40 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ngày 26 tháng 7 năm 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã quyết định tạm thời chưa nêu khẩu hiệu đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến địa chủ, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày mà nêu mục tiêu trực tiếp trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh xâm lược, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Với mục tiêu đó, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (về sau đổi thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương) bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, đoàn thể chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau. Hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh cũng được hội nghị chỉ rõ là triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp các hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp với các hoạt động bất hợp pháp để tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng, đồng thời củng cố và phát triển tổ chức Đảng và mặt trận dân chủ, đẩy mạnh hơn nữa phong trào đấu tranh của quần chúng. Để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng của cả nước trước chuyển biến mới của tình hình, ngày 12 tháng 8 năm 1936, cơ quan Trung ương Đảng chuyển từ nước ngoài về đóng trên địa bàn thành phố. Mở đầu cho phong trào cách mạng thời kỳ này là cuộc vận động tổ chức Đông Dương Đại hội, nhằm tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Các “Ủy ban hành động” được thành lập ở khắp nơi từ trong nhà máy, xí nghiệp, công sở đến cả ngoài đường phố. Trong vòng 2 tháng - tháng 8 và tháng 9 năm 1936, chỉ tính riêng Gia Định đã có hơn 70 Ủy ban Hành động được thành lập. Nhiều cuộc nói chuyện, mít tinh được tổ chức nhằm thu thập nguyện vọng của Nhân dân gởi chính phủ Pháp đòi thi hành những cải cách dân chủ và cải thiện đời sống cho Nhân dân. Dưới ánh sáng của nghị quyết Hội nghị Trung ương (tổ chức vào tháng 7 năm 1936), nhằm tập hợp rộng rãi quần chúng trong Mặt trận thống nhất, đấu tranh cho mục tiêu dân sinh dân chủ, ngày 3 tháng 10 năm 1936, đồng chí Nguyễn Văn Nghi - Bí thư chi bộ Ba Son cùng với các đảng viên vùng Thị Nghè tổ chức cuộc họp mở rộng tại chùa Phước Hải (nay thuộc Phường 21), có cả một số quần chúng tích cực như anh Nguyễn Hưng, Lê Bá Tòng... tham dự. Cuộc họp đã thảo luận và đưa ra một chương trình hành động khẩn cấp gồm 4 nội dung: - Tổ chức lực lượng quần chúng hưởng ứng phong trào đấu tranh chung của Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đòi quyền dân chủ;
41 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) - Thành lập các hội Ái hữu dưới hình thức công khai, hợp pháp để thu hút đông đảo quần chúng tham gia vào cuộc đấu tranh chung; - Tổ chức cho công nhân Ba Son đình công vào đầu tháng 12 năm 1936. Bàn biện pháp vận động, tổ chức cho các tầng lớp nhân dân Thị Nghè - Bà Chiểu, nhất là vận động giới tiểu thương tham gia bãi thị để hưởng ứng. Vận động những người có điều kiện về kinh tế giúp đỡ cho các gia đình công nhân nghèo, đông con để họ yên tâm tham gia đấu tranh cho đến khi giành thắng lợi. - Thành lập Ủy ban Hành động, lấy số công nhân người địa phương làm việc ở các xưởng của Pháp làm nòng cốt. Như dự kiến, xuất phát từ việc một số công nhân bị bắt và bị chủ đuổi việc do tham dự các cuộc họp thành lập Ủy ban Hành động, chuẩn bị cho Đông Dương Đại hội, cuộc đấu tranh bãi công của 4.500 công nhân Ba Son nổ ra vào ngày 3 tháng 12 năm 1936. Để đảm bảo thắng lợi cho cuộc đình công, ngay trong ngày 3 tháng 12, một cuộc họp giữa đồng chí Nguyễn Văn Nghi - Bí thư chi bộ Ba Son chủ trì và các đồng chí đảng viên tại địa phương: Phạm Văn Khung, Đôn Văn Bầy, Tám Thạnh... được tổ chức tại cơ sở nhà 521 đường Route Communale (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh - Phường 26). Tại cuộc họp này, các đồng chí đã vạch ra kế hoạch vận động lực lượng công nhân ở Phú An, Phú Mỹ, Thanh Đa, Thị Nghè.... bãi công để hưởng ứng cuộc đấu tranh của công nhân Ba Son. Chi bộ Ba Son đã giao cho đồng chí Nguyễn Văn Khung và hai anh Ái, Tường trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh và đại diện cho anh em công nhân đưa yêu sách: tăng lương cho công nhân, giảm giờ làm, cải thiện các điều kiện lao động, trả tự do cho những người bị bắt và nhận họ vào làm việc trở lại. Tất nhiên những yêu sách này không được chủ xưởng - đại tá Ka-hen chấp thuận. Trưa ngày 4 tháng 12 năm 1936, công nhân đồng loạt bãi công bỏ xưởng ra về. Cuộc bãi công không chỉ làm tê liệt các hoạt động của xưởng Ba Son mà còn kéo theo nhiều cuộc đấu tranh với tính cách hưởng ứng, đòi quyền lợi cho công nhân ở nhiều hãng, xưởng khác trên khắp thành phố và ở các tỉnh. Đặc biệt là cuộc bãi công đã nhận được sự ủng hộ tích cực bằng cách đóng góp tiền và lương thực, thực phẩm hỗ trợ gia đình và bản thân anh em công nhân đang đấu tranh từ các tầng lớp nhân dân Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Cuộc đấu tranh đã kết thúc thắng lợi sau hai tuần lễ. Bọn chủ xưởng buộc phải chấp nhận các yêu sách: bảo đảm ngày làm việc 8 giờ; không đánh đập và đuổi thợ vô cớ; trong khi làm việc, nếu công nhân gặp tai nạn, chủ xưởng phải đền bồi
42 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) và chăm sóc cho đến khi lành bệnh; nếu công nhân chết, chủ xưởng phải chôn cất tử tế và có trách nhiệm phụ cấp cho gia đình anh em gặp khó khăn. Nhằm phổ biến chủ trương chung cũng như hướng dẫn về hình thức tổ chức, vận động công nhân trong các tổ chức quần chúng đấu tranh cho tự do dân chủ, tháng 12 năm 1936, Xứ ủy đã ra thông báo gởi các cấp ủy Đảng bộ địa phương Sài Gòn - Gia Định quy định rất cụ thể những hình thức tổ chức, tập hợp công nhân: “Cử ra một số đồng chí phụ trách công nhân vận động, chỗ nào chưa có các hội công nhân (công hội, ái hữu, tương tế, đọc báo...) thì lập tức phải thiết pháp tổ chức ra. Chỗ nào đã có những hội ấy rồi thì thống nhất ngay, cả về bề ngang (bao gồm các hội trong từng làng, từng quận, từng khu, từng tỉnh); và về bề dọc (bao gồm các hội đồng một sản nghiệp hay hội đồng một nghề nghiệp)”. “Trong các ủy ban công nhân vận động không nên dùng các đảng viên mà phải đem những chiến sĩ công nhân thuộc các xu hướng chính trị, tôn giáo, các phần tử thanh niên, phụ nữ, các công nhân ngoại quốc. Mục đích của Đảng ta là làm thế nào cho công nhân vận động được hợp nhất và thống nhất nhưng chúng ta cũng phải đề phòng và cẩn thận... phải giữ quyền lãnh đạo một cách thế nào để cho các tổ chức công nhân lần lượt có tính chất giai cấp đấu tranh...”. “Định kế hoạch tổ chức công nhân toàn tỉnh, tuyên truyền và huấn luyện công nhân chung quanh những khẩu hiệu thiết thực (đúng với quyền lợi của họ) để vận động họ ra đấu tranh”. Ở lĩnh vực nông nghiệp, Thông cáo hướng dẫn: “Phải tổ chức công nhân nông nghiệp (thợ cày, gặt, cuốc...) riêng ra để bênh vực quyền lợi riêng cho họ, nhưng phải để cho họ có chân trong các hội nông dân khác để giữ quyền lãnh đạo cho vô sản giai cấp”. Từ những năm đầu của thập niên 1940, trên khắp địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, các tổ chức công khai hợp pháp của quần chúng được thành lập. Đảng đã bố trí cán bộ bí mật tham gia hoạt động để định hướng phát hiện, xây dựng một số quần chúng tích cực làm nòng cốt. Hoạt động của các tổ chức này diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Riêng khu vực Thị Nghè có đến 3 tổ chức quần chúng hoạt động rất mạnh mẽ: - Hội Tương tế do anh Hai Sao - một thợ hớt tóc làm Hội trưởng, trụ sở đặt tại nhà số 4 đường Nguyễn Hữu Thoại (nay thuộc Phường 19). Hội chú trọng vào các
43 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hoạt động cứu trợ, giúp đỡ những người tàn tật, đau ốm, những gia đình có người gặp tai nạn, tang ma... - Hội Đá banh với tên gọi “Đội banh Thị Nghè” do anh Hai Đen làm Hội trưởng, trụ sở đặt tại nhà số 66 đường Nguyễn Văn Lạc (nay thuộc Phường 19). Với chức năng của một tổ chức thể thao, hội tập trung phần lớn thanh niên trong vùng tham gia phong trào vui khỏe, rèn luyện thân thể. Qua đó tuyên truyền, vận động giác ngộ cách mạng trong thanh niên địa phương. - Đội múa lân mang tên “Nhân Nghĩa” do anh Trần Cao làm Đội trưởng, trụ sở nằm trên đường Huỳnh Mẫn Đạt (nay thuộc Phường 19). Đội hoạt động chủ yếu vào những dịp lễ, tết. Qua đó, khơi dậy truyền thống văn hóa dân tộc và thu hút đông đảo quần chúng ở Thị Nghè tham gia vào các loại hình sinh hoạt văn hóa lành mạnh. Cũng ở tại khu vực Thị Nghè, từ năm 1936, đồng chí Nguyễn Văn Trấn - Xứ ủy viên về hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng trong vùng. Ở Sở Bông (nay thuộc Phường 19), Sở Thú (Thảo cầm viên ngày nay), nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng. Hội Ái hữu Vườn ươm (nay thuộc Phường 19) được thành lập với sự tham gia và trở thành nòng cốt của nhiều gia đình công nhân ở các xưởng Ba Son, Orciny. Dưới vỏ bọc của một tổ chức xã hội công khai, hợp pháp, hội đã tập hợp lực lượng, tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa cộng sản trong công nhân, quần chúng nhân dân qua cuốn Cộng sản sơ giải - tài liệu chép tay của đồng chí Nguyễn Văn Trấn và còn tổ chức công nhân đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ. Tiêu biểu như Hội đã phối hợp với Ủy ban Hành động ở xưởng Ba Son để tổ chức cho công nhân hai lần đưa kiến nghị đòi bọn chủ tăng lương; tổ chức cho quần chúng nghe các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo - những đảng viên hoạt động công khai trong Hội đồng Quản hạt thành phố Sài Gòn diễn thuyết... Bằng nhiều hình thức hoạt động, hội đã tuyên truyền, giáo dục góp phần nâng cao nhận thức giai cấp, giác ngộ quần chúng. Dần dần, Hội Ái hữu chuyển thành tổ chức Công hội đỏ. Tại ấp Trung - vùng Cây Thị (nay thuộc Phường 11), có Hội Sản xuất, Hội Tương tế, Hội Cứu đói, Hội Bóng đá... Ở khu vực Phú An (nay thuộc Phường 22), quần chúng tham gia trong các tổ chức: hội Ái hữu, hội Đình Xóm Gà, hội Đình Phú An, hội Ca hát... Bên cạnh các tổ chức công khai hợp pháp của rộng rãi quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân cũng thành lập Nghiệp đoàn Công nhân nhằm tập hợp rộng rãi công nhân vào tổ chức đấu tranh cho quyền lợi của giai
44 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) cấp. Tháng 5 năm 1936, tại nhà in Thạnh Mậu trên quốc lộ 1 (nay là đường Nơ Trang Long), đã diễn ra hội nghị của 72 đại biểu, đại diện cho các ngành nghề ở Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh lân cận, do đồng chí Nguyễn Kim Lượng chủ trì và các đồng chí Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Nguyễn Văn Nguyễn chuẩn bị nội dung. Hội nghị đã quyết định thành lập tổ chức công khai mang tên Ủy ban sản xuất nghiệp đoàn Nam Kỳ gồm 17 người, đồng chí Lê Văn Lưỡng được cử làm Chủ tịch. Ngoài việc quy tụ thanh niên, công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đấu tranh cho quyền lợi của giai cấp trong các tổ chức công khai hợp pháp, các đồng chí đảng viên còn vận động, tổ chức cho công nhân đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực đã tồn tại từ lâu trong công xưởng. Tiêu biểu như tại hãng Orciny - một chi nhánh của xưởng Ba Son (nay thuộc Phường 22), đồng chí Tám Thạnh - đảng viên chi bộ Ba Son đã tuyên truyền, vận động công nhân không đóng góp mua quà biếu xén cho bọn chủ xưởng, bọn cai như thông lệ hàng năm vào dịp tết Dương lịch. Kết quả là từ những năm 1937, 1938 trở đi việc quà cáp, biếu xén không còn là một vấn nạn đối với anh em công nhân. Cũng từ các tổ chức công khai, hợp pháp, hoạt động văn hóa văn nghệ ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được phát động và diễn ra sôi nổi, thu hút đông đảo quần chúng tham dự. Dưới hình thức đốt lửa trại sinh hoạt văn nghệ, nhất là ở nhà làng Thạnh Mỹ Tây (nay thuộc Phường 19), nhiều bài hát mang nội dung yêu nước, cách mạng; nhiều vở kịch châm biếm, đả kích bọn đế quốc - phong kiến... được trình diễn trước đông đảo quần chúng đã có tác dụng rất lớn trong việc khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong các tầng lớp nhân dân địa phương. Song song với việc tham gia các hoạt động công khai hợp pháp, nửa hợp pháp của các tổ chức quần chúng, các tầng lớp nhân dân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn được Đảng giáo dục, giác ngộ qua các nguồn tài liệu Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc, Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp), Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc; các báo: Dân chúng (Le Peuple), Lao động (Le Travail), Thanh niên... Các loại sách báo này được lưu hành công khai ở các trường học trong đội ngũ giáo viên và học sinh. Đặc biệt là tại trường tư thục An Nam học đường, các thầy cô giáo còn hướng dẫn cho học sinh nhiều bài vè, thơ ca cách mạng. Dần dần đối tượng được giáo dục không chỉ bó hẹp trong lực lượng học sinh mà nhà trường còn tập hợp, in ấn nhiều bài thơ, bài vè kêu gọi, vận động công nhân, nông dân, binh lính, trí thức... đứng lên làm cách mạng giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
45 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Cuối năm 1936, trong bầu không khí sôi động của Sài Gòn - Gia Định, Ủy ban Hành động ở Thạnh Mỹ Tây được thành lập do đồng chí Năm Tây, Tám Hai lãnh đạo. Lúc này, khắp vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây phong trào đón Godard - phái viên của chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương dấy lên mạnh mẽ. Việc chuẩn bị cho cuộc đón tiếp với những bản kiến nghị của các tầng lớp nhân dân gởi chính phủ Pháp, bố trí lực lượng quần chúng tiếp xúc nhanh chóng hoàn thành. Ngày 31 tháng 12 năm 1936, từ rất sớm, quần chúng mà đông đảo nhất là Nhân dân vùng Thị Nghè đã tập trung biểu tình, biểu dương lực lượng trước ngã ba nhà làng Thạnh Mỹ Tây (ngã ba đường Xô Viết Nghệ Tĩnh - Nguyễn Văn Lạc ngày nay). Sau đó, đoàn người đứng tỏa ra dọc theo đường Xô Viết Nghệ Tĩnh từ cầu Thị Nghè đến Hàng Xanh để chờ Godard. Tuy nhiên cả ngày 31 tháng 12 vẫn không thấy phái đoàn Godard xuất hiện. Được tin Godard đến Sài Gòn bằng đường thủy, ngày 1 tháng 1 năm 1937, hàng ngàn quần chúng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng 2 vạn đồng bào ở Sài Gòn - Gia Định biểu tình tuần hành ra bến cảng Sài Gòn để gặp Godard đấu tranh, đưa kiến nghị. Cũng trong dịp đón Godard, công nhân ở hãng mỡ Guyonnet, dưới sự tổ chức lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Tạo, Ka Him, công nhân hãng dầu Phú Mỹ tổ chức lãn công, bãi công đấu tranh chống sự bóc lột của bọn chủ hãng. Ngày 15 tháng 1 năm 1937, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lại cùng hàng vạn Nhân dân Sài Gòn - Gia Định xuống đường biểu tình, giương cao các khẩu hiệu “Ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp”, “Tự do ngôn luận”, “Bỏ thuế thân”, “Tự do nghiệp đoàn”, “Đại xá chính trị phạm”... Chính quyền thực dân đã cho lính dùng dùi cui đàn áp, giải tán cuộc biểu tình làm cho nhiều người bị thương. Giữa lúc phong trào đấu tranh của quần chúng dâng cao, ngày 13 và 14 tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp kiểm điểm, đánh giá tình hình và bàn biện pháp đẩy mạnh hơn nữa phong trào cách mạng trong nước. Trên tinh thần đó, cuối tháng 3 năm 1937, tại nhà ông Nguyễn Văn Bạch là trụ sở của xí nghiệp sửa chữa ô tô (nay thuộc Phường 26), Chi bộ Ba Son đã tổ chức cuộc họp mở rộng dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Nghi. Cuộc họp đã bàn việc vận động công nhân không lấy thẻ trước khi thay quần áo lao động như bọn chủ Pháp quy định và chuẩn bị cho một cuộc đình công của công nhân Ba Son sẽ diễn ra vào đầu tháng 4 năm 1937.
46 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ngày 5 tháng 4 năm 1937, cuộc bãi công đấu tranh của công nhân Ba Son bắt đầu nổ ra. Lần này, bên cạnh các yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm, không được sa thải công nhân vô cớ, anh em công nhân còn đòi được tự do tổ chức công đoàn. Bọn thực dân đối phó bằng cách đưa công nhân ở các cơ sở khác đến làm thay để trấn áp tinh thần. Nhưng các đồng chí đảng viên Ba Son đã làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nên công nhân ở các cơ sở khác không chịu đến Ba Son làm việc. Cũng như những lần trước, cuộc bãi công của công nhân Ba Son lần này không chỉ được công nhân ở các hãng xưởng lân cận hưởng ứng mà còn được sự hỗ trợ nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, nhất là Nhân dân ở khu vực Thị Nghè - địa bàn sát xưởng Ba Son. Chính đây là một trong những yếu tố quan trọng để anh em công nhân Ba Son kéo dài cuộc bãi công đấu tranh suốt 35 ngày và giành thắng lợi. Nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1937, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức ở nhiều nơi trên địa bàn thành phố. Đáng chú ý là cuộc mít tinh của 3.000 đồng bào Sài Gòn - Gia Định, trong đó có hàng ngàn người ở Thị Nghè - Bà Chiểu tham dự đã nhất trí thông qua bản kiến nghị gởi chính phủ Pháp đòi ban hành gấp luật tự do nghiệp đoàn cho công nhân lao động Đông Dương. Trong những năm 1937 và 1938, truyền đơn và báo chí là những phương tiện đấu tranh và đóng vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền, giác ngộ quần chúng. Hầu như ngày nào trên địa bàn Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây cũng có truyền đơn xuất hiện, nội dung kêu gọi đồng bào đứng lên đòi quyền dân sinh dân chủ. Đặc biệt là sự ra đời của nhiều tờ báo Đảng: báo Tiền phong (L’ Avant Garde) bằng tiếng Pháp tháng 5 năm 1937 do đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp lãnh đạo; báo Dân chúng (Le Peuple) ra ngày 24 tháng 9 năm 1937, do đồng chí Dương Bạch Mai làm chủ nhiệm, đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh làm quản lý; báo Lao động (Le Travail) ra ngày 29 tháng 11 năm 1938 là cơ quan ngôn luận của Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn do đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai trực tiếp chỉ đạo. Ngoài ra, còn có nhiều báo khác như: Sống - cơ quan chính trị và xã hội (ra ngày 20 tháng 5 năm 1939), tuần báo Tiến tới (ra ngày 5 tháng 2 năm 1939), Thanh niên (ra ngày 6 tháng 3 năm 1939), Mới - báo của Đoàn Thanh niên dân chủ Nam kỳ (ra ngày 6 tháng 3 năm 1939)... Sự ra đời và hoạt động của các tờ báo này đánh dấu việc mở đầu cho thời kỳ báo chí cách mạng trên địa bàn thành phố, góp phần tích cực vào việc phát triển tổ chức Đảng, cơ sở cách mạng và tuyên truyền, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng quần chúng vào Mặt trận Dân chủ Đông Dương theo chủ trương của Đảng.
47 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Tại Pháp, chính phủ Mặt trận nhân dân sụp đổ, thay vào đó là chính phủ phản động Dalidier. Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa đẩy mạnh việc khủng bố Đảng Cộng sản, đàn áp các phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng lãnh đạo, xóa bỏ một số quyền dân chủ mà Nhân dân ta đã đấu tranh giành được trong những năm trước đó. Lấy cớ phòng thủ nước Pháp, phòng thủ Đông Dương, thực dân Pháp tiến hành bắt bớ hàng ngàn đảng viên cộng sản và đồng bào yêu nước, giải tán các tổ chức Ái hữu, Nghiệp đoàn: đóng cửa các tờ báo tiến bộ... Mặt khác, chúng ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của để phục vụ cho cuộc chiến tranh. Ngày 5 tháng 10 năm 1939, theo lệnh của bọn thực dân, vua Bảo Đại ra các đạo dụ cấm các cuộc họp, cấm tuyên truyền cộng sản. Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, ngày 29 tháng 9 năm 1939, Trung ương Đảng đã ra thông báo, chỉ rõ về tổ chức và hình thức hoạt động đấu tranh: “hiện thời tình hình quốc tế đã cho chúng ta thấy rõ vấn đề dân tộc giải phóng sẽ đến chỗ kết quả, thế thì chúng ta còn dại gì mà chui vào nhà tù”. “Chúng ta phải chọn người nào trung thành, hăng hái, có giác ngộ chính trị thì tổ chức vào hội bí mật... những hội viên này phải hoàn toàn bí mật...”, “Còn sự lấy nguyện vọng và biểu tình thì phải đình. Như thế không phải chủ trương không tranh đấu... hiện giờ, ta không thể đưa lực lượng của Đảng bày tỏ cho bọn thống trị biết... Tuy thế, mặc dầu nơi nào quần chúng thúc giục và say mê đấu tranh thì Đảng phải lãnh đạo”(1). Như vậy, Trung ương Đảng đã kịp thời đề ra chủ trương chung cho cán bộ, đảng viên và các cơ quan Đảng đang hoạt động công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp phải nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Nắm bắt kịp thời tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng, cuối tháng 9, đầu tháng 10 năm 1939, chi bộ Ba Son bắt đầu triệu tập cuộc họp tại nhà đồng chí Đôn Văn Bầy (nay thuộc Phường 26) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Nghi, Phạm Văn Khung. Cuộc họp đã bàn kế hoạch và thống nhất rút lực lượng đảng viên vào hoạt động bí mật. Tiếp sau đó, từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 11 năm 1939, tại xã Tân Thới Nhứt (nay thuộc huyện Hóc Môn), Trung ương Đảng đã tiến hành Hội nghị lần thứ VI, 1. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, tập 1 (1930 - 1945) - Sơ thảo, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, tr, 118 - 120.
48 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đánh giá tình hình một cách toàn diện, có hệ thống, đề ra nghị quyết phù hợp. Hội nghị đã khẳng định: “Đảng ta phải thay đổi chính sách Mặt trận dân chủ thích hợp với hoàn cảnh trước kia, ngày nay không còn thích hợp nữa. Ngày nay phải thành lập Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”(1) và xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai. Hội nghị lần thứ VI của Trung ương Đảng đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về đường lối, phương pháp cách mạng từ đấu tranh dân chủ sang giai đoạn đánh đổ bọn đế quốc và tay sai. Nghị quyết của Hội nghị nhanh chóng được phổ biến nghiên cứu và bàn biện pháp thực hiện trong các cấp Đảng bộ. Chính nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, kịp thời đó của Trung ương Đảng mà tổ chức Đảng từ thành phố xuống cơ sở nhanh chóng được củng cố, các tổ chức quần chúng sớm được chấn chỉnh lại cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới, đồng thời Xứ ủy còn xây dựng được nhiều cơ sở trong binh lính người Việt. Phong trào đấu tranh của quần chúng từ khi có Nghị quyết VI của Trung ương phát triển theo một chiều hướng mới. Ở Sài Gòn - Gia Định, hầu hết các cuộc đấu tranh đều tập trung vào mục tiêu chống bắt lính, bắt phu, vơ vét tài sản của Nhân dân, chống khủng bố... Ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II chính thức nổ ra. Ngày 17 tháng 6 năm 1940, chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức. Tuy vậy, ở thuộc địa bọn cầm quyền thực dân vẫn ra sức duy trì chính sách thuộc địa phản động. Ở Việt Nam, chúng không ngừng tiến hành các hoạt động đàn áp cách mạng, khủng bố, lùng bắt các đảng viên Đảng Cộng sản và quần chúng yêu nước. Nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng đã lần lượt bị bắt như: Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Lê Duẩn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Thị Minh Khai... càng làm tăng thêm lòng căm thù quân cướp nước của Nhân dân ta, của các tầng lớp nhân dân lao động ở Nam kỳ nói chung, Sài Gòn - Gia Định nói riêng. Cuối tháng 9 năm 1940, cuộc họp mở rộng của Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập các Ủy ban khởi nghĩa cấp thành, quận và phân công phụ trách các điểm khởi nghĩa. Trong đó đồng chí Nguyễn Văn Quận được giao nhiệm vụ chỉ huy cuộc khởi nghĩa chiếm trung tâm huấn luyện tân binh ở Bà Chiểu. Mặc dù Trung ương Đảng đã ra chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, song lệnh phát động của Xứ ủy không thể thu hồi kịp. Do vậy, đêm 22 rạng 23 tháng 11 1. Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh, tập 1 (1930 - 1945) sđd, tr.120.
49 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) năm 1940 cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, nhưng chỉ ở các quận, huyện ngoại thành như Gò Vấp, Hóc Môn, Trung Huyện (nay là huyện Bình Chánh) và các tỉnh ở Nam Bộ. Trong khi đó ở địa bàn Xứ ủy chọn làm trung tâm, là nơi phát động khởi nghĩa cho toàn xứ Sài Gòn - Chợ Lớn, trong đó có khu vực chợ Bà Chiểu, Thị Nghè thì khởi nghĩa không nổ ra được, do kế hoạch khởi nghĩa đã bị lộ từ trước và địch đã có sự chuẩn bị đối phó. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp cuộc khởi nghĩa Nam kỳ và tiếp tục tàn sát nhân dân trong khoảng thời gian dài, lợi dụng cơ hội này, bọn thực dân còn xử bắn các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng như đồng chí Võ Văn Tần, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Thị Minh Khai... trong đó có những người bị bắt từ trước khi có chủ trương khởi nghĩa. Trong bối cảnh chung của cách mạng Việt Nam, Sài Gòn - Gia Định nói riêng từ sau Nam Kỳ khởi nghĩa, phong trào cách mạng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng lâm vào tình thế hết sức khó khăn. Nhiều đồng chí trong Quận ủy Gò Vấp, Tỉnh ủy Gia Định đã hy sinh như: đồng chí Tý - Bí thư, đồng chí Giáp - Thường vụ Quận ủy; đồng chí Lê Văn Khương - Bí thư, các đồng chí Tô Văn Giáp, Nguyễn Văn Hồ, Lại Văn Hồi - Thường vụ Tỉnh ủy. Ngày 23 tháng 9 năm 1940, phát xít Nhật vượt biên giới, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom và đổ bộ lên cảng Hải Phòng, âm mưu chiếm đóng Đông Dương. Từ đây, nhân dân ta lâm vào tình thế “một cổ hai tròng”. Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng - Bắc Ninh từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 11 năm 1940 đã chỉ rõ kẻ thù chính của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Pháp - Nhật và quyết định chuyển Mặt trận Dân tộc Thống nhất phản đế Đông Dương thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật ở Đông Dương. Ngày 28 tháng 01 năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được tổ chức tại Pắc Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã phát triển hoàn chỉnh các nghị quyết 6 (1939) và 7 (tháng 11 năm 1940) của Trung ương Đảng về vấn đề giải phóng dân tộc và khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc. Để phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương.
50 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Các tổ chức trong Mặt trận đều lấy tên là Hội Cứu quốc. Việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang đã được Hội nghị xác định là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhân dân ta. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, tháng 12 năm 1941, ngày 25 tháng 10 năm 1941, Việt Nam Độc lập Đồng Minh công bố tuyên ngôn, chương trình và điều lệ, Việt Nam Độc lập Đồng Minh đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của các tổ chức, lực lượng chính trị và đặc biệt là của đông đảo quần chúng nhân dân lao động trên cả nước. Từ năm 1943, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây mà trước hết là ở hai vùng dân cư Thị Nghè - Bà Chiểu, nhiều tổ chức của Mặt trận Việt Minh đã ra đời và tích cực hoạt động. Ở một số vùng ven thị xã Gia Định đã có lác đác những cuộc nổi dậy của quần chúng đánh vào các đồn bốt hoặc tập kích bọn lính Pháp đi lẻ tẻ. Tuy chưa phát triển thành một phong trào rộng lớn, song các hoạt động vũ trang bộc phát của quần chúng khiến bọn lính Pháp lo sợ, co cụm trong các điểm đóng quân, không dám ra ngoài tự tung tự tác như trước. Bên cạnh đó, các đồng chí đảng viên còn lại sau đợt khủng bố của địch đã tích cực hoạt động để gây dựng lại cơ sở, củng cố niềm tin trong quần chúng. Đầu năm 1941, đồng chí Bùi Văn Châu (Lưu Dự Châu) được Xứ ủy cử về lập lại Tỉnh ủy Gia Định. Nhưng trong tình hình địch vẫn khủng bố khốc liệt, Tỉnh ủy bị vỡ và thành lập lại nhiều lần. Cho đến đầu năm 1943, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 8, Ban cán sự Đảng tỉnh Gia Định được thành lập gồm 6 ủy viên do đồng chí Phạm Văn Bún làm Trưởng ban. Tiếp sau đó là sự ra đời của ban cán sự các quận. Trong thời gian này, Đảng bộ tỉnh Gia Định trực thuộc sự lãnh đạo của Xứ ủy “Giải phóng” đã tích cực củng cố lại tổ chức xây dựng cơ sở. Cùng với các hoạt động vũ trang tuyên truyền rải truyền đơn, Xứ ủy còn ra báo Giải phóng, trụ sở đặt tại Xóm Gà - Bình Hòa, số 44/1 đường làng 22 (nay là đường Phan Văn Trị - Phường 11) đã góp phần tuyên truyền và thông tin kịp thời các chủ trương của Đảng, chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh đến quần chúng trên toàn xứ nói chung và ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, gây được ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân. Giữa năm 1943, nhân vụ việc một số công nhân bị địch bắt, sa thải, công nhân xưởng Ba Son đã tổ chức đấu tranh đưa yêu sách: cấm giam cầm những người tình nghi bị bắt, cấm sa thải công nhân, thả những người bị bắt, cải thiện đời sống... Trước sức mạnh đấu tranh của quần chúng, mặc dầu cố tình trì hoãn, song đến đầu
51 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) năm 1944, địch buộc phải trả tự do cho những người bị bắt và đáp ứng một số yêu sách của cuộc đấu tranh. Đến cuối năm 1944, các cơ sở của Đảng, lực lượng quần chúng hạt nhân ở các địa phương nhìn chung đã được khôi phục trên cơ sở của các tổ chức tập hợp lực lượng quần chúng như: nghiệp đoàn thợ may, nghiệp đoàn uốn tóc... Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức này tiến hành tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phong trào ủng hộ cách mạng. III. BÌNH HÒA - THẠNH MỸ TÂY TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 Bước sang năm 1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến thuận lợi cho cách mạng. Trên chiến trường châu Âu, từ tháng 1 năm 1944 đến tháng 1 năm 1945, Hồng quân Liên Xô tổng tiến công phát xít Đức. Ngày 9 tháng 5 năm 1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện quân Đồng Minh. Ở Mặt trận Thái Bình Dương, từ giữa năm 1942, quân Nhật gặp thất bại liên tiếp và chuyển sang thế phòng ngự. Hòng cứu vãn tình thế, độc chiếm Đông Dương và ngăn ngừa hiểm họa từ phía sau khi quân Đồng Minh tiến vào, đêm 9 tháng 3 năm 1945, Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Pháp. Giữa lúc Nhật đảo chính Pháp, từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương họp Hội nghị mở rộng đã nhận định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt, duy nhất của Nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật. Chính vì vậy, khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp và tay sai” trước đây được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật và tay sai”. Hội nghị đã quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cũng trong tháng 6 năm 1945, tổ chức Thanh niên Tiền phong được thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên, Thanh niên Tiền phong đã thu hút được đông đảo quần chúng đặc biệt là thanh niên tham gia. Cùng với phong trào bí mật, Thanh niên Tiền phong phát động phong trào yêu nước trong quần chúng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa. Thực hiện chủ trương chung của Đảng, các đồng chí đảng viên ở Thị Nghè thuộc Chi bộ Ba Son do đồng chí Đôn Văn Bầy lãnh đạo, đã tổ chức một cuộc họp với các cơ sở cách mạng vùng Thị Nghè - Bà Chiểu tại số 156/1 đường làng 24 (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh - Phường 26). Cuộc họp đã thảo luận và đi đến thống nhất với chủ trương của Xứ ủy về việc thành lập lực lượng nghĩa quân với danh nghĩa là Đoàn Thanh niên Tiền phong, hoạt động công khai, hợp pháp trong lòng địch và gấp rút chuẩn bị để sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền khi thời cơ đến.
52 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tổ chức Thanh niên Tiền phong của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được thành lập và hoạt động ở nhiều nơi. Tại khu vực Thị Nghè (Thạnh Mỹ Tây) lực lượng ban đầu của Thanh niên Tiền phong là số thanh niên tích cực được chọn lọc từ lực lượng Phòng thủ thụ động do Pháp thành lập trước đây, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của thủ lĩnh Nguyễn Bân - Thư ký hãng mỡ Guyonnet và các phó thủ lĩnh Nguyễn Hưng và Nguyễn Văn Nam - công nhân Ba Son và rất nhiều nòng cốt: Phạm Văn Hưng, Trần Văn Dậu, Cao Tấn Lưu, Tăng Văn Liêm, La Liêng Phước, Hồ Văn Bình, Nguyễn Văn Thống. Về sau lực lượng này càng mở rộng với nhiều thành phần khác nhau. Trường học của thầy giáo Nguyễn Văn Lộc ở số 52 đường Nguyễn Văn Lạc (nay thuộc Phường 19), là địa điểm tiếp nhận thanh niên gia nhập tổ chức và là nơi hội họp bàn kế hoạch hành động của các đồng chí lãnh đạo Thanh niên Tiền phong. Về sau, trụ sở dời về đình Cầu Sơn (nay thuộc Phường 26) và lấy nhà làng Thạnh Mỹ Tây làm trụ sở tạm. Đến tháng 8 năm 1945, vì số lượng người tham gia quá đông, để tiện cho việc tổ chức hoạt động, Thanh niên Tiền phong ở khu vực Thị Nghè được phân làm 3 toán: - Toán 1 (Lê Lợi) do anh Phạm Văn Hưng (Ba Nhỏ) phụ trách; - Toán 2 (Lam Sơn) do anh Nguyễn Văn Thông phụ trách; - Toán 3 (Đống Đa) do anh Nguyễn Văn Nam phụ trách. Lực lượng Thanh niên Tiền phong ở Phú An (nay thuộc Phường 22) do anh Tám Nhiều và Bảy Thà phụ trách. Khu vực Bà Chiểu và Xóm Đình (nay thuộc Phường 3) chỉ sau nửa tháng vận động, Thanh niên Tiền phong đã thu hút được khoảng 200 đoàn viên do đồng chí Trần Xuân Ngự (Trường Thanh) làm thủ lĩnh, trụ sở đặt tại chợ Bà Chiểu; đến tháng 8 năm 1945 thì chia ra thành nhiều toán do các anh: Trần Xuân Đông, Trương Bá Túc, Trần Đình Cung, Nguyễn Cao phụ trách. Tại trung tâm thị xã Gia Định (nay thuộc chợ Bà Chiểu - Phường 1), Thanh niên Tiền phong được tổ chức thành 3 đoàn: Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính và Tạ Thu Thâu, quy tụ hàng trăm thanh niên với vai trò nòng cốt của các đồng chí: Nguyễn Liêm, Trần Thị Nga, Trần Văn Chùy, Tô Ngọc Bảo, Vũ Ngọc Thụ... Vùng Cây Quéo (Phường 5 và 6 hiện nay), tổ chức Thanh niên Tiền phong quy tụ gần 100 thanh niên, hầu hết là công nhân cạo mủ cao su và một số làm
53 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) nghề thủ công khác, do anh Nguyễn Đình Bách - thợ tiện của khu tiểu công nghệ Bắc kỳ làm thủ lĩnh, trụ sở đặt tại chợ Cây Quéo, đình Quản Tám (còn gọi là Hòa Long Tự) là nơi hội họp, sinh hoạt của lực lượng Thanh niên Tiền phong vùng Cây Quéo. Khu vực ấp Trung (vùng Cây Thị - Phường 10, 11 hiện nay), Thanh niên Tiền phong tổ chức thành 2 đoàn, hàng ngày luân phiên nhau tập quân sự tại điểm 89, quốc lộ 1 (nay là đường Nơ Trang Long). - Đoàn 1 (còn có tên Nguyễn Đình Chiểu) quy tụ những thanh niên trẻ, do anh Nguyễn Văn Hùng (Hai Minh) làm đoàn trưởng và anh Nguyễn Văn Tôi làm đoàn phó (sau do anh Tư Em và anh Có phụ trách). Trụ sở đặt tại chùa Hòa Khánh - đường làng 22 (nay là đường Phan Văn Trị - Phường 11). - Đoàn 2 (còn có tên là Thủ Khoa Huân), tập hợp những công nhân lớn tuổi, do anh Phạm Văn Lưu (Ba Chà) làm đoàn trưởng và anh Huỳnh Văn Thi - công nhân Ba Son, làm đoàn phó. Trụ sở chính đặt trên đường Mai Xuân Thưởng (nay thuộc Phường 11) và một trụ sở phụ ở số 300 đường làng 20 (nay là đường Nguyễn Văn Đậu - Phường 11). Khu vực ngã năm Bình Hòa, lực lượng Thanh niên Tiền phong do anh Năm Lúa làm đoàn trưởng và anh Lê Văn Mi làm đoàn phó. Trụ sở đặt tại ngã năm Bình Hòa. Khu vực Bình Quới Tây (nay thuộc Phường 28), tổ chức Thanh niên Tiền phong do anh Nguyễn Văn Đồng (công nhân Ba Son) và anh Bùi Văn Lai (Ba Mới) phụ trách. Khu vực Ụ Tàu (nay thuộc Phường 25), tổ chức Thanh niên Tiền phong đặt dưới sự chỉ huy của đoàn trưởng Hồng Văn Sắng và đoàn phó Võ Văn Bôn (thuộc đoàn Thanh niên Tiền phong Thị Nghè), đặt trụ sở tại chùa Ông (nay thuộc tổ dân phố 7 - Phường 25). Khu vực Cầu Sơn (nay thuộc Phường 26): lực lượng Thanh niên Tiền phong do anh Nguyễn Văn Lợi và Phạm Văn Ngô phụ trách. Đến cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 1945, Thanh niên Tiền phong thật sự trở thành một mặt trận, thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, lực lượng Thanh niên Tiền phong lên đến hàng ngàn người. Hàng ngày trên khắp các nẻo đường từ thành thị đến nông thôn, mỗi xóm
54 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) làng, khu phố, từng đoàn Thanh niên Tiền phong trong trang phục quần sọoc xanh hay màu sậm, áo sơ mi trắng cộc tay, mũ bành vành rộng hát vang những bài ca cách mạng, hăng hái luyện tập quân sự, tham gia các hoạt động xã hội, giúp đỡ bà con lao động nghèo, tuyên truyền, phổ biến đến các tầng lớp nhân dân những chủ trương, chính sách của Đảng, của Mặt trận Việt Minh. Cũng trong thời gian này, còn có sự hoạt động mạnh mẽ của Hội Truyền bá Quốc ngữ Nam kỳ. Tổ chức này được thành lập từ tháng 8 năm 1944 với vai trò chủ chốt của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Trên danh nghĩa, đây là tổ chức hoạt động xã hội, giúp đồng bào nghèo xóa nạn dốt, nhưng thực chất, hội tiến hành một cuộc vận động chính trị trong giới trí thức, nhân sĩ, viên chức, thanh niên... là một lực lượng chính trị hoạt động gắn chặt với Thanh niên Tiền phong từ khi tổ chức này ra đời theo mục đích chủ trương của Đảng. Trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, Hội Truyền bá Quốc ngữ đặt trụ sở tại chùa Hòa Khánh (nay thuộc Phường 11) và trường tiểu học tư thục Tân Văn trên đường Rue de L’ Abatttoir (Lò Heo nay là đường Vũ Tùng - Phường 2). Tại đây, Hội đã mở được nhiều khóa đào tạo cán bộ và lớp truyền bá Quốc ngữ. Thông qua đó là tuyên truyền những chủ trương chính sách của Đảng, của Mặt trận Dân tộc đến các tầng lớp nhân dân. Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, tháng 6 năm 1945, đồng chí Huỳnh Tấn Phát đã triệu tập cuộc họp tại nhà một cơ sở ở đầu đường La Bataille (nay là đường Nguyễn Huy Lượng - Phường 14). Tham dự cuộc họp này có các đồng chí hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây mà một trong những tên tuổi gắn bó với phong trào này ở địa phương là đồng chí Dương Đình Thảo. Sau khi phân tích tình hình thế giới, tình hình địch, ta trên phạm vi cả nước và riêng ở Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Huỳnh Tấn Phát còn phổ biến chủ trương chung của Xứ ủy Nam kỳ, đặc biệt là việc gấp rút chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành chính quyền. Theo tinh thần của cuộc họp, đêm hôm sau, tại trường tư thục Tân Văn, đồng chí Huỳnh Tấn Phát đã kết nạp một số đồng chí trong Hội Truyền bá Quốc ngữ vào tổ chức Việt Minh. Theo lệnh khởi nghĩa, đây cũng chính là địa điểm phát súng, gươm cho một bộ phận của lực lượng quần chúng tham gia khởi nghĩa đi cướp chính quyền ở Tân Bình. Cho đến nửa đầu tháng 8 năm 1945, Nhân dân Sài Gòn - Gia Định nói chung, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc tổng khởi nghĩa, vấn đề còn lại chỉ là việc nắm bắt thời cơ.
55 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Trong tình hình đó, ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật và chỉ 2 ngày sau - ngày 10 tháng 8, cuộc họp giữa Nhật hoàng với nội các và Hội đồng chiến tranh của chính phủ Nhật đã quyết định đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh vô điều kiện. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào - Tuyên Quang. Sau khi phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan của một cuộc tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Hội nghị quyết định kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi phe Đồng Minh vào Việt Nam. Ngay trong đêm 13 tháng 8, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập và ra quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Đêm 19 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh ra mắt, công bố chương trình hành động tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo (nay thuộc Quận 1 - thành phố Hồ Chí Minh). Cũng trong đêm này, Mặt trận Việt Minh tỉnh Gia Định ra mắt tại rạp hát Gò Vấp. Tiếp sau đó, Mặt trận Việt Minh được tuyên bố thành lập ở khắp các khu vực dân cư trên địa bàn Sài Gòn - Gia Định, trong đó có Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Tại Thị Nghè - địa bàn có lực lượng Thanh niên Tiền phong đông đảo nhất, một cuộc mít tinh tuyên bố thành lập Mặt trận Việt Minh, công khai danh sách Ủy ban Mặt trận được tổ chức với sự tham dự của hàng ngàn quần chúng. Đồng chí Nguyễn Hưng được cử làm Chủ tịch Mặt trận, đồng chí Nguyễn Văn Nam là Phó Chủ tịch, và các ủy viên: Phạm Văn Hưng, Hồ Văn Hường, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Thị Việt, Nguyễn Thị Liêm... Trụ sở đặt tại nhà số 6 đường Nguyễn Văn Lạc (nay thuộc Phường 19). 19 giờ cùng ngày, một cuộc diễn thuyết được tổ chức tại rạp hát Thị Nghè (nay là Xí nghiệp Dược phẩm thuộc Phường 19), đồng chí Nguyễn Bân - thủ lĩnh Thanh niên Tiền phong khu vực Thị Nghè đã phổ biến tình hình thế giới, trong nước, thời cơ khởi nghĩa và chủ trương của Xứ ủy về khởi nghĩa; việc chuyển lực lượng Thanh niên Tiền phong thành lực lượng vũ trang của Mặt trận Việt Minh. Đồng thời kêu gọi Nhân dân, đặc biệt là thanh niên tham gia Mặt trận Việt Minh để đánh đuổi phát xít và tay sai, giành lấy chính quyền. Ở khu vực Bà Chiểu, Ủy ban Mặt trận Việt Minh được thành lập gồm các đồng chí: Trần Xuân Ngự, Trần Đình Trung, Trương Bá Túc... Ở các khu vực Cây Quéo, Bình Quới Tây,... Thanh niên Tiền phong và các tổ chức đoàn thể quần chúng cũng nhanh chóng đứng vào hàng ngũ Việt Minh.
56 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Trong không khí cách mạng sôi động của cả nước và Sài Gòn - Gia Định nói riêng, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã sẵn sàng để nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 22 tháng 8 năm 1945, cuộc họp bàn việc tổ chức một cuộc mít tinh lớn nhằm huy động lực lượng tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây giữa các đảng viên và cán bộ cơ sở Đảng hợp pháp tại địa phương được tổ chức tại một địa điểm ở xóm Cầu Sơn (nay thuộc Phường 26). Tham dự cuộc họp có các đồng chí: Nguyễn Văn Tư (Tư Ốm - Bí thư Chi bộ Ba Son), Đôn Văn Bầy, Phan Trung Tín, Tám Thạnh, Tám Nuôi, Nguyễn Hùng, Nguyễn Nam... Sáng sớm ngày 23 tháng 8, cuộc khởi nghĩa ở Tân An - nơi được Xứ ủy chọn làm khởi nghĩa thí điểm - nổ ra thắng lợi. Trên đà chiến thắng đó, Xứ ủy đã họp và quyết định Sài Gòn sẽ khởi nghĩa vào đêm 24 tháng 8, đến sáng 25 tháng 8 nhân dân thành phố và các tỉnh lân cận sẽ biểu tình vũ trang. 4 giờ sáng ngày 24 tháng 8, từ nhà làng Bình Quới Tây (khu vực Thanh Đa - nay thuộc Phường 28) đã vang lên những hồi trống tập hợp lực lượng và phát lệnh khởi nghĩa. Lúc này, lính Nhật vẫn đóng rải rác quanh làng với 3 tàu chiến trên sông Sài Gòn neo từ khu vực La San Mai Thôn (nay thuộc Phường 28) đến vàm Ông Ngữ. Lực lượng khởi nghĩa gồm khoảng 300 thanh niên biên chế thành 3 đội do đồng chí Bùi Văn Mới trực tiếp chỉ huy nổi dậy trấn áp quân Nhật và tịch thu toàn bộ vũ khí. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng giành thắng lợi. Sáng sớm ngày 25 tháng 8, hàng vạn quần chúng nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trang bị tầm vông, dao, mác... tham gia cuộc tuần hành ở Sài Gòn. Đến 10 giờ, đoàn biểu tình phân làm hai cánh. Cánh thứ nhất có nhiệm vụ tiếp quản nhà làng Thạnh Mỹ Tây. Tại đây, trước khí thế áp đảo của quần chúng, bọn hương chức, hội tề nhanh chóng đầu hàng, giao nộp cơ sở vật chất, hồ sơ tài liệu cho lực lượng khởi nghĩa. Cánh thứ hai do đồng chí Phan Văn Hùng chỉ huy, tiếp quản nhà thương Thị Nghè (nay là nhà dưỡng lão), tịch thu và chuyển toàn bộ lương thực, thuốc men của địch tàng trữ tại đây về đình Cầu Sơn để phân phát cho dân nghèo. Quá trưa ngày 25 tháng 8, các đồng chí trong Ban Khởi nghĩa Gia Định tham gia biểu tình ở Sài Gòn về tập trung ở Tòa Bố Gia Định (trụ sở Ủy ban nhân dân quận hiện nay). Tại đây, Ban Khởi nghĩa thành lập các bộ phận phụ trách
57 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) ngoại giao, cờ, nhà đèn, bưu điện, cảnh sát... Sau đó, các bộ phận tỏa ra, tổ chức Nhân dân cùng lực lượng Thanh niên Tiền phong bao vây tiếp tục tiến chiếm nhà bưu điện, kho bạc, nhà làng Bình Hòa và các công sở, đồn bót của địch còn lại trên địa bàn. Đến 19 giờ ngày 25 tháng 8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã hoàn toàn thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, các tổ Công đoàn xung phong, Thanh niên xung phong, tự vệ được phân công án ngữ các trục lộ, các vị trí then chốt như: cầu Bông, cầu Thị Nghè, cầu Dầu - Phú An, cầu Mới - Bà Chiểu,... những đồn bót còn lính Nhật thì tổ chức canh gác bên ngoài. Sáng sớm ngày 26 tháng 8 năm 1945, hàng vạn Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng Nhân dân Gia Định nô nức kéo về trước khu Tòa Bố Gia Định để dự cuộc mít tinh do Mặt trận Việt Minh tổ chức để mừng khởi nghĩa thành công. Ủy ban Hành chính tỉnh Gia Định được thành lập do đồng chí Phạm Văn Chiêu làm Chủ tịch, đồng chí Phan Văn Năm là Phó Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Lượng là Ủy viên an ninh và đồng chí Nguyễn Văn Triệu phụ trách tài chính. Ngay sau đó, Ủy ban Hành chánh của xã Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây cũng được thành lập, bao gồm: - Ở Bình Hòa: đồng chí Trần Xuân Ngự - Chủ tịch; đồng chí Lung (không rõ họ) - Phó Chủ tịch; các ủy viên: Trần Đình Trung, Trần Xuân Đồng, Trương Bá Túc. - Ở Thạnh Mỹ Tây có các đồng chí: Phạm Trung Chánh, Hồng Văn Sắng, Hồ Văn Hường, Lê Bá Tòng, Nguyễn Thị Việt. Bước đầu chính quyền nhân dân các cấp bắt tay vào việc củng cố tổ chức, giữ gìn an ninh trật tự, tiến tới ổn định đời sống cho Nhân dân. Với truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng, qua một bộ phận công nhân địa phương làm việc trong các hãng, xưởng khắp trên địa bàn Thành phố và sự hoạt động tích cực của các đồng chí trong các tổ chức Công hội đỏ, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách mạng Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng, các tầng lớp nhân dân lao động ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây từng bước được tiếp xúc với chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ buổi đầu ủng hộ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, dần dần các tầng lớp nhân dân lao động ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây sớm giác ngộ cách mạng, tự nguyện đi theo ngọn cờ của Đảng Cộng sản
58 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Việt Nam, kết hợp cùng lực lượng công nhân đấu tranh cho mục tiêu giải phóng dân tộc theo đường lối chung của Đảng. Vượt qua bao gian khó, hy sinh, sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù, trong mọi hoàn cảnh, người dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn một lòng kiên trung với Đảng, với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, góp phần cùng Nhân dân Sài Gòn - Gia Định và cả nước làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 - khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
59 Chương hai ĐẤU TRANH BẢO VỆ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG, TÍCH CỰC CHUẨN BỊ MỌI MẶT CHO KHÁNG CHIẾN (9-1945 — 12-1946) I. TRẤN ÁP BỌN PHẢN CÁCH MẠNG, CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN Ngay từ hạ tuần tháng 8 năm 1945, giữa lúc cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của Nhân dân Nam bộ đang diễn ra sôi sục, thực dân Pháp đã thông qua kế hoạch trở lại Đông Dương: dựa vào sự có mặt của quân Anh để xâm chiếm phía Nam vĩ tuyến 16, cho thả dù lực lượng quân sự và nhân viên dân sự xuống miền Bắc, xác nhận với Đồng Minh ý đồ duy trì chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Ngày 02 tháng 9 năm 1945, quân Pháp nổ súng vào lực lượng quần chúng Sài Gòn - Gia Định đang tuần hành mừng thắng lợi của Cách mạng tháng Tám tại quảng trường Norodom, chính thức tiến hành khiêu khích vũ trang. Ngày 06 tháng 9 năm 1945, theo gót quân Anh vào giải giáp quân Nhật ở miền Nam, một bộ phận quân đội Pháp đã có mặt tại Sài Gòn để thực hiện kế hoạch đánh rộng ra toàn Nam bộ và Nam Trung Bộ. Âm mưu tái xâm lược của kẻ thù đã bộc lộ hoàn toàn. Cùng toàn thể Nhân dân Sài Gòn - Gia Định, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lại bước vào cuộc chiến đấu mới. Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1945, cùng với niềm vui và hân hoan phấn khởi trong không khí độc lập tự do, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn chồng chất nhiều khó khăn phức tạp: các lực lượng phản động tại chỗ ngóc đầu dậy chống phá chính quyền cách mạng. Ở khu vực Cầu Sơn, Cầu Kinh... các
60 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) toán quân Bình Xuyên phản động bí mật bắt và thủ tiêu một số cán bộ đảng viên, lung lạc quần chúng. Một số tên đầu sỏ phản động trong các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo... lén lút họp bàn chống phá cách mạng, âm mưu đảo chính. Bọn tơ-rốtkít ra báo, rải truyền đơn vu khống, đả kích chính quyền và Việt Minh. Bên cạnh đó, tàn quân của tổ chức “Thanh niên Nhật - Việt phòng vệ đoàn” dựa vào bọn lính Nhật đang chiếm đóng kho dầu Duy Tân (Cầu Sơn) và cầu Dầu (Phú An)... vẫn ngoan cố hoạt động phá rối an ninh trật tự. Tại Bình Quới Tây, tàu chiến Nhật vẫn thường xuyên tuần tiễu, theo dõi và kiểm soát tình hình... Để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng vừa giành được và đập tan mọi âm mưu chống phá của bọn phản động, bên cạnh việc xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền(1), ngay từ đầu tháng 9 năm 1945, lực lượng vũ trang Thạnh Mỹ Tây đã được thành lập trên cơ sở lực lượng xung kích của Thanh niên Tiền phong trước đây. Ban Chỉ huy quân sự Thạnh Mỹ Tây (thường gọi là Đội tự vệ Thị Nghè) gồm các đồng chí Nguyễn Bân - Chỉ huy trưởng, Nguyễn Hưng - Chỉ huy phó, Hồ Văn Hường, Phan Văn Hưng, Nguyễn Thị Việt, Nguyễn Thị Liêm... Trụ sở chính của đội đặt tại Cầu Sơn. Phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương, Nhân dân Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa nhanh chóng tiến hành trấn áp bọn phản cách mạng. Sau khi dò xét nắm tình hình chu đáo, 4 giờ sáng ngày 5 tháng 9 năm 1945, lực lượng quân sự Thị Nghè được huy động đến bao vây và tấn công kho dầu Duy Tân (Cầu Sơn) do một trung đội lính Nhật đóng giữ. Quân Nhật nhanh chóng tan rã, một số bỏ chạy về Sài Gòn, số còn lại buộc phải đầu hàng. Ta thu 16 súng trường, hàng ngàn viên đạn, một số máy điện đài và quân trang quân dụng, tiếp quản và làm chủ hoàn toàn kho dầu. Ngay ngày hôm sau (6 tháng 9 năm 1945), đông đảo quần chúng lại phối hợp cùng lực lượng vũ trang kéo đến trụ sở hải quân Nhật ở Phú An, đấu tranh buộc chúng phải bàn giao cơ sở này. Lúc đầu, địch có phản ứng làm bùng nổ xô xát, nhưng sau đó trước sức mạnh hùng hậu của quần chúng cách mạng, 4 giờ chiều cùng ngày chúng buộc phải dùng canô rút lui về Sài Gòn. Như vậy, cả hai cứ điểm quan trọng cuối cùng của quân Nhật trên đất Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã thuộc quyền kiểm soát của cách mạng. 1. Trong các tài liệu lịch sử truyền thống các phường thuộc quận Bình Thạnh chỉ mới nêu được danh sách một số đồng chí trong chính quyền cách mạng xã Thạnh Mỹ Tây lúc này, nhưng chưa thống nhất với nhau. Tài liệu Lịch sử truyền thống Phường 17 và Phường 19 cho biết chính quyền cách mạng Thạnh Mỹ Tây gồm các đồng chí: Nguyễn Hưng, Lê Bá Tòng, Phạm Trung Chánh, Nguyễn Thị Việt.... Trong khi đó, tài liệu Lịch sử truyền thống Phường 21 và Phường 26 lại cho biết Ủy ban cách mạng Thạnh Mỹ Tây gồm các đồng chí: Nguyễn Trung Tính (Chủ tịch), Đồng Văn Sắng (Phó Chủ tịch), Nguyễn Văn Lợi (Ủy viên quân sự)... Riêng danh sách chính quyền cách mạng xã Bình Hòa, không thấy có tài liệu nào trình bày.
61 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Cũng trong những ngày đầu tháng 9 năm 1945, lực lượng dân quân Bình Quới Tây do đồng chí Nguyễn Văn Đồng chỉ huy còn đột kích vào tận nơi tàu chiến Nhật đậu ở La San Mai Thôn, cướp được 3 tàu, tịch thu 6 súng. Phần lớn quân Nhật đang làm nhiệm vụ tuần tiễu dọc theo các kênh rạch tại đây hoảng hốt rút chạy về Sài Gòn. Từ giữa tháng 9 năm 1945, trước dã tâm xâm lược bộc lộ ngày càng rõ ràng của thực dân Pháp, thực hiện chủ trương của Xứ ủy và Tỉnh ủy về tăng cường xây dựng lực lượng quân sự tại chỗ, các đội nhóm du kích ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây - mà nòng cốt là Thanh niên Tiền phong - ra đời và phát triển nhanh chóng, vừa thường xuyên tập dượt, huấn luyện du kích địa phương vừa chú trọng tìm kiếm, thu nhặt vũ khí của quân Nhật bại trận để trang bị cho mình. Một số nơi tổ chức cướp được nhiều súng Nhật như ở Bình Quới Tây, hãng dầu Phú An, lò heo Bà Chiểu... Bên cạnh đó, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng tích cực triển khai những công tác cấp bách như: vận động nhân dân đi sơ tán, tuần tra canh gác giữ gìn trật tự trị an, lùng bắt những tên gián điệp, tay sai của Pháp - Nhật đang trà trộn gây rối, gây hoang mang trong đồng bào. Liền sau đó, bộ máy chính quyền tỉnh Gia Định từ Bà Chiểu được dời về đứng chân ở xã Hạnh Thông (Gò Vấp). Cùng lúc, để chuẩn bị chống địch từ nội thành đánh lấn ra, lực lượng vũ trang và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tổ chức chốt chặn trên các trục lộ chính từ trung tâm thành phố dẫn ra Hàng Xanh, Bà Chiểu, nhất là tại các cầu Sở Thú, Thị Nghè, cầu Bông, cầu Dầu (Phú An)... Toàn thể cán bộ, đảng viên, du kích và Nhân dân Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây siết chặt đội ngũ, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu trực tiếp chống lại kẻ thù vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược. II. MẶT TRẬN THỊ NGHÈ - CẦU BÔNG VÀ NHỮNG NGÀY ĐẦU NAM BỘ KHÁNG CHIẾN 0 giờ ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong trang phục quân đội Hoàng gia Anh, các toán quân Pháp lợi dụng đêm tối bất ngờ tập kích các công sở của ta ở trung tâm thành phố, lần lượt chiếm giữ nhiều vị trí trọng yếu như: trụ sở Quốc gia tự vệ cuộc, đài phát thanh, nhà bưu điện, ngân hàng, nhà đèn... 3 giờ sáng ngày 23 tháng 9 chúng đánh chiếm những cây cầu nối trung tâm thành phố với vùng ngoại ô, trong đó có cầu Bông và cầu Thị Nghè. 4 giờ sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, khoảng 1 tiểu đoàn quân Pháp triển khai lực lượng tấn công cầu Thị Nghè. Nhưng lực lượng vũ trang ta - nòng cốt là
62 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) anh em công nhân Ba Son - đã tổ chức trận địa phục kích tại một địa điểm gần Sở Thú. Từ bốn mặt, lợi dụng địa hình địa vật thuận lợi (bụi rậm, cây to), quân ta đồng loạt xông ra dùng dao găm, mã tấu đánh giáp lá cà tiêu diệt địch. Bị tập kích bất ngờ, quân Pháp hoảng hốt bỏ chạy. Hàng chục tên địch bị diệt, ta thu được nhiều vũ khí, đạn dược. Trận thắng đầu tiên này tạo nên khí thế náo nức phấn khởi, có sức cổ vũ mạnh mẽ quân dân địa phương hăng hái xông lên, lập nhiều chiến công và thành tích mới. Từ 8 giờ sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, các lực lượng du kích chiến đấu, thanh niên xung phong vũ trang và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây liên tục chống trả quân Pháp hết sức quyết liệt ở khu vực cầu Bông, cầu Thị Nghè, kiên quyết không cho giặc chiếm giữ cầu. Chỉ huy sở mặt trận cầu Thị Nghè đặt tại đình Cầu Sơn do đồng chí Nguyễn Bân làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Hưng làm Chỉ huy phó; hai cơ sở hậu cần của mặt trận đặt tại khu vực ngã ba Hàng Xanh và xóm chùa Phước Viên. Phối hợp cùng lực lượng vũ trang và Nhân dân Thạnh Mỹ Tây chiến đấu tại mặt trận Thị Nghè còn có một bộ phận Cộng hòa vệ binh khoảng 50 người (phần lớn là thanh niên vùng Cây Quéo, Cây Thị) do Nguyễn Văn Kỳ phụ trách và 1 đại đội dân quân người dân tộc Giarai do Y Blêch chỉ huy. Bên cạnh đó, còn có lực lượng Thanh niên Tiền phong vũ trang làm nhiệm vụ chốt chặn từ Bà Chiểu đến Cầu Bông do đồng chí Phan Văn Hưng phụ trách. Gần trưa ngày 23 tháng 9 năm 1945, sau cuộc họp khẩn cấp tại nhà số 627 - 629 đường Cây Mai (Hội nghị Cây Mai), Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ lập tức phát lời kêu gọi “tất cả đồng bào già, trẻ, trai, gái hãy cầm vũ khí xông lên đánh đuổi quân giặc xâm lược!”. Cuộc kháng chiến bắt đầu từ Sài Gòn đã chính thức lan ra toàn Nam Bộ. Vừa có vinh dự là nơi mở đầu Nam bộ kháng chiến, khu vực Thị Nghè - Cầu Bông cũng vừa là địa bàn trọng điểm của Mặt trận số 1 (còn gọi là mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định hay mặt trận miền Đông), cùng với ba mặt trận khác hợp thành thế bao vây ngăn chặn địch trong nội thành Sài Gòn suốt nhiều ngày sau đó. Cũng trong ngày 23 tháng 9 năm 1945, được sự hỗ trợ của một số lính Nhật, quân Pháp mở cuộc tấn công khu vực cầu Cũ. Nhưng vừa vượt qua cầu, chúng đã bị du kích ta bắn tỉa, diệt 4 tên. Khoảng giữa trưa, chúng lấn qua địa bàn Thị Nghè và tới 2 giờ chiều mới qua khỏi ngã ba Nhà Làng. Tại đây, chúng bị quân dân ta chặn đánh quyết liệt, buộc phải lên xe tháo chạy về Sài Gòn lúc 4 giờ chiều, bỏ lại trận địa hơn 20 xác chết.
63 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Liền sau đó, Ban chỉ huy mặt trận Thị Nghè đã tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm (do các đồng chí Nguyễn Bân - Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang tại chỗ, Nguyễn Văn Bảy - Chỉ huy quân sự và Nguyễn Văn Tư - Bí thư Chi bộ Ba Son - chủ trì). Hội nghị thống nhất phương án củng cố các cứ điểm chiến đấu ở cầu Thị Nghè, cầu Bông, cầu Mới, Bà Chiểu, cầu Dầu..., tăng viện cho các nơi này một số dân quân do các anh Hai Rim, Hồng Văn Sắng và Y Blêch chỉ huy. Sáng 24 tháng 9 năm 1945, Tổng Công đoàn Nam Bộ ra lời kêu gọi công nhân và toàn thể nhân dân triệt để thực hiện lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ: tiến hành tổng bãi công, bãi thị, bãi khóa, kiên quyết bất hợp tác với giặc. Khắp thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định, mọi sinh hoạt chợ búa, giao thông, học hành... đều ngưng trệ. Mọi vật dụng như bàn ghế, quầy hàng, xe bò, xe kéo, xe thổ mộ... đều được kéo ra đường, cây bị cưa, cột đèn bị đốn ngã. Cả Sài Gòn - Gia Định tích cực lập chiến lũy và chướng ngại vật ngăn chặn địch. Ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, thanh niên nam, nữ, các cụ phụ lão, chị em phụ nữ và cả các em thiếu nhi đều hăng hái xin gia nhập lực lượng dân quân để giết giặc lập công hoặc đào hầm, tiếp tế, tải thương phục vụ chiến đấu. Tiểu thương các chợ Bà Chiểu, Thị Nghè, Cây Quéo... hết lòng ủng hộ phương tiện vật chất cho lực lượng vũ trang tăng thêm sức mạnh đánh giặc. Đêm 24 tháng 9 năm 1945, trong bóng đêm dày đặc do nhà máy đèn bị phá, lực lượng vũ trang Thị Nghè bao vây và đánh tập hậu địch ở khu Nguyễn Văn Lạc và Nhà dưỡng lão, gây cho giặc một số thiệt hại đáng kể. Chiều 26 tháng 9 năm 1945, lực lượng vũ trang ta lại tập kích ngã ba Nhà Làng (trụ sở xã Thạnh Mỹ Tây), diệt nhiều lính Pháp, bắt sống một số tên khác, trong đó có tên cò (cảnh sát trưởng) Thị Nghè là Orcetty, giải thoát nhiều đồng bào bị địch giam giữ. Ngày 27 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tập trung lực lượng, có một số lính Nhật đi tiền trạm, mở cuộc tấn công qua cầu Thị Nghè. Chúng dùng súng lớn, hỏa lực mạnh bắn phá dọc tuyến đường từ ngã ba Nhà Làng xuống Hàng Xanh. Khi toán quân địch đầu tiên qua ngã ba Nhà Làng, trận địa phục kích của ta nổ súng. Các chiến sĩ tự vệ chiến đấu, thanh niên vũ trang giật mìn, ném lựu đạn rồi xông ra đánh giáp lá cà với địch. Chúng hốt hoảng rút chạy, lại gặp một ổ phục kích khác của ta đánh phủ đầu, địch phải liều chết mở đường máu chạy tháo thân về Sài Gòn. Tính chung trong trận này, ta diệt gần 100 tên địch.
64 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Những ngày cuối tháng 9, chiến sự diễn ra quyết liệt tại mặt trận cầu Bông. Ngày 30 tháng 9, một trung đội quân Pháp núp bóng quân Anh dùng xe cơ giới dự định vượt qua cầu Bông để vào tỉnh lỵ Gia Định (ở khu vực Bà Chiểu). Nhưng cũng như tại mặt trận Thị Nghè, lực lượng vũ trang chốt giữ cầu Bông đã kiên quyết chặn đánh, buộc địch phải rút lui. Ngày hôm sau (1 tháng 10) chúng đưa lực lượng đông hơn kéo đến hòng đánh bật quân ta. Lực lượng vũ trang ta vừa kiên cường chống trả, vừa huy động nhân dân nổi trống mõ, khua mâm, nổi phèng la... gây náo động uy hiếp tinh thần địch. Cuối cùng, trước sức mạnh và sự phối hợp chặt chẽ của quân ta, chúng phải rút lui, bỏ lại bên cầu 2 xác chết. Trận đánh này có tiếng vang lớn, tạo niềm tin tưởng, hồ hởi trong quần chúng. Liền sau đó, thanh niên vùng Bà Chiểu – Bình Hòa hăng hái xin gia nhập lực lượng du kích rất đông. Tại khu vực Cây Thị còn thành lập được một đơn vị nữ dân quân, thu hút cả một số chị em từ nội thành tản cư ra đây. Một bộ phận dân quân vùng Cây Thị do chị Năm Cây Lơn chỉ huy đã tích cực tham gia chiến đấu ở mặt trận cầu Bông, bộ phận còn lại làm nhiệm vụ cứu thương. Bên cạnh đó, cũng ở vùng Cây Thị còn có lực lượng dân quân gồm 78 người do anh Châu Văn Hình phụ trách chung, Bùi Văn Chánh là Chỉ huy quân sự và Nguyễn Văn Định làm Chính trị viên; trụ sở ban chỉ huy lực lượng này đặt tại Đường làng 20. Nhờ tinh thần chiến đấu dũng cảm và sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng nói trên nên phải hơn một tuần lễ sau, quân Pháp mới tiến qua được cầu Bông. Trong khi đó, tại mặt trận Thị Nghè, địch tiếp tục huy động thêm quân tìm mọi cách đánh bật lực lượng kháng chiến. Ngày 2 tháng 10 năm 1945, chúng sử dụng 10 xe thiết giáp (đi đầu là 2 chiếc của quân Anh treo cờ Đồng minh, phía sau là quân Pháp) đòi qua cầu Thị Nghè để tước vũ khí quân Nhật. Quân ta kiên quyết án ngữ ngăn chặn. Yêu cầu không được đáp ứng, quân địch xả súng tấn công, ta lập tức bắn trả, tiêu diệt một số tên ngay từ loạt đạn đầu. Lợi dụng ưu thế và hỏa lực, địch tiếp tục bắn xối xả và cho đoàn xe vượt qua cầu Thị Nghè. Đến gần Ngã ba Nhà Làng, chiếc xe đi đầu của chúng trúng phải mìn, nổ tung, toàn bộ lính trên xe bị tiêu diệt. Bọn đi sau hốt hoảng bắn ồ ạt vào hai bên đường rồi xông vào nhà thương Thị Nghè và các dãy nhà dân gần đó để lùng sục, phá phách. Quân ta từ phía Hàng Xanh phản kích quyết liệt, gây thêm cho chúng nhiều thiệt hại, đẩy chúng lâm vào thế yếu và buộc phải rút về Sài Gòn. Sáng sớm ngày 7 tháng 10 năm 1945 với sự yểm trợ của pháo lớn, khoảng một đại đội quân Pháp lại đánh lấn ra Thị Nghè. Trước hỏa lực mạnh mẽ của địch, lực lượng ta vừa bắn trả, vừa rút lui về phía Hàng Xanh. Giặc tràn vào khu dân cư đốt nhà, bắt bớ và bắn giết Nhân dân rất dã man. Nhưng khi quân địch tập trung tại
65 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) nhà làng Thạnh Mỹ Tây để nghỉ ngơi, quân ta từ bốn phía đã bất ngờ tập kích, diệt hàng chục tên địch, bọn còn lại rút chạy về Sài Gòn. Từ ngày 10 tháng 10 năm 1945, với lực lượng vừa được tăng cường, quân Pháp triển khai kế hoạch tấn công phá vòng vây của lực lượng kháng chiến quanh Sài Gòn, mở rộng chiến tranh xâm lược ra các tỉnh xung quanh. Nhưng ngay trong đêm 10 tháng 10, lực lượng ta đã vượt cầu Bông, cầu Kiệu tiến công các điểm đồn trú của địch ở khu vực Đa Kao, diệt một số tên giặc. Ngày 12 tháng 10 năm 1945, khi quân Pháp chọc thủng phòng tuyến của ta ở Đông Bắc Sài Gòn, tiến lên sân bay Tân Sơn Nhất và Hóc Môn thì quân Anh đánh chiếm Gò Vấp và tỉnh lỵ Gia Định. Đến ngày 16 tháng 10 năm 1945, quân Pháp tiếp tục tấn công phòng tuyến phía Đông Bắc, đánh chiếm cầu Bông, khu vực Bà Chiểu. Tuyến ngăn chặn phía trước mặt trận tiền tuyến phía Đông bị vỡ. Lực lượng ta rút về củng cố và chặn địch tại Gò Vấp, trục đường 13 (từ ngã ba Chú Ía đến An Phú Đông) và khu vực Hàng Xanh. Chỉ huy sở mặt trận phía Đông cùng các cơ quan của tỉnh Gia Định dời chuyển sang ấp Đông Nhất, xã An Phú Đông để xây dựng căn cứ địa kháng chiến. Ngày 18 tháng 10, Pháp tập trung lực lượng lớn có tàu chiến, xe tăng, máy bay yểm trợ quyết đánh chiếm khu vực Thị Nghè. Lực lượng vũ trang tại mặt trận Thị Nghè do đồng chí Nguyễn Bân chỉ huy tổ chức phòng thủ theo lối trận địa chiến, phối hợp cùng nhân dân địa phương và một số đơn vị khác chống trả rất kiên cường. Địch dùng xe tăng mở đường và hỏa lực mạnh đột kích chiếm đầu cầu Thị Nghè. Quân ta phản kích, đánh bật chúng ra khỏi vị trí vừa chiếm được và tiếp tục đẩy lùi các đợt tấn công mới. Các chiến sĩ trong hai phân đội do Hai Hổ và Bảy Trường chỉ huy chiến đấu rất dũng cảm và hy sinh đến người cuối cùng. Giặc Pháp tổn thất nặng nề, buộc phải rút lui, bỏ lại nhiều xác chết. Ta giữ vững được trận địa. Các phóng viên nước ngoài có mặt tại Sài Gòn nhận xét đây là một thắng lợi to lớn của lực lượng kháng chiến. Báo Cứu quốc (số ra ngày 19 tháng 10 năm 1945 tại Hà Nội) bình luận: “Trận Thị Nghè sẽ được ghi vào chiến sử Việt Nam”. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, binh đoàn kỵ binh thiết giáp Pháp do đại tá Massu chỉ huy có mặt tại Sài Gòn, nâng tổng số quân Pháp lên tới 6.000 tên. Với lực lượng hùng hậu vừa tăng viện, chúng liên tục mở những cuộc hành quân mở rộng phạm vi chiếm đóng. Sáng sớm 30 tháng 10 năm 1945, một lực lượng đông đảo quân Pháp và Anh theo đường bộ chia làm nhiều hướng, có xe cơ giới, xe tăng và hỏa lực mạnh yểm trợ, đồng loạt tấn công cầu Thị Nghè, cầu Sở Thú, cầu Dầu
66 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) (Phú An). Cùng lúc, hải quân địch theo đường sông tấn công hãng dầu rồi đổ bộ lên cầu Sơn, Thanh Đa đánh bọc hậu quân ta. 9 giờ sáng, quân địch tập trung vây chặt ta từ ba mặt. Mặc dù quân dân Thị Nghè - Bà Chiểu siết chặt đội ngũ chống trả quyết liệt, giữ vững trận địa đến chiều, nhưng do tương quan lực lượng quá chênh lệch nên Ban chỉ huy mặt trận Thị Nghè quyết định rút lui để bảo toàn lực lượng. Như vậy, sau hơn một tháng chiến đấu tại mặt trận Thị Nghè - Cầu Bông, các cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ góp phần giam chân địch trong thành phố. Trong hơn một tháng chiến đấu kiên cường đó, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, làm nên nhiều chiến công vang dội, khắc họa những tấm gương tiêu biểu về tinh thần dũng cảm hy sinh, đồng thời cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu cho giai đoạn đấu tranh mới. III. XÂY DỰNG, CỦNG CỐ CƠ SỞ VÀ ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH TRONG LÒNG ĐỊCH Sau khi tái chiếm Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, thực dân Pháp cho thiết lập lại bộ máy hương chức hội tề gồm những phần tử tay sai đắc lực như tên Phú, cò Chương... nhằm siết chặt ách kiểm soát và kìm kẹp nhân dân ta. Bên cạnh đó, quân Pháp vừa ra sức củng cố hệ thống đồn bót, vừa thường xuyên tiến hành các đợt ruồng bố, càn quét, đốt nhà, khủng bố quần chúng... Tình hình trở nên phức tạp, khó khăn, nhiều gia đình phải tản cư đi nơi khác. Trước những âm mưu, thủ đoạn mới của địch, các cơ quan dân - chính - Đảng tỉnh Gia Định và quận Tân Bình (bao gồm 3 xã Phú Nhuận, Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây) rút về đứng chân ở cầu An Phú Đông. Cuối năm 1945, Tỉnh ủy Gia Định nhận được chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng, nhanh chóng quán triệt nhiệm vụ mà chỉ thị nêu ra: “phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong tỏa những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự...; phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ...”. Liền sau đó, Tỉnh ủy đã đề ra bốn chủ trương lớn cho các địa phương trực thuộc: 1- Củng cố tổ chức Đảng, thực hiện đoàn kết thống nhất chống Pháp xâm lược; 2- Lập những căn cứ du kích ngay ngoại ô phụ cận Sài Gòn; 3- Xây dựng binh công xưởng để giải quyết lâu dài vấn đề vũ khí; 4- Bám đất, bám dân thực hiện chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân. Quận ủy Tân Bình nhanh chóng phổ biến chủ trương của Tỉnh ủy đến các địa phương trực thuộc, trong đó có Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây.
67 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Trên địa bàn Thạnh Mỹ Tây, ngoài một số cán bộ đảng viên và du kích rút ra chiến khu An Phú Đông, vẫn còn nhiều đồng chí được phân công ở lại bám đất bám dân, làm công nhân trong các xưởng Orciny, Trường Tiền (Phú An), Ba Son... Các đồng chí Phan Thanh Kiều, Nam, Minh được cử về Thạnh Mỹ Tây gây dựng lại các đoàn thể quần chúng (Thanh niên, Phụ nữ cứu quốc...) và hệ thống giao liên. Đầu năm 1946, Quốc gia tự vệ cuộc quận Tân Bình được thành lập, Ban chỉ huy đóng tại Bình Lợi Trung (Phường 13 hiện nay) và đặt 3 trụ sở trên đất Thạnh Mỹ Tây: trụ sở 2 đóng tại xóm Đình cầu Sơn, trụ sở 3 đóng tại chùa Phước Viên, trụ sở 4 đóng tại xóm Phú An. Nhiệm vụ chung của cả 3 trụ sở là trinh sát vũ trang, diệt tề trừ gian, sẵn sàng phối hợp cùng các lực lượng vũ trang khác chiến đấu diệt địch, không ngừng gây dựng cơ sở trong quần chúng, thu nhặt và lấy vũ khí, vật liệu, vận động đồng bào quyên góp ủng hộ kháng chiến. Ở khu vực Bình Hòa - Bà Chiểu, dựa vào lực lượng nòng cốt là Thanh niên Tiền phong, tổ Quốc gia tự vệ cuộc - dùng một tiệm hớt tóc làm nơi liên lạc bí mật, trung tâm hoạt động là ngã năm Bình Hòa - cũng tích cực đẩy mạnh công tác diệt tề trừ gian, phát triển cơ sở... Riêng tại Bình Quới Tây, trong những tháng đầu năm 1946 đã thành lập tổ sưu tầm vũ khí theo chủ trương của bộ đội An Điền. 9 thành viên trong tổ (do đồng chí Bùi Văn Mới phụ trách) tích cực tìm vớt bom mìn, đạn dược mà trước đây quân Nhật đổ xuống sông Sài Gòn. Thanh niên địa phương hăng hái phối hợp, vừa phân công canh gác địch, vừa tham gia lặn tìm vũ khí và vận chuyển đến nơi cất giấu. Bình quân mỗi đêm ta thu được gần 2 tấn đạn các loại, mang đi cất giấu trong hầm bí mật hoặc thả xuống ao rồi chuyển dần về Phòng Quân giới Nam bộ để chế tạo lại thành đạn, mìn... cung cấp cho lực lượng vũ trang đánh giặc. Bên cạnh đó, Nhân dân Bình Quới Tây còn nhiệt tình và tự nguyện đóng góp các vật dụng bằng đồng, thau của gia đình (lư đồng, mâm thau...) cung cấp cho bộ đội đúc đạn chiến đấu. Tấm lòng hướng về kháng chiến, về Đảng và Bác Hồ của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn thể hiện sâu sắc qua việc tham gia cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 6 tháng 1 năm 1946). Trong vòng vây dày đặc và ách kiểm soát nghiêm ngặt của kẻ thù, đồng bào vẫn tìm mọi cách bày tỏ niềm tin của mình đối với sự nghiệp cách mạng, bằng trách nhiệm công dân lựa chọn người đại biểu xứng đáng bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Không có phòng bỏ phiếu cố định cho mỗi khu dân cư, nhưng nơi nào cũng có cán bộ, chiến sĩ đem thùng phiếu lưu động đến từng ngõ, từng nhà để
68 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đồng bào làm nghĩa vụ công dân, khẳng định ý chí kiên quyết đấu tranh cho độc lập và thống nhất đất nước. Chính nhờ sự chở che đùm bọc và phối hợp hiệu quả của Nhân dân, lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã làm nên nhiều chiến công xuất sắc trong lòng địch. Tổ Quốc gia tự vệ cuộc Bình Hòa đã tổ chức ám sát tên Ngọc - xã trưởng nổi tiếng ác ôn - và tên Lê (được cử làm xã trưởng thay tên Ngọc) ngay trước chợ Bà Chiểu, làm rúng động tinh thần bọn địch... Tên hương cả Nicolai và tên hương quản Tú cũng bị trừng trị đích đáng tại ngã năm Bình Hòa. Trên địa bàn Thạnh Mỹ Tây, nhất là ở khu vực Thị Nghè, một số tên ác ôn và tay sai chỉ điểm đã bị diệt như tên Ba Đô (mật thám Pháp)... Lực lượng Quốc gia tự vệ cuộc Thạnh Mỹ Tây còn ném lựu đạn vào một nhà bạt ở khu Nhà Làng, diệt 3 tên Pháp; một lần khác ném lựu đạn vào bọn địch trong quán nhậu, diệt và làm bị thương một số tên; đặc biệt là tấn công chớp nhoáng vào đồn địch ở ngã tư Thị Nghè, giết chết tên xếp đồn và thiêu hủy toàn bộ hồ sơ giấy tờ(1). Đồng thời, để đối phó với âm mưu bình định của địch và tăng cường công tác gây dựng cơ sở quần chúng, ta đã thực hiện có hiệu quả chủ trương đưa dân tản cư trở về địa phương. Hàng trăm gia đình được tổ chức trở về đất cũ nhà cũ ở Thị Nghè, ở xóm chùa Phước Viên...; cùng lúc đó một số cán bộ đảng viên được cử theo về bám dân hoạt động. Khoảng giữa năm 1946, hội kinh tế và tương tế của xã Thạnh Mỹ Tây được thành lập để củng cố tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong quần chúng. Nhiều quần chúng tích cực là công nhân nhà máy Ba Son, nhân viên Bưu điện và cả nhân viên Ty cảnh sát Gia Định có tinh thần yêu nước chống Pháp đã trở thành mật báo viên, trinh sát viên của Quốc gia tự vệ cuộc Tân Bình. Đông đảo đồng bào, nhất là chị em tiểu thương đã tích cực quyên góp thực phẩm, tài chính, thuốc men ủng hộ cán bộ, chiến sĩ đánh giặc. Ngoài những hoạt động kháng chiến tại địa phương, nhiều cán bộ, đảng viên và chiến sĩ quê Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn lập công xuất sắc trong những trận đánh tại chiến khu An Phú Đông, bẻ gãy nhiều trận càn quét của địch, góp phần xây dựng và bảo vệ căn cứ kháng chiến của tỉnh. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946, tranh thủ thời gian hòa hoãn ngắn ngủi do Tạm ước mang lại, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ đề ra chủ trương “triệt để lợi dụng hình thức công khai tuyên truyền, tích cực củng cố và phát triển các 1. Các hoạt động vũ trang này không xác định được thời gian tiến hành cụ thể. Tài liệu truyền thống lịch sử Phường 19 chỉ cho biết diễn ra trong năm 1946 mà thôi.
69 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đoàn thể cứu quốc, chỉnh đốn các ngành hoạt động trong chính quyền, tích cực đẩy mạnh công tác binh vận, lợi dụng hết khả năng của ngụy binh ra hàng để phối hợp nội công ngoại kích”. Quán triệt chủ trương đó, các tổ chức Đảng, Mặt trận, Công đoàn ở Sài Gòn và Gia Định khẩn trương củng cố thêm một bước hệ thống tổ chức của mình. Ngày 25 tháng 11 năm 1946, các tổ chức công đoàn ở Sài Gòn và các tổ chức công nhân cứu quốc thống nhất lại thành Liên hiệp nghiệp đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1947 vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Phú Nhuận (thuộc tỉnh Gia Định trước đây) được tổ chức thành các hộ(1) gồm Hộ 19 (Thị Nghè, tức Thạnh Mỹ Tây), Hộ 20 (Bình Hòa), Hộ 21 (Phú Nhuận) và Hộ 22 (Bình Lợi Trung) giao về thành phố Sài Gòn quản lý và thành lập khu Tân Bình. Hệ thống tổ chức công đoàn thành phố bao gồm khu Sài Gòn, khu Chợ Lớn và liên khu Tân Bình. Cơ cấu tổ chức này có thể xem như đơn vị hành chính của ta và ở mỗi hộ đều xây dựng một chi bộ Đảng để đơn vị trực tiếp lãnh đạo các hoạt động kháng chiến. Như vậy, sau 15 tháng trực tiếp đối đầu cùng quân xâm lược trong bối cảnh gian khổ khó khăn, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã cùng toàn thể Nhân dân Sài Gòn - Gia Định và Nam Bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mở đầu cuộc kháng chiến, bước đầu làm thất bại kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, tạo thêm thời gian và điều kiện để cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trên quy mô toàn quốc. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lại góp phần đưa cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện bước sang giai đoạn mới với những thành quả mới. 1. Hộ (quartier) là đơn vị hành chính do Pháp đặt. Từ Hộ 1 đến Hộ 13 thuộc nội thành, từ Hộ 14 trở đi thuộc ven đô. Hộ 18 - 19 là do Pháp đặt, riêng những hộ ở Gia Định (19, 20, 21, 22) do chính quyền kháng chiến đặt khi chuyển về Sài Gòn để tiện việc thống nhất chỉ huy. Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn lấy luôn tổ chức đơn vị hành chính này để lãnh đạo cơ sở kháng chiến.
70 Chương ba ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VŨ TRANG, PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN (1-1947 — 8-1950) I. KIỆN TOÀN TỔ CHỨC VÀ LỰC LƯỢNG KHÁNG CHIẾN Sau khi Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” vạch ra những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến theo phương châm toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Trong khi đó, sau hơn một năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp buộc phải chuyển từ chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” sang chiến lược tập trung lực lượng “bình định” Nam Bộ. Chúng dùng mọi thủ đoạn chính trị để lôi kéo, tập hợp các phe phái tôn giáo, đảng phái phản động lập “mặt trận quốc gia” giả hiệu, các “khu quốc gia”, “khu an ninh” nhằm tạo thêm cơ sở xã hội, chia rẽ hàng ngũ kháng chiến. Đồng thời, chúng cho bố trí lại lực lượng, tập trung dày đặc quanh Sài Gòn và vùng ven, phát triển ngụy quân, tăng cường chiến tranh gián điệp, thành lập “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây (trên địa bàn Bình Thạnh hiện nay). Song song với việc mở các cuộc hành quân càn quét vào căn cứ và vùng du kích của ta ở xung quanh thành phố Sài Gòn, địch rải quân canh gác các ngả đường, bố ráp liên tục các xóm lao động nghèo, nhất là các khu cư dân dọc theo kênh rạch, chúng còn cấp phát giấy thông hành mới, buộc Nhân dân lập tờ khai
71 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) gia đình, gài mật vụ vào nhà máy, trường học, công sở để phát hiện, chỉ điểm cơ sở cách mạng, gây không khí khủng bố và căng thẳng khắp nơi... Đầu năm 1947, Thành ủy lâm thời Sài Gòn - Chợ Lớn đã tổ chức một số lớp huấn luyện về đường lối Mặt trận Việt Minh và công tác công nhân vận động cho đội ngũ cán bộ quần chúng cốt cán nhằm tạo điều kiện cho việc xây dựng cơ sở Đảng. Cũng vào thời điểm này, Chi bộ Đảng Hộ 20 (Bình Hòa) được hình thành, gồm các đồng chí Tây (Bí thư), Vũ (Phó Bí thư), Quang (Chi ủy viên) và các đảng viên như: Tư Anh, Tư Thông, Tư Định, Sắc, Lưu, Phan Quân, Tấn, Ba Bích... Vài tháng sau khi Chi bộ Hộ 20 ra đời, Chi bộ Đảng Hộ 19 (Thị Nghè) cũng được thành lập do đồng chí Tư Kiệu, sau đó là đồng chí Năm Thái làm Bí thư. Bên cạnh đó, ở khu vực Hàng Xanh - Thị Nghè, Bình Hòa - Bà Chiểu, còn có một số cán bộ Đảng của Xứ ủy Nam Bộ, Tỉnh ủy Gia Định, Thành ủy lâm thời Sài Gòn - Chợ Lớn phân công về hoạt động, tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Thọ Chân. Tháng 4 năm 1947, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tổ chức tại chiến khu Đồng Tháp Mười nhấn mạnh việc cần phải củng cố lại hệ thống tổ chức Đảng từ Xứ tới cơ sở. Liền sau đó, Hội nghị cán bộ Đảng Sài Gòn - Chợ Lớn được triệu tập tại Vườn Thơm - Bà Vụ đã chỉ rõ: Đảng cần đi sâu vào phong trào quần chúng, kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế với đấu tranh quân sự, kết hợp đấu tranh bí mật với công khai hợp pháp và nửa công khai hợp pháp. Cùng lúc, Tỉnh ủy Gia Định cũng tổ chức hội nghị tại chiến khu An Phú Đông, kiểm điểm rút kinh nghiệm một năm xây dựng, củng cố lực lượng trên toàn tỉnh, khẳng định phải biết kết hợp chặt chẽ giữa cơ sở Đảng, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể quần chúng để đẩy mạnh các hoạt động kháng chiến. Khoảng giữa năm 1947, Phân bộ Việt Minh Thị Nghè và Phân bộ Việt Minh Bà Chiểu được tái lập. Chủ tịch Phân bộ Việt Minh Thị Nghè (Thạnh Mỹ Tây) là đồng chí Phan Văn Kiệt (Bảy Kiệt). Trên địa bàn Thị Nghè - Hàng Xanh, các đoàn thể quần chúng được củng cố (phụ trách Thanh niên Cứu quốc là anh Hoàng Hữu Chí - công nhân Ba Son...). Nhiệm vụ của tổ chức này là tuyên truyền vận động quần chúng, phát triển cơ sở trong lòng địch, hướng dẫn đồng bào đấu tranh chống bắt lính, chống thu thuế, vận động các gia đình nòng cốt đưa con em ra chiến khu tham gia kháng chiến... Chị em phụ nữ Thạnh Mỹ Tây đã thành lập Ban Kinh tài, làm nhiệm vụ đi thu thuế bí mật ở các hiệu buôn lớn tại khu vực Thị Nghè - Hàng Xanh. Tổ chức Nông hội Hộ 19 cũng tập hợp đông đảo hội viên, hăng hái ủng hộ tiền bạc, thuốc men, áo quần... gửi vào chiến khu cho cán bộ, chiến sĩ. Ở khu vực Bà Chiểu - Bình Hòa, Phân bộ Việt Minh tại đây đã vận động được nhiều nhà tư
72 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) sản dân tộc đẩy mạnh hoạt động kinh tài hiệu quả cao, dùng tài chính thu được để mua vũ khí, thuốc men đưa ra vùng căn cứ tiếp tế cho cán bộ hoạt động bí mật tại chỗ. Đặc biệt, ở Thị Nghè còn hình thành hai tổ chức quần chúng hoạt động sôi nổi là Hội Nhà giáo yêu nước và Liên đoàn Công giáo kháng chiến. Hội Nhà giáo yêu nước đã vận động được hàng chục học sinh và con em các gia đình công nhân lao động ra chiến khu chống Pháp, còn Liên đoàn Công giáo kháng chiến tổ chức quyên góp trong giáo dân nhiều lần với số lượng đáng kể thuốc men, tiền bạc... tiếp tế cho cán bộ, chiến sĩ. Cuối năm 1947 để tiện chỉ đạo, giám sát các mặt công tác, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn sắp xếp lại tổ chức, chia địa bàn thành phố thành 4 khu, trong đó Khu IV (khu Tân Bình) bao gồm Hộ 19 (xã Thạnh Mỹ Tây), Hộ 20 (xã Bình Hòa) và Hộ 21 (xã Phú Nhuận) do đồng chí Phạm Văn Chức (Thế) làm Bí thư. Như vậy kể từ thời điểm này, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trực thuộc tỉnh Gia Định về mặt hành chính nhưng về tổ chức Đảng lại trực thuộc Đảng bộ thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Đến tháng 3 năm 1948, khu Tân Bình trong đó có Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây chính thức được Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ giao về Sài Gòn - Chợ Lớn quản lý cả về mặt hành chính. Trong năm 1948 trước những thủ đoạn đánh phá, bình định xảo quyệt và thâm độc của địch, mặt khác do ta có phần sơ hở, thiếu cảnh giác đề phòng để địch chui vào hàng ngũ phá hoại phong trào và cơ sở nên một số đảng viên và cán bộ bị địch bắt. Ở Hộ 19 (Bình Hòa), đồng chí Tây - Bí thư chi bộ lọt vào tay giặc, đồng chí đã nhảy xuống giếng hy sinh; đồng chí Vũ - Phó Bí thư thay thế một thời gian ngắn lại bị địch bắt thủ tiêu. Đồng chí Tư Thông được cấp trên bố trí làm Bí thư Chi bộ Hộ 20 và bổ sung vào Khu ủy Tân Bình (Khu IV). Cũng trong năm 1948, do sự phản bội của tên Lắm và tên Phú, quân Pháp đã tiến hành vây ráp, bắt đồng chí Trần Ngọc Nhàn (Tư Nhàn) - Trưởng công an trụ sở 2 và đồng chí Nguyễn Đình Bách - Chủ tịch Việt Minh vùng Cây Quéo cùng 4 chiến sĩ. Mặc dù bị địch tra tấn dã man nhưng các đồng chí đã kiên cường giữ vững khí tiết người cách mạng, không khai báo cơ sở. Các đồng chí bị địch xử bắn tại cầu Kinh và cầu Sơn trong ngày 26 tháng 9 và đêm 26 tháng 9 năm 1948. Tấm gương hy sinh oanh liệt của các đồng chí đã để lại niềm thương tiếc và sự cảm phục sâu sắc trong Nhân dân. Trước những tổn thất đó, vấn đề củng cố tổ chức Đảng và cơ sở nòng cốt trở nên bức bách. Khu ủy Tân Bình đã kịp thời bổ sung cán bộ để củng cố Chi bộ Hộ
73 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) 19 và Chi bộ Hộ 20. Ở khu vực Thị Nghè, đội công tác Thành và đội công tác vũ trang do đồng chí Trần Hải Phụng và đồng chí Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) phụ trách đã có những đóng góp quan trọng trong việc củng cố, khôi phục phong trào kháng chiến của Nhân dân Hộ 19 và Hộ 20, do vậy vẫn còn các đảng viên bám trụ như đồng chí Tấn (được Khu ủy Tân Bình cử về), đồng chí Tư Phương, đồng chí Đỗ Thị Hữu Bích (Ba Bích)... Tháng 2 năm 1949, Hội nghị Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho) đã quyết định giải thể cấp khu để thành lập cấp quận. Theo đó, Sài Gòn - Chợ Lớn được chia thành 6 quận, Khu IV (khu Tân Bình) trước đây đổi thành Quận 5, trong đó có Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) và Hộ 20 (Bình Hòa). Hội nghị cũng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống Đảng từ thành phố xuống các hộ, mỗi hộ đều có Hộ ủy và trong các xí nghiệp lớn phải hình thành chi bộ Đảng. Quán triệt nội dung hội nghị Thành ủy, Hộ 19 và Hộ 20 thuộc Quận 5 tập trung củng cố tổ chức. Đến những tháng cuối năm 1949, cả hai hộ đều thành lập Hộ ủy. Ở Thạnh Mỹ Tây (Hộ 19), tại khu vực xóm chùa Linh Phước, tổ hạt nhân gồm 3 cán bộ do đồng chí Nguyễn Văn Phúc phụ trách kiên trì bám trụ gây dựng cơ sở và vận động quần chúng. Ở Bình Hòa - Bà Chiểu, Hộ ủy 20 xây dựng được nhiều cơ sở Đảng: hãng cưa cầu Bông có 1 chi bộ, hãng Võ Hồng Nho có 1 chi bộ cùng các chi bộ thợ may, chi bộ vùng Cây Quéo, chi bộ xóm Vườn Cau (sau nhà thờ Bà Chiểu), chi bộ vùng Lăng Ông... Như vậy, trong những năm từ 1947 đến tháng 8 năm 1950, trải qua nhiều thay đổi về tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền, đồng thời phải chịu không ít tổn thất về lực lượng nhưng đội ngũ cán bộ đảng viên Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) và Hộ 20 (Bình Hòa) vẫn luôn kiên cường bám dân, bám địa bàn, nỗ lực khôi phục và củng cố tổ chức, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, hướng dẫn đồng bào kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế với đấu tranh vũ trang, lãnh đạo các hoạt động kháng chiến của địa phương liên tục diễn ra bền bỉ, sôi nổi ngay cả những thời điểm gian truân nhất. II. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN SÔI NỔI VÀ MẠNH MẼ Từ đầu năm 1947, trước những thủ đoạn tăng cường kiểm soát, bố ráp của địch nhằm tập trung thực hiện kế hoạch bình định, các tổ chức Đảng trên địa bàn Bình Hòa (Chi bộ Hộ 20) và Thạnh Mỹ Tây (Chi bộ Hộ 19) đã quán triệt chủ trương của Tỉnh ủy Gia Định và Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn về việc kết hợp
74 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) các khả năng và phương thức đấu tranh, thường xuyên phát động nhiều đợt đấu tranh chính trị, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Mở đầu phong trào đấu tranh chính trị giai đoạn này là hoạt động của các đảng viên bám trụ địa bàn cùng một số cơ sở nòng cốt, bí mật rải truyền đơn ở các chợ, các khu dân cư, tuyên truyền Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, động viên đồng bào tham gia ủng hộ kháng chiến. Bằng nhiều cách thức sáng tạo, mưu trí (có lúc buộc truyền đơn vào cổ chân chim rồi thả từng đàn, lúc vẽ khẩu hiệu chống Pháp và bọn tay sai thả theo bè trôi theo sông rạch, lúc lại thả diều buộc theo xâu truyền đơn rồi cho đốt nhang cháy chậm làm dây đứt, truyền đơn rơi xuống như bươm bướm...), ta đã kịp thời phổ biến chủ trương của Đảng đến quần chúng lao động, hướng dẫn mục tiêu và phương thức đấu tranh phù hợp trong từng thời điểm. Những năm tháng đầu năm 1947, hình thức đấu tranh phổ biến nhất ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là những cuộc tập hợp lực lượng quần chúng chủ yếu là chị em phụ nữ đưa kiến nghị đòi giảm thuế chợ, chống bắt lính... Những biểu ngữ và khẩu hiệu lớn nhiều lần xuất hiện ở ngã ba Hàng Xanh và Cầu Mới (Bà Chiểu) đòi quyền lợi dân sinh, đòi cải thiện đời sống... Ngày 22 tháng 5 năm 1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ ra Chỉ thị 4-NV kêu gọi “mỗi công dân nước Việt Nam không phân biệt đảng phái tôn giáo đều có nhiệm vụ trực tiếp tham gia đấu tranh, hoặc ở tiền tuyến hoặc ở hậu phương và tuyệt đối không được hợp tác với giặc hoặc với chính phủ bù nhìn phản quốc”. Kế đó, ngày 21 tháng 6 năm 1947, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ lại ra Chỉ thị 404-TV giải thích và nhấn mạnh thêm nội dung Chỉ thị số 4-NV, cụ thể là: về mặt chính trị, phải “gây phong trào mãnh liệt bất hợp tác với giặc của tất cả công dân Việt Nam yêu nước”, về kinh tế, phải “làm tê liệt cơ sở kinh tế của giặc ngay trong vùng chúng kiểm soát, phá tan hay làm gián đoạn các đầu mối giao thông của địch để các sự tiếp tế của địch phải bị trở ngại”. Hưởng ứng chủ trương trên, Hội Nhà giáo yêu nước Thị Nghè (do ông Lê Hữu Nhơn làm hội trưởng) tích cực vận động nhiều nhân sĩ trí thức, giáo chức công nhân lành nghề rời thành phố ra vùng căn cứ góp sức xây dựng các cơ sở kinh tế - văn hóa - quốc phòng cho sự nghiệp kháng chiến. Đồng thời ở nhiều công xưởng, xí nghiệp - tiêu biểu là ở xưởng Orciny (Thị Nghè) anh em công nhân hăng hái hưởng ứng chủ trương phá hoại kinh tế địch và tìm mọi cách thu nhặt, quyên góp nguyên vật liệu gửi ra chiến khu. Hoạt động phá hoại kinh tế này chưa thật sự rầm rộ nên hiệu quả còn khiêm tốn, nhưng cũng đã góp phần làm giảm công suất
75 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hoạt động của các nhà máy do địch kiểm soát, cung ứng được một số nhu cầu thiết yếu của ta ở vùng căn cứ. Kỷ niệm hai năm ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong những ngày cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1947, nhiều truyền đơn, áp phích được các cơ sở nòng cốt rải khắp vùng Bình Hòa - Bà Chiểu. Ở khu vực Thị Nghè, các đường hẻm thường xuất hiện biểu ngữ, truyền đơn ca ngợi Cách mạng tháng Tám như: “Tinh thần Cách mạng tháng Tám muôn năm!”, “Ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh”... Bên cạnh đó là những khẩu hiệu động viên tinh thần kháng chiến chống Pháp như: “Đả đảo bọn thực dân Pháp xâm lược!”, “Không đi lính, đi phu cho Pháp! ”, “Không tiếp tế cho giặc Pháp!”, “Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện nhất định thắng lợi!”. Ảnh của Hồ Chủ tịch được dán nhiều nơi trên địa bàn Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây. Đặc biệt, Chi bộ Hộ 19 và Phân bộ Việt Minh Thị Nghè đã tổ chức đưa hàng trăm quần chúng từ nội thành ra chiến khu B (Phước Long thôn) và chiến khu An Phú Đông tham dự mít tinh mừng Quốc khánh 2 tháng 9. Hàng chục thanh niên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cũng nô nức hưởng ứng phong trào tòng quân chiến đấu, đình Cầu Sơn chính là nơi bí mật đưa đón thanh niên thoát ly gia đình ra vùng căn cứ. Cuối năm 1947, Xứ ủy Nam Bộ họp đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới trong năm 1948. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống bắt lính và tăng cường công tác địch vận, tiếp tục đánh phá giao thông của địch. Liền sau đó, nghị quyết hội nghị Xứ ủy được phổ biến xuống các cấp bộ Đảng ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia Định. Là địa bàn trực thuộc tỉnh Gia Định về mặt hành chính nhưng lại được Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn trực tiếp lãnh đạo, nên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vừa thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh kinh tế, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, không cho địch biến Sài Gòn thành trung tâm dự trữ chiến lược; vừa góp phần bảo vệ lực lượng của ta ở vùng căn cứ thuộc tỉnh Gia Định. Với sự phát triển vững chắc của các đoàn thể quần chúng và cơ sở nòng cốt, lợi dụng các hình thức hợp pháp, phong trào đấu tranh chính trị chống ách kìm kẹp của địch tiếp tục diễn ra ở Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây. Những tháng đầu năm 1948 nổi lên phong trào đấu tranh của công nhân nhà máy, xí nghiệp với hình thức bãi công, lãn công đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi tự do nghiệp đoàn... Cùng lúc đó, đồng bào lao động cũng tích cực tham gia các cuộc đấu tranh đòi giảm thuế ở các chợ Bà Chiểu, Cây Thị, Thị Nghè..., chống đuổi nhà cướp đất ở các khu nhà lá của dân nghèo. Một hoạt động nổi bật khác là các cơ sở quần chúng ở khu vực Phú An - Thị Nghè đã tích cực giúp đỡ một số người tù bị Pháp bắt làm lao động khổ sai tại xưởng Orciny, tổ chức cho họ trốn khỏi xưởng, đi
76 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) ra vùng căn cứ. Mặt khác, trong công tác địch ngụy vận, các cơ sở của ta chú trọng vận động các gia đình binh sĩ, thuyết phục họ giáo dục, giác ngộ con em đứng về phía Nhân dân, ủng hộ kháng chiến. Một số gia đình binh sĩ và anh em binh lính đã trở thành cơ sở nội tuyến của ta trong hàng ngũ địch, thậm chí ta còn tranh thủ được một vài sĩ quan Pháp - trong đó có một viên đại úy Pháp (ở khu vực Thị Nghè) lái xe chở vũ khí ra chiến khu cho ta. Các cơ sở khác lại tìm cách “chạy” giấy tờ tùy thân, bằng lái xe cho cán bộ ta để tạo thế hoạt động hợp pháp, thuận tiện trong việc vận chuyển tài liệu, liên lạc với tổ chức giữa vùng tạm chiến và vùng căn cứ. Tuy nhiên, từ giữa năm 1948, do địch tiến hành khủng bố, đánh phá ác liệt cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng nên phong trào đấu tranh chính trị và công tác binh vận trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đều lắng xuống. Trước tình hình đó, bộ phận tuyên truyền xung phong đẩy mạnh hoạt động ở khu vực Bà Chiểu, củng cố niềm tin trong đồng bào. Đến cuối năm 1948, cùng với sự khôi phục của phong trào công nhân toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, những cuộc đấu tranh của công nhân các hãng xưởng vùng Thị Nghè - Phú An, Bình Hòa đòi tăng lương, giảm giờ làm... lại diễn ra khá thường xuyên, được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân lao động. Bước sang năm 1949, trên cơ sở quán triệt chủ trương của Hội nghị cán bộ Trung ương (tháng 1 năm 1949), hội nghị Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn họp tại Thiên Hộ (Mỹ Tho) vào tháng 2 năm 1949 đã nhận định: “các tổ chức công đoàn còn nặng về đấu tranh chính trị, chưa chú trọng đúng mức đến quyền lợi của công nhân..., cần củng cố lại các công tác hoạt động bí mật, tiếp tục bao vây phá hoại kinh tế địch, phá rối trật tự trong lòng địch”... Ngay sau đó, việc củng cố và phát triển cơ sở Đảng, cơ sở nòng cốt trong công nhân trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã có những bước tiến, nhất là tại các hãng xưởng như hãng cưa cầu Bông, hãng Võ Hồng Nho, xưởng Orciny... Dưới sự lãnh đạo của Quận ủy Quận 5, tháng 4 năm 1949, đội ngũ công nhân và quần chúng lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tham gia phong trào đấu tranh tẩy chay chính phủ bù nhìn Bảo Đại do Pháp chuẩn bị thành lập bằng cách treo áp phích, tranh đả kích, rải truyền đơn... chống Bảo Đại. Ở khu vực chợ Bà Chiểu, hẻm Cây Điệp..., đội tuyên truyền xung phong Hộ 20 đi vào các ngõ xóm lao động diễn thuyết vạch mặt chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn hưởng ứng cuộc bãi công, bãi thị ngày 25 tháng 4 năm 1949 làm cho đường phố Sài Gòn không có người đi lại, chợ không họp, xe không chạy, nhiều hãng xưởng tê liệt hoạt động..., khiến bọn Pháp và tay sai hết sức hốt hoảng.
77 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Chị em phụ nữ tiểu thương ở các chợ hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của bạn hàng đòi giảm tiền chỗ, giảm thuế môn bài. Từ giữa năm 1949, sau chiến dịch chống chính phủ bù nhìn Bảo Đại, khi phong trào của công nhân và các giới lao động tạm thời lắng xuống thì phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh Sài Gòn lại nổi lên đòi cải cách giáo dục, sửa đổi chế độ thi cử. Những cuộc bãi khóa từ các trường Pétrus Ký, Gia Long... đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến học sinh Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa. Nhằm hỗ trợ cho phong trào bãi khóa của học sinh, liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn quyết định tổ chức cuộc đình công quy mô lớn vào cuối năm 1949. Nhiều anh em công nhân các hãng xưởng ở Thị Nghè, Bà Chiểu... đã hăng hái hưởng ứng cuộc đấu tranh này. Từ thực tiễn sôi động của phong trào học sinh và phong trào công nhân cuối năm 1949, Hội nghị mở rộng Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn họp tại Long Phước (Thủ Đức) vào tháng 11 năm 1949 đã đề ra chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động công khai hợp pháp và nửa hợp pháp, tranh thủ mọi khả năng công khai để tạo nên một phong trào có sự kết hợp chặt chẽ giữa công nhân với học sinh, giữa chính trị với vũ trang diệt ác, dựa vào các tổ chức biến tướng để đưa phong trào ra công khai rầm rộ. Chủ trương đúng đắn này đã tạo nên bước nhảy vọt của phong trào đấu tranh chính trị toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn vào cuối năm 1949 đầu năm 1950, trong đó có địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Những ngày cuối năm 1949, để trấn áp phong trào đấu tranh của học sinh thành phố, chính phủ bù nhìn Trần Văn Hữu ra lệnh đóng cửa trường học và bắt giam một số học sinh yêu nước. Ngày 03 tháng 01 năm 1950, học sinh các trường trung học ở Thị Nghè, Bà Chiểu cùng đông đảo học sinh Sài Gòn xuống đường tổng bãi khóa rồi tập trung biểu tình ngồi không thời hạn trước Tòa Đô chánh, đưa yêu sách đòi thả những học sinh bị bắt và mở cửa tức khắc các trường học. Trước khí thế mạnh mẽ đó, địch tìm cách hoãn binh, hứa sẽ thực hiện các yêu sách nói trên nhưng rồi lại lật lọng không chịu thi hành. Do vậy, ngày 09 tháng 01 năm 1950, hơn 2.000 học sinh các trường trung học ở Sài Gòn, có cả đại biểu phụ huynh học sinh và thầy giáo tham gia, đã kéo đến Nha học chính rồi tiếp tục đến dinh Thủ hiến Nam phần đòi mở cửa trường, thả học sinh bị bắt, bảo đảm an ninh cho học sinh... 3 giờ chiều cùng ngày, thực dân Pháp và bọn tay sai huy động cảnh sát và binh lính đàn áp tàn bạo, bắn bị thương nặng 30 học sinh, bắt giam 150 học sinh khác, trong số đó, học sinh Trần Văn Ơn bị thương nặng đã chết tại bệnh viện Chợ Rẫy. Hành động khủng bố dã man của địch gây phẫn nộ và xúc động sâu sắc đối với Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, nên ba ngày sau (12 tháng 01 năm 1950) hàng
78 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) ngàn học sinh và đồng bào Thị Nghè - Bà Chiểu đã có mặt trong hàng ngũ nửa triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và các tỉnh lân cận xuống đường tham dự đám tang Trần Văn Ơn. Đây là cuộc tuần hành lớn nhất kể từ khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. “Hầu hết công nhân đều nghỉ việc, công chức cũng không đi làm, các tiệm may, tiệm hớt tóc, các quán rượu đều đóng cửa tới xế chiều, các rạp hát, các chợ đều đóng cửa, anh em xích lô, xe ngựa, xe tải, ô tô buýt đều hy sinh một ngày để biểu dương lực lượng ”... Đoạn tường thuật trên đây của báo Sài Gòn Mới (ngày 14 tháng 1 năm 1950) đã phản ánh rõ nét không khí đấu tranh của mọi tầng lớp đồng bào thành phố, trong đó có học sinh và quần chúng lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Sau đám tang Trần Văn Ơn, phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục diễn ra sôi nổi. Để phát huy khí thế quần chúng, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chống can thiệp Mỹ khi chúng vừa đưa tàu chiến cập bến cảng Sài Gòn vừa cho máy bay thao diễn trên không phận Việt Nam. Ngày 19 tháng 3 năm 1950, đông đảo Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lại có mặt trong cuộc xuống đường rầm rộ của hơn 30 vạn đồng bào thành phố hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ!”, “Đế quốc Mỹ cút đi!”, “Đả đảo đế quốc Pháp và bù nhìn tay sai!”, “Phản đối Mỹ viện trợ cho Pháp kéo dài chiến tranh ở Đông Dương!”, góp phần tạo nên Ngày Toàn quốc chống Mỹ trong lịch sử, làm địch hết sức bàng hoàng, khiếp sợ. Tuy nhiên, do ta bộc lộ phần lớn lực lượng bí mật trong những cuộc đấu tranh quy mô lớn đầu năm 1950 nên địch đã đánh phá ác liệt, nhiều cán bộ lãnh đạo phong trào đấu tranh chính trị bị địch bắt hay phải chuyển đi nơi khác hoạt động. Dù vậy, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn nổ ra một số cuộc đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, phản đối thực dân Pháp và tay sai bắt giữ luật sư Nguyễn Hữu Thọ, đòi tăng lương, chống sa thải công nhân, đòi giải quyết các yêu sách của học sinh... Đặc biệt, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 và 60 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19 tháng 5 năm 1890 - 19 tháng 5 năm 1950), Hộ ủy các Hộ 19 và 20 đã lãnh đạo cơ sở bí mật treo cờ, rải truyền đơn... ở một số chợ và khu dân cư, thiết thực chào mừng các ngày lễ lớn, củng cố thêm niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Như vậy, trải qua gần 4 năm tiến hành đấu tranh chính trị trong vùng địch kiểm soát, các tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng và đông đảo Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần tạo nên khí thế cách mạng mạnh mẽ, sôi động của toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và tỉnh Gia định chống lại các âm mưu,
79 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) thủ đoạn bình định, đàn áp của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ và chính quyền bù nhìn tay sai. Phối hợp chặt chẽ và hiệu quả cùng những hoạt động vũ trang diễn ra trên địa bàn, phong trào đấu tranh chính trị đã thực sự gây cho địch những khó khăn, thiệt hại đáng kể. III. TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG VŨ TRANG TRỪ GIAN DIỆT TỀ, HỖ TRỢ HIỆU QUẢ PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG Song song với việc phát động, tổ chức phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, quán triệt chủ trương của Xứ ủy Nam Bộ và Khu bộ Khu 7, từ đầu năm 1947, Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn cũng như Tỉnh ủy Gia Định đều đề ra nhiệm vụ tăng cường hoạt động vũ trang, trừ gian diệt tề, phá thế kìm kẹp và kế hoạch tập trung bình định của địch. Các đơn vị vũ trang (ban công tác Thành, tự vệ Thành, công an xung phong) được củng cố và thay đổi tổ chức nhằm đẩy mạnh hơn hoạt động quân sự ở nội thành với nhiều phương thức đa dạng: vũ trang tuyên truyền, tác chiến diệt địch hỗ trợ phong trào quần chúng... Ở Bình Hòa (Hộ 20), một số địa điểm đã trở thành nơi hội họp, in ấn tài liệu, che giấu cán bộ, đồng thời là nơi ém quân đánh địch như Sở Nông lâm ở Cây Quéo, khu vực chùa Quản Tám, Đồng Ông Cộ, xóm Vườn Cau, trại cưa cầu Bông... Nhất là tại Đồng Ông Cộ, bộ đội và dân quân Hộ 20 tập trung hoạt động, lợi dụng địa hình hiểm trở với dừa nước, lau sậy, ô rô mọc um tùm, lại có lối thoát ra kênh rạch khá an toàn... Ở khu vực Thị Nghè, lực lượng Công an khu Tân Bình được sự chở che, đùm bọc và cung cấp tin tức của quần chúng đã thường xuyên tiến hành các cuộc đột kích diệt tề trừ gian... Khoảng giữa năm 1947, ta tổ chức phục kích bắn chết một toán lính thủy Pháp khi chúng đi chơi ngang khu Hàng Chén, ám sát một tên lính Pháp gác thủy xưởng miền Đông... Kế đó, lực lượng công an tại trụ sở 2 Cầu Sơn phối hợp cùng lực lượng công tác Thành tấn công bót cảnh sát Thị Nghè tại ngã ba Nhà Làng, diệt một số tên địch, thu 11 súng trong đó có 2 súng máy FM. Một số tên ác ôn có nợ máu với Nhân dân ở khu vực Thị Nghè cũng bị lực lượng công tác Thành và đội trinh sát vũ trang trừng trị đích đáng như các tên Hiếu, Lượm, Lắm, Phú,... làm bọn mật thám và chỉ điểm phải co vòi, hoạt động dè chừng. Tháng 10 năm 1947, quân Pháp tổ chức một cuộc càn quét lớn ở khu vực Phú An - Thị Nghè với mục đích đánh bật các lực lượng vũ trang và phá vỡ cơ sở quần chúng nòng cốt nhằm “lên dây cót” tinh thần cho bọn lính và tề xã đang hoang mang lo sợ. Địch cho bộ binh và thủy binh bao vây gần trọn địa bàn xã Thạnh Mỹ Tây (chúng gọi cuộc bố ráp này là “bố ráp chữ O”), gom dân ra khu đất Jean
80 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Compte (nay thuộc địa phận Phường 21) rồi cho bọn tay sai chỉ điểm trùm bao bố che mặt phát hiện cán bộ, đảng viên, cơ sở nòng cốt. Nhưng ý đồ của địch đã thất bại thảm hại vì các cán bộ, đảng viên bám trụ hoạt động đã được đồng bào che chở, báo tin kịp thời để rút đi nơi khác. Cuối năm 1947 nhiều hoạt động vũ trang liên tục diễn ra trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. 10 giờ đêm ngày 04 tháng 12 năm 1947, lực lượng vũ trang các chi đội 4, 6, 15, tiểu đoàn Ký Con cùng 10 đại đội du kích Thành (tức các ban công tác Thành trước đây) đồng loạt tấn công nhiều mục tiêu khắp nội và ngoại thành, trong đó có các đồn bót và trụ sở chính quyền địch ở Thị Nghè, Bà Chiểu. Tiếng súng tấn công của ta kéo dài cho đến rạng sáng ngày 05 tháng 12 năm 1947 mới kết thúc. Bọn địch đang làm nhiệm vụ canh gác, tuần tra ở khu Thị Nghè, Bà Chiểu thực sự rúng động trước đòn tấn công quyết liệt này. Ngày 10 tháng 12 năm 1947, lực lượng vũ trang Chi đội 1 thực hiện cuộc tấn công bằng phương thức “nội công ngoại kích” tiêu diệt “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây do địch lập ra để tập hợp một số đơn vị ngụy quân và những người kháng chiến ra đầu hàng giặc, định dùng địa điểm này (nay thuộc Phường 28) làm nơi lôi kéo, chiêu hàng cán bộ, chiến sĩ ta. Để phá tan ý đồ thâm độc đó, từ tháng năm 1947, ta tương kế tựu kế cài người vào “chiến khu” Bình Quới Tây (quân số lên đến một đại đội). 2 giờ chiều ngày 10 tháng 12 năm 1947, nhân lúc tổ chức đá banh làm địch không phòng bị, lực lượng ta bất ngờ nổ súng bắn chết 5 sĩ quan chỉ huy và tham mưu tiểu đoàn địch ngay tại sở chỉ huy của chúng, đồng thời nhanh chóng cướp súng, tiêu diệt bọn lính kháng cự và kêu gọi bọn sống sót đầu hàng, thu toàn bộ vũ khí, tài liệu, quân trang quân dụng, sau đó vượt sông Sài Gòn rút về căn cứ Thuận An Hòa an toàn. Sự kiện “chiến khu quốc gia” Bình Quới Tây bị xóa sổ làm nức lòng đồng bào Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa và nhiều địa phương lân cận. Cũng trong những ngày cuối năm 1947, lực lượng vũ trang ta đã hóa trang làm lính lê dương đột nhập bót Bà Chiểu, cướp súng địch và rút lui an toàn. Đồng thời, một đại đội gồm 12 chiến sĩ du kích Thành đã tổ chức tấn công bót Cánh Gà (Bình Hòa), bắt một tên Việt gian chống phá cách mạng, đưa sang chùa Bà Đầm (Phú Nhuận) xử tử trước đông đảo quần chúng. Từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 12 năm 1947 hội nghị Xứ ủy Nam Bộ đề ra nhiệm vụ quân sự cho các địa phương: ra sức xây dựng lực lượng dân quân du kích rộng khắp, nhất là ở vùng tạm bị chiếm, tiếp tục đánh phá giao thông của địch, tổ
81 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chức xây dựng bộ đội chủ lực phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh, bẻ gãy các cuộc càn quét, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch. Chủ trương này được Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định quán triệt và cụ thể hóa bằng nhiều hoạt động vũ trang cũng như bằng việc củng cố, phát triển lực lượng quân sự tại chỗ. Mở đầu những chiến công quân sự trong năm 1948 trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là trận đột kích bót Thị Nghè đúng ngày Tết Dương lịch (ngày 1 tháng 1 năm 1948). Do làm tốt công tác địch vận nên anh em binh lính tại đây đã phối hợp chặt chẽ, làm nội ứng cho lực lượng vũ trang ta tịch thu nhiều súng đạn và quân trang, quân dụng của địch. Cuối tháng 3 năm 1948, Thành đội Sài Gòn - Chợ Lớn triệu tập hội nghị quân sự Thành nhằm quán triệt chương trình hoạt động quân sự ở Sài Gòn - Chợ Lớn trong tình hình mới. Các đại đội du kích Thành được đổi trở lại thành ban công tác Thành, đẩy mạnh tác chiến trong lòng địch, hỗ trợ phong trào chính trị và binh vận. Liền sau đó, vào đêm 30 tháng 4 năm 1948, lực lượng vũ trang Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây phối hợp cùng một trung đội thuộc Tiểu đoàn 306 đánh chiếm bót chợ Bà Chiểu, diệt một số tên địch, thu nhiều vũ khí. Tháng 10 năm 1948 hai chiếc xe quân sự của Pháp trên đường từ cầu Kinh về Hàng Xanh đã lọt vào trận địa phục kích của lực lượng vũ trang ta và bị tiêu diệt gọn. Cuối năm 1948, lực lượng Công an khu Tân Bình (Khu IV) phối hợp cùng một số bộ phận thuộc Trung đoàn 306 đánh bót canh gác của bọn lính tập tại chợ Bà Chiểu, diệt 10 tên địch, thu 30 súng các loại. Sau trận đánh này, lực lượng công an còn diễu hành thị uy rồi rút an toàn về vùng căn cứ. Tháng 12 năm 1948, chiến trường Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định được tổ chức lại dưới sự chỉ đạo thống nhất của Bộ Tư lệnh Khu. Lực lượng vũ trang nội thành cũng được chấn chỉnh tổ chức, 10 ban công tác gom lại thành 5 ban, mỗi ban có bộ phận chiến đấu tại chỗ trong nội thành, được phân công phụ trách từng khu vực cụ thể. Đầu năm 1949, Hội nghị quân sự mở rộng Nam Bộ đề ra nhiệm vụ “ra sức phát triển phong trào dân quân, phát triển du kích chiến tranh ở vùng đô thị và vùng tạm chiếm, nhất là Sài Gòn - Chợ Lớn, tiến tới đánh phá chính sách ngụy quân ngụy quyền, đánh phục kích giao thông, tiêu hao tiêu diệt nhiều sinh lực địch”. Trong nội thành Sài Gòn và vùng tiếp giáp với tỉnh Gia Định như Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, các ban công tác thường xuyên tiến hành các đợt tuyên truyền xung
82 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) phong, tuần hành thị uy, rải truyền đơn, biểu ngữ, thông báo, hiệu triệu..., đặc biệt là tổ chức nhiều trận tập kích, phục kích, phá thế kìm kẹp của địch, thúc đẩy phong trào quần chúng tiến lên. Đêm 22 tháng 6 năm 1949, lực lượng vũ trang ta tổ chức đánh cầu Sắt bằng chất nổ hẹn giờ. Cầu Sắt sập, gây tiếng vang rất lớn không chỉ ở Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều vùng lân cận. Bọn địch hết sức hoảng hốt trước đòn tấn công bất ngờ này. Đến tháng 8 năm 1949, một tiểu đội vũ trang ta đặt mìn tại cầu Sơn nhằm phục kích tiểu đội hải quân Pháp thường tuần tra canh gác nơi đây. Kết quả, cả tiểu đội quân địch bị tiêu diệt gọn, ta thu được 1 đại liên, 4 tiểu liên và 2 khẩu colt. Cũng trong khoảng nửa cuối năm 1949, những vụ diệt tề trừ gian, đánh xe quân sự địch, rải truyền đơn ngay tại cổng bót Thị Nghè và trong khu vực nhà làng Thạnh Mỹ Tây diễn ra liên tục. Ở Bà Chiểu, tên Năm Nọn - một ác ôn khét tiếng thường dẫn quân đi càn quét lùng sục, đã phải đền tội phản dân hại nước, làm cho bọn địch ở bót Hàng Thị (Bà Chiểu) khiếp sợ, không dám hung hăng sục sạo nữa. Tháng 10 năm 1949, Biệt động đội 2766 được thành lập, tập trung các chiến sĩ từ đội trinh sát của Tiểu đoàn 917 ở nội thành, do đồng chí Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) - từng đứng chân hoạt động ở Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa làm Chỉ huy trưởng. Biệt động đội 2766 gồm bốn trung đội, trong đó Trung đội 120 do đồng chí Quang (Hồng Kỳ) và đồng chí Tư Thạnh chỉ huy, được phân công hoạt động ở vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Đa Kao. Nhiệm vụ của đơn vị chủ yếu tập trung vào việc diệt tề trừ gian và xây dựng cơ sở chính trị - vũ trang tại địa bàn phụ trách. Một số lõm chính trị - vũ trang liên hoàn trong từng cụm gia đình của đồng bào lao động đã từng bước hình thành. Những chiến sĩ của Trung đội 120 thường xuyên bám trụ địa bàn với sự che chở, đùm bọc của đồng bào ở vùng Thanh Đa, Ụ Tàu, xóm sân banh Denis Frères, chùa Sư Ngọ ở Thị Nghè (chùa Linh Phước), vùng Đồng Ông Cộ, Lò Heo cũ Bà Chiểu... Từ chiều tối đến suốt đêm, lực lượng ta có thể đi lại đánh du kích xuyên suốt từ khu vực An Phú (Thủ Đức) qua ngã ba Hàng Xanh đến tận Phú Nhuận. Ngoài ra, Trung đội 105 hoạt động ở khu vực Thủ Đức cũng phối hợp đánh địch một số trận trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, tiêu biểu là trận tập kích bọn lính Pháp, diệt 5 tên ở ngã ba Trường vẽ và đường Nguyễn Văn Học (trước trường Đại học Mỹ thuật hiện nay) vào cuối tháng 10 năm 1949.
83 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Riêng Trung đội 120 thường xuyên tổ chức các trận tập kích bằng lựu đạn vào các trạm gác của địch ở cầu Bông, cầu Bình Lợi... cùng các cuộc tuyên truyền vũ trang tại một số rạp hát và các khu dân cư như khu Lò Heo, Đồng Ông Cộ, bến tắm ngựa Tân Định... Ngày 10 tháng 11 năm 1949, Trung đội 120 phối hợp cùng Trung đội 105 và Trung đội 115 tập kích bót cảnh sát và nhà làng Thạnh Mỹ Tây, diệt bọn cảnh sát, thiêu hủy nhiều giấy tờ, tài liệu của bọn tề xã. Ngày 3 tháng 12 năm 1949, tại gara ở dốc cầu Bông, Bà Chiểu, hai chiến sĩ của Trung đội 120 trừng trị tên Bùi Văn Dó (Sáu Bảnh) - chủ khai thác núi đá Biên Hòa, chuyên cung cấp đá cho Pháp làm con đường xuyên qua căn cứ kháng chiến Thuận An Hòa, làm thất bại kế hoạch làm đường tấn công chiến khu mà địch ráo riết tiến hành. Bước sang năm 1950, do địch tăng cường viện binh từ Pháp sang và phát triển thêm ngụy quân tại chỗ, đồng thời cho thiết lập hệ thống tháp canh dày đặc nên các hoạt động vũ trang của ta có phần khó khăn hơn. Nhưng ngay từ tháng 1 năm 1950, Tiểu đoàn Quyết tử 950 của khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã tổ chức nhiều trận đánh địch và phá hoại kinh tế, vũ trang tuyên truyền, trong đó có trận đánh tại ngã tư Bình Hòa, diệt một số tên địch. Từ tháng 3 năm 1950, với sự hà hơi tiếp sức của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp đẩy mạnh công cuộc bình định, xây dựng thêm hàng loạt tháp canh, đồn bót nhỏ tạo thành một hệ thống cứ điểm dày đặc vừa bảo vệ địa bàn, đường giao thông, hình thành thế bao vây chia cắt và ngăn chặn hoạt động của ta, vừa làm chỗ dựa cho bọn tề ngụy địa phương, làm nơi xuất phát các cuộc càn quét nhỏ, đánh phá, cướp bóc, bắt lính... Mặt khác, chúng tăng cường lực lượng cảnh sát, công an, tăng cường kiểm tra khám xét, khống chế nhân dân, tạo vành đai an ninh bảo vệ khu trung tâm đầu não Sài Gòn. Trước tình hình đó, Hội nghị quân sự Xứ ủy Nam Bộ tháng 4 năm 1950 quyết định tổ chức lại chiến trường và lực lượng, tạo ra những điều kiện cơ bản đưa cuộc kháng chiến phát triển cao hơn. Chấp hành nghị quyết của Xứ ủy, tháng 8 năm 1950, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện vùng ven thuộc tỉnh Gia Định. Lực lượng vũ trang Đặc khu bao gồm toàn bộ hệ thống dân quân và du kích tại chỗ cùng Tiểu đoàn Quyết tử 950 và các biệt động đội, trong đó có Trung đội 120 (thuộc Biệt động đội 2766) hoạt động trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Ngày 21 tháng 8 năm 1950, Hội nghị chính thức thành lập Đặc khu ủy được tổ chức. Ngay sau đó, Biệt động đội 2766 chuyển sang trực thuộc Ban Chỉ huy quân sự Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn rồi chính thức trở thành một đơn vị quân đội nội thành mang phiên hiệu Ban Quân sự Quận 5, hoạt động
84 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) ở vùng Thị Nghè, Bà Chiểu, Đa Kao, Phú Nhuận. Các trung đội cũng chuyển sang phụ trách quân sự các hộ, Hộ 19 Thị Nghè do đồng chí Tám Giàu chỉ huy và Hộ 20 Bà Chiểu do đồng chí Vinh phụ trách. Như vậy, việc thành lập Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn đã tạo ra một cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến bước sang một giai đoạn mới, vượt nhiều thử thách khó khăn để tiến lên giành thắng lợi quyết định. Riêng tại Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quận ủy Quận 5 và các Hộ ủy 19, 20, những hoạt động kháng chiến vẫn diễn ra bền bỉ, liên tục, thể hiện tấm lòng son sắt của người dân địa phương đối với Đảng, với cách mạng. Trải qua gần 4 năm trực tiếp tham gia đánh địch hoặc góp phần ủng hộ sự nghiệp kháng chiến, các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã trưởng thành vượt bậc trên nhiều mặt, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng và tiến hành đấu tranh chính trị - vũ trang cũng như công tác binh vận, để tiếp tục lập thêm những chiến công và thành tích mới.
85 Chương bốn GIỮ GÌN, CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG, KIÊN TRÌ ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHỐNG XÂM LƯỢC VÀ BÈ LŨ TAY SAI, GÓP PHẦN KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (8-1950 — 7-1954) I. ĐẤU TRANH BẢO TOÀN LỰC LƯỢNG TRƯỚC HÀNH ĐỘNG ĐÁNH PHÁ ÁC LIỆT CỦA ĐỊCH, TỪNG BƯỚC KHÔI PHỤC PHONG TRÀO KHÁNG CHIẾN Từ sau thất bại ở chiến dịch Biên giới (1950), thực dân Pháp lâm vào thế bị động về chiến lược. Tuy nhiên, với bản chất ngoan cố hiếu chiến, chúng ra sức tranh thủ viện trợ của Mỹ, tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Ngày 24 tháng 12 năm 1950, Jean Letourneau đại diện chính phủ Pháp ký với đại sứ Mỹ ở Đông Dương bản hiệp ước quân sự quyết định các điều khoản Mỹ viện trợ cho quân đội các quốc gia liên kết, trong đó Mỹ nhận cung cấp tối đa vũ khí và trang thiết bị cần thiết cho quân đội của ngụy quyền Việt Nam. Tiếp tục thực hiện âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”, chính phủ Pháp ký kết hiệp ước công nhận nền “độc lập” của Việt Nam, cho phép chính phủ Bảo Đại có quân đội và ngoại giao riêng.
86 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ngày 6 tháng 12 năm 1950, chính phủ Pháp cử De Lattre de Tassigny làm Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương với nhiệm vụ phải bảo vệ đạo quân viễn chinh và giữ vững địa bàn, đặc biệt đối với Nam Bộ, thực dân Pháp quay về dồn mọi nỗ lực cho công cuộc bình định, đẩy mạnh cường độ chiến tranh xâm lược, đánh phá ác liệt ở các vùng tạm chiếm Nam Bộ mà Sài Gòn là trọng điểm. Tại Gia Định, thực dân Pháp tiếp tục duy trì và mở rộng việc thực hiện “cứ điểm nhỏ kết hợp với đội ứng chiến nhỏ”. Trong nội thành Sài Gòn, địch bắt đầu thi hành chính sách đàn áp, khủng bố. Chúng tăng cường lực lượng cảnh sát công an, bố trí các đội công an tuần phòng chặt chẽ, thành lập nhiều bót, nhánh ở trung tâm các xóm lao động để khống chế nhân dân và chống lại hoạt động quân sự của ta. Tháng 2 năm 1951, địch tổ chức đánh phá ác liệt và kiểm soát gắt gao nhiều nơi trong nội thành. Chúng phát triển nhiều tổ chức cảnh sát, mật vụ, tăng cường hoạt động mật thám nhằm làm tê liệt lực lượng vũ trang và phong trào cách mạng của Nhân dân ở nội thành và các vùng ven. Riêng khu vực Thạnh Mỹ Tây - Bình Hòa, địch cho lập bót cảnh sát ở Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) và Thị Nghè. Bên cạnh đó, chúng ráo riết thi hành những biện pháp về kinh tế, chính trị nhằm củng cố, phát triển hệ thống ngụy quyền đến từng cơ sở ấp xã, chia rẽ nhân dân, vơ vét sức người, sức của cung ứng cho cuộc chiến tranh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai (tháng 2 năm 1951) đã tiếp thêm sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Tại Đại hội này, Đảng ra công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến và đổi tên là Đảng Lao động Việt Nam. Từ giữa năm 1950, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn. Địch đánh phá ác liệt các huyện ngoại thành thuộc Gia Định - Chợ Lớn để mở rộng vành đai kiểm soát và phòng thủ thành phố, ráo riết tăng cường bộ máy cảnh sát, mật vụ để đàn áp phong trào đấu tranh của Nhân dân ta, đẩy dân chúng vùng nông thôn chạy về thành thị. Phong trào đấu tranh cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định tạm thời lắng xuống. Sau khi được thành lập vào tháng 8 năm 1950, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn chỉ đạo củng cố lại toàn bộ hệ thống cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ sở kháng chiến. Từ tháng 10 năm 1950 đến tháng 02 năm 1951, Đặc khu ủy tiến hành rà soát các cơ sở trong nội thành, thực hiện một số biện pháp nhằm ngăn ngừa sự phá hoại của địch thông qua nội gián. Các cấp, các ngành tập trung đối phó với các vụ nội gián đánh phá cơ sở Đảng của ta từ cấp hộ đến cấp thành.
87 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tháng 10 năm 1950, Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức lại các đơn vị vũ trang, gồm Tiểu đoàn Quyết tử 950 của Khu 7 chuyển về, các đơn vị biệt động được xây dựng với các phiên hiệu: 2300, 2763, 2766 và cơ quan thành đội. Trong đó, Đội biệt động 2766 hoạt động ở khu vực Thị Nghè, Bình Hòa. Đến đầu tháng 11 năm 1950, phong trào đấu tranh của nhân dân thành phố lại dấy lên mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự. Mở đầu là cuộc đấu tranh của công nhân toàn Thành thuộc các hãng, xưởng như Caric, Faci, Mic, Effel, Scama đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, đòi tăng lương, chống bắt lính. Cùng phối hợp với phong trào đấu tranh chính trị, các lực lượng biệt động, quyết tử liên tiếp đánh vào các cơ sở, kho tàng và vị trí quân sự của địch. Ở Thạnh Mỹ Tây - Bình Hòa, tháng 11 năm 1950, biệt động đội 2766 tổ chức nhiều trận tập kích gây tiếng vang lớn trong vùng. Ngày 09 tháng 01 năm 1951, Nhân dân Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa cùng nhân dân thành phố tổ chức mít tinh kỷ niệm một năm ngày mất của học sinh Trần Văn Ơn. Cuộc mít tinh bị thực dân Pháp đàn áp dã man làm cho 2 người chết, một số bị thương và bị bắt. Để lên án hành động phát xít của thực dân Pháp, ngày 12 tháng 01 năm 1951, cùng với tiểu thương các chợ, công nhân các hãng, xưởng trong toàn thành phố, hàng trăm tiểu thương chợ Bà Chiểu, Thị Nghè, Gò Vấp cùng công nhân nhà máy đèn Sài Gòn, gara ô tô Lê Dương, công nhân hãng Bastic đã tổ chức bãi thị, bãi công. Tháng 2 năm 1951, Đặc khu ủy triệu tập hội nghị cán bộ toàn Đặc khu để kiểm điểm công tác lãnh đạo phong trào. Chủ trương của Hội nghị là tập trung củng cố và phát triển các tổ chức cứu quốc; động viên quần chúng tham gia phong trào, phối hợp các hình thức đấu tranh bí mật, công khai với bán công khai; tích cực xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang. Để tiếp tục củng cố và xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng củng cố cơ sở, Đặc khu ủy quyết định giải thể Ban chỉ huy Tiểu đoàn Quyết tử 950, thành lập các Đại đội Quyết tử độc lập (3721, 3824, 3927) trực thuộc Ban Chỉ huy quân sự Đặc khu. Lực lượng biệt động đội cũng được chấn chỉnh một bước về tổ chức và khu vực hoạt động, tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ với các tổ chức dân quân các hộ, quận nội thành. Trong đó, biệt động đội 2766 do đồng chí Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) chỉ huy được phân công về xây dựng lực lượng du kích và tổ chức đánh địch tại thị xã Gia Định, Bà Chiểu, Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây và vùng Thị Nghè, Đa Kao. Ngoài việc tác chiến tiêu diệt địch, xử tử nhiều tên tay sai ác ôn của Pháp, đội còn tích cực xây dựng căn cứ lõm (vùng bán độc lập của ta) khu vực từ ngã ba Hàng Xanh xuống Cầu Sơn, bọc qua Cầu Đỏ (thuộc Hộ 19); khu vực
88 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đồng Ông Cộ, khu vực Mả Đỏ (Hộ 21). Các khu vực căn cứ lõm này, từ chiều trở về đêm hoàn toàn do ta làm chủ. Tháng 8 năm 1951, quận đội Gò Vấp, bộ đội tỉnh Gia Định Ninh cùng lực lượng cứu quốc Hộ 20 (Bình Hòa) do đồng chí Bùi Thanh Vân chỉ huy chống cuộc càn quét của địch ở Bình Hòa, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Để thay đổi tổ chức phù hợp với tình hình, tháng 5 năm 1951, Trung ương Cục quyết định phân chia lại chiến trường, sắp xếp lại lực lượng, kiện toàn lại tổ chức cách mạng. Các khu 7, 8, 9 giải thể, chiến trường Nam Bộ được phân chia thành hai phân liên khu: Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây. Thực hiện quyết định của Trung ương Cục miền Nam, tháng 6 năm 1951, tỉnh Gia Định Ninh được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Gia Định, Tây Ninh, có thêm huyện Đức Hòa, Trung Huyện, khu Đông Thành của tỉnh Chợ Lớn cũ(1). Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) và Hộ 20 (Bình Hòa) thuộc huyện Gò Vấp, tỉnh Gia Định Ninh. Tháng 8 năm 1951, tướng Bondis đến Sài Gòn thay Chanson làm Tư lệnh lục quân Pháp tại Việt Nam. Bondis tiếp tục đường lối bình định cũ, nỗ lực cô lập Sài Gòn với các tỉnh Nam Bộ, phá hoại nền kinh tế kháng chiến của ta. Trung tuần tháng 8 năm 1951, Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn triệu tập hội nghị cán bộ quân sự toàn Đặc khu. Hội nghị đã đề ra một số biện pháp cụ thể nhằm phát huy hiệu quả thực tế hoạt động của các lực lượng vũ trang trong điều kiện địch kiểm soát đánh phá gắt gao, cơ sở đoàn thể bị vỡ nhiều; tinh giản bộ máy các cơ quan, dân chính ở nội thành và ngoại thành, đề ra nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của chi bộ xí nghiệp và chi bộ hộ là tập trung vào công tác củng cố Đảng, công tác dân vận và phát triển cơ sở quần chúng. Nhiều cán bộ được điều về làm nhiệm vụ củng cố cơ sở. Hội nghị quân sự của Đặc khu ủy diễn ra trong lúc địch tăng cường đánh phá các cơ sở trong nội thành. Chính phủ bù nhìn Trần Văn Hữu ra lệnh tổng động viên (theo Dụ số 12, ngày 15 tháng 7 năm 1951) và chuẩn bị kiểm tra dân số. Các bộ máy tuyên truyền của địch ra sức động viên xây dựng “Quân đội quốc gia”. Hàng trăm thanh niên ở thành phố bị ép buộc nhập ngũ và đưa đi các trại huấn luyện ở Sóc Trăng, Cây Điệp. Trước âm mưu và hành động của địch, Đặc khu ủy chỉ đạo cho các đơn vị, địa phương chuyển trọng tâm công tác sang chống bắt lính và phá kế hoạch xây 1. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (1930 – 1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, 2014, tr. 481.
89 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) dựng quân đội bù nhìn của địch. Đến tháng 10 năm 1951, chiến dịch kiểm tra bắt lính của địch lắng xuống. Tình hình trở nên ổn định hơn. Đặc khu bắt đầu triển khai các đội Quyết tử vào phụ trách từng khu vực hỗ trợ cho phong trào nội thành. Trong đó, Đại đội 3927 phụ trách khu Tân Định, Đa Kao, khu thương mại người Âu, Thị Nghè, Bà Chiểu, lấy Phước Long, An Phú Đông, Xóm Gà, Vạn Chài làm căn cứ bàn đạp. Tháng 9 năm 1951, thực dân Pháp đánh phá ác liệt vào căn cứ An Phú Đông. Cơ quan đầu não của tỉnh phải dời về căn cứ Thạnh Lộc - Hóc Môn. Các cơ quan lãnh đạo quận như Quận ủy, Ủy ban Kháng chiến Hành chính, Ủy ban Liên Việt, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội chuyển về Bình Lý - Hóc Môn và Đức Hòa Thành. Các cơ quan lãnh đạo Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây), Hộ 20 (Bình Hòa) rút về xây dựng căn cứ tại Đức Huệ để bảo toàn lực lượng. Tính từ tháng 2 đến tháng 11 năm 1951, địch tăng cường đánh phá ác liệt các cơ sở Đảng và quần chúng, nhiều cán bộ chủ chốt bị bắt, hệ thống tổ chức Đảng bị sa sút và tổn thất nặng. Trước tình hình khó khăn như vậy, Tỉnh ủy Gia Định Ninh chủ trương chi bộ tự động công tác theo phương pháp “cần câu” chỉ đạo từ vòng ngoài để tránh địch phát hiện, tránh bị lộ, vỡ lan rộng và tạo điều kiện phát huy hết khả năng của các ngành chuyên môn. Trên địa bàn Gò Vấp gồm có Hộ 19 và Hộ 20. Từ năm 1951 trở đi, thực dân Pháp tiến hành xây dựng trên 500 đồn bót nằm rải rác khắp nơi nhằm khống chế toàn bộ hoạt động của ta. Thực hiện chủ trương của Thường vụ Đặc khu ủy, cuối năm 1951, Quận ủy Gò Vấp chỉ đạo đưa cán bộ đảng viên về xã bám địa bàn, bám dân với phương châm tự động công tác, xây dựng cơ sở bí mật, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Sau chủ trương của Đặc khu ủy và Quận ủy Gò Vấp, Chi bộ Hộ 19 và Hộ 20 phải tự chủ động tiến hành các công tác để đối phó kịp thời với các biến cố xảy ra, sau đó mới báo cáo với cấp trên để rút kinh nghiệm. Thực hiện chỉ đạo của Quận ủy, cán bộ đảng viên về Hộ 19 và Hộ 20, cùng một số cơ sở cũ rút vào hoạt động bí mật, xây dựng cơ sở hoạt động lâu dài. Cuối năm 1951, các đồng chí Lý Văn Lành, Đỗ Thị Hữu Bích và các đồng chí thuộc chi bộ Bình Hòa xây dựng căn cứ bí mật cho Ban Quản trị Vệ quốc đoàn và tiến hành in truyền đơn, tài liệu cách mạng kêu gọi Nhân dân đấu tranh. Một căn hầm bí mật, gọi là hầm A với địa đạo thoát hiểm được đào từ năm 1951, là văn phòng A Ban Quản trị Hội Ủng hộ Vệ quốc đoàn. Đây cũng là nơi in ấn các bản tin, tài liệu và truyền đơn để các chiến sĩ tuyên huấn hàng đêm đem phổ biến đến quần chúng.