xuất hiện ở những nơi tập trung đông quần chúng như chợ Bà Chiểu, chợ Cây Thị, chợ Cây Quéo, ấp Bác Ái 2, Bác Ái 4, ... Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực hưởng ứng các cuộc đấu tranh của giới Phật tử chống Thiệu, đòi hòa bình, dân chủ và cơm áo cho Nhân dân mà trung tâm đấu tranh là tịnh xá Ngọc Phương do ni sư Huỳnh Liên dẫn đầu. Phong trào này diễn ra suốt các năm 1973, 1974 và rất quyết liệt. Ni sư, Phật tử đã phối hợp với các Ủy ban cải thiện chế độ lao tù, Ủy ban bảo vệ quyền lợi lao động, Ủy ban phụ nữ đòi quyền sống, ... tổ chức nhiều cuộc xuống đường và kéo đến Hạ nghị viện đấu tranh trực tiếp với địch. Thiệu đã cho cảnh sát quân cảnh bao vây tịnh xá Ngọc Phương (ngày 27 tháng 10 năm 1974) tấn công vào ni cô, Phật tử và quần chúng trong cuộc biểu tình ngày 17 tháng 1 năm 1975. Hành động phát xít của chúng càng gây căm phẫn trong Nhân dân. Giữa năm 1974, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực tham gia phong trào tẩy chay cuộc bầu cử hội đồng cấp tỉnh, thành của ngụy quyền. Dưới sự hướng dẫn của các cơ sở Đảng, quần chúng đã tố 1. Chỉ riêng ấp Nhất Trí 2 (Phường 17) đã xây dựng nhiều cơ sở cách mạng và các tổ chức cách mạng biến tướng như Hội Tương tế Phật giáo, hội phật tử, Hiệp đoàn học sinh của trường Nguyễn Duy Khang và các lõm chính trị ở Mông Triệu, xóm Ruộng, xóm Canh nông. Ấp Nhất Trí 4 cũng xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng. Ấp Nhất Trí 6 xây dựng nhiều lõm chính trị và xóm an toàn. Các ấp đều xây dựng cơ sở cách mạng trong lực lượng “Nhân dân tự vệ”. Đặc biệt có linh mục Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích (Thạnh Mỹ Tây) là những cơ sở cách mạng rất vững chắc đã giúp đỡ nhiều cho cán bộ cách mạng và giúp thanh niên trốn lính.
177 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) cáo, vạch mặt bọn ứng cử viên phản động, xé các bích chương và rủ nhau không đi bầu. Tại Bình Hòa, theo báo cáo của Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, cử tri đi bỏ phiếu chỉ đạt 15 đến 30%. Cuối 1974, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn tham gia nhiều cuộc biểu tình ở Sài Gòn đòi Thiệu thả tù chính trị, đòi Thiệu thi hành Hiệp định Paris, đòi Thiệu từ chức... mà điển hình là cuộc xuống đường của toàn thành phố vào ngày 20 tháng 10 năm 1974; tham gia phong trào chống chính quyền Thiệu tham nhũng do linh mục Trần Hữu Thanh khởi xướng... Dưới sự lãnh đạo của liên Quận ủy và nghiệp đoàn chợ(1), chị em buôn bán liên tục đấu tranh chống đuổi chợ, chống thuế... Có những cuộc diễn ra rất quyết liệt như: chị em giằng co với cảnh sát hoặc kéo lên hội đồng xã Bình Hòa, hội đồng tỉnh Gia Định để đấu tranh. Và điển hình vẫn là chị em ở hai chợ Bà Chiểu và Thị Nghè. Đặc biệt là trong những năm 1973, 1974 và đầu năm 1975, phong trào của công nhân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây diễn ra với tính chất, quy mô cao hơn trước rất nhiều. Điển hình nhất là công nhân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây hưởng ứng đợt đấu tranh nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 (1974) do Ban Công vận Thành ủy phát động; tham gia cuộc xuống đường vào ngày 20 tháng 10 năm 1974 do Ủy ban bảo vệ quyền lợi lao động miền Nam Việt Nam phát động. Nổi bật là cuộc đấu tranh của công nhân hãng dệt Nam Á. Hãng dệt Nam Á một trong những cơ sở công nghiệp lớn ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, có khoảng 200 công nhân. Từ năm 1973, chị Nguyễn Thị Hiệp, cán bộ Ban Công vận Thành ủy đã đi vào gây dựng cơ sở trong hãng, đến cuối năm 1974 đã có 10 công nhân nòng cốt và mấy chục công nhân cảm tình cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của cơ sở Đảng, cuộc đấu tranh ở đây đã diễn ra quyết liệt từ giữa năm 1974. Công nhân đòi tăng lương, làm việc 8 giờ một ngày, tăng khẩu phần ăn cho người làm ca đêm... với hình thức đấu tranh cao nhất là tuyệt thực. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, công nhân dệt Nam Á còn dũng cảm tố cáo bọn chủ hung hãn âm mưu phân tán tài sản, máy móc, sa thải công nhân để chuẩn bị ra đi, Ủy ban công nhân đòi quyền sống và báo chí đã lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh trên. Diễn ra quyết liệt nhất ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong thời gian này là phong trào đấu tranh chống bắt lính. Để âm mưu phá hoại Hiệp định Paris, kéo dài chiến tranh, bọn hiếu chiến Nguyễn Văn Thiệu tăng cường bắt lính, đôn quân, 1. Cán bộ “Nghiệp đoàn 36 chợ Sài Gòn” có chị Nguyễn Thị Điệp ở ấp Nhất Trí 3 là đảng viên cộng sản. Nhà chị là nơi hội họp của Ban Chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn, là trụ sở của Đoàn chủ tịch “Phong trào đòi quyền sống”, là cơ sở của P2 quân báo. Chị đã lãnh đạo cuộc đấu tranh của chị em chợ Bà Chiểu và chợ Tân Định.
178 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) tiếp tục đẩy thanh niên ra chiến trường. Điều đó đã gây phẫn nộ trong mọi tầng lớp nhân dân. Được sự lãnh đạo và làm nòng cốt của các tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã dũng cảm chống lại các cuộc ruồng bố bắt lính của địch. Tháng 4 năm 1974, 200 đồng bào biểu tình tại chợ Bà Chiểu chống bắt lính. Ở các vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, bà con đã che giấu, nuôi dưỡng lính trốn và thanh niên trốn đi lính (điển hình là ấp Bác Ái 3, Bác Ái 7, Nhất Trí 2 che giấu từ 10 đến 30 người). Cơ sở cách mạng đã giáo dục, giác ngộ, trang bị vũ khí để anh em tổ chức tự vệ. Các cuộc đánh trả bọn quân cảnh, cảnh sát liên tiếp diễn ra. Từ phong trào này, nhiều lõm chính trị đã ra đời. Số thanh niên nói trên được công nhận là thành viên lực lượng vũ trang tự vệ của cách mạng. Trong thanh niên, học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, nhờ có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng và hoạt động tích cực của các tổ chức Đoàn, từ năm 1973 trở đi phong trào đấu tranh đã phát triển vượt bậc. Thanh niên đã hăng hái đi đầu trong “phong trào cứu đói”. Cuối năm 1974, nạn đói đã lan tràn khắp nơi. Thành ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương lập “Mặt trận nhân dân cứu đói”. Các “ủy ban cứu đói” nhanh chóng được thành lập ở khắp các quận, huyện. Tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, ở các ấp đều có trụ sở “Ủy ban cứu đói”. Các ủy ban tố cáo chế độ Thiệu và kêu gọi nhân dân tham gia cứu đói với tinh thần “lá rách đùm lá nát”. Ủy ban cứu đói của liên ấp 7 và 8 trong buổi lễ ra mắt (ngày 24 tháng 11 năm 1974) đã vạch rõ: “... Nay do đời sống túng quẫn vì không có công ăn việc làm, vì buôn bán ế ẩm nên đã đẩy nhiều đồng bào vào cảnh đói khổ cùng cực, cơm không có ăn, áo không đủ mặc, cuộc sống gần như bế tắc...” và liên ủy ban khẳng định “chúng tôi là những chiếc lá rách trên cây, nhất định không thể nào bàng quan ngồi nhìn lưỡi hái của thần đói cướp đi những chiếc lá nát...”(1). Hưởng ứng phong trào cứu đói, Đoàn Thanh niên Phật tử Gia Định kêu gọi thanh niên, học sinh, sinh viên “phải tiếp tay một cách tích cực cho những công việc cứu tế với khả năng và điều kiện của mình dưới mọi hình thức”(2) và phải coi đây là nhiệm vụ hàng đầu. Với vai trò nòng cốt, thanh niên, học sinh, sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tổ chức vận động, quyên góp và cứu trợ xuống tận các gia đình đói khổ. Họ còn giúp đồng bào sửa lại những căn nhà dột nát, mở lớp dạy chữ cho trẻ em thất học, dạy chữ cho chị em lao động và lập các nhóm văn nghệ như nhóm Sơn hà, nhóm Hát giang, ... vừa giúp nâng cao đời sống tinh thần vừa giáo dục, giác ngộ quần 1. Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Bình Thạnh (Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây) dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1975), sđd, tr. 145. 2. Sơ thảo truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Bình Thạnh (Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây) dưới sự lãnh đạo của Đảng (1930 - 1975), sđd, tr. 145.
179 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chúng. Những phong trào trên đã tạo điều kiện cho các cơ sở cách mạng càng đi sâu, gắn bó với quần chúng và lực lượng chính trị của cách mạng phát triển nhanh chóng(1). Thanh niên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn dũng cảm, táo bạo tham gia “tuyên truyền xung phong” tại các cuộc “biểu tình bỏ túi” mà tiêu biểu nhất là cuộc biểu tình ngày 16 tháng 3 năm 1974 trước chợ Bến Thành do chi đoàn P.3(2) tổ chức. Cuộc biểu tình chỉ diễn ra không quá 15 phút nhưng vẫn có đủ truyền đơn, biểu ngữ... và có cả phóng viên hãng thông tấn của Mỹ ở Sài Gòn được mật báo đến quay phim, chụp ảnh. Quả là thanh niên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã cho nổ một quả bom chính trị ngay giữa trái tim thủ đô ngụy quyền và đã khiến địch sự hoang mang cực độ. Phong trào đấu tranh vũ trang của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây không ngừng vươn lên. Thực hiện Chỉ thị 03-CT/73 của Thành ủy và chủ trương của Thường vụ Thành ủy là triệt để tiến công địch và đánh địch ngay trong vùng chúng kiểm soát, các cơ sở cách mạng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang và phát động phong trào diệt ác, phá kìm. Qua các phong trào chống bắt lính, cứu đói, tuyên truyền xung phong, nhiều lõm chính trị và lực lượng vũ trang tự vệ đã được tổ chức. Tại Bình Quới Tây, tháng 10 năm 1974, đã xây dựng được một tiểu đội du kích lấy từ lực lượng “nhân dân tự vệ” của địch đã giác ngộ cách mạng. Cuối năm 1974, ấp Nhất Trí 8 xây dựng được 4 cơ sở vũ trang gồm 10 người. Lực lượng này hoạt động mạnh ở khu vực xóm Cối, Cầu Sơn. Đoàn Thanh niên P3 và Liên đoàn Thanh niên Phật tử Gia Định cũng có những đội vũ trang riêng và hoạt động rất tích cực, hiệu quả. Anh em đã tổ chức đánh vào các chốt nhân dân tự vệ ở ấp Bác Ái 7, Bác Ái 9, trừng trị một tên mật vụ ở ấp Đông Ba (Phú Nhuận),... 1. Chùa Phước Khánh (ấp Nhất Trí 3) là cơ sở cách mạng do Phó bí thư K42 Nguyễn Ngọc San (Bảy Việt) xây dựng. Nơi đây đã in ấn nhiều tài liệu, truyền đơn cho cách mạng như: tuyên cáo số 1, số 2 của Mặt trận nhân dân cứu đói, cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, v.v... 2. Chi đoàn P.3 được thành lập vào tháng 10 năm 1973 theo sự chỉ đạo của Ban cán sự K42 (Bình Hòa). Ban Chấp hành chi đoàn gồm 5 đồng chí: Dương Ngọc Sơn (Ba Thép) - Bí thư, Phan Nguyệt Quờn (Ba Liễu) - Phó Bí thư và các ủy viên: Nguyễn Xuân Thượng (Tư Phương), Ngô Thanh Thủy (Tư Thanh) và Nguyễn Kim Bảng (Năm Tường). Chi đoàn P.3 gồm có 3 bộ phận: - Bộ phận bí mật do đồng chí Phan Nguyệt Quờn phụ trách; - Bộ phận công khai do đồng chí Nguyễn Xuân Thượng phụ trách; - Bộ phận vũ trang do đồng chí Ngô Thanh Thủy phụ trách. Bộ phận bí mật thuộc chi đoàn P.3 về sau phát triển thành một chi đoàn khác với Ban chấp hành gồm 3 đồng chí Lê Văn Em (Bí thư), Trương Trọng Lợi (Phó Bí thư) và Lương Thị Thanh (ủy viên) Chi đoàn P.3 được cấp ủy K42 (Bình Hoà)_ giao cho nhiệm vụ phụ trách các ấp Bắc Ái 1, 2, 4, 13 và 14.
180 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Liên quận 4 cũng phát triển các đội biệt động. Tháng 9 năm 1974, biệt động của K41 đã diệt một tổ công an ngụy trên đường Lê Quang Định, tấn công bằng lựu đạn vào ty dân vận Gia Định. Tháng 10 năm 1974, đội biệt động K42 đã ném lựu đạn diệt 2 tên nhân dân tự vệ ác ôn và làm bị thương 6 tên khác. Sự nỗ lực vươn lên không ngừng của Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong cuộc đấu tranh chống Mỹ - Thiệu từ năm 1973 đến năm 1974 đã đưa phong trào cách mạng nơi đây hòa nhịp với bước chuyển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam và của Sài Gòn - Gia Định để sẵn sàng đón thời cơ mới. II. THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH, GÓP PHẦN GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG, GIẢI PHÓNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH Từ sau khi tổng thống Nixon bị đổ, viện trợ của Mỹ cho miền Nam càng bị giảm sút, tình hình kinh tế, chính trị ở miền Nam càng trở nên rối loạn. Uy thế của ngụy quyền sụt giảm chưa từng có. Kế hoạch bình định lấn chiếm của địch bị thất bại về cơ bản và buộc phải tập trung quân về giữ các đô thị, các đường giao thông và khu vực trọng điểm có ý nghĩa chiến lược. Ngược lại, thế và lực của cách mạng không ngừng lớn mạnh và đủ sức mở các cuộc tiến công chiến lược. Trong tháng 3 năm 1975, quân dân ta đã giành thắng lợi trong các chiến dịch giải phóng Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng. Địch từ chỗ bị dao động chiến lược nhanh chóng đi đến hoàn toàn tuyệt vọng. Song chúng vẫn tìm mọi cách để chống đỡ. Từ cuối tháng 3 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu kêu gào “tử thủ” để giữ phần đất còn lại từ Phan Rang trở vào. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, tướng Mỹ Weyand vội đến Sài Gòn để giúp Thiệu vạch kế hoạch phòng thủ mới. Nguyễn Cao Kỳ tập hợp phe cánh để thành lập “Ủy ban cứu nguy dân tộc” và đòi Mỹ cho thay Thiệu để đương đầu với ta. Tại Sài Gòn - Gia Định, tháng 9 năm 1974, Thành ủy tiếp nhận Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về công tác đô thị. Bộ Chính trị cho rằng tình thế cách mạng đang xuất hiện ở đô thị miền Nam và nhấn mạnh vị trí chiến lược của Sài Gòn, đó là nơi sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Để chuẩn bị đón thời cơ chiến lược, Trung ương Cục đã giúp Thành ủy chấn chỉnh lại cơ quan của Bộ Tư lệnh Thành và tăng cường cán bộ cho Thành ủy, giúp và kiểm tra công tác chuẩn bị về mọi mặt ở Thành phố. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng Nhân dân Sài Gòn - Gia Định quyết tâm đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, vũ trang và phát triển thực lực cách mạng. Cuối năm 1974, Liên quận 4 có 73 đảng viên, 74 đoàn viên, 140 người trong lực lượng vũ trang, 316 cơ sở cách mạng (bao gồm hội viên Giải phóng, quần
181 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chúng tích cực, cảm tình cách mạng)(1). Cách mạng ở Sài Gòn - Gia Định đang có bước nhảy vọt. Cuối tháng 3 năm 1975, toàn Đảng bộ và quân dân Thành phố đã hoàn thành kế hoạch mà cấp trên dự kiến phải làm trong cả năm 1975. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng Nhân dân Thành phố đã sẵn sàng để bước vào trận quyết chiến chiến lược đang đến gần. Trước diễn biến mau lẹ của tình hình trên chiến trường miền Nam, ngày 25 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp và nêu quyết tâm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa. Đến ngày 31 tháng 3 năm 1975, Bộ Chính trị chỉ rõ thời cơ tổng tấn công và nổi dậy tại Sài Gòn – Gia Định đã chín muồi. Ngày 1-4-1975, Bộ Chính trị họp và quyết định tập trung lực lượng, binh khí, kỹ thuật để giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất. Trước đó, Trung ương Cục cũng đã ra Nghị quyết 15 (ngày 29-3-1975) động viên toàn Đảng toàn dân tập trung cao nhất tinh thần và sức lực để đánh sập toàn bộ ngụy quân, ngụy quyền và giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân. Ngày 8 tháng 4 năm 1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Ngày 14 tháng 4 năm 1975, theo đề nghị của Bộ Chỉ huy chiến dịch, Bộ Chính trị đồng ý đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn là chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau khi được Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho Sài Gòn - Gia Định, ngày 12 tháng 4 năm 1975, Ban Thường vụ Thành ủy ra chỉ thị “Những việc cần làm ngay trong các giai đoạn: trước, trong và sau khi thành phố được giải phóng”. Ban Thường vụ nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm, trước hết là khi thời cơ đến phải cướp chính quyền ở cơ sở; nhanh chóng từ khởi nghĩa ở cơ sở chuyển lên cướp chính quyền ở từng quận và thành phố. Sau đó, phải nhanh chóng xây dựng bộ máy chính quyền cách mạng, tiếp quản thành phố, truy quét tàn quân của địch và thực hiện các chính sách của Chính phủ và Mặt trận Dân tộc giải phóng đã đề ra. Để sự chỉ đạo được thuận tiện, phù hợp với chiến dịch, Thành ủy đã có sự phân công lại. Tháng 9 năm 1974, Thành ủy chia làm 2 cánh. Cánh A phụ trách nội thành, cánh B phụ trách các huyện ngoại thành. Nay đi vào chiến dịch, cánh A phụ trách nội thành và 2 huyện Bình Chánh, Nhà Bè. Cánh B phụ trách các địa bàn Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức và thị xã Gia Định(2). Như vậy là Liên quận 4 nằm trong sự chỉ đạo của Cánh B do Phó Bí thư Thành ủy Nguyễn Thành Thơ phụ trách. 1. Theo Địa chí văn hóa Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr.75. 2. Lịch sử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (1930 – 1975), sđd, tr. 892 – 893.
182 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Là cửa ngõ phía Đông của Sài Gòn, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây có vị trí hết sức quan trọng đối với ta và địch. Ở đây có cầu Sài Gòn nối với Quốc lộ 1, cầu Bình Triệu nối với Quốc lộ 13, cầu Bình Lợi nối đường sắt Bắc - Nam. Vì vậy, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây không những chuẩn bị mọi công việc cho khởi nghĩa mà còn phải hỗ trợ tích cực cho lực lượng vũ trang thành phố, tạo mọi điều kiện đảm bảo cho chủ lực của ta vượt sông Sài Gòn tiến vào các mục tiêu ở nội thành. Để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trên, Ban cán sự K42, K43 đã khẩn trương đưa cán bộ còn ở chiến khu vào thành phố. Lực lượng cách mạng tại chỗ cũng đã phát triển nhanh chóng. Mặc dù địch tăng cường kiểm soát, các cơ sở của Đảng sôi nổi may cờ, kẻ khẩu hiệu, in truyền đơn; tổ chức quyên góp lương thực, dụng cụ y tế, thuốc men; chuyển tải vũ khí từ bên ngoài về quận... Điển hình là ấp Nhất Trí 6, Nhất Trí 8. Để đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong quận và chiếm giữ các cầu, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã dũng cảm chuẩn bị nhiều nơi để ém quân, cất giấu vũ khí, tài liệu. Trong số đó có nhà ông Ngô Tấn Thi ở sát trại thủy quân lục chiến Nguyễn Văn Nho, nhà bà Nguyễn Thị Phong Thu ở gần trại lính bảo vệ tiểu khu Gia Định và kho lương thực của ngụy... Trong những ngày này, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây xây dựng được 26 cơ sở vũ trang. Lực lượng vũ trang đã liên tục tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền xung phong táo bạo, bất ngờ làm cho tinh thần quân địch thêm hoang mang, hàng ngũ địch thêm rối loạn, chính quyền địch thêm rệu rã và mang lại cho Nhân dân một không khí sôi sục, sẵn sàng vùng lên. Điển hình là hoạt động của lực lượng vũ trang thuộc Chi đoàn Thanh niên P.3. Công tác binh vận là một trong những công tác trọng tâm mà Thành ủy đã đề ra trong chỉ thị ngày 12-4-1975. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực đẩy mạnh việc vận động binh lính và lực lượng “nhân dân tự vệ” của ngụy bỏ ngũ, trở về với gia đình; phổ biến các chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đối với ngụy quân. Tại bót cảnh sát Hàng Keo (bộ chỉ huy cảnh sát Gia Định), cơ sở nội tuyến của ta là trung úy Trần Huệ Nhật, quyền chỉ huy trưởng đại đội xung kích bảo vệ bót cùng với một cơ sở cảnh sát tên là Tuấn và lực lượng nòng cốt cảm tình do Ban Binh vận Sài Gòn - Gia Định gây dựng đã tích cực chuẩn bị khời nghĩa(1). 1. Cơ sở binh vận bót Hàng Keo do đồng chí Ba Lợi, đội trưởng đội nội tuyến D10 của Ban Binh vận Sài Gòn - Gia Định chỉ đạo.
183 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Từ ngày 27 tháng 4, đội ngũ cảnh sát ngụy hoang mang, tên đại tá Đê chỉ huy truởng bỏ trốn. Trần Huệ Nhật liền cho phép toàn bộ cảnh sát về lo cho gia đình. Chiều 29 tháng 4, anh ra lệnh cho đại đội không nhận lực lượng nơi khác đến chi viện và cấm nổ súng nếu chưa có lệnh. Anh cùng với toàn nhóm cơ sở binh vận ở đây lo bảo vệ hồ sơ, tài liệu, thu gom vũ khí của cảnh sát các nơi chạy về, và đã bàn giao toàn bộ cho Ban An ninh Sài Gòn - Gia Định vào trưa 30 tháng 4 năm 1975(1). Tại tòa Hành chính Gia Định cũng có hai cơ sở binh vận và hai quần chúng cảm tình đã tích cực chuẩn bị khởi nghĩa, vận động làm tan rã lực lượng tại đây, thu gom vũ khí, chiếm lĩnh tòa hành chính vào sáng 30 tháng 4. Các lõm chính trị càng ráo riết chuẩn bị mọi việc cho khởi nghĩa. Riêng lõm chính trị Hàng Xanh của Biệt động Thành xây dựng do đồng chí Nguyễn Văn Tăng trực tiếp chỉ đạo vừa đối phó với các lực lượng địa phương để lãnh đạo quần chúng nổi dậy vừa chuẩn bị tác chiến để dọn đường cho đại quân ta từ Quốc lộ 13 tiến vào thành phố. Ngày 25 tháng 4 năm 1975, Ban khởi nghĩa Thạnh Mỹ Tây được thành lập. Lực lượng cách mạng của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã sẵn sàng cho ngày vùng lên. Thời cơ đang đến gần. Từ giữa tháng 4 năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn vô cùng rối loạn. Ngày 18 tháng 4, Chính phủ Mỹ ra lệnh di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn. Ngày 21 tháng 4, Thiệu từ chức tổng thống, trao quyền lại cho Trần Văn Hương. Đêm 26 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu cùng Trần Thiệu Khiêm lên máy bay tẩu thoát sang Đài Loan. Cũng trong ngày 26 tháng 4, vành đai thép của quân ta siết chặt thành phố và tiếng súng tấn công bắt đầu. Trước tình thế nguy cấp ấy, Trần Văn Hương buộc phải lùi bước và để quốc hội bầu tổng thống mới. Ngày 28 tháng 4, Dương Văn Minh được cử làm tổng thống ngụy quyền Sài Gòn để mong cứu vãn tình thế. Nhưng tất cả những việc làm đó đã quá muộn đối với chế độ Sài Gòn. Từ đây, bộ máy kìm kẹp ở cơ sở trong thành phố không còn hiệu lực. Chiều ngày 29 tháng 4, lực lượng cảnh sát đô thành hoàn toàn tan rã. Tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, truyền đơn và cờ Giải phóng cũng đã xuất hiện ở một số nơi từ ngày 29 tháng 4. Bọn tề ngụy ở các xóm ấp bỏ trốn. Thời cơ khởi nghĩa đã đến! Đêm 29 tháng 4, lực lượng cách mạng chiếm ty Chiêu hồi Gia Định và một số cơ quan, trụ sở của địch ở Bình Hòa. Tại Thạnh Mỹ Tây, đình Cầu Sơn trở thành địa điểm hội họp của cơ sở Đảng để chỉ đạo cuộc nổi dậy ở vùng này. 1. Người tiếp nhận là đồng chí Bùi Quang Hảo (Hai Mỏ).
184 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sáng 30 tháng 4, trước khi quân ta tiến vào, Nhân dân treo cờ ở ấp Nhất Trí 6, căng biểu ngữ gần ngã tư Xa Lộ... và tiếp quản trụ sở xã Thạnh Mỹ Tây. Khi quân ta tiến vào, tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng và truyền đơn xuất hiện khắp nơi. Nhân dân cắm cờ từ đầu hẻm vào đến cổng đình Cầu Sơn. Một cảnh sát đã xung phong treo cờ trên cột đèn gần chùa Phước Viên; cờ cũng được treo trên đồn cảnh sát Hàng Xanh, cắm dọc theo đường vào Sài Gòn. Nhân dân xóm Đình, xóm Cối, xóm Vườn... xuống đường rải truyền đơn, cắm cờ, giành quyền làm chủ, buộc các trưởng ấp phải giao quyền và kêu gọi binh sĩ ngụy nộp vũ khí. Lực lượng cách mạng ở Bình Quới Tây chiếm lĩnh 2 đồn địch do binh lính rã ngũ, bỏ chạy, treo cờ Mặt trận, thu gom vũ khí và nhanh chóng làm chủ vùng này. Lực lượng thanh niên ở ấp Nhất Trí 3 do cấp ủy K43 lãnh đạo đã cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ làm rã một toán thủy quân lục chiến án ngữ trên cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện Biên Phủ). Biệt động Hàng Xanh chốt giữ con đường từ Hàng Xanh đến cầu Bình Triệu. Lực lượng của K42 và Đoàn ủy thanh niên học sinh Gia Định nổi dậy chiếm trụ sở xã Bình Hòa, tòa sơ thẩm Gia Định, tiếp quản các ấp. Chi bộ A 104 đã cắm lá cờ lên tháp nước đường Ngô Tùng Châu. Lực lượng nổi dậy ở ấp Bác Ái 9 do chi bộ Đảng lãnh đạo đã làm tan rã một đơn vị thiết giáp ngụy gần cầu Bình Triệu. Tại ấp Bác Ái 4, lực lượng thanh niên P3 dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự K42, tiếp quản trụ sở ấp và sau đó kêu gọi binh sĩ ngụy trên 12 xe tăng tại ngã năm Bình Hòa hạ vũ khí. Trưa 30 tháng 4, Nhân dân ở ngã tư Xa Lộ đã cầm cờ ra đón xe tăng của quân ta và chỉ đường cho các chiến sĩ lái xe tăng tiến vào dinh Độc lập(1). 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì toàn bộ chính quyền ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã về tay Nhân dân. Các cánh quân chủ lực của ta đã tiến qua Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây một cách an toàn, nhanh chóng để chiếm lĩnh các mục tiêu như Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu ngụy... Toàn bộ công sở, xí nghiệp, kho tàng của địch cũng được lực lượng cách mạng địa phương nhanh chóng tiếp quản và bảo vệ. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã xuống đường trong cờ hoa, cùng toàn thành phố đón mừng chiến thắng và hăng hái tham gia các công việc giữ gìn an ninh, trật tự, vệ sinh phố phường. 1. Trong số người ra đón chào đoàn xe tăng của quân Giải phóng tại ngã tư Xa Lộ (Hàng Xanh) có 2 cha con ông Du và cô Dung. Họ đã chỉ đường cho quân Giải phóng và Cô Dung đã trao một lá cờ cho các chiến sĩ trên xe tăng tiến về dinh Độc lập.
185 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng. Vinh quang thay cho những người con của đất Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần xương máu, công sức cùng Nhân dân Sài Gòn - Gia Định, Nhân dân cả nước đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng quê hương, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc. 1973 - 1975 là giai đoạn lịch sử hết sức sôi nổi của Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Vững vàng bước qua giai đoạn khó khăn ác liệt sau Tết Mậu Thân 1968, Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã quán triệt đúng đắn và sáng tạo sự lãnh đạo của Đảng ủy cấp trên, nỗ lực xây dựng lực lượng cách mạng, đẩy mạnh đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và binh vận, chuẩn bị về mọi mặt để vươn lên phối hợp có hiệu quả cùng quân dân thành phố và cả nước trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Xây dựng lực lượng mạnh và rộng khắp, nắm thời cơ chính xác, phối hợp nhịp nhàng với lực lượng của trên và các địa phương bạn, biết dựa vào thế lực chung để phát huy cao nhất năng lực sẵn có của địa phương là những bài học quý giá của Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong giai đoạn lịch sử quyết định này!
186 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) An Nam học đường ở đường Hàng Thị (nay là đường Phan Đăng Lưu, Phường 6) - nơi hoạt động của Tân Việt cách mạng Đảng và là địa điểm đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin ở Gia Định do đ/c Hà Huy Tập lãnh đạo từ tháng 3-1927 Hãng dầu Thị Nghè (nay là xưởng bảo dưỡng sửa chữa ô tô) - nơi sinh hoạt của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội do đồng chí Phan Trọng Quảng xây dựng từ giữa năm 1929 và là nơi thành lập tổ chức Công hội đỏ năm 1930.
187 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Sở Bông (nay là vườn ươm cây ở Phường 19) một trong những cơ sở cách mạng đầu tiên ở vùng Thị Nghè những năm 1930. Chùa Phước Viên (số 318 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) nơi đồng chí Nguyễn Văn Nghi, Bí thư Chi bộ Ba Son mở nhiều cuộc họp chuẩn bị tổ chức quần chúng đấu tranh giai đoạn 1936 – 1939.
188 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Quán Trung Thành (số 223 đường làng 21, nay là đường Nơ Trang Long) nơi đồng chí Lý Chính Thắng chủ trì cuộc họp phổ biến chủ trương, chính sách của Đàng những năm 1942 – 1944. Hội Truyền bá Quốc ngữ (góc ngã tư Bình Hòa) nơi tuyên truyền đường lối đấu tranh của Đảng giai đoạn 1954 – 1958.
189 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Nhân dân khu vực Thị Nghè đón quân Giải phóng năm 1975. Đông đảo Nhân dân ấp Nhất Trí tham gia ủng hộ lực lượng cách mạng tiến chiếm trụ sở cơ quan chính quyền xã Thạnh Mỹ Tây ngày 30-4-1975.