Hai Lần Trỗi Dậy
Hồi Ký của AH Bùi Đức Hợp
Lời nói đầu
Cuối năm 2000 tôi có dịp về thăm gia đình tại Việt Nam . Nếu chỉ kể các cháu gọi tôi
bằng chú, các cháu gọi tôi bằng ông, các chắt gọi tôi bằng cụ thuộc hệ thầy tôi, số các
con cháu chắt lên tới 300. Nếu kể cả hệ ông nội tôi, số đó lên tới 1000.
Quây quần bên nhau, chú cháu hàn huyên tâm sự . Nhiều câu hỏi được đạt ra :
- Nửa thế kỷ nay, chú làm gì và ở đâu ?
- Năm 1954, chú di cư vào Nam có một mình?
- Nghe nói chú sang Mỹ năm 1979?
Và nhiều câu hỏi khác về gia đình, về các em v . v .
Tôi chỉ trả lời tóm lược và hẹn với các cháu:
- Năm tới, chú sẽ viết hồi ký . Đọc trong đó, các cháu sẽ rõ cuộc đời gian truân của
chú . Dù ở hoàn cảnh nào, chú vẫn duy trì được truyền thống gia đình và nêu cao
gương đạo đức của ông nội.
Còn các cháu ở nước ngoài đều muốn biết cuộc sống tôi sau năm 1975 và tỏ lòng mến
mộ về những sinh hoạt mới đây của tôi.
- Cháu ở cách xa chú cả một đại dương, sao cháu biết?
- Tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong có số phát hành khắp mọi nơi, viết bài dài về chú .
Đó là những động lực thúc đẩy tôi viết tập hồi ký “Hai lần trỗi dậy “, hai lần tay trắng
mà làm nên sự nghiệp. Tôi đã ra đi trong nước mắt và trở về trong gánh lúa thơm.
Sách do tác giả tự trình bầy, gồm 3 chương và một phụ bản:
Chương I Trỗi dậy lần thứ nhất
Chương II Trỗi dậy lần thứ hai
Chương III Tuổi vàng
Phụ bản Nhật ký “ 35 ngày vượt biển và 6 tháng ở đảo “
Không phải là nhà văn, tôi chỉ biết diễn tả tâm tình mình bằng những lời lẽ đơn sơ,
mộc mạc . Điều mà tôi mong mỏi là từ đó, các con, các cháu của tôi rút ra những bài
học sống động áp dụng cho chính bản thân .
Hồi ký phản ảnh một cách trung thực những sinh hoạt, những suy nghĩ riêng tư của
người viết trong một bối cảnh nhất định . Sự sơ sót nếu có, chẳng qua là trí nhớ có hạn
của tuổi già .
Sau cùng, tôi chân thành nhận lỗi, nếu có điều gì làm phật lòng quý bạn và các con,
các cháu ; chẳng qua tâm thì có, nhưng cách diễn tả có phần vụng về .
Mong nhận được sự thông cảm của tất cả quý vị .,.
Chương 1: Trỗi dậy lần thứ nhất (1954-1975)
1. Di cư vào Nam
12 giờ trưa ngày 20 / 8 / 1954, phi cơ Dakota chở tôi và một số đồng bào đáp xuống
phi trường Tân Sơn Nhất . Trời nắng chói chan và oi bức. Chúng tôi được tới dẫn
tới khu lều vải dựng tạm, làm nơi tiếp đón đồng bào di cư. Sau khi giaỉ lao bằng cốc
sữa bột, chúng tôi được chở tới bệnh viện Bình Dân, đường Phan Thanh Giản.
Bệnh viện chật ních người, ngay cả hành lang nhà cầu cũng có những gia đình cư
ngụ. Trước khi vào Nam, tôi nghỉ rằng mỗi gia đình sẽ được cấp một chỗ ăn ở đàng
hoàng .
Tôi rụt rè hỏi người phụ trách trại :
- Tối nay tôi ngủ đâu ?
- Anh ngủ đâu tôi không cần biết, mỗi ngày tôi có nhiêm vụ cấp cho anh 10 đ.
Ngủ đâu đêm nay? Trong nhà cũng như ngoài hành lang, không còn một chỗ đủ để
trải manh chiếu. Ồn ào, nồng nực hơi người giống như cái chợ họp suốt ngày đ êm.
Được bà con mách, tôi và Thăng di chuyển tới một trạm tạm cư khác ở trường Tôn
Thọ Tường, đường Trần Hưng Đạo. Saigòn thật lớn , nhà cao đường rộng, xe cộ xả
khói bóp còi inh ỏi. Sau một nửa giờ lê dép, chúng tôi tới trường.
Trường đang độ nghỉ hè, bàn ghế học trò xếp đống để có chỗ ăn ở cho đồng
bào. Tầng trên ,tầng dưới, cầu tiêu, chỗ nào cũng đông nghẹt người, chỉ khác ở đây
không khí bớt ngột ngạt nhờ ở hàng cây phượng vĩ quanh sân trường. Đi lên, đi
xuống nhiều lần tư tầng một tới tầng ba, tôi cũng không tìm ra một khoảng trống đủ
để đạt tấm thân mình. Thăng đề nghị sẽ kê ghế ngủ tại văn phòng ban quản trị ,sau
giờ làm việc.
Mệt mỏi, căng thẳng, tôi ngủ thiếp đi cho đến khi thơ ký thúc giục:
– Trả chỗ cho người ta làm việc, ông nội !
Tôi ra vòi nước công cộng, đánh răng và rửa mặt. Cơ nghiệp tôi là một túi sách gồm
chăn mùng, hai bộ quần áo, và vài thứ vật dụng linh tinh.
Ăn uống cũng là vấn đề nan giải. Từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ, tôi chưa đi một
mình vào nhà hàng, nên không biết phải gọi món gì, gọi thế nào, và trả tiền ra
sao. Chợt thấy tiêm hủ tíu bên lề đường Nguyễn Thái Học, ghi rõ 5 đ / 1 tô, tôi đánh
bạo bước vào.
Với 10 đ trợ cấp, trưa 1 tô, chiều 1 tô, làm sao có thể no bụng. Tôi một ngày một gầy
đi. Lang thang trong thành phố, tôi lạc tới nhà thờ Huyện Sỹ. Tôi ực nước miềng khi
thấy nhà bếp của cha đổ đi những thức ăn thừa thãi. Biết ý, bà bếp dồn đồ ăn vào một
tô bự, và biểu :
- Cháu ăn đi , cháu là học sinh di cư ?
Tôi đề nghị trả bà 5 đ / một bữa, bàcũng chịu.
Ăn xong, tôi đi vòng quanh nhà thờ, khám phá một chỗ ngủ tại mái hiên trường Giáo
Lý. Ngủ ở đây, tôi thấy thoải mái, yên tĩnh, có gió mát trăng trong . Ban ngày, tôi
nghe ngóng tin tức về trường học, khuya tôi mới dám mò về mái hiên vì sợ nhà xứ
đuôỉ . Hiu quạnh. Bơ vơ. Tủi thân. Nước mắt giàn giụa, tôi nhớ nhà khôn tả.
***
Mùa hè năm 1954, tôi lên Hànội dự thi TúTài I . Cả trường đi thi, chỉ có tôi thuộc ban
B, và Thăng ban C đậu . Từ đó, tôi mất liên lạc gia đình do chiến dịch “ban tay nắm,
bàn tay mở “ của Pháp .
Không nguồn tiếp tế, tôi vô trường Puginier, nơi dành cho những học sinh mất liên lạc
gia đình . Ở đây, tôi được nuôi ăn . Bù lại, tôi dạy toán cho các em lớp đệ II . Tôi say
sưa giảng , một phần vì tôi thuộc bài, một phần vì tôi học được cách giảng thu hút của
thấy Cầu Văn Lang và thầy Sủng Hàng Bè . Sự thành công của tôi khiến cho một số
đồng nghiệp trong trại ghen ghét . Đó là bài học đầu tiên của tôi về sự ghen tị của con
người .
Hiệp định Giơneo 20 / 7 / 54 chia đôi đất nước. Tôi phải chọn giữa hai con đường “
đi và ở “. Nếu ở , chưa chắc gì tôi được đi học, và nếu được đi học, tôi phải học theo
chương trình khác . Thêm vào đó, mối lo sợ về sự phân biệt đối xử của chế độ mới .
Nếu đi, tôi sẽ được đi học ttiếp . Với bằng Tú Tài I trong tay, việc học lên đại học, đối
với tôi, không có gì khó . Tuy nhiên tôi cũng lo ngại nhiều về cuộc sống mới,
cuộc sống thoát ly gia đình . Một yếu tố khác cũng góp phần vào quyết định đi là :
tinh thích mạo hiểm, muốn đi đây đi đó . Saigòn là viên ngọc của Viễn Đông mà tôi
chỉ đọc qua bài “ Thành phố Saigòn “ trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư ( QVGKT ) .
Tôi quyết định vào Nam càng sớm càng tốt để được đi bằng máy bay, một phương
tiện mà tôi chưa bao giờ mơ tới .
Xe tải chở tôi và một số đồng bào tới phi trường Gia Lâm trong lúc dân Hà Thành còn
chìm trong giấc ngủ . Tôi mở to mắt nhìn tháp Rùa, hồ Gươm một lần cuối, biết bao
giờ mới gặp lại !
“ Thăng Long, Hà nội đô thành,
Nước non ai vẽ nên tranh hoa đồ,
Cố đô rồi lại tân đô.
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.”
( ca dao )
Liễu vẫn rủ bên hồ, cột sáng muôn màu lấp lánh dưới mặt hồ . Trong thinh lặng vô
tình của tạo vật, tôi buột miệng kêu : “ Mẹ ơi ! con giã từ đất Bắc “
***
Mưa hắt vào mái hiên khiến tôi tỉnh dậy . Nền nhà sũng nước, tôi đành ngồi bó gối
chờ sáng . Cả tuần mưa vẫn không ngớt . Bị cảm nặng, tôi mơ ước một nồi nước
xông, một chai dầu gió,một mái ấm gia đình . Mỗi lần tinh thần sa sút, tôi lại nghĩ tới
ông Châu Trí trong QVGKT :
“. . . Song nhà nghèo, ông phải đến ơ ũnhờ tại chùa . Không có tiền mua dầu thắp đèn,
ông phải đi quét lá đa, tối đến đốt lửa lên mà học . Ông học đến năm mười sáu tuổi đã
đỗ giải nguyên . . .”
Thông cảm hoàn cảnh “tứ cố vô thân “ của tôi, anh B. Thăng có nhã ý mời tôi và
Thăng về ở chung với hai mẹ con anh . Bà cụ dành dụm tiền mua một căn nhà sàn
trong khu lao động Khánh Hội . Muốn tới nhà, phải qua cây cầu ngòng ngoèo, nước
đen ngòm và hôi hám . Khi nước rút, đáy rạch lộ ra với bùn lầy, rác rưởi, chuột bọ .
Anh dành cho tôi gác xép, mỗi lần đứng thẳng dạy, đầu tôi đụng vào mái tôn nóng
bỏng, và có cảm giác như tóc cháy . Ở đây, tôi cảm nhận được tình thương của cụ .
Sang thu, trời Saigòn dễ chịu hơn . Chính phủ bắt đầu quan tâm tới học sinh di cư mất
liên lạc gia đình . Qua thông cáo, tôi giã từ cụ và dọn đến nhà hát tây thành phố, đầu
đường Bôna ( Lê Lợi ) . Nơi đây, chúng tôi được cấp phát tiền và gạo.
Chiều chiều, tôi thả bộ dọc theo đường Catina ( Tự Do ) từ nhà thờ Đức Bà đến bờ
sông Saigòn . Tôi say sưa ngắm nhìn những cửa hàng nhiều tầng, khách sạn sang
trọng, xe hơi lộng lẫy, ánh đèn nêông lung linh giữa hàng me . Saigòn đã hiện ra, còn
đẹp hơn trong trí tưởng tượng tôi .
Ở nhà hát tây khoảng một tháng, chúng tôi được lệnh di chuyển xuống trại hoc sinh di
cư Phú Thọ, vừa mới xây cất xong trên bãi rác cũ . Trại gồm những dãy nhà sàn, lợp
tôn, phân tầng, trông xa giống như chuồng bồ câu khổng lồ . Cứ hai học sinh ở một lô
dài 3m rộng 2m, cao 1.5m, học sinh cùng lớp ở chung một nhà . Mặt sau là cửa xếp,
có thể dùng làm bàn học . Trừ tiền ăn , mỗi tháng hoc sinh còn được lãnh 90 đ . Chỉ
vào dịp lãnh lương,tôi mới dám ra chợ Thiếc, kêu đĩa chân gà 5 đ gặm một cách ngon
lành
Cùng ở trại, có Lạc, cháu gọi tôi bằng chú ruột . Lạc kém tôi 3 tuổi, một mình di cư vô
Nam bằng tầu há mồm . Tôi rất thương cháu, nhưng cảnh ngộ tôi cũng bi đát như cháu
:
- đói ( nhịn đói dài dài vì không cótiền ăn sáng )
- rách ( vài bộ áo quần mang theo nay đã rách )
- cô ( thiếu tình thương )
Trong khi chờ đợi trường khai giảng, tôi kiếm chỗ dạy học tư gia . Mặc dầu
lớp học chỉ có hai em – một học lớp 3, một học lớp 4 -, tôicũng say sua giảng như lớp
học đông người . Nhờ vậy, tôi dành tiền tậu đước xe đạp cọc cạch .
Có bằng Tú Tài I, tôi được nhận ngay vào lớp đệ nhất B2 trường Chu Văn An .
Trường mượn tạm chỗ dạy trường Petrus Ký . Năm đó, cụ Xán làm hiệu trưởng, cụ
Văn giám học, ông Lãng tổng giám thị . Học trò sợ nhất thầy Ngà dạy toán, cả lớp
ngồi im phăng phác . Đảo mắt nhìn quanh lớp, thấy anh nào có vẻ nghịch ngợm, thầy
chỉ mặt và bắt nhắc lại những định lý vừa giảng ( hiểu cũng chưa nổi, huống hồ là
nhắc lại ! ) . Ngó qua bên trường Đại Học Khoa Học, thấy các sinh viên trong áo
blouse trắng loay hoay thí nghiệm, tôi ước mơ ngày nào đó tôi sẽ làm như vậy .Cuối
niên học, tôi đậu Tú Tài II với hạng bình thứ một cách dễ dàng .
Lần đầu tiên, tôi ăn tết tha hương . Chung quanh chợ Bến Thành baỳ bán mất đủ
loại,dưa hấu, mai vàng, tôi lủi thủi ra bến Bạch Đằng hóng mát . Nhìn thuyền bè xuôi
ngược, tôi chạnh lòng nhớ quê :
“ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều “
( ca dao )
***
Cứ mỗi lần Tết đến, nhà tôi đều mổ heo, gói bánh chưng, giã dò, tát ao bắt cá .
Anh em tôi dù đi học hay làm xa cũng về quê ăn Tết . Chiều 30 Tết, chúng tôi băng
qua các cánh đồng ải, thắp hương trên mộ phần, mời tổ tiên về nhà ăn Tết với con
cháu . Tết là thời kỳ đẹp nhất của tuổi thơ .
Làng Xuân Bảng là nơi chôn rau cắt rốn tôi . Cũng như các làng khác thuộc đồng
bằng sông Hồng, làng tôi có lũy tre xanh bao bọc, có đình chùa . Nhạc của Chung
Quân đã gợi lên hình ảnh của quê tôi:
“ Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh
Có sông sâu lờ lững vườn quanh “
Đình có chính điện thờ Thành Hoàng, điện bên phải thờ Khổng Tử, và nhà bên trái là
nơi các quan viên họp , tất cả cột, dầm đều bằng đá tảng . Phía sau là vườn nhãn xanh
quanh năm . Bao quanh đình là dòng sông uốn éo . Trước đình là nhà đánh cờ tướng,
trông ra cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay . Nhiều trưa hè, nằm duỗi chân trên ghế đá,
tôi đánh giấc ngủ ngon lành giữa tiếng sáo diều vi vút . Sau đình là đường cái quan,
bọn trẻ chúng tôi thường cạy đá dăm, mài bi bên mố cầu ,mài đến phỏng cả tay mà bi
vẫn chưa tròn . Thỉnh thoảng bắt gặp xe hủ lô bánh sắt chạy sình sịch bằng hơi nước,
bọn trẻ ném đá vào bánh xe để thấy viên đá bị nghiền nát, vỗ tay cười . Đó là hình ảnh
sở Lục Lộ trong ký ức tôi .
Hồi học lớp Đồng Ấu, tôi dậy thật sớm ; từ lầu hai,tôi đọc to những bài học cho cả
nhà nghe thấy, nhất là nhũng bài trong QVGKT như : Tôi đi học, Yêu mến cha mẹ,
Giúp đõ cha mẹ, Đứa trẻ có lễ phép, Người học trò tốt, Đi phải thưa về phải trình, Hoc
trò đối với thầy .v .v .
Đến giờ này, tôi có thể đọc thuộc lòng những bài như : Gọi dạ bảo vâng, Anh em như
thể chân tay, Học hành phải siêng năng, Trời mưa, Con trâu với người đi cày v . v.
Một nhà phân tâm học đã nói : “ Điều gì học từ thơi còn trẻ thì giữ lâu hơn những điều
học khi lớn .’’
Qua QVGKT ,chúng ta đã học nhiều điều bổ ích như : bổn phận làm con đối với cha
mẹ, kính mến ông bà, thờ phụng tổ tiên, tình bằng hưũ, cách đối xử với kẻ ăn người ở
trong nhà, bổn phận đối với chính mình, học đường, xã hội, bài học khôn ngoan cũng
như cách xử thế khôn khéo v .v.
Có lẽ vì hiếu học như vậy, thầy ( tôi ) gởi tôi lên Nam Định học . Tôi theo người nhà
ra đò Quản Khuông, đậu tại bến Trung Linh . Chỗ sông sâu người kéo đò, chỗ nước
cạn dùng sào đẩy, ngược sông Ninh Cơ, đến ngã ba Cựa Gà, rồi theo sông Hồng,
sông Đào, đổ lên bến Thóc . Đò cặp bến, đèn điện sáng chưng, tiếng rao lạ tai “ Bánh
mì nóng dòn ! “, tả làm sao hết những hao hức của cậu bé sáu tuổi, lần đầu ra tỉnh .
Anh Tạm va ụtôi trọ học tại nhà ông Ba Nghiêm, phố Saigòn . Trường tôi học là
trường Jules Ferry toa lạc trên đồi cao, bên kia ao rau muống là trường Thành Chung,
phố Cửa Hậu, nơi anh tôi đang học . Trường tôi nay đã bị san bằng .
Năm sau, tôi lên học tại trường huyện Đông Anh, tỉnh Thái Bình, nơi anh Biều đang
làm thừa phái. Thỉnh thoảng , tôi được chú Giống kéo xe tay chở đi học .
Hồi thơ ấu, tôi có tật hay khóc nhè, vì vậy tôi mang biệt danh chú Kếu . Chỉ cần ai
chọc ghẹo tôi về chuyện vợ chồng như nói tên cô Thúy hay tên ông Lý Uyển ( bố vợ
hứa hôn ! ), tôi khóc rả rích từ giờ này sang giờ khác, chỉ ngưng khi có người dỗ .
Nước mắt đã theo đuổi cuộc đời tôi, chỉ cần nghe một chuyện thương tâm hay thấy
một cảnh ngộ đau lòng là nước mắt tôi tràn ra .
Ho ỉhàng nhà tôi rất đông con cháu . Mới 9 tuổi, tôi đã có cháu gọi bằng ông . cháu
Phi suýt soát tuổi tôi, thường cõng ông đi vòng quanh nhà ,lâu lâu cháu quay lại , giả
vờ vuốt râu ông . Bây giờ, cháu đã ngoài 60 ,còn ông vẫn chưa có râu dài để cháu
vuốt . Gặp lại nhau, tôi hỏi cháu:
- cháu còn nhớ kỷ niệm xưa ?
- Nhớ, bây giờ, cháu không còn đủ sức cõng ông nữa.
Năm Nhật đảo chính Pháp, tôi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược và trở về làng học lớp nhì
chương trình Việt .
Tới lớp nhất, thầy tôi lâm trọng bệnh . Thầy giáo Bội dùng thôi miên chữa trị . Mỗi
lần thăm bệnh, ông xoa bàn tay trên bụng thầy, miệng lẩm bẩm :
- Bệnh cụ rồi sẽ khỏi .
Thầy tôi từ trần ngày 28 / 11 / 48, để lại cho con cháu muôn nghìn thương tiếc . Bề
ngoài tỏ ra nghiêm khắc, bản tính thầy tôi rất tốt, thương yêu con cháu . Mỗi lần các
anh tôi phạm lỗi, dù đã có vợ con, thầy bắt đương sự nằm úp xuống, đánh vào đít
bằng roi mây . Số roi nhiều hay ít tùy theo tội nặng hay nhẹ.
Cùng năm đó, tôi trượt thi bằng Tiểu Học . Để khỏi mất một năm, tôi xin mẹ tôi ỉhọc
lớp đệ Thất trường trung học tư tại Hành Thiện, do ông cử Tiễn làm hiệu trưởng .
Hành Thiện cách xa làng tôi 8 km, chị Tạm gởi tôi trọ học nhà anh Tuệ, giáo sư dậy
Pháp Văn . Lúc rảnh, tôi kèm dạy cháu Chư ( hiện nay là Bộ Trưởng bộ công nghiệp
nặng ), và học thuộc lòng cuốn tự điển bỏ túi Pháp Việt .
Chiến sự dồn dập, quân Pháp chiếm Bùi Chu ,và lập khu tự trị . Trường trung học
công lập đầu tiên được thành lập ,lấy tên Hồ Ngọc Cẩn, trụ sở đặt tại dinh cụ Thượng
Oánh, Lục Thủy . Tôi ghi tên học lớp đệ Lục, mỗi ngày tôi cuốc bộ tù làng tới trường
khoảng 8km . Mùa đông, nón lá áo tơi để chống lại gió bấc mưa phùn, vào lớp tay
chân run lẩy bẩy, hai hàm răng khua vào nhau . Mùa hè, đôi chân bỏng rát vì đá dăm
,nhựa đường .
Anh ngữ thay thế Pháp ngữ, chúng tôi bắt đầu học quyển Anglais vivant . Sách này đã
mở cho tôi một chân trời mới về nếp sống Tây Phương . Chỉ tiếc rằng giáo sư dạy
Anh ngữ phát âm sai , nó trở thành thói quen tệ hại cho học sinh .
Đầu tháng 7/ 50, trường di chuyển về Trung Linh, đời đạo học chung với nhau . Làng
tôi kế cận Trung Linh, nhà tôi trở thành chỗ trọ cho các cháu bên ngoại : Tuyền, Lưu,
Trâm, Quyên ( con anh Vỹ ) , Rong (con anh Vậng) , Liên, Đào ( con anh Giáp ) .
Trong số đó, tôi gần gũi và thân mật với Quyên hơn cả . Các cháu và tôi thường ngủ
chung trên sập gỗ rộng mà trước đây thầy và các bạn của thầy dùng làm chỗ đánh tổ
tôm .
Khi chiến cuộc lan tràn, mẹ tôi thuê nhà ông xã Đảo tại Trung Linh . Hàng tuần, em
Nhiệm quẩy đò tiếp tế như gạo mắm . Ban đêm, đại bác câu về phía làng, tôi tiếp tục
học ở đây cho hết năm đệ Tứ .
Tói kỳ thi Trung Học Phổ Thông, tôi lên Nam Định thi tại trường Nguyễn Khuyến,
phố Bến Củi, và ở nhờ nhà chị Đăng, #45 phố Bến Thóc . Chị tôi rất thương em,
thường lén lút gọi em ra chợ Cửa Trường ăn tiết canh cháo lòng .
Ngày xướng danh , tôi trách chị :
- Sao chị cho các cháu đi coi nhiều thế ?
- Chúng nó mừng cho cậu .
- Nhỡ trượt !
- Chúng nó khiêng cậu vế , chị tôi vùa cười vùa nói .
Cũng may, tôi đậu bình thứ . Cả tỉnh đi thi, chỉ có mình tôi đậu . Tháng 5/ 52, Việt
Minh tấn công Trung Linh, bắt đi cha Cung, cha Kính, người Bỉ phụ trách phòng thí
nghiệm Lý Hóa . Trường dời sang Bùi Chu, bên trong tòa Giám Mục . Mẹ gởi tôi lên
Bùi Chu ở trọ nhà bác Nghị, bác tôi cũng đi lánh nạn, thuê lại nhà của ông giáo Phụng
. Nhà quê chỉ có ao tù nước đọng, ăn uống, tắm rửa giặt giũ cũng một ao . Không tiền
mua thuốc đánh răng, tôi chà răng và súc miệng bằng nước ao tù, đó là lý do răng tôi
rụng quá nửa ở tuổi 65 .
Biết thân phận, tôi ráng học . giáo sư toán vừa đọc xong đầu bài, tôi đoán được những
câu hỏi . Các bạn cùng lớp lầm tưởng tôi đã giải bài toán này, nhưng nếu suy từ dữ
kiện đã cho ( giả thiết ), ta không thể không đi tới những câu hỏi ( kết luận ) . Trang
ghi trong kỷ yếu Hồ Ngọc Cẩn : “ Hợp hiền lành và dễ thương, thông minh và học
siêng vô cùng . Những định lý anh đọc không thiếu dấu phẩy, còn bài tập thì khỏi nói,
thầy Quyến cho bài về nhà làm, Hợp không những làm hết mà còn làm thêm . ( X.
phụ chương I ) .
Cuối năm đệ Nhị, tôi được phần thưởng Quốc Trưởng Bảo Đại . Nhà trường tổ chức
lễ rước chung quanh nhà thờ để vinh danh nhũng hoc sinh xuất sắc . Sau đó, tôi từ giã
mẹ và em tôi lên Hànội thi Tú Tài phần I .
2. Giấc mơ thành tựu
Sau khi đậu Tú Tài II, tôi thập thò bước vào ngưỡng cửa đại học . Không ai cố vấn, tôi
biết chọn ngành chuyên môn gì ?
-theo ban PCB ( sinh lý hóa ) để ra bác sỹ, dược sỹ nhưng học quá lâu .
-còn sư phạm, tuy là sở trường, tôi chỉ thích ngành nào có dính dáng đền khoa học kỹ
thuật .
-thôi đành học MPC ( toán lý hóa ) để chờ thời .
Ban MPC thỏa mãn tính tò mò của tôi . Khi có giờ rảnh, tôi nhảy vào phòng thí
nghiệm để thực hiện những phản ứng hóa học mà tôi đã tiếp thu từ hồi Trung Học .
Hòa một chút acít với chất base, muối kết tủa hiện ra với màu sắc lộng lẫy .
Rời trại Phú Thọ, tôi nộp đơn xin vô đại học xá Minh Mạng , và được cấp 1 giường
thuộc dãy N . Sinh viên cư ngụ trong phòng bế quan tỏa cảng , họ chỉ muốn ở rộng,
không cho người khác ở chung . Tôi trình lại ban quản trị, được ông Giám Đốc chỉ
dẫn :
- năn nỉ với họ vậy .
-?!
Mỗi ngày một bài học mới, lúc nào tôi cũng phải đề cao cảnh giác . Ở đai học xá dễ
chịu hơn , mỗi sinh viên được trợ cấp 500đ, chỉ đủ trả tiền cơm và chi tiêu lặt vặt .
Không tiền mua sách, quần áo, tôi viết cours Lý Hóa cho trường tư thục Chu Mạnh
Trinh . Nghề viết cours tương đối dễ kiếm tiền, tôi dịch sách Pháp và xào nấu lại cho
có vẻ “ tự sáng tác “ .
Qua thông cáo trên đài, bộ Công Chánh mở kỳ thi đặc biệt tuyển sinh viên cao đẳng
công chánh, tôi vội nộp đơn thi . Bây giờ, tôi mới biết rằng nước ta có trường đào tạo
kỹ sư công chánh, mộng ước của tôi có cơ thành tựu .
Tới ngày thi, tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy các bạn MPC đều xin nghỉ phép,
không ai bảo ai đều có mặt tại trường thi . Tôi dễ dàng qua kỳ thi viết, nhưng lo ngại
cho kỳ thi thể dục . Từ bé đến giờ, tôi chưa đụng tới dây leo . Nhờ Giám Khảo dễ dãi,
tôi cũng leo tới đỉnh , nhưng bằng cả hai chân !. Khó ăn nhất là môn vác bao cát nặng
20 kg chạy bộ 100 m .Bao cát quá to so với thân hình ốm tong teo của tôi .Đảo mắt
thấy bao nhỏ nhất, bị chọc thủng từ trước, tôi vội vác bao chạy, sợ Giám Khảo trông
thấy, đổi ý.
Cuộc sống bắt đầu dễ chịu , hoc bổng công chánh tăng lên 800đ/ 1tháng . Tới kỳ lãnh
tiền, tôi tự thường cho mình 1 ly nước mía Viễn Đông .
Năm thứ nhất, chúng tôi học nhờ trường Thực Nghiệp, đường Hồng Thập Tự . Toi
đâu có ngờ chương trình dạy toàn bằng Pháp văn ! ,tôi đãbỏ tiếng Pháp từ hồi đậu Sơ
Học Yếu Lược . Các đồng môn đều xuất thân từ trường Phápnhư Taberd, Puginier,
Chasseloup Laubat, họ nói tiếng Pháp nhanh như gió . Tôi chỉ trố mắt nhìn khi thấy
họ tranh luận và chửi nhau bằng tiếng Pháp . Trong lớp, nghe tiếng được tiếng không,
tôi không thể lấy notes hết, ngó sang bên cạnh, hắn tỏ vẻ khó chịu ! Đó là những nỗi
khổ tâm của học sinh trường Việt .
Nói chung, các thầy đều tận tâm dạy ,giảng giải rõ ràng . Thày Breton với mái tóc bạc,
dạy chúng tôi môn trắc địa . Thày thường đưa chúng tôi ra đường Cường Để, gần nữ
tu viện, hoc nhắm máy . Thày Marguetti dạy môn xây dựng đường, thầy vừa ngậm
thuốc lá vừa nói li nhí trong miệng . Tôi chẳng hiểu gì cả, tôi bèn hoc thuộc lòng
cours de routes dày 200 trang in roneo . Môn hình học họa hình khó nuốt do thầy Sách
phụ trách . Thầy thường mắng idiot (ngu ) đối với trò nào không sáng dạ. Thầy
Dưỡng dạy môn đường sắt, giọng to, khó ai có thể buồn ngủ .Thầy Sáu giảng thao
thao bất tuyệt về xây dựng công trình ngoài biển . Thầy Tạ Huyến dạy tính toán khối
lượng đào và đắp đất, thinh thoảng , thầy chêm tiếng Việt .
Niên học 1956- 1957 ,trường Cao Đẳng Công Chánh dời về Trung Tâm Quốc Gia Kỹ
Thuật Phú Thọ, trường chiếm một cao ốc ba tầng có giảng đường lớn và phòng thí
nghiệm rộng rãi . Sang năm thứ hai, tôi có thể lấy notes đầy đủ và sẵn sàng
cho những ai mượn khi cần đến, tôi đã xóa nhòa ranh giới giữa trường tây và trường
ta .
Dịp hè, chúng tôi tập sự tai các công sở hay công trường . Có lần chúng tôi thăm
viếng đập Đồng Cam, Phú Yên, một công trình thủy lợi lớn nhất ở miền Nam lúc bấy
giờ với hệ thống mương tưới tối tân . Lượt đi, chúng tôi lấy vé xe lửa có giường nằm ;
lượt về Hùng đề nghị lấy vé ngồi để có dư chút tiền tiêu vặt . Tuy mệt mỏi vì ngủ
ngồi, nhưng ai nấy đều hoan hỉ .
Tới năm thứ ba, các sinh viên có điểm trung bình trên 14/ 20 đều được học kỹ sư , vừa
đi học vừa lãnh lương cán sự 5200đ /1 tháng . Đó là những ngày tháng huy hoàng
nhất ; tôi bắt đầu dùng xe máy đi học, áo quần tươm tất, có người mang cơm tháng tới
tận phòng, thay vì xuống nhà bàn . Trong niên khóa này, tôi mến thầy Oành, thầy say
sưa giảng “ sức bền vật liệu “. Thầy Vaudiot, một kỹ sư già dặn kinh nghiệm giảng
khúc triết về môn cầu .
Chẳng mấy chốc tới kỳ thi ra trường, mỗi đêm tôi chỉ ngủ chừng 4 tiếng để có thể nộp
đồ án đúng thời hạn . Nửa đêm, Lễ,Căn, và tôi thường ăn phở gà tại Xuyến, Phú
Nhuận, sau đó trở về nhà Lễ tiếp tục chong đèn học .
Niềm hân hoan khôn tả, sau gần bốn năm đèn sách ,tôi được cấp bằng KỸ SƯ CÔNG
CHÁNH ngày 20/ 1/ 1959 .
3. Con đường phía trước
Mùa thu 1969, tôi được bổ nhiệm Trưởng Ty công chánh kiêm Kiến Thiết kiêm Cấp
Thủy tỉnh Long Khánh . Nơi làm việc của Trưởng Ty chiếm một phòng khá rộng,
gồm bàn giấy , bàn tiếp tân và tủ sách kỹ thuật, trên tường treo gọn gàng những bản
đồ thiết kế đô thị, hệ thống cấp và thoát nước . Mặt trước ty trông ra sân cột cờ và kho
xưởng . Hông phải là nhà trưởng ty . Hông trái ăn thông với phòng làm việc của nhân
viên . Mặt sau là cư xá nhân viên .
Tiếng gõ cửa, chú tùy phái lên tiếng :
- Trình ông Ty, có bác T muốn gặp .
- Mời bác vô .
Bác T là một thương gia, được nhiều người biết đến trong tỉnh . Bác trình tôi hồ sơ xin
phép mở cây xăng tại Gia Liêu, QL 1, kèm theo 5000đ . Tôi cầm hồ sơ và trả lai tiền .
Hơi ngỡ ngàng, bác mở bópụ đưa thêm . Tôi từ tốn thưa :
- Là nhân viên chính phủ, tôi có nhiệm vụ giúp dân, giúp bác . Nếu hồ sơ bác hợp lệ,
trong vòng một tuần ,bác sẽ nhận được giấy phép .
Tôi tiếp dân, giúp dân trong tinh thần công bộc, trong nhiệt tình của tuổi trẻ . Khi ra
trường, tôi tư nhủ : “ Cần, kiệm, liêm, chính phải là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
“.
Mặc dầu bù dầu với công việc hành chánh, tôi cũng dành thì giờ nghiên cứu chuyên
môn . Long Khánh là tỉnh có nhiều sỏi đỏ trải dài ba quận Định Quán, Kiệm Tân,
Xuân Lộc . Tôi xuất bản cuốn Kỹ thuật làm đường sỏi đỏ, nhằm mục đích giúp sinh
viên công chánh có tài liệu tham khảo .
Để mở rộng kiến thức, tôi xin tham dự khóa hội thảo về xa lộ A Ùchâu do Liên Hiệp
Quốc bảo trợ . Khóa được tổ chức tại Băng Cốc thủ đo Thái Lan, từ tháng 8 – 9 /1970
. Nơi đây, tôi co ùdip làm quen với nhiều kỹ sư thuộc các nước Thái, Miến Điện, Ấn,
Hồi .
Trải qua những ngày tháng khốn cùng, khi đạt chân tới miền Nam, nhất là thời gian
sống tại khu ổ chuột Khánh Hội, tôi thông cảm sâu xa những nỗi bất hạnh của dân
nghèo . Không nhà, vợ chồng con cái nấu nướng, ăn ngủ dưới mái tent che bên vệ
đường, tắm nước phông ten, sử dụng cầu tiêu công cộng . Do đó, tôi quyết tâm cải tạo
đời sống nhân viên .
Bắt đầu bằng chỉnh trang cư xá . Mỗi hộ đều được cấp vật liệu để tráng nền xi măng
và làm cầu tiêu tự hoại . Sau đó , xây dựng một câu lạc bộ, lấy tên Quán Trúc . Khi
bước vào cổng ty, quan khách thấy ngay chữ Quán Trúc màu xanh xinh đẹp trên nền
tôn lạnh . Trong quán có quầy bán thức ăn, nước giải khát, với giá rẻ bằng 1/2 giá chợ
; bàn ping pong, sách báo v . v. Mọi người đều thướng thức tự do những trái cây như
chuối, mít do đồng bào tặng . Phía sau quán là phòng hớt tóc miễn phí dành cho nhân
viên và gia đình . Đầu tóc các em lúc nào cũng ngắn gọn. sạch sẽ, mọi người trông
như trẻ lại, một cuộc sống mới thật sự bắt đầu .
Chiều mồng một Tết, hầu hết nhân viên tập trung tại nhà tôi . Bàn ghế, xa lông đều
dẹp một bên,mói đủ cho họ ngồi bệt xuống sàn gạch vuông,lau chùibong loáng . Họ
mổ dê, cừu và tự nấu những món nhậu ngon miệng . Có sẵn rượu whisky, họ chê là
nhạt miệng, đòi uống đế .
- Dô ! dô !
- Mời ông Ty cạn với chúng em một ly .
Chúng tôi say sưa trong 3 ngày Tết. Họ thương yêu và quý mến tôi, tôi thương ho
ỉnhư anh em trong một nhà . Ôâng cai Thu, chú tư Gie , và bao người khác nữa ,
chúng tôi sống chết bên nhau trong thời chiến, cũng như chia sẻ ngọt bùi trong thời
bình .
Dạo đó ,Ty công chánh được giao nhiệm vụ xây dựng đường Nông Thôn . Cơ giới
công chánh đi đến đâu, vườn rẫy, nhà cửa mọc lên tới đó . Chỉ 1 giờ máy ủi D7 chạy
bằng 100 súc dân phá rừng trồng trọt . Rẫy bắp vườn đo ãxanh um cả vùng Gia Kiệm,
Dốc Mơ .Đồng bào cho buồng chuối, sọt ngô, nhân danh Quán Trúc tôi nhận ; còn
tiền bạc, tôi nhất mực từ chối .
Ngoài ra, tôi rất dở về vấn đề tiền bạc, có lần ông Tỉnh than với tôi :
- Tết đến, trong nhà chả có chai rượu nào !
- Để tôi bảo nhà thầu mang rượu đến .
Thấy tôi hăng say hoat động xã hội, nhiều người hoài nghi :
- Chắc ông định ra ứng cử Dân Biểu ?
- Tôi là chuyên viên, tôi chỉ ước muốn phục vụ đất nước trong phạm vi nhỏ nhoi này .
Những ngày nghỉ cuối tuần, tôi thường ra vườn anh chị Ba Thạnh đọc sách . Vườn
trồng đủ mọi thứ : cà phê, chôm chôm, sầu riêng, tiêu . Tính tình đôn hậu, thẳng thắn
của người miền Nam rất phù hợp với tâm hồn ngay thẳng của tôi . Chẳng bao lâu,
chúng tôi trở thành anh em kết nghĩa . Anh chị đãi tôi những món ăn đặc biệt như thịt
heo rừng luộc chấm mắm nêm, cà phê cứt chồn vói sầu riêng thay đường . Mỗi lần ra
vườn, chị đều dặn tôi : “ Đang mùa sầu riêng, chú phải đội nón sắt, kẻo sầu riêng rơi
lủng đầu. “, chị còn bắt các cháu gọi tôi bằng ông chú .
Ban ngày, ngả lưng trên ghế xếp, nghe chim hót,suối Gia Liêu đổ , tôi cảm thấy lòng
mình lâng lâng . Ban đêm, tôi thích ngủ ngoài trời trên ghế bố có căng mùng . Nhìn
sao lấp lánh trên trời qua kẽ lá sầu riêng, tôi nhớ lại những đêm không nhà .
Cũng trong thời gian tại Long Khánh, tôi lên cơn sốt rét ngã nước nặng, hậu quả của
những ngày sống tại Bà Rá, Hớn Quản, nơi nổi tiếng là rừng thiêng nước độc . Thuốc
tây chữa không khỏi .Chị Tám, vợ anh gác dan Báu, khuyên tôi uống thuốc gia truyền
. Chị vò lá mãn cầu tươi , lấy nước cho tôi uống, mùi tanh nồng . Uống 3 lầnụ, tôi
khỏi bệnh . Tụitôi rất thương gia đình anh Tám .Anh rất tận tụy trong công việc bảo
vệ cơ sở, ngờ đâu anh là cán bô. nằm vùng . Nghe nói sau ngày 30/4, anh làm chức gì
lớn lắm .
Sau năm 1975, cùng với cán bộ, tôi về công tác tại Ty cũ, gặp lại một số nhân viên cũ,
chúng tôi tay bắt mặt mừng :
- Sao ông Ty không đi Mỹ ?
- Đi Mỹ Tho thì có, tôi cười .
Cơ sở còn nguyên vẹn, nhung thiếu bảo trì . Khi nhìn thấy Quán Trúc, tôi nhớ con
tôi, nhớ thời oanh liệt xa xưa, tôi gạt nước mắt .
Cán bộ cho biết : “ Tôi đãtham quan nhiều Ty, nhân viên cũ đều gọi Trưởng Ty cũ
bằng anh, sao ở đây, ho ỉgọi anh bằng ông Ty .” Anh còn nói thêm : “ tôi tưởng chỉ
miền Bắc mới có câu lạc bộ .”.
***
Thấm thoát tôi làm nghề công chánh đã 12 năm . Khi ra trường, tôi được bổ nhiệm
làm Phó Ty công chánh Long An .tỉnh thuộc vùng Đồng Tháp Mười :
“Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh ,
Nước Tháng Mười long lánh cá tôm .”
{ca dao }
Tôiù đi thăm các công trường tại Bến Lức, Đức Hòa, Đức Huệ, Tân Trụ . Dứa Bến
Lức nổi tiếng thơm ngọt, mỗi lần về Saigòn, tôi đều mua làm quàbiếu bạn bè .Tài xế
riêng của Phó Ty là chú Ba Thơm, tin cẩn và trung thành . Sống lâu ở vùng này, chú
thuộc đường đi nước bước, chú thường khuyên tôi : “Vùng này bất an , ông Phó
không nên ở lâu . “
Tôi rất mến gia đình chú, coi như người thân thích .Khi tôi đổi đi Bình Long, chú gởi
cháu Cận và chồng lên giúp việc . Trong lần trở về nước năm 1998, tôi ghé thăm gia
đình chú, và giúp đỡ ít tiền bạc . Chú đã mất, thím nằm liệt giường . Sáng, con trai
chú, vừa mở tiệm cà phê vườn ngay tại nhà, vừa lái xe cho ông Trưởng Ty mới . Lộc
mượn xe Jeep Trưởng Ty chở tôi đi thăm các cơ sở và công trường cũ .
Chiều thứ bẩy nào cũng vậy, tôicó mặt tại công trường nới rộng QL 4 để hướng dẫn
công nhân thi hành đúng theo chỉ thị của khu Bắc Công Chánh Nam phần . Cũng
chiều thú bẩy, ông Trưởng Khu Nhiêu thường về thăm nhà tại Mỹ Tho , ông tỏ vẻ hài
lòng về cách tổ chức công trường, nhất là cách xếp đạt biển báo . Ông liền đề nghị tôi
đi làm Trường Ty công chánh tỉnh Phước Long . Đó là chuyện hi hữu, vì thông
thường làm phó ít nhất 2 năm, thay vì 6 tháng như trường hợp tôi . Tôi là người đầu
tiên trong khóa được đề cử chức vu. này .
*
Phước Long là tỉnh mới lập, đèo heo hút gió, thiếu đủ mọi tiện nghi, tôi đi đễ có cơ
hội thi thố khả năng của mình .
Nằm vùng ở Bà Rá gần ba tháng, tôi sưu tầm các dữ kiện từ Đồng Xoài đến Bù Đăng,
Bù Đốp để chuẩn bị cho một chương trình kiến thiết tỉnh khá quy mô . Ông Phó Tỉnh
Trưởng tổ chức một bữa tiệc tống cựu nghinh tân . Chờ hoài ! ! Ông Trưởng Ty cũ
không chịu bàn giao, tôi trở về Saigòn tiếp kiến kỹ sư Dinh, Bộ Trưởng bộ Công
Chánh và Giao Thông . Ông cho biết : “ Tỉnh Trưởng muốn giữ ông Tiềm, tôi sẽ kiếm
ty khác cho ông . “
*
Sau đó, tôi được bổ nhiệm Trưởng Ty công chánh Bình Long kiêm Quản Đốc nhà
máy điện, nhà máy nước . Bình Long là tỉnh mới đang trên đà phát triển . Cư xá nhân
viên là những dãy nhà lụp sụp , kế cận văn phòng tạm của Ty . Khi dời Ty ra trụ sở
mới, tôi huy động nhân viên chặt cây rừng, làm nhà trên khu đất trống, giáp bên trụ sở
. Nhà cửa ngay hàng thẳng lối, nền tráng xi măng, mỗi nhà đều có cầu tiêu tự hoại .
Việc xây dựng cư xá hoàn toàn tự lực , không có ngân khoản nào tài trợ . Mắt môi
nhân viên rạng rỡ . Một sinh lực mới đang đổ tràn trên họ . Niềm vui của họ là phần
thưởng tinh thần vô giá trong bước đầu xây dưng sự nghiệp của tôi .
Nhà Trưởng Ty là một biệt thự nằm trên sườn đồi, trông xuống thung lũng trồng tiêu
và cà phê . Ngày nghỉ, tôi mời bác Nghị, các bạn xưa của thầy như cụ Chánh Hiên,
Chánh Đoán ... lên trên này nghỉ mát, đi thăm đồn điền Quản Lợi .
Trong số các anh chị con bác tôi, tôi thương chị Thuận hơn cả, vóc dáng chị mảnh
mai, ánh mắt nhân hậu . Anh mất đi ,chị tôi phải lo đàn con dại . Các cháu nay đã tới
tuổi dựng vợ gả chồng, chị cần có căn nhà riêng . Tôi cảm thấy có bổn phận giúp chị
thực hành ý định đó . Niềm vui của chị bắt đầu từ đây .
Từ khi đi làmỉ đến giờ, lúc nào tôi cũng nghĩ đến Lạc, mong cho cháu học thành tài .
Trong truyện “ họa vô đơn chí “, Lạc đã viết : “ Chú tôi ra trường, vì đậu cao ông
dược bổ nhiệm làm Phó Ty rồi Trưởng Ty . Vừa dễ thơ ũlà ông nghĩ tới tôi, ông nói
giản dị, ông muốn thay Bố tôi lo cho tôi, nhưng tất cả đã chín mùi, tôi lên đường trong
sự ưu phiền của chú tôi . . .”
Những năm đầu ở Bình Long, thật là thanh bình, có gió mát trăng xanh, tiếng hát câu
hò trong thôn ấp . Đêm thứ bẩy, tôi có thể lái xe Jeep từ An Lộc về Saigòn, dừng chân
tại quán nhậu Chơn Thành hoặc Bưng Bàng ăn tối .
Chẳng mấy chốc, chiến cuộc lan tràn . TámLới, Ba Nguờn, Cai Thanh và biết bao
nhân viên đã cùng tôi chia xẻ những ngày tháng gian chuân tại các công trường biên
giới .
Cống Tham Rớt QL 13 bị phá sập .
Cầu đúc Cẩn Lê, 3 nhịp dài 38m nối liền tỉnh lỵ An Lộc với quận lỵ Lộc Ninh bị phá
hoại . Cầu gẫy theo hình chữ V, đầu cầu vểnh lên khỏi mặt đường 1m . Đe ătái lập lưu
thông cấp thời, chúng tôi kê chuồng heo cao 7m từ giữa lòng suối và dùng con đội để
đưa sàn cầu về vi trí ban đầu . Sau đó, cầu Eiffel được ráp trên sàn cầu bêtông .
Càng lao động, tôi càng phát huy sáng kiến . Chỉ nghiên cứu qua sách vở, chúng tôi
hoàn tất một phi trường L 19 theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật của Nha Căn Cứ Hàng
Không .
Trong thập niên 50, kỹ sư tương đối ít, kỹ sư Trưởng Ty lai càng ít hơn . Nhiều nhà
giầu sang, có thế lực muốn gả con cho tôi, tôi khước từ khéo . Mục đích của tôilà tìm
người vợ hiền, suốt đời chỉ biết hy sinh cho chồng để tôi có thì giờ lo việc xã hội .
Nhà tôi, quê ở Thủ Đầu Một, Bình Dương, đã cam kết như vậy trong những búc thơ
tình . Đám cưới được cử hành trước sự chứng kiến của bác Nghị .
Khát vọng hoc hỏi của tôi không ngừng . Tôi ao ước được đi tu nghiệp tại Mỹ, vì Mỹ
là quốc gia co ùnền khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới . Tôi muốn xem tận mắt
phương pháp thi công đường trên nền đất yếu, cầu bêtông dự ứng lực, cầu cáp ,dường
ngầm v . v . Liều lĩnh, tôi nộp đơn xin đi tu nghiệp Hoa Kỳ 6 tháng từ tháng1 –7 / 65 .
Đi như vậy, không những mất chức Trưởng Ty mà nhiều người khác đang mong thế
chỗ, mà còn nhiều bất trắc khi trở về .
Giữa năm 1964 , tôi về Saigòn học Anh văn ; tháng giêng năm 1965, tôi lên đường đi
Mỹ. Một tuần ở Thủ Đô để theo học khóa hướng dẫn, tôi sợ cái giá lạnh của miền
Bắc, tuyết trắng xoá ngoài công viên, tuyết đen nhơ nhớp trong đường phố .
Trên đường từ Washington DC về Louisiana, máy bay ngừng ở Chicago 3 giờ . Lợi
dụng cơ hội quý báu, tôi đáp xe buýt xuống phố, thăm hồ Michigan để chứng kiến
những tảng băng hà trôi lềnh bềnh trên mặt hồ, điều mà tôi đã học trong sách Địa Dư.
Cảnh tượng thật là hùng vĩ, ngoài sức tưởng tượng ! Những tòa nhà biết đi nhấp nhô
trên mặt hồ dạy sóng .
Sáng tuyết rơi giá lạnh tại miền Bắc; chiều mưa rơi ấm áp khi phản lực cơ hạ cánh tại
phi trường Baton Rouge, thủ phủ của bang Louisiana .
Ở Baton Rouge 1 tháng rồi đi New Orleans , tôi học nhiều điều bổ ích vì địa chất và
thủy văn nơi đây cũng tương tự như đồng bằng sông Cửu Long, có điều tôi không
thích là sự kỳ thị chủng tộc : người da đen buộc phải sử dụng cầu tiêu riêng, vào nhà
hàng bằng cửa riêng dành cho người da mầu và chó .
Sau 2 tháng tu nghiệp tại Louisiana, tôi ngược lên miền Bắc, thời tiết luc bấy giờ
tương đối dễ chịu . Nơi tôi trình diện là Nha Kiều Lộ của bang Iowa, đạt tại Ames một
thi trấn nhỏ cách thủ phủ Des Moines chừng ơmột giờ lái xe . Ngay ngày đầu, phóng
viên đến phỏng vấn và chup hình tôi để đăng báo.
Trong thời gian ở Iowa, tôi nhận tin vui : Thúy chào đời ngày 31 / 3 / 1965 . Nhà tôi
gởi ảnh Thúy cởi truồng, không quấn tã . Thấy vậy, bà chủnhà hỏi :
- Ở Việt Nam, con nít không mặc quần à ?
- Có chứ, cởi ra cho mát , tôi tỉnh bơ trả lời .
Sau Iowa, tôi đến tu nghiệp tại bang Indiana. Địa chất thủy văn tại Iowa và Indiana
cũng tương tự như cao nguyên Nam Trung Phần nước ta .Kết thúc 6 tháng tu nghiệp
bằng một khóa Hội Thảo về kỹ thuật truyền thông taị bang Wisconsin .
Khi về nước, tôi gặp quá nhiều rắc rối về động viên .Ông Đổng Lý hỏi tôi :
- Anh có muốn đi Ty không ?
- Dạ, có .
Không thấy tôi có những hành động tiếp theo,ông bèn ghi tên tôi với chức vụ “nguyên
Trưởng Ty “ và gởi danh sách sang bộ Quốc Phòng .May nhờ quý nhân phù trợ, tôi
được tạm hoãn dịch . Sau đó, tôi được bổ nhiệm Trưởng Ty công chánh Phước Tuy .
*
Bà Rịa là tỉnh cũ, các cơ sở hành chánh đều có sẵn . Tôi chỉ cần bổ sung thêm như mở
câu lạc bộ , phòng hớt tóc v . v .
Ngay tháng đầu nhận chức, tôi được báo cáo : “Một nữ công nhân phù động công
trường bị tử thương do hầm đất sụp . Quên đến nhà Hộ Sinh mừng Trúc ra đời ngày
23 / 8 / 1966, tôi vội đi Đất Đỏ lo lễ an táng và ủy lạo gia đình nạn nhân .
Từ biến cố trên, tôi càng quan tâm hơn tới điều kiện làm việc của công nhân . Các
Giám Thị được ủy quyền cho nhân viên nghỉ ăn lương ,nếu thấy họ quá mệt mỏi trong
khi thi hành công vụ . Tinh thần “ Mình vì mọi người, mọi người vì mình “ tạo một
sinh khí mói đang bao trùm mọi hoạt động của Ty .
Ông Đội Khoan, Mười Hừng và biết bao nhân viên khác đã sát cánh bên tôi, làm bất
kể ngày đêm để tái lập lưu thông trên QL 15, LT 23, HT 44 . Điển hình là tái lập lưu
thông cầu Cỏ May trên QL 15 nối liền Bà Rịa – Vũng Tầu . Cầu bị phá sập nhịp giữa .
Vì nước sông sâu và chảy siết, không thể làm giàn giaó theo phương pháp ráp lắp
thông thường . Tôi quyết định ráp cầu Eiffel trên bờ, và đưa vào vị trí bằng cần cẩu
trực thăng . Lưu thông gian đoạn không quá 3 ngày, kể làm sao cho hết những nỗi vui
mừng của đồng bào .
Mặt khác, tôi cố gắng kết hợp một cách nhuần nhuyễn những kiến thức về chuyên
môn cũng như về quản trị đã học hỏi tại nước ngoài vào hoàn cảnh trong nước
như rút ngắn cầu Bờ Đập ( hai bên là thủy triều ) ; sử dụng đá có cỡ hạt liên tục trong
công tác làm đường vô cầu Rạch Hào v . v.
***
Ty sau cùng là ty Long Khánh . Sau 14 năm trời lặn lộn tại địa phương, đã đến lúc tôi
trở về trung ương . Nơi đây, tôi sẽ có cái nhìn tổng quát về toàn ngành giao thông vận
tải. Từ ý định đó, tôi xin dự khóa Hội Thảo về khả thi dự án do ngân hàng Phát Triển
Á Châu ( ADB ) bảo trợ . Khóa được tổ chức tại Manilla ,thủ đô Phi và Tokyo, thủ đô
Nhật, từ 3 / 1 – 12 / 3 / 1974 . Khóa giúp tôi hiểu thế nào là kinh tế vĩ mô và vi mô,
nhất là môn kinh toán học mà tôi hằng khao khát .
Khi về Tổng Cuộc Kiều Lộ, tôi được đề cử Phụ Tá Giám Đốc nha Kế Hoạch kiêm
Trưởng Phần Vụ Kế Hoạch .Tôi đích thân hướng dẫn nhân viên những kỹ thuật mới
như cách đếm xe, kiểm kê cầu đường, phỏng vấn “ đi và đến “ . Họ thích thú trong
nhiệm vụ mới, vừa được thực tập tại hiện trường, vừa được tham quan những thắng
cảnh của đất nước . Niềm vui và hy vọng lóe lên trong mỗi chặng đường tôi bước,
mộng ước tôi còn bay xa hơn nữa .
Để truyền bá những kiến thức, tôi tiếp tục viết nhiều sách như phương pháp kiểm kê
cầu đường, tính cách khả thi dự án LT 50 v . v .Tôi miệt mài nghiên cứu cho đến
ngày miền Nam sup đổ . Ngạch trật sau cùng của tôi là Kỹ Sư Công Chánh Đặc Hạng
vói 15 huy chương danh dự, tôi lên trật mau hơn so với các bạn đồng khóa .
Đêm 30 tháng 4, bên ngọn nến bập bùng trong phòng tắm đóng kín, tôi đốt từng giấy
khen ,từng bằng tưởng lệ, từng huy chương . Mỗi lần ngọn lửa bùng lên, tim tôi thắt
lại .Cả sự nghiệp là
Phụ Chương I
BẠN TRUNG LINH
Hôm nay mồng 10 tháng giêng, năm 1997, họ đạo Thánh Giu-se nhỏ bé thuộc Giáo
Xứ Lê Thị Thành, Tổng Giáo Phận New Orleans, vinh dự được đón tiếp Đức Cha Vũ
Duy Nhứt, Giám Mục địa phận Bùi Chu từ Việt Nam ghé thăm. Tuy đã gầm 85 tuổi,
Ngài trông khỏe mạnh, bình dị và nhất là đức tin mãnh liệt được biểu lộ qua từng lời
nói, từng cử chỉ của một vị chủ chăn.
Không những Ngài đã đem tới đây cái giá lạnh của một mùa đông miền Bắc, mà cả
hình ảnh giáo phận Bùi Chu nghèo nàn cơ cực, nhất là ngôi trường Trung Học Hồ
Ngọc Cẩn đầy ắp những kỷ niệm thiếu thời.
***
Con đường cái quan từ Xuân bảng lên Lục Thủy dài gần 8 cây số, phải qua Trung
Linh, Bùi Chu vơi những ụ, hố chằng chịt ngoằn ngoèo. Trên con đường này, ngày hai
buổi, tôi cuốc bộ tới trường. Mùa đông, nón lá áo tơi, chân đất để chống lại gió bấc
mưa phùn. Mùa hè, đôi bàn chân bỏng rất vì đá dăm và đường nhựa. Cả quãng đời
trung học của tôi gắn liền với Trường Hồ Ngọc Cẩn cho tới ngày di cư vô Nam.
Lúc đầu, trường tọa lạc tại Lục Thủy, trong dinh cụ Thượng Oánh, sau dời về Chủng
Viện Trung Linh, cuối cùng là Bùi Chu, cạnh Tòa Giám Mục.
Hơn cả Nam Định, Bùi Chu là tỉnh duy nhất có Trung Học Đệ Nhị Cấp. Đó là nhờ
công lao của Đức Giám Mục Phạm Ngọc Chi và cha Hiệu Trưởng Trần Đức Huynh.
Ngoài những nỗi vất vả cơ hữu, học trò miền quê, còn phải đương đầu với những bom
đạn pháo kích, giật mình, dân công. Tuy vậy, các Thầy, phần lớn đã qua đời, và các
bạn, nhất là chủng sinh phần đông đã trở thành Linh Mục, đã để lại trong đời tôi quá
nhiều ấn tượng. Trong đó, phải kể giờ Sử Địa của thầy Huỳnh.
Cứ tới giờ, thầy phát bài in ronéo và chỉ định tôi đọc lại cho cả lớp nghe. Tôi được
“ưu ái” có lẽ một phần tôi là học sinh ngoan và chăm học, phần khác tôi đọc giọng
“đồng chua nước mặn” chữ L thành ra chữ N khiến cả lớp cười ầm lên. Trước đây giờ
Sử Địa buồn tênh và lặng lẽ, vì ban B không mấy chú ý đến những môn phụ như Sinh
Ngữ, Sử, Địa. Từ ngày thầy chỉ định tôi đọc “cua”, lớp học trở nên vui vẻ và nhộn
nhịp, ai cũng chú ý theo dõi bài vở. Tôi còn nhớ một đoạn văn sau: “Nước Triệu toan
đánh nước Yên, Tô Tần, vì nước Yên, sang nói với nước Triệu là Huệ Vương rằng:
“Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy, tôi trông thấy con trai đang há miệng phơi
mình trên bãi, có con cò đâu đến, mổ ngay vào thịt trai. Trai liền ngậm miệng, cắp
chặt lấy mỏ cò. Cò nói: “Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai cũng
phải chết”. Trai nói: “Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ, thế
nào cò cũng phải chết”. Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai. Bỗng đâu có người đánh
cá đi qua, trông thấy chộp được cả trai lẫn cò... Nay mà nước Triệu đem quân sang
đánh nước Yên, nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn
của, chắc là suy yếu cả. Tôi e nước Tần thừa cơ ấy, đem quân chụp cả hai nước như
người đánh cá chụp cả trai lẫn cò, thì lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Dám xin nhà
vua thử nghĩ lại xem”. Huệ Vương cho là nói phải, bèn đình việc đánh Yên.
Vẫn giọng Bùi Chu tôi phát âm “Trai niền ngậm miệng...” “cả trai nẫn cò...” nước
Yên tất phải chống nại...”, “Hai bên đánh nhau nâu...” và vân vân.
Không phải là tôi không sửa hay không đọc đúng giọng được, tôi muốn giữ “nguyên
trạng” để cả lớp có dịp cười, có phải không các bạn Cẩm, Tu, Sơn, Điện, Minh Tri.
***
Tiếng cười rộn ràng của các bạn đồng môn hòa nhịp với tiếng vỗ tay vang dội của Hội
Trường đã kéo tôi về thực tại.
Bằng giọng vừa đơn sơ, vừa mời gọi, Đức Cha đã kết thúc buổi nói chuyện bằng
những câu: “Cái hay của người ta học, cái dở của người ta bỏ, quý cụ, quý ông, quý
bà hãy gìn giữ lấy cái thuần phong mỹ tục của tổ tiên để lại trong đó vợ chồng hòa
thuận, con cái hiếu thảo với Cha Mẹ. Đó cũng là một cách truyền giáo trên xứ người
vậy”. Lời nói của Ngài khơi dậy bài thơ của Đức TGM Nguyễn Văn Thuận trong tâm
hồn tôi:
... Con có một Tổ Quốc Việt Nam
Quê Hương yêu quý ngàn đời.
Con yêu non sông gấm vóc,
Con yêu lịch sử vẻ vang,
Con yêu đồng bào cần mẫn,
Con yêu chiến sĩ hào hùng.
Là người Công Giáo Việt Nam
Con phải yêu Tổ Quốc gấp bội
(Trong Đường Hy Vọng)
Bùi Đức Hợp
(Trích trong kỷ yếu Hồ Ngọc Cẩn)
Chương 2: Trỗi dậy lần thứ hai (1975-1998)
4. Tôi đi kiếm việc
Tối ngày 22 / 12 / 79, phi cơ chở hành khách và 70 dân tỵ nạn tới vùng trời Los
Angeles . Từ trên phi cơ nhìn xuống, tôi thấy chỗ nào cũng thấy ánh đèn san sát,
không một khoảng tối, để phân biệt giữa thôn quê với thành thị .
Sau 2 giờ làm thủ tục nhập cảnh, nhà tôi đón tôi về một căn phố tại 5643 Farmdale #1,
N. Hollywood . Hồi còn ở đảo, tôi mường tượng căn nhà tôi sẽ tới, rất gần kinh đô
chiếu bóng, có phim trường , có tài tử xi nê .
Đêm đầu tiên tại Mỹ, tôi không tài nào chớp mắt, mặc dầu đã đếm cả nghìn sao sáng .
Tôi thao thức cả đêm , một phần vì thời tiết, giờ giấc thay đổi, phần khác vì ám ảnh
bởi quá khứ hãi hùng .
Ngủ không được, tôi dậy thật sớm đi bách bộ trên hè phố . Các cửa hàng còn đóng,
chỉ có tiệm Tacco Bell mở 24 / 24 ,tôi hỏi cô bán hàng người Mễ :
- Siêu thị ở đâu ?
Cô sổ một tràng, không rõlà tiếng Anh hay Mễ, và chỉ trỏ tùm lum . Đi xuôi chiều rồi
ngược chiều cũng chẳng thấy chợ đâu, tôi bèn quay về nhà .
Nhà tôi gồm một phòng ngủ, một phòng khách, nhà bếp và bàn ăn chung nhau . Mặt
tiền trông ra phố vắng, thỉnh thoảng mới có xe qua lại .Nhà tôi đi làm, Thúy, Trúc đi
học . Một mình trong nhà, tôi cảm thấy cô quạnh trống trải lạ thường, không biết bắt
đầu cái gì trước . Tôi ráng dỗ giấc ngủ trưa . Đang chập chờn, tôi giật mình vì tiếng
còi xe . Ái Văn trao cho tôi mẫu đơn thi PE ( professional engineer ) và dặn :
- Ông điền gấp đơn, chỉ còn 1 tuần nữa là hết hạn .
Tôi ngỡ ngàng hỏi :
- Bao giờ thi ?
- 20 tháng tư năm tới, chỉ còn không đầy 4 tháng nữa.
Đồng thời anh cho tôi danh sách những bạn bè cũ đã đậu PE để làm reference . Chỉ
riêng bang California thôi, nếu người nước ngoài có bằng kỹ sư có tín chỉ và trên 5
năm kinh nghiệm đều được miễn thi EIT (bằng kỹ sư tương đương ) và thi thẳng lên
PE
Mừng vì tôi có nhiều triển vọng trở lại nghề cũ, lo vì thời gian quá gấp rút .Hồi còn
bên đảo, tôi dược biết nhiều bạn công chánh đã bỏ nghề cũ, đi làm thầy thợ ..Còn tôi,
tôi tự nhủ trở lại nghề công chánh bằng mọi giá dù phải đi học lại 2 năm hay hơn nữa,
vừa làm thuê ,vừa học .
Hôm nay là Tết Tây, chỉ còn non 4 tháng nữa, làm sao ngốn hết các môn như thiết kế
đường cầu, nhà ở, cấp thoát nước v . v .Code ( luật lệ xây cất ) Mỹ như ACI, AISC,
ANSI v . v .dày cộm như cuốn Tự Điển và rối như mớ bòng bong . Thêm vào đó
những môn thi bắt buộc như động đất ,địa hình . Thôi đành nhắm mắt đưa chân !
Qua sự hướng dẫn của Áí Văn, tôi xuống phố mua một vài cuốn sách căn bản : luyện
thi PE, sắt, gỗ, thép, bêtông . Mổi ngày, tôi phải học gạo 16 giờ, khi ở nhà, khi ngoài
công viên .
*
Khu Kiều Lộ Los Angeles ra thông cáo tuyển một số kỹ sư tập sự, tôi nộp đơn và
đươc gọi đi interview ( phỏng vấn ) ngày 14 / 1 / 80 . Hội đồng sát hạch gồm 2 người,
một bà hỏi tôi :
- Ông cho xem bằng lái xe .
Trình mảnh giấy I 90 có đóng dấu “ cho phép đi làm “ cho ho ỉcoi, tôi lễ phép thưa :
Tôi mới sang đây được 2 tuần .
Có bằng lái xe mới được tuyển dụng, chúng tôi sẽ cho ông bổ túc sau .
Họ thay phiên nhau đặt câu hỏi, tôi chỉ hiểu chừng 60/100, còn toàn là đoán . Không
ngờ tiếng Anh của tôi lại quá tệ hại, mặc dầu tôi đã học tới lớp 12 tại hội Việt Mỹ . Ở
Việt Nam , Mỹ nói gì tôi cũng hiểu (có lẽ họ nói chậm ) ; sang đây, họ nói nhanh và
nuốt chữ . Không biết họ có hiểu câu trả lời của tôi không ?
Buổi sát hạch kết thúc, họ niềm nỡ bắt tay tôi, và cho biết Caltrans sẽ gọi theo nhu
cầu, người nào có điểm cao sẽ gọi trước .Tôi bâng khuâng ra về ; câu nói của vị giám
khảo “co ùbằng lái xe mói được tuyển dụng “ ám ảnh tôi suốt đêm .
*
Theo chương trình dự trù, tôi sẽ thi lái xe sau khi thi PE, vì ngồi nhà học, chưa cần
bằng lái xe vội . Qua câu nói của vị giám khảo, tôi dự định thi lái xe trong tuần này .
Tôi đậu thi viết dễ dàng, vì hồi ở VN tôi đã là giám khảo và cấp bằng lái xe cho nhiều
người . Có lần, tôi vừa chấm đậu cho bà Bưu Điện, hôm sau gặp tôi, bà trách liền :
- Cầu Eiffel bác làm hẹp quá, khiến xe Peugeot mới toanh của tôi bị quẹt hoài !
Khi thi thực hành ( lái xe ), ba lần tôi đều rớt . Một phần, tâm tôi chưa ổn định, phần
khác, cái xe Toyota của nhà tôi quá cũ, đời 70 gì đó . Một hôm tôi de xe từ gara,
không biết thắng không ăn hay tôi mất bình tĩnh, xe từ từ đụng hông chiếc xe đậu bên
kia đường . Tôi bối rối ra mặt, nhưng người chủ xe vẫn vui vẻ : “ Chuyện xẩy ra như
thế là thường, xin ông đừng bận tâm, bảo hiểm sẽ lo hết.”.
Cuối cùng, tôi phải đổi DMV(sở Lộ Vận ), lần thư ùtư tôi mới thi đậu . Biến cố “ thi
xe “không những lấy mất một số thì giờ hoc thi PE mà còn gây cho tôi biết bao bồn
chồn lo lắng .
*
Trải bản đồ Hollywood và vùng phụ cận, tôi chấm một công viên gần nhà nhất, N.
Hollywood Park . Nắng chói chan nhưng lạnh lẻo, 10 độ C . Một vài chú sóc đùa
giỡn, truyền từ cành này sang cành khác, quanh công viên là hàng anh đào nở hoa
hồng nhạt . Ngồi thu mình trên ghế đá, tôi mở sách ra nghiền ngẫm . Tôi thích học
ngoài công viên, phong cảnh thiên nhiên giúp đầu óc tôi bớt căng thẳng ; thêm vào đó
,mỗi lần mỏi mắt, tôi tháo kính và để mắt điều tiết vô cực .
Chim trời gọi nhau về tổ, tôi gấp sách lạị . Cứ mỗi lần nhắm mắt, cái quá khứ kinh
hoàng nhảy múa trong đầu tôi . Tôi thở dài, đôi khi la lớn ; tiếng hét bột phát khiến cụ
già đang ngồi coi cháu,vội vã thu đồ nghề bỏ đi .
***
Sau ngày 30 tháng tư, nhiều lần chúng tôi tìm cách vượt biên nhưng thất bại . Nửa
đêm, chúng tôi lặn lội trong rừng Phú Mỹ để đến điểm hẹn ,có tầu bốc . Trời sáng
trăng, tiếng chó sủa từ thôn xóm xa vọng lại, đoàn người tiếp tục băng rừng lội suối.
Trẻ em khóc, càng dỗ bé càng khóc to . Cụ già đi bên tôi đề nghị : “nhét giẻ vào mồm
! du kích nghe được, chết cả lũ bây giờ “ . Đoàn người đi vòng vo hoài mà không thấy
chỗ tầu đậu .
Nghi là bị gạt, tôi vội quay đầu ra quốc lộ . Gà gáy sáng, tôi quá giang xe củi về nhà
quen tại đường Hiền Vương, thay quần áo và đi làm như thường lệ . Chỉ cần vắng mặt
một buổi,cơ quan cử người đến tận nhà xét .Sau lần đó, tôi rất thận trọng trong vấn đề
vượt biên . Còn nhà tôi lúc nào cũng thở dài não ruột ,đôi khi lên cơn uất, muốn đi
bằng mọi giá . Số người bị bắt về tội vượt biên mỗi ngày một nhiều . Trong những lần
đi công tác tại miền Tây, tôi đã thấy du kích dẫn giải một nhóm đông về quận, mặt
mày hốc hác bơ phờ, áo quần lấm bùn .
Tôi trình diện và tiếp tục làm việc tại cơ quan cũ . Nha kế hoạch Tổng cục kiều lộ nay
đổi thành phòng kế hoạch Cục cầu đường . Ông tùy phái cũ của tôi nay trở thành xếp
tôi về mặt tư tưởng .Ông cắt cử tôi làm nhũng việc đơn giản như nhận lãnh và phân
phối đồ tiếp tế : bó rau, miếng thịt . Ông thường tỏ ra thân mật :
- Hôm nay anh Hợp rút thăm được miếng nạc hay miếng mỡ ?
- Thưa Thủ Trưởng ! miếng mỡ ạ .
Được ba lạng mỡ ,tôi mừng hết lớn . Nó giúp tôi có đủ đồ ăn cả tuần . Từ nhà tới sở,
tôi đạp xe khoảng nửa giờ, nhiều khi chán chường, tôi buông tay lái để mặc xe dẫn tôi
đi về phương mô : Gia Định, Chợ Lớn hay Tân Sơn Nhất ?
Tôi được lệnh trình diện hoc tập cải tạo tập trung ( ở trung ương, từ cấp Chánh Sự Vụ
trở lên, ở địa phương từ cấp Trưởng Ty trở lên ) . Tôi hoan hỉ khăn gói lên đường vì
nghĩ rằng chỉ học có 7 ngày theo quy đinh . Cùng đi với chúng tôi tới trường Gia
Long, có cán bộ cơ quan tháp tùng . Một quan chức có thân hình Hộ Pháp, ngồi trước
bàn giấy nhỏ, hỏi tôi :
-Anh cấp bậc gì ?
-Thưa cán bộ, tôi là phụ tá Giám Đốc .
-Anh không ở diện hoc tập tập trung .
Thấy tôi rầu rỉ, cán bộ cơ quan an ủi tôi : “ Tôi cho phép anh học tập tại chỗ .” Sau
này, tôi mới vỡ nhẽ ,ngoài Bắc thơ ký có thể là phụ tá cho Giám Đốc, còn trong Nam
phụ tá tương đương với Phó Giám Đốc .
Ban ngày đọc báo nơi sở làm, tối về , bà con lối xóm xách ghế tập trung tại nhà ông
Tổ Trưởng, đểnghe Công An phường đọc báo và phổ biến những chỉ thị khẩn trương .
Sáng nghe, tối nghe chừng ấy bài báo, đầu óc tôi quay cuồng . Nhà tôi buộc phải tham
gia lao động XHCN , đào kinh tại vùng kinh tế mói Lê Minh Xuân ; các con tôi “thi
đua “ nhiều hơn học như nhặt giấy báo cũ, bao nylon, quét rác làm sạch thành phố v .
v.
Trong thời gian này ,chị Đăng,các em ,các cháu từ miền Bắc vô . Họ phải trải qua
cuộc hành trình nghìn dặm gian nan vất vả ,lúc đi bộ, khi quá xe . Gặp nhau mừng
mừng ,tủi tủi sau 21 năm trời xa cách, kẻ mất người còn . Nghe kể chuyện xưa, tôi
nuốt từng dòng lệ . Cậu tôi chết tức tưởi trong đợt cải cách ruộng đất, em Châu hy
sinh tại mặt trận Lai Khê, anh Đăng, cháu Phan chết vì bom của Mỹ tại Bắc Việt, kể
sao cho hết . Tôi chia sớt với họ những số tiền dành dụm,những quần áo,đồ đạc trong
nhà .Tôi bảo cháu Anh :
- Cháu cứ việc gỡ bất cứ gì kể cả quạt hút gió gắn trên tường, nếu cháu mang về Bắc
được .
Trong cái họa “ ở lại “, tôi đã đem lại phần nào an ủi trước những đau thương,mất mát
lớn lao mà gia đình tôi phải gánh chịu suốt hai thập niên qua .
Tại Cục, tôi thường tham gia viết đặc san của Cục, trong đó có bài “Ivanov hay
AASHTO “, tôi phân tích một cách khách quan những mặt mạnh, mặt yếu của cả hai
quy trình quy phạm . Dù bảo thủ đến đâu, người đọc cũng phải nhận chân ra rằng ; “
nên theo AASHTO õ “. Phải chờ hơn 20 năm sau, các chuyên gia cầu đường của ta
mới công nhận sự thực này .
Nhân dịp Đại Hội tổng kết thành tích cuối năm ,thấy tôi nắm vững tình hình cầu
đường miền Nam, anh Lộc, ủy viên báo chí của Cục nhờ tôi dự thảo báo cáo tổng kết .
Bản báo cáo dầy 23 trang roneo, khổ dài, trong đó có nhiều đoạn trích nguyên văn lời
phát biểu của ông Lê Duẫn ,Phạm Văn Đồng và các quý vị lãnh đao trong đảng khác .
Kết thúc báo cáo bằng câu : “ Dù vật tư thiếu thốn, trang thiết bị không đồng bộ, nhờ
quyết tâm, chúng ta hoàn thành vượt mức kế hoạch “ . Thực sự có vượt mức kế hoạch
điều chỉnh vì hàng qúy, nếu thấy số dự trù lớn số thực hiện ,tôi tự động giảm chỉ tiêu .
Ông Cục trưởng đọc nguyên văn, không sửa dấu chấm ,dấu phảy . Lâu lâu ông dừng
lại để lấy hơi hay hớp ngụm nước, cả hội trường vỗ tay vang dội . Cuối lớp, một cán
bộ đang ngủ gật, tiếng động làm ông giật mình, ông vội đứng dậy hô “Quyết tâm “
một cách lac lỏng .
Sau đại hội, cán bộ kháo nhau :
- Đồng chí nao thảo diễn văn hay thế ?
- Đồng chí Ngụy, Lộc đưa mắt về phía tôi, rồi đáp .
Ai nấy đều trố mắt nhìn .
Không khí giữa tôi và nhà tôi mỗi lúc một căng thẳng, nhà tôi nhất quyết đi bằng mọi
giá, dù bị bắt . Nếu bị bắt như đã xẩy ra cho các bạn tôi, tù tội mút mùa, nhà cửa bị
tịch thu và nhiều nữa . Đó là lý do tôi phải thận trọng, đắn đo .
Quả là quá bất ngờ !,Cục chỉ định tôi ra Bắc họp bàn kế hoạch . Thú thực, tôi hao hức
chuyến đi vì muốn được thấy nơi chôn rau cắt rốn, mồ mả tổ tiên một lần chót . Trên
đường từ Bến Hải tới Hanội, tôi và anh Tươi chia sẻ cho nhau những cảm nghĩ . Nỗi
buồn man mác xâm chiếm tâm hồn tôi, khi chứng kiến nhũng cảnh đổ nát hoang tàn .
Đèn nêong muôn màu tỏa sáng, phố xá nhộn nhịp tại hàng Bông, hàng Đào, hàng
Ngang của Hànội năm xưa nay còn đâu nữa . Cửahàng buôn bán được phân vách
thành nhiều hộ chen chúc nhau sống, vách tường loang lổ .
Quê tôi đã thay đổi nhiều sau đợt cải cách . Tôi không cầm nước mắt khi thấ y thổ của
thầy mẹ tôi bị chia năm xẻ bẩy cho những hộ nông dân . Ở góc ao Hồ, cây bàng cao
lớn xưa không còn nữa, được thay thế bằng cây bàng nhỏ . Chị Quyên cho tôi biết : “
Cô Hiền thiêng lắm ! Từ ngày chặt bàng, làng gặp nhiều xui xẻo, nên phải trồng lại
cây khác .“ ( cô Hiền là chị ruột tôi, mất sớm ) . Thấy lũ trẻ đánh đu cành bàng, chị
quát to : “ Chúng mày không sợ bà cô vặt cổ chúng mày.”
Người tá điền truớc đây cầy ruộng cho gia đình tôi, vui vẻ chào :
- Cậu đã về !
Tiếng “ cậu “ khiến lòng tôi dịu lại ; thế thượng tuy thăng trầm, nhưng tình người vẫn
trở lại, ( X. phụ chương II . A ) .
Sau đợt cải cách, mẹ tôi ,anh Mịch và cô Nhiệm đã bỏ quê ra Hòngai sinh sống .
Trong bủa ăn thịnh soạn, đông đủ mọi người do cô Nhiệm khoản đãi, tôi nhận được
hung tin từ Hànội . Anh Tiển cho biết chị Đặt nhắn tin : “ Cô và hai cháu tới Mã Lai
bình an “ . Tôi bỏ đũa, nước mắt dàn giụa ; cả nhà ai cũng ái ngại cho số phận tôi sao
lắm đoạn trường !
Hôm sau, tôi về Hànội .
Trong thời gian chờ đợi máy bay, tôi nhận được tin, trộm đột nhập vào nhà tôi . Giả
vờ là nhân viên ghi đồng hồ điện, chúng bảo cháu Hiển, người coi nhà, mở cổng, trói
chặt và bịt mồm Hiển, lục soát đồ đạc trong nhà .
Về tới Saigòn, tôi ghé nhà cô Hiền hàng xóm , để thăm dò tình hình trước .Cô ái ngại
nói :
- Chị và hai cháu đã đi rồi!
Không cầm đuơcỉ xúc động, tôi rưng rưng nước mắt , có chất gì đắng cay trong miệng
lưỡi tôi . Nhà tôi giống như một bãi chiến trường, quần áo chăn gối, sách vở đều bị lục
lọi, quang vất bừa bãi, gối nhồi bông bị xé tung, gòng bay tứ phía .
Hôm sau, tôi trình diện cơ quan, ban Bí Thư cho hay : “ có âm mưu ám hại tôi, yêu
cầu tôi vô trong cơ quan ở “ . Sợ chiếm nhà, tôi từ chối khéo .
Lúc này tôi hận nhà tôi lắm, để lại cho tôi muôn vàn khó khăn . Đối với cơ quan cũng
như phường khóm, tôi là phần tử đáng nghi ngờ, cần theo dõi . Để hóa giải, tôi đưa
mẹ tôi vô Nam, đồng thời tung tin tôi sẽ lập gia đình .
Theo tin tức tiết lộ, ông Cục Phó Liêm đã phát biểu trong phiên họp giao ban : “ Ai
dám bảo đảm rằng anh Hợp sẽ không trốn theo vợ con ? “
Phòng Kế Hoạch chỉ dành cho những nhân viên đáng tin cậy, tôi xin đổi sang phòng
Kỹ Thuật Thi Công, được chấp thuận liền . Ở đây tôi có nhiều dịp đi công tác xa . Lúc
đầu tôi giám sát công trường gần sáng đi chiều về ; dần dần tôi đi các công trường xa
miền sâu miền xa như QL 11 ( Đà Lạt – Nha trang ) , công tác chỉ một ngày nhưng
chờ mua vé xe cả một tuần .
Một hôm, cán bộ Trưởng Phòng đi công tác Cà Mau, tôi được chỉ định trực phòng .
Chị Trinh dến xin phép cho anh nghỉ bệnh . Tôi không nhận ra chị, da nâu vì nắng
cháy, mặt mày hốc hác bơ phờ . Biết chuyện gì đã xẩy ra cho gia đình chị, tôi an ủi :
- Chị nói anh cứ nghỉ cho khỏe . Anh Kịa, Trưởng Phòng, đi công tác xa,
mốt mới về .
Hôm sau, tôi được biết anh bị bắt ở Vũng Tàu . Dạo này, cò nhiều đường dây vượt
biên, chui cũng có mà bán chính thúc cũng có . Số người đi chui bị bắt mỗi ngày một
nhiều . Mỗi lần công an rượt đuổi, gia đimh ly tán, chồng một nơi, vợ con một ngả .
Tầu bán chính thức bị chìm tại Cát Lái, cả tầu chết, thi thể trôi giạt vào bờ . Thành
viên của hội Trí Thức Yêu Nước lần lượt bỏ nước ra đi .
Tin tức dồn dập ! Tháng 7 / 78 anh C. đích thân tới nhà trong đêm tối trời, bí mật cho
hay :
- Mọi việc đã chuẩn bị xong,mày muốn đi, tao cho đi free . Tính anh rất kỹ, không bỏ
qua một chi tiết nào, bảo mật tối đa . Tầu được trang bị la bàn, đồ ăn, dầu mỡ đủ dùng
cho cả tuần .
Tuần tới, me ỉtôi vô, tôi không nỡ lòng nào bỏ mẹ tôi bơ vơ giữa xứ khách quê người.
Tầu anh tới đảo Bidong, Mã Lai, an toàn . Nhà tôi thất vọng não nề, khi được tin tôi
không có mặt trên chuyến tàu C., . Đọc thơ nhàtôi, tôi khóc nức nở giống như hồi
nhàtôi bỏ nước ra đi, niềm oán hận tan biến nhường chỗ cho tình thương vô hạn .
Tiếng còi tầu xe lửa rít lên, phá tan bầu không khí yên tĩnh . Công viên đã lên đèn, tôi
rảo bước ra xe về nhà .
***
Cơm nước xong, tôi trùm mền ngồi học . Bên ngoài gió rít từng cơn . Như thường lệ,
tôi ôn bài tới 12 giờ khuya mới đi ngủ .
Các công ty Mỹ chỉ tuyển những người có bằng cấp Mỹ . tôi không thấy có con đường
nào khacù hơn là thi đậu PE . Cuối tuần tôi đáp xe buýt xuống quận Cam, học chung
với anh Tươi . Ái Văn hướng dẫn chúng tôi giải những bài toán Cơ Học Đất,xem ra
vừa nhanh, vừa dễ ăn . Thỉnh thoảng, tôi xuống Long Beach, hoc ké lớp luyện thi PE.
tôi chỉ ngồi nghe, không ghi chép, nên giảng viên tưởng tôi ngồi đợi người nhà . Nhờ
những buổi như vậy, tôi học được nhiều điều bổ ích, nhất là quen tai với những từ
chuyên môn .
Mỗi tuần, tôi thay đổi một công viên, công viên nào cũng đầy đủ tiện nghi : nhà vệ
sinh, khu picnic . Phong cảnh thì tuyệt vời, có suối róc rách, nhiều kỳ hoa dị thảo,
chim muông đủ loại . Công viên mà tôi thích đến hơn cả là công viên Stough, khárộng
. Ngồi giữa sân cỏ, tôi co ùcảm giác mình là một chấm nhỏ giữa vùng trời bao la . Đất
trời càng mở rộng, tôi học càng tới . Chú quạ đen tỉnh bơ sà xuống vai tôi đậu . Ở
nước ta, chim chóc sợ người ; ở đây chim là bạn của người . Hồi còn nhỏ, tôi thích
nhất hình ảnh Đức Phật tọa thiền dưới cây bồ đề, muông thú bao quanh ngài .
Thấm thoát đã tới kỳ thi . Buổi sáng mai,trời xanh trong vắt . Tôi hơi mệt mỏi vì cả
đêm trước, không tài nào nhắm mắt . Các sỹ tử khiêng hết thùng sách này đến thùng
khác vào phòng thi, có người sử dụng xe siêu thị để chở sách . Tới chỗ chỉ định, họ
bày sách trên bàn theo thứ tự lớp lang, môn nào xếp riêng môn đó, trông giống như
một tiểu thư viện ; còn tôi chả có gì để bày biện, leo tèo mấy quyển sách trên bàn .
Họ nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên .
Trong 4 giờ buổi sáng ,thí sinh có quyền lựa 4 trong 8 bàithi, nghỉ trưa 1 giờ, chiều
cũng như ban sáng . Thí sinh có quyền mở sách ra tham khảo .Cứ giải xong 1 bài, tôi
tự cho mình xả hơi vài phút . Nhìn quanh, người nào người ấy có vẻ khẩn trương, rút
sách lialịa, sách nào cũng chằng chịt tab .
Sau 9 tiếng trong phòng thi, tôi cảm thấy mệt mỏi, rã rời, miệng đắng mắt cay . Tôi
rảo bước ra xe buýt Los Angeles để kịp chuyến chót . Nhắm nghiền mắt trên xe, tôi
thấy dễ chịu, hy vọng tràn trề vì tôi đã giải cả 8 bài,mặc dầu không hoàn toàn .
Thi xong, tôi thảo 3 resume khác nhau về thành tích, kinh nghiệm :
- Kỹ sư cơ khí vì truớc đây tôi kiêm nhiệm ty Cấp Thủy . Tại VN, tôi chỉ đạt ống nước
ngầm dưới đất ; ở đây, người ta đòi hỏi thiết kế những đường ống trên không, chuyển
chất lỏng hoặc hơi . Tôi tin rằng tôi có thể làm được, sau khi đã xem qua các bài tính
mẫu về piping stress ( ứng suất ống ) . Cái khó là làm sao họ tuyển mình, sau đó, mình
có thể vừa làm vừa học .
- Kỹ sư xây dựng, vì tôi đã là Trưởng Ty Kiến Thiết .
- Kỹ sư công chánh là nghề chính của tôi .
Tra địa chỉ của các hãng kỹ sư cố vấn trong điện thoại niên giám, tôi gửi cả hàng trăm
resume đi . Mỗi resume được kèm theo bản sao giấy báo thi PE, để chứng tỏ tôi có
khả năng nào đó . Thơ hồi âm có thể đếm trên đầu ngón tay, trả lời không có job
opening hay overqualified .
Ngoài việc gởi resume, quần áo chỉnh tề, tôi đích thân đến cơ quan nộp đơn, đồng thời
xem chỗ làm việc của họ . Từ vùng biển Santa Monica đến miền đồi núi Pomona, từ
trang trại tổng thống Reagan đến quận San Diego, chỗ nào cũng mang dấu giầy tôi .
Có lần tôi lạc vào một cơ quan thuộc bộ Quốc Phòng, nhân viên an ninh chìm nổi ùa
đến bao vây tôi :
- Ông có mang súng không ? ông có quốc tịch Mỹ không ?
- Không!, tôi chỉ đi xin việc .
Sự thực phũ phàng là không hãng Mỹ nào chịu mướn một kỹ sư không có bằng cấp
Mỹ và chua từng làm việc tại Mỹ . Cả hai diều kiện tôi đều không có . Do đó, tôi
quyết định đi làm không công cho hãng John Chan & Asso., structural engineers taị
Vanuys để học hỏi kinh nghiệm . Nhờ vậy, tôi biết trình bày bản vẽ tính toán công
trình theo kiểu Mỹ, nhất là quen dần với code Mỹ. Phương thức đi làm không lương
để đổi lấy kinh nghiệm đã dược truyền cho Trúc và Cường, cháu gọi tôi bằng ông .
Tôi giới thiệu Trúc đến tập sự tại hãng EPG :
- Con đâu có biết gì về điện mà làm !
Sau 3 tháng hè tập sự, Trúc phát biểu : “ Tính toán điện nhà đâu có gì khó “ . Điều đó
tạo niềm tự tin nơi con tôi khi đi inter view . Kết quả là Trúc kiếm được công việc tốt,
lương cao .
Còn Cường, sau khi tốt nghiệp đại học cộng đồng, tôi gởi cháu vào tập sự không công
tại một cửa hàng sửa chữa đồ điện tử . Nhờ có thành tich “ đã đi làm “, cháu dễ dàng
xin việc tại các hãng lớn .
Tả xung hữu đột như vậy, mà tôi vẫn chưa tìm ra việc . Ngồi giữa công viên One
Square Mile tại quận Cam, tôi đạt bút ghi vào nhật ký : “ Tôi chỉ nhìn thấy toàn là
màu đen trước mắt, hai bên và cả sau lưng nữa “ . Chán chường ! , tôi cố xua đuổi
những hình ảnh kinh hoàng trong những ngày vượt biên , nhưng không tài nào quên
được .
***
Me ỉtôi đã được nhập hộ khẩu . Bề ngoài,sinh hoạt tôi vẫn bình thường, cam phận ở
lại . Cuối tuần, tôi thường chở cô V. đi thăm ba cô bị giam tại Gia Rai, Long Khánh .
Dạo đó, Quận muốn kết tội ai, chỉ việc mang truyền đơn đến khám nhà . Tôi chở cô đi
vì nhà cô đơn chiếc . Khi tới trại giam, một quản giáo tuổi còn non, gọi ông già đáng
tuổi ông nội bằng anh :
- Anh kia ! có người nhà đến thăm nuôi .
Điều này làm tôi chua xót cho cuộc đổi đời .
Trên đường về,tôi cho cô biết vềù ý định vượt biên ; cô gục đầu vào vai tôi , nước măt
đầm đìa suốt chặng đường Dầu Giây – Hố Nai .
Thu góp một số cây do anh bạn tôi để lại, tôi đóng cho anh chị Phương để mua sắm
phương tiện vượt biên ; anh cho biết tầu sử dụng là tầu quốc doanh, trang bị đầy đủ
lương thực và dụng cụ đi xa . Tôi yên tâm công tác vì kế hoạch anh có phần chu đáo .
Chờ hoài không thấy động tĩnh, tôi sốt ruột và được anh cho biết :“ thời cơ chưa
thuận lợi “.
Chiến tranh Việt Nam và Cam Bốt đến giai đoạn quyết liệt, chúng tôi được lệnh tái
thiết cầu Gò Dầu Hạ, QL 20, để mở đường cho xe tăng tiến vào Nam Vang . Khi trở
về Cục, tôi nhận được sự vụ lệnh đi Cam Bốt làm cố vấn . Bạn bè cho biết mười phần
chết chín vì bị quân Pôn Pốt bắn sẻ . Hoàncho biết :
Tao cũng nhận được sự vụ lệnh như mày, có lẽ tao chuồn, chỗ này chỉ tốn có hai cây .
Thời gian quá gấp rút không cho phép tôi suy nghĩ, tôi không co ùthì giờ để hỏi ai
đứng ra tổ chức va ụdi như thế nào, chỉ biết chiều mai phải có mặt tại bến phà nhà
máy dệt Tân Hội .
Cùng đi với tôi, có gia đình chị Ng. gồm 4 cháu nhỏ : Đan, Bình, Bảo và Ngọc . Thấy
hoàn cảnh vô cùng bi đát của chị, tôi nhận lời giúp gia đình chị trong suốt cuộc hành
trình ‘ Thập phần tử nhất phần sinh “. Như ông bà ta đã dậy :
“ Dù xây chín bậc phù đồ,
Không bằng làm phúc cuứ cho một người. “ .
Huống hồ ở đây không phải là một mà năm mạng sống .
Giờ đây ,các cháu đã thành tài, hẳn đã bỏ quên quá khứ .
Con thuyền nhỏ be ùrộng 4m ,dài 13m, chở 172 dân tỵ nạn lênh đênh trên biển cả .
Gạo, nước đã cạn ; máy hư, dùng mền thế buồm, chạy hoài mà vẫn thấy thuyền là một
chấm nhỏ giữa vòng đại dương bao la . Tầu bị hải tặc Thái cướp 4 lần . Thân hình tôi
chỉ còn da bọc xương, tóc tai bơ phờ, mặt mày lem luốc, dính đầy dầu mỡ . Khi
thuyền lạc vào cồn cát thuộc Thái, viên Quận Trưởng xoáy cây can vào rốn tôi, vừa
cười vừa nói với giọng khinh miệt :
- Anh mà là Trưởng Ty công chánh hả ?
Tưởng chính quyền Thái chở chúng tôi tới trại tỵ nạn Songkla, nhưng khi nhìn thấy
con tầu cũ, mọi người đều hỏi ôi, nằm vạ ra đường phản đối . Công an biên phòng
Thái khiêng tùng người xuống thuyền . Chúng dùng ca nô kéo thuyền ra khỏi hải phận
Thái .
Thuyền lại trôi dạt vào bờ biển Mã, lính Mã áp giải dân tỵ nạn đến một bãi dừa hoang
. Chúng bỏ đói nhiều ngày, nói là để trùng trị tội xâm nhập hải phận bất hợp pháp và
tội đục thuyền . Sau khi vá vỏ thuyền, hải quân Mã kéo một xâu thuyền ra khơi, chiếc
nọ buộc vào chiếc kia, với tốc độ kinh hồn . Dân kêu khát, chúng chỉ xuống biển .
Thuyền phía sau thuyền tôi bị đứt dây, quay cuồng rồi chìm nghỉm trong lòng biển .
Mắc cho la hét, chúng vẫn làm ngơ . Thuyền nào sống sót, táp vô Nam Dương quần
đảo .
Mỗi ngày trong cuộc hành trình là một tấn tuồng bi thảm. Tất cả đều được phơi bầy
trong nhật ký : “ 35 ngày vượt biển và 6 tháng ở đảo “, ( X. phụ bản ) . Tôi đã ghi lại
những dòng chữ đau thương trên mạn thuyền, trong bụi cỏ, ven rừng già, trên ghềnh
đá, giữa cái nóng hừng hực của miền nhiệt đới .Tôi ấp ủ trong lòng để khỏi nhòe nhạt
vì sóng biển mưa rừng và nước mắt .
Tới Mỹ, tôi được hung tin, tầu của gia đình Phương bị hải tặc bắn chìm . Ai sang tầu
chúng đều bị hãm hiếp, cướp bóc . Còn ai ở lại, trong đó có gia đình Phương đều bị
chúng bắn chìm .Tang thương nào sánh kịp ! Tội ác nào tầy trời hơn ! Mới ngày nào
,cháu Quỳnh Giao, con gái đầu lòng anh chị, còn nũng nịu :
- Bác ơi ! cháu chỉ muốn đi cùng với bác .
Giờ đây, đại dương là nghĩa trang khổng lồ đã phủ lên thân xác cháu và 300.000 đồng
bào khác .
Tôi la hét thật lớn như trút bỏ những căm hờn, những uất hận đang rạo rực trong tim,
cho đến khi nhân viên Bưu Điện sột soạt mở khóa thùng thơ .
***
Thật là sửng sốt bất ngờ ! tôi nhận được giấy báo đậu PE ngày 14 /8 / 80 . Hân hoan
tràn ngập, tôi gọi ngay điện thoại cho nhà tôi hay . Việc thi đậu của tôi trong thời gian
3 tháng là nguồn khích lệ cho những AHCC muốn quay về nghề cũ .Lúc này tôi rất tự
tin khi đi xin việc ,tôi đã có đủ 2 điều kiện : có bằng cấp Mỹ và có kinh nghiệm làm
việc tại Mỹ. Khi đi, tôi chỉ cần dặn khéo ông xếp John Chan : “ Hễ Công Ty nào có
hỏi, ông nói lương tôi 15đ / 1giờ “
Đầu năm 1981, các đại công tynhư C F. Braun, Bechtel, Montgomery,v . v .đua nhau
mở job fair ( chợ việc ) . Tôi nhào vô, vừa được inter view, vừa được xem phòng ốc
của hãng . Mỗi ứng viên phải qua 2 cửa ải: người sát hạch đầu tien là quản lý dư ỉan,
ngườithứ hai là ông chánh kỹ sư, trưởng khối . Nếu qua cửa thứ nhất, kể như đậu 80
% . Ông thứ nhất hỏi tôi :
- Tại sao ông bỏ hãng cũ ?
- Tôi muốn được học hỏi nhiều hơn .
Sau đó, ông hỏi tôi về công việc đang làm, về code gió,code động đất .Tôi đoc một
hơi dài . Đối với Mỹ, thuộc code như vậy, phải là những kỹ sư giaù kinh nghiệm .
Ông gật gù khen ngợi . Ông thứ hai chỉ hỏi sơ và cho biết khoảng một tháng nữa, tôisẽ
được kêu đi làm . Trình thư mời nhận việc của hãng Bechtel cho ông coi,tôi thưa :”
Tôi rất muốn làm cho C F. Braun vì gần nhà hơn “ . Ông cho biết tuần tới, tôi có thể
nhận việc .
Tôi bắt đầu nhận việc tại Braun với tư cách là senior structural engineer ( kỹ sư xây
dựng thâm niên ) ,một thuyền nhân chân ướt chân ráo vừa tới Mỹ đã là senior cho
một đại công ty có cả nghìn kỹ sư . Tôi không ngờ họ trả lương quá cao, cao hơn cả
kỹ sư có bằng MS ( phó tiến sỹ ) tốt nghiệp. tại Hoa Kỳ .
Rộng lớn như một khuôn viên đại học, cơ sở C F. Braun tại Alhambra gồm những nhà
bốn tầng ngói đỏ thông với nhau bằng hành lang . Tầng ngầm dưới đất là cafeteria (
nhà ăn ) , thư viện, hội trường, xưởng in, ... Buổi trưa, 14 nhân viên Việt thường tụ tập
ngoài công viên hoa vàng, vừachuyện trò thân mật, vừa thưởng thức nắng ấm .
Tôi thích thú công việc, vừa làm vừa học những điều mới lạ như hiện tượng vortex,
dynamic design ( thiết kế động ) ,chương trình điện toán, v . v . Chỉ sau 1 năm, tôi bắt
kịp những kỹ sư có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành dầu khí . Thấy tôi làm mau,
tính lẹ và vừa từ VN tới, một đồng nghiệp gạn hỏi :
- Chắc anh có nhiều kinh nghiệm trong ngành ?
Tôi tỉnh bơ trả lời:
- Tôi có kinh nghiệm tại Shell Việt Nam ( dự án mà chúng tôi đang thiết kế là Shell
Canada ) .
Thời gian làm việc tại đây thật là êm đềm và hạnh phúc !
*
Đầu năm 1983, tôi bị lay off ( nghỉ việc ) đúng vào thời kỳ suy thoái kimh tế . Tôi rời
bỏ công ty với bao ngậm ngùi luyến tiếc .Ở lì Cali, cũng chưa chắc có việc ; nhà tôi
khuyên tôi đi New Orleans tìm việc, ở đó giá nhà rẻ . Tôi bay về New Orleans trong
một chiều mưa .
Cách đây 20 năm, tôi đã tu nghiệp tại thành phố này . Chiều chủ nhật, tôi thường đi
dạo quanh khu French Quarter ( phố Tây ) . Nhà cửa kiến trúc như Saigòn, French
Market như chợ Bến Thành, còn vương cung thánh đường St Paul như nhà thờ Đức
Bà . Tại công trường Jackson, nghệ sĩ múa rối, hát rong ngoài trời . Bên dòng sông
Mississippi, tôi ngồi lặng hàng giờ để nghe người nghệ sĩ da đen hát, tiếng hát nức nở
nghẹn ngào gợi hình ảnh quê tôi trong những năm chinh chiến .
Một tháng trời rong ruổi ở New Orleans, cũng không có việc, tôi chuẩn bị đi
Washington DC, chỗ anh Trí hoặc Richland, chỗ anh Bảo . Hành trang đã xong,
tôi được anh Trang cho hay hãng EPG đang cần một structural engineer . Số tôi 2 lần
như vậy” tiền hung hậu kết “ !
Hãng giao cho tôi nhiều công tác thiết kế , từ nhà ở,tư sở đến nhà để xe nhiều tầng tại
Florida .Một sự cố khó quên là thiết kế hệ thống dây cáp cao 80m trên mực nước sông
Mississippi để ông Jay Cochrane, biểu diễn đi trên dây qua sông, nhân dịp khai mạc
Hội Chợ Quốc Tế . Ông là nhà đi dây nổi tiếng, đã từng đi dây qua thác Niagara và
những nhà chọc trời Nữu Ước, nhưng đây là lần đầu ông dùng xào để quân bình . Dân
chúng tu ỉtập hai bên bờ sông để hoan hô ông . Mới đi chừng 1/5 đường ông té ,bám
tòng teng trên dây cáp . Tôi tự trách mình hay có điều gì không ổn trong thiết kế
chăng ? Niềm ấm ức của tôi chỉ được giải tỏa khi ông Frank Stuart, xếp tôi, bảo :
- Lỗi tại Cochran đi dở !
Lý luận tương tự như ông Stuart, chị Căn đã lên tinh thần tôi trong biến cố kỹ thuật
này.
Nhân dịp Sở công chánh thành phố cần senior civil engineer ( kỹ sư hạng ba ), tôi
nộp đơn và được tuyển . Đã 2 lần lang thang đi tìm việc, tôi sợ lối sống bấp bênh, tôi
cần một chỗ làm ổn định để có thì giờ lo nhiều khác . Đó là lý do tôi dời bỏ EPG sau
6 tháng làm việc để trở thành công chức cuả thành phố cho đến khi về hưu .
5. Trả nợ áo cơm
Mười giờ sáng ngay 21 /6 /1998 tôi bước vào phòng họp Hội Đồng Thành Phố New
Orleans ( HĐTP ) Chỗ này đã quá quen thuộc với tôi trong suốt 15 năm công tác . Sau
bàn chủ tọa hình vòng cung là chỗ ngồi của 7 vị HĐTP, trước đó là bàn thuyết trình,
phía dưới là những hàng ghế dành cho công chúng .
Hôm nay tôi cảm thấy có cái gì khác thường, mọi cặp mắt đều đổ xô về tôi, hình như
họ muốn dấu tôi điều gì . Dò hỏi nhân viên điều hợp, tôi mới được biết HĐTP tổ chức
lễ tuyên dương công trạng tôi trong việc hoàn thành hành lang lưu thông
Tchoupitoulas và những gì tôi đã thưc hiện cho thành phố 15 năm qua .
***
Khi đi interview tại Sở công chánh, ông Pfferfele, chánh kỹ sư, hỏi tôi :
- Ông xin làm CE III (KỸ SƯ III ) ?
- Dạ phải, nếu khôngcó CE III, CE gì cũng được .
- Tại sao ông bỏ công việc có lương cao hơn ? (ý ông muốn nói tôi bỏ EPG )
- Tôi cần một chỗ làm ổn định .
Tôi nhận việc ngay ngày hôm sau với chức vụ kỹ sư dự án, ngạch CE III . Để làm tròn
trách nhiệm của một kỹ sư chuyên nghiệp “senior civil engineer “, tôi vừa làm vừa
học, học một cách khôn ngoan và kín đáo, học từ cách tính toán hệ thống thoát nước,
thiết kế vàthi công cầu đường theo các quy trình quy phạm khacù nhau : thành phố,
tiểu bang, liên bang ; nhức đầu hơn cả là giải quyết các vụ khiếu nại của dân chúng .
Qua những quan sát tại hiện trường, tôi đã biến những lý thuyết trong sách vở thành
những kinh nghiệm bản thân .Thêm vào đó, sự tận tâm,tinh thần dám làm dám nhận
trách nhiệm giúp tôi thành công trong việc điều hành mọi dự án, từ to đến nhỏ .
Thơ khen ngợi, giấy cám ơn của dân chúng tràn ngập văn phòng Giám Đốc . Mỗi
lần như vậy,họ đều gởi bản sao tới Thị Trưởng, HĐTP .
Đã đến lúc tôi phải truyền bá những kinh nghiệm kể trên. Đầu tiên, tôi mở lớp “ giám
sát thi công “ tại Sở cho nhũng nhân viên thuộc quyền . Nhờ cách giảng dạy khéo léo,
hấp dẫn người nghe, lớp học thu được nhiều kết quả mỹ mãn . Sau đó, tôi liên tục viết
và xuất bản sách chuyên đề, ( Xin X. phụ chương II.B và “ những sách cùng tác giả “
ở cuối tập ) .
Tháng 2 /1990, tôi được bổ nhiệm Trưởng Kỹ Sư xây dựng công trình . Bà Giám Đốc
Betty Jo Everett ủy nhiệm quyền hành rộng rãi cho tôi, đồng thời cũng giao cho tôi
quá nhiều trách nhiệm .
Nhân dịp 30 / 4 trong buổi họp staff (tham mưu ) ,bà tuyên bố : “ Hôm nay là ngày kỷ
niệm buồn của các anh , nhưng nhờ vậymà các anh mới qua đây và trong 4 năm qua,
tô imới được sự yểm trợ đắc lực của các anh .” Trong số 4 Trưởng Kỹ Sư của Sở,
người Việt chiếm 3 : anh Tăng (nguyên Tổng Cục Trưởng Kiều Lộ ) , anh Bảnh (
nguyên Trưởng Khu ) và tôi .Các chuyên viên người Việt thường gặp nhau trò chuyện
,trao đổi tin tức cùng những kinh nghiệm bằng tiếng Việt ; chỉ khi nào có mặt người
Mỹ, chúng tôi mới dùng tiếng Anh .
Một hôm, tôi đang giải thích công việc cho chị Kim, họa viên, bằng tiếng Việt . Bà
đền sau lưng lúc nào không hay,tôi phải xin lỗi :
- Tôi nói tiếng Việt để dễ dàng tiếp thâu .
- Xin cứ tiếp tục .
Bà còn nói thêm : “ Tiếng Việt nghe như chim hót .”
Từ đó, tiếng Việt được mặc nhiên coi như ngôn ngữ thứ hai trong Sở .
Tôi giúp bà giải quyết nhiều vụ khó khăn như dân chúng than phiền về nước đọng tại
đường Press, đồng thời đề xuất phương án giải quyết có tính kỹ thuật cao ; vụ kiện
cáo về thiết bị thi công làm lún,nứt nhà dân ; tái lập cầu Gentilly trong một thời gian
kỷ lục, v . v .
Tôi cũng giúp ông Gorman, Giám Đốc sở Cấp Thoát Nước nguyên là xếp cũ của tôi,
giải quyết một vụ kiện quan trọng . Số là dân chúng Westbank kiện Sở về việc đào
kinh mới làm hạ mực nước ngầm, khiến móng nhà bị lún . Bằng bài báo viết trên tờ
The Times Picayunes, tôi phân tích móng nhà bị lún do nhiều nguyên nhân :
-Sức nặng của nhà
-Phản ứng sinh hóa học của đất dưới nền nhà
-Hạ mực nước ngầm ( đào mương )
Dân chúng đồng ý xếp nội vụ vì quá tốn kém để tìm ra thủ phạm .
Dân Mỹ lúc nào cũng kêu ca đủ mọi thứ chuyện . Ho ỉthan phiền máy đóng cọc khởi
động quá sớm khiến họ ngủ chưa đã giấc (theo luật định, thiết bị cơ giới không được
nổ máy trước 7giò sáng ) . Mỗi lần gọi điện thoại, họ đều bắt đầu :
- I am taxpayer . ( ý họ muốn nói tôi là người đóng thuế, các anh là công bộc của dân,
các anh có nhiệm vụ phải phục vụ tôi ) .
Nhiều khi bực mình, tôi phản pháo :
- I am taxpayer, too .
Để bù lại phần nào công lao, bà cho phép tôi tham dự cacù hội nghị chuyên ngành như
: ACI, ASCE, ASME, IBC, v . v . mọi chi phí ăn ở, lệ phí đều do ngân sách đài thọ .
Ngoài ra, bà còn quyết định trả cho tôi phụ cấp 1000 MK / mỗi tháng . Đó là quyết
định hi hữu và táo bạo .
Các hội nghị thường được tổ chứctại những thành phố nổi tiếng về du lịch như : San
Antinio thuộc bang Texas, Pittsburgh thuộc bang Pensylvania, Atlanta thuộc bang
Gorgia, Aspen thuộc bang Colorado, v . v . Tôi vừa được học hỏi những kiến thức va
những kimh nghiệm mới nhất của Hoa Kỳ, vừa được du lịch không tốn tiền .
Aspen đã để lai cho tôi những kỷ niệm tuyệt vời . Tôi may mắn ở một mình trong
một biệt thư ỉsang trọng, nội thất trang trí rất mỹ thuật .Qua khung cửa kính lớn, tôi
thấy cả bầu trời bên ngoài, rừng phong xen lẫn núi đồi phủ tuyết, xa xa , từng đòan
người trượt tuyết đang len lỏi giữa đồi thông .Tôi say mê chiêm ngưỡng bức tranh
thiên nhiên tuyệt tác mà quên cả giờ lên lớp .
Sau cùng, điều làm tôi hãnh diện hơn cả là bà cho phép tôi thiết lập một thư viện đầu
tiên cho Sở . Từ đây trở đi, các kỹ sư cũng như nhân viên có chỗ ngồi thoải mái, rộng
rãi để nghiên cứu tham khảo tài liệu . Đối với tôi, đầu tư trí tuệ là việc làm quan trọng
.
***
Hồi chuông rung đưa tôivề thực tại . Mọi người đứng dậy khi các nghị viên HDTP
bước vào phòng họp .Tôi được mời lên ghế danh dự . Ông chủ tịch HĐTP đọc diễn
văn ca ngợi những công tác tôi đã làm cho thành phố suốt 15 năm qua . Sau đó 5 nghị
viên thay nhau phát biểu cảm tưởng và tỏ lòng tri ân những gì tôi đã giúp dân trong
quận ông.
Thật là bàng hoàng xúc động ! Tôi đáp từ cảm ơn thành phố này nói riêng và nước Mỹ
nói chung đã giúp đỡ những người Việt tỵ nạn trong bước đầu hội nhập .
Ngạn ngữ Việt Nam có câu :
“Uống nước nhớ nguồn,
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” .
Những gì mà cá nhân tôi đã đóng góp trong 15 năm qua biểu lộ phần nào sự biết ơn
của chúng tôi đối với quý vị .
Cả hội trường đứng dạy, vỗ tay lớn khi ông Chủ Tịch và ông Đại Diện Thị Trưởng
trao bằng Tưởng Lục ( X. phụ chương II C & II.D ) .
6. Hoạt động xã hội
Tối nay,10 / 2 / 95 là lễ ra mắt của tân ban Chấp Hành của Cộng Đồng Việt Nam tại
Louisiana, được tổ chưc tại nhà hàng Phước Lộc Thọ, thuộc vùng Westbank của
thành phố New Orleans .
Vừa bước tới ngưỡng cửa của hội trường, tôi đươc ông Trưởng Ban Giám Sát ân cần
bắt tay và khen tặng :
- Đó là công lao của ông !
- 20 năm mong đợi mới có một ngày, đó là công lao của tất cả quý vị có mặt cũng
như vắng mặt đêm nay, của cả Cộng Đồng Việt Nam tại Louisiana .
Tôi không cầm nước mắt khi thấy hội trường chật ních người, khi thấy sự hiện diện
đầy đủ của các vị lãnh đạo tinh thần của 4 tôn giáo lớn như nói lên quyết tâm xây
dựng Cộng Đồng của tập thể người Việt tỵ nạn, khi thấy quá nhiều khuôn mặt trẻ như
nói lên thế hệ trẻ sẵn sàng thay thế thế hệ già nua đứng ra làm lịch sử .
Một giọt nước mắt bất thần lăn trên gò má . Dòng nước mắt trong tôi tưởng chừng
như đã khô cạn, tôi không còn nướcmắt để khóc thương cho số phận dân tộc tôi gần
200 năm bị đọa đầy.
***
Hàng ngày chứng kiến nhũng sự kỳ thị bất công đối với người Việt, tôi dự định tham
gia sinh hoạt cộng đồng để xoa dịu phần nào những khổ đau mà đồng bào tôi phải
gánh chịu . Câu danh ngôn của ai đó văng vẳng bên tai tôi mỗi lúc một gần : “Đừng đi
tìm nhũng con đường có hoa , hãy làm nở hoa bất cứ nơi nào anh đi tới “
Lúc bấy giờ, tại bang Lousiana, có 30 hội đoàn chính trị tôn giáo, xã hội khác nhau,
tôi lựa hội Cử Tri Nguoì Mỹ Gốc Việt ( CTNMGV ) làm địa bàn hoạt động vì tôn chỉ
của hội có nhiều khả năng bênh vực quyền lợi đồng bào . Trong suốt 3 năm hoạt động
( 1990 – 1992 ), chúng tôi soạn xong Nội Quy, đi khắp nơi trong tiểu bang thành lập
Chi Hội, tổ chức những buổi nói chuyện dành cho các ứng cử viên từ HĐTP đến
Thống Đốc . Cao điểm là Đại Hội CTNMGV được tổ chức ngày 12 / 5 / 93 . Hội đã
đạt những tiến bộ vững chắc làm căn bản cho những hoạt động mở rộng sau này, ( X,
phụ chương II.E ) .
Nhằm yểm trợ các hoạt động của hội, chúng tôi phát hành tờ Sức Mạnh, bà con truyền
tay nhau đọc . Tôi vừa chủ nhiệm kiêm chủ bút, vùa đi bỏ báo tại các chợ người Việt
.
Để tăng số cử tri, chúng tôi mở các lớp luyện thi quốc tịch Mỹ tài bất cứ chỗ nào có
đông người Việt như tại New orleans East, West, Marrero, Avondale, Houma, v . v .(
X.phụ chương II.F ) .Tại mỗi nơi, đều mở 2 lớp, một bằng tiếng Anh, một bằng tiếng
Việt dành cho người gìa . Sau mỗi khóa ,có thi thử, tôi đóng vai nhân viên sơ ũINS để
trắc nghiệm thí sinh, ( X. phụ chương II.G ) . Tôi nhận nhiều thơ cám ơn” ông Thầy “
, sau mỗi lần đồng bào tuyên thệ tai tòa án để trở thành công dân Hoa Kỳ . Càng ngày
đồng bào càng ý thức tầm quan trọng của lá phiếu, nghị viên Jackson thắng đối thủ là
nhờ số phiếu của CTNMGV .
Tại lớp học chùa Bồ Đề, trong giờ giải lao, một học viên nhờ tôi hướng dẫn thêm, tóc
nàng phủ xuống vừng trán tôi . Nàng trẻ và đẹp, ánh mắt chan chứa yêu thương . Tôi
lách đầu và chuyển hướng nhìn về phía tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trên tòa sen . Như
hiểu ý, nàng đổi ánh mắt từ yêu thương sang mến phục .
Trong sinh hoạt cộng đồng, tôi đã gặp những ánh mắt ,những tình cảm như vậy,
nhưng tôi tự nhủ : “ Tôi dâng trọn tình yêu cho mọi người, không dành cho một ai. ”.
Đã đến lúc, tôi phải từ giã Hội để hướng về những hoạt động rộng lớn hơn : đó là việc
thành lập Cộng Đồng VN tại New Orleans và vùng phụ cận .
Ngoài giờ làm việc cho thành phố, tôi dành trọn thì giờ còn lại cho công cuộc vận
động . Hơn một năm trời, chúng tôi đã tiếpxúc không biết bao cá nhân, đoàn thể ;
chúng tôi tham dự hầu hết những buổi sinh hoạt của các hội đoàn chính trị cũng như
tôn giáo, không ngoài mục đích cố gắng san bằng những dị biệt, tạo sự thông cảm và
hiểu biết lẫn nhau .
Giai đoạn đọc tin đã nhường chỗ cho thời kỳ làm tin ( make news ), các báo chí địa
phương đua nhau tường thuật những sinh hoạt không mệt mỏi của chúng tôi .
Tôi dìu dắt và đặt niềm tin nơi giới trẻ . Họ được hấp thụ cả hai nền văn hóa Việt và
Mỹ, vừa biết cầm dĩa, vừa biết cầm đũa, vừa thích ăn hamburger, vừa thích chả giò
.Họ học tinh thần công ích xã hội, đồng thời biết duy trì giá trị của gia đình , ( X. phụ
chương II.H ) .
Cộng đồng phân tán và chia rẽ năm bè bẩy mối ! . Nhiều lúc, tôi quá chán nản, thất
vọng .Mười tám năm rồi mà không đủ là bài học cho Cộng Đồng người Việt hải ngoại
hay sao ? Tâm sự trên đã đuơc phản ảnh trong bài “Dòng nước mắt đã khô cạn “, ( X.
phụ chương II. I ) .
Sau khi tạo được sự đồng thuận uả 2/3 tổng sốù Hội Đoàn, chúng tôi quyết định tổ
chức Đại Hội vào ngày 11 / 12 / 93 . Kết quả là một ban Đại diện Lâm Thời được
thành lập với nhiệm kỳ một năm, ( X. phụ chương II. J ) .
***
Tôi giật mình vì tiếng vỗ tay,tiếng hò của Hội Trường khi ông Chủ Tịch Hội Đồng
Đại Biểu giới thiệu bác sỹ Chủ Tịch ban Chấp Hành đầu tiên của cộng đồng người
Việt tại Louisiana nhiệm kỳ 1995 – 1996 .
Tối nay, tôi hưởng niềm vui trọn vẹn, tôi khóc vì cảm động . Nhìn lại chặng đường đã
qua, tôi cảm ơn Trời đã ban cho tôi những nghị lực phi thường để vượt qua cùng một
lúc ba cơn thử thách cam go “ việc nhà, việc sở, việc cộng đồng “
Nhiệm vụ đối với Cộng Đồng kể như xong ; tôi quay về những hoạt động có tính cách
hỗ trợ và đặc biệt quan tâm đến sinh hoạt của các Cộng Đoàn .Mỗi cộng đoàn đều có
trường Việt ngữ . Các em, tuổi còn thơ , biết đọc và viết tiếng Việt, biết hát những bài
ca như : Tôi yêu quê tôi,Bà mẹ quê, Mẹ Việt Nam, v . v.
Để tạo điều kiện sinh hoạt tốt, mỗi cộng đoàn cần có hạ tầng cơ sở thích nghi như
trường học, hội trường . Để được như vậy, tôi hầu như phải đảm trách từ A tới Z như
tính toán, vẽ chi tiết kết cấu, xin giấy phép và giám sát thi công tổng quát . Nhiều đêm
mất ngủ , nghĩ cách đối phó với city ( thành phố ) vì công trình nào cũng ngoại lệ,
thiếu điều kiện để được cấp gíây phép .
Trong những ca như vậy, dù trả 8 % hay hơn nữa, các hãng Kỹ Sư Tư Vụ cũng đành
từ chối vì mất nhiều thì giờ họp hành vói city để thỏa đáng nhiều đòi hỏi của luật lệ
xây dựng mà chỉ người trong cuộc mới biết chỗ lách . Nếu đem cộng chung số tiền thù
lao phải trả cho những công tác “ làm chùa “, tôi đã trở nên giầu có .
Số lượng quá nhiều, tôi chỉ ghi lại một số công trình chính như : nhà nguyện các
Thánh Tử Vì Đạo tại New Orleans East, nhà thờ và trung tâm Sinh Hoạt Văn Hoá của
cộng đoàn Hưng Đạo, thánh đài Đức Mẹ tại Avondale, linh đài Đức Mẹ La Vang,
cống thoát nước tại chùa Bồ Đề, thánh thất Cao Đài ( X. phụ chương II. K ) .Trong
các công trình kể trên, tôi ghi lại một vài sự cố đáng nhớ :
Cộng đoàn Hưng Đạo : Bản tin mục vụ đề ngày 23 / 7 / 95viết : “ ông kỹ sư Bùi Đức
Hợp, mặc dầu rất bận công việc, đã bỏ thì giờ ra tính toán, sau đó thảo luận vói các
viên chức nhà đất của city, cũng như tòa Giám Mục để họ đạo xây cất nhà trên một
khu đất hẹp ,thiếu chỗ đậu xe “ .Từ một nhà thờ tạm với sức chứa không quá 100
trong năm 1985, ngày nay, cộng đoàn đã có nhà thờ khang trang với 500 chỗ ngồi,
một hội trường rộng rãi với đầy đủ tiện nghi được dùng làm nơi hội hè đình đám, trình
diễn văn nghệ, các lớp học xinh xắn từ vỡ lòng đến dạy nghề .
Công đầu phải kể lão ông, lão bà . Các cụ chắt chiu từng đồng cắc, lượm từng lon
nhôm, hái từng bó rau ra chợ bán để lấy tiền xây dựng cộng đoàn .
Tuy hao tâm tổn trí, tôi lúc nào cũng cảm thấy ấm áp tình người . Tới đầu mùa , bà
con cô bác đều gởi tặng tôi những bó rau muống non, trái bí xanh tươi và biết bao là
thổ sản địa phương khác .
Một người Mỹ thắc mắc : “ Tại sao người Việt hay thích xây nhà thờ mới trong khi đó
người Mỹ đề bảng rao bán nhà thờ ? “ . Đi lễ nhà thờ hàng ngày là món ăn tinh thần
của các cụ . Nắng cũng như mưa, các cụ trong bộ quốc phục, rủ nhau tới nhà thờ ụmà
không cần đến xe của con cháu .
Cộng đoàn Tự Do : Thánh đài Đức Mẹ là một núi đá nhân tạo với 7 mạch nước chảy
ra từ nguồn .Theo dõi thi công, linh mục Trần Cao Tường phát biểu :
- Ông thiết kế thế này, xe tăng T 54 ủi cũng không sập .
Vườn nguyện và thánh đài được khánh thành ngày 16 / 8 / 97 dưới quyền chủ tế của
Đức Tổng Giám Mục Hannan trong một buổi chiều mưa rơi nhẹ .
Hội Phật Giáo Thân Hữu Louisiana : Hội muốn chỉnh trang mặt tiền chùa Bồ Đề .
Rạch lộ thiên đuơcỉ thay thế bằng cống CMP, mặt cống có thể dùng làm chỗ đậu xe và
trồng cảnh . Khi thi công, tôi gặp nhiều trở ngại về địa chất thủy văn , khu Kiều Lộ bắt
bẻ về môi sinh . Nhờ quen biết, dự án được chấp thuận, sau phần sửa đổi đôi chút .
Trong ngày đại lễ Phật Đản, một Phật Tử mà tôi chưa hề quen biết,tặng tôi một bó
hoa :
- Anh Hợp, anh thật sự la ụtín đồ của mọi tôn giáo .
Lời khen mang nhiều ý nghĩa ; tất cả nhọc nhằn hầu như tan biến !
Cộng đoàn thành phố : Để có đường đi thẳng vào nhà thờ, cần cắt medium ( giải
ngăn cách ) đại lộ Pasteur. Bà Giám Đốc gặp tôi ở thang máy, cho biết : “ Bà đã bác
giấy phép cắt medium của họ đạo La Vang.”. Thấy tôi không được vui, bà an ủi :
- lập lại hồ sơ đi .
Không những cho phép mà bà còn chỉ thị cho ty Tu Bổ thực hiện công tác, đỡ một
khoản tiền lớn cho họ đạo . Sau đó, có thơ của dân địa phương khiếu nại phân bì, tôi
thảo sẵn thơ trả lời, bà bảo tôi xếp .
Để kịp hoàn tất linh đài trước Đại Hội “ kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra ở La Vang
“, tôi phải làm việc liên tục ngày đêm . Lo lắng, bồn chồn . Khó khăn trồng trất do
những bắt bẻ hồ sơ từ sở Xây Dựng cũng như tòa Tổng Giám Mục . Trong khi thi
công, công tác bị lịnh ngưng 2 lần : một lần do tòa Tổng Giám Mục vì chưa có giấy
phép của tòa, một lần do sở Xây Dựng vì thiếu giấy phép đạt hệ thống điện, ( X. phụ
chương II.L ) .
Tại Thánh Đường chật ních người, cha Quản Nhiệm cũng như ông Chủ Tịch Cộng
Đoàn bầy tỏ lòng biết ơn và tặng tôi một bó hoa hồng xinh đẹp kèm theo bao thơ tiền .
Tôi bỏ tiền vào thùng khấn , còn hoa tôi kính dâng lên Đức Me.
***
Khi tiếp xúc với người Mỹ, chúng tôi đã học được những gì?
Tinh thần kỷ luật : Ở trong nước tôi đã bực mình về nạn xếp hàng, sang bên này, còn
xếp hàng nhiều hơn nữa .Tại chỗ chờ xe buýt, nhà hàng, bưu điện , hay ngân hàng, họ
đều xếp hàng có trật tự, yên lặng, ai đến trước, xếp hàng trước hoặc lấy vé trước . Đi
đâu, tôi cũng mang theo quyển sách, vừa đọc vừa nhích bước theo kiểu rồng rắn nối
đuôi nhau, trước sau rồi cũng trở thành khúc đầu .
Tôn trọng luật pháp : Nếu có va chạm giữa cá nhân như đụng xe, nhà hàng xóm vặn
nhạc lớn, họ không ồn ào hay to tiếng, luôn luôn nhờ luật pháp can thiệp. Chỉ cần một
cú phôn, chừng 5 phút sau, cảnh sát có mặt tại hiện trường, dùng máy đo tiếng động
để xem nhà hàng xóm có vượt quá số decibel quy định bởi city ?
Con người mình hay tự sử .Về thăm quê năm 2000 , tôi đã chứng kiến một bà vừa
chửi bới vừa vung gậy đập lên dầu một phụ nữ cưỡi xe đạp, cô này chẳng may đụng
phải cháu bà chạy băng qua đường . Cũng vậy, dân làng Đục và làng Yến chém giết
nhau vì tranh giành chở khách đi chùa Hương !
Tinh thần dân chủ : Họ tự do tranh luận và lắng nghe quan điểm của người khác .
Nhiều khi quan diễm đối chọi không nhất thiết phải triệt tiêu lẫn nhau mà rất có thể bổ
xung cho nhau . Họ tôn trọng quyết đinh của tập thể, cùng nhau hợp tac để đạt mục
tiêu chung, không có kiểu “không ăn thi đạp đổ “. Họ luôn luôn động viên tinh thần
người khác bằng cách khen mhiều hơn chê . Trong buổi họp, bao giờ cũng bắt đầu
bằng good news ( tin tốt ) rồi mới đến bad news ( tin xấu ) .
Qua báo chí hay truyền hình, chúng ta thấy những cảnh đâm chém nhau, phụ nữ bị
hãm hiếp, những người home less ( vô gia cư ) ăn xin ngoài đường phố , v .v . Đó chỉ
là hiện tượng chứ không phải là bản chất của xã hội .
Cái hay của người ta học, cái tốt cuả ta, ta giữ lấy như truyền thống gia đình, thương
nước yêu nòi và biết bao thuần phong mỹ tục khác nữa . Nói một cách khác , Cộng
Đồng cần hội nhập tinh hoa của nền văn hóa Hoa Kỳ vào văn hóa truyền thống của
Việt Nam .
7. Truyện nhà
Từ ngày ra trường đến giờ, tôi sống giản dị, khắc khổ với bản thân nhưng rộng rãi với
người khác . Đi làm bằng xe buýt, tôi nhường xe ôtô cho con tôi đi học . Tôi có thói
quen tới sở 6 giờ sáng, không những không kẹt xe mà còn có thì giờ yên tĩnh để sắp
xếp công việc trong ngày . Mang theo 2 gamen cơm – một cho bữa ăn lót dạ, một cho
bữa ăn trưa - nên ít khi tôi cần tới tiền bạc ; thỉnh thoảng nhà tôi bỏ bóp ít tiền để chi
tiêu vặt .
Khi về quê, các cháu đặt câu hỏi :
- Chu ùlà công chức với đồng lương cố định ; con cháu thì đông, mỗi lần về, chú đều
cho tiền các con. các cháu . Vậy tiền ở đâu ?
- Người Mỹ trung lưu ăn sáng hết 3 mk ăn trưa 5 mk tại tiệm, còn chú mang cơm nhà
đi ăn, mỗi ngày chú có thể tiết kiệm 8 mk . Cứ nhân cho một năm , rồi nhân cho 15,
các cháu sẽ tìm ra lời giải đáp .
Nhà tôi lo mọi chuyện trong gia đình, ĐỐI NỘI CŨNG NHƯ ĐỐI NGOẠI, ngay cả
việc gởi quà về Việt Nam .Nhờ vậy, tôi có thì giờ làm overtime ( làm thêm ) cho hãng
N-Y . Trải qua thời “ cắp sách “ túng thiếu, tôi muốn con tôi có đầy đủ phương tiện
hoc hành như xe hơi, phòng học riêng biệt, máy computer ( điện toán ) .
Hồi còn ở # 107 cư xá Lê Đại Hành, Saigòn, tôi thường kiệu Trúc quanh hàng xóm
hoặc làm ngựa nhong nhong cho Trúc cưỡi trong phòng ngủ . Có lần , Trúc đạp mạnh,
tôi bị lăn từ trên giường xuống đất . Nhà tôi quát :
- Sao không đập cho nó một trận .
Tới 5 tuổi, Trúc vẫn tin rằng tôi đẻ ra Trúc bằng rốn .
Cuối tuần tại Long Khánh, tôi hay chở cả nhà đi Lâm Đồng hay Đà Lạt nghỉ mát . Khi
lái xe tới gần đèo Blao, trông xa tưởng chừng đồi núi chắn ngang QL 20 . Trúc thụp
đầu xuống hỏi :
- Làm sao có thể qua được ! Ba ?
- Xe mình sẽ bay qua cho con coi .
Sang New Orleans, Thút học y tại đại học Tulane, Trúc học điện tại UNO . Tôi ít có
thì giờ trò chuyện với các con tôi vì công việc bù đầu . Có 2 câu chuyện mà tôi thường
kể, mỗi khi con tôi yêu cầu tôi làm điều gì .
Chuyện thứ nhất là chuyện bồ nông ( pelican ) : “ Không kiếm ra mồi , chim mẹ mổ
bụng, kéo từng khúc ruột cho con ăn ; rồi chết. “ .
Chuyện thứ hai là chuyện cá lóc ( cá quả) : “ cá mẹ nhảy lên bờ để kiến lửa bu đốt,
sau đó nhảy xuống ao để có mồi kiến cho con ăn. “ .
Cả 2 câu chuyện nói lên sự hy sinh cao cả của người mẹ .
Tôi mói bắt đầu “ Truyện kể rằng ...”, Trúc tóm lược ngay câu chuyện để tôi khỏi câu
giờ hoặc trả lời :
- Biết rồi khổ lắm nói mãi !
Tôi thường hay nói giỡn với Trúc : “ Ở nhà này, người không làm ra đồng tiền nào ở
phòng rộng, lái xe de luxe ; còn kẻ kiếm tiền nhiều nhất lại đi xe chân ( tôi đi bộ từ
nhà ra tới bến xe buýt ) . Ba sẽ kiện lên tổng thống Reagan để đòi lại công bình xã hội.
“.
Dù đã ra trường, mỗi khi các con tôi cần tiền, tôi tìm mọi cách gửi ngay . Dip hè, các
bạn của con tôi như Khanh, Riti, George & Caroline ... về chơi, tôi thường tổ chức
những cuộc du ngoạn tốn kém, miễn sao con tôi vui lòng . Hôm 20 / 5 / 95 Thúy,
Laura và tôi mướn canô chèo dọc theo rạch Coquille thuộc công viên quốc gia lịch sử
Jean Laffite . Khi thuyền qua lùm cây, Laura bị ong đốt sưng mặt . Cạch đến già,
Laura không bao giờ muốn trở lại thăm con rạch đầy quyến rũ này nữa .
Hồi mới tới New Orleans, gia đình tôi thuê một căn nhà kiểu shot gun (nhà sàn ) .
Mùa đông1983, ống nước bị đông đặc và nứt, không nước tắm . Thấy vậy, cô Mỹ trẻ
hàng xóm mời tôi sang tắm . Tôi còn đang lưỡng lự, nhà tôi giục :
- Sướng thấy mồ mà còn giả bộ !
Trước nhà là vườn dẻ dùng làm chỗ đậu xe của hãng Burk, cứ mỗi độ đông về, tôi đi
luơmỉ hạt dẻ cho cả nhà ăn .
Năm sau ( 1984 ) , việc làm đã ổn định, tôi vay tiền ngân hàng mua một nhà mới xinh
xắn, tọa lạc tại # 12 Morrison Ct. . Nhà gồm 3 phòng ngủ, 1 phòng khách, 1 phòng ăn
và bếp . Tôi hoán cải nhà để xe đôi thành câu lạc bộ bỏ túi, trong đó kê bàn pingpong
để bạn bè tới giải trí vào dịp cuối tuần .
*
Vì New Orleans không có công việc điện tử tương tự như ở N. Hollywood, nhà tôi
quyết định mở tiệm tạp hóa lấy tên là B & L Food Store, đường Magagine, khu đông
người da đen . Sau khi sang tiệm này cho cô Quỳ, nhà tôi mở tiệm khác đường
Mapple, khu Thượng Phố ( Uptown ), lấy tên Le Petit Grocery . Khu này đông người
da trắng, gần trường đại học Tulane . Tôi được giao thêm một nhiệm vụ mới . Sáng
sớm , chở nhà tôi lên tiệm, tôi bưng bảng hiệu, pha cà phê sẵn cho khách hàng, rồi
mới tới sở làm . Tối mịt, đón nhà tôi về . Cuối tháng, tôi có bổn phận khai thuế cho
tiệm .
Lúc đầu, tiệm bán đủ sở hụi ; cho đến khi một cửa hàng thực phẩm lớn mở ra ở góc
đường St Charles, chúng tôi đành dẹp tiệm .
Nhà tôi lên chỗ chị Yến ở Miniapolis làm ăn ,nói là để bù đắp vào những gì đã mất .
Sau đó trở về nhà, rồi đi Maryland ở với Trúc . Tôi tán thành vì Trúc mới đi làm tại
hãng điện tử Bandix, ở một mình không tiện .
Nhưng từ khi nhà tôi dọn nhà ra khỏi chỗ Trúc, tôi bắt đầu nghi ngại .Nhà tôi đơn
phương lập thủ tục ly dị .Tôi phải viết thơ cho ông Chánh Án quận Fair fax, Virginia,
xin hoãn lại ngày xử 6 tháng để tôi có thời gian thuyết phục nha ụtôi, ly dị là trái với
đạo lý cổ truyền của dân tộc Việt . Tôi chỉ mong sống đạo đức, gia đình hòa thuận để
làm gương cho các con, các cháu . Trớ trêu thay định mệnh nào đã bất ngờ sập lên
thân xác tôi .
Giấy Tòa như dòng thác lũ tạt vào mặt, tôi say sẩn mặt mày, đầu óc choáng váng, rồi
ngất đi trong nhà bếp .
Giọt lệ thấm từng trang giấy . Biết bao thơ từ năn nỉ, nài xin nhà tôi trở về, vì hạnh
phúc gia đình, vì tương lai con cái,và vì lời kết ước năm xưa . Nhà tôi vẫn ngoảnh mặt
làm ngơ . Bản sao thư mỗi ngày một dầy, dầy như cuốn tiểu thuyết ,tôi đóng thành tập
dưới nhan đề “ Những bóng mây đen hay mầu nhiệm của đau khổ “. Tập còn chứa
đựng những lời cầu xin thống thiết phát xuất từ đáy lòng thấu tận Trời cao .
Thấy tôi sống đơn độc, ban bè hỏi thăm . Tôi chỉ trả lời : “ Nhà tôi ở Virginia với cháu
“ . Tôi không thể dấu mãi được, cho đến khi A. V. gặp nhà tôi tại tiệm phở :
- Chào bà Hợp !
- Xin đừng gọi tôi là bà Hợp, gọi tôi là bà Nguyệt .
- Tôi chỉ biết bà qua ông Hợp, nên tôi kêu bà là bà Hợp .
Điều này đã xé lát tim gan ! Tôi lên cơn sốt nặng, mồ hôi vã như tắm, tay chân rã rời,
một phần vì quá dao động, một phần vì bệnh sốt rét rừng cũ tái phát . Mê man nằm
nhà cả tuần, có đêm tôi định gọi 911, nhưng không tài nào lết tới điện thoại .
Ngắm Thánh Giá treo trên tường, tôi cảm nhận được sự mầu nhiệm của đau khổ . Tôi
phải tập quên đi cái quá khứ đau thương và bắt đầu cuộc sống mới !
*
Quyết định đầu tiên là bán nhà, căn nhà đầy ắp những kỷ niệm vui cũng như buồn
trong suốt 10 năm qua . Bán nhà, tôi phải bù thêm tiền vì số nợ nhà trong ngân hàng
cao hơn giá bán nhà .
Kể từ khi tới Mỹ, đây là lần thứ tư tôi dọn nhà . Tôi thuê căn nhà đầu, trên lầu tại cư
xá Suối Bóng ( Shadow Brook ) , phía Tây Phố ( New Orleans West ) . Nhà gồm
phòng khách, phòng ăn, bếp, 1 phòng ngủ, 1 gác xếp dành cho con tôi, hoặc bạn bè
về chơi . Cảm hứng trước căn nhà mới dễ thương, tôi đạt bút viết bài “ Mộng hay thực
“:
Tiếng hót yêu đương của vợ chồng chú chào mào, mùi hoa rừng quyện lẫn với ánh
sáng ban mai đánh thức tôi dậy . Tôi nằm nướng lại để thưởng thức âm điệu tuyệt vời
của Đất Trời trong những ngày đầu xuân . Phòng ngủ cũng là chỗ làm việc, mỗi bề
không quá 4m, có 2 cửa sổ . Đông trông ra rừng cổ thụ, hoa vàng nở ngập lối mòn .
Nam trông ra công viên của cư xá, có thác nước suối chảy, đàn vịt tung tăng đùa dỡn
.
Đông là rừng, tây là động . Cảnh trí tĩnh mịch bên ngoài khiến tôi liên tưởng tới quê
nhà . Hôm gió mát trăng trong, anh em tôi thường ngủ ngoài trời để tận hưởng mùi
lúa mới . Hồn tôi như tan biến trong vũ trụ bao la, lấp lánh những giải ngân hà .
Hồi còn ở Cali, tôi ao ước có một phòng làm việc trông ra biển ,hồ hay rừng, gì cũng
được miễn là tầm nhìn không bị hạn chế . Lương một tư chức chỉ đủ để thuê một căn
phố bình thường . Khi dời về New Orleans, tôi mua nhà trả góp . Phòng làm việc
quay ra vườn sau, nhưng tầm nhìn không quá hàng rào sau vườn . Giờ đây, giấc mơ đã
thành hiện thực .
Màn che cửa sổ thường được kéo lên để tôi có cảm giác như tan biến vào thiên nhiên
trong lúc làm việc cũng như trong giấc ngủ . Mỗi lần đi giặt đồ hay tới Câu Lạc Bộ,
tôi đi qua 2 cầu gỗ nhỏ , đường đi quanh co có hoa vàng nở, giống như nẻo đường lên
Thiên Thai .
Đặc biệt hơn nữa, phòng vệ sinh cũng trông ra rừng, từ đây tôi có thể quan sát vợ
chồng chú sóc bay nhảy từ cây sồi này sang cây khác . Ngoài bao lơn, tôi kê một bàn
ăn nhỏ để vừa ăn vừa thưởng thức cảnh đẹp bên ngoài .
Tôi lịm đi trong niềm hạnh phúc mới !
8. Bạn bè
Gia đình anh Khiêm và Can từ Canada sang thăm New Orleans, đang mướn khách
sạn gần phi trường . Tôi đề nghị về nhà tôi ở . Tuy không đầy đủ tiện nghi, nhưng tự
do thoải mái hơn . Ban đêm, salông được dẹp đi nhường chỗ cho túi ngủ .
*
Cứ mỗi lần bạn bè từ phương xa tới, nhàtôi chuẩn bị cơm tối . Còn tôi dự thảo chương
trình du lịch 3 ngày :
- Ngày đầu : đi thăm cầu Pontchartrain 24 dặm, dài nhất thế giới, cầu xe lửa Huey B.
Long cao nhất thế giới, superdome ( vận động trường có mái che ) chứa 100,000 chỗ
ngồi, rộng nhất thế giới và những kỷ lục khác . Mỗi lần các anh chị chụp hình trên cầu
Pontchartrain để làm kỷ niệm, tôi giả bộũ xe hư, đậu tại chỗ U turn và chống ca pô xe
lên .
- Ngày thứ hai : thăm French Quarter, ngồi xe điện đường St. Charles để ngắm những
biệt thự kiến trúc theo kiểu Pháp, chen giữa những cây sồi rậm rạp . Nếu nhằm ngày
thứ bẩy, họ sẽ được hướng dẫn tham quan chợ chồm hổm, một sinh hoạt độc đáo của
người Việt tại New Orleans, ( X. phụ chương II.N ) .
- Ngày thứ ba :đi swamp tua ( du lịch đồng lầy ) và công viên quốc gia lịch sử Jean
Lafitte . Ngồi trên tầu đáy bằng, du khách có thể xem tận mắt cá sấu, cảnh trí thiên
nhiên có từ thời khỏi nguyên . Thấy tôi đem khách đến, ông chủ tua đề nghị :
- Tôi cho ông đi free .
- Cảm ơn ! , tôi đã đi vài lần rồi .
Ông ngạc nhiên, thấy lần nào tôi cũng bao tiền vé :
- Sao không để ai người ấy trả như người Mỹ chúng tôi ?
- Bạn bè tôi mà !
Từ đó , ông giảm mỗi vé 10 % .
Mỗi lần đi tua, tôi thường ngồi tại bến, đọc sách và chờ các bạn tôi về .
Qua lời nhắn trên lá thư AHCC “ Ái hữu nào muốn tham quan New Orleans, một
thành phố du lịch nổi tiếng thứ tư tại Hoa Kỳ, chỉ cần lo vé máy bay thôi. “ . Gia đình
anh Bảng từ Úc sang, quá cảm động về sự tiếp đãi ân cần, anh phát biểu :
- Lời nhắn không nói lên hết những thân tình mà anh dành cho bạn bè, dù thân hay sơ
. Riêng tôi, mới biết anh lần đầu tại nha Kế Hoạch, năm 1972 .
Cứ đến hè, hoa magnolia nở ( mộc lan ) nhà tôi tràn ngập khách, trong nước cũng như
ngoài nước . Chẳng bao lâu, tôi trở thành hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp, (
X.phụ trương II.O ) . Ngoài lời nhắn trên báo, tôi viết thơ riêng năn nỉ từng người –
bạn hữu cũng như họ hàng - đến du lịch New Orleans không những không tốn tiền mà
còn có bao thơ mang về . E rằng ngày nào đó, tôi dời New Orleans , cơ hội tiếp đón
họ sẽ không còn nữa !
Từ thủa nhà tôi bỏ đi biền biệt, tôi phải tự nấu ăn theo kiểu hàm thụ, nhớ lại những gì
nhà tôi làm để rồi bắt chước theo . Có lần trổ tài nấu bếp, tôi mời bạn bè đến nhà ăn
cơm dưa muối . Thực đơn gồm : gỏi gà bánh phồng tôm, canh chua cá bông lau, cá
kho tộ, thịt đông dưa chua, với đầy đủ gia vị như nhà hàng . Trong số thực khách
được mời, có anh chị Tâm, anh chị Phúc, anh chị Tú . Các chị toàn là những người
nấu ăn có bằng cấp, riêng chị Phúc là đầu bếp của khách sạn 5 sao Hilton . Các chị
đều khen ngon, không kém gì nhà hàng 3 sao ! Riêng món dưa chua được đánh giá 5
sao .
Tháng 8 / 92, gia đình anh chị Hà từ Madison, Wisconsin, đến xem mắt Trúc, Cùng đi
với anh chị, cháu Yến, Sơn, và 2 người bạn Lào là Lorenzo và Vahn . Khi về, Yến
viết thơ : “ Trên đường đi New Mexico, chúng cháu nhắc tới bác và nhớ đồ ăn ngon
của bác nấu. “. Còn Lorenzo có vẻ mến mô. : “ I appreciate your kindness and your
thoughfulness . You really have made your life stand out, and that I am always try to
look up to. “ .
Theo thông lệ vào dịp Tết ta, mỗi nhân viên ( người Việt ) trong city đều góp một
món ăn để mừng xuân . Tôi được chỉ định đem món giò thủ . Tôi nhờ chị Căn gói hộ .
Món giò thủ được mọi người chiếu cố, khen lấy khen để . Chị Quý mở màn :
- Anh Hợp làm giò thủ ngon hết thảy !
Tôi chưa kịp thanh minh, mọi người nhao nhao đòi xin mơ nuy :
- Nhớ đừng dấu nghề .
Những lần gặp sau, các chị đều nhắc mơ nuy, tôi đành năn nỉ chị Căn viết hộ .
Cảm thông cảnh ngộ của những bạn mới tói theo diện vượt biên, con cái bảo trợ, hay
HO, tôi đều gởi tiền bạc giúp đỡ . Thơ anh V. Đ. đề ngày 1 / 3 / 91 như sau : “Mình dã
nhận check 200đ, một món quà lớn đối với người mới định cư, đang bệnh hoạn . Như
vậy từ đây, mình có thể sắm máy đo tiểu đường để theo dõi lượng đường trong máu
một cách chính xác . . .” Tôi bàng hoàng xúc động khi hay tin anh mất ngày 18 / 7 / 00
. Lễ an táng được cử hành tại nghĩa trang Đồi Hồng . Vĩnh biệt anh ! cầu chúc linh
hồn anh sớm tiêu diêu nơi miền cực lạc .
Trường hợp anh Ph. khá bi đát . Anh nguyên là Trưởng Ty Công Chánh . Vợ bỏ, bịnh
hoạn, anh nương thân nơi cửa chùa, anh tâm sự qua bài thơ “ Những kẻ không nhà “
gồm 14 câu, trong đó có 4 câu như sau :
“ Có những kẻ bơ vơ lạc lỏng,
Biết về đâu để có chỗ nương thân .
Rời bệnh viện vào chiều nắng hạ,
Thân gầy còm, chân run rẩy bước ra.”.
Tôi đã chia sẻ với bạn bè những đồng tiền mà tôi có, nó chẳng khác nào như đồng tiền
của bà góa trong Thánh Kinh . Hôm 24 / 4 / 01 tôi đến thăm anh tại nhà dưỡng lão
Garden Park , Garden Grove . Bị tai biến mạch máu lão, anh ngồi bất động trên xe lăn,
mắt dán vào những ảnh gia đình . Tôi hắng giọng nhiều lần, anh mới quay lại . Không
nói, không viết, chúng tôi trò chuyện bằng cách chỉ từng chữ cái in sẵn trên tờ giấy .
Sao số phận anh lại nghiệt ngã đến thế !
Đẩy xe lăn một vòng quanh nhà thương, tôi giã từ anh ra về mà chua xót cho thân
phận con người, hết sinh lão rồi đến bệnh tử .
Nhiều bạn cùng lứa tuổi lần lượt ra đi . Anh Khiêm, anh Khuông và bao bạn bè khác
đã để lại cho tôi muôn vàn thương tiếc .
Tôi quen Khiêm từ hồi ở Bàrịa . Anh giữ chức vụ Trưởng Ty Hành Chánh Phước Tuy,
tư cách đứng đắn, xã giao lịch thiệp, anh biết nhiều chuyện thuộc loại thâm cung bí sử
. Đầu tháng 9 / 84, anh bị viêm gan cấp tính, có lúc mê lúc tỉnh . Anh mất 12 giờ đêm
ngày 18 / 9 / 84 ; trước đó 6 giờ, tình cờ có linh mục đến thăm, anh tỉnh dậy và gật
đầu xin rửa tội .
Mới đây, cái chết của giáo sư Hoàng Ngô khiến tôi bồi hồi xúc động . Bác va ụtôi đã
một thời chung vai sát cánh trong công việc xây dựng hội CTNMGV . Hôm gặp bác
tại đền thánh Đức Mẹ La Vang, bác tâm sự : “ Bác sỹ bảo tôi chỉ sống 3 năm nữa .”
Nghe như câu nói đùa, tôi không tin ở lời bác . Khi được hung tin, tôi lên Baton
Rouge, nhìn bác một lần cuối . Trong nhà quàn lạnh lẻo, hai mắt bác nhắm lại như
đang ngủ, gương mặt thật bình thản và thanh thoát . Tôi đạt bàn tay lên ngực bác và
cầu nguyện cho linh hồn bác sớm hưởng vĩnh phúc nơi nước Trời .Quay về các cháu,
tôi nói trong nghẹn ngào :
- Các cháu hãy can đảm lên và tự hào có người cha tuyệt vời như ba cháu .
Bài thánh ca do bác sáng tác như vang vọng đâu đây :
“Con sẽ bước lên bàn thánh, tế lễ mình làm của lễ hy sinh “
Sau ngày về hưu, tôi có thì giờ đi đây đi đó, gặp lại nhiều bạn vong niên, có những
người trọn 1/ 2 thế kỷ, hoặc 1/ 4 thế kỷ mơiù gặp lại . Tôi vui mừng hội ngộ các bạn
Hồ Ngọc Cẩn cùng lớp, như anh Thiếp, Toan, Tuyên, Thiệp,Tế, cha Tú, Xuân . . . Tôi
vẫn nhận ra các anh dù rằng thời gian đã tàn phá mau lẹ nhan sắc của các anh . Hình
ảnh thư xinh đẹp trai, năng nổ năm xưa đã nhường chỗ cho cụ già đầu bạc, răng long,
mắt mờ, chân chậm . Qua các anh, tôi thấy rõ hình hài chính mình .
*
Tôi mải miết đi hoài, đi để gặp bạn bè, biết đâu ngày mai sẽ không còn cơ hội nữa !
9. Tôi theo đạo
Tôi từ từ tiến lên bàn thánh giữa dòng nhạc : “ Chúa dắt dìu con như gió đưa ngàn
mây, như ánh sao trời giữa đường lữ khách . . .”
Buổi lễ rửa tội nhằm ngày 27 / 7 / 90, trong bầu không khí đơn sơ, trước sự chứng
kiến của một số thân hữu, tại nhà nguyện giáo xứ Nữ Vương Việt Nam, New Orleans
.Tôi mãnh liệt tin rằng kể từ giờ phút này mọi tội lỗi của tôi sẽ được tha thứ . Trong
phút xuất thần, tôi thấy mắt Mẹ như lóe sáng . Giọt nước thống hối lăn trên gò má tôi
.
Sau lễ rửa tội là thánh lễ tạ ơn tại nhà thờ với 2000 giáo dân tham dự . Tôi qùy gối và
cầu nguyện theo tiếng hát của ca đoàn :
“ Lạy chúa, con đường nào chúa đã đi qua, con đường nào ngài ra pháp trường, mão
gai nào hằn lên chua xót .
Lạy chúa, xin cho con được đóng đinh với ngài . Xin cho con cùng chết chết với ngài,
để được sống với ngài vinh quang .”
Hồn tôi đã tan biến theo dòng nhạc .
***
Hồi thơ ấu, bọn trẻ bu ra coi mỗi lần đoàn tông đồ qua làng . Họ là những cậu học trò
mặc đồng phục, mũ trắng, áo thâm, quần trắng, vùa đi vừa đọc kinh . Tôi hỏi chị
Lành :
- Ai vậy ?
- Họ là những người đi đạo .
- Đi đạo là gì ?
- Đi đạo lấy gạo mà ăn .
Làng tôi nằm giữa cánh đồng lúa ; nhô lên khỏi viền xanh chân trời là những tháp
chuông nhà thờ Phú Nhai, Phú An, Trung Linh, Bùi Chu, Kiên Lao, Nam Điền . Bên
cạnh tiếng chuông chùa, tiếng chuông nhà thờ đã nhẹ nhàng len lỏi vào tiềm thức tôi .
Lớn lên, tôi theo học trung học Hồ Ngọc Cẩn, Bùi Chu, các thầy Đại Chủng Viện đều
học chung với học sinh ngoài . Có lần , tôi tâm sự với các chủng sinh như : Vụ, Minh
Tri, Cẩm Tú ( bây giờ họ đã là linh mục ) :
- Nếu cho tôi thấy phép lạ, tôi sẽ theo đạo ngay .
Họ đều khuyên tôi :
- Anh hãy cầu nguyện, phép lạ sẽ đến với anh .
Trải qua “ Hai lần trỗi dạy “, tình cờ vào năm 1988, tôi đọc một câu trong Tân Ước :
“ Phúc cho những kẻ không thấy mà tin “.
Lời ngài như đánh động tâm hồn tôi . Tôi không cần phép lạ nữa . Từ đó , tôi bắt đầu
tìm hiểu đạo .
*
Cuộc hành trình tìm Đức Tin đòi hỏi nhiều suy tư , dằn vặt và bắt đầu từ óc xuống tim
:
Khoa học và đức tin : Những câu hỏi mà thủa thiếu thời tôi chưa tìm được giải đáp
như :
Người ta bởi đâu mà ra ?
Sống trên đời để làm gì ?
Chết sẽ ra sao ?
Làm thế nào để có hạnh phúc đời này ?
Nhìn lên bầu trời, chúng ta thấy vũ trụ bao la, mặt trời chỉ là một trong hằng hà sa số
định tinh ( định theo nghĩa tương đối ) . Các hành tinh vừa quay quanh mình vừa
quay quanh định tinh và di chuyển theo một quỹ đạo cố định . Trong khi đó, vật chất
đều cấu tạo bởi các nguyên tử nhỏ li ti, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi mạnh nhất,
không thể nhìn ra được . Trong mỗi nguyên tử có những âm điện tử quay vòng quanh
với tốc độ 297.000 km / giây .
Càng kỳ diệu hơn khi quan sát trái đất chúng ta đang sống . Nếu nó quay chậm đi 10
lần, chỗ nóng quá, chỗ lạnh quá, liệu sinh vật có còn sự sống không ? Nếu khoảng
cách giữa trái đất và mặt trời giảm đi 1/ 2, và trăm nghìn thứ “ nếu “ khác, chắc
hẳn địa cầu này sẽ trở thành hành tinh cht như bao thiên th khác .
Những sự kiện trên cho ta thấy một trật tự kỳ lạ trong vũ trụ, nhất nhất đều có định
luật chi phối, từ cái to cho đến cái nhỏ . Ai đã làm ra định luật đó, nếu không phải là
đấng Tạo Hóa, đấng quyền phép vô cùng, ( dân gian gọi ông Trời, công giáo gọi
Thiên Chúa hay Chúa Cha ) .
Khoa học và đức tin là tặng phẩm của Thượng Đế . Thượng Đế là nguyên lý tối hậu
cho suy luận về sáng tạo mà khoa học đã khám phá . Ánh sáng của lý luận là yếu tố
tạo nên khoa học . Còn ánh sáng mặc khải là của đức tin, đều chung một mối .
Nói rằng thuyết tiến hóa của Darwin phủ nhận sự sáng tạo của Thượng Đế là không
đúng . Chính Đức Giáo Hoàng Gion Phao lô Đệ Nhị ( ĐGH ) đã coi thuyết tiến hóa là
một khoa học xác thực .
Đạo hiếu : Đạo hiếu còn gọi là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên ( linh mục Kim Định cũng
gọi là Việt đạo, đạo chung cho mọi tôn giáo ) . Gia đình tôi theo đạo ông bà từ nghìn
xưa. Trước khi là tín đồ của bất cứ tôn giáo nào, chúng ta là người Việt Nam, có cùng
chung một Quốc Tổ . Dựng nước cách đây hơn 4000 năm ( 2879 TTL ) , Tổ Tiên ta
đã dày công xây dựng một nền đạo lý cao siêu, vượt hơn cả những triết lý đông tây
kim cổ, lấy đạo thờ Trời kính người làm gốc, (X. phụ chương II.P ) .
Tổ tiên đã bao lần đánh thắng quân xâm lược khổng lồ phương Bắc, mở mang và giữ
gìn bờ cõi suốt từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau . Nếu không , tên tuổi của nước
Việt bị xóa khỏi bản đồ thế giới . Thờ các vị anh hùng đã trở thành tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc . Các Ngài hóa Thánh để cứu nhân độ thế . Trong số các vị hiển
thánh có tứ bất tử :
- Chữ Dồng Tử
- Phù Đổng Thiên Vương
- Thánh Tản Viên
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Đức Trần Hưng Đạo thường được coi là hóa thân của Phù Đổng Thiên Vương .
Ngoài ra, những gì mà chúng ta đang mang trong dòng máu là do sự tích lũy và kế
thừa từ nhiều thế hệ trước , là tổng hợp những tinh hoa của nòi giống như : thông
minh, hiếu hoc, nhân ái v . v . Khoa học gọi đó là gene di truyền, hay có thể diễn tả
một cách khác đi : “ Ánh nắng trong bông hoa, con cháu ở đâu ông bà ở đó “.
Khôn ngoan nhờ đức cha ông,
Làm nên phải đón tổ tông phụng thờ .
( ca dao )
Thờ phụng tổ tiên là bổn phận của con dân theo bất kỳ tôn giáo nào . Điều đó phù hợp
với Cộng Đồng Vatican II .
Càng cảm động khi nghe bài “ Con có một Tổ Quốc “ của Đức Hồng Y Nguyễn Văn
Thuận :
.............. ... .. . .
Con có một tổ quốc Việt Nam,
Quê hương yêu quí ngàn đời,
Con hãnh diện, con vui sướng,
Con yêu non sông gấm vóc,
Con yêu lịch sử vẻ vang,
Con yêu đồng bào cần mẫn,
Con yêu chiến sỹ hào hùng,
...... ....... . .
Nhiều linh mục còn khẳng định bằng những câu như : Sống đức tin công giáo là sống
theo đạo ông bà ; trước khi làm linh mục, tôi là người Việt Nam ; Kẻ nào không yêu
thương cội nguồn mình, kẻ đó sẽ không yêu Thiên Chúa .
Tại nhiều nơi thờ phượng, bàn thờ Tổ Quốc với lư hương đỉnh đồng, bạch hạc được
bày biện trong nhà thờ, chùa, thánh thất, để tín đồ tưởng nhớ tới công đức của tiền
nhân . Ngày giỗ Tổ , tết Nguyên Đán đều có nghi lễ dâng hương cổ truyền .
Tại một số tư gia, bàn thờ ông bà được đạt bên bàn thờ Chúa . Ngày giỗ, gia đình sum
họp, cầu nguyện, nói lên lòng biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ .
Hình ảnh nhà thờ với mái cong theo kiến trúc Việt, tu sỹ ăn mặc quốc phục, áo dài
khăn đống hay quần áo nâu sồng không còn xa lạ gì đối với đồng bào công giáo . Họ
vận dụng cả kho tàng ca dao, tuc ngữ, cổ học của ông cha để làm sáng danh lời Chúa .
Họ khám phá ra những điểm gặp gỡ giữa tin mừng và văn hóa dân tộc hay nói khác đi
những cái hay , cái đẹp trong văn hóa dân tộc đều tiềm tàng ít nhiều trong Tân Ước .
Thượng Đế mặc khải : Thánh Gandhi nói : “Các giáo chủ đều là con người, nên chỉ
biết một phần sự thật ( chân lý ) . Triết lý là sản phẩm của con người, còn chân lý là
sự mặc khải của Thượng Đế, soi đường dẫn lối loài người . Hơn nữa, con người hữu
hạn, không thể tìm ra đấng vô hạn, nhưng đấng vô hạn đã tìm dến con người . Chúa
Giê su Kitô là con Thiên Chúa giáng thế làm người để cứu chuộc tội lỗi thế gian .
Ngài đã mặc khải cho loài người biết “ Thế nào là Thượng Đế “ và “ Ta là con đường,
là sự thật, và là sự sống “.
Ngài cứu rỗi chúng ta không phải vì công đức chúng ta, nhưng bởi lòng nhân từ của
Ngài . Chúng ta được cứu rỗi để làm việc lành, chứ không phải làm việc lành để đươc
cứu rỗi .
Lời dạy của Ngài rất phù hợp với tâm tình tôi :
“ Ta đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ “
Từ thủa vào đời đến giờ, tôi chỉ lấy hạnh phúc tha nhân làm lẽ sống, chỉ muốn cho đi
mà không muốn nhận . tôi đã tìm thấy hạnh phúc trong sự yêu thương người khác .
Hàng ngày, tôi đón nhận biết bao ân sủng, ngay cả trong lúc gian nan thất vọng, càng
cho đi càng nhận được nhiều .
Mầu nhiệm của đau khổ : Những đau khổ mà chúng ta đang gặp phải có thể do lòng
độc ác của con người, nhưng Thiên Chúa cho phép xẩy ra để làm lợi ích cho họ .
Cùng một năm, tôi gặp 3 đại họa : mẹ mất, em chết, nhà tôi bỏ đi ; tưởng chừng như
không trỗi dậy nổi . Sự đau khổ của tôi đâu có thấm gì, so với sự đau khổ của Ngài
trên thập giá :
“ Lạy chúa, mũi đòng nào đâm thấu con tim, đinh nhọn nào còn loang máu đào, sỉ
nhục nào còn vương trên mắt . Lạy chúa ! những bước nào gục ngã đau thương, bao
roi đòn hằn vết trên lưng .”, ( Thánh ca )
Bạn bè tôi có người bị liệt vẫn cảm nghiệm được hạnh phúc vì họ đã dâng tất cả nỗi
đau khổ của họ lên Thiên Chúa, để làm lễ vật đồng công cứu chuộc .
Trong buổi lễ kết thúc khóa tĩnh tâm 3 ngày ( 8 – 10 / 9 / 00 ) tại Holy Redeemer
Center, Oakland , cha Tuấn đã dành cho tôi vinh dự được chia sẻ lời chúa . Như có ơn
của Chúa Thánh Thần, tôi thao thao bất tuyệt nói về lý do tại sao tôi theo đạo, những
hồng ân mà Chúa đã ban cho . Ngay cả những lúc lo âu buồn nản, tôi cũng nhận ra
những dấu chỉ trong đó có sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa . Quá xúc động, tôi
bật khóc vàtan đi giữa dòng thánh nhạc :
“ Ngài là sức sống của con, lời Ngài là ánh sáng đời con . lời Ngài là chứa chan hy
vọng, là đường để con hằng dõi bước, lời Ngài đổi mới cho cuộc đời, lời Ngài hạnh
phúc cho trần ai . “
Hàng ngày, ngoài kinh Lạy Cha, tôi đọc những điều nguyện ước riêng trong đó có
đoạn : “ Con đem hết sự khôn ngoan ra phục vụ tha nhân, sau đó phó mặc và trông
cậy mọi sự nơi Chúa Thánh Thần ”. Khôn ngoan là một trong 7 ơn của Chúa Thánh
Thần . Thiên Chúa cho phép con người tự do hành động, đồng thời cũng ban cho mỗi
người một khả năng riêng biệt . Họ phải biết tận dụng khả năng đó để mưu cầu lợi ích
chung .
Sự cứu rỗi : Tôi cảm nghiệm rằng các tôn giáo khác đều được cứu rỗi bằng cách này
hay bằng cách khác . Như ĐGH đã khẳng định : “ Sự thật là tín đồ các tôn giáo khác
có thể nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa và được cứu độ ngoài những cách thông
thường mà Chúa đã thiết lập . “
Trong thời đại hiện nay, không một tôn giáo nào có thể giải quyết tất cả vấn nạn của
xã hội như mghèo đói, kỳ thị, bất công, tội ác ; cần có sự hợp tác của các tôn giáo .
Cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo trên thế giới, ĐGH đã tổ chức những buổi cầu
nguyện chung tại Roma .
Chúng ta hãy tôn trọng những giá trị thiêng liêng và chân lý của các tôn giáo khác,
chúng ta chỉ đem tin mừng cho những người chưa biết đến Đấng Toàn Năng . Nếu
không, tôn giáo thay vì kết hợp mọi người, lại trở thành nguyên nhân chia rẽ .
Tương tự như trên, tấm bia ở Sarnath của đại đế Asoka, nước Ấn, khoảng 250 TTL đã
ghi lại những dòng sau :
“ Ta không nên chỉ tôn vinh tôn giáo mình và chỉ trích các tôn giáo khác mà ta nên
kính trọng các tôn giáo khác vì lý do này hay lý do nọ . Làm vậy, ta đã giúp cho chính
tôn giáo mình phát triển và cũng đồng thời hỗ trợ các tôn giáo khác. “.
Cách tốt nhất để đem Tin Mừng cho những người chưa biết đấng Toàn Năng là thực
hành để chứng minh chân lý ( dùng sự để hiểu bày cái lý ) . Cả cuộc đời của mẹ Thê
rê sa đã chứng minh điều trên .
Củng cố đức tin : Trong cuộc hành trình đi tìm đức tin, tôi thường đàm thoại một cách
cởi mở chân tình với các bạn bè thân thích như A n, Phật Tử thuận thành, anh Kim
Anh, đạo dòng nhưng nghiêng về hoc thuyết vô vi của Lão Tử .
AN VÀ TÔI ,
Chúng tôi thay phiên nhau lái xe đi thăm Thúy,hiện đang tập sự y khoa tại
Birmingham, bang Alabama . Để giết thì giờ, chúng tôi trao đổi nhiều vấn đề trong đó
có tôn giáo . An mở đầu :
- Công giáo không phù hợp với khoa học .
- Tại sao vậy ?
- Theo Thánh kinh, từ đời ông Adam và bà Eva, có tất cả 78 đời . Nếu trung bình một
đời người là 100 năm, như vậy loài người xuất hiện khoảng 8000 năm, trong khi khoa
học đã chứng minh thủy tổ loài người đã xuất hiện cách đây nhiều triệu năm .
Một trăm năm là ít ! Dã sử chép rằng :18 đời vua Hùng trị vì 2796 năm, trong đó
Hùng Chiêu Vương tức Lang Liêu sống 692 tuổi, còn Lạc Long Quân có 215 con và
thọ 506 tuổi .
Việt Nam có huyền thoại “ Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc 100 trứng sinh
ra 100 người con, 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên núi ,” Huyền
sử chỉ muốn ám chỉ rằng ông bà có nhiều con, ông đưa một số xuống miền biển (
đồng bằng ) lập nghiệp, còn bà đưa một số con lên miền núi ,( bà là dòng dõi Tiên,
linh điểu phải sinh ra trứng rồi mới nở ra con ) .
Do Thái Giáo cũng vậy, họ tạo ra những huyền thoại để thích ứng với lối suy tư cưả
họ thời đó . Một phần, họ được Thiên Chúa mặc khải cho họ, qua cac tiên tri ; phần
khác, họ tự đặt ra nhũng lề luật mà họ nghĩ là tốt đẹp trong việc tôn thờ Thiên Chúa .
Khác với lịch sử thông thường ( kể lại đúng như các sự kiện đã xẩy ra ), cựu ước là
lịch sử cứu độ, là một suy tư hoàn toàn tôn giáo nhằm diễn tả niềm tin của người Do
Thái : “ Thiên Chúa là đấng tao ra vũ trụ, mọi loài thụ tạo, trong đó Thiên Chúa yêu
thương loài người và dành cho họ một cuộc sống vượt lên tất cả .”. Đối với đấng tạo
ra vũ trụ, thời gian chỉ có nghĩa tương đối .
Sau cùng, muốn hiểu rõ kinh thánh, nên đạt mình vào khung cảnh văn hóa, địa dư,
lịch sử thời bấy giờ, và nhất là không nên trích từng đoạn từng câu mà đọc toàn bộ
bản văn .
Về Tân ước, bạn tôi thấy nhiều điều nghe chối tai :
- Quả vậy, thầy đến để chia rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ
chồng . Kẻ thù của mình chính là người nhà .”
- Không nên diễn giảng theo nghĩa đen , nên suy ngẫm để tìm hiểu cái ngụ ý cũng như
cái sứ điệp mà Chúa muốn nhắn nhủ mọi người. Thật vậy, Tin Mừng không những
chống đối từ phía kẻ thù mà còn từ phía người nhà mình . Cuộc đời chúa Kitô, từ lúc
đi giảng đạo cho đến khi bị đóng đinh trên cây thập giá đã chứng minh điều đó .
- Còn chuyện cây vả không trái, sao chúa lỡ nguyền rủa cho cây vả chết khô, mặc dầu
nó chưa đến mùa sinh hoa kết trái .
- Câu chuyện đó chỉ chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa .
Đề cập tới Giáo Hội, bạn tôi cho rằng Giáo Hội Công Giáo có nhiều sai lầm :
- Hồi thế kỷ 17 , Giáo Hội đã kết tội nhà thiên văn học kiêm vật lý học Galilê về việc
ông khám phá ra quả đất quay chung quanh mặt trời .”
- Nhân vô thập toàn ! Chính vì vậy, ngày 30 / 10 / 92 ĐGH đã công khai thừa nhận
việc kết án ông Galilê là sai lầm . Ngoài ra ngày 14 / 11 / 94, Ngài đã tuyên bố : “
Giáo Hội phải công khai ăn năn thống hối về tất cả những lỗi lầm đã phạm trong quá
khứ “ .
Xa lộ xuyên bang 59 băng qua rừng thông thuộc bang Mississippi . Cảnh sắc đều đặn
dễ gây buồn ngủ cho người lái xe .Tới rest area ( chỗ nghỉ xe ), chúng tôi ngừng xe,
vừa ăn french fries ( khoai tây rán ) vừa nói chuyện tâm phào . Sau 1/ 2 giờ xả hơi,
chúng tôi tiếp tục hành trình .
Hồi còn nhỏ, tôi nghe người lớn kể : “ Nhà kia nuôi một con chó mực, nó hay nhảy
lên trường kỷ ngồi lúc vắng người . Kiếp trước, nó có thể là cụ kỵ, ông bà của chủ
nhân . Nó nhảy lên như vậy, để nhớ tới thời oanh liệt xa xưa ? “ . Rồi chuyện em bé
bẩm sinh mù là tại kiếp trước em tội lỗi . Những chuyện đại loại như thế ám ảnh tôi ít
nhiều . Biết An thông thạo về kinh sách, tôi muốn tìm hiểu thêm về Phật Giáo :
- Tao chưa tưởng tượng được, do nghiệp xấu kiếp này, con người có thể hóa kiếp
thành con sâu hoặc con vật trong kiếp sau . Và nếu có luân hồi, tao tưởng chỉ có luân
hồi trong kiếp người ?
- Luân hồi có trong mọi kiếp, từ côn trùng sâu bọ đến con người .
- Phật Giáo tin là cóũ Thượng Đế hay không ?
- Không !,An cả quyết như vậy .
Mải mê nói chuyện, chúng tôi đến thành phố lúc nào không hay. Thành phố này quá
thân quen, tôi thường đưa bạn bè tham quan những danh lam thắng cảnh, nhất là
tượng đài “ Người thợ rèn cầm đuốc “ trên đỉnh đồi .
ANH KIM ANH VÀ TÔI,
Trong ngôi nhà xinh xắn, bên dòng sông Mississippi, chúng tôi vừa thưởng thức trà,
vừa luận thế sự . Tôi mến anh chị vì tính tình phóng khoáng, tự nhiên, anh biết làm
thơ và chơi đàn .
Tuy là công giáo, anh nghiêng về tư tưởng Lão Tử như :
- Vạn vật nhất thể, vạn vật tương quan, vạn vật biến thiên .
- Thiên địa bất nhân .
- Đạo khả phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh .
Với quan niệm như trên , anh viết trong thơ đề ngày 15 / 1 / 97 : “ Tôi không thấy ưu
tư về cuộc đời, nếu có ưu tư thì đó là do tiềm thức của tôi còn chứa đựng những ý
niệm của các nền văn hóa mà tôi đã sống hay đi qua trong quá khứ . Tiềm thức ấy
không một sớm một chiều mà mất đi được, mà được triệt tiêu bởi những khám phá
của lý trí . “ .
Sau đó, trong thơ gửi anh, tôi trình bày quan điểm sống đạo của tôi như sau :
Tam giáo đã không đề cập tói một đấng toàn năng . Hàng tỷ tỷ năm, vũ trụ đã được
biến hóa và tuần hoàn theo một định luật . Ai là cha đẻ ra định luật đó, nếu không phải
là đấng quyền năng vô cùng mà mỗi tôn giáo có tên gọi khác nhau .
Tôi đồng ý vạn vật biến thiên không ngừng, nhưng khó có thể tin rằng: kiếp này làm
người, kiếp sau hoặc sau nữa có thể làm con sâu cái kiến do những nghiệp chướng
tiền kiếp gây ra .
Kitô giáo không những thỏa mãn những khát vọng về tâm linh mà còn làm cho tôi
cảm nghiệm được những mầu nhiệm đang xẩy ra hàng ngày trong cuộc sống . Phép lạ
đã xẩy ra mọi lúc, mọi nơi trên thế giới, nhiều người đã thấy . Đó là một thứ tôn giáo
sống động ! . Xin anh đừng cho tôi là “ kiến thủ kiến “.
Mỗi cá nhân đều có quyền tự do hành động . Nếu thấy sai phạm, tôi kịp thời sửa sai
bằng việc làm . Nhưng cần phân biệt cái khôn ngoan của Thiên Chúa khác với khôn
ngoan của người đời . Tôi vẫn hành động theo lương tâm , mặc dầu biết mình bị lợi
dụng, bị chèn ép .
Bạn bè cũng vậy, có người tốt kẻ xấu . Mình làm 9 điều tốt, lỡ làm một điều xấu cho
họ . Họ quên đi 9 điều tốt mà chỉ nhớ một điều xấu, rồi để bụng ghen ghét hoặc trả thù
.
Cuộc đời tôi có quá nhiều nước mắt hơn nụ cười . Nhiều khi, gian nan vượt quá sức
chịu đựng, thánh giá là niềm an ủi vô tận của đời tôi . Tôi dâng mọi suy tính, ước mơ,
lo lắng, vui buồn cho Thiên Chúa .
Cảm ơn anh đã chia sẻ những suy tư của anh mà người đời có thể cho là lạc đạo . Nó
đã giúp tôi tới gần Thiên Chúa hơn .
Thân mến ,
Để tạo hạnh phúc cho đời này cũng như đời sau, mỗi người chúng ta tự đốt đuốc đi
tìm niềm tin . Đức tin không những phải sống động mà còn chứng minh qua những
cảm nghiệm của mình trong cuộc sống .
Các phụ chương 2
Phụ Chương II.A
MỘT VÀI CẢM NGHĨ VỀ CÔNG CHÁNH MIỀN BẮC
Viết về bài “Nghề công chánh tại miền Bắc” quả là vượt khả năng tôi, vì vậy tôi chỉ
xin ghi chép một vài cảm nghĩ liên quan đến nghề nghiệp của mình trong dịp ra Bắc
trước ngày tôi vượt biển.
Trên Quốc Lộ 1 từ dòng sông Bến Hải đến Hànội, tôi đã thấy nhiều công trường đại tu
với những ống cán củi chạy sình sịch, những nền đường bằng đã dăm 5/9, những bình
tưới nhựa bằng tay giống như công trường lục lộ thời Tây. Cán bộ công trường chỉ
cho tôi một vài sáng kiến cải tiến kỹ thuật như cái cào đá có dây kéo (trước dây 1 lục
lộ có thể cào đá một mình, ngày nay một công nhân không đủ sức cào nên cần người
kéo phụ).
Để tái lập đường sắt thống nhất Hànội-Sàigòn, họ đã huy động hàng nghìn dân đắp
nền, và đầm đất bằng tay, lún đâu tu bổ tới đó. Trong khi phương tiện chuyên chở chủ
yếu là xe thồ (xe đạp chở hàng), xe lửa dù chỉ chạy cà rịch cà tang với vận tốc
30km/G, quả là niềm mơ ước và tự hào!
Gần Ninh Bình tôi được thấy một nhà máy sản xuất đá 0/4 giống như hầm đá Châu
Thới chỉ khác nhà ở CNV và văn phòng đều bằng tranh vách giấy (láng trại). Qua Phủ
Lý, một đơn vị thi công đang trải bêtông nhựa nóng,(có lẽ là đơn vị duy nhất có máy
trải nhựa hiện đại?).
Phải thành thực mà công nhận rằng có nhiều công trình mang tính cách sáng tạo (cái
khó bó cái khôn!) như cầu nổi qua sông Gianh được đặt trên những bó luồng (tre già)
cho xe vận tải qua lại, cầu cáp tại Ninh Bình, cầu treo tại đò quan Nam Định. Cách
làm đường bằng vật liệu địa phương (cỡ hạt liên tục) được thực hiện tại nông thôn.
Đường quê không còn lầy lội như 20 năm về trước mỗi lần theo mẹ đi chợ phiên, tôi
phải xắn quần lên tận háng. Khi trở về miền Nam, tôi kể cho bạn tôi nghe “quê hương
tôi thay đổi quá nhiều, đồng ruộng thắng cảnh cò bay, nhà ngói nhiều hơn xưa”. Bạn
tôi cho rằng tôi bị tuyên truyền, anh chỉ thở dài nhẹ nhõm khi nghe tôi kể tiếp:
“Những cái đó không che dấu nổi cái đối và thiếu mặc của người dân miền Bắc.” Dân
đói vì có nhiều lý do trong đó có ý chí không muốn sản xuất của người dân (làm nhiều
mà không được hưởng) lại thêm tỷ lệ cán bộ gián tiếp quá cao (40%). Một người bà
con còn kể: “Để khuyến khích sản xuất, nhà nước cấp thêm cho mỗi gia đình một
miếng ruộng gọi là ruộng phần trăm. Vì là của tư hữu, nông dân ra sức vun trồng nên
ruộng tốt hơn ruộng Hợp tác xã nhiều. Nhà nước bèn đổi chiến lược, luân phiên đôi
chỗ ruộng phần trăm nên chẳng bao lâu các ruộng xấu đề như nhau.
Con người bao giờ cũng là yếu tố quan trọng trong mọi quá trình sản xuất. Hànội có
Đại học giao thông vận tải nơi đào tạo các kỹ sư công chánh. Vì không có giấy giới
thiệu nên tôi không được phép “tham quan”. Các kỹ sự tốt nghiệp ở các nước Cộng
Sản Đông Âu, Tàu hay tại đây tương đối có sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật. Còn
các kỹ sự “tại chức” hay “hàm thụ” (phần nhiều là đảng viên) chỉ có khả năng quản lý.
Báo cáo nào cũng kết thúc bằng câu: “dù thiếu vật tư, thiết bị phụ tùng, xăng dầu, thời
tiết không thuận lợi nhưng nhờ quyết tâm của toàn thể CSBNV, nhờ ánh sáng soi
đường của nghị quyết đảng chúng ta nhất định hoàn thành kế hoạch.... “cuối năm”, kế
hoạch được báo cáo hoàn tất bằng cách tự động giảm chỉ tiêu (còn gọi là tu chỉnh kế
hoạch hàng quý, hàng năm).
Công nhân làm đường nói riêng, người dân nói chung dù dưới chế độ Tây, Tàu, Nhật,
Việt, đều có sức đề kháng ngấm ngầm. Họ làm việc tà tà, khi nào có cán bộ đến bấm
giờ họ bảo nhau làm bớt một chút để rồi tới kỳ thi đua hay lễ lạt họ làm tăng một chút
gọi là chào mừng thành tích. Tôi cho rằng chính nhờ tinh thần đề kháng mà dân tộc ta
vẫn tồn tại qua bao nhiêu chế độ đô hộ.
Trên đường đi, tôi đã thấy mấy bà đang ngồi ngay hàng nhổ cỏ tại khu rau cỏ Hànội,
vừa làm vừa nói chuyện (đúng ra vừa chơi). Tôi hỏi tại sao Hợp tác xã không khoán
cho các bác; một bà trong bọn cho biết: “Trước đây nhà nước có cho khoán nhưng tui
tôi nhổ cỏ quá nhanh, không bứt tận gốc nên cỏ mau mọc trở lại, do đó nhà nước mới
bãi bỏ chế độ làm khoán”.
Lên Tuyên Quang, Phú Thọ, sang Hòn Gay, Cẩm Phả, xuôi Hà Nam, Nam Định tôi cố
gắng tìm hiểu cái đạo đức của người dân miền Bắc sau 20 năm trời tôi luyện trong “lò
lửa Cách Mạng”. Tôi đã thấy gì đâu ngoài sự thua sút về tinh thần.
Hợp Đức Bùi
(Trích trong LTCC)
Phụ Chương II.B
SÁCH CHUYÊN MÔN DO CHUYÊN GIA NGƯỜI VIỆT XUẤT BẢN TẠI
NEW ORLEANS
Kỹ sư Bùi Đức Hợp vừa xuất bản một cuốn sách chuyên môn lựa đề là “Street Design
and Construction Features in The City of New Orleans” (Những đặc điểm trong việc
thiết kế và xây cất đường sá tại thành phố New Orleans). Cuốn sách này đã được
Louisiana Associated General Contractors, Inc., New Orleans District (tức nghiệp
đoàn thầu khoán Louisiana) giới thiệu đến các giới chuyên gia và phụ trách việc bán
sách.
Kỹ sư Hợp cho biết sách này được xuất bản nhằm mục đích phổ biến những kinh
nghiệm mà ông đã thu thập được trong 15 năm qua để có thể giúp cho những chuyên
gia khác trong việc nghiên cứu thiết kế đường sá tại New Orleans được thêm hiệu quả,
tiết kiệm được thời giờ cũng như tiền bạc. Thành phố N.O. thì nằm dưới mực nước
biển trung bình khoảng 6 feet và đất đai sình lầy, vì vậy cần phải sử dụng những kỹ
thuật đặc biệt như vải và lưới nylon dầy để làm đường sá.
Kỹ sư Bùi Đức Hợp tốt nghiệp trường Công Chánh Sàigòn, Việt Nam năm 1959. Sau
khi tốt nghiệp, ông đã giữ chức vụ Trưởng Ty Công Chánh của tỉnh Bình Long,
Phước Tuy, Long Khánh, Long An v.v... Năm 1979, ông và gia đình vượt biển đến
Hoa Kỳ, định cư đầu tiên tại California. Sau một thời gian làm việc ở 2 công ty tại
California, ông di chuyển về New Orleans, và bắt đầu làm việc tại Department of
Public Works (New Orleans City Hall) từ năm 1983 cho đến nay. Hiện ông là Project
Manager của chương trình xây cất “The Tchoupitoutas Corridor Project” (tức hành
lang dọc bờ sông Mississipi) với chi phí là $75 triệu. Những sách ông đã viết và xuất
bản là: Low Cost Road Design in Undeveloped Countries (1971), Road Project
Feasibility Study (1974), Traffic Volume in New Orleans, LA (1988). Hai cuốn sách
khác sắp được xuất bản là A Practical Solution to Street Design & Construction, và
Lessons from The Tchoupitoulas Corridor Project.
Được biết tất cả số tiền bán sách sẽ được quyên tặng cho quỹ của United Way và The
Vietnamese Refugee Funds. Ông G. Gary Ostroskey, President, United Way, đã viết
thư cám ơn ông Kỹ sư Hợp về sự quyên tặng này. Ông Ostrosky nói rằng đây là một
sự đóng góp đầy ý nghĩa cho chương trình United Way để góp phần thực hiện những
công tác từ thiện cho người nghèo và kém may mắn trong xã hội chúng ta. Cũng nên
biết ngoài nhiệm vụ công tác cho thành phố N.O., Kỹ sư Hợp đã dành rất nhiều thì giờ
để làm các công trình xây cất cho Cộng đồng Người Việt tại địa phương như:
Thiết kế linh đài Đức Mẹ La Vang cho Họ Đức Mẹ La Vang tại N.O.
Thiết kế tượng đài Đức Mẹ cho họ Đức Mẹ Lên Trời (Avondale).
Thiết kế Thánh Thất Cao Đài.
Thiết kế và xin giấy phép xây cất trường học, hội trường và nhà thờ cho họ Thánh
Giuse (Woodlawn).
Thiết lập hệ thống thoát nước cho Chùa Bồ Đề.
Ngoài ra, Kỹ sư Hợp là sáng lập viên nhóm Thiện Nguyện Selma đã tổ chức những
lớp dạy luyện thi Công Dân Hoa Kỳ miễn phí cho các Cộng đồng Người Việt trong
vùng trong những năm qua và cũng là người đã góp phần trong việc phát triển Hội Cử
Tri Người Mỹ Gốc Việt và thành lập Ban Đại Diện Cộng đồng Ngươi Việt tại New
Orleans và vùng phụ cận.
Ông Lewis Chittim (Vice President, Morrison-Mairle Inc.), ông Harry Brindley
(Principal Engineer, C.F. Braun & Co), ông Frank Stuart, Sr. (President, EPG Inc.), bà