The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by May Tran, 2023-11-08 06:26:54

LSĐB Binh Thanh_1975-2015

LSĐB Binh Thanh_1975-2015

90 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Dưới sự chỉ đạo của các Chi bộ Hộ 19, Hộ 20, phong trào đấu tranh của quần chúng ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây diễn ra rất sôi nổi, tập trung chủ yếu vào việc chống khủng bố, bảo vệ cơ sở, giữ vững lực lượng. Bên cạnh đó hoạt động du kích vẫn diễn ra rải rác ở một số nơi trên địa bàn, nhằm phối hợp với chiến trường chung, làm tiêu hao sinh lực địch. Bước sang năm 1952, Mỹ tăng cường viện trợ ồ ạt về kinh tế, vũ khí cho chính phủ bù nhìn Việt Nam, can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, thúc đẩy việc xây dựng bộ máy ngụy quyền, tăng thêm ngụy quân, chuẩn bị điều kiện để thay thế Pháp. Ngày 3 tháng 6 năm 1952, Bảo Đại giải tán chính phủ Trần Văn Hữu và đưa Nguyễn Văn Tâm ra thành lập chính phủ mới. Ngày 30 tháng 7 năm 1952, chính phủ Nguyễn Văn Tâm thành lập Ủy ban nghiên cứu cải cách điền địa, với tham vọng củng cố chỗ đứng để làm tay sai cho Pháp và Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Gia Định Ninh chỉ thị các cấp lãnh đạo quận, xã thi hành chủ trương: xây dựng và phát triển cơ sở, đấu tranh chính trị và kinh tế là chính, đấu tranh vũ trang khi có điều kiện, tránh manh động, trừ gian bừa bãi. Công tác trong vùng bị tạm chiếm có ba việc chính: đẩy mạnh công tác dân vận, chú ý đến đời sống hàng ngày của Nhân dân; vận động ngụy binh, gây cho được phong trào chống bắt lính trong các tầng lớp nhân dân và chiến tranh du kích; tập trung xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, bán vũ trang, thường xuyên quấy rối địch, hết sức phòng gian bảo mật. Chấp hành chủ trương của Tỉnh ủy Gia Định Ninh, các đơn vị vũ trang của Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, ổn định một bước thế đứng chân, bảo toàn lực lượng và tổ chức một số trận đánh địch có hiệu quả, trong đó có hoạt động của biệt động đội Gò Vấp cùng phối hợp với phong trào chung. Ngày 20 tháng 3 năm 1952, tổ đặc công của đồng chí Lê Văn Thọ cùng chiến sĩ huyện đội Gò Vấp và đồng chí Sắc - nguyên bí thư Chi bộ Hộ 20 điều nghiên, đột nhập đánh kho bom An Hội, tiêu diệt 100 tên địch, phá hủy 700 quả bom, 1 đại bác, 3 tháp canh và một số nhà kho. Ngày 23 tháng 9 năm 1952, bộ đội liên huyện kết hợp với đại đội đặc công Gia Định Ninh tấn công tiêu diệt bót Bình Hòa, tiêu diệt một trung đội lính Cao Đài phản động. Song song với đó, hoạt động xây dựng, chỉnh đốn các cơ quan quân, dân, chính, đảng được đẩy mạnh. Công tác phát triển Đảng được chú trọng. Ở quận Gò


91 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Vấp từ tháng 5 năm 1952 đến cuối năm 1952, tổng số đảng viên gồm có 41 đồng chí hoạt động trong các chi bộ bộ đội trên tổng số 85 quân nhân. Số đảng viên trong các chi bộ cơ quan có 36 đồng chí, 8 đối tượng Đảng trong số 95 cán bộ công nhân viên là công chức. Riêng ở Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) có 8 đảng viên và Hộ 20 (Bình Hòa) có 6 đảng viên. Cuối năm 1952, địch ngày đêm càn quét, bắn phá, chủ trương của Quận ủy Gò Vấp là phải đưa cán bộ, đảng viên về bám trụ tại địa phương hoạt động, xây dựng cơ sở. Các cán bộ đảng viên hoạt động bí mật ban ngày thì tập trung ở bưng đồng Nhị Hòa, ban đêm thì về Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây đặc biệt là vùng Bình Quới, Thị Nghè, Cây Quéo, Hàng Xanh để hoạt động, xây dựng cơ sở. Tháng 10 năm 1952, bão lụt lớn xảy ra ở các tỉnh Đông Nam bộ, nạn thiếu đói diễn ra rất nghiêm trọng. Cán bộ nhân viên các cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang đối diện với nạn đói từng ngày một. Để khắc phục, quân dân Nam Bộ nêu khẩu hiệu “Tự làm lấy ăn để đánh giặc”. Tỉnh ủy Gia Định Ninh chủ trương: tất cả cơ quan quân, dân, chính đếu phải đẩy mạnh sản xuất, trồng cây hoa màu ngắn ngày và chăn nuôi gia súc, gia cầm; tổ chức đường dây vận tải tiếp tế lấy gạo từ các tỉnh miền Tây về cứu đói; tập trung thu thuế nông nghiệp ở vùng tranh chấp và vùng giải phóng không bị thiên tai; vận động nhân dân tích cực đóng góp ủng hộ cho cách mạng. Cán bộ, đảng viên tỉnh Gia Định Ninh đã động viên anh em, Nhân dân vùng ngoại thành Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, trong đó có Nhân dân vùng Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây đẩy mạnh tăng gia sản xuất, nhường cơm sẻ áo, vượt qua khó khăn, tìm mọi cách vượt qua hệ thống kiểm soát của địch, tiếp tế thuốc men, lương thực cho đồng bào, bộ đội và các cơ quan kháng chiến, khắc phục phần nào hậu quả bão lụt ở miền Đông Nam bộ. Hai năm 1951, 1952 là giai đoạn khó khăn gian khổ nhất của cách mạng tỉnh Gia Định Ninh và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn nói chung, Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Địch khủng bố, đánh phá ác liệt. Cách mạng bị tổn thất nặng nề. Phong trào quần chúng lắng xuống... Nhờ sự lãnh đạo kiên trì, chặt chẽ của Tỉnh ủy, Thành ủy và các Chi bộ Hộ 19 và Hộ 20, phong trào cách mạng Thạnh Mỹ Tây - Bình Hòa đã từng bước vươn lên, gây dựng lại cơ sở, giữ vững lực lượng, giữ vững phong trào kháng chiến.


92 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) II. KẾT HỢP PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIỮA NỘI ĐÔ VỚI VÙNG VEN, GIỮA CÁC MẶT CHÍNH TRỊ, QUÂN SỰ, KINH TẾ VỚI VĂN HÓA, GÓP PHẦN CÙNG NHÂN DÂN CẢ NƯỚC ĐÁNH BẠI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC Sang năm 1953, diễn biến thực tế trên chiến trường chung có nhiều thay đổi có lợi cho ta. Quân Pháp đang ở thế bị động do phải đưa lực lượng ở Nam Bộ ra chi viện cho chiến trường Trung và Bắc Bộ, các đơn vị tinh nhuệ của địch giảm xuống rõ rệt. Để bù vào chỗ thiếu hụt, chính phủ Bảo Đại ban hành lệnh động viên, ra sức bắt lính, xây dựng gấp rút các đơn vị ngụy quân. Với lực lượng còn lại rất mỏng, địch tập trung củng cố ở các đô thị và các nơi trọng yếu gần vùng căn cứ kháng chiến của ta. Tại Sài Gòn, đầu năm 1953, hoạt động bắt lính của địch ở nội thành và các nơi đông dân diễn ra ráo riết. Các cuộc lùng sục vây ráp, lục soát xảy ra thường xuyên cả ngày lẫn đêm. Địch bắt được một số lượng thanh niên đáng kể đưa vào phục vụ trong các đơn vị ngụy quân mới được thành lập. Với trên hai vạn cảnh sát, công an, chúng ngăn chặn được phần lớn sự hoạt động đi lại của ta, gây cho ta nhiều khó khăn. Riêng ở Gò Vấp, trong ba tháng cuối năm 1952 và đầu năm 1953, giặc giết gần 200 cán bộ, nhân dân ở huyện, xã. Đầu tháng 5 năm 1953, tướng Navarre được chính phủ Pháp cử sang làm Tổng tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đề ra kế hoạch giành thắng lợi quyết định, chủ động kết thúc chiến tranh ở nước ta theo những điều kiện do chúng sắp đặt. Đối với Nam Bộ, Navarre chủ trương tiếp tục bám giữ ổn định hậu phương, kiện toàn lực lượng chiếm đóng, rút bớt quân ở Campuchia để tập trung quân cơ động, đề phòng quân của “vùng tự do liên khu 5 và khu 9 cũ của Việt Minh” uy hiếp, chú trọng kiểm soát đánh phá miền Đông Nam Bộ và các căn cứ của ta. Tháng 01 năm 1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng chiến lược trong Thu - Đông 1953 là “tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu để phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng vùng tự do. Mặt khác phải đánh địch ở những nơi sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh ở vùng sau lưng địch”. Tháng 4 năm 1953, Tỉnh ủy Gia Định Ninh họp hội nghị cán bộ, uốn nắn biểu hiện tư tưởng giảm sút ý chí chiến đấu, bồi dưỡng nhiệt tình và phương pháp đấu tranh cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ. Hội nghị đã quán triệt nhiệm vụ và phương thức chuyển hướng hoạt động theo phương châm ba vùng của Trung ương Đảng,


93 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) tạo lại thế đấu tranh mới nhằm giữ vững phong trào du kích chiến trong lòng địch, chuyển vùng tạm bị chiếm sang vùng du kích, tiến tới giải phóng từng nơi. Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 nhằm giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và trên toàn Đông Dương. Nhiệm vụ cụ thể của mặt trận sau lưng địch là “Trước mắt đẩy mạnh chiến tranh du kích, đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch, phá kế hoạch xây dựng ngụy quân và dồn dân của địch. Tùy theo sự diễn biến của tình hình mà sử dụng một bộ phận chủ lực tiến sâu vào vùng sau lưng địch, phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích tiêu hao và tiêu diệt cho được một bộ phận sinh lực địch, đẩy mạnh mọi mặt đấu tranh, phá tan kế hoạch bình định của địch, thu hẹp vùng tạm chiếm, mở rộng vùng tự do, phối hợp đắc lực với các cuộc tiến công trên mặt trận chính diện”. Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt” để chỉ đạo các chiến trường trên cả nước. Căn cứ vào tình hình cụ thể ở Nam Bộ, vận dụng nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (tháng 1-1953), Trung ương Cục miền Nam đã đề ra 5 nhiệm vụ tại chiến trường Nam Bộ trong năm 1953 là: Tăng cường công tác địch hậu về mọi mặt, chú ý công tác dân vận và địch ngụy vận, lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hằng ngày với địch, chủ yếu là đấu tranh kinh tế, văn hóa, chính trị; phát động du kích chiến tranh mạnh mẽ, tiêu hao tiêu diệt sinh lực nhỏ của địch, chống phá các cuộc càn quét chiếm đóng lan rộng của địch vào vùng du kích và căn cứ du kích, đặc biệt chống biệt kích và chống gián điệp; đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tiết kiệm, thực hiện cân bằng thu chi, quản lý xuất nhập khẩu chặt chẽ, chống trốn thuế, lậu thuế, chống quan liêu, tham ô, lãng phí, đồng thời nâng cao trình độ văn hóa của Nhân dân, thực hiện bồi dưỡng sức dân, đoàn kết toàn dân; phát động quần chúng nhân dân thực hiện chính sách cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày, tiến hành giảm tô, giảm tức; chỉnh quân, chỉnh Đảng, chỉnh đốn Nông hội, nhiệm vụ trung tâm là phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất và chỉnh quân, chỉnh Đảng. Trong tình hình khẩn trương, Trung ương Cục miền Nam đã có những quyết định đúng đắn, bắt kịp tình hình. Tất cả bộ máy kháng chiến ở Nam Bộ chuyển động theo đà chung của cuộc kháng chiến của cả nước trong giai đoạn quyết định. Về tư tưởng chỉ đạo, Nam Bộ tích cực phối hợp với chiến trường chính ngay khi chưa có đánh lớn; nắm vững công tác dân vận làm gốc để tiến hành ngụy binh vận; chống bình định, càn quét nhằm tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch


94 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) và đánh phá có hiệu quả âm mưu bình định của địch, giành thế chủ động ở từng nơi, từng lúc. Như vậy, bước vào Đông Xuân 1953 - 1954, trên chiến trường Nam Bộ nói chung và Sài Gòn - Chợ Lớn nói riêng đã có những điều kiện mới để thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng phát triển thêm những bước mới. Chính từ chủ trương đúng đắn và kịp thời của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và sự chỉ đạo nhạy bén của Trung ương Cục miền Nam, các hoạt động đánh phá đồn bót địch, chống bình định, lấn chiếm, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Nhân dân, phát triển công tác địch ngụy vận. Nhờ đó, hệ thống tổ chức Đảng và cơ sở quần chúng ở các quận nội thành và ngoại thành được củng cố và phát triển khá hơn, trong đó có hoạt động của các chi bộ Hộ 19 và Hộ 20 của quận Gò Vấp. Đầu năm 1953, Chi bộ Hộ 19 và Chi bộ Hộ 21 (Phú Nhuận) bắt liên lạc được với các chi bộ hoạt động nội thành Sài Gòn. Chi bộ Hộ 19 được củng cố, đặc biệt là tổ Đảng ở Thị Nghè và Bà Chiểu, tiếp tục lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh đấu tranh trong vùng địch tạm chiếm. Lúc này, chi bộ Thị Nghè có 8 đảng viên do đồng chí Lý Văn Lành (Tư Huy) làm bí thư. Đồng chí Tô Hoài được chi bộ cử về phụ trách, chỉ đạo và xây dựng cơ sở ở vùng Hàng Xanh. Vùng Cầu Sơn (Thanh Đa) do đồng chí Trần Thị Mười, chi ủy viên phụ trách. Chi bộ đã xây dựng được nhiều tổ chức công khai hợp pháp nhằm tập hợp đông đảo quần chúng đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, đòi hòa bình thống nhất và tích lũy cung cấp nhân lực vật lực cho kháng chiến như: Hội Truyền bá quốc ngữ, nghiệp đoàn chợ Thị Nghè, nghiệp đoàn thợ may, Hội banh Thị Nghè... Chi ủy Chi bộ Hộ 20 (Bình Hòa) được xây dựng với ba đồng chí do đồng chí Đỗ Thị Hữu Bích (Ba Bí) làm Bí thư. Tháng 10 năm 1953, Tỉnh ủy Gia Định Ninh triệu tập Hội nghị cán bộ kiểm điểm tình hình thực hiện sự chuyển hướng. Tỉnh ủy đã tự kiểm điểm về những khuyết nhược điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo 6 tháng và đề ra một số biện pháp nhằm kịp thời chỉ đạo uốn nắn lệch lạc ở các địa phương, từng bước đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh ở cả ba vùng kháng chiến, đẩy mạnh tiến công ở vùng sau lưng địch. Sau hội nghị, Tỉnh ủy Gia Định Ninh thận trọng xếp lại cán bộ Đảng và chính quyền các cấp, cử cán bộ phối hợp với các đội đặc phái, đội vũ trang tuyên truyền tỏa về cơ sở vùng du kích và vùng tạm bị chiếm hoạt động khôi phục và xây dựng mới các cơ sở, phát triển lực lượng du kích.


95 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Cuối năm 1953, thực hiện chỉ thị của Tỉnh ủy và Quận ủy Gò Vấp, các chi bộ Đảng địa phương ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây thực hiện nhiệm vụ: giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố và xây dựng căn cứ bí mật, đẩy mạnh công tác địch ngụy vận. Hòa nhịp với công cuộc kháng chiến sôi nổi trên khắp các chiến trường trong cả nước, tại tỉnh Gia Định Ninh và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn nói chung và Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, phong trào đấu tranh phối hợp tiến công địch trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa được phát động. Sự nỗ lực kiên trì hoạt động của các đảng viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã có kết quả khả quan, thực lực cách mạng được phục hồi trở lại. Vì vậy, các cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây dưới sự lãnh đạo của các chi bộ diễn ra liên tục, nhất là có sự phối hợp của bộ đội địa phương quận Gò Vấp. Cuối năm 1953 đầu năm 1954, bộ đội quận Gò Vấp tiến công tiêu diệt đánh hỏng 6 tháp canh và 7 đồn bót khác trên địa bàn Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, An Nhơn, Bình Quới. Từ cuối năm 1952 đầu năm 1953, thực dân Pháp câu kết với tư sản, địa chủ đuổi nhà, đuổi dân để lấy đất xây cất các hãng xưởng, làm đường mới. Tình trạng đuổi nhà lấy đất diễn ra trong tình hình dân số tăng quá nhanh đưa đến nạn thiếu nhà ở trầm trọng. Đầu năm 1954, Pháp đuổi 400 gia đình thuộc Hộ 19, Hộ 20, Hộ 21 bằng xe ủi đất để cướp lại số đất mà chính quyền cách mạng đã chia cho dân. Cuộc đấu tranh chống đuổi nhà, cướp đất của đồng bào Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây nói riêng và nhân dân thành phố nói chung là một cuộc đấu tranh sôi nổi, có ảnh hưởng lớn. Ngày 8 tháng 7 năm 1954, chính quyền Sài Gòn buộc phải ban hành Đạo dụ tạm hoãn thi hành các bản án đuổi đất tại Sài Gòn - Chợ Lớn và Gia Định. Mùa hè năm 1954, công cuộc kháng chiến trên toàn quốc có bước nhảy vọt quan trọng và giành nhiều thắng lợi to lớn. Ta đã mở những cuộc tiến công chiến lược vào những hướng quan trọng ở các chiến trường Bắc Bộ, Trung Hạ Lào, Khu 5, Nam Bộ nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, buộc địch phải bị động phân tán lực lượng, bước đầu làm phá sản kế hoạch Navarre, cùng phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ trên chiến trường chính. Tham gia cùng với chiến trường chung ở Nam Bộ, Tỉnh ủy Gia Định Ninh chủ trương mở một cuộc tiến công quân sự vào các vùng tạm chiếm nhằm tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, tạo bước chuyển biến mới cho phong trào.


96 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ở Gò Vấp, giữa năm 1954, tên đội Chiến, đồn trưởng đồn Bình Long – Bình Hưng Hòa bị lực lượng Quận đội Gò Vấp bắt sống. Ngày 6 tháng 5 năm 1954, Đại đội 916 của Tiểu đoàn 306 Gia Định Ninh tiến công tiêu diệt tiểu đoàn 63/BVN của địch đóng ở bót An Nhơn Tây, tiêu diệt 35 tên, bắt sống 4 tên, thu 12 súng. Ở Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa, bộ đội chủ lực quận Gò Vấp và du kích địa phương phối hợp tập kích địch, phá hủy 19 tháp canh trong hệ thống tháp canh của địch dọc bờ sông Sài Gòn. Bộ Tư lệnh Nam Bộ phát động phong trào thi đua ái quốc hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và phát động chiến dịch ngụy vận, ở Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa mỗi nơi xây dựng một trung đội du kích nhằm tiến tới xây dựng thành xã du kích. Trong hai ngày 14, 15 tháng 5 năm 1954, du kích Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa liên tục tấn công tiêu diệt bót Thị Nghè, bót Cây Thị, bót chợ Bà Chiểu, giết chết hai tên địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược. Đêm 20 tháng 7 năm 1954, sau nhiều lần điều nghiên, đồng chí Lê Văn Thọ và du kích Hộ 20 (Bình Hòa) đột nhập gài hai quả mìn lớn vào chân cầu Bình Lợi, rồi đợi bộ đội Tiểu đoàn 303 đến phối hợp đánh phá tháp canh hai bên cầu. Đến đêm 22 tháng 7 năm 1954, khi ta chuẩn bị điểm hỏa phá cầu mở màn cho trận đánh phối hợp tiêu diệt tháp canh thì nhận được chỉ thị hỏa tốc: Lệnh ngừng bắn được ban hành. Đồng chí Thọ và anh em đồng đội rút về căn cứ. Những hoạt động phá bót, phá kho tàng, diệt tề trừ gian của các lực lượng vũ trang trong hai năm 1953 - 1954 đã có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh trên nhiều mặt trận của quần chúng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nói chung và Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. Gắn liền với hoạt động tác chiến tiêu diệt địch của các lực lượng vũ trang là phong trào đấu tranh chính trị đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Ngày 22 tháng 2 năm 1954, 400 công nhân xưởng cơ khí Asam bãi công, được nhiều nghiệp đoàn ở Nam, Trung, Bắc ủng hộ bằng cách tổ chức lạc quyên để hỗ trợ. Ở thành phố, nhiều hãng lớn như Eiffel, Autodall, Faci, Caric, công nhân chuẩn bị bãi công 24 giờ để hưởng ứng với công nhân Asam. Đầu tháng 3 năm 1954, 352 nhân sĩ, trí thức Sài Gòn ký vào bản tuyên ngôn hòa bình, kiến nghị và đòi Chính phủ và Quốc hội Pháp phải ra lệnh ngừng bắn,


97 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đòi quân đội Pháp ngừng cuộc chiến tranh xâm lược. Trong nội thành Sài Gòn, phong trào đấu tranh chính trị của các giới diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các báo tiếng Việt, tiếng Pháp xuất bản ở Sài Gòn đưa tin thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ và diễn tiến cuộc hòa đàm ở Genève. Công nhân ở các nhà máy, học sinh ở các trường học trong toàn thành phố bãi công, bãi khóa hàng loạt. Nhân ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1954, công nhân và nhân dân lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã cùng với công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức tuần hành mít tinh trước Tòa Đô chính của ngụy quyền, với các khẩu hiệu “Trả phụ cấp gia đình trên căn bản duy nhất !”, “Áp dụng di dịch lương bổng”, “Mở thêm trường học”, “Chống nạn đuổi nhà lấy đất”. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève được kí kết. Thực dân Pháp và các nước tham gia hội nghị tuyên bố tôn trọng nền độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một đế quốc hùng mạnh”. Góp vào chiến thắng chung của cả dân tộc, có phần đóng góp của Nhân dân, đảng viên vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được tổ chức học tập ý nghĩa thắng lợi của hiệp định Genève, quán triệt nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Cán bộ, chiến sĩ sắp xếp lại lực lượng, một bộ phận tham gia đoàn cán bộ quân - dân - chính - đảng tỉnh Gia Định Ninh tập kết ra miền Bắc, một bộ phận tiếp tục ở lại cất giấu vũ khí, tổ chức điều lắng, chuẩn bị bước vào cuộc đấu tranh mới! Từ năm 1950 đến năm 1954 là giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng chống thực dân Pháp xâm lược của Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Khéo léo gìn giữ và từng bước phát triển lực lượng cách mạng, kết hợp một cách hiệu quả với phương thức đấu tranh thích hợp giữa phong trào nội đô và vùng ven, giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự với kinh tế, văn hóa, xã hội... Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã vượt qua mọi khó khăn, vươn lên hòa chung vào phong trào kháng chiến toàn thành, toàn miền Nam và cả nước trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


98 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Thắng lợi của quân và dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước hết là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Gia Định Ninh và các chi bộ Hộ 19, Hộ 20 đã vận dụng một cách sáng tạo đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh của Đảng vào thực tế của địa phương mình và tổ chức thực hiện thành công đường lối ấy. Với tinh thần chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh, quân và dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã đoàn kết nhất trí, kiên định vượt qua mọi khó khăn, xây dựng và củng cố lực lượng, giữ vững cơ sở cách mạng, đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, giành nhiều thắng lợi. Thắng lợi này là nguồn động viên, cổ vũ và tiếp thêm sức mạnh cho Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây bước vào giai đoạn lịch sử mới, cùng với nhân dân thành phố nói riêng, Nhân dân cả nước nói chung tiếp bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, nhằm hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.


99 Chương năm TỪ CAO TRÀO ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ ĐẾN KHỞI NGHĨA VŨ TRANG (1954 - 1960) I. PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG CƠ SỞ CÁCH MẠNG TRONG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ MỚI Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa cách mạng nước ta bước sang thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Một bầu không khí mới tràn ngập khắp các thôn xóm, hẻm phố ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên ở lại chỉ đạo tiếp tục phổ biến ý nghĩa thắng lợi và nội dung của Hiệp định Genève, đòi địch nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà. Nhân dân được tổ chức chọn đọc những bài báo có nội dung tích cực trong báo chí công khai ở Sài Gòn. Trong các lớp học đêm do Hội Truyền bá Quốc ngữ tổ chức, thanh thiếu niên được học các bài hát có nội dung cách mạng và yêu nước như: Chiến sĩ Việt Nam, Mùa hoa nở, Đời sống mới, được nghe kể chuyện về Hồ Chủ tịch, về những gương chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc. Đồng bào bàn công khai đến thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến và tin tưởng ngày đất nước sạch bóng quân thù, Bắc - Nam sum họp. Tuy nhiên, ngày 8 tháng 6 năm 1954, đế quốc Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn chuẩn bị thành lập chính phủ bù nhìn mới. Ngày 7 tháng 7 năm 1954, Diệm được cử làm Thủ tướng. Tháng 10 năm 1955, Mỹ phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống của Việt Nam Cộng hòa. Âm mưu của Mỹ là


100 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chia cắt lâu dài đất nước ta, tiêu diệt phong trào cách mạng của Nhân dân, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, thành căn cứ quân sự, một “phòng tuyến chống cộng” hòng ngăn chặn làn sóng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Đông Dương. Mỹ - Diệm một mặt ra sức phá hoại hiệp định Genève, từ bỏ hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Mặt khác chúng thẳng tay đàn áp nhân dân, trả thù những gia đình có người theo kháng chiến bằng cách thi hành các chính sách “tố cộng”, “diệt cộng” cực kỳ dã man. Đi đôi với sự đàn áp về chính trị, đế quốc Mỹ tìm mọi cách khôi phục địa vị của giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản mại bản đã bị cách mạng đánh đổ, tạo ra một tầng lớp địa chủ và tư sản mới thân Mỹ để làm cơ sở xã hội cho chiến lược thực dân mới của chúng. Âm mưu của Mỹ là biến miền Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa của Mỹ, khiến kinh tế miền Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Mỹ. Mặt khác, chúng ra sức truyền bá lối sống đồi trụy, đầu độc thanh niên và các tầng lớp nhân dân vùng tạm chiếm bằng kiểu văn hóa phản động của Mỹ. Mỹ - Diệm còn ráo riết xây dựng các tổ chức, đảng phái phản động như đảng “Cần lao”, “Phong trào cách mạng quốc gia”; đồng thời tập hợp các thế lực chính trị phản động khác làm hậu thuẫn cho chính quyền, đào tạo cán bộ hành chính và quân sự làm tay sai trung thành và đắc lực cho Mỹ. Về quân sự, chúng cải tổ quân đội do Pháp xây dựng trước đây, trang bị thêm vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, biến lực lượng này thành một đội quân đánh thuê nhà nghề do Mỹ trực tiếp huấn luyện và chỉ huy. Ngoài ra, chúng mở thêm các căn cứ quân sự lớn, phục vụ cho ý đồ chiếm đóng lâu dài miền Nam và chuẩn bị chiến tranh xâm lược miền Bắc nước ta. Ở địa bàn Hộ 19 (Thạnh Mỹ Tây) và Hộ 20 (Bình Hòa), địch xây dựng các căn cứ quân sự, các cơ quan đầu não của chúng như căn cứ tiểu khu Gia Định, trại thủy quân lục chiến Nguyễn Văn Nho, ty cảnh sát Hàng Keo (có hai chi nhánh là bót ngã tư Xóm Gà và bót Bình Hòa), trung tâm chiêu hồi trung ương Gia Định, trung tâm thẩm vấn Băng Ky, trại quân cảng Tân Cảng và hàng loạt đồn bót, như bót Cây Thị, bót Bình Hòa... để khống chế nhân dân, đàn áp phong trào cách mạng của quần chúng. Chúng xây dựng chính quyền quận, xã, thành lập bộ máy cảnh sát, dân vệ, mật vụ; tiến hành đoàn thể hóa quần chúng, thành lập các tổ chức: thanh niên cộng hòa, phụ nữ liên đới. Chúng cho phá hoại rừng cao su Bình Hòa, ủi đất từ vùng Cây Quéo lên tới Gò Vấp để thành lập các khu tập trung, mở rộng những con đường chiến lược như đường Chi Lăng (nay là đường Phan Đăng Lưu), đường Ngô Tùng


101 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Châu (nay là đường Nguyễn Văn Đậu), đường Lê Quang Định, xây dựng các khu gia đình binh sĩ, xây cư xá sĩ quan Lê Văn Duyệt (nay là cư xá Phan Đăng Lưu) và hàng loạt biệt thự sang trọng ở khu Nhất Linh, Lam Sơn, Ngô Tùng Châu, Hoàng Hoa Thám dành cho sĩ quan, công chức cao cấp và cố vấn Mỹ. Lợi dụng chiêu bài “cải cách điền địa” của chính quyền Diệm, Ngô Đình Thục cùng tên cai tổng Quy cướp đất của Nhân dân để lập vườn riêng ở vùng Văn Thánh (nay là Phường 22). Đại tá an ninh Mai Hữu Xuân, đại tá Lê Ngọc Trụ... chiếm cả khu vực Hàng Xanh. Tổng số diện tích đất chiếm được của dân lên đến hàng trăm mẫu. Địch còn tiến hành phân loại dân, phát động chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, ly khai cộng sản, làm cho phong trào đấu tranh của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đứng trước những khó khăn, thử thách cực kỳ to lớn. Tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp đề ra quyết định quan trọng về tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng trong cả nước. Về cách mạng miền Nam, Bộ Chính trị chỉ rõ: trước mắt, ta phải thi hành đúng hiệp định Genève, đồng thời kiên quyết đấu tranh đòi đối phương phải triệt để thi hành hiệp định, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, chống những hành động trả thù, bắt bớ những người kháng chiến cũ, chống địch khủng bố phá hoại cơ sở ta, giữ lấy những quyền lợi của quần chúng giành được trong thời kỳ kháng chiến. Như vậy, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9 năm 1954 đã vạch ra chủ trương chuyển hướng đấu tranh ở miền Nam, chủ động chuyển sang thế tạm thời giữ gìn lực lượng, tạo thời cơ đưa cách mạng tiến lên. Tiếp đó, Trung ương Đảng quyết định thành lập lại Xứ ủy Nam Bộ để lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam. Tháng 10 năm 1954, Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam bộ tại Cán Gáo (rừng U Minh) đã nêu lên đặc điểm tình hình đất nước và đề ra nhiệm vụ mới cho Đảng bộ và Nhân dân miền Nam. Các khu ủy, tỉnh ủy, huyện ủy cũng được kiện toàn cho thích hợp với tình hình mới. Hội nghị cũng đã nhất trí chính thức thành lập Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhiều cán bộ được tăng cường về thành phố để triển khai trực tiếp việc lãnh đạo các phong trào quần chúng. Tháng 11 năm 1954, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và Tỉnh ủy Gia Định họp bàn tiếp thu nghị quyết trên và đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trong hai năm tới, phân công và bố trí lại cán bộ, chấn chỉnh về tổ chức cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh phong trào quần chúng đấu tranh đòi thi hành hiệp định Genève, bảo vệ hòa bình, đòi hiệp thương tổng


102 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) tuyển cử thống nhất đất nước, đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ; về sách lược, phải khôn khéo, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của địch, đề ra khẩu hiệu sát hợp với yêu cầu của quần chúng; về tổ chức và hành động phải tận dụng cả ba thế đấu tranh hợp pháp, bán hợp pháp và không hợp pháp, với ba hình thức công khai, bán công khai và bí mật. Theo phương châm đó ta thành lập các ban vận động trong các ngành, các giới: công vận, phụ vận, tư sản vận, trí vận, hoa vận, báo chí, văn nghệ, học sinh sinh viên; đưa đảng viên vào bám và xây dựng cơ sở ở các trọng điểm; gấp rút đào tạo cán bộ hoạt động đô thị; tổ chức cài cắm người và xây dựng cơ sở nội tuyến trong các cơ quan đầu não của địch... Tỉnh ủy Gia Định chủ trương chống khủng bố kết hợp đòi thi hành hiệp định, giữ ruộng đất mà cách mạng đã tạm cấp cho nông dân, vận động nông dân trở về vườn cũ làm ăn, củng cố các căn cứ cũ, địa đạo, hầm bí mật. Tháng 6 năm 1955, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn họp thường kỳ tại nhà số 300A đường Ngô Tùng Châu, làng Bình Hòa để kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác của Đảng bộ trong ba tháng đầu năm 1955 và đề ra những nhiệm vụ trước mắt. Cũng tại nơi đây, tháng 7 năm 1955, Khu ủy họp lần thứ hai và định ra chế độ họp thường kỳ 3 tháng một lần trong hai năm 1955 - 1956 để chỉ đạo phong trào được liên tục. Lúc này, Khu ủy Sài Gòn quyết định thành lập cấp ủy Quận 2 để lãnh đạo phong trào tại vùng Thị Nghè, Bình Hòa và Phú Nhuận, gồm đồng chí Ba Thuần làm Bí thư Quận ủy, đồng chí Quyền là Phó Bí thư, các ủy viên: đồng chí Nguyễn Văn Phương, Toán, Tám Nghĩa. Được sự chỉ đạo của Khu ủy và Quận ủy, hoạt động phát triển tổ chức Đảng trên toàn địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây được đẩy mạnh, bao gồm việc củng cố các chi bộ Hộ 19, Hộ 20 và thành lập thêm các chi bộ mới. Về việc này, ta được kế thừa một hệ thống tổ chức Đảng và cơ sở tương đối mạnh đã có từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Hộ 20, từ một chi bộ Đảng được thành lập năm 1946 đã phát triển thành nhiều chi bộ như: chi bộ Cầu Bông (gồm Phường 1 và Phường 3 hiện nay) do đồng chí Trần Đăng Lân làm Bí thư; chi bộ Bùi Hữu Nghĩa (Phường 2 và Phường 14); chi bộ Cây Quéo do đồng chí Nguyễn Văn Trí (Hai Đô) làm Bí thư, chi bộ Cây Quéo được chia làm hai chi bộ A và B, chi bộ B do đồng chí Nguyễn Văn Trí trực tiếp làm Bí thư, ngoài ra, ở vùng Cây Quéo lúc bấy giờ còn có một tổ Đảng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Quận ủy Gò Vấp, do đồng chí Hai Đậu làm tổ trưởng; chi bộ Xóm


103 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đình (Phường 3) do đồng chí Đỗ Thị Hữu Bích (Ba Bí) làm Bí thư; chi bộ Bà Chiểu trực thuộc liên Chi bộ Hộ 21 (Phú Nhuận) do đồng chí Lê Đình Tương (Hà Đào), Bí thư liên chi bộ trực tiếp làm Bí thư. Ở Hộ 19 từ năm 1953, Chi bộ Hộ 19 được củng cố, cấp ủy gồm ba đồng chí do đồng chí Lý Văn Lành (Phạm Xuân Huy) làm Bí thư, tiếp tục đẩy mạnh các mặt hoạt động, lãnh đạo phong trào quần chúng đấu tranh dưới sự chỉ đạo của Khu ủy và Quận ủy. Ngoài ra, ở một số địa bàn và xí nghiệp quan trọng thuộc Hộ 19 và Hộ 20 còn thành lập nhiều tổ Đảng như tổ Đảng Cầu Sơn, tổ Đảng Cây Thị, tổ Đảng Lò Vôi, tổ Đảng xưởng Trường Tiền... Các tổ Đảng này hoạt động dưới hình thức “tam tam chế” để lãnh đạo các cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động. Tổ Đảng ở xưởng Trường Tiền (Cây Quéo) gồm ba đồng chí: Lê Văn Hành, Đỗ Tấn Lợi, Trần Văn Trọng, do đồng chí Lê Văn Hành làm tổ trưởng. Phụ trách chung về công tác công vận ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây lúc bấy giờ do một tổ Đảng lãnh đạo, gồm ba đồng chí Nguyễn Văn Hoa (Thiện Tài) là tổ trưởng, Huỳnh Văn Tạo và Nguyễn Tấn Đạt. Nhiệm vụ của tổ Đảng này là xây dựng các cơ sở công đoàn bí mật trong các xí nghiệp để nắm công nhân, vận động, tổ chức công nhân đấu tranh, hòa chung vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thành phố, đồng thời dùng tổ chức nghiệp đoàn công khai của Trần Quốc Bửu để đưa được những hoạt động của ta vào như đấu tranh đòi cải thiện chế độ làm việc, bí mật rải truyền đơn kêu gọi công nhân và nhân dân lao động đứng lên chống địch. Đảng bộ cũng rất chú trọng đến công tác thanh vận. Được sự chỉ đạo của Quận ủy Gò Vấp, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Văn Tám (Trọng Nhân), một tổ thanh niên trung kiên gồm bảy đồng chí được thành lập do đồng chí Sáu Kiên (Sáu Nhất) phụ trách để lãnh đạo thanh niên vùng Cây Thị - Bình Hòa tham gia đấu tranh. Trong các trường học như Trường Cao đẳng Mỹ Thuật, Trung học Mỹ nghệ Thực hành (nay là trường Đại học Mỹ Thuật), trường Hồ Ngọc Cẩn (nay là trường Nguyễn Đình Chiểu), trường Cấp Tiến... cũng đã hình thành các cơ sở cách mạng. Đặc biệt, địa bàn Hộ 19 và Hộ 20 đã trở thành nơi có nhiều cơ sở cách mạng quan trọng của Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn hoạt động như: cơ sở Khu ủy Sài Gòn được xây dựng ở số 300A đường Ngô Tùng Châu (nay là đường Nguyễn Văn Đậu); cơ sở Khu ủy của các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đoàn Văn Bơ, Trần Quốc Thảo được xây dựng ở số 2 đường Nguyễn Duy (Phường 3) - đây là những nơi lui tới, hội họp của các đồng chí lãnh đạo trong Khu ủy, từ đây, các nghị quyết, chương


104 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) trình hành động ra đời, đẩy phong trào cách mạng Sài Gòn - Gia Định đi lên. Cơ sở của đồng chí Lê Duẩn được xây dựng tại số 183/1 đường Nguyễn Văn Học (nay là đường Nơ Trang Long); trụ sở Ban Trí vận thành phố được xây dựng tại số 199/4 Lê Quang Định; trụ sở của Tổng hội phụ nữ Gia Định được xây dựng tại ấp Bác Ái 3 (Bình Hòa); cơ sở huyện ủy Nhà Bè được xây dựng tại chùa Long Vân Tự - Hàng Xanh và tại nhà thầy giáo Đạt (Bình Hòa). Chấp hành các chỉ thị, nghị quyết của trung ương, Xứ ủy và Khu ủy, từ tháng 7 năm 1954 đến giữa năm 1955, các chi bộ Đảng ở Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây đã mở một đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng về nghị quyết của Trung ương Đảng và lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch sau khi Hiệp định Genève được ký kết, thực hiện việc chuyển quân tập kết, việc chuyển hướng về tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng, việc đổi vùng, bố trí lại cán bộ, cất giấu vũ khí, đưa các cán bộ đảng viên vào hoạt động bí mật. Từ sau khi Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954 trở đi, cùng với phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước, phong trào đấu tranh của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã bước sang một giai đoạn lịch sử mới. Việc củng cố, phát triển các tổ chức Đảng và xây dựng các cơ sở cách mạng của Đảng bộ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã thúc đẩy phong trào đấu tranh của Nhân dân đi theo đà biến chuyển mới của cách mạng qua hàng loạt các cuộc đấu tranh chính trị sôi nổi, rộng khắp chống chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm. II. ĐẤU TRANH ĐÒI QUYỀN DÂN SINH, DÂN CHỦ, ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE Trước tình hình đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ra sức xuyên tạc và phá hoại một cách có hệ thống Hiệp định Genève, Đảng đã lãnh đạo quần chúng tiến hành nhiều cuộc đấu tranh chính trị đòi địch phải thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản đã ký kết như: không được bắt bớ, trả thù những người kháng chiến cũ, phải cùng với miền Bắc hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình. Hướng vào mục tiêu đó, tại thành phố, cuối tháng 7 năm 1954, một tổ chức mang tên Phong trào bảo vệ hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn đã được thành lập, đứng đầu là những nhà trí thức yêu nước như: luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng... Bản hiệu triệu của phong trào nói lên nguyện vọng, ý chí của Nhân dân miền Nam: hòa bình, tự do,


105 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) dân chủ, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Phong trào đã nhanh chóng lan rộng ra khắp 21 tỉnh thành miền Nam. Đồng bào các Hộ 19, 20, 21 gửi thỉnh nguyện lên ban lãnh đạo phong trào với nội dung: tán thành Phong trào bảo vệ hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn, yêu cầu nhà cầm quyền thi hành đúng Hiệp định Genève, không phân biệt, hành hạ những người kháng chiến bị bắt bớ tù đày, không bắt lính... Sáng ngày 1 tháng 8 năm 1955 là ngày ngừng chiến, hưởng ứng cuộc biểu dương lực lượng do Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức, hàng ngàn quần chúng ở Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây cùng 5 vạn công nhân và nhân dân thành phố biểu tình đòi chính quyền Diệm thi hành Hiệp định Genève. Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, ngày 7 tháng 11 năm 1954, chính quyền Diệm ra lệnh khám xét trụ sở của phong trào, bắt 8 nhân sĩ trí thức đứng đầu phong trào, trong đó có luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, giáo sư Nguyễn Văn Dưỡng... đem ra tòa án quân sự xét xử nhằm uy hiếp phong trào đấu tranh chính trị đang dâng cao. Suốt trong hai tháng 11 và 12 năm 1954, đông đảo quần chúng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với các tầng lớp trí thức, học sinh sinh viên, công thương gia thành phố đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh phản đối hành động phát xít của ngụy quyền, đòi thả những người bị bắt. Ngày 6 tháng 12 năm 1954, hàng ngàn người đã vượt qua hàng rào cảnh sát, tập trung trước tòa án ngụy để phản đối chính quyền Sài Gòn xử án trái phép. Hòa trong làn sóng đấu tranh đó, cuối tháng 12 năm 1954, gần 25.000 công nhân trong 28 cơ sở quân sự của Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn đình công đòi tăng lương 20%, đòi giảm giá sinh hoạt, đòi thi hành Hiệp định Genève. Cuộc đấu tranh lan ra Thủ Dầu Một, Biên Hòa, kéo dài đến ngày 4 tháng 1 năm 1955 mới tạm dừng, sau khi đạt được một phần yêu sách. Trong lúc đó, các thế lực thân Pháp (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên) trở thành mối đe dọa lớn mà chính quyền Diệm đang lên kế hoạch thẳng tay đàn áp, thanh toán để thâu tóm và củng cố quyền lực. Vì vậy, tháng 3 năm 1955, Diệm mở chiến dịch thanh trừng các giáo phái và lực lượng Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu. Những cuộc giao tranh đẫm máu đã diễn ra ở các khu vực Khánh Hội, Bàu Sen, Chợ Quán, Xóm Củi gây thiệt hại về người và của đối với đông đảo đồng bào đang sinh sống tại đây, làm cho 20.000 nhà dân bị thiêu hủy, hàng trăm nghìn người lâm vào cảnh màn trời chiếu đất. Trước tình hình đó, Ủy ban cứu tế của thành phố do Đảng lãnh đạo được thành lập, đứng ra tổ chức Phong trào cứu tế nạn nhân, bảo vệ sinh mạng và tài sản dân chúng, tập hợp đông đảo quần chúng


106 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) lao động, nhất là anh chị em công nhân, tiểu thương... Phong trào phát triển sôi nổi suốt từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1955. Hưởng ứng phong trào này, các Ủy ban cứu trợ nạn nhân chiến tranh (sau chuyển thành Ủy ban phòng chống hỏa hoạn) được thành lập ở Thị Nghè, Bà Chiểu. Với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực vận động quyên góp tiền của, vật liệu xây dựng, thuốc men, lương thực, thực phẩm, quần áo, vải vóc để cứu trợ đồng bào bị nạn. Hàng ngày, nhất là vào những ngày cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật), hàng trăm quần chúng, gồm nhiều thành phần, lứa tuổi khác nhau, chia thành nhiều nhóm, xuất phát từ Thị Nghè, Bà Chiểu, chuyên chở những thứ đã quyên góp được đến với đồng bào vùng Chợ Quán, Bàu Sen để phân phát cho bà con. Các chủ vựa cây lá ở Thị Nghè, Bà Chiểu, Cầu Bông ủng hộ hàng chục xe cam nhông vật liệu xây dựng để xây cất lại nhà tạm cho đồng bào bị nạn. Ban cứu tế còn vận động bà con đi làm vệ sinh nền nhà, dựng nhà, mỗi tuần có đến 200 - 300 người tham gia. Chỉ riêng lực lượng công nhân ở xưởng Trường Tiền - Cây Quéo, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ Đảng Cây Quéo, đã góp nguyên vật liệu, cất 8 căn nhà. Chị em tiểu thương chợ Cây Thị, Thị Nghè, Bà Chiểu tham gia đóng góp cơ sở vật chất ủng hộ đồng bào bị nạn. Ngoài ra, còn có sự đóng góp của anh chị em thuộc Nghiệp đoàn thợ may Thị Nghè (được thành lập từ cuối năm 1954). Đồng thời, ta bố trí các cơ sở nòng cốt hòa lẫn trong những người đi làm nhà để tranh thủ giải thích cho đồng bào nạn nhân thấy rõ tội ác của giặc, tuyên truyền về sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhiều tốp thanh niên tranh thủ những lúc nghỉ tay ca hát và dạy cho các cháu nhỏ tại chỗ những ca khúc có nội dung yêu nước, cách mạng, yêu hòa bình, chống xâm lăng. Đặc biệt, ta đã tổ chức một cuộc mít tinh đòi địch thi hành Hiệp định Genève tại Bàu Sen với hơn 3.000 người tham gia. Sau bài diễn thuyết vạch trần âm mưu của địch, kêu gọi Nhân dân đoàn kết đấu tranh đòi địch thực hiện Hiệp định, đoàn người chia thành nhiều mũi, giương cao khẩu hiệu, tỏa theo các ngả đường tiến về trung tâm chợ Sài Gòn. Cuộc mít tinh - tuần hành diễn ra nhanh chóng làm cho địch không kịp trở tay đối phó. Ngoài việc ủng hộ đồng bào bị nạn ở Chợ Quán, Bàu Sen, trong hai năm 1955-1956, anh chị em còn thường xuyên vận động quyên góp tiền, thuốc men, quần áo gửi ra chiến khu, trung bình hàng tháng khoảng 500 đồng. Cuối tháng 1 năm 1956, đồng chí Hồ Cầm, đồng chí Phạm Văn Thoại bị địch bắt đày đi Côn Đảo, nghiệp đoàn thợ may Thị Nghè giải thể. Trong phong trào này, ta đã kết hợp đưa những nội dung mang tính chính trị để giáo dục quần chúng. Trong những lần tập hợp quần chúng để đi cứu trợ đồng bào bị


107 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hỏa hoạn, đoàn người tuần hành đã mang theo nhiều băng rôn, khẩu hiệu. Ngoài các khẩu hiệu ủng hộ đồng bào bị nạn, đòi chính quyền Ngô Đình Diệm bồi thường thiệt hại cho Nhân dân, còn có các khẩu hiệu đòi hòa bình, đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Hưởng ứng ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1955, tiểu thương chợ Bà Chiểu, Thị Nghè cùng tiểu thương các chợ khác tập trung về ngã bảy Chợ Lớn biểu tình đòi quyền dân sinh, dân chủ, tăng lương, ngày làm 8 giờ. Ngày 3 tháng 7 năm 1955, đồng bào thành phố mít tinh biểu tình đòi thả 5 người trong Ủy ban cứu tế bị chính quyền Diệm bắt giam. Đến ngày 10 tháng 7 năm 1955, Nhân dân Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa cùng Nhân dân Sài Gòn tổng bãi công, bãi chợ, bãi khóa. Bên cạnh các khẩu hiệu đòi hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất hai miền, còn có những khẩu hiệu “đả đảo phát xít”. Mặc dù chỉ mang tính chất tạm thời và tồn tại trong một thời gian ngắn, phong trào cứu trợ đồng bào bị nạn do Ngô Đình Diệm gây ra đã thể hiện tinh thần đoàn kết tương trợ của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, khơi dậy lòng yêu hòa bình, độc lập và thống nhất của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, nhân dân thành phố và cả miền Nam nói chung. Ngày 15 tháng 7 năm 1955, Diệm chính thức phát động chiến dịch “tố cộng” giai đoạn 1. Những cuộc vây ráp liên tục xảy ra trong các khu phố chính của Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngay sau khi chính quyền Diệm chính thức phủ nhận Hiệp định Genève, cự tuyệt hiệp thương hai miền, Mặt trận Liên Việt Nam Bộ đã ra lời kêu gọi đồng bào miền Nam đấu tranh đòi mở hội nghị hiệp thương. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử của Nhân dân Sài Gòn - Gia Định và cả miền Nam nổ ra mạnh mẽ và sôi nổi. Khắp nơi trong thành phố đều có rải truyền đơn, treo biểu ngữ, đình công, bãi chợ, bãi khóa, biểu tình... Tiêu biểu là cuộc mít tinh của 7.000 công nhân ở Ba Son và Nancy đòi hiệp thương hai miền vào ngày 20 tháng 7 năm 1955, ngày mà hai miền phải gặp nhau bàn việc tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp định Genève. Phong trào ngày càng lan rộng, đặc biệt sôi nổi nhất là từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1955. Các tầng lớp nhân dân lao động, viên chức, trí thức, học sinh sinh viên Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với đông đảo nhân dân thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đồng loạt đấu tranh phản đối hành động ngoan cố của địch. Ngày 28 tháng 9 năm 1955, Nhân dân vùng Bình Quới Tây xã Thạnh Mỹ Tây, các cơ sở nòng cốt của ta như Bùi Văn Lai (Ba Mới), Lê Văn Thu, Huỳnh Văn Huợt, Nguyễn Văn Gòn đã tập hợp một đoàn hơn 30 người trong làng kéo lên Tòa Đô chính ngụy đòi Ủy ban kiểm soát đình chiến nghiêm trị bọn tề xã chèn ép, bắn giết dân lành.


108 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Để “tranh thủ trái tim khối óc người nông dân”, tách nông dân khỏi ảnh hưởng của cách mạng, chương trình “cải tiến nông thôn” của Diệm được triển khai. Tháng 01 năm 1955, Diệm thi hành luật “cải cách điền địa”. Lấy việc thi hành chính sách “cải cách điền địa” làm khẩu hiệu trung tâm, ngày 8 tháng 1 năm 1955, Diệm ra dụ số 2, tiếp đến ngày 3 tháng 2 năm 1955 ra dụ số 7 “cải cách điền địa” và giảm tô, giao đất bỏ hoang cho tá điền canh tác. Ngày 22 tháng 10 năm 1956 lại ra dụ số 57 về quyền truất hữu ruộng đất của chính phủ và “tiểu điền chủ hóa tá điền”. Nhưng cái gọi là “cải cách điền địa” trên thực chất là đuổi dân, lấy đất vì đã có hơn 650.000 ha mà cách mạng cấp cho nông dân bị Diệm cướp không rồi bán đấu giá lại cho nông dân, khiến cho những người dân nghèo không thể mua được. Ngày 9 tháng 3 năm 1955, trong cuộc họp tá điền tại Sài Gòn, hơn 100 đại biểu nông dân đưa yêu sách đòi hủy bỏ chế độ đấu giá công điền. Ngày 1 tháng 5 năm 1955, trên 10.000 nông dân Gia Định tham gia biểu tình tại Sài Gòn, đưa khẩu hiệu đòi sửa đổi luật công điền. 96% nông dân các huyện xung quanh Sài Gòn đã tham gia cuộc đấu tranh chống “cải cách điền địa”, buộc việc đấu giá công điền phải tạm ngưng. Cho đến cuối năm 1956, Diệm mới lấy được một phần ba đất công của nông dân tỉnh Gia Định. Song song với phong trào đấu tranh bảo vệ hòa bình, để chống lại chính sách nô dịch về văn hóa của địch, phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, nâng cao đời sống dân trí cho Nhân dân trong hai năm 1954 - 1955 đã được phát triển rộng rãi tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây và các vùng xung quanh thị xã Gia Định, nhằm giúp đồng bào lao động nghèo biết đọc, biết viết. Qua vận động của các cơ sở bán công khai và Hội Nhà giáo yêu nước, phần lớn giáo viên các trường như trường tư thục Phước An, trường Phú Mỹ đã tích cực tham gia phong trào bằng cách dạy học không lấy tiền, có người còn bỏ tiền ra mua sách, tập để phát cho đồng bào. Các lớp học ban đêm được tổ chức tận các xóm ấp, mượn nhà dân làm địa điểm. Mỗi ấp đều thành lập một ban vận động gồm những người đứng tuổi, có uy tín, hằng đêm đôn đốc, nhắc nhở bà con đi học. Chỉ riêng ở vùng Thị Nghè, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Hộ 19, đã tổ chức được 10 lớp học với khoảng 600 người tham gia. Lồng trong nội dung các bài giảng, ta kết hợp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng cho Nhân dân, như vận động nhân dân Bình Hòa phá rừng cao su của địch để làm nhà, làm vườn, vận động chị em buôn bán ở các chợ Bà Chiểu, Thị Nghè, Cây Quéo đấu tranh đòi giảm tiền chỗ, chống phạt vạ, vận động quần chúng tẩy chay không xem phim, kịch tâm lí chiến phản động của địch ... Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ


109 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) có tác động sâu sắc trong Nhân dân, khơi dậy thêm ý thức giai cấp, lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, lòng căm thù địch trong mọi tầng lớp quần chúng ở vùng Thị Nghè - Gia Định. Trong phong trào truyền bá chữ quốc ngữ những năm 1954 - 1955, tổ chức phụ nữ đóng một vai trò quan trọng. Hội Phụ nữ Nam bộ được thành lập để lãnh đạo phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ. Ở Gia Định, Tỉnh hội phụ nữ đã có những hình thức hoạt động phong phú, thu hút đại bộ phận chị em phụ nữ trong tỉnh tham gia, sôi nổi nhất là ở khu vực Thị Nghè – Bà Chiểu. Trụ sở của Tỉnh hội phụ nữ Gia Định đặt tại trường bình dân do các chị mở ở ấp Bác Ái 3 (nay là Phường 3). Trường này cứ ba tháng mở một khóa gồm nhiều lớp, mỗi lớp có khoảng 40 đến 50 học viên, hoạt động liên tục đến năm 1963 mới giải tán. Ngoài việc tham gia phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, Tỉnh hội phụ nữ Gia Định còn đẩy mạnh các hoạt động tương tế, ái hữu, thành lập nghiệp đoàn thợ may ở Thị Nghè, qua đó nhằm giáo dục ý thức giai cấp trong chị em, tinh thần tương thân tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn. Bên cạnh đó, trong những năm từ 1954 đến 1959, Tỉnh hội phụ nữ Gia Định đã nhiều lần tổ chức các cuộc thăm nuôi tù chính trị ở các nhà lao Gia Định, Thủ Đức, Tân Hiệp (Biên Hòa) với danh nghĩa làm việc phước thiện để che mắt địch. Địch nhiều lần tìm cách ngăn cản, gây khó khăn, nhưng trước lí lẽ đấu tranh khôn khéo, thông minh của chị em, chúng buộc phải nhượng bộ để cho các chị vào thăm anh em tù chính trị, góp phần làm tăng thêm niềm tin và sức mạnh để các đồng chí tiếp tục đấu tranh với địch trong nhà lao của chúng. Để đối phó với phong trào phụ nữ đang lên mạnh, Mỹ - Diệm đã cho ra đời một tổ chức gọi là “phụ nữ liên đới” do Trần Lệ Xuân, vợ của cố vấn Ngô Đình Nhu, đứng đầu. Tổ chức này gồm phần lớn phụ nữ thuộc các tầng lớp trên như vợ con sĩ quan, nhân viên ngụy quyền cao cấp, tư sản địa chủ. Trần Lệ Xuân nhiều lần cho người tìm đến trụ sở Ban Chấp hành Tỉnh hội Phụ nữ Gia Định đòi sát nhập tổ chức của ta vào tổ chức “phụ nữ liên đới”. Hành động đó khiến cho 25.000 chị em hội viên phụ nữ trong toàn tỉnh bất bình. Chị em đã nhiều lần đấu tranh tẩy chay, phản đối hành động o ép nói trên. Trong hai năm 1955 - 1956, cùng với các phong trào đấu tranh chính trị đòi hòa bình rộng lớn là những cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, với những khẩu hiệu như đòi thực hiện các quyền tự do, dân chủ, chống bắt bớ, đánh đập, tra tấn trong các đợt “tố cộng”, chống bắt lính, chống cướp đoạt ruộng đất, đòi tăng lương,


110 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) chống phạt vạ, chống sa thải công nhân của các tầng lớp tiểu thương, công nhân, nông dân, sinh viên học sinh, trí thức toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn diễn ra liên tục, sôi nổi và rộng khắp. Hưởng ứng cuộc bãi công của 800 công nhân nhà máy đèn để phản đối bọn chủ sa thải công nhân vô cớ, ngày 27 tháng 3 năm 1956, Nhân dân Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa cùng Nhân dân quận Gò Vấp tổ chức biểu tình chống sa thải công nhân. Ngày 01 tháng 5 năm 1956, công nhân giao thông xuống đường biểu tình, đình công kỷ niệm ngày Quốc tế lao động và đòi tăng lương. Ngày 29 tháng 7 năm 1956, 160 chị em tiểu thương chợ Cây Thị, Thị Nghè, Bà Chiểu, Gò Vấp thay mặt 30.000 chị em tiểu thương đòi chính quyền Diệm phải bỏ thuế phụ trội 4%, giảm tiền chỗ và thuế môn bài. Cùng với chị em tiểu thương toàn thành phố, chị em tiểu thương ở chợ Thị Nghè, chợ Bà Chiểu và các chợ khác thuộc thị xã Gia Định nhiều lần đấu tranh đòi giảm tiền chỗ, chống phạt vạ. Cuộc đấu tranh vào tháng 4 và tháng 5 năm 1955 chống việc ngụy quyền cho đấu thầu thu thuế chợ, làm tăng thuế chợ lên gấp 6 lần. Hàng ngàn chị em tiểu thương buôn bán khắp các chợ thuộc tỉnh Gia Định đã đưa kiến nghị đòi nhà cầm quyền địa phương bãi bỏ việc đấu thầu chợ. Hàng trăm công nhân và quần chúng lao động ở Thị Nghè - Gia Định đã tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh này. Tháng 7 năm 1956, nghiệp đoàn giáo dục tư thục Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Gò Vấp vận động học sinh trường Cấp Tiến (Bà Chiểu) đấu tranh, biểu tình, đòi quyền dân sinh, dân chủ, đòi quyền tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Sang năm 1957, phong trào đấu tranh của trí thức, học sinh, sinh viên tiếp tục phát triển. Lúc này Ban Trí vận thành phố được thành lập, có một chi nhánh đặt tại nhà số 199/1 đường Lê Quang Định (nay thuộc Phường 7) thường xuyên thu tin tức của đài Hà Nội, tuyên truyền giác ngộ tầng lớp trí thức, học sinh, vận động họ tham gia hoạt động cách mạng. Ngày 20 tháng 7 năm 1956, theo quy định của Hiệp định Genève là ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Trước đó ngày 10 tháng 7 năm 1956, Diệm mở chiến dịch đàn áp mang tên Trương Tấn Bửu (bắt đầu từ ngày 10-7-1956 đến ngày 24-2- 1957) trên phạm vi miền Đông Nam bộ kể cả phân khu Sài Gòn – Chợ Lớn, mục tiêu là tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam cùng tàn dư của Bình Xuyên, Cao Đài do thiếu tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy, mở đầu thời kì khủng bố khốc liệt nhất ở miền Nam bằng chiến lược “tố cộng, diệt cộng”.


111 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Từ tháng 7 năm 1954 đến cuối năm 1956, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, Quận ủy, chi bộ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã lãnh đạo quần chúng nhân dân bước vào cuộc đấu tranh chính trị bằng các hình thức đấu tranh thích hợp, sử dụng linh hoạt hai hình thức công khai và nửa công khai, tạo thành cao trào đấu tranh chính trị rộng khắp trong mọi tầng lớp nhân dân, hòa chung với cao trào đấu tranh chính trị sôi nổi, rộng lớn nhằm bảo vệ hòa bình, đòi thi hành hiệp định Genève của Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn. Điều đó chứng tỏ sự nhạy bén, linh hoạt, nhanh chóng triển khai lực lượng, nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng, đề ra khẩu hiệu thích hợp của Đảng bộ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, tạo tiền đề quan trọng cho Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây bước vào cuộc đấu tranh mới gay go hơn, quyết liệt hơn nhằm chống lại chính sách “tố cộng, diệt cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm – một hình thức khủng bố trắng nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng của Nhân dân miền Nam nói chung và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng. III. CHỐNG ĐỊCH “TỐ CỘNG, DIỆT CỘNG”, KHÔI PHỤC PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Tháng 12 năm 1956, tại Phnôm Pênh, Xứ ủy họp nghiên cứu Nghị quyết 6 của Bộ Chính trị và đồng chí Lê Duẩn trình bày Đề cương cách mạng miền Nam. Xứ ủy xác định: con đường chủ yếu của cách mạng miền Nam là bạo lực, chủ trương tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập các đội vũ trang bí mật, xây dựng căn cứ ở vùng rừng núi. Trong hai tháng đầu năm 1957, Xứ ủy làm việc trực tiếp với từng đồng chí trong Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn để đánh giá lại toàn bộ phong trào thành phố, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng trong thời gian sắp tới. Về đấu tranh vũ trang, Xứ ủy chỉ đề cập đến việc duy trì các lực lượng vũ trang đã có. Tháng 2 năm 1957, Tỉnh ủy Gia Định họp ở xã Tân Phú Trung xác định tiếp tục nhiệm vụ đưa phong trào quần chúng đi lên, trước hết cần giáo dục sâu nhận thức về kẻ thù, về tính lâu dài của cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất đất nước, đẩy mạnh công tác binh vận, thực hiện chủ trương “điều lắng”, phân loại chi bộ lộ và không lộ để bảo vệ cho tốt. Tháng 4 năm 1957, cán bộ đảng viên được Tỉnh ủy Gia Định triệu tập về dự hội nghị và học tài liệu về Đề cương cách mạng miền Nam. Chủ trương, chỉ đạo của Xứ ủy, Tỉnh ủy chưa được triển khai thì địch đã bắt đầu đợt đánh phá mới rất mạnh. Diệm chủ trương trực tiếp đánh phá Đảng ta và các tổ chức quần chúng của Đảng. Lực lượng đảng viên bị tổn thất nhanh chóng.


112 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tháng 5 năm 1957, Diệm ban bố luật “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”. Ngày 20 tháng 7 năm 1957, Diệm tổ chức một cuộc “tố cộng” lớn ở thị xã Gia Định, cưỡng ép Nhân dân tố giác cộng sản, dưới sự chỉ huy trực tiếp của tên Nghi, phó tỉnh trưởng bảo an kiêm chỉ huy bót Hàng Keo. Nhưng cuộc “tố cộng” đã bị thất bại trước tinh thần yêu nước, bảo vệ cách mạng của Nhân dân Bình Hòa – Thạnh Mỹ Tây nói riêng, Nhân dân tỉnh Gia Định nói chung. Ngày 20 tháng 4 năm 1958, Diệm mở chiến dịch Nguyễn Trãi (từ ngày 20-4 1958 đến ngày 20-11-1958), liên tục tổ chức các cuộc càn quét lớn hòng tiêu diệt những người cộng sản ở 8 tỉnh miền Đông Nam bộ, song song với chiến dịch Hồng Châu càn quét vùng ngoại ô Sài Gòn (ngày 18 tháng 8 năm 1958). Ngày 6 tháng 5 năm 1959, luật 10/59 ra đời, cho phép lập các “tòa án quân sự đặc biệt”, Diệm cho lê máy chém khắp mọi nơi, tự do giết người không cần xét xử, hòng “chặt hết đầu cộng sản” – uy hiếp tinh thần cách mạng của Nhân dân. Trong khi địch bắt đầu tập trung đánh vào những người cộng sản và phong trào yêu nước, ta đã kịp thời chuyển hướng trong chỉ đạo đấu tranh, trước hết là làm sao duy trì được đấu tranh chính trị ở nội thành. Mục tiêu dân sinh, dân chủ được đặt ra, sát hợp với đòi hỏi trước mắt của quần chúng, đồng thời tạo điều kiện tận dụng được khả năng công khai, hợp pháp của các tổ chức quần chúng. Nhân ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1957, hàng ngàn quần chúng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với gần ba mươi vạn đồng bào thành phố xuống đường biểu tình chống Mỹ - Diệm, đòi hòa bình, thống nhất, chống phá nhà, cướp đất. Đoàn biểu tình nêu cao khẩu hiệu “Thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình”, “tăng lương cho công nhân viên chức”, “chấm dứt nạn đuổi nhà”, “giải quyết nạn thất nghiệp”, “miễn thuế lương bổng cho giáo sư tư thục”... Ngày 10 tháng 5 năm 1957, nhiều công nhân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây làm việc ở xưởng Ba Son đã tham gia bãi công chiếm xưởng. Tháng 8 năm 1957, chị em tiểu thương ở các chợ Bà Chiểu, Thị Nghè cùng với đông đảo quần chúng lao động địa phương đã tích cực đấu tranh chống ngụy quyền tăng tiền điện, nước. Cũng trong năm 1957, hàng ngàn chị em tiểu thương buôn bán ở các chợ thuộc Gia Định đã đưa kiến nghị đòi nhà cầm quyền địa phương bãi bỏ việc đấu thầu chợ. Do việc bọn chủ thầu không những tăng tiền chỗ, mà còn cho người thu tiền chỗ chửi mắng, đánh đập bạn hàng nào không đóng đủ tiền chỗ đúng quy định, chị em tiểu thương đã tổ chức chống lại. Cuộc đấu tranh này đã tác động đến một số công chức và cảnh sát ngụy. Trước làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của chị em tiểu thương, tên cảnh sát trưởng Thị Nghè buộc phải xuống nước bằng cách tuyên bố chị em bạn hàng được đóng


113 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) thuế chợ như thuế biểu cũ. Từ thắng lợi của chị em tiểu thương chợ Thị Nghè, chị em tiểu thương ở các chợ Bà Chiểu, Tân Định, Gò Vấp, Hóc Môn nhân đó cũng đồng loạt đấu tranh, kiên quyết không chịu đóng tiền chỗ theo thuế biểu mới và chống bọn chủ thầu tiền chỗ phạt vạ, đánh người vô cớ. Tháng 8 năm 1957, trong chiến dịch “tố cộng”, Diệm sử dụng tên phản bội Ba Búa (là công an của ta ở Giồng Ông Tố) và hệ thống mật vụ khác vây bắt một số đảng viên của ta hoạt động ở Thạnh Mỹ Tây như đồng chí Chín Hủ, Ba Sơn, Nguyễn Văn Tám. Cuối năm 1957, để phục vụ cho nhu cầu quân sự, mở rộng bình định ra các vùng nông thôn, chính quyền Diệm ra lệnh dùng xe ủi đất san phẳng nhà cửa, hoa màu hai bên đường Hùng Vương (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) để nới rộng con đường này. Chi bộ Cầu Sơn, chi bộ Thị Nghè (Hộ 19) và các cơ sở Đảng tại chỗ đã lãnh đạo quần chúng tham gia đấu tranh chống địch đuổi nhà, cướp đất bằng nhiều hình thức, nhiều mức độ từ thấp đến cao như: đưa đơn kiến nghị gởi đến tòa đại sứ Mỹ hoặc dùng bạo lực chống trả lại hành động ngang ngược của địch. Gần 2.000 quần chúng, trong đó có các nhà sư chùa Linh Phước đã tập trung ra đường cản đầu xe ủi, dùng gậy gộc, dao mác và gạch đá chống lại lựu đạn cay và súng ống của cảnh sát ngụy cùng bọn nhân viên hãng RMK của Mỹ. Địch đàn áp dã man và bắn chết chị thợ giặt Trần Thị Thảo (ở nhà số 37 đường Tôn Thọ Tường, Thị Nghè), làm bị thương một số người khác và bắt giam 119 người. Mặc dù vậy, quần chúng vẫn không lùi bước. Cuộc đấu tranh kéo dài đến đầu năm 1959, cuối cùng địch phải nhượng bộ, chịu chấp nhận đền bù thiệt hại cho đồng bào về nhà cửa, ruộng vườn trước khi tiến hành làm đường, đồng thời phải thả hết những người bị chúng bắt giam trong các cuộc đấu tranh trước đó. Ngày 1 tháng 2 năm 1958, địch gây ra vụ thảm sát ở Phú Lợi, hàng ngàn người yêu nước bị giết. Tháng 2 năm 1958, công nhân hãng dầu Caltex (Nhà Bè) bãi công 10 ngày để phản đối việc đuổi thợ, được sự ủng hộ của đông đảo công nhân lao động ở các hãng xưởng khác, trong đó có công nhân hãng dầu Cầu Kinh. Cũng trong tháng 2 năm 1958, thanh niên, học sinh sinh viên vùng Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tích cực hưởng ứng cuộc đấu tranh của học sinh sinh viên thành phố đòi dùng tiếng Việt ở bậc đại học, đòi sửa chương trình học cho thích hợp với một nền giáo dục độc lập và đòi cải cách dân chủ trong nhà trường. Cuộc đấu tranh kéo dài trong nhiều tháng, sau đó được các giáo sư và phụ huynh học sinh hưởng ứng, đồng tình tham gia đấu tranh. Ngày 3 tháng 2 năm 1958, kỷ niệm ngày thành lập Đảng, khắp nơi ở Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa, đặc biệt là hai bên đường Nguyễn Văn


114 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Học (nay là đường Nơ Trang Long), cờ Đảng và cờ đỏ sao vàng được bí mật treo cao với những chùm lựu đạn giả để chống địch tháo xuống. Ngày 29 tháng 4 năm 1958, dưới sự chỉ đạo của các tổ chức đảng, chị em tiểu thương chợ Cây Thị, Thị Nghè, Bà Chiểu, Gò Vấp, Xóm Mới kéo về thành phố mít tinh biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động. Chị em tiểu thương nêu cao khẩu hiệu “chống chính quyền Ngô Đình Diệm”, “đuổi Mỹ về nước”. Địch khủng bố trắng, giải thể 30 nghiệp đoàn ở các chợ, chúng bắt đi những đồng chí đảng viên lãnh đạo nghiệp đoàn ở chợ Bà Chiểu như Nguyễn Thị Tư (Tư Chè), Năm Công, Đỗ Thị Hữu Bích, Lê Đình Tương. Tháng 5 năm 1958, địch liên tục mở các đợt “tố cộng” rồi khủng bố trắng, các đồng chí Mười Bốn, Tám Bảo, Nguyễn Thông Quang bị bắt. Trước tình hình khủng bố của địch, các phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống, một số đồng chí đảng viên khác phải chuyển vùng hoạt động. Mặc dù cơ sở Đảng bị tổn thất nghiêm trọng, nhưng các cán bộ, đảng viên chưa bị bắt vẫn tiếp tục len lỏi hoạt động để lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ở các xưởng Trường Tiền, hãng dầu Cầu Kinh, các đồng chí trong nghiệp đoàn bí mật của ta vẫn liên tục hoạt động chống lại “công đoàn vàng” của Trần Quốc Bửu, đồng thời đấu tranh đòi địch phải thả những cán bộ nghiệp đoàn bị bắt, đòi quyền tự do nghiệp đoàn. Cuối năm 1958, Xứ ủy Nam Bộ, Khu ủy Sài Gòn họp bàn về công tác khôi phục các cơ sở Đảng, xây dựng các tổ chức quần chúng (thanh niên, phụ nữ, nghiệp đoàn) để vừa bảo toàn lực lượng, vừa đưa phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát triển. Thực hiện chủ trương này, Quận ủy quận Gò Vấp điều động đồng chí Ba Tân và Tám Mây về phụ trách vùng Cây Thị (Bình Hòa). Tháng 01 năm 1959, tổ Đảng Cây Thị được thành lập do đồng chí Sáu Hộ làm Tổ trưởng. Tháng 02 năm 1959, đồng chí Sáu Đầm - đảng viên ở tổ Đảng Cây Thị đưa đồng chí Lê Chánh Dinh, cán bộ Khu ủy Sài Gòn về vùng Xóm Chùa (Thạnh Mỹ Tây) hoạt động xây dựng cơ sở. Tháng 4 năm 1959, tổ chức Đoàn Thanh niên Lao động được xây dựng ở Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa, gọi tắt là “Thanh lao”. Mỗi hộ Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa có 2 tổ Thanh lao hoạt động mạnh mẽ. Tháng 01 năm 1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 15 về tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Hội nghị xác định: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa


115 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân(1)”. Tháng 11 năm 1959, Xứ ủy Nam Bộ triệu tập Hội nghị Xứ ủy mở rộng để phổ biến và thảo luận về Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15. Xứ ủy quán triệt tinh thần Nghị quyết 15 về việc dùng vũ trang để đánh đổ ngụy quyền, tiến tới giành quyền làm chủ, dưới hình thức là “diệt ác, phá kềm”. Theo kiến nghị của đồng chí Võ Văn Kiệt, Xứ ủy quyết định sát nhập Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn và Đảng bộ Gia Định thành một Đảng bộ lấy tên là Đảng bộ Khu Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư(2). Thực hiện theo sự chỉ đạo của Xứ ủy và Khu ủy Sài Gòn – Gia Định, nhiệm vụ của Quận ủy Gò Vấp là gấp rút xây dựng cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng, xây dựng tự vệ mật và du kích xã. Ở Thạnh Mỹ Tây và Bình Hòa, các chi bộ Đảng được củng cố như chi bộ Cầu Bông, chi bộ Cây Quéo, chi bộ Xóm Đình. Đội tự vệ mật Thạnh Mỹ Tây được thành lập do đồng chí Lê Chánh Dinh phụ trách. Đội tự vệ mật Bình Hòa được thành lập do đồng chí Hai Đô làm tổ trưởng. Việc xây dựng và củng cố các cơ sở Đảng tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã từng bước góp phần khôi phục được phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. Từ năm 1957 đến năm 1959 là thời kỳ gay go, khốc liệt chống chính sách “tố cộng, diệt cộng” của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng bị đàn áp, các cơ sở cách mạng bị khủng bố, tan rã, tổn thất nặng nề. Mặc dù vậy, cán bộ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây vẫn kiên cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, từng bước khôi phục các lực lượng cách mạng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh bắt đầu từ việc đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ thiết thực nhất, tiến tới đẩy mạnh đấu tranh chính trị, chống địch khủng bố, đàn áp bằng phong trào “diệt ác, phá kềm” tạo bước chuyển mới trước cuộc Đồng khởi. VI. ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ, DIỆT ÁC, TIẾN TỚI ĐỒNG KHỞI Nhân ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1959, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, hàng ngàn công nhân, thanh niên, phụ nữ ở Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây xuống đường cùng với nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định biểu tình đòi tăng lương, đòi giải quyết nạn thất nghiệp, hạn chế nhập cảng các thứ hàng hóa mà 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 82. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (1930 – 1975), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014, tr. 608.


116 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) trong nước sản xuất được, đòi bỏ thuế 6% đánh vào hàng nội, giảm tô tức, cấm lưu hành các báo chí, phim ảnh đồi trụy đầu độc thanh niên, học sinh. Tháng 12 năm 1959, nhân dân lao động Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây cùng với đồng bào thành phố đấu tranh đòi Diệm bỏ “Luật 10/59”, lên án chế độ độc tài, phát xít của Diệm. Tháng 02 năm 1960, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng Bình Hòa, các đồng chí Tư Khai, Hồ Tước, Nguyễn Mạnh Cường, Phạm Thị Ba lãnh đạo công nhân hãng dệt Nam Á đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi giảm giờ làm. Cuộc đấu tranh kéo dài 20 ngày, cuối cùng bọn chủ nhà máy buộc phải thực hiện yêu sách của công nhân. Song song với việc vận động quần chúng đấu tranh chính trị, các đồng chí đảng viên ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây còn tiến hành các hoạt động trừ gian, diệt ác, làm kẻ thù phải khiếp sợ. Ở ấp Nhất Trí 3 (nay là Phường 15 và Phường 17), đồng chí Ba Thu đã viết thư cảnh báo bọn trưởng, phó ấp ác ôn như Ba Bó, Tư Hiếu khiến chúng không dám gây tội ác như trước. Tháng 5 năm 1960, ở Bình Quới Tây, cán bộ cơ sở đã viết thư cảnh cáo hàng loạt bọn ác ôn gửi khắp nơi như ở Đồng Ông Cộ, Cây Thị, Bình Quới. Những ngày đầu năm 1960, Diệm cho mật vụ đi khắp nơi với khẩu hiệu “đập rắn phải đập nát đầu, diệt cộng sản phải diệt tận gốc”, tổ chức bắt bớ, bắn giết cán bộ. Thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng và dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ, tháng 01 năm 1960, phong trào Đồng khởi của Nhân dân miền Nam nổ ra mạnh mẽ, bắt đầu từ tỉnh Bến Tre (từ ngày 17 tháng 1 năm 1960) tạo ra một khí thế mới trên toàn miền Nam, đặc biệt là xuất hiện hình thức 3 mũi giáp công, sử dụng thế hợp pháp rất sinh động. Phong trào lan rộng ra khắp các tỉnh ở Nam bộ, đặc biệt chiến thắng Tua Hai đã trở thành phát pháo lệnh đồng khởi ở miền Đông. Chủ trương của Khu ủy Sài Gòn - Gia Định về Đồng khởi trên địa bàn khu là: ở nông thôn ngoại thành theo phương châm, hình thức như Khu 8; ở ven đô thì “bí mật, đánh đau, đánh hiểm”, khôn khéo che giấu lực lượng. Ngày 4 tháng 2 năm 1960, trong không khí chiến thắng Tua Hai. Ở Gò Vấp, các đồng chí Tô Mai Hoa, Nguyễn Văn Dưa, Ngô Văn Hồi đã mai phục tại Thông Tây Hội, dùng gậy và cuốc đánh chết 2 tên công an ngụy, thu 1 súng carbine, 1 súng thompson.


117 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Tháng 7 năm 1960, Xứ ủy mở hội nghị lần thứ 5 đánh giá tình hình, đề ra nhiệm vụ trước mắt là “Tiếp tục tấn công chính trị làm cho địch thất bại hơn nữa trên mọi mặt nhằm đánh bại từng bước âm mưu, chính sách của địch, tạo điều kiện và thời cơ cho cuộc khởi nghĩa, đánh đổ toàn bộ chính quyền Diệm”. Hội nghị quyết định các khu “đồng khởi” phối hợp với Khu 8, đợt hai bắt đầu từ ngày 24 tháng 9 năm 1960. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh tốc độ xây dựng lực lượng vũ trang và hoạt động vũ trang để hỗ trợ cho quần chúng tiếp tục vùng lên giành quyền làm chủ. Tại thành phố Sài Gòn - Gia Định, các lực lượng vũ trang địa phương được thành lập ở Hóc Môn, Gò Vấp, Bình Chánh, Thủ Đức trước mắt làm nhiệm vụ võ trang tuyên truyền, diệt ác, gọi là các đội tự vệ mật. Ở Gia Định, Nhân dân tổ chức “đồng khởi” ngay từ tháng 8 năm 1960 và kéo dài đến cuối năm. Ngày 28 tháng 8 năm 1960, đội tự vệ mật Thạnh Mỹ Tây rải truyền đơn bướm ở Thạnh Mỹ Tây, Bình Hòa và các chợ Cây Thị, Thị Nghè, Bà Chiểu lên án chế độ Diệm và cảnh cáo bọn tề xã. Cuối tháng 8 năm 1960, đội tự vệ mật Bình Hòa dùng 30 kg TNT đánh sập tòa nhà của bọn cố vấn Mỹ cạnh tiểu đoàn 507 ngụy phía sau trại Trần Hưng Đạo (Gò Vấp), phá sập nhà lầu 2 tầng bằng bê tông cốt thép, tiêu diệt 1 tên địch và làm 5 tên khác bị thương. Trong trận đánh này, đồng chí Nguyễn Văn Chiêu 18 tuổi, bị địch bắt. Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi “đảo chính hụt” Ngô Đình Diệm. Nhân cơ hội này, Nhân dân Sài Gòn rầm rộ biểu tình đả đảo chế độ Diệm, quân đội của Diệm và cả quân đảo chính đã xả súng bắn vào đoàn biểu tình, nhiều người chết và bị thương. Cuối tháng 11 năm 1960, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây cùng với Nhân dân Sài Gòn - Gia Định tổ chức biểu tình, bãi công, bãi thị phản đối Mỹ - Diệm tàn sát, khủng bố nhân dân, đòi Diệm phải từ chức. Trong phong trào Đồng khởi năm 1960, Nhân dân miền Nam đã đứng lên giành quyền làm chủ trên một địa bàn rộng lớn, đánh đổ từng mảng lớn hệ thống chính quyền địch ở nông thôn, làm phá sản chiến lược chiến tranh đơn phương (một phía) của Mỹ - ngụy. Trên cơ sở thắng lợi to lớn của phong trào, ngày 20 tháng 12 năm 1960, tại một căn cứ cách mạng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, đảng phái, các tôn giáo, các dân tộc miền Nam đã họp đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội thông qua chương trình 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.


118 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đánh dấu bước chuyển mình của cách mạng miền Nam. Kể từ đây, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng và nhân dân thành phố Sài Gòn - Gia Định nói chung bắt đầu bước sang một giai đoạn mới. Từ năm 1954 đến năm 1960 là giai đoạn khó khăn trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, của cách mạng Sài Gòn - Gia Định và miền Nam nói chung. Kiên cường chịu đựng và vượt qua sự đàn áp khốc liệt của kẻ thù, gìn giữ và từng bước phát triển lực lượng cách mạng, Đảng bộ và Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã vượt lên, tham gia có hiệu quả vào cao trào đấu tranh chính trị, tiến tới khởi nghĩa vũ trang của Nhân dân toàn thành, toàn miền Nam, chuẩn bị mọi điều kiện để vững vàng bước vào giai đoạn lịch sử mới: chiến tranh cách mạng.


119 Chương sáu XÂY DỰNG TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO VÀ LỰC LƯỢNG TẠI CHỖ, KẾT HỢP NỘI THÀNH VÀ NGOẠI THÀNH, ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VÀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT CỦA MỸ (từ năm 1961 đến giữa năm 1965) I. XÂY DỰNG TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO VÀ LỰC LƯỢNG TẠI CHỖ THEO YÊU CẦU CHUYỂN NHIỆM VỤ TỪ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ SANG ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG Với cuộc Đồng khởi sôi nổi năm 1960, cách mạng miền Nam đã chuyển giai đoạn. Ngày 24 tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, chỉ rõ tính chất giai đoạn mới, Chỉ thị xác định: phải đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt trận chính trị, quân sự trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị). Song do đặc điểm phong trào cách mạng miền Nam phát triển không đều, so sánh lực lượng ta và địch ở mỗi vùng khác nhau nên phải vận dụng phương châm đấu tranh linh hoạt, thích hợp với từng vùng: vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu; vùng đồng bằng, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ngang


120 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) nhau, vùng đô thị đấu tranh chính trị là chủ yếu, có vũ trang hỗ trợ. Trong đấu tranh phải giữ thế hợp pháp với địch nhưng từng lúc cần thiết cũng phải biết dùng cả đấu tranh không hợp pháp. Về nhiệm vụ cụ thể, chỉ thị nêu rõ: “Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta cả về hai mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận Dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ – Diệm, giải phóng miền Nam(1)”. Về phía địch, qua cuộc Đồng khởi năm 1960, chúng thừa nhận “Việt cộng dần dần mở rộng quyền kiểm soát ở nông thôn”(2)... vào cuối năm 1960, toàn bộ vùng nông thôn Nam phần và Tây Nam Sài Gòn, một số vùng phía Bắc Sài Gòn bị cộng sản kiểm soát quá một nửa và bao vây Sài Gòn.(3) Mỹ xác định là phải thay đổi chiến lược, nhưng do dự, tính toán hơn một năm (từ đầu năm 1960) mới quyết định chuyển chiến lược từ “tố cộng, diệt cộng” sang “chiến tranh đặc biệt”, còn gọi là “chiến tranh chống lật đổ”, trong khuôn khổ chiến lược “phản ứng linh hoạt, nhằm đánh bại phong trào cách mạng đã phát triển thành chiến tranh du kích”. Công thức của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là: quân ngụy cộng vũ khí và đô la Mỹ đặt dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ. Biện pháp cơ bản của nó là “ấp chiến lược”, một mũi tên nhằm vào hai mục tiêu: tách dân ra khỏi ảnh hưởng của cách mạng và biến mỗi ấp thành một “pháo đài chống cộng”. Để cụ thể hóa chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, một kế hoạch mang tên Staley - Taylor được thông qua và triển khai ở miền Nam nhằm giành thắng lợi quyết định trong 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962)(4) trong đó phần cốt lõi là phải lập cho được 16.000 khu, ấp chiến lược trên toàn miền Nam. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 22, sđd, tr. 169. 2. Báo cáo ngày 16 tháng 9 năm 1960, của Đại sứ Mỹ Durbrow. Trích trong tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ - tập 1 - VNTTX phát hành. 3. Báo cáo của Phân cục tình báo CIA tại Sài Gòn. 4. Từ tháng 6 năm 1961 đến tháng 10-1961, Mỹ lần lượt cử các phái đoàn kinh tế và quân sự do Staley, Maxwell D. Taylor cầm đầu, sang miền Nam để xây dựng một kế hoạch tổng thể 18 tháng theo chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.


121 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Ngày 13 tháng 4 năm 1961, Diệm ra sắc lệnh số 98/QP bãi bỏ tổ chức quân khu, chia lãnh thổ miền Nam thành ba vùng chiến thuật. Biệt khu thủ đô được thành lập ngày 13 tháng 4 năm 1961 gồm đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định (trừ Củ Chi) ban đầu trực thuộc vùng chiến thuật 3; từ tháng 11 năm 1962 trực thuộc Bộ Tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn. Ngày 18 tháng 10 năm 1961, Diệm tuyên bố “tình trạng khẩn cấp” vô thời hạn trên toàn miền Nam. Với hy vọng có thể đè bẹp được phong trào nổi dậy của quần chúng, giữ vững an ninh đô thành, địch đặc biệt ưu tiên tăng cường lực lượng biệt khu thủ đô. Bên cạnh lực lượng biệt khu thủ đô, trong đô thành còn có lực lượng của Nha cảnh sát Trung ương và các cơ quan an ninh tình báo hỗn hợp Mỹ - ngụy. Bảo vệ vòng ngoài biệt khu Sài Gòn - Gia Định có lực lượng 3 sư đoàn và trung đoàn chủ lực, 22 tiểu đoàn và 11 đại đội bảo an. Riêng ở Thị Nghè có trại Cửu Long là căn cứ lữ đoàn thủy quân lục chiến. Bước sang thời kỳ chiến tranh cách mạng, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định vẫn là trung tâm phong trào đô thị miền Nam với một lực lượng chính trị vô cùng quan trọng mà địch ra sức khống chế, ta nhất quyết phải giành giật lại bằng mọi cách, biến thành lực lượng đấu tranh tiền phương và dự trữ của ta, làm cho hậu phương địch không bao giờ yên ổn. Tuy nhiên, do những tổn thất lớn trước năm 1960, do một số lệch lạc trong nhận thức của các cấp bộ Đảng từ khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng(1) phong trào và lực lượng cách mạng miền Nam đang ở tình trạng mà Bộ Chính trị đã nhận xét “nhìn chung cả nông thôn và thành thị, lực lượng chính trị của quần chúng lên cao nhưng lực lượng vũ trang còn yếu, chưa được tổ chức chặt chẽ và thích ứng với tình hình nhiệm vụ mới của chiến tranh cách mạng(2). Bộ Chính trị nhận định về phong trào ở Sài Gòn - Chợ Lớn trong và sau Đồng khởi (trong chỉ thị ngày 24 tháng 1 năm 1961): “Còn yếu, gần đây mới bắt đầu lên...”. Những lệch lạc trong nhận thức trong khi chuyển giai đoạn biểu hiện trong hành động như chỉ nặng mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng, chưa chú ý xây 1. Tháng 10 năm 1961, Hội nghị Trung ương Đảng (có đại biểu các Liên tỉnh ủy tham dự) đã kiểm điểm tình hình, đấu tranh, phê phán tư tưởng hữu khuynh, hòa bình chủ nghĩa đã gây thiệt hại lớn đối với Đảng bộ miền Nam trong những năm 1957 - 1959. Sau đó, Trung ương Cục có nhiều chỉ thị chỉ đạo và uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức tư tưởng của các cấp bộ Đảng sau khi có Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng. 2. Những sự kiện lịch sử Đảng, Nxb Thông tin lý luận Hà Nội 1985 tập 3, tr. 213.


122 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) dựng cơ sở lâu dài, tiến mà chưa chú ý tránh bộc lộ lực lượng, phát triển chưa đi đôi với củng cố, nặng hình thức đấu tranh bất hợp pháp, nhẹ tận dụng kết hợp ba hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp, không hợp pháp... Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chủ trương lọc lại và củng cố các cơ sở cũ đã có đồng thời đi sâu, nhanh chóng xây dựng và phát triển cơ sở mới. Ngày 19 tháng 3 năm 1961, Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định chính thức thành lập do đồng chí Huỳnh Tấn Phát, khu ủy viên làm chủ tịch. Các tổ chức đoàn thể là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng lần lượt ra đời: Hội Liên hiệp Sinh viên - Học sinh giải phóng miền Nam (09-01-1961), Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam (08-3-1961), Hội Liên hiệp Thanh niên giải phóng miền Nam (24-4-1961), Hội Lao động giải phóng miền Nam (27- 4-1961) sau đổi tên là Hội Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam. Tháng 5 năm 1961, Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định thành lập Bộ chỉ huy quân sự Miền và các quân khu ở miền Nam trong đó có Quân khu Sài Gòn - Gia Định (mật danh T4, I4), do đồng chí Trần Hải Phụng làm Chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Hồng Đào làm Chính ủy. Cuối năm 1961 Bộ Chỉ huy quân khu tổ chức thành hai bộ phận phụ trách nội thành và ngoại thành. Trung ương Cục(1) tăng cường cán bộ cho Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, gồm 13 đồng chí, vẫn do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Hồng Đào làm Phó Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Thái Sơn (Bảy Bình) phụ trách tổ chức, Trần Hải Phụng phụ trách quân sự, Năm Tấn phụ trách an ninh; Trần Quang Cơ và Hồ Hảo Hớn phụ trách thanh vận; Huỳnh Tấn Phát phụ trách trí vận. Để khai thác khả năng cách mạng phục vụ công tác nội thành và để thích hợp với những đối tượng ngành, giới, ta thành lập các Ban vận động: Công vận, Thanh vận, Phụ vận, Hoa vận, Binh vận, Tư sản vận, Báo chí – Văn nghệ, Trí vận, Học sinh - Sinh viên... có Ban cán sự Đảng của ngành, có tổ chức tự vệ vũ trang và tự vệ mật. Theo yêu cầu phát triển của phong trào và nhằm mở rộng hoạt động của hai quận có mối quan hệ mật thiết từ lâu, tháng 5 năm 1961, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định quyết định hợp nhất Gò Vấp và Hóc Môn thành quận Gò Môn. Ban Chấp 1. Ngày 23 tháng 1 năm 1961, Hội nghị Trung ương Đảng quyết định giải thể Xứ ủy Nam Bộ và thành lập Trung ương Cục miền Nam


123 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) hành Quận ủy do đồng chí Út Hội làm Bí thư, đồng chí Lê Trung Nghĩa làm Phó Bí thư. Trong các xí nghiệp, nhà máy ta cũng xây dựng thêm được một số chi bộ ở hãng dệt Nam Á do đồng chí Năm Dựa làm Bí thư. Song song với việc phát triển Đảng, Quận ủy rất chú trọng việc phát triển Đoàn. Ở các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây đều có chi đoàn trực thuộc chi bộ tại chỗ. Ngày 20 tháng 9 năm 1961, hội nghị Khu ủy Sài Gòn - Gia Định lần thứ nhất quyết định chia địa bàn Sài Gòn - Gia Định thành 3 vùng: vùng căn cứ giải phóng, vùng tranh chấp ven đô và vùng nội thành. Căn cứ tình hình, tương quan lực lượng giữa ta và địch, hoàn cảnh địa lý, khả năng tập hợp, huy động lực lượng quần chúng, mỗi vùng có phương châm, hình thức và nội dung đấu tranh thích hợp. Vùng tranh chấp ven đô: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang ngang nhau, tạo lõm du kích sát đô thị; vùng nội thành lấy đấu tranh chính trị làm chính có kết hợp đấu tranh vũ trang từng mức độ, tạo điều kiện xây dựng các lõm chính trị từ ngay trong lòng Sài Gòn. Cụ thể hóa phương châm, chủ trương về công tác ở nội thành, Khu ủy chủ trương triệt để thực hiện nguyên tắc ngăn cách giữa bí mật và công khai, hết sức tận dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp, phát triển lực lượng cách mạng, đặc biệt chú trọng bảo toàn lực lượng về lâu dài, đón thời cơ. Trong lãnh đạo, cần hết sức chú ý những quyền lợi thiết thân của quần chúng, khéo kết hợp yêu cầu dân sinh, dân chủ với khẩu hiệu hòa bình, trung lập, chống phá các cuộc bầu cử mị dân của địch (như đợt bầu tổng thống nhiệm kỳ II) và vạch trần bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ. Ở nông thôn ngoại thành, Khu ủy chủ trương đẩy mạnh phong trào nổi dậy giành quyền làm chủ của Nhân dân, phát triển du kích chiến tranh, xây dựng và phát triển nhanh chóng lực lượng chính trị và vũ trang, giữ vững và mở rộng các vùng căn cứ, vùng giải phóng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Khu ủy về công tác đô thị năm 1962 đã nhận xét từng loại cơ sở Đảng ở nội thành và có chủ trương cụ thể. Đối với cơ sở cũ nắm quá nhiều đầu mối thì chuyển một số đảng viên đi nơi khác để xây dựng cơ sở mới. Số đã chuyển đi phải thay đổi chỗ ở và tuyệt đối không được tiếp xúc với cơ sở cũ. Những tổ vũ trang trước đây do chi bộ nắm thì nay chuyển giao sang hệ thống quân sự. Các cơ sở binh vận cũng cắt khỏi chi bộ, giao về hệ thống binh vận, kể cả số đảng viên nắm nội tuyến cũng đưa luôn (để binh vận chỉ đạo).


124 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Chi bộ xí nghiệp không nắm các đoàn viên, đảng viên có vị trí phụ trách các tổ chức công khai. Chi bộ Đảng không trực tiếp làm những công tác có bề nổi như tuyên truyền xung phong, vũ trang tuyên truyền, mà chỉ làm công tác bí mật, phổ biến tài liệu mật từ nòng cốt quần chúng giao liên từ ngoài vào và từ trong ra, chấm dứt tình trạng một người nắm hai ba đầu mối. Chi bộ xí nghiệp, trường học có 3 đảng viên, nếu phát triển thêm đảng viên mới thì do đảng viên đó trực tiếp nắm và sinh hoạt đơn tuyến. Chi bộ ở xóm, chợ hay cùng ngành, cùng nghề có từ 3 đến 9 đảng viên (nếu 9 đảng viên ghép thành một chi bộ phải được sự chấp thuận của ban cán sự Đảng). Quy định mỗi đảng viên phải nắm 2 nòng cốt và 2 quần chúng tích cực hoặc một tổ Đoàn Thanh niên cách mạng, từ đó mà nâng chất (nòng cốt thành đảng viên, quần chúng tích cực thành nòng cốt). Như vậy từ bước chuyển giai đoạn, những quy định về công tác đô thị thể hiện tinh thần chặt chẽ, sâu sát, cụ thể nhằm củng cố, phát triển phong trào và ngăn chặn hiện tượng bộc lộ lực lượng. Tháng 10, tháng 11 năm 1961 Khu ủy mở hội nghị tổ chức các cánh chỉ đạo nội đô. Thành lập 5 cánh (như Liên quận), trong đó có các cánh 159(1) gồm địa bàn Quận 1, Quận 3 và các xã Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Phú Nhuận. Ban cán sự cánh 159 gồm: Mười Phải - Bí thư; Năm Nhân - Phó Bí thư; các ủy viên: Mười Ốm, Hai Bồng, Bảy (nữ), Ba Liêm, Năm Bắc, Phạm Thị Sứ. Các đội biệt động 159, 66, 67A, 67B, 68, 69... cũng được thành lập gồm cán bộ nòng cốt. Đồng chí Mười Ốm được phân công phụ trách xã Bình Hòa. Đồng chí Hai Bồng phụ trách xã Thạnh Mỹ Tây. Cùng với quá trình đô thị hóa và do tác động của chiến tranh, dân số Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây tiếp tục tăng trong những năm chống chiến lược chiến tranh đặc biệt: Năm 1960 1964 1965 Bình Hòa 89.022 129.111 130.520 Thạnh Mỹ Tây 40.164 61.120 70.607 Cộng 129.186 190.231 201.127 Vùng Bình Hòa đông dân cư, để dễ kiểm soát, địch chia làm hai khu vực: Khu A là khu “trí thức” được coi là an toàn hơn, khu B là khu xóm rừng, mất an 1. Các cánh khác: Cánh 154 gồm các Quận 2, 4; Cánh 156 gồm Quận 7, 8; Cánh 157 gồm Quận 6, các xã Bình Trị Đông, An Lạc, Phú Định, Phú Thọ Hòa; Cánh 158 gồm các Quận 3, 5.


125 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) ninh (đối với chúng). Chúng căn cứ vào tính chất mỗi khu để tổ chức bộ máy kìm kẹp. Về hoạt động kìm kẹp, bình định, địch sử dụng lực lượng và hình thức tổng hợp gọi là “dùng dân để bảo vệ dân”, muốn vậy phải đưa dân vào các đoàn thể, tổ chức nhân dân tự vệ, phương châm của chúng là “không bỏ sót” một người dân nào. Chúng tổ chức chiến tranh tâm lý, cơ quan xã hội, “tổ chức tình báo nhân dân” bằng cách lợi dụng các đoàn thể và nhân dân tự vệ; phát động phong trào thanh niên, chuẩn bị cho thanh niên đầy đủ tinh thần, sức lực để “thi hành quân dịch; tổ chức nhân dân tự vệ”, tất cả nhân dân địa phương phải tham gia tổ chức nhân dân tự vệ từng ấp, từng xã, từng quận “không có người dân nào ở ngoài vòng kiểm soát”(1). Theo chủ trương của Khu ủy về việc lọc lại và củng cố các cơ sở cũ đã có, đồng thời đi sâu vào quần chúng để xây dựng và phát triển cơ sở mới, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây sau Đồng khởi có nhiều cơ sở Đảng thuộc các cánh khác nhau đang hoạt động đơn tuyến. Huyện ủy Thủ Đức cử đồng chí Trần Văn Ứng, Trung đội trưởng lực lượng vũ trang phụ trách Bưng Sáu Xã về Bình Quới Tây nhận nhiệm vụ Bí thư liên xã để xây dựng lại phong trào. Đồng chí Trần Văn Ứng về bắt liên lạc với Bùi Văn Lai (Ba Mới) và Lê Văn Thu tiến hành xây dựng cơ sở. Đến tháng 11 năm 1962, hai đồng chí này được kết nạp vào Đảng và đầu năm 1963 kết nạp được thêm 3 đảng viên, hình thành một chi bộ ở Bình Hòa gồm 5 đảng viên mang các bí danh Chi, Bộ, Thành, Lập, Xong do đồng chí Bùi Văn Lai (Ba Mới, tức Chi) làm Bí thư. Ở vùng Thị Nghè, cũng trong năm 1961, đồng chí Trần Văn Tốt, một cán bộ đảng được điều lắng từ Xóm Chiếu sang, bắt liên lạc với các đồng chí Phùng Khắc Thế, Mười Sang, hình thành một nhóm công tác trực thuộc quân khu Sài Gòn - Gia Định. Nói chung, ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây sau Đồng khởi ta đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng trong quần chúng. Từ những cơ sở này, các đồng chí cán bộ, đảng viên đã đặt trạm chỉ huy, trạm liên lạc hoặc dùng nơi bám trụ để hoạt động, nổi bật như nhà số 29 đường Võ Trường Toản, từ những năm 1960 đến 1965 là nơi nuôi giấu nhiều cán bộ như Hoàng Như Khương - Phó Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Phạm Đức Bí - Bí thư liên Tỉnh ủy miền Đông, Phạm Khải (Ba Ka) - Bí thư Tỉnh ủy Gia Định (10-1954 – 7-1957), Nguyễn Trọng Tuyển - Thường vụ Tỉnh ủy Gia Định. 1. Tất cả những cụm từ trong ngoặc kép ở đoạn này đều trích trong “Huấn thị” số 6.TTP/VM/M của “Tổng thống phủ”.


126 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) II. KẾT HỢP NỘI NGOẠI THÀNH, ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ VÀ ĐẤU TRANH VŨ TRANG ĐÒI DÂN SINH, DÂN CHỦ, DIỆT ÁC, PHÁ KỀM, ĐÁNH BẠI ÂM MƯU LẬP KHÓM, ẤP CHIẾN LƯỢC, TẠO THẾ ĐỨNG XEN KẼ Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là địa bàn thể hiện rõ thế hai vùng tiếp giáp cả về địa lý hành chính, đặc điểm dân cư vùng tranh chấp ven đô và nội đô, trong đó về phía địch từ năm 1957, tỉnh Gia Định đã được đặt trong kế hoạch “chỉnh trang lãnh thổ như đô thành” (trong khi 36 tỉnh ở miền Nam chỉ chỉnh trang tỉnh, quận lỵ)(1). Như vậy Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây không chỉ là vùng giáp ranh mà còn có xu hướng đô thị hóa và điều đó xác định phương châm, phương thức kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang với liều lượng chính trị - quân sự có khác nhau gắn với tính chất hai vùng nội đô, ven đô, đồng thời có yêu cầu điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng đô thị hóa vùng ven đô. Ở nội thành, phương châm là lấy đấu tranh chính trị làm chính có kết hợp đấu tranh vũ trang từng mức độ, đồng thời lấy công nhân và lao động làm hạt nhân, xây dựng lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh ở đô thị. Về công tác vận động công nhân trong các xí nghiệp, ban đầu ta gặp nhiều khó khăn do địch tổ chức kìm kẹp công nhân rất chặt chẽ. Hầu hết chủ các xí nghiệp lớn ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là những tư sản mại bản có quan hệ khăng khít về quyền lợi đối với ngụy quyền và đế quốc. Chẳng hạn, Phan Bá Phúc, giám đốc xưởng dệt Nam Á nguyên là một thành viên của Đảng Cần lao - Nhân vị, nổi tiếng phản động và thâm độc, được mệnh danh là “con hùm xám”. Hay Bùi Trúc, tổng giám đốc Sakymen gốc là một tư sản ở Hải Phòng, đã làm mật thám cho Pháp, có quan hệ rất chặt chẽ với tư sản cá mập Mỹ, Nhật. Dưới trướng bọn chủ có một đội ngũ tay sai được hưởng đặc quyền đặc lợi, là tai mắt theo dõi công nhân. Tại hầu hết các xí nghiệp lớn lúc bấy giờ, địch đều tổ chức nghiệp đoàn công nhân mà thế lực mạnh nhất là hệ thống nghiệp đoàn thuộc “Tổng liên đoàn lao công” của Trần Quốc Bửu, như chi nhánh công quản ô tô buýt Thị Nghè, hãng Sakymen (nay là Xí nghiệp dệt 3, trực thuộc Liên hiệp xí nghiệp dệt Hồng Gấm). Thông qua các nghiệp đoàn này, bọn chủ đã thực hiện các thủ đoạn lừa mị tinh vi nhằm hạn chế đấu tranh của công nhân. Chẳng hạn, ở chi nhánh công quản ô tô buýt Thị Nghè, bên cạnh “nghiệp đoàn vàng”, địch còn cho thành lập “ban đại diện công nhân” và chỉ định Nguyễn Văn Ngoan, một tay sai đắc lực của bọn cầm đầu cai quản, làm 1. Từ năm 1957, địch đã ra sắc luật 112-aKTTKĐT (ngày 4-5-1957), theo đó, tỉnh Gia Định được đặt trong một kế hoạch “chỉnh trang lãnh thổ như đô thành” trong lúc 36 tỉnh khác có một chương trình khác biệt, nghĩa là chỉ chỉnh trang tỉnh lỵ, quận lỵ mà thôi.


127 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) trưởng ban. Ngoài ra, bọn chủ còn lợi dụng tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên Chúa, tạo ra một thế lực vô hình để khống chế về mặt tinh thần đối với công nhân. Vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm xác lập quyền lãnh đạo của Đảng trong công nhân, các đồng chí công vận quán triệt quan điểm quần chúng, kiên trì thực hiện tinh thần năm bước công tác (điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh), hòa nhập hoạt động ngay trong các nhà máy, xí nghiệp, qua đó tìm hiểu, phát hiện những nhân tố tích cực, khéo léo thuyết phục, giác ngộ ngày càng đông công nhân từ cảm tình trở thành nòng cốt của cách mạng, gắn những quyền lợi thiết thân với các khẩu hiệu đấu tranh với địch. Ở chi nhánh công quản ô tô buýt Thị Nghè, đồng chí Năm Nhân đã xây dựng được các cơ sở Bảy Thành, Hai Thanh. Ở xưởng dệt Nam Á, đồng chí Trương Thanh Danh (Năm Hội) thuộc tổ chức Thanh Lao (thanh niên lao động). Khu đoàn cũng đã xây dựng được các đồng chí Võ Anh Ngọc, sau đó phát triển thành một tổ tuyên truyền vũ trang gồm các đồng chí Võ Anh Ngọc, Huỳnh Ngọc Anh, Nga. Đây là những nhân cốt để phát triển lực lượng cơ sở, nòng cốt trong các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây. Do Đảng nắm được lực lượng công nhân ở Sài Gòn - Gia Định nói chung cũng như ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây nói riêng, phong trào công nhân và nhân dân lao động bùng phát mạnh mẽ vào những năm 1961 - 1962. Tại xưởng dệt Nam Á, trong hai năm 1960 - 1961, công nhân nhiều lần đấu tranh đòi chủ phải tăng lương, cải thiện đời sống công nhân, đặc biệt là cuộc đình công ngày 23 tháng 5 năm 1961 đòi tăng lương, phản đối chủ sa thải 30 công nhân, 3 đại diện nghiệp đoàn. Tháng 6 năm 1961, hưởng ứng cuộc đấu tranh đòi tăng lương công nhân hãng dầu STANVAC(1), công nhân kho dầu Duy Tân (Cầu Sơn) bãi công đòi tăng lương. Cuộc đấu tranh của công nhân các hãng dầu kéo dài ba tháng, được hơn 100 nghiệp đoàn trong thành phố ủng hộ, làm ngưng trệ mọi sự cung cấp xăng dầu, gây cho địch nhiều khó khăn. Tháng 12 năm 1961, bọn chủ phải nhượng bộ, tăng lương từ 6% đến 10% cho công nhân. Tại chi nhánh công quản ô tô buýt Thị Nghè, từ năm 1962 công nhân liên tiếp đấu tranh chống bọn chủ hãng cúp phạt, bớt xén lương, chống việc địch buộc công nhân phải theo đạo Thiên Chúa, chống việc bọn tư bản âm mưu thay thế xe buýt bằng xe lam. 1. Hãng dầu STANVAC (con ngựa bay), một hãng dầu độc quyền cung cấp xăng dầu cho các sân bay, các đội xe cơ giới của Mỹ - ngụy. Năm 1961 cuộc đấu tranh ở đây đã diễn ra dài ngày, được hàng trăm nghiệp đoàn lao động Sài Gòn và các tỉnh hỗ trợ, liên hiệp công đoàn các hãng dầu quốc tế gởi thư cổ vũ công nhân STANVAC chiếm giữ các kho dầu, ngưng cung cấp.


128 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Những cuộc đấu tranh của công nhân ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây có tiếng vang lớn, có tác động phối hợp, hỗ trợ phong trào công nhân toàn thành phố. Cùng với các cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đấu tranh của giới lao động, chị em tiểu thương, nông dân ở các ấp ven đô thị xã Gia Định diễn ra khá sôi nổi quyết liệt, tập trung vào các mục tiêu: chống đuổi chợ, chống tăng tiền chợ đối với tiểu thương, chống bắt người vô cớ, chống bắt lính, chống ruồng bố. Ngày 16 tháng 9 năm 1961, hơn 300 tờ truyền đơn của Mặt trận Dân tộc giải phóng rải từ ngã ba Hàng Xanh đến chợ Bà Chiểu kêu gọi quần chúng đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Nông dân ở các vùng Đồng Ông Cộ, Bình Quới, Bình Lợi... liên tiếp đấu tranh chống địch bắt lính(1), càn quét xóm làng, gây thiệt hại mùa màng, tài sản của Nhân dân. Cờ Mặt trận thường xuyên xuất hiện ở những khu vực đông dân như Thị Nghè, Bà Chiểu, Xóm Gà, Cây Thị, cầu Bình Lợi... khiến địch lo sợ, lúng túng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố mà trực tiếp là cấp ủy, chi bộ tại chỗ, cuộc đấu tranh giằng co, quyết liệt nhất của nông dân, bà con lao động vùng ven là quá trình chống phá địch gom dân lập ấp chiến lược, chống đuổi nhà chiếm đất để làm công trình phục vụ chiến tranh. Mặt trận này thể hiện sự kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị, diệt ác, phá kìm, xây dựng cơ sở tạo lõm chính trị. Giữa năm 1961 địch bắt đầu triển khai kế hoạch Staley - Taylor ở Sài Gòn - Gia Định với nội dung chủ yếu là bình định lập “ấp chiến lược”. An Phú Đông (Gò Vấp) là một trong những nơi địch chọn làm “ấp chiến lược kiểu mẫu” đầu tiên. Địch xác định “ấp chiến lược là ấp tổ chức chu đáo về mọi phương diện” nhằm mục đích thực hiện “cuộc cách mạng nhân vị, cộng đồng, đồng tiến tại thôn xã”(2) “nói một cách rõ rệt hơn, đó là một đơn vị chiến đấu của quốc gia chống ba thứ giặc: Cộng sản, chia rẽ, chậm tiến, đồng thời là cơ sở kiến tạo một nền văn hóa mới hợp với nhân vị”. Thực chất, tiếp theo chính sách “khu trù mật” “ấp chiến lược” là âm mưu tách lực lượng cách mạng ra khỏi dân, thực hiện “tát nước bắt cá”, đồng thời “biến mỗi người dân thành chiến sĩ chống cộng”. Từ đầu năm 1961 địch càn lớn ra ngoại ô; tổ chức “Thanh niên cộng hòa xung phong”, ra sắc lệnh giới nghiêm Sài Gòn (tháng 7 -1961); mở chiến dịch “cải tiến đô thành” (từ ngày 9 đến ngày 24-9-1961) thực chất là chiến dịch khủng bố phong trào cách mạng, đối phó với các lực lượng đối lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn; ra sắc lệnh “tình trạng khẩn cấp toàn miền Nam” (28-10-1961)... Trước khi triển khai kế hoạch ấp chiến lược, 1. Tháng 7 năm 1961, ngụy quyền ban hành sắc lệnh số 117/QP, bắt lính từ độ tuổi từ 22 đến 33. 2. Trích “chương trình học tập”, do Ban hướng dẫn học tập “ở Phủ Tổng thống soạn cho các ông trưởng học hội”, tháng 3 năm 1962.


129 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) địch đã triển khai giải tỏa nhà dân để mở rộng đường Sài Gòn – Biên Hòa (ở khu vực cuối đường Điện Biên Phủ ngày nay, giáp với Xa lộ Hà Nội). Địch chia nông thôn làm ba vùng để áp dụng ba cách khác nhau trong việc xây dựng ấp chiến lược: vùng ven đô là vùng sâu: “khoanh” là chủ yếu; vùng tranh chấp, gom kết hợp khoanh; vùng căn cứ du kích, xúc, hốt. Ở nội đô, từ tháng 2 năm 1962 địch bắt đầu thí điểm cái gọi là “khóm chiến lược” với ý định trong một năm sẽ đưa 1.700.000 dân nội đô vào 764 khóm, chia nhỏ phường, khóm. Ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây địch triển khai mạnh kế hoạch ấp chiến lược vào đầu năm 1962, các khu vực trọng điểm là: Cây Thị, Cây Quéo, Bình Quới Tây... Địch lập đồn bót đóng chốt ở những địa điểm quan trọng như ngã tư Xóm Gà, kho xăng Gò Vấp... Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đấu tranh chống địch gom dân lập ấp chiến lược kết hợp với chống bắt lính, giành giật từng thanh niên, đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ, đặc biệt là ở khu vực Bình Quới Tây. Tại đây, lực lượng du kích đêm đêm rải truyền đơn, bắn cảnh cáo, dùng loa tay kêu gọi quần chúng phá thế kìm kẹp của địch. Quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng, liên tục chống địch kìm kẹp, gom dân, bắt lính. Kế hoạch lập ấp chiến lược ở Bình Quới Tây bị phá sản. Các lõm căn cứ được hình thành ở các xóm lao động: Xóm Gà, Đồng Ông Cộ, xóm Cây Thị, Xóm Đình, Bình Quới Tây, Thị Nghè... Từ cuối năm 1962, hoạt động vũ trang mạnh lên, đặc biệt ở Bình Quới Tây, các chiến sĩ du kích do đồng chí Trần Văn Ứng chỉ huy đã cho “mời” 45 tên chỉ điểm, thám báo của địch đến họp tại một địa điểm do ta định sẵn là nhà ông Sáu Điền. Tại cuộc họp này, ta vạch tội và cảnh cáo chúng trước Nhân dân. Bọn này sợ hãi, đứng ra nhận lỗi trước dân và hứa từ nay về sau không hoạt động chống phá cách mạng như trước. Từ đó Bình Quới Tây trở thành một lõm căn cứ an toàn, lực lượng vũ trang Thủ Đức đi về dễ dàng, có khi trú lại cả đại đội. Một tiểu đội du kích địa phương được thành lập, do đồng chí Hai Đặng phụ trách. Năm 1963 tiểu đội này một lần đánh vào trụ sở ấp Bình Quới, lần khác đánh vào trạm cảnh sát của địch ở Bến Đò, diệt một tên ác ôn. Việc địch giải tỏa nhà chiếm đất để xây dựng những công trình phục vụ yêu cầu chiến tranh, làm xáo trộn, gây sức ép lên cuộc sống của hàng loạt người dân đã dẫn đến những cuộc đấu tranh quyết liệt. Cùng với kế hoạch chỉnh trang lãnh thổ như đô thành đối với tỉnh Gia Định, từ năm 1960, Mỹ - ngụy đã lên kế hoạch mở rộng đoạn đường Sài Gòn - Biên Hòa, năm 1963 địch cho lính đến ngang ngược dỡ một số nhà của đồng bào lao động hai bên đường. Để bảo vệ điều kiện sống tối thiểu của mình, đồng bào ở đây đứng lên quyết liệt phản kháng. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của cán bộ Khu ủy, các cơ sở


130 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đảng và quần chúng nòng cốt tại chỗ đã đứng ra lãnh đạo, đưa cuộc đấu tranh chống địch đuổi nhà, chiếm đất của quần chúng lao động lên thành phong trào quần chúng rộng rãi, quyết liệt, có tổ chức. Ủy ban đấu tranh được thành lập gồm đại diện đồng bào lao động ở những xóm ấp có liên quận (gồm các Phường 15, 17, 22, 25 hiện nay), để công khai vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh. Có nhiều trường hợp quần chúng lao động đã dùng các loại vũ khí thô sơ như gậy gộc, dao mác chặn đầu xe, đuổi đánh lính công binh ngụy, buộc chúng bỏ chạy. Hàng trăm quần chúng lao động lâm vào tình thế khó khăn về đời sống bởi âm mưu đuổi nhà của địch, đã tổ chức biểu tình chặn đường tên dân biểu Phạm Văn Thừng để đưa đơn tố cáo ngụy quyền, đòi chúng không được đuổi nhà dân. Đoàn người biểu tình vây kín chân cầu Phan Thanh Giản, giăng biểu ngữ phản đối địch đuổi nhà. Tỉnh trưởng Gia Định xua cảnh sát đến đàn áp, bắt giữ một số người, không khí phẫn nộ càng dâng cao. Cuộc đấu tranh tiếp tục giằng co, kéo dài, cuối cùng địch phải bồi thường một phần thiệt hại cho quần chúng do việc đuổi nhà, mở đường gây ra. Qua sự kiện này, ta đã gắn nội dung đấu tranh vì quyền lợi thiết thực của quần chúng với việc tuyên truyền, vạch trần tội ác của Mỹ - ngụy đối với Nhân dân, nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng và phát triển nhiều cơ sở bí mật tại chỗ. Cùng trong thời gian trên, Nhân dân ở xóm Đáy (nay là Phường 27) tổ chức chống việc vợ chồng Ngô Đình Nhu cướp đất của dân để làm khu giải trí, ăn chơi. Sau nhiều ngày giằng co, cuộc đấu tranh đã đạt thắng lợi. Quận trưởng Gò Vấp lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Bình đã đồng tình hưởng ứng cuộc đấu tranh này của quần chúng nên sau đó bị ngụy quyền bãi chức. Qua các đợt đấu tranh chống giải tỏa, đuổi nhà có sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng cơ sở quần chúng tăng nhanh. Chế độ độc tài gia đình trị Diệm - Nhu ngày càng lung lay trước phong trào cách mạng, thêm vào đó là cuộc “đấu đá” tranh giành quyền lực dai dẳng trong giới chóp bu tay sai của Mỹ, khi âm ỉ, khi bộc phát. Trước nguy cơ sụp đổ không thể tránh khỏi, chế độ Diệm lại thúc đẩy nguy cơ đó tiến gần hơn đến hiện thực bằng chính sách đối xử bất bình đẳng với Phật giáo, trong khi nâng Thiên Chúa giáo lên thành quốc đạo. Một đám lửa đang âm ỉ chờ có dịp là bùng cháy, thì dịp đó chính là việc “tổng thống” Diệm lệnh khẩn cấp ra Huế bắt hạ cờ Phật giáo bên ngoài các chùa, tự viện... ngay trước lễ Phật Đản năm 1963 và cấm treo cờ Phật giáo ngoài phạm vi những cơ sở tôn giáo trên toàn miền Nam trong ngày Phật đản (8-5) vì lý do quá sát với kỷ niệm Điện Biên Phủ của Cộng sản” (!).


131 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Làn sóng Phật giáo chống Diệm trở nên quyết liệt, lan rộng, trong đó Sài Gòn trở thành một trong những trọng điểm kéo dài từ mùa hè sang mùa thu năm 1963 và bị đàn áp thẳng tay. Trước tình hình chính trị đang phát triển có lợi, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định chủ trương: các cơ sở ta ở Sài Gòn lãnh đạo quần chúng “tấp vô” để hướng một phong trào tự phát của giáo giới thành phong trào chung của Nhân dân với những khẩu hiệu chính trị tích cực, qua đó giác ngộ quần chúng, xác lập và mở rộng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị. Ủy ban cứu nguy Phật giáo và các ủy ban thanh niên học sinh sinh viên được thành lập. Các ủy ban này quy tụ đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, nhất là các lực lượng thanh niên, học sinh, sinh viên và đồng bào Phật tử, tạo nên một phong trào rộng rãi chống Mỹ - Diệm trong thành phố. Tại thị xã Gia Định, ta đã đưa người vào nắm tổ chức hội Phật giáo thống nhất tỉnh Gia Định để lãnh đạo phong trào, trong đó có đồng chí Trần Út - cán bộ biệt động thành, hoạt động hợp pháp dưới danh nghĩa thượng tọa, Chủ tịch Hội Phật giáo thống nhất tỉnh Gia Định. Nhân ngày hỏa táng nhà sư Thích Quảng Đức(1) (ngày 06 tháng 6 năm 1963), Mặt trận Dân tộc giải phóng ra lời kêu gọi và động viên, cổ vũ 70 vạn dân Sài Gòn xuống đường đấu tranh, trong đó có Nhân dân Bình Hòa -Thạnh Mỹ Tây. Cảnh sát Diệm đàn áp. Đồng bào dùng gậy, dùng gạch đá đánh trả, cả thành phố náo động. Tại Thạnh Mỹ Tây, từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1963, tín đồ Phật giáo và quần chúng các giới tiếp tục đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Một lực lượng lớn quần chúng đã tập hợp ở chùa Văn Thánh, sau đó kéo xuống chùa Kỳ Duyên họp mít tinh, biểu tình, lên án chính sách độc tài, phát xít của Ngô Đình Diệm. Truyền đơn xuất hiện khắp xóm ấp. Những tấm biểu ngữ với nội dung “Đả đảo Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo”, “Lật đổ Ngô Đình Diệm”,... giương cao khắp các ngả đường. Tại các chùa Hòa Khánh, Pháp Vân (Bình Hòa), quần chúng tổ chức nhiều cuộc xuống đường với quy mô lớn, phối hợp với đồng bào Phật tử Sài Gòn - Gia Định đấu tranh chống Diệm đàn áp Phật giáo và đòi các quyền tự do dân chủ. Học sinh trường Cao đẳng Mỹ thuật cũng bãi khóa xuống đường, biểu tình ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật tử, bất chấp sự đàn áp của cảnh sát bót Hàng Keo... Đợt đấu tranh có ảnh hưởng chính trị rất lớn. Chín năm cầm quyền, chế độ độc tài gia đình trị của Diệm đã đến giờ cáo chung: “Quốc sách ấp chiến lược” đang đà đi đến sụp đổ, Nhân dân các đô thị càng 1. Người đầu tiên tự thiêu kéo theo sau nhiều vụ tự thiêu của tín đồ Phật giáo trong cuộc đấu tranh của Phật giáo chống Diệm năm 1963.


132 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) bị đàn áp càng sôi sục đấu tranh, nội bộ đầu sỏ và tay sai Mỹ đang quyết liệt tranh giành quyền lực nhưng Diệm khăng khăng không chia sớt quyền theo lệnh của Mỹ... Tình hình đó thôi thúc Mỹ dứt khoát “thay ngựa giữa dòng”. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge giữ vai trò chủ mưu nhưng giấu mặt. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, Diệm, Nhu bị giết. Bất chấp lệnh giới nghiêm, ngay hôm sau, hàng chục vạn dân ở Sài Gòn - Gia Định hợp thành các đoàn biểu tình qua các phố nêu khẩu hiệu đòi diệt tận gốc chế độ độc tài phát xít, chống đế quốc Mỹ xâm lược, đòi thực hiện tự do dân chủ... Tuy nhiên dần dần có những người ảo tưởng về chế độ dễ “thở” sau Diệm cũng hiểu ra rằng một chế độ độc tài tay sai của Mỹ bị lật đổ không có nghĩa là một cuộc cách mạng đã bắt đầu mà trái lại đó chỉ là một cuộc tranh ăn. Ngược với ý đồ của Mỹ, việc thay Diệm mở màn cho một thời kỳ khủng hoảng mới nghiêm trọng hơn của chế độ Sài Gòn với những cuộc đảo chính nối tiếp nhau trong suốt hơn một năm trời. Tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam tiến những bước mới. Ở nông thôn chung quanh Sài Gòn, sau khi Diệm bị giết, khoảng 167 ấp chiến lược bị phá banh hoặc mất hiệu lực. Số còn lại phần nhiều bị dở dang, ta làm chủ ban đêm. Tuy nhiên cuối năm 1963, Trung ương Cục nhận định: “Các phong trào quần chúng trong các đô thị phần nhiều là quần chúng tự động, chớ sự lãnh đạo của Đảng ta còn ít, nhất là các phong trào tầng lớp trung gian mạnh hơn phong trào của quần chúng cơ bản, phong trào công nhân và phong trào nhân dân lao động chưa làm nòng cốt được cho phong trào chung nên phong trào đô thị chưa có cơ sở vững chắc, tuy rằng hiện nay cơ sở Đảng tại Sài Gòn tiếp tục giữ được và củng cố, nâng lên”. Kế hoạch bình định miền Nam 18 tháng thất bại, địch lại đề ra một kế hoạch bổ sung nhằm bình định miền Nam trong vòng 2 năm (1964 - 1965). Sau khi Diệm đổ, việc đưa Nguyễn Khánh lên nắm quyền thay Dương Văn Minh vừa không chấm dứt được khủng hoảng của chế độ Sài Gòn vừa tạo ra một “chính phủ” độc tài quân phiệt mới. Nguyễn Khánh ban hành hàng loạt chủ trương, “sắc luật” phản động như “quân sự hóa học đường”, “đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật” (sắc luật 93 SL-CT ngày 1-2-1964, “sắc luật” cấm tất cả các cuộc biểu tình, đình công, hội họp (“sắc luật” 18/64 ngày 16-7-1964) đặc biệt là việc kí kết “Hiến chương Vũng Tàu” (16-8-1964) mở đường cho Mỹ trực tiếp can thiệp vào Việt Nam... Những chủ trương, “sắc luật” này dẫn đến những cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt mới của Nhân dân đô thị Sài Gòn - Gia Định.


133 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đầu năm 1964, ở khu vực Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã diễn ra đợt đấu tranh “chống quân sự hóa học đường”. Được sự lãnh đạo của Đảng, học sinh các trường Cao đẳng Mỹ thuật, Lê Văn Duyệt (nay là trường Võ Thị Sáu), Hồ Ngọc Cẩn... liên tục xuống đường đấu tranh, tổ chức đưa yêu sách cho bọn cầm quyền yêu cầu không bắt lính trong giới học sinh sinh viên, đòi bãi bỏ chính sách quân sự hóa học đường, bắt học sinh sinh viên luyện tập quân sự. Cuộc đấu tranh được sự ủng hộ của đông đảo giáo viên, cha mẹ học sinh cùng các giới đồng bào khác. Đặc biệt khi Khánh vừa công bố “hiến chương” kèm “trưng cầu dân ý” việc y làm “quốc trưởng” thì ngay hôm sau 18 tháng 8 năm 1964 các cuộc biểu tình đấu tranh đã nổ ra không chỉ ở Sài Gòn mà hầu khắp đô thị miền Nam với những mục tiêu chính trị: “Xé bỏ hiến chương Vũng Tàu”, chấm dứt chiến tranh, Mỹ không được xen vào công việc nội bộ người Việt Nam. Tại Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, ngày 25 tháng 8 năm 1964 hàng vạn quần chúng lao động, trong đó có đông đảo đồng bào ấp Nhất Trí 8 - Thạnh Mỹ Tây, học sinh trường Cao đẳng Mỹ thuật và các trường trung học trong thị xã Gia Định phối hợp với hàng trăm ngàn học sinh sinh viên và đồng bào biểu tình tuần hành đòi xé bỏ “hiến chương Vũng Tàu” đòi Khánh từ chức. Dưới trời mưa tầm tã, hàng ngàn học sinh sinh viên tập trung trước chợ Bến Thành tưởng niệm Quách Thị Trang năm trước bị cảnh sát Diệm giết hại, khoảng 30.000 học sinh - sinh viên khác tập trung trước dinh Nguyễn Khánh ở đường Thống Nhất (đường Lê Duẩn ngày nay), hô đả đảo Nguyễn Khánh, đòi y ra giáp mặt. Khánh buộc phải ngồi xe ra, bị quần chúng bao vây buộc y xuống xe, tự nói lời hứa chấp nhận yêu sách, tự hô “đả đảo độc tài quân phiệt”,... Trước sức mạnh khối đông người, Khánh buộc phải răm rắp tuân theo. Nhưng cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều, đại diện “chính phủ” (Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh và Quốc vụ khanh Nghiêm Xuân Hồng) buộc phải ra đọc bản tuyên cáo của “hội đồng quân sự”, thủ tiêu “hiến chương Vũng Tàu”, rút chức “quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa” do Khánh tự phong, hứa chấp nhận nhiều yêu sách của lực lượng đấu tranh. Cuối năm 1964, địch tăng cường mạng lưới mật vụ, cảnh sát rải xuống các khóm ấp để hoạt động. Tuy nhiên phong trào đấu tranh của quần chúng do Đảng lãnh đạo vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Tháng 11 năm 1964, Sài Gòn - Gia Định lại nổ ra cuộc đấu tranh quyết liệt của học sinh hàng loạt trường đòi Mỹ không được can thiệp vào miền Nam Việt Nam, đòi lật đổ Trần Văn Hương, “thủ tướng” tay sai mới đang hò hét “đưa chính trị ra khỏi học đường”. “Nội các” tay sai mới đối phó bằng dùi cui, hơi cay, súng


134 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) đạn, đặc biệt việc chúng bắn chết học sinh Lê Văn Ngọc đã biến cuộc đấu tranh của giới học sinh - sinh viên thành cuộc xuống đường của hàng vạn đồng bào các giới. Học sinh, sinh viên và đồng bào các giới đã biến lễ đưa tang Lê Văn Ngọc thành một cuộc tuần hành khổng lồ, tố cáo hành động sát nhân của “nội các” tay sai Mỹ. Khi đoàn biểu tình từ Đa Kao qua cầu Bông, tiến đến lăng Lê Văn Duyệt, Trần Văn Hương lại ra lệnh cho cảnh sát đàn áp. Thanh niên, học sinh, sinh viên đồng bào lao động vùng Bà Chiểu cùng với lực lượng đoàn biểu tình chống trả quyết liệt với cảnh sát. Sau đó, lực lượng biểu tình phân tán ra các nhà dân ở hai bên đường Lê Văn Duyệt(1). Cơ sở quần chúng tại chỗ đã tận tâm che giấu hoặc chỉ đường cho các đảng viên tránh khỏi cuộc lùng sục, bắt bớ của cảnh sát ngụy. “Nội các” Trần Văn Hương tiếp tục hành động “tự sát” bằng chính sách đàn áp bắn giết nữ sinh Loan trường Gia Long, bắt hàng loạt người trong cuộc xuống đường và sau đó bắt thêm 20 học sinh - sinh viên, thanh niên, và một lần nữa Nhân dân Sài Gòn - Gia Định đã lật đổ “nội các” tay sai đắc lực này của Mỹ. Năm 1964 là một trong những năm đạt đỉnh cao về phong trào công nhân Sài Gòn - Gia Định. Tháng 5 năm 1964, sau vụ tên phó tỉnh trưởng Gia Định chỉ huy lính dù và bảo an đàn áp công nhân dệt trong cuộc đình công phản đối việc sa thải 151 công nhân xưởng Vinatexco, công nhân các xí nghiệp Vimitex, Vinatexco, các xưởng dệt khác, các nghiệp đoàn Cảng, Tavico, Nha công chánh, xi măng, ôtô buýt... lần lượt vào cuộc đấu tranh ủng hộ công nhân ngành dệt cho đến khi đạt thắng lợi. Hai hãng dệt Vinatexco và Vimitex (nay là nhà máy dệt Việt Thắng) là những trung tâm của phong trào. Với tinh thần đoàn kết giai cấp, công nhân và quần chúng lao động Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây tích cực nhập cuộc. Ở xưởng dệt Nam Á, đồng chí Năm Hợi chỉ đạo tổ tuyên truyền vũ trang, vận động và tổ chức công nhân đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống, đòi tự do dân chủ. Các cuộc đấu tranh của công nhân hãng dệt Nam Á kéo dài một tuần lễ, ban đầu tên giám đốc cho gọi cảnh sát tới đe dọa anh chị em nhưng vô hiệu, cuối cùng tên này phải hứa giải quyết những yêu sách mà công nhân đề ra. Khi Nguyễn Khánh ra sắc luật cấm tất cả các cuộc đình công, biểu tình hội họp (sắc luật 18/64 ra ngày 16-7-1964), Khu ủy Sài Gòn - Gia Định lập tức chủ trương phát động các cơ sở trong các nghiệp đoàn đồng loạt tổng đình công ngày 27-7-1964 để phản đối và tiếp tục ủng hộ công nhân Vinatexco và Vimitex. 1. Sau năm 1975 đường Lê Văn Duyệt đổi tên thành đường Đinh Tiên Hoàng, từ tháng 9-2020 đoạn đường từ cầu Bông đến đường Phan Đăng Lưu trở lại tên cũ là đường Lê Văn Duyệt.


135 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Hàng chục vạn công nhân lao động các ngành nghề nhất loạt nghỉ việc và đồng loạt xuống đường biểu tình tuần hành, nêu cao các khẩu hiệu đòi bãi bỏ sắc luật 18/64, đòi tự do dân chủ, đòi Mỹ rút về nước... Ở Thị Nghè, công nhân các hãng, xưởng đã nhập cuộc như Trường Tiền, Phú An, Orciny, hãng dầu Duy Tân... Sáu vạn công nhân cao su chung quanh Sài Gòn ra tuyên bố sẵn sàng kéo vào Sài Gòn. Suốt ngày cả thành phố tê liệt, không điện, không nước, giao thông ngừng trệ, nhà hàng đóng cửa, liên lạc trong và ngoài nước bị gián đoạn. Nguyễn Khánh hoảng sợ, tuyên bố hủy bỏ sắc luật 18/64, trả tự do cho cán bộ nghiệp đoàn và công nhân bị bắt, thu hồi không điều kiện công nhân các xí nghiệp dệt bị sa thải và trừng trị tên phó tỉnh trưởng Gia Định đã đàn áp công nhân Vinatexco. Đầu năm 1965, phong trào công nhân về mặt công khai tuy chưa mạnh như các phong trào khác, nhưng bên trong, cơ sở bí mật đang có những chuyển biến quan trọng. Những tháng đầu năm 1965, Khu ủy mở đợt chỉ đạo tập trung công tác dân vận lấy tên là “Công tác đột xuất”, đối tượng hàng đầu là công nhân và người lao động, địa bàn là “xóm” và “xí” (tức là xóm lao động và nhà máy, xí nghiệp). Các tổ chức vũ trang và các đội vũ trang tuyên truyền của công nhân hình thành, bước đầu hoạt động có hiệu quả. Để cổ vũ cho phong trào đấu tranh công khai, các đồng chí cơ sở trong các xí nghiệp, trường học, xóm ấp đã đẩy mạnh những hoạt động bí mật như thường xuyên rải truyền đơn, giăng biểu ngữ, kẻ khẩu hiệu, treo cờ trên địa bàn các xí nghiệp, trường học, khu phố (như ở xưởng dệt Nam Á, trường Lê Văn Duyệt, trụ sở xã Bình Hòa, ty chiêu hồi Gia Định...), gây được tiếng vang và ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Ngày 01 tháng 5 năm 1965, Ban cán sự vận động hàng trăm công nhân ở các nhà máy Đông Thịnh, Nam Á, Sicovina và Mai Thanh, tổ chức đưa đoàn công nhân tham gia đấu tranh cùng các nghiệp đoàn trong thành phố. Từ sáng sớm, trên những đường phố lớn chung quanh trụ sở Tổng Liên đoàn lao động, các lực lượng cảnh sát, công an, cảnh sát dã chiến ngụy và một số quân cảnh Mỹ đã được bố trí chốt chặn kết hợp hàng rào kẽm gai bao vây. Nhưng khi loa phóng thanh vừa lên tiếng yêu cầu trật tự viên dẹp hàng rào dây kẽm gai cho đồng bào dự lễ thì hàng ngàn thanh niên công nhân lao động tay đeo băng đỏ, tay cầm gậy hô “xé rào” và xông tới dẹp bỏ những vòng kẽm gai bùng nhùng. Bọn ác ôn xông tới, nhưng không làm gì được trước đội ngũ quần chúng đông hàng vạn người với rừng khẩu hiệu “Phản đối đàn áp biểu tình”, “Người Mỹ không can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”, “Chấm dứt rải chất


136 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) độc tàn phá nông thôn”, “Hòa bình, chấm dứt chiến tranh”, “Tăng lương, chống sa thải công nhân”,... Sau cuộc biểu tình, địch bắt chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động, bao vây trụ sở Tổng Liên đoàn, khủng bố hàng loạt nghiệp đoàn cơ sở. Nghiệp đoàn giáo chức tư thục Việt Nam là tổ chức có nhiều đảng viên làm nòng cốt hướng vào mục tiêu tập hợp nhà giáo, làm cho giáo giới ý thức được vai trò của nhà giáo trước vận nước và quyết tâm góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, trước mắt là đấu tranh nhân sinh, dân chủ, hòa bình, cứu trợ đồng bào... Từ năm 1962 bị địch khủng bố, nhiều đồng chí bị bắt kể cả chủ tịch Lương Lê Đồng, hàng loạt hoạt động công khai và tổ chức Nghiệp đoàn bị gián đoạn. Sau khi Diệm bị lật đổ, các phân bộ của Nghiệp đoàn được thành lập tại các trường tư thục Sài Gòn - Chợ Lớn, Gia Định. Mỗi vùng thành lập Liên phân bộ có liên phân bộ trưởng phụ trách. Cán bộ nòng cốt của Phân bộ và Liên phân bộ đều là hội viên Hội Nhà giáo yêu nước thành phố, thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Liên phân bộ trưởng vùng Gia Định là Nguyễn Văn Vàng. Để có điều kiện phản ánh tình hình hoạt động của nghiệp đoàn, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ và phổ biến chủ trương của Đảng cho các nghiệp đoàn viên đến tận các tỉnh bạn, nghiệp đoàn ra tờ nguyệt san hàng tháng làm cơ quan thông tin ngôn luận. Bên cạnh đó, có đặc san phổ biến kinh nghiệm nội dung các khóa tu nghiệp và xây dựng tinh thần trách nhiệm của nhà giáo đối với thế hệ trẻ. Lực lượng cốt cán bí mật và công khai cũng được Ban Mặt trận trí giáo thành tổ chức lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ. Nhằm thiết thực bảo vệ, chăm sóc thiếu niên nhi đồng, nghiệp đoàn giáo học tư thục mở lớp tư thục cho giáo viên mẫu giáo tư thục tại trường Phan Đình Phùng, Ấu trĩ viện Gia Định, mỗi lớp có 50 học viên đa số là con em gia đình cách mạng và những người tiến bộ. Nội dung là giáo dục thiếu nhi những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam, biết lễ phép, giữ gìn thuần phong mỹ tục Việt Nam, không để cho thiếu nhi lai căng, mất gốc. Với đặc điểm cư dân là thành phần công nhân lao động chiếm phần lớn, Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây là một trong những địa bàn thuận lợi cho lực lượng biệt động thành chọn làm nơi triển khai xây dựng cơ sở, chuẩn bị cho những trận đánh các mục tiêu đầu não địch. Tại vùng Cầu Sơn (nay là Phường 26) đồng chí Nguyễn Văn Tăng(1), một cán bộ chỉ huy biệt động thành về xây dựng cơ sở ở Xóm Cối, Xóm 1. Sau này được phong Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


137 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Đình, Hàng Xanh. Cơ sở đầu tiên là nhà ông Hai Hữu ở Xóm Cối thuộc Ấp 8 (nay tổ dân phố 33 Phường 26). Đồng chí đã kết hợp với Hồng Văn Sắng, chiến sĩ quân báo địa phương, xây dựng các tổ chức cơ sở thành một lõm chính trị an toàn, một mạng lưới rộng để thu thập tin tức, nắm tình hình địch phục vụ cho công tác quân báo. Nhà ông Nguyễn Văn Hữu số 78/10 đường Hùng Vương được chọn làm điểm liên lạc của các chiến sĩ quân báo hoạt động ở vùng Cầu Sơn, trong đó có các đồng chí Năm Thu, Võ Văn Tâm... Tại Bà Chiểu, một số đồng chí thuộc lực lượng biệt động Thành đã chọn nhà của đồng chí Nguyễn Hoàng Tuấn (Năm Lực) ở số 154 hẻm Phước Long (nay là đường Diên Hồng) làm cơ sở hoạt động. Tại đây các đồng chí đã chuẩn bị vũ khí, cờ, biểu ngữ để chuẩn bị trận đánh phối hợp với lực lượng học sinh sinh viên trong các cuộc triển lãm ở Cây Quéo (1964), chống hành động đàn áp, đánh phá các chốt bắt lính của địch trong đó có chốt ở đường Lê Quang Định. Vào những ngày lễ lớn, các chiến sĩ trong tổ chức biệt động do đồng chí Trần Tiết Hạnh phụ trách còn bí mật tổ chức thả bong bóng mang các khẩu hiệu đòi hòa bình, chống chế độ tay sai, cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng(1). Năm 1964, đầu năm 1965 là thời điểm diễn ra các trận đánh vang dội của đặc công biệt động Sài Gòn - Gia Định vào chiến hạm Mỹ... Các đội biệt động thành đã xây dựng được nhiều cơ sở vận chuyển vũ khí bằng nhiều đường, nhiều cánh. Với những biện pháp ngụy trang an toàn, khéo léo, các chị Sáu Hoài, Nguyễn Thị Nhan... đã lập một kho tiếp nhận và chuyển giao vũ khí từ căn cứ An Phú Đông vào một điểm ở đường Nguyễn Văn Học (nay là đường Nơ Trang Long). Ở Bình Quới Tây, đồng chí Bùi Văn Lai cùng các chiến sĩ du kích địa phương tổ chức đặt mìn, đánh khu ăn chơi của sĩ quan Mỹ (nay là cơ sở sản xuất Đại Dương, Phường 26), diệt và làm bị thương 25 tên, phá hỏng 2 máy bay lên thẳng. Đồng bào Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây kết hợp với đồng bào nông thôn ven đô liên tiếp đánh nhau chống địch khủng bố, bắt bớ, ném bom, bắn phá vùng ngoại ô. Cùng với những thắng lợi trên chiến trường, quá trình hoạt động của tổ chức Đảng tại địa phương, nhận thức về cách mạng của đồng bào Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây ngày càng được nâng cao, cơ sở cách mạng phát triển. Nhiều thanh niên con em các gia đình lao động, học sinh sinh viên ở Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã tình nguyện vào chiến khu tòng quân, tham gia kháng chiến. 1. Sau trận đánh sập phòng tin Mỹ ở Gia Định, đồng chí Trần Tiết Hạnh đã bị địch bắt.


138 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Năm 1964, đầu năm 1965 cũng là thời điểm đánh dấu sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt, “quốc sách” ấp chiến lược đã sụp đổ, những chiến thắng liên tiếp của quân Giải phóng miền Nam trong các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài... đã làm chuyển biến cục diện chiến trường và chứng tỏ quân ngụy không đảm đương nổi vai trò mà quân Mỹ mong muốn. Sân khấu chính trị Sài Gòn tiếp tục rối ren. Một lần nữa đế quốc Mỹ đứng trước tình thế buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh. Từ khởi nghĩa từng phần năm 1960 chuyển sang chiến tranh cách mạng trong tình thế chỉ có một số đảng viên hoạt động đơn tuyến và một số cơ sở cũ, trên địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây, ta đã xây dựng được một chi bộ để lãnh đạo phong trào tại chỗ, phát triển được nhiều cơ sở, đặc biệt là trong lực lượng công nhân và đồng bào lao động, từ đó đã xây dựng, lãnh đạo phong trào tại chỗ hòa nhịp phong trào đô thị Sài Gòn - Gia Định. Với những khẩu hiệu đấu tranh phù hợp với quyền lợi, nguyện vọng của quần chúng từ những mục tiêu dân sinh dân chủ đến những mục tiêu chính trị lớn mà tập trung là chống đế quốc Mỹ và tay sai, vận dụng khéo léo các hình thức hợp pháp, nửa hợp pháp và khi cần có cả bất hợp pháp, trong gần 5 năm, lực lượng lãnh đạo tại chỗ đã duy trì được một cách liên tục phong trào đấu tranh của tầng lớp nhân dân trước hết là công nhân, đồng bào lao động, học sinh - sinh viên, đã đạt được những đỉnh cao vào những năm 1961 - 1962, 1964. Qua đấu tranh, nhận thức về cách mạng của quần chúng được nâng cao, lực lượng chính trị và cơ sở cách mạng phát triển. Mặt khác, địa bàn Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây thể hiện rõ tính chất, đặc điểm của vùng tiếp giáp nội đô - ngoại ô đấu tranh chính trị có kết hợp một phần đấu tranh vũ trang chống phá ấp chiến lược, kết quả là ta đã làm phá sản kế hoạch ấp chiến lược Bình Quới Tây, xây dựng được lực lượng du kích và lõm du kích. Các hoạt động mang tính đô thị và cả tính nông thôn ven đô đã tạo được địa bàn để ém người, vũ khí, chuẩn bị và thực hiện những trận tiến công nhiều mục tiêu tại sào huyệt địch. Dưới dự lãnh đạo của Đảng thông qua cơ sở Đảng tại chỗ, Nhân dân Bình Hòa - Thạnh Mỹ Tây đã góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy.


139 LỊCH SỬ TRUYỀN THỐNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH (1930 - 2015) Chương bảy PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ VÀ TAY SAI, XÂY DỰNG THỰC LỰC TẠI CHỖ, SẴN SÀNG ĐÓN THỜI CƠ THAM GIA TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY, GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ CỦA MỸ (từ giữa năm 1965 đến giữa năm 1968) I. PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG MỸ VÀ TAY SAI, XÂY DỰNG LÕM CHÍNH TRỊ – VŨ TRANG VÀ CƠ SỞ PHỤC VỤ TÁC CHIẾN NỘI ĐÔ, THỰC HIỆN QUYẾT TÂM THẮNG MỸ Tháng 4 năm 1965, tại Suối Dây (Tây Ninh), Khu ủy Sài Gòn - Gia Định họp triển khai nhiệm vụ theo tinh thần “kế hoạch X”(1) và Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 11 (ngày 25-3-1965), tức vừa khẩn trương chuẩn bị tổng công kích - tổng khởi nghĩa thắng địch trong chiến tranh đặc biệt, đồng thời sẵn sàng đánh Mỹ trong điều kiện chúng đưa quân chiến đấu vào chiến trường thực hiện chiến tranh cục bộ. Phương hướng tổ chức chiến trường là chia địa bàn Sài Gòn - Gia Định thành năm phân khu như năm mũi tiến công “thủ đô” địch. Triển khai nghị quyết Suối Dây, Khu ủy và Quân khu quyết định thành 1. Mật danh một kế hoạch do Trung ương Cục vạch ra nhằm chuẩn bị đón thời cơ thực hiện tổng công kích - tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định theo tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị ban hành vào tháng 1 năm 1961.


Click to View FlipBook Version