The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.
Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by fireant26, 2022-09-11 23:42:12

Hồi Ký Bùi Đức Hợp

Hồi Ký Bùi Đức Hợp

Betty Jo Everett (Former Director N.O. Street Dept.), các Nghị viên Thành Phố
(Councilmembers): Johnny Jackson, Ellan Hazeur-Distance, Suzanne H. Terrelll, đã
ghi nhận và khen Kỹ sư Hợp với những thành quả nói trên. Đặc biệt trong việc xuất
bản cuốn sách này, Thị trưởng Marc Morial và ông David F. Ferguson (Director,
Dept. of Public Works) đã rất quan tâm đến nội dung của cuốn sách và khen tặng sự
làm việc tích cực của Kỹ sư Hợp. Thị trưởng Morial đã trao tặng Kỹ sư Hợp bằng
Tưởng Thưởng làm việc xuất sắc (Certificate of Merit). Khả năng chuyên môn đầy
kinh nghiệm của Kỹ sư Hợp và sự phục vụ tận tâm của ông đã đem lại những đóng
góp đáng kể không những cho Thành phố New Orleans mà còn cho cả Cộng đồng
Người Việt tại địa phương.

Anh Quỳnh Anh

(Trích BNS Ngọc Lân)

Phụ Chương II. C

HỘI ĐỒNG THÀNH PHỐ NEW ORLEANS TUYÊN DƯƠNG CÔNG TRANG
KỸ SƯ CÔNG CHÁNH
BÙI ĐỨC HỢP
VỀ VIỆC HOÀN THÀNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG HÀNH LANG
TCHOUPITOULAS

Tháng Sáu New Orleans mới hừng sáng trời đã nóng hầm hập, tôi thấy rất dễ chịu khi
bước vào căn phòng mát rượi. Có điều gì hơi lạ. Mọi người trong căn phòng thì thầm
to nhỏ với nhau có vẻ bí mật và thú vị.
Tôi đưa mắt dò hỏi, bà Geneviere, Ủy viên đối ngoại sở Công Chánh đến kề tôi nói
nhỏ và bảo phải giữ kín nhẹm vì nhân vật chính của câu chuyện là Kỹ sư công chánh
Bùi Đức Hợp.
Mọi người cười cười với nhau vì họ đang toa rập, phục kích. Ông Hợp sẽ ngạc nhiên,
chới với khi bị đẩy ra vùng ánh sáng của phòng họp Hội Đồng Thành Phố New
Orleans này.
Sở dĩ họ làm như vậy, là vì ông Hợp lúc nào cũng duỗi ra, từ chối sự đãi đàng của bạn
bè nhân dịp ông về hưu.
Ông Hợp về hưu sớm quá, lúc đang làm việc thành công, ngon trớn. Công tác kiến tạo
Hành Lang Tchoupitoulas do Kỹ sư Hợp điều hành vừa được khánh thành, mọi người
kể cả các Nghị viên thành phố đều khen ngợi: “Công tác được hoàn tất tuyệt vời”.
Hành lang Tchoupitoulas chạy dọc bờ sông Missippi của thành phố New Orleans, là
trục lộ chuyên chở hàng hóa xuất nhập cảng nơi hải cảng hạng lớn nhất Hoa Kỳ, cũng
là cửa ngõ giao thương quan trọng với nhiều quốc gia trên thế giới.
Công tác kiến tạo hành lang này với ngân khoản 75 triệu đồng, gồm tái thiết 5 dặm xa
lộ, tân trang 5 dặm xa cảng cho xe vận tải hạng nặng loại WB 62, kiến tạo 7 dặm

đường sắt, tân tạo bức tường bê tông rất dài và xây cất 5 cổng chống lụt (Flood gates).
New Orleans là một thành phố lớn duy nhất trên nước Mỹ mà dân chúng sống dưới
mực nước biển.
Bà Geneviere Bourgeois là người tổ chức buổi lễ phát bằng Khen Thưởng, điều động
nhân viên và liên lạc với Hội Đồng Thành Phố, giả bộ như mời ông Hợp tường trình
về Hành Lang Tchoupitoulas với Hội Đồng Thành Phố. Sáng nay ông Hợp mới được
thông báo, cho nên hôm nay chỉ là một ngày như mọi ngày, ông ăn mặc đơn sơ, không
áo lớn, không cà vạt chi cả. May mà vào giờ chót ông đã mượn được chiếc cà vạt.
Tất cả nhân viên và ban giám đốc đều tề tựu ở phòng hợp Hội Đồng, mọi người chờ
đợi cả tiếng đồng hồ. Ông Hợp nóng lòng trở lại làm việc cho nên ông bạn Kỹ sư
Tony Clairborne và vài người bạn phải tìm cách cầm chân ông.
Đúng 10 giờ, Hội Đồng Thành Phố khai mạc buổi họp đặc biệt “Tuyên dương công
trạng Kỹ sư Bùi Đức Hợp”. Đến giờ này, khi được mời lên ngồi ghế danh dự, ông
Hợp mới biết mục đích của buổi họp cho nên ông rất ngạc nhiên và cảm động.
Không phải chỉ một vài vị Hội Đồng Thành Phố khen ngợi ông, mà tất cả tranh nhau
khen ngợi không tiếc lời. Tôi có cảm tưởng người ta khen để người ta được chia, được
hưởng chung niềm hãnh diện.
Ông Cedric Grant, đại diện thị trưởng Marc Morial cũng đọc bản Tuyên Dương công
trạng và trao bằng Khen Thưởng của Thị trưởng cho ông Hợp.
Kỹ sư Hợp rất khiêm nhường, nhưng niềm hãnh diện có sẵn, nó được tạo do sự làm
việc bền bỉ, cần cù. Bao nhiêu năm qua, ông Hợp có mặt tại sở hằng ngày từ 7 giờ
sáng, có khi cả các ngày cuối tuần. Ngoài công trình kiến tạo Hành Lang
Tchoupitoulas và các dự án xây dựng cầu đường khác, Kỹ sư Hợp còn viết các quyển
sách như sau:
- Làm đường đỡ tốn tiền tại những quốc gia đang phát triển (1974).
- Dự án nghiên cứu khả thi đường sá (1974).

- Traffic volume in New Orleans, LA (1988).

- A practical solution to Street Design & Construc-tion (1992).

- Street design & construction features in the city of New Orleans (1997).

- Designing Construction, Building & Maintaining the N.O Streets to achieve their

design life (1997).

- Tchoupitoulas Corridor project lessons (1998).

Riêng quyển “A practical solution” được nhiều kỹ sư khắp nước Mỹ đặt mua, ông
biếu tiền bán sách cho cơ quan từ thiện “United Way”.
Nghị viên Chủ tịch Hội Đồng Thành Phố Singleton khen ngợi quyết định về hưu của
Kỹ sư Hợp có mục đích cao cả, vì Kỹ sư Hợp đã tình nguyện dấn thân vào một công
tác khác: “Xây dựng làng Việt Nam cho đồng bào tỵ nạn tại Phi Luật Tân”.
Trong vùng ánh sáng rực rỡ của chiếc ghế danh dự, Kỹ sư Hợp đã từ tốn đáp lời cám
ơn và cảm nghĩ của mình rất trôi chảy. Mọi người cảm thấy nhẹ nhõm vì trong sự bất
ngờ như thế này liệu ông Hợp có nói lên được hết cảm nghĩ của ông hay không.
Từ mười lăm năm qua, chưa có một người nào, kể cả hàng Giám đốc ra đi mà được

nhiều mến mộ và được Hội Đồng Thành Phố khen thưởng đặc biệt như thế.
Sự mến mộ mà Kỹ sư Hợp để lại sẽ làm cho chính quyền địa phương đặt nhiều tin
tưởng nơi khả năng chuyên môn của các kỹ sư Việt Nam đang làm việc tại Sở Công
chánh và rất thuận lợi cho việc bổ nhiệm của các kỹ sư Việt Nam sau này.

Phóng viên Mây Ngàn
(Trích Tuần Báo Sàigòn Nhỏ)

Phụ Chương II. D

KỸ SƯ BÙI ĐỨC HỢP ĐIỀU KHIỂN CHƯƠNG TRÌNH XÂY CẤT 75 TRIỆU
MỸ KIM

Ai trong Cộng đồng người Việt ở Ngọc Lân cũng đều biết tên tuổi hoặc thấy mặt một
Kỹ sư Việt Nam quen thuộc năm nay mới tròn 62 tuổi, nhưng đã về hưu để bắt đầu
một cuộc đời mới.
Trong một phút tâm sự bên cạnh hồ tắm có bóng cây phủ mát nơi khu Apartment sang
trọng ông thuê dài hạn, người Kỹ sư Việt Nam đó, tên thật là Bùi Đức Hợp, nhân viên
cao cấp của Sở Công Chánh Ngọc Lân, đpv/VNTP biết cuộc đời của ông chia làm 3
giai đoạn:
Trong suốt 40 năm làm việc, với tư cách là Kỹ sư Trưởng cho thành phố Ngọc Lân,
ông đã làm việc mỗi ngày 12 giờ, 8 giờ cho chính phủ và 4 giờ cho các công tác xã
hội dành cho người Việt ở trong nước cũng như ở hải ngoại.
Giai đoạn thứ hai của đời ông là sẽ về phục vụ tình nguyện cho Làng Việt Nam ở
Palawan (Phi Luật Tân) trong công việc chuyên môn là xây cất và bảo trì đường sá và
cầu cống và tạo cho mỗi gia đình một cảnh “vườn rau ao cá” như ở quê nhà.
Sau hai giai đoạn hữu ích và lý thú của cuộc đời, đáng lý ra người Kỹ sư này có thể
đọc lại thơ của cụ Nguyễn Công Trứ trong bài Trí Làm Trai:
Nợ tang bồng trong trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
Nhưng người Kỹ sư đó không hưởng thụ cuộc đời như các cụ ta ngày xưa, sau khi
công đã thành, danh đã toại. Ông cho đpv/VNTP biết trong giai đoạn 3 của cuộc đời
còn lại và nếu đó là tiếng gọi (vocation) của thượng Đế, ông sẽ vào đại chủng viện
học 4 năm thần học để trở thành mục tử ở tuổi gần 70.
Về mặt hoạt động tôn giáo, Kỹ sư Hợp đã đóng góp rất nhiều công sức và kinh
nghiệm vào việc xây cất các trung tâm thờ tự như nhà thờ Công Giáo, Thánh Thất
Cao Đài và chùa Phật Giáo ở Ngọc Lân, đặc biệt là việc xây cát Linh Đài Đền Thánh
Đức Mẹ La Vang trong họ đạo Đức Mẹ La Vang ở Ngọc Lân (xem hình trang bìa
VNTP số 540). Tác giả Linh Đài là Kiến trúc sư Anthony Phạm nhưng việc cấu trúc
được tính toán cho Kỹ sư Hợp và một số kỹ sư Việt Nam khác, trong đó có kỹ sư kỳ
cựu Lê Phong, người đã từng xây cất cầu cống đường sá thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Sự nghiệp đáng được ghi nhớ và để lại danh thơm cho hậu thế (cho người Mỹ ở Ngọc

Lân) là công việc xây cất hành lang Tchoupitoulas trị giá 75 triệu Mỹ kim do Kỹ sư
Hợp làm project manager. Dự án này gồm có việc canh tân 5 dặm đường phố
Tchoupitoulas, tân tạo 5 dặm đường phố Tchoupitoulas, tân tạo 5 dặm đường phố
Tchoupitoulas, tân tạo 5 dặm đường cảng chạy song song với đường phố, kiến tạo 7
dặm đường sắt và kiến thiết những bức tường chắn lụt với những cửa chặn nước kiên
cố và tối tân.
Dự án này kéo dài trong 6 năm và được khánh thành rất long trọng vào ngày 16 tháng
5, 1998, chỉ hai tuần lễ trước khi Kỹ sư Hợp về hưu. Từ ông Thị Trưởng thành phố là
Marc Morial đến các Nghị viên thành phố, ngoài việc khen ngợi và trao tặng
Certificate of Merit cho Kỹ sư Hợp, còn ca tụng ông là người Việt Nam đầu tiên ở
Ngọc Lân đã để lại cho thành phố này một công trình xây cất quan trọng và to lớn.
(xin xem hình chụp).
Ngoài ra Kỹ sư Hợp còn là tác giả nhiều cuốn sách chuyên môn về xây cất viết bằng
Anh ngữ, trong đó có cuốn Street Design and Construction Features in the City of
New Orleans. Cuốn sách này được Nghiệp đoàn thầu khoán ở Ngọc Lân giới thiệu
đến các chuyên gia và phụ trách việc bán sách. Tiền bán sách được gửi tặng một Quỹ
Xã Hội ở địa phương.
Quả thật Kỹ sư Bùi Đức Hợp là một người Việt Nam tỵ nạn độc đáo đã làm vẻ
vang cho Cộng đồng Việt Nam ở Ngọc Lân và trên tất cả thế giới.

Nguyễn Trọng
(Trích báo Văn Nghệ Tiền Phong)

Phụ Chương II.E

HỘI CỬ TRI NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT TẠI LOUISIANA ĐẠI HỘI KỲ I

Hội Cử Tri Người Mỹ gốc Việt tại Louisiana đã tổ chức Đại Hội Kỳ 1 vào ngày 5
tháng 12 năm 1992 tại hội trường trường Thánh Thomas Thiện. Đại hội đã đánh dấu
sự trương thành lớn mạnh của Hội trong hai năm qua - từ một Hội đoàn nhỏ bé mà địa
bàn hoạt động chỉ vẻn vẹn trong vùng New Orleans East - nay đã phát triển thành 11
Chi Hội nằm rải rác trong toàn bang Louiasiana.
Từ tờ mờ sáng ngày khai mạc Đại hội, bầu không khí trường Thánh Thomas Thiện
tưng bừng nhộn nhịp như một Hội xuân. Một cổng chào lớn được dựng ngay lối ra
vào với hàng trăm Quốc kỳ Việt-Mỹ tung bay trước gió với những khẩu hiệu viết
bằng hai thứ tiếng để chào mừng quan khách, đặc biệt tấm bảng Đại Hội Kỳ 1 của Hội
Cử Tri Người Mỹ gốc Việt dài 25 thước chạy dọc mái trường, đứng từ đại lộ “Dwyer”
cũng thấy. Đồng bào thì thầm: “Chuyến này Hội làm ăn lớn.”.
Bước vào hành lang hội trường, các thiếu nữ với những bộ áo dài duyên dáng nhanh
nhẹn hướng dẫn các đại biểu từ phương xa đến và các quan khách Mỹ Việt ghi tên
vào sổ, dán bảng tên vào... áo. Đồng thời nhắc khéo quý khách ký tên vào sổ vàng;
cạnh đó là khu triển lãm tràn ngập những bản đồ ghi ranh giới đơn vị bầu cử, hình ảnh

hoạt động, bích chương, tài liệu và báo chí của Hội vân vân...
Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Vừa viết nội quy, vừa lo công
việc thành lập Chi hội, phát triển hội viên, thi vô công dân, hướng dẫn việc đi ghi tên
bỏ phiếu, tổ chức nói chuyện bầu cử, tương trợ, vân vân... cả hàng trăm việc trong hai
năm sao!
Trong hội trường, không khí vừa trang nghiêm vừa thân mật. Bàn thờ Tổ Quốc với
hương trầm nghi ngút như nhắc nhở chúng tôi “Thưa mẹ Việt Nam, chúng con vẫn
còn đây:”. Các đại biểu quan khách ngồi chật hội trường với trên 200 ghế ngồi hàng
hàng, lớp lớp.
Trên hàng ghế quan khách về phía Mỹ có ông Al Stoke, đại diện ông Thị Trưởng
New Orleans, ông Johnny Jackson, đại diện Hội Đồng Thị Xa,õ ông Cecile, Tổng Thư
Ký Hội Aspac; về phía người Việt có Đức Ông Mai Thanh Lương, Cha Đáng, quý
ông Đỗ Kiểm, Lê Hồng Thanh, Nguyễn Đức Huy, ông Trần Công Hàm, cụ Đinh
Công Nghiệp và rất đông các vị thân hào nhân sĩ cùng đại diện các Hội đoàn.
Trong phần phát biểu cảm tưởng, quý vị quan khách đều nhiệt liệt ca ngợi những
thành tích hoạt động của Hội trong hai năm qua kể cả ông Nghị viên Jackson đã thay
mặt vị Thị Trưởng và nhân danh Hội Đồng Thị Xã New Orleans trao tặng cho Hội
văn bằng Tuyên Dưng Công Trạng.
Sau phần lễ khai mạc, các đại biểu cùng những quan khách đã dự bữa cơm thân mật
với những món ăn thuần túy Việt Nam, có chương trình văn nghệ do ban nhạc
Dynamic Thanh Bình phụ trách và xổ số giúp vui xen kẽ.
Sở dĩ Đại Hội thành công tốt đẹp là nhờ sự điều hợp khéo léo có kế hoạch của Ban Tổ
Chức và mọi sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các cấp thành viên trong Hội.

Diễm Thúy
(Trích BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương II. F

MỘT SỐ SINH HOẠT CỦA HỘI CỬ TRI NMGV TRONG 2 NĂM QUA

Trong 2 năm qua, Hội đã phối hợp với nhóm thiện nguyện SELMA và Hội Phụ Nữ
Việt Thiện Chí Louisiana liên tiếp mở những khóa luyện thi công dân miễn phí cho
đồng bào. Kết quả thi đậu chiếm tỷ lệ cao, nhất là những lớp dành cho người già.
Những bài viết dưới đây được trích trong báo Đây Ngọc Lân, Tờ Mục Vụ và bản tin
của Hội.
LỚP LUYỆN THI CÔNG DÂN HOA KỲ TẠI MARRERO
Trời trong vắt như báo hiệu một ngày nóng oi ả. Sân trường Giáo Lý và Việt Ngữ của
Công Đoàn Tự Do có một bộ mặt khác thường. Đó là ngày khai giảng lớp Luyện Thi
Công Dân Hoa Kỳ vào Chủ Nhật ngày 7-8-1994.
Học viên của lớp học không phải là những em nhỏ mà là những vị đứng tuổi. Có học
viên đã ngoài 60. Nhưng trên gương mặt đều hớn hở vui tươi như những ngày còn mài

đũng quần trên ghế nhà trường. Ban giảng huấn hùng hậu gồm các vị có uy tín trong
Cộng đồng như Sư Huynh Basil, Ông Lê Thanh Phong, Tôn Thất Hà, Kỹ sư Bùi Đức
Hợp và bà Thanh Nga, Cố Vấn Pháp Luật NOLAC. Kỹ sư Bùi Đức Hợp là phối trí
viên chương trình cho biết, vì số ghi danh quá đông, trên 50 người nên lớp học đã chia
ra làm hai khóa. Một khóa dạy bằng Anh ngữ và một khóa bằng Việt ngữ. Thời khóa
biểu mỗi khóa là 4 tuần lễ từ 9 giờ 30 đến 12 giờ trưa. Chương trình giảng huấn, ngoài
việc luyện thi, còn có hướng dẫn về luật pháp thông thường và kiến thức phổ thông.
Cũng cần ghi nhận, công dân Hoa Kỳ có rất nhiều quyền lợi như:
- Trên 21 tuổi có thể bảo lãnh cha mẹ sang đoàn tụ.
- Không bị trục xuất.
- Có quyền đầu phiếu và ứng cử.
- Xin việc làm có liên quan tới quốc phòng.
- Hưởng những quyền lợi khác như trợ cấp xã hội, dưỡng lão, cứu tế v.v... mà người
có thẻ xanh bị khước từ.
TẠI WOODLAWN
Chủ nhật ngày 18-9-1994. Khóa Luyện Thi Công Dân Hoa Kỳ đã long trọng khai
giảng tại Cộng đồng Hưng Đạo (Woodlawn).
Số học viên khoảng 30 người gồm đủ mọi thành phần già trẻ, nghề nghiệp khác nhau,
trong đó có học viên đã tốt nghiệp Trung Học (High School). Tài liệu học tập được
biên soạn rất công phu, bằng 2 sinh ngữ: Anh & Việt gồm những câu vấn đáp mà Sở
Di Trú thường đặt ra. Ngoài thành phần giảng huấn thường xuyên như bà Thanh Nga,
ông Phong, Ông Hà và ông Hợp, còn tăng cường thêm ông bà Giáo sư Ascani, đến để
luyện giọng cho các học viên. Các học viên rất chăm chỉ và say mê học tập, nhiều khi
quên cả giờ nghỉ. Hy vọng, cứ theo chiều hướng này số Cử Tri Người Mỹ gốc Việt sẽ
gia tăng mau chóng. Cũng được biết, khóa học này sẽ kết thúc vào hạ tuần tháng 10-

1994.

TẠI AVONDALE
Cả 4 Chúa nhật trong tuần tháng 1 vừa qua các lớp học đã diễn ra hết sức đặc biệt.
Trên 50 người đã tham dự lớp. Nhiều ông cụ bà cụ đã cao tuổi mà cũng đi làm học trò
thật đáng phục, nhất là lại tập đọc tên tuổi Mỹ méo cả miệng đi. Các cụ đọc tên người
làm bản quốc ca Mỹ là Phan-xít-xi Xi-cót-ti, hỏi ra thì biết là Francis Scot. Thế mới
biết các cụ chăm chỉ lắm, rất đúng giờ, và kết quả thi thử được tới 7/10 điểm. Vậy là
có mòi đậu rồi. Chúa nhật vừa qua là ngày “Tốt nghiệp” có “Lễ nghi ra trường” bằng
một bữa cơm thân mật tại hội trường Lê Bảo Tịnh do ban thường vụ giúp đỡ. Mọi
người hoan hỷ ra mắt, mong ngày thi đậu sẽ có party lớn.
TẠI HOUMA
Trong tháng 5 và 6 vừa qua Hội đã liên tiếp mở 2 lớp luyện thi công dân - một bằng
Anh Ngữ, một bằng Việt ngữ - chung cho cả 2 quận Terre Bonne và Lafourche. Lớp
học được tổ chức cả sáng lẫn chiều. Vì chỉ có 1/2 giờ nghỉ trưa, nên học viên đã tự
động lo bữa ăn trưa tại chỗ cho giảng viên.

(Trích Đặc San Sức Mạnh)

Các phụ chương 2 (tiếp theo)

Phụ Chương II. I

DÒNG NƯỚC MẮT ĐÃ KHÔ CẠN

hay

Tâm Sự Của Một Thành Viên Trong Ban Vận Động Thành Lập Cộng Đồng

Hàng ngày chúng tôi được nghe những lời ta thán của đồng bào về những đối xử bất
công, mang nặng tính cách kỳ thị. Điển hình là những vụ xin phép mở tiệm của bà
DTH, LTT. Là một nhân viên chính quyền bị ràng buộc bởi luật lệ công vụ, chúng tôi
chỉ can thiệp từng trường hợp một, không thể công khai phản đối. Chỉ có Ban Đại
Diện Cộng Đồng mới đầy đủ thẩm quyền bênh vực quyền lợi cho đồng bào và làm vơi
đi những “đọa đày” mà đồng bào ta đang gánh chịu. Từng đêm dài thao thức, thương
cho thân phận tỵ nạn, khóc cho kiếp sống lưu đày, hình như trong tôi “dòng nước mắt
đã khô cạn”...
Nhớ lại những lời nói sặc mùi kỳ thị của Ông Burl Cain, Giám Đốc Nha Công Vụ
Tiểu Bang về những sinh viên, những ngư phủ gốc Á Châu, sự phản ứng lẻ tẻ của các
hội đoàn quá yếu, không đủ mạnh để đối phương phải e sợ vì chúng ta chưa có một
Ban Đại Diện nói lên tiếng nói chung của 15.000 đồng bào ta ở New Orleans?!?...
Và hàng ngày, hàng giờ không biết bao nhiêu chuyện tương tự như trên xảy ra, nghe
đồng bào tâm sự mà lòng không cầm được nước mắt. Đó là những lý do thôi thúc tôi
cùng nhiều anh em khác đã gia nhập Ban Vận Động Thành Lập Cộng Đồng New
Orleans và vùng phụ cận... Gần một năm hoạt động, chúng tôi đã gặp buồn nhiều hơn
vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười, hứng chịu những chỉ trích nhiều hơn khích lệ. Con
đường trước mặt đầy chông gai trở ngại, chúng tôi cố gắng bước tới dù “dòng nước
mắt đã khô cạn”... Đối với những Hội Đoàn “chưa trả lời”, chúng tôi xin thưa ngay là
những nghi ngờ, những chỉ trích của quý vị rất hợp tình, hợp lý. Phía chúng tôi chỉ xin
thưa cùng quý vị những thực chất của vấn đề:
1- Ý đồ:
Chúng tôi chẳng có ý đồ gì hết, mà chỉ là ý thức được bổn phận và trách nhiệm mà
thôi. Sau khi thành lập xong. Ban Đại Diện Cộng Đồng, Ban Vận Động sẽ đương
nhiên giải tán. Đúng như bác sĩ Đặng Thiệm đã viết trên BNS Đây Ngọc Lân, các hội
viên trong Ban Vận Động không được quyền ứng cử,đề cử, nhận đề cử bất cứ một
chức vụ nào trong Ban Đại Diện. Quá khứ chứng minh hiện tại, như cách đây 30 năm,
một nhân sĩ đã chất vấn khi chúng tôi hăng say hoạt động xã hội:
- Ông sẽ ra ứng cử Dân Biểu?
- Không, chúng tôi chỉ là chuyên viên và suốt đời chỉ ước mong phục vụ đất nước

trong lãnh vực nhỏ nhoi này!
2- Phương thức đề cử các Đại Biểu Tham Dự Đại Hội không mấy thích hợp:
Điều đó đúng, như Ban Vận Động đã trình bày trong Thư Trưng Cầu Ý Kiến đề ngày
20/1/1993. Chúng tôi không dám nghĩ rằng phương thức lâm thời nói trên là hữu hiệu,
nhưng nếu chỉ ngồi bàn cãi cái này hay cái kia dở, nên làm thế này hay thế khác,
không biết đến bao giờ chúng ta có Ban Đại Diện, bằng chứng là chúng ta thảo luận
nhiều năm rồi. Hơn nữa đây chỉ là Ban Đại Diện Lâm Thời với nhiệm kỳ không quá
một năm. Nó có nhiệm vụ soạn thảo nội qui và tìm kiếm một phương thức bầu cử
thích hợp nhất như quý vị mong muốn. Một số Hội đoàn cho biết: “Mặc dầu không
đồng ý hẳn với phương thức, chúng tôi vẫn tham gia Đại Hội, cứ hoạt động đi, thấy
không thích hợp thì điều chỉnh. Đó là thái độ hết sức xây dựng, cần có trong lúc này.
Vấn đề quan trọng hiện nay – chắc quý vị biết rõ hơn chúng tôi – là tìm những người
có khả năng, có thiện chí, đứng ra gánh vác Cộng đồng chứ không phải nhiều hay ít
người đại biểu.
Sau cùng, nếu bất kỳ một cá nhân nào, một Hội đoàn nào, một Đoàn thể nào có
phương thức thích hợp hơn, chúng tôi rất hoan nghênh mời quý vị đứng ra thành lập
Ban Đại Diện và Ban Vận Động chúng tôi xin rút lui ngay tức khắc. Đã đến lúc chúng
ta cần có những hành động tích cực thay vì những lời nói suông không giúp gì cho
chung cuộc.
3- Ban Đại Diện, một nhu cầu cấp thiết:
Đã 18 năm qua chúng ta chưa có một tổ chức Cộng Đồng. Vì vậy, tiếng nói, nguyện
vọng của tập thể Người Việt Hải Ngoại không đón nghe, đón nhận. Đúng như lời
Tổng Thống Bush: “Cộng Đồng Việt Nam quá yếu ớt nên không ảnh hưởng tới chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ”. Nguyện vọng đó chỉ trở thành sức mạnh, nếu nó thể hiện
bằng tiếng nói chung của 2 triệu Người Việt Hải Ngoại. Để tiếng nói của chúng ta
phải được đón nghe và đón nhận. Để tiếng nói phát ra phải được vọng lại, không gì
bằng chúng ta đoàn kết tham gia tổ chức Ban Đại Diện Cộng Đồng. Bạn còn chần chừ
gì nữa??...
Đêm đã khuya, chuông nhà thờ St. Maria Goretti đã điểm 2 giờ. Tôi vẫn còn chằm
chặp nhìn vào bản tin thời sự: Nước láng giếng Cam Bốt giờ đây đã có Tự Do Dân
Chủ, sao dân tộc tôi vẫn cam chịu cảnh nghèo đói, hận thù. Cảm thấy trái tim tôi như
ai đang cấu xé, và tôi gục đầu xuống bàn viết như muốn được khóc thật lớn dù “dòng
nước mắt đã khô cạn”.

July 4, 1993
Bùi Đức Hợp
(Trích BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương II. J

18 NĂM MỚI CÓ MỘT NGÀY
hay

Câu chuyện thành lập Cộng Đồng tại New Orleans và vùng phụ cận ngày 11 tháng 12
năm 1994

I. Thành lập ban vận động (7/1/1992-1/20/1993)
Lúc đầu ban vận động gồm một nhóm người có thiện chí, muốn thành lập một ban
Đại Diện cộng đồng tại N.O và vùng phụ cận. Trong số đó có các ông VTC, TCH,
VVL, NDH, và tôi. Theo ông TCH, nếu những cá nhân nói trên ký tên vào thư trưng
cầu dân ý, “chúng” sẽ đến đốt nhà? ông bèn đề nghị để các vị lãnh đạo tinh thần tôn
giáo đứng tên, tôi được giao nhiệm vụ thảo thơ và lấy chữ ký của quý vị có tên sau
đây:
- Đại Đức Thích Chơn Minh
- Đức Ông Mai Thanh Lương
- Hội trưởng Cao Đài Nguyễn Thừa Long.
Cho đến giờ này, tôi vẫn chưa biết rõ “chúng” là ai?
Như đã trình bày quan điểm nhiều lần trên báo chí, tôi không có một tham vọng hay
một ý đồ gì, chỉ vì ý thức trách nhiệm mà đứng ra thành lập. 18 năm qua New Orleans
và vùng phụ cận chưa có một ban Đại Diện. Trong quá khứ cũng có lần tổ chức cộng
đồng, nhưng chưa lập đã tan hoặc chết non vì có quá nhiều nghi ngờ chia rẽ (Tên này
nằm vùng, tên kia tham quyền cố vị, lũng đoạn cộng đoàn và vân vân).
Sau đây là mấy ý kiến chỉ đạo trong thơ trưng cầu dân ý.
1/- Các thành viên trong ban Vận Động (VĐ) không có quyền ứng cử vào ban Đại
Diện.
2/- Ban Đại Diện lâm thời có toàn quyền hành động dưới sự cố vấn và giám sát của
các vị Chủ Tịch các đoàn thể tôn giáo và hội đoàn (một bộ chỉ huy gọn và nhẹ mới
mong đáp ứng được nhu cầu của tình thế).
3/- Khi đề ra “các đoàn thể tôn giáo, các cộng đoàn giáo dân có 5 đại biểu, các hội
đoàn chính trị hay ái hữu có 2 đại biểu”, tôi không đặt mình vào một tôn giáo nào, mà
chỉ dựa trên tinh thần dân chủ, khi cần huy động các lực lượng đi biểu tình, kiến nghị
trông mong vào đoàn thể nào bây giờ? Phần lớn trông mong vào các cộng đoàn giáo
dân. Mỗi cộng đoàn giáo dân lại có nhiều Hội đoàn (Con Đức Mẹ, Đạo binh xanh,
Liên minh Thánh Tâm...) mà tổng số đoàn viên có thể còn nhiều hơn số đoàn viên của
các Hội đoàn chính trị hay ái hữu.
Có vị đề nghị số đại biểu tùy thuộc vào số hội viên của một hội đoàn. Đó là điều đòi
hỏi thiếu thực tế. Có hội đoàn nào (nhất là các đoàn thể chính trị) chịu khai thực số
đoàn viên của mình. Nếu có khai, lấy gì mà kiểm chứng? Như chúng ta sẽ thấy sau
này, mời tham dự vô điều kiện mà một số Hội đoàn vẫn chưa chịu nhập cuộc, huống
hồ là yêu cầu này nọ.
Một điểm nữa mà chúng tôi cầm nhấn mạnh: Trước khi đề ra phương thức bầu cử,
chúng tôi đã tiếp xúc không biết bao nhiêu hội đoàn, cá nhân. Mỗi vị đều có phương
thức riêng nhiều khi trái ngược lẫn nhau. Đã có lần tôi xin thưa rằng: Nếu quý vị bằng
lòng đứng ra thực hiện phương thức quý vị, tôi sẽ đứng sau ủng hộ hết mình, nhưng

không quý ai chịu nhận.”. Lúc này, chúng ta cần hành động (take action) hơn là lời

nói suông.

II.Giai đoạn vận động (1/20/92 - 11/15/92).
Sau khi thơ Trưng cầu ý kiến (Thông cáo số 1) được phổ biến trên báo chí hoặc gởi
thơ tới các đoàn thể, cộng đoàn, hội đoàn, chúng tôi nhận được chỉ trích từ mọi phía.
- Tôn giáo phải tách rời sinh hoạt cộng đồng. Thực sự, các vị lãnh đạo chỉ đứng ra vận
động, chứ không tham gia ban Đại Diện hay nói khác đi một khi ban đại diện được
bầu, quý vị lãnh đạo tinh thần sẽ chấm dứt nhiệm vụ.
- Phật Giáo bị chèn ép, Công Giáo lấn ép. Về việc này chúng tôi đã giải thích nhiều
lần trên báo chí “vấn đề khó khăn hiện nay là tìm người có khả năng, có thiện chí ra
gánh vác công việc cộng đồng, chứ không phải số đại biểu nhiều hay ít”. Nếu Phật
Giáo có những vị xả thân vì cộng đồng, chúng tôi tin rằng, các đại biểu cũng như ban
VĐ sẽ tích cực ủng hộ. Một vị lãnh đạo tinh thần cho biết “Tuy có ký tên nhưng
không đọc nội dung thơ Trưng cầu dân ý”.
Đó là khúc mắc lớn lao khiến thời gian vận động kéo dài cả năm và còn gây sóng gió
trong ngày đại hội. Tôi muốn khóc nhưng dòng nước mắt đã khô cạn.
Phật Giáo tuy là thiểu số nhưng tôi đã nhiều lần bày tỏ: “Nếu Phật Giáo không tham
dự, chúng tôi sẽ không tổ chức đại hội”, vì trong quá trình lịch sử dân tộc, Phật Giáo
đã gắn bó nhiều với vận nước.
Một mặt tiếp tục vận động các Hội đoàn; mặt khác tìm những người có khả năng sung
vào ban Đại Diện trong trường hợp không có ai ra ứng cử. Chúng tôi mong mỏi 5 vị
trong ban đại diện (1 Chủ Tịch, 2 Phó, 1 Tổng Thư Ký, 1 Thủ Quỹ) đều là những
người có khả năng, có thiện chí, có uy tín, giả dụ 4 vị vắng mặt, vị còn lại vẫn có thể
đảm đương công việc cộng đồng. Một quan niệm khác “cần có team work” nghĩa là
để Chủ Tịch chọn người. Do đó, cần phải có một quan điểm dung hòa nếu muốn Đại
Hội thành công.
Trong suốt thời gian vận động, có thể nói tôi đã tham dự hầu hết các buổi sinh hoạt
của các hội đoàn chính trị cũng như tôn giáo để tạo sự thông cảm, hiểu biết nhau hơn.
Trong bất cứ đoàn thể nào tôi cũng tìm thấy những người trẻ có lòng với quê hương
dân tộc. Nếu những người trẻ này được kết hợp và hướng dẫn, họ sẽ là những vị lãnh
đạo tài ba của cộng đồng.
Với hy vọng Phật Giáo sẽ tham gia vào giờ chót, chúng tôi quyết định tổ chức đại hội
vào ngày 11 tháng 12 năm 1993.
Sau đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong giai đoạn vận động:
1- Phần lớn hiểu lầm gây ra là do một số đồng hương không đọc kỹ thông cáo và nhất
là không đọc báo để cập nhật hóa tình hình.
2- Người Mỹ khen nhiều hơn chê, để khích lệ những người đã tự nguyện bỏ công
hoặc góp của. Còn một số trong chúng ta bắt đầu chê tưới hột sen (có lẽ để tỏ ra ta
giỏi hơn người chăng?).
3- Không thể chiều lòng mọi người (formula for failure is try to please everyone).
III.- Tổ Chức Đại Hội (9/19/1993 - 12/11/1993).

Để chuẩn bị Đại Hội, một phiên họp đã được tổ chức tại tệ xá. Các thành viên được
phân chia nhiệm vụ như sau:
- Ông TCH dự thảo thư mời và phụ trách phần II của chương trình Đại Hội.
- Ông VTC mời ông NAT phụ trách phần đầu của chương trình.
- Ông VL chuẩn bị người giới thiệu ƯCV trong trường hợp không có ai xung phong
ứng cử.
- Tôi lo phần Lời Chào Mừng, ẩm thực, tiếp tân, biểu ngữ v.v...
- Chi phí cho Đại Hội được ước tính $1.000,00 (Hội trường Jefferson Library khỏi trả
tiền mượn). Làm thế nào để gây quỹ? Ông VTC đề nghị xin tiền các Hội đoàn, đoàn
thể, các thân hào nhân sĩ v.v... Tôi nghĩ bụng: “chưa làm được gì, đã xin tiền đồng
bào”. Kinh nghiệm dạy tôi rằng: “Chỗ nào có đồng tiền dễ gây hiểu lầm, thắc mắc:;
chi bằng ban Vận Động ráng đóng góp để có tiền tổ chức Đại Hội.
- Ẩm thực: tôi nhờ chị Trần T. là giúp.
- Khẩu hiệu 4' X 24': Ông Hoàng T. Trường.
- Tiếp tân: Ông Phạm H. Khánh và các em thuộc Cộng Đoàn Hưng đạo.
- Văn nghệ: Ban Nhạc Thanh Bình.
An ninh trật tự: Bố trí người giữ trật tự an ninh, phòng khi có kẻ phá rối, mặt khác
thông báo cho ty cảnh sát Jefferson ngày giờ và địa điểm phiên họp.
Trong thời gian tổ chức Đại Hội, ông VTC đã dàn xếp một cuộc họp bỏ túi giữa tôi và
ông Hội trưởng hội PGTH tại nhà hàng Tự Do vào lúc 10 giờ ngày 31 tháng 10, 1993.
Sau 2 giờ thông cảm, ông Hội Trưởng cho biết: Phật Giáo bằng lòng tham dự theo
tinh thần thông cáo số 1.
Trước khi họp, ông VTC có nhắc tôi nhớ mang phiếu trả lời để ông Hội Trưởng ký
tên, nhưng tôi đã không làm theo.
Trước Đại Hội một tuần, tôi triệu tập một phiên họp tại nhà để kiểm điểm công tác
một lần chót (ông TCH không tham dự vì bận tiếp khách từ phương xa tới).
Trong thời gian chuẩn bị Đại Hội, không có điều gì đáng tiếc xảy ra, ngoại trừ vụ rải
truyền đơn chế diễu một vài nhân vật trong ban VĐ.
Ngày Đại Hội (11 tháng 12, 1993), chúng tôi có mặt tại hội trường lúc 9 giờ sáng để
lo căng biểu ngữ, xếp bàn ghế v.v... Chương trình khai mạc dự trù lúc 10:15, phải chờ
tới 10:45 để các quan khách, đại biểu tới đông đủ.
Hôm trước Đức Ông có cho tôi hay 11 giờ sẽ đến. Tới 11 giờ 20 không thấy Đức Ông
xuất hiện, tôi phải nhờ cha Tuệ lên phát biểu. Tôi đã nghĩ chuyện này từ lâu, nên tối
hôm trước tôi đã năn nỉ Cha Tuệ, bằng mọi giá xin Cha đến tham dự Đại Hội, dù biết
rằng Ngài quá bận bịu với nhiều mục vụ của họ đạo. Đức Ông tới vào lúc trưa và ở lại
cho tới khi bế mạc.
Chủ Tịch cộng đoàn Hùng Vương và ban Trị Sự không tới (?)Đó là cộng đoàn nòng
cốt, tôi đặt tin tưởng rất nhiều. Trong quá trình vận động, ông Chủ Tịch hứa sẽ
“support” ban Vận Động hết mình. Chủ Tịch cộng đoàn Tự Do không đến mặc dầu đã
trả lời bằng lòng tham dự (?) Hội Thánh Tin Lành cũng vậy. (Mục Sư ĐML có mặt
với tư cách là một thành viên của ban VĐ).

Mười một giờ các em thuộc cộng đoàn Hưng Đạo mới tới thay vì 9 giờ 30 với lý do là
không có xe chở.
Tuy có nhiều sóng gió trong Đại Hội như báo chí đã tường thuật, nhưng kết quả được
kể như là thành công, phần đông những thành viên được bầu là những vị mà ban Vận
Động hằng mong mỏi.
Đại Hội đã kết thúc tốt đẹp vào lúc 15 giờ 30 cùng ngày, sớm hơn 1/2 giờ dự định.
Công việc làm chót của ban VĐ là sáng ngày 14 tháng 12 năm 1993 tôi thảo một thơ
do Thị Trưởng Sydney Bathelemy ký gởi lời chào mừng ban Đại Diện Cộng Đồng
Việt Nam và thông báo cho bác sĩ Trương Ngọc Tích, Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam
tại Hoa Kỳ. Bác sĩ Tích có gởi lời chào mừng.

Ban VĐ toàn là những chuyên viên bán thời gian, nên không tránh khỏi những sơ hở
thiếu sót. Chúng tôi tin rằng nếu có nhiều thì giơ,ụ công việc tổ chức sẽ chu đáo hơn.
Từ đó chúng tôi rút ra được những bài học sau:
1/- Trong thơ mời dự Đại Hội, thiếu phần “nếu không đi được, xin trả lời thơ hoặc
điện thoại số...”. Số đại biểu quyết định sự thành công của Đại Hội, nên mặc dầu có
thơ mời, tôi không quên gọi điện thoại nhắc nhở và đích thân đến gặp gỡ hoặc tham
dự những buổi sinh hoạt của các hội đoàn. Rút cục vẫn thấy vắng bóng một số đoàn
thể như đã trình bày trên. Đó là lỗi tại ban VĐ, thiếu thì giờ “tâm sự” để giải đáp
những khúc mắc, những lợn cợn mà những vị đại biểu vì tế nhị, không muốn nói ra.
Trong 24 số báo, chúng tôi đã phơi cả ruột gan, không che dấu điều gì, chỉ vì ý thức
trách nhiệm mà hành động, nhưng quý vị đã không có thì giờ đọc báo, hoặc là báo
phát hành không đủ để tới tay quý vị.
2/- “Phật Giáo bị chèn ép”: Quả là bất ngờ đối với tôi khi thấy Đại Đức cũng như ông
Hội Trưởng TTN phát biểu trong ngày Đại Hội. Tôi tưởng tất cả khúc mắc đều được
hai bên thỏa thuận tại nhà hàng Tự Do.
3/- “Nhiều Hội đoàn không nhận được giấy mời như Hội Ngư Nghiệp, Hội Sinh
Viên”, ban Vận Động đã moi tim moi óc để kiếm tên và tìm địa chỉ của Hội đoàn
đang hoạt động tại N.O. và vùng phụ cận. Tuy nhiên không thể có hết, cho nên trong
thông cáo đăng trên báo, đã nói rõ “những Hội đoàn nào chưa nhận được giấy mời,
xin cho chúng tôi biết tên và địa chỉ để gởi giấy mời”. Chúng tôi xin nhận lãnh mọi
trách cứ nhưng xin quý vị hiểu cho rằng thì giờ của chúng tôi rất eo hẹp, vì mỗi tuần
phải làm việc 45 giờ tại công sở.
4/- “Tôn giáo không tham gia chính trị”: Đó là lý do vắng bóng một số Hội đoàn tôn
giáo. Quan niệm cần phải hiểu một cách rộng rãi “không tham gia chính trị có nghĩa là
không tham gia một đảng phái hay một tổ chức chính trị, còn việc xây dựng cộng
đồng, là nhiệm vụ của mọi người trong đó có các đoàn thể tôn giáo”.
5/-“ Liên danh hay không liên danh”: Ngay từ những ngày tháng đầu ban Vận Động
đề nghị lập 2 liên danh để cuộc tranh cử thêm phần hào hứng và nhất là để các Đại
biểu dễ dàng lựa chọn. Nhưng khi tiếp xúc với quý vị có thiện tâm thiện chí, hầu hết
đều trả lời “Nếu Đại hội tín nhiệm, tôi sẽ nhận, chứ không tranh cử với ai”.

6/- “Dân Chủ”: Tán thành cũng nhiều, nhưng chỉ trích cũng không phải ít. Vì dựa trên
bài tường thuật chủ quan hoặc thiếu sót của báo chí, nên một số người đã chỉ trích
“Giờ này mà còn Đại Tá, tội nghiệp cho Đức Ông v.v...” Báo chí có quyền tự do của
báo chí dĩ nhiên ban Vận Động không có quyền áp đặt.

Bùi Đức Hợp
(Trích Nhật ký TLCĐ của tác giả)

Phụ Chương II. H

TINH HOA DÂN TỘC

Mỗi lần hè về, Cộng đồng Việt Nam hải ngoại lại được báo chí Hoa Kỳ khen ngợi các
em học sinh Việt Nam xuất sắc với thành tích Thủ Khoa, Á Khoa, Top Ten, Top
Twelve... ở các Trường Trung Học như Mariam Abramson, Jefferson, Bonabel,
Immaculata, Buras, Sarah T. Reed,... Các em đã làm vinh danh quê Mẹ và là niềm
hãnh diện cho dân tộc.
Những dãi nắng hồng chưa kịp tắt trên hồ Pontehartrain mênh mông thơ mộng và Hội
Trường UNO (Kiefer UNO Lakefront) vĩ đại, những học sinh, phụ huynh học sinh,
quan khách, đang tấp nập bước vào Hội Trường để tham dự lễ Tốt Nghiệp của Trường
Sarah T. Reed. Trên sân khấu danh dự hôm đó (23/5/1993), ngoài phần quan khách và
giáo sư, điểm nổi bật nhất không những Thủ Khoa, Á Khoa là các em học sinh Việt
Nam mà cả Top Twelve là CON DÂN VIỆT. Chúng tôi không ngăn được xúc động
khi nhìn lên hình ảnh của 12 ngồi trên khán đài danh dự toàn là con cháu Bà Trưng,
Bà Triệu. Trai thì thông minh tuấn tú, gái thì anh thư diễm lệ. Nhìn các em như biểu
tượng của một nước Việt Nam kiêu hùng và nhớ lại lời của xướng ngôn viên trẻ tuổi
Hoàng Dung:
- Đến một lúc, dù ở bất cứ nơi đâu, người dân Việt cũng có thể kiêu hãnh ngẩng đầu
cao trả lời: VÂNG, TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM”.

Sự thông minh tiềm ẩn và nét tinh anh mặc khải trên khuôn mặt các em không phải tự
nhiên mà có, mà là kết tinh di truyền của một dân tộc với gần 5000 năm Văn Hiên.
Người viết xin nhấn mạnh, Top Twelve toàn là học sinh Việt nói lên nhiều hơn sự
thông minh của dòng giới Việt, vì không phải có một người “may mắn” thủ khoa mà
là một tập thể trí tuệ. Người bạn tôi ghé vào tai tôi:
“Hôm nay không phải là LỄ MÃN KHÓA mà là LỄ VINH DANH CON RỒNG
CHÁU TIÊN”.
Tôi như sống trong mơ, khi lễ Xướng Danh bắt đầu, ô hay sao Last Name những em
đậu cao toàn là Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Sao tôi không nghe, dù một tên thôi có âm
hưởng Johnson, Jefferson, Smith. Ngỡ ngàng, ngỡ ngàng đến với chủ lẫn khách.
Cái đinh của buổi lễ hôm nay lại là bài diễn văn của em LÊ THI, Thủ Khoa, đọc trước
ban giảng huấn, phụ huynh, quan khách và các bạn đồng khóa. Với mái tóc dài thướt

tha cổ truyền của một cô gái Việt, em Lê Thi duyên dáng, xinh đẹp như công chúa
trong truyện thần thoại tiến lên bục diễn đàn. Hơn 3000 người chăm chú nhìn cô như
một áp lực phi thường. Đèn quay phim, đèn chớp nháy của máy chụp hình thi đua ghi
hình ảnh trang trọng này. Cô gái Việt nhỏ bé đã chế ngự cả một Hội Trường khổng lồ.
Với giọng Anh Văn như dân Mỹ chính tông, trầm hùng khi thánh thót tất cả như thôi
miên người nghe từ đầu đến cuối. Cô đã nói cho TUỔI TRẺ phải chọn một trong hai
con đường:
- Một con đường có nhiều dấu chân người đi trước, nói khác đi con đường vinh thân
phì gia, an phận thủ thường.
- Con đường thứ hai phải tự khai sơn phá thạch, san bằng chướng ngại vật mà đi. Đó
là con đường thử thách, sáng tạo dấu chân hay nói khác đi con đường tuổi trẻ hôm

nay.

Có ai ngờ trong vóc dáng mảnh dẻ, đoan trang của “người con gốc Việt Nam da vàng”
lại chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc chẳng khác nào như bài hịch của nữ tướng đọc
trước ba quân. Tình ca của Phạm Duy lại đến với tôi trong lúc này:
“... Tôi yêu những anh hùng của ngày xa xưa, Lý, Lê, Trần và còn ai nữa, những anh
hùng của một ngày mai...”.
Các em đang ở trước mặt tôi là những “anh hùng của một ngày mai” đấy. May mà có
các em để tôi còn dám mạnh dạn thưa: “Vâng, tôi là người Việt Nam.”.
Lê Thi còn trẻ lắm, ngày 30 tháng 4 năm 1975, Lê Thi mới sinh được 2 ngày, còn đỏ
hỏn trong vòng tay mẹ để rời bỏ Quê Hương tìm đường lánh nạn. Với 18 tuổi đời,
Quê Hương chỉ trong trí tưởng tượng mù khơi, Lê Thi vẫn nhận mình có một Tổ Quốc
Việt Nam. Các bạn trong Top Twelve cũng vậy, phần nhiều sinh ra và lớn lên trên
phần đất này. Ông bạn của tôi cứ lo lắng không biết Thi và 11 em Tân Khoa Top
Twelve có nói được tiếng Việt không? Nhưng khi tiếp xúc với các em mới biết các em
rất giỏi tiếng Việt vì được sống trong Cộng đồng Việt Nam – Khu Phước Tinh Viễn
Tây. Riêng Lê Thi nói tiếng Việt có hơi pha âm điệu Quảng.
Được hỏi về dự định tương lai, Lê Thi cho biết sẽ theo ngành dược khoa và ước mong
một ngày nào đó được trở về phục vụ đồng bào tại quê nhà khi đất nước có tự do. Cha
mẹ Lê Thi là ông bà Lê Trọng Kim và Lê Thi cho biết em được học hành như ngày
nay là nhờ công dưỡng dục của cha mẻ vì cha mẹ đã làm 2, 3 jobs để có tiền cho đàn
con ăn học. Thi là con út trong gia đình, có 2 anh trai, một đã tốt nghiệp Đại Học, và
một đang theo ngành Điện tại UNO.
Chúng tôi thường tâm sự với các bạn trẻ: “Ngày xưa, con ông cháu cha mới được xuất
dương du học, ngày nay hàng hàng lớp lớp là du học sinh, còn gì may mắn cho bằng.
Hơn nữa các em còn có cả gia đình bên cạnh chăm lo cho các em, nên các em hãy cố
gắng mà học. Tuổi trẻ là niềm tự hào của đất nước. Các em là những tinh hoa của dân
tộc. Vận mệnh của Tổ quốc nằm trong tay các em, xin các em ý thức điều đó. “Sau
cùng xin ân cần tặng những bông hồng tươi thắm nhất đến cho Lê Thi, 11 em Top
Twelve và các em Thủ Khoa, Á Khoa trong vùng.

Thanh Trúc
(Trích BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương II. K

TÔI VẼ VOI

Hồi còn học tiểu học, ông thầy cho học sinh lựa chọn một trong hai đề tài: vè nhà
hoặc vẽ voi. Tôi xin được vẽ voi đi trong sa mạc, chỉ cần vẽ một con vật có 5 chân,
cái vòi đi trước, 2 chân trước đi trước, 2 chân sau đi sau, cái đuôi đi sau rốt. Thế là
xong, khỏi cần vẽ phong cảnh. Còn vẽ nhà, phải đủ lệ bộ nào là vườn rau ao cá, chum
nước với con mèo trèo cây cau v.v...
Lớn lên, tôi không có dịp vẽ voi, mà buộc phải vẽ nhà, nếu không thất nghiệp dài dài.
Nhà đầu tiên mà tôi tính là kho hàng của nhà máy điện nguyên tử Bedford tại
Louisiana. Quy trình xây cất nhà cửa của Tiểu Bang không đòi hỏi phải tính động đất
nhưng điều kiện sách riêng buộc phải thử động đất, có lẽ vì là lò nguyên tử. Sở dĩ tôi
được job này, là nhờ có con dấu của Tiểu Bang California, kỹ sư từ California sang,
chắc hẳn là siêu về động đất! Khi vào làm cho hãng EPG, tôi được giao hầm bà lằng
đủ thứ việc từ sửa chữa nhà cửa đến những công trình xây cất mới, nhà lầu nhà trệt đủ
loại, nhà để xe (parking garage) mãi tận Florida.
Bạn bè thường chê tôi sinh ra đời với những con số, thực ra con người tôi rất tình
cảm, nước mắt chảy dòng dòng khi coi những chuyện thương tâm trên sách, báo, tivi,
phim ảnh.
Tính toán chừng đó vẫn chưa thỏa mãn óc tò mò của tôi. Tôi mong ước được dự phần
vào những công trình “vĩ đại” hơn. Dịp may hiếm có, hãng NY nhờ tôi và một ông
bạn nữa tính phần móng của một cao ốc 25 tầng, rộng 87, 360 sqft, chúng tôi đã phải
sử dụng 320 cừ tiền áp dài 170' (core mat footing). Hiện nay cao ốc này được dùng
làm khách sạn Sheraton.
Theo tiêu chuẩn “Mỹ” kỹ sư cố vấn thường được trả 8% trên trị giá xây cất (kỹ sư
công chánh được 4%, còn 2% trả công cho họa viên Acad, 1% cho kỹ sư điện và 1%
cho kỹ sư cơ khí). Nghe nói người Việt mình trả dưới tiêu chuẩn nhiều lắm, tôi rất e
ngại khi nhận lãnh công tác đồng hương.
Rồi một ngày đẹp trời, một đồng hương quen biết, tướng ta cao rao mất mẻ, ưa giao
thiệp với Mỹ, nhờ tôi lập họa đồ xây cất một thương xá cỡ bỏ túi. Ông còn căn dặn:
“Chỗ thân tình, tiền bạc sòng phẳng, đúng tiêu chuẩn”. Khi có giấy phép cầm tay, ông
đưa tay một bao giờ dày cộm gọi là ơn đền nghĩa trả. Sau khi trừ mọi chi phí, tôi chỉ
còn được lãnh lương tối thiểu do Bộ Lao Động quy định, tôi tự trách mình sao không
hỏi rõ tiêu chuẩn nào? Mỹ hay Giao Chỉ?
Từ đó, tôi không còn tha thiết vẽ cho đồng bào nữa. Tôi là nhân viên của Department
of public works, chứ đâu có phải Safety and Permit Department mỗi khi vi phạm luật
lệ xây cất, đồng hương gọi tôi tới tấp, tôi sẵn sàng chỉ dẫn những thủ tục, còn nhờ vẽ
họa đồ, tôi giới thiệu tới kỹ sư tư vụ người Việt, không thiếu gì tại New Orleans. Mỗi

lần giới thiệu như vậy, điện thoại tôi bị cúp cái rụp! Sau những vụ “cúp cái rụp”, tôi
chỉ vẽ “chùa” trường học, hội trường, nhà thờ cho những cơ sở tôn giáo. Vì vẽ “chùa”,
tôi không còn bận tâm đến số tiền thù lao nhiều hay ít, theo tiêu chuẩn nào nữa. Đồng
hương đâu có hiểu rằng trách nhiệm của người kỹ sư quá nặng nề, dù là một căn nhà ở
2 hoặc 3 phòng cũng đòi hỏi hồ sơ tính toán dày cộm. Nếu có chuyện gì xảy ra, việc
đầu tiên mà quan tòa hỏi là cho xem hồ sơ tính toán kỹ thuật. Nếu không có, vô tù là
cái chắc.
Đồ án (có lẽ là sau cùng) mà tôi ráng hoàn tất là Thánh thất Cao Đài tại Louisiana.
Diện tích xây cất khoảng 5.000 sqft nhưng kiến trúc rất cầu kỳ, phức tạp giống như
Tòa Thánh Tây Ninh thu gọn.
Với hàng nghìn giờ bỏ ra trong ngày cuối tuần và những ngày nghỉ phép năm, tôi hy
vọng ông Thánh Phê rô - người gác cổng thiên đàng - thương tình cho tôi một túp lều
nhỏ tại nước Trời.
Khi về hưu, tôi sẽ không vẽ nhà nữa mà chỉ mong được vẽ voi, giống như thời thơ ấu.
Càng tuổi già, tôi càng yêu con voi với cái vòi đi trước. Vôi là biểu tượng lòng chung
thủy, truyền thống gia đình và những giá trị đạo đức tinh thần.
Mong lắm thay!

Bùi Đức Hợp
(Trích trong LTCC)

Phụ Chương II. L

GIẤC MƠ HỌ ĐẠO ĐỨC MẸ LA VANG
New Orleans đang thành sự thật

Đã lâu lắm rồi, họ Đức Mẹ La Vang New Orleans bằng ước mơ có một Linh Đài xứng
đáng để tôn vinh Chúa và tri ơn Đức Mẹ Maria. Vì nơi đây Đức Mẹ đã ban nhiều ơn
lạ cho rất nhiều người thành tâm thiện chí đến cầu khấn, xin ơn. Đức Mẹ cũng đã ban
đặc ân cho Họ Đạo nhỏ bé này suốt thời gian qua và đang tiếp tục. Để kỷ niệm đặc
biệt 200 năm Đức Mẹ đã hiện ra ở rừng La Vang Việt Nam, để cứu giúp các giáo hữu
chạy trốn trong rừng sâu nước độc, hầu tránh cuộc lùng bắt và sát hại người Công
Giáo của các bậc vua chúa, Văn Thân lúc bấy giờ.
Mô tả Linh đài:
Linh đài hình trụ tròn, đường kính 40 feet, cao 8 feet, tất cả được đổ bằng ciment cốt
sắt. Linh đài chia làm 3 tầng, 3 lớp cao thấp khác nhau nhưng chung một khối chân
móng hình tròn.
Hai tầng lớp bên ngoài thấp hơn là 2 hồ nước, chảy chung quanh trụ tròn. Có 12 hệ
thống giếng phun nước tượng trưng 12 nhân đức của Mẹ Maria và được một hệ thống
đèn màu đặt dưới lòng nước chiếu lên. Nếu là ban đêm, Linh đài sẽ hiện lên như một
hội hoa đăng. Giữa hồ nước muôn màu ấy, nổi lên một lễ đài hình tròn có đường kính
30 feet. bàn thánh đặt ngay giữa lễ đài này có thể chứa được 50 Linh Mục đồng tế. Từ

phía xa nhìn Linh đài như một chén thánh khổng lồ đặt trên chiếc đĩa thánh. Kiến trúc
sư Anthony Phạm tác giả Linh Đài, đã kiến tạo những đặc trưng Việt Nam với những
mái công trông thật ngoạn mục và đầy tình tự dân tộc.... Cấu trúc này được bổ túc
thêm do các kỹ sự chuyên nghiệp tại New Orleans như kỹ sư Bùi Đức Hợp, một kỹ sư
sáng giá của thành phố New Orleans. Kỹ sư Nguyễn Việt Sơn Tùng, kỹ sư trẻ tuổi tài
cao và nhiều thiện chí. Kỹ sư kỳ cựu Lê Phong, ông đã từng xây cất cầu cống đường
sá thời đệ nhất Cộng Hòa. Sang Mỹ, ông làm việc cho City Hall. Cả ba đều tình
nguyện giúp họ đạo, nhất là Kỹ sư Bùi Đức Hợp, ngày đêm đều lo lắng và giúp cho
thủ tục giấy phép, gọi thầu, khảo giá và trông nom công tác xây cất cho kịp thời gian
đại hội.

Công Trình Xây Cất:
Sau hơn một năm khảo giá với 12 nhà thầu lớn nhỏ. Phút chót nhà thầu Boh Bros
Construction đã cho giá vừa túi tiền của họ đạo. Đây cũng là điều làm ngạc nhiên
nhiều người vì từ trước tới nay, hãng Boh Bros là một hãng thầu lớn nhất Louisiana
và là top của Hoa Kỳ, chưa bao giờ ký hợp đồng với giá dưới một triệu đồng. Ngày
nay họ nhận làm Linh đài với giá tiền quá khiêm tốn. Xin cảm tạ hồng ân Thiên Chúa
và sự cầu bầu của Đức Mẹ. Ở đây chúng tôi cũng xin cám ơn Kỹ sư Bùi Đức Hợp một
lần nữa, nhờ ảnh hưởũng của ông mà nhà thầu Boh Bros với phương tiện xây cất tối
tân, hiện đại, với chuyên viên lỗi lạc mới xây cất kịp thời cho Đại Hội 1998, vì thời
gian dự trù là 2 tháng mà nhà thầu làm xong chỉ trong vòng 1 tháng. ngày 18/2/1998
đã đóng cọc thử để thử nghiệm sức chịu đựng của đất. Bất ngờ, tổng giáo phận ra lệnh
cho ngưng công tác vì nghĩ rằng công tác quá lớn lao, họ đạo không đủ khả năng hoàn
thành. May mắn thay, Kỹ sư Bùi Đức Hợp đã trình bày với giáo phận là nhà thầu chỉ
làm phần dưới, còn phần trên họ đạo sẽ thực hiện sau khi tài chánh cho phép.
Cũng để đốt ngắn thời gian cho kịp Đại Hội, nhà thầu đã tăng cường nhân công từ 7
lên 12 người và tăng giờ làm việc từ 8 giờ lên 10 giờ mỗi ngày và làm luôn cả Thứ
Bảy và Chủ Nhật (Đây là sự hy sinh lớn cho nhà thầu vì nhà thầu ít khi cho nhân viên

làm overtime).

Ngày 20/2/98 nhà thầu Boh Bros đã sử dụng máy móc tối tân và máy đóng cọc hạng
nặng để khoan và đóng 40 cột gỗ (mỗi cốt dài 45 feet và đường kính 12 inches) và 40
cột ciment, cốt sắt, bọc sắt dài 10 feet, rộng 12 inches, đóng chụp lên các cột gỗ. Như
vậy mỗi cọc sâu 55 feet.
Móng được đào sâu 3 feet, rộng 3 feet theo 3 vòng nhỏ của các cột gỗ đã đóng, móc
lại với nhau bằng 8 đường vắt chéo nhau. Các đường nay đều được rải sắt tròn. Phần
này rất quan trọng, nên mỗi khi đổ ciment đều có sự chứng kiến của Kỹ sư Bùi Đức
Hợp và Kỹ sư Lê Phong và thêm một kỹ sư của City Hall gửi đến để xem xét và phân
tích ciment nhà thầu có đúng tiêu chuẩn hay không. Trong lúc thực hiện công tác,
cũng như chuẩn bị Đại Hội, thỉnh thoảng cũng có bất đồng ý kiến giữa quý vị lãnh đạo
với họ đạo, tưởng chừng không giải quyết nổi, nhưng cuối cùng cũng được dàn xếp ổn

thỏa. Đây cũng là dấu hiệu có bàn tay của Đức Mẹ phụ trợ cho công trình tuyệt mỹ và
to tát này.

TRẦN QUÍ PHÚ
Giám Sát Viên Công Trường
(Trích trong BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương II. M

VỢC-SAI, MỘT QUÊ VIỆT TRÊN ĐẤT MỸ

Người Mỹ biết New Orleans qua French quarter, dòng sông Mississippi thơ mộng,
superdome, nhạc Jazz và các món seafood. Người Việt chúng ta thích thú New
Orleans không phải vì nó là thành phố du lịch nổi tiếng của Hoa Kỳ mà là Vợc-Sai,
một làng quê Việt nhỏ bé với dân số 5000, nằm về phía Đông thành phố New Orleans,
mang nhiều nét độc đáo Việt Nam, có một không hai trên đất Mỹ.
Nét độc đáo thứ nhất là chợ chồm hổm. Từ phương xa tới, nếu bạn chưa “tham quan”
chợ, kể như chưa biết nhiều về New Orleans. Chợ họp mỗi tuần một lần vào sáng sớm
thứ bảy, giống như chợ phiên tại miền Bắc hay bất cứ một chợ trời tại quê nhà, giống
từ y phục, ngôn ngữ đến các hàng quán. Các cụ già đều chít khăn mỏ quạ, mặc yếm,
răng đen nhai trầu bỏm bẻm, bên cạnh các cô gái mặc áo bà ba, má lủng đồng tiên,
người mua kẻ bán sát cánh chen vai. Loanh quanh một hồi, bạn có thể nhận diện ra
đồng hương ngay, giọng nói xứ Quảng đã quyện lẫn với thổ âm Hố Nai, Cái Sắn.
Hương vị ba miền như hội ngộ nơi đây: bánh khúc, bánh trôi, bánh chay, bánh cuốn
Thanh Trì, chả vò, giò chả cho đến mỡ hành, húng, tía tô, rau giấp cá, ngò gai, v.v...
Ngay tại quê nhà, bạn cũng khó có thể kiếm đầy đủ các gia vị quốc hồn quốc túy như
tại đây.
Một anh bạn từ Indiana xuống, quá cảm xúc, không ngăn nổi nước mắt vì đây là lần
đầu tiên anh mới nhìn thấy hình ảnh quê hương thật sống động sau mười năm xa cách.
Anh có cảm tưởng như trở về quê hương yêu dấu bên kia bờ Thái Bình Dương, với
những kỷ niệm thuở học trò thò lò mũi xanh, mặc quần thủng đít.
Cái đặc điểm thứ hai là vườn rau Đà Lạt. Với sự cần cù của người nông dân Việt,
mảnh đất hoang vu nằm giữa con đê và rạch, đã trở thành những giàn bầu bí nặng trái,
những bè rau muống với đàn vịt tung tăng bơi lội, những luống cải xanh tốt và đây
chính là nguồn cung cấp chất tươi cho chợ chồm hổm. Hình ảnh bác nông dân vác
cuốc trồng khoai, cô thôn nữ múc ánh trăng vàng đổ đi không còn là ký ức mà là hiện
thực, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong sinh hoạt Cộng Đồng nhỏ bé thân yêu
này. Anh bạn tôi lại có dịp bấm máy hình lia lịa. Những tấm ảnh này không khác chi
cảnh một thôn xóm cao nguyên chụp trước năm 1975 vậy.
Đặc điểm thứ ba là nếp sống Việt. Đi lang thang ngoài đường, bạn sẽ gặp những trẻ
em nói rất sành sỏi tiếng Việt, chơi bị, đánh đáo, đánh cù sau giờ tan học, hoặc các cụ
già đi lễ trong bộ đồ quốc phục, những bác nông dân với áo nâu sồng. Những đường

phố tên Việt Nam sẽ đập vào mắt bạn như Sàigòn, Tự Do, Việt Mỹ v.v... Người tỵ nạn
đã Việt hóa cả thôn xóm nhỏ bé truyền tay từ Mỹ trắng sang Mỹ đen rồi Mỹ vàng, mà
còn có tham vọng Việt hóa cản thành phố như sở Park and Parkway được gọi là “Sở
Cỏ”, Cầu Mississippi được gọi là “Cầu Con Cò” (vì trên cầu có treo hình con bồ nông,
biểu tượng của Tiểu Bang). Kẻ viết bài này đã may mắn được ngồi ăn chung với một
vài gia đình địa phương. Ông bà, cha mẹ, con cái ngồi quay quần chung quanh một
mâm cơm với cà pháo chắm mắm tôm, canh cua mùng tới. Bên trên là bàn thờ Thiên
Chúa và bàn thờ tổ tiên với khói hương phảng phất. Trong bối cảnh như vậy, bạn sẽ
không còn hỏi tại sao nơi đây đã cung cấp nhiều dâu hiền cho gia đình công chánh.
***
Nhớ quê hương, mời bạn ghé thăm Vẹc-Sai một hình ảnh quê hương độc đáo, giống
thuở ông cha ta xây dựng cõi bờ, không phải một thứ Việt Nam melting pot, cũng
không phải Việt Nam ngày nay với những ung nhọt của xã hội mới. Cá nhân có thể
hội nhập nhưng một Cộng Đồng với trên 4000 năm văn hiến sẽ không bao giờ hội
nhập.

Bùi Đức Hợp
(Trích trong LTCC)

Phụ Chương II. N

CẦU CON CÒ TẠI THÀNH PHỐ NGỌC LÂN
HAY
NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC

Người Việt tại Louisiana không ai là không biết cầu Con Cò (viết tắt là CCC) bắc qua
sông Mississippi, nối liền hai bờ đông tây của thành phố Ngọc Lân (New Orleans). Sở
dĩ đồng hương gọi nó là cầu Con Cò vì trên cầu có treo hình bồ nông, biểu tượng của
Tiểu Bang. Ngày nay, cầu mang tên mới Crescent City Connection (cũng viết tắt
CCC) vì dòng sông uốn khúc theo hình trăng lưỡi liềm khi qua thành phố.
Mỗi lần tàu Natchez rú còi giục giã du khách tới giờ khởi hành khiến tôi liên tưởng
tới phà Mỹ Thuận với sông Tiền nước chảy cuồn cuộn. Mỗi dịp đi công tác qua phà,
tôi không quên ghé vào quán nhậu mua ít xâu chim sẻ nướng. Trong ký ức tôi, phà
Mỹ Thuận rộng hơn CCC nhiều.
Đến Ngọc Lân năm 1983, vào lúc thành phố đang xây dựng CCC thứ hai, tôi ghi chép
từng chi tiết, những khó khăn cũng như thuận lợi, với hy vọng một ngày nào đó sẽ
làm một cầu tương tự chan chứa tình thương tại quê nhà.
Để phù hợp với chủ trương và đường lối (không ghi thành văn) của LT AHCC, chúng
tôi chỉ ghi lại đây vài nét chính trong quá trình xây dựng CCC.
1. Lưu thông: Trước đây, thành phố chỉ có một cầu gồm 2 làn xe cho mỗi chiều (lưu
lượng 60.000 xe ngày). Vào giờ tan sở, nạn kẹt xe kinh khủng, cảnh sát có mặt tại các
lối lên cầu, qua máy truyền tin họ cho xe từng lối lên một. Thời gian trung bình qua

cầu là 45 phút. Đó là lý do, Tiểu Bang cần xây gấp rút một cầu thứ hai song song với
cầu cũ. Cầu mới gồm 6 làn xe trong đó có 2 làn xe dành cho xe buýt và H0V chạy vô
thành phố. Cầu cũ chỉ dành cho xe ra khỏi thành phố. Từ ngày mở đầu, nạn kẹt xe
không còn nữa, dân West Bank thơ thới hân hoan ra mặt, mặc dù phải trả lệ phí qua
cầu.
Không kể phần đường vô cầu giăng mắc chằng chịt, cầu mới gồm 3 nhịp dài 905m
với nhịp giữa rộng 472m (xem Hình). Trong khi đó, cầu cáp Mỹ Thuận dài 650m với
nhịp giữa 350m.
Cầu mới đã được thiết kế trong 4 năm (1979-1981), thiết kế đến đâu thi công đến đó,
và hoàn tất trong 4 năm (1980-1984).
2. Trụ cầu: Bốn trụ cầu đều khởi công một lượt trong đó trụ số II là khó khăn hơn cả
vì ở sâu.
Hằng năm, nước sông Mississippi chảy xiết từ tháng 2 đến tháng 7, gây chậm trễ cho
công tác đúc trụ. Để móng trụ dựa trên một địa tầng vững chắc ở sâu khoảng 33m
dưới đáy sông, nhà thầu đã sử dụng ket xon nổi nhiều khoang (open dredge concrete
caisson), có kích thước 30m x 650m rộng như sân football, cao 12m, trang bị cạnh cắt
phía đáy (steel cutting edge). Ket xon nổi trên mặt nước và đưa tới vị trí trụ cầu bằng
tàu kéo. Thành ket xon được đúc cao dần bằng bêtông đổ tại chỗ cho tới khi đụng
lòng sông. Lúc đó, các gầu vét bùn bắt đầu hoạt động. Công tác đổ bêtông và vét bùn
thay phiên nhau tiếp diễn cho đến khi đáy ket xon đạt độ sâu 33m dưới lòng sông. Để
tránh sự xói lở, một thảm kết bằng cây Liễu, rộng gấp 3 lần sân football được trải sẵn
trên lòng sông trước khi kéo ket xon đến vị trí.
Viết đến đây, chúng tôi lại tưởng nhớ tới thầy Lục Văn Sáu giảng dậy môn Traveaux
maritimes. Thầy giảng lưu loát về ket xon khí, không bao giờ nhìn sách, dù chỉ một

thoáng.

3. Cầu sắt: 28.000 T sắt đã được sử dụng để chế tạo các bộ phận cầu. Những cần cẩu
đặt trên sà lan có tầm cao 150m được dùng để ráp nối các thanh sắt. Cầu thuộc loại
cầu hẩng (cantiliver) với nhịp treo 225m, dài nhất nước Mỹ. Nhịp này được treo bởi
giá treo, có thể đu đưa như quả lắc đồng hồ. Về mặt an toàn, nhà thầu đã chăng lưới
dưới sàn cầu bao la như địa võng tại rừng nhãn Bạc Liêu. Lại một lần nữa, CCC đã
ghi thêm một kỷ lục cho thành phố Ngọc Lân.
Nhớ lại những năm xưa, mỗi lần AH và gia đình tới thăm thành phố, tôi đảm nhiệm
vai trò hướng dẫn viên du lịch. Chương trình gồm có thăm viếng những kỳ quan như
cầu Pontchartrain dài nhất thế giới (24 mile), cầu xe lửa Huey B. Long cao nhất,
Convention Center và superdome rộng nhất, những sinh hoạt độc đáo như chợ chồm
hổm người Việt, French Quarter v.v... và những tua thì nhiều không thể siết như

Swamp tour, Wildlife tour, River tour.

Một số đông AH thích đi Mississippi tua trên con tàu Natchez với gầu guồng phun
nước. Kể cũng thú vị, vừa được thăm sông nước miền Nam vừa thưởng thức nhạc
Jazz dạt dào với những món seafood đậm đà mùi vị.
Các anh có phần thích thú hơn, khi đứng trên boong tàu, quan sát 2 đoàn voi sắt

khổng lồ vắt qua sông với những chốt treo to như bánh xe ô tô. Còn các chị phát biểu
“Đi một lần là đủ, cái gì mà cứ hết chui qua cầu rồi lại vượt qua cống!”. Với nhiệm vụ
hướng dẫn viên, kẻ viết bài này không những chui qua cầu một lần, mà nhiều lần
trong đời, lấy niềm vui của AH làm hạnh phúc của mình vậy.

Bùi Đức Hợp
(Trích trong LTCC)

Phụ Chương II. O

MẸ ÂU CƠ ƠI!
CHÚNG CON VẪN CÒN ĐÂY!

Người Việt chúng ta tin vào truyền thuyết nguồn gốc dân tộc là con Rồng cháu Tiên
qua sự tích Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc có trăm trưng, nở ra trăm
người con. Sau 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên núi, tạo ra dòng
giống Bách Việt. Người con trưởng của Lạc Long Quân sang là vua nước Văn Lang,
xưng là Hùng Vương, khởi đầu cho nước Việt Nam ngày nay. Triều đại Vua Hùng
kéo dài hơn 2000 năm (2879-257 TTL) là một thời đại thanh bình, toàn dân được
hưởng một nếp sống đầy an vui hoan lạc. Được như vậy là nhờ tổ tiên ta đã dày công
xây dựng một nền triết lý, đạo lý vô cùng tinh vi khoa học, vượt hơn cả những triết
học Đông Tây kim, cổ. Tầm thức dân tộc ta đã thăng hoa lên tầng đạo giáo. Vì vậy
chúng tôi dùng danh từ Quốc đạo để chỉ nền đạo giáo cổ truyền.
Căn cứ vào những cổ vật tìm thấy, những truyền thuyết, chúng ta thấy được rằng
Quốc đạo đã dựa trên những nguyên lý căn bản sau đây:
1/- Thái hòa: Thái hòa đã được thể hiện rõ rết nhất qua những biểu vật trạm trên trống
đồng Đông Sơn, xuất hiện khoảng năm 1000 TTL. Nhờ Thái Hòa mà xã hội ta không
phân chia giai cấp như ở Ân Độ), không có chế độ nô lệ (như ở Trung Đông). Tất cả
đều nằm trong bọc mẹ (đồng bào) nam nữ đều bình đẳng,người nữ không mặc cảm
phụ thuộc vào người nam như truyền thuyết của một vài dân tộc khác. Đó là lý do
Việt Nam đã sản xuất bao nhiêu anh thư như Bà Trưng, Bà Triệu ngay từ đầu thế kỷ I
T.L.
Khó có thể tìm thấy Thái Hòa trong bất cứ văn minh nào như Ấn Độ duy tâm phi khoa
học, còn Cộng Sản duy vật vô thần.
2/- Thờ Trời: Là một trong ba quyền lực “Trời-Người-Đất”, con người đã nối kết
được Tiểu ngã với Đại ngã mà Đại Ngã là vô biên, chính cái vô biên đem lại vị trí cao
cả cho con người hay nói khác đi con người đã tìm thấy cái linh thiêng cao cả ngay
trong tâm mình: càng tu thân, con người càng gần với Trời, Đất. Lạy Trời, kêu Trời là
những câu nói phổ thông trong dân gian.
3/- Kính người: Quốc đạo thờ trời ra sao thì cũng kính người như vậy. Tất cả những
người trong nước đều gọi nhau bằng đồng bào. Dân ta không hề hiếu sát ngay cả với
quân thù. Ngoài việc tôn thờ đấng tạo hóa, dân ta còn tôn kính những người có công

xây dựng và giữ nước (tổ tiên) và những người có công sinh thành dưỡng dục (cha
mẹ).
Tóm lại nhờ đuốc thiêng Quốc đạo mà dân ta được hưởng một nếp sống đầy an vui
hoan lạc. Đất nước ta là một giải giang sơn gấm vóc, nhìn mây trời cao thấy đáng mẹ
Tiên, nhìn sóng biển sâu thấy bóng cha Rồng, đâu đầu cũng nặng hồn thiên sông núi.
Sau triều đại Hùng Vương, ông cha ta đã áp dụng Quốc đạo ra sao trong việc mở
mang gìn giữ cõi bờ?
Lý Thường Kiệt khi phạt Tống, đã công bố cùng toàn dân Trung Quốc” chỉ đòi lại đất
tổ không làm khổ lương dân”. Vì vậy nhân dân hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây lập
hương án hai bên đường vái lạy ông, khi ông đem quân qua giải phóng hai tỉnh này.
Lúc bình Chiêm, ông ra lịnh cho quân sĩ “kẻ nào giết một người dân Chiêm Thành, sẽ
bị tội chém đầu”.
Trần Hưng Đạo đã đưa ra quan niệm “Ý dân là ý trời” việc nước phải hỏi ý kiến của
toàn dân (Hội Nghị Diên Hồng) khác hẳn với quân niệm coi vua chúa như cha mẹ của
Khổng Giáo. Sau khi ba lần đập tan đế quốc Mông Cổ, ngài đã rủ bỏ hết quan tước,
trở về Vạn Kiếp sống đời thứ dân. Kể sao cho xiết. Quốc đạo đã hun đúc biết bao bậc
thánh hùng lấy chí nhân mà thay cường bạo, máu anh hùng đã tràn đầy trong huyết
quản từ trẻ thơ đến người già trong nước.
Có thể nói rằng Quốc đạo là đạo chung của mọi tôn giáo, đất nước ta là nơi hội tụ
nhiều tôn giáo khác nhau trên hoàn cầu. Như đạo Phật gốc tại Ấn Độ nhưng không
được toàn dân Ấn biết tới, trong khi đến Việt Nam lại được đa số tôn sùng. Được như
vậy là vì Phật Giáo có nhiều điểm tương đồng với Quốc đạo như Từ Bi Hỷ Xả, Phật
tại tâm... Các nhà lãnh đạo Phật Giáo sớm nhận chân rằng “Quốc đạo mà mất thì Phật
đạo cũng chẳng hưng”. Đạo Sĩ Phù Vân đã từ chối nhà vua muốn dời bỏ ngai vàng đi
tu, đi tu như vậy là lỗi đạo nước. Sau khi dẹp tan giặc Nguyên, nhà vua nhường ngôi
trở về bầu bạn với núi non. Đức Phật Thầy Tây An, người xướng xuất Phật Giáo Tứ
Ân đã đạt ơn gia đình, ơn Tổ Quốc lên trên ơn Phật, ơn Pháp.
Thiên Chúa Giáo tuy mới truyền bá sang nước ta vào thế kỷ 16 nhưng đã phát triển
mạnh. Được như vậy là vì Thiên Chúa Giáo có nhiều điểm tương đồng với Quốc đạo
như thơ Chúa, yêu người, trung với nước, hiếu với cha mẹ, thờ kính tổ tiên đầu là lý
luận căn bản của người Thiên Chúa Giáo. Không cần phải đợi giáo hội La Mã cho
phép thờ cúng tổ tiên (1965) và Đức Thánh Cha Gioan Phao Lồ II tuyên bố Việt Nam
là một dân tộc anh hùng (1988). Chúng tôi tin rằng các nhà lãnh đạo Thiên Chúa Giáo
Việt Nam đã tìm thấy một hướng đi đúng cho giáo hội “Giáo Hội là một phần chi thể,
không thể tách rời với sinh mệnh dân tộc, cũng như cá không thể tách khỏi nước”. Ý
niệm trên đã được thể hiện qua những hình ảnh tu sĩ mặc quần áo nâu sồng hay hay
quốc phục, bàn thờ tổ tiên bên cạnh bàn thờ Thiên Chúa, những mái nhà thờ cong vút,
cả đến quan hôn tang tế đều cử hành theo nghi lễ và tập tục dân tộc.
Quốc đạo đã đem lại tinh thần hòa đồng cho các tôn giáo. Giá trị cao cả của con người
trong trời đất (Quốc đạo) Phật tại Tâm (Phật Giáo) thân xác con người là đền thờ
Chúa Thánh Thần (Thiên Chúa giáo) tuy cách diễn tả khác nhau nhưng bản chất là

một. Lịch sử đã chứng minh tôn giáo sẽ khó có thể tồn tại nếu tự tách rời ra khỏi dòng
sinh mệnh dân tộc.
Bổn phận đối với tôn giáo và Tổ Quốc đều nặng nề như nhau, nhưng trong lúc quốc
gia hữu sự, con dân Bách Việt lưu lạc bốn phương trời, Quốc đạo sẽ là mẫu số chung
để các tôn giáo ngồi lại với nhau mà lo việc cứu nước.
Bùi Đức Hợp

(Trích báo Người Việt#7/89)

Chương 3: Tuổi vàng (1998 - ...)

10. Nhìn về phía trước

Mùa xuân Tân Tỵ 2000 , tôi chính thức dọn nhà về # 3803 Forestwood Dr. San Jose,
nơi cư ngụ của gia đình cháu Lạc . Đây là lần thứ năm, tôi dời chỗ kể từ ngày tới Mỹ,
phát xuất từ Cali rồi trở về Cali . Con số 20 luôn luôn gắn bó với cuộc đời tôi .
Tôi thích khí hậu tương đối điều hòa của San Jose, không nóng quá như mùa hè New
Orleans, không lạnh quá như mùa đông Dallas . Tôi yêu cái tĩnh mịch đầy chất thơ
của nhà Lạc . Vườn trước là cây cảnh đủ loại như tùng, thông, hồng, trúc lựu, có ghế
dài giống như một tiểu công viên thu gọn . Đẹp nhất là ba cây đào lê mận trên vỉa he .
Nhìn cây biết mùa : xuân, hoa đào hồng rực rỡ khoe hương sắc với màu trắng mát dịu
của hoa lê ; hạ, lá xanh tươi tốt ; thu, lá vàng rơi rụng đầy hè ; đông, trơ trụi . Vườn
sau là cây trái như chanh, cam, táo, hồng cứng, hồng mềm ; rau gia vị như mơ, húng,
ngò, ớt, dền ; có non bộ, suối chảy róc rách . Tôi trải hồn theo ý thơ của thiền sư Nhất
Hạnh :
“ Đã về, đang tới, bây giờ ở đây .
Vững chãi như núi xanh .
Thảnh thơi như mây trắng. “ .
Ban ngày, các cháu đi làm, tôi cảm thấy thích thú khi ở nhà một mình giữa thung lũng
hoa vàng .Tôi yêu sự tĩnh mịch . Khi về thăm quê, tôi đã ngồi lặng hàng giờ tại bến
phà Xa Cao, nhìn dòng sông Hồng tuôn chảy . Vẫn cây đa bên quán tranh xưa, chỉ
khác phà chèo tay được thay thế bằng phà máy . Bên Mỹ, tôi hay tìm đến các công
viên, rừng cây, cánh đồng tại những nơi tôi đã dừng chân . Chỉ những nơi chốn tĩnh
mịch này tôi mới tìm thấy sự bình an trong tâm hồn .
Tôi phác họa thời khóa biểu hàng ngày, làm việc xen kẽ với chương trình bảo vệ sức
khỏe . Sáng sớm, tôi tập thể dục trên sàn nhà theo phương pháp “ suối nguồn tươi trẻ “
.
Tôi sáng chế ra kiểu đi bộ mới, lấy tên “ đi bộ toàn thân “, vận động đầu mình tứ chi
trong khi đi . Mỗi ngày, tôi đi bộ 3 lần :
- Sáng, ăn lót dạ xong, tôi đi bộ quanh phố theo phương hướng khác nhau cho đến
khi mặt trời mấp mé đỉnh đồi ; mỗi lần thay đổi lộ trình, tôi khám phá ra những điều
mới lạ, từ hàng tùng cao vút ở giữa phố cho đến vườn hồng 5 màu bên kia đường ;

mỗi nhà trong khu Xanh Mãi ( Evergreen district ) là một cảnh sắc riêng biệt.
- Gần trưa, tôi leo theo con đường dốc bên nhà ; bù lại cái mệt, từ đỉnh dồi tôi có thể
nhìn bao quát thung lũng hoa vàng, xa xa là khu Hạ Phố ( downtown ) với những cao
ốc chọc trời .
Chiều, tôi đạp xe đạp tới trường đại học cộng đồng Ever green, khoảng 2 dặm, nơi
đây tôi có thể đi bộ , đọc sách , nhìn liễu rủ bên hồ với đàn ngỗng tung tăng bay lội .
Ngày cuối tuần và những ngày học sinh nghỉ, tôi có thể đi bộ quanh khuôn viên
trường Cadwallader, chỉ cách nhà một con đường . Những hôm trời oi bức, tôi đi bơi
tại câu lạc bộ Cabana, cách nhà không đầy 300 m
Nhờ đi bộ nhiều, không những số lượng mỡ, đường trong máu giảm mà đầu óc tôi trở
lại minh mẫn như trước khi bắt tay vào việc .
Ngoài những sinh hoạt văn hóa, xã hội có tính cách tự nguyện hay bắt buộc, tôi dành
trọn thì giờ cho computer . Nó cho tôi những giờ phút thoải mái như viết sách, điện
thơ thăm hỏi bạn bè, họ hàng, gọi điện thoại, nghe nhạc . Tôi cũng mở webpage riêng
để chia sẻ những tâm tư tình cảm với bạn đọc .

*

Hồi đầu thập niên 70 , tôi chỉ mong sao cho chóng tới 55 tuổi để nợ tang bồng trong
trắng vỗ tay reo và bắt chước Từ Thức :
“ Rằng xưa có gã từ quan,
Lên non tìm động hoa vàng mến yêu .“.

( Phạm Thiên Thư )
Sang Mỹ, mọi sự đều thay đổi, tôi phải tiếp tuc kéo cày tới năm 62 tuổi mới đủ điều
kiện hưu liễm .
QA, bạn tri kỷ, vừa nói vừa liếc mắt :
- Tôi nghĩ bạn về hưu năm 82 tuổi, chứ không phải 62 .
- Tại sao vậy ?
- Theo dõi suốt 40 năm hoạt động của bạn, tôi thấy mỗi ngày bạn làm việc ít nhất 12
giờ . Nếu nhân 3 / 2 , có phải bạn về hưu năm 82 . Đạt kỷ lục rồi, stop đi cho thiên hạ
nhờ !
- Tôi phục bạn sát đất về cách tính toán khá ngộ nghĩnh .
Bạn tôi gởi thiệp chúc mừng hưu trí to như khổ giấy hoc trò, trong đó 6 hoa hướng
dương vàng bao quanh 2 bông sen trắng trên nền hồ xanh lợt, góc hồ là đôi thiên nga
đang đùa dỡn . Tôi cảm ơn mỹ ý của bạn .
Tôi về hưu sớm để có thì giờ làm những việc khác mà tôi hằng mong ước như thiện
nguyện, viết sách, tu trì v . v .
Tôi bước tới trong niềm cậy trông .

11. Hoạt động thiện nguyện
Lể lá năm nay nhằm ngày 28 / 3 / 99 . Công viên Văn Lang tại làng Việt Nam tại
nước Phi bị khuấy động bởi tiếng máy nổ, tiếng dân làng gọi nhau đi xem dựng tượng

Đức Mẹ La Vang . Tại hiện trường, người nào người ấy có vẻ khẩn trương, kẻ tỉa
cành, người tháo dây điện, toán khác cột tượng .
Từ trại cũ, tượng nặng 2 tấn đã đưa về làng ,bỏ phế tại góc vườn . Được sự đồng ý của
ban Đại Diện, chúng tôi dời tượng về một địa điểm cao nhất làng . Mọi việc đã chuẩn
bị xong như : xây tượng đài bằng bê tông cốt thép, mượn cần cẩu của công binh Phi .
Khi công binh bắt đầu nhấc và di chuyển tượng , trời đổ mưa nặng hạt . Nếu mưa tiếp
tục, công tác sẽ đình chỉ, chờ cho đến khi đất cứng, chờ đến khi nào cần cẩu rảnh và
đã chờ 2 năm nay rồi . Moi người cầu nguyện theo cách riêng của tôn giáo mình, bỗng
nhiên trời quang mưa tạnh ! Tượng đã đạt vào vị trí giữa tiếng hoan hô của dân làng .
Mẹ hiền từ thương xót, lung linh giữa chòm cây cổ thu ỉxanh tươi như Mẹ đãỉ hiện ra
giữa rừng già La Vang, Quảng Trị, cách đây 2 thế kỷ .
Bác Lịch, một Phật Tử,tâm sự với tôi : “ Vì tượng chưa có chỗ đứng, nên trải 2 năm
qua, dân làng cứ bị lận đận, hết dọa cưỡng bách hồi hương rồi đến tin đồn định cư tại
Hoa Kỳ . Bà ấy thiêng lắm ! “
Thấm thoát tôi đã sống ở làng 3 tháng . Sơ nói tôi gầy đi nhiều .

*

Mỗi lần nghe Khánh Ly hát bài “ Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng “, tôi bật khóc :
“ Có tin vui giữa giờ tuyệt vọng .
Một vòng tay vừa mới mở ra
Đường xưa đi càng bước càng xa
Có em tôi nuốt từng giọt lệ
Hãy nói cho mọi người cùng nghe
Người đã cứu người :
LÀNG VIỆT NAM ĐANG XÂY BÊN NGOÀI VIỆT NAM. “ .
Câu cuối đã đánh động tâm hồn tôi . Có lẽ đây là dấu chỉ của tiền nhân muốn con
cháu đem văn hóa Bách Việt truyền bá khắp năm châu bốn biển, đem lửa thiêng soi
toàn thế giới?
Tôi nộp đơn xin làm thiện nguyện viên mà không hề quen biết ai trong làng, từ sơ
Pascale Lê Thị Tríu đến ông Đại Diện . Trước khi lên đường, tôi được khích lệ bằng
bài giảng của linh mục Phạm Văn Tuệ tại nhà thờ Họ Thánh Giuse về tuổi già dấn
thân và bài đăng trong bán nguyệt san Ngọc Lân về “ Nhân vật của năm 1998 “ ( X.
phụ chương III. A & III. B ) .
Bay từ Mỹ tôi đi Đài Bắc, rồi Manilla bằng China Airlines ; tới Manilla tôi chuyển
máy bay nội địa đi Puerto Princesa, một thành phố cách làng VN khoảng 13 km .
Tới làng ngaỳ 7 / 1 / 99, tôi được cấp nhà rộng 6m mỗi chiều, mái tre tad tad, vách
liếp, sàn xi măng . Ban đêm, nóng và muỗi, thiếu tiện nghi như : quạt máy, radio, tivi .
Lúc đầu, tôi dao động, mặc dầu tôi đã quen với cảnh màn trời chiếu đất, bữa đói bữa
no trong những ngày mới di cư vào Nam, 35 này vượt biển và 6 tháng ở đảo .
Tôi từ chối số tiền trợ cấp 4000 pesos / 1 tháng của CADP dành cho thiện nguyện

viên vì tôi có thể tự túc . Làm việc 12 giờ mỗi ngày kể cả cuối tuần, tôi làm bất cứ gì
để đồng bào tôi lấy lại nụ cười .
Sau 3 ngày thu thập dữ kiện, tôi đệ trình lên sơ và anh Chủ Tịch làng một biểu đồ
dưới hình thức CPM những công tác mà tôi dự trù thực hiện trong 6 tháng tới như :
- cải tạo hệ thống thoát nước mưa và nước dơ .
- thiết lập công viên Văn Lang .
- xây cất Trung Tâm Văn Hóa .
- chỉnh trang các cơ sở tôn giáo .
- mở 2 lớp xây dựng cơ bản cho công nhân viên và đồng bào .
Vì không muốn làm việc theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa, tôi mang theo 1 vali sách kỹ
thuật để có thể tính toán thiết kế tại chỗ những công trình , ( khi về Mỹ, tôi để lại số
sách này cho thư viện làng ) .
Đa số đồng bào trong làng là Phật Tử, tôi dành nhiều thì giờ và tiền bạc cho chùa hơn
.Tôi giúp chùa thiết kế nhà khách, tổ chức phát triển cộng đồng, quản lý tài chính v . v

.

Ngoài công tác chuyên môn, tôi còn có nhiệm vụ động viên đồng bào qua những buổi
phát thanh như :
- Thơ ngỏ gởi các bạn trẻ tại làng Việt Nam tại Phi, ( X. phụ chương III. C ) .
- Tâm tình hải ngoại, ( X. phụ chương III. D ) .
- Lễ dựng nêu, ( X. phụ chương III. E ) .
Đang coi sơ đồ thánh thất Cao Đài, tôi giật mình vì tiếng kính vỡ . Cảnh tượng diễn ra
khiến tôi hết sức đau lòng . Ban an ninh vực chị Hải lên xe cảnh sát Phi để chở chị vô
nhà thương điên . Hai ngày qua, chị ngồi ăn vạ tại cửa văn phòng, chửi bới mọi người,
nếm đá . Sống cô độc, không bà con thân thích, tài sản dành dụm bị cướp lấy, ngày
đoàn tụ với thân nhân bên Mỹ còn xa vời, chị trở nên mắc bệnh tâm thần .
Khi chị được tha về, tôi đến thăm chị :
- Chị còn nhớ chị đã ném đá vào văn phòng ?
- Đâu có ! họ vu oan cho cháu .
Chị chỉ nhớ chuyện nhân viên an ninh trói chị . Và bao nhiêu cảnh ngộ thương tâm
khác như trường hợp anh Cung, cô Liễu .Ước gì những chuyên gia tâm lý, bác sỹ
thần kinh sang đây giúp làng để làm vơi đi những oan khiên mà đồng bào tôi đang
gánh chịu . Chỉ có tôn giáo mới đầy đủ khả năng cứu vớt con người ; nhưng ở đây,
chùa thiếu sư, nhà thờ vắng cha, hội thánh thiếu mục sư, còn thánh thất thiếu hiền tài

.

Thỉnh thoảng cũng có phái đoàn từ Mỹ sang như phái đoàn nha y sỹ chữa bệnh và nhổ
răng, phái đoàn ca sỹ Thanh Thúy hát cho đồng bào nghe . Họ ở 1, 2 tuần rồi đi . Cảm
phục hơn cả là các thiện nguyện viên hải ngoại như : bác sỹ Mỹ Linh, tốt nghiệp đại
học y khoa Tulane, cô Trang, cử nhân báo chí tại đại học Loyola .Các em đã từ bỏ
mọi tiện nghi vật chất để về đây chung sống với đồng bào . Với tư cách người đi
trước, tôi có nghĩa vụ hướng dẫn các em trong bước đầu .

Niềm ưu tư của tôi khi đạt chân tới làng là làm thế nào làng có thể tự lực cánh sinh
trong vòng 3 năm tới ? Tôi đề ra kế hoạch phát triển làng với hy vọng biến nơi đây
thành một trung tâm du lịch lý tưởng, ( X. phụ chương III. F ) . Trung Tâm Văn Hóa
đang được xây cất là bước đầu của kế hoạch .
Các em trong ban Văn Nghệ, nhân viên văn phòng đều được huấn luyện trở thành
hướng dẫn viên du lịch . Lộ trình tham quan bắt đầu từ đền Hùng, rồi đến công viên
Văn Lang, linh đài Đức Mẹ La Vang, chùa Vạn Pháp, cơ sở tiểu công nghệ, nhà thờ
giáo xứ Nữ Vương Việt Nam, sau cùng là Trung Tâm Văn Hóa . Tại mỗi địa điểm,
các em cần giải thích ngày tháng hoàn thành, lai lịch bằng tiếng Anh, Việt hay
Tagalog . Tất cả đều được ghi chép trong cẩm nang du lịch .
Tại chùa, Phật Giáo là tôn giáo còn xa lạ đối với người bản xứ, các công ty du lịch địa
phương thường đưa du khách tới vãn cảnh chùa, các em nên giải thích sự tích Đức
Phật, ( X. trong cẩm nang ) .
Tại Trung Tâm Văn Hóa, du khách có thể ăn uống tại nhà hàng, mua đồ lưu niệm tại
gift shop ( quầy bán hàng lưu niệm ) , xem trình diễn văn nghệ dân tộc do đoàn văn
công làng ca múa vào cuối tuần hay qua băng video vào ngày làm việc .
Trong thời gian này, tôi soạn thảo tập sách loại bỏ túi, nhan đề : “ Làng Việt Nam,
một trung tâm du lịch lý tưởng “. Sách được phổ biến trên internet và báo chí hải
ngoại .
Tôi say mê làm việc với tất cả nhiệt tình, giống như hồi mới đi làm Trưởng Ty . Sự
tổng hợp các kiến thức sẵn có và những quan sát thực tiễn đã giúp tôi hoàn tất mau lẹ
từ dự án này sang dự án khác .

Dự án mà tôi thích thú hơn cả là mở 2 lớp “ xây dựng cơ bản “ vào buổi tối dành cho
công nhân viên và đồng bào . Để học và hành đi đôi, tôi đề nghị cải tạo hệ thống thoát
nước mưa và nước dơ trị giá 50.000 pesos, trong đó thiện nguyện viên đóng góp 1 / 3,
CADP 1 / 3, làng 1 / 3 dươi hình thức nhân công . Sau khi dự án hoàn tất, mùi hôi thối
tại các hố ga không còn nữa .
Sau mỗi khóa học, lễ phát chứng chỉ được tổ chức tại phòng họp, có sự tham dự của
ban Đại Diện . Tôi cảm động khi nhận quà lưu niệm, những vòng tay khép kín của
học viên .

Một công tác khác không kém phần quan trọng là tổ chức bầu cử Hội Đồng Đại Biểu (
HĐĐB ) . Quan niệm rằng chỉ có ban Đại Diện không thôi, dễ đi đến chỗ độc tài .
Được sự ủy nhiệm của Sơ cũng như ban Đại Diện, tôi soạn thảo nội quy và tổ chức
bàu cử Hội Đồng Đại Biểu .
Tràn ngập niềm vui trong buổi lễ tuyên thệ của HĐĐB ngày 14 / 6 / 99, tôi cảm
nghiệm anh hồn Quốc Tổ như về đây chứng giám lời thề của 5 vị HĐĐB, đại diện 5
khu :
- Đem hết khả năng, thiện chí ra phục vụ dân làng .
- Đạt quyền lợi của làng trên quyền lợi của cá nhân, phe nhóm .

- Lo tròn trách nhiệm và thực thi quyền hạn như đã quy định trong Nội Quy .
Trong phần phát biểu ngắn gọn, tôi mở đầu : “ Trong bất kỳ tổ chức nào, cũng có 2 cơ
cấu : ban Đại diện tạm gọi hành pháp, và HĐĐB tạm gọi lập pháp . Hai cơ cấu này
hoạt động song song và bổ túc cho nhau ngõ hầu phục vụ cộng đồng một cách hữu
hiệu . Có tổ chức chưa đủ, cần có nhân sự tốt . Nhân sự tốt chỉ có thể đạt được qua
quá trình hoạt động và tôi luyện bản thân.” .

Anh em xa không bằng láng giềng gần, tôi bảo trợ phần thưởng cho nhiều học sinh
Phi . Nhờ vậy, tôi làm thân nhiều nhân vật trong chính giới Phi . Trong buổi lễ phát
thưởng long trọng cho các em hoc sinh Phi xuất sắc, hội đồng thành phố Puerta
Princesa đã trao bằng Tưởng Lệ cho tôi với lời khen nồng nhiệt .
Điều mà tôi quan tâm hơn cả là ông Jun Marcelo, một đại điạ chủ có thế lực trong
vùng . Ông có nhiều tài sản chung quanh làng như hầm đá, ao nuôi cá nhưng ông
không có cảm tình với người Việt . Tại những ranh giới đất đai, ông đều cắm bảng “
off Vietnamese “ ( cấm người Việt lai vãng ) .
Một buổi chiều, tôi đến thăm xã giao ông tại công trường ủi rừng . Mỗi bước ông đi
đều có nhân viên hộ vệ theo sát, đạn lên nòng răng rắc . Qua nhiều lần trò chuyện, ông
đã từ bỏ thái độ khinh khi sang hợp tác . Khi nhà thờ cần sỏi đá, ông cho không
; nhiều dự án hợp tác như đào kinh thoát nước phía nam được đôi bên thỏa thuận trên
nguyên tắc .

Sau nhiều ngày trèo đồi lội biển để thám sát đường lên núi Âu Cơ và đường xuống
biển Lạc Long Quân , tôi bị cảm nặng . Vi trùng sốt rét Long Khánh thừa dịp tấn công
. Tôi sốt mê man . Cả làng đều lo sợ, cô Đẹp anh Khang thay phiên nhau cạo gió, chị
Lâm nấu cháo thang thuốc, và nhiều dân làng khác nữa .
Nằm liệt giường hơn 1 tuần, tôi ráng bò dậy vì còn quá nhiều việc phải làm nhất là
Trung Tâm Văn Hóa đang ở vào giai đoạn chót thi công . Giấc mơ và niềm tự hào của
dân làng về công trình này mỗi lúc một hiện rõ .

*

Thời gian 6 tháng tại làng qua mau . Nhà nào cũng mời tôi dùng cơm gia đình . Ban
Đại Diện và các Hội Đoàn thi đua tổ chức những bữa tiệc tiễn đưa, quà lưu niệm
chồng chất . Tất cả chỉ muốn tôi trở lại . Ôm từng người trong vòng tay, mắt tôi mờ đi
“ Sứ mạng đã tròn “ .
Sơ đã nhiều lần phát biểu :
- God đã gởi ông tới đây .
- Một người yêu thương dân làng hết mình như anh, có thể làm cho dân làng đoàn kết
tương trợ nhiều hơn .
- Làng rất cần những người hy sinh xả kỷ như anh .
Trong thơ, mục sư Cris Lubaton viết : “ Thật cảm ơn Thượng Đế, Ngài đã nhận lời
cầu xin của chúng tôi bấy lâu nay nên đã dùng ông góp phần vào công việc làm vinh

danh Chúa tại đây “ .
Muôn lời tri ân vang lên theo tiếng chuông chùa .
Còn dân làng nghẹn ngào qua những thơ ( X. phụ chương III. G & III.H ) :
-Bao giờ chú trở lại ?
-Tôi không dám hứa ! Sớm nhất là năm 2002 .
Quỳ gối hàng giờ trước linh đài, tôi dâng lên Mẹ lời cảm tạ về những Hồng Ân mà Mẹ
ban cho trong suốt thời gian thiện nguyện tại Phi . Đến từng nhà, tôi cảm ơn Sơ, ban
Đại Diện, HĐĐB, và tất cả dân làng đã dành cho tôi những tình cảm thương yêu thắm
thiết nhất .

Đêm nay, tôi lên tầu trở về Mỹ . Đời tôi có 2 cuộc biệt ly khó quên . Lần thứ nhất vào
năm tôi lên 7, thầy me và anh chị tiễn đưa tôi ra tới bến đò Trung Linh, lên tỉnh học .
Tâm trạng tôi lúc bấy giờ thể hiện trong bài “ Kẻ ở người đi “ trong QVGKT .
“ Ôi ! cảnh biệt ly sao mà buồn vậy ! ”
Lần này, dân làng tiễn đưa tôi tới cảng Puerto Princesa, cách làng 13 km . Mọi người
đều bịn rịn, làm tôi khóc theo . Tầu chạy đã xa mà tôi còn nhìn trở lại, nhìn mãi cho
đến khi không thấy cánh tay dơ lên .
Đèn cảng mờ dần ,rồi khuất hẳn .

***

Mùa thu 98, tôi dọn đồ về nhà Cường, cháu gọi tôi bằng ông, tại # 3734 Crestview Dr,
Garland, TX . Cường vượt biên năm 1988, sang Thái bằng đường bộ, rồi qua Phi và
được gia đình tôi bảo trợ sang Mỹ . Cháu giỏi võ, thông minh . Từ hoc sinh trung học
đệ nhất cấp, không đầy 3 năm, cháu tốt nghiệp đại học cộng đồng Delgado về ngành
điện tử . Đây là lần thứ tư tôi dọn nhà ; mỗi lần dọn, đồ đạc vơi dần trong khi sách vở
biến thiên ngược chiều . Tôi dự định ở đây 3 tháng, vừa nghỉ ngơi vừa lo giấy tờ đi
Phi .
Biết tôi có mặt tại Dallas, cha Vân Sơn giáo xứ Thánh Tâm tại Carrollton gọi điện
thoại tới tấp, nhờ tôi cho ý kiến trong việc sửa chũa nhà thờ mới mua lại của nhà thờ
Tin Lành . Tôi nghĩ bụng, cho ý kiến thì được, còn đứng ra làm thì không .
Gặp tôi lần đầu, cha niềm nở : “ Ở đây, có phòng rộng rãi cho ông ở “ . Thấy cha nói
vậy, tôi có ý nghi trong bụng . Cha thuyết trình về chương trình sửa chữa nhà thờ :
- Nới rộng cung thánh .
- Nới rộng phần cuối nhà thờ thêm 6.5m .
- Hoán cải phần cuối nhà thờ thành crying room ( phòng dành cho các bà có con nhỏ )
. Cha còn cho biết giáo dân mong mỏi mọi việc sẽ hoàn tất trước Noel để Đức Giám
Mục địa phận ban phép lành .
Ba tháng, quả là phép lạ ! trong khi đó họa đồ nhà thờ cũ kiếm không ra, kỹ sư thiết
kế không có . Nếu mướn kỹ sư tư vụ ngoài, thời gian thiết kế và xin giấy phép sẽ

không dưới 3 tháng ( chưa kể thời gian thi công ) .
Sau khi quan sát hiện trường, tôi trình cha phương thức sửa chữa ; nhiệm vụ “ cho ý
kiến “ của tôi kể như xong . Tôi cáo từ cha ra về, hôm đó là ngày 1 / 11 / 98 . Cha gọi
lại :
- Chỉ còn 2 tháng nữa, ông kỹ sư tính sao ?
- Xin cha cầu nguyện .
Năm ngoái, PSA củatôi là 4, cách đây 6 tháng lên tới 6.2 . Bác sỹ cho biết : “ Nếu thử
kỳ tới mà lên nữa, chúng tôi phải làm ultrasound ( soi điện ) và nếu có triệu chứng ung
thư nhiếp hộ tuyến, chúng tôi phải mổ. “. Nói đến mổ, tôi sợ hết vía vì chương trình
đi Phi phải hoãn lại . Tôi chỉ nhận lời cộng tác với giáo xứ nếu Đức Mẹ ban cho tôi
một điều : chỉ số PSA xuống dưới 6 trong lần thử ngày mai .
Kết quả thí nghiệm khả quan, tôi yên tâm lo việc nhà thờ .
Ban đêm , tôi miệt mài tính toán, Cường phải nhắc tôi : “ 12giờ khuya rồi ! ông đi ngủ
đi “ . Ban ngày, tôi vừa thiết kế vừa giám sát thi công .Vật liệu mói mua sắm cũng
như phế thải đều được thu vén gọn gàng. Tôi lo ngại nhất thanh tra sở Xây Dựng đến
hỏi giấy phép . Trong trường hợp đó, công tác bị đình chỉ và phải chờ thời gian dài để
xin điều chỉnh giấy phép . May mà việc này không xẩy ra ! Giáo dân hăng say, thầy
thợ nhiệt tình . Vừa tan sở, họ phóng tới nhà thờ, bắt tay ngay vào việc . Thêm vào đó,
thời tiết thuận lợi, không băng giá như mọi năm . Càng gần tới Giáng Sinh, mọi người
càng nỗ lực ; thầy thợ lấy phép thường niên để tham gia .

Chín giờ đêm Noel, tôi và gia đình Cường (Cường, Vân, Tâm, Độ ) có mặt tai Thánh
Đường mới, mới từ nước sơn đến mùi thảm . Ông Chủ Tịch giáo xứ trịnh trọng dẫn
chúng tôi lên hàng ghế đầu . Trên lầu dưới nhà, trong ngoài hành lang đông nghẹt
người . Mặc dầu bên ngoài lạnh dưới 0 độ, ban tổ chức mở quạt trần .
Sau thánh lễ, cha chánh xứ mời tôi đứng lên giữa tiếng hoan hô trong, ngoài thánh
đường :
- Nếu không có ông kỹ sư Hợp, chúngta sẽ không có buổi lễ hôm nay tại thánh đường
mới này .
Cha đã quá lời khen, thực ra, tôi chỉ là người đầy tớ tầm thường, yếu lòng tin cậy .
Khi về hưu tại New Orleans, tôi nghĩ rằng công tác xây dựng thánh thất Cao Đài phải
là công tác chót trong suốt 40 năm làm thiện nguyện . Không ngờ nó trở thành áp chót
. Đến bao giờ mới chót ?

***

Bên ngoài, giá lạnh, 12 độ âm, gió bấc tràn về . Cành cây trơ trụi, tuyết phủ trắng lên
lối đi, sân cỏ, mặt đường đóng băng mỏng . Sum họp với gia đình Cường dưới mái
nhà êm ấm “ Tứ đại dồng đường “, chúng tôi hưởng một mùa Giáng Sinh an bình,
sống động hơn bức tranh trong quyển Anglais vivante mà tôi học hồi còn ở lớp đệ Lục

.

Sau khi ở Phi về, Cường và tôi bay đi Pittsburg dự đám cưới Thúy . Tiệc cưới được tổ
chức trên du thuyền sang trọng . Dời bến Carson St. , tầu chu du trên 3 dòng sông hội
ngộ ( Pittsburg three river ) .
Nơi đây, tôi gặp lại bạn bè của Thúy . Laura bây giờ chững chạc hơn xưa, hiện là bác
sỹ phụ khoa tại Hawaii . Cô lúc nào cũng nhí nhảnh vui đùa, thân mật và tự nhiên
trong lúc chụp hình chung với tôi . Nói đến chụp hình, tôi nhớ lại chị Th. ở Long
Island, mỗi lần chụp hình, chị quàng tay lên vai tôi, còn tôi ngượng ngùng e lệ ; có lẽ
chất nho giáo “ Nam nữ thọ thọ bất thân “ còn tiềm tàng trong con người tôi .
Trỡ về Garland, ngoài giờ viết sách, tôi dạy Đức Độ, 4 tuổi, con của Cường, học và
viết 24 chữ cái vỡ lòng . Giờ ra chơi, hai cụ cháu làm ngựa phi nhong nhong, giống
như hồi “ Trúc và tôi “, 30 năm về trước .
Còn Đức Tín, em của Độ, hay lẻn vào phòng tôi, giật đồ trên bàn xuống đất . Mỗi lần
bất bình, đương sự ưỡn bụng, chúng tôi gọi đùa là thằng chung thân bất mãn . Giờ
đây, Tín không con ưỡn bụng nữa ; đồ của cụ đã chuyển sang San Jose, còn đâu nữa
màgiật !
Dù ở đâu, tôi thấy có bổn phận tham gia nội trợ . Nấu ăn đòi hỏi suy nghĩ, hơn nữa
mỗi người một gu, nên để dành ưu tiên cho chủ nhà . Tôi chỉ xin được quét nhà, đổ
rác, dọn bàn và rửa chén ; công việc vừa giản dị vừa vô tư . Tâm, em Cường, phản đối

:

- Chừng nào cháu có mặt tại nhà, cháu nhất định không để ông nội rửa chén .
Tôi thuyết phục hoài nào là đàn bà con gái rửa chén dễ hư bàn tay đẹp, nào là công
bình xã hội ( cháu nấu ăn, ông rửa chén ), cháu cũng không chịu .
Bị méo mó nghề nghiệp, làm bất cứ việc gì, tôi đều có viễn kiến ( vision ) . Tiên liệu
rằng bố mẹ Cường sẽ về đây sống chung, tôi dự định hoán cải gara đôi thành phòng
ngủ . Tôi vẽ họa đồ và lập hồ sơ xin phép tại thị xã Garland .
Luật lệ xây cất ở Garland khác với New Orleans . Họỉ dùng UBC thay vì SBC, tôi
phải rà lại code UBC và những quy định riêng của thị xã này . Họ bắt bẻ và đòi sửa
theo “ ý họ “ hơn là theo luật lệ . Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc, tôi sửa theo ý
họ để có ngay giấy phép .
Đồ đạc trong nhà xe được dời sang shed ( nhà tạm ) mới thiết lập sau vườn . Tôi mời
chú Tâm từ New Orleans lên tiếp tay, chú là thợ giỏi, am tường cả mộc, nề, điện .
Không đầy 2 tuần, một phòng ngủ mới khang trang đã cơ bản hoàn thành theo ý của
chủ nhân .

Công tác vừa xong, tôi nhận được thơ mời của tòa tổng giám mục New Orleans về dự
lễ trao huy chương Saint Louis, một huy chương danh dự nhất của giáo phận . Tôi
cũng muốn trở lại thăm New Orleans lần nữa, trước khi dời nhà đi xa. Nơi đây, đã để
lại cho tôi không biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, nước mắt chan hòa cũng như nụ
cười mở rộng .
Cuốn phim dĩ vãng quay mau . Tôi dừng chân trước căn nhà đường Cleveland, những

ngày gian khổ có nhau . Đứng lặng hàng giờ trước 12 Morrison, nước mắt trộn lẫnụ
nụ cười ; chữ B D H vẫn còn treo toòng teng trên nóc nhà . Ghé qua cư xá Suối Bóng,
những kỷ niệm êm đềm xa xưa chỉ còn một thời vang bóng .
Sau khi tham quan các xa lộ mới lập như 310, 510, 610, tôi dẽ vào hành lang
Tchoupitoulas . Cảnh tượng lúc nào cũng nhộn nhịp : trên đường xe tải nối đuôi nhau
chạy, dưới sông tầu bè ngược xuôi . Nơi đây ghi dấu cao điểm trong lần trỗi dậy thứ
hai .

Điểm chót mà tôi đến thăm là thánh thất Cao Đài . Công trường đang được xây dựng
. Nghe nói năm tới khánh thành . Giờ đây, tôi chỉ là lữ khách qua đường .
Khu French Quarter lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt, kẹt xe . Đậu xe mãi tít bờ sông,
Đăng và tôi đi tắt qua tường chặn lụt để kịp giờ . Vương cung thánh đường Saint
Louis chật nich nguời, tôi được hướng dẫn vào hàng ghế dành riêng cho những người
nhận lãnh huy chương .
Đức Tổng Giám Mục Schutte choàng huy chương lên cổ và tôi được vinh dự chụp
hình chung với Ngài giữa sự vui mừng và hoan hô của quan khách . Trong đời tôi đã
15 lần tiếp nhận huy chương, nhưng huy chương Saint Louis là phần thưởng cao quý
nhất ; nó đánh dấu 40 năm làm việc thiện nguyện . Hai chữ “ cao quý”ù làm tôi liên
tưởng tới lời của vị Hồng Y trong dịp lễ đăng quang giáo hoàng . Ngài vừa đốt miếng
vải vừa nói :
“ Vinh danh trần thế cũng sẽ tan biến như thế này “
Tôi nên dừng lại nơi đây !

12. Viết sách

Dallas là thành phố có nhiều kỹ nghệ điện tử, có nhiều trường đại hoc nổi tiếng . Sau
khi ở Phi về, tôi ở lán lại Dallas thêm một năm nữa để hoàn tất sách kỹ thuật mà tôi đã
thai nghén từ lâu . Không thể một sớm một chiều mà viết xong . Nó đòi hỏi tích lũy
của nhiều năm kinh nghiệm và được cập nhật hóa bằng những kiến thức, bằng những
phát minh mới . Kiến thức tìm tòi trong các thư viện đại học ; còn phát minh, chỉ cần
ngồi nhà gọi các hãng sản xuất vật liệu, các viện nghiên cứu . Ho ỉsẽ gởi tới tấp tài
liệu, chỉ e rằng mình không đủ thì giờ đọc hết . Kinh nghiệm bản thân là chính, tham
khảo là phụ phải được thể hiện trong bất cứ sách kỹ thuật ( KT ) .
Trước 1975, tôi đã viết một số sách KT . Viết lúc bấy giờ không đòi hỏi nhiều công
sức, chỉ cần ghi lại những kết quả qua quá trình nghiên cứu .
Sang Mỹ, tôi viết một số sách chuyên ngành bằng Anh ngữ, không đòi hỏi những cố
gắng lớn lao .
Giờ đây, viết sách KT bằng Việt ngư õtrên đất Mỹ đòi hỏi nhiều suy tư, nhiều sáng
tạo . Sách phải đáp ứng 2 nhu cầu cơ bản :
-Tính thiết thực : Kỹ thuật tân tiến này liệu có thể áp dụng trong nước ? hoặc kỹ thuật
này có gì mới mẻ so với các kỹ thuật đang dùng trong nước ? Những đề tài như thi
công cầu sắt, cấu bêtông dự ứng lực trước, cầu dây văng, ứng dụng két xon v . v .

chưa cần thiết vì hiện nay trong nước có nhiều sách viết về đề tài này .
-Tính thích nghi : Ứng dụng mới cần phù hợp với tình hình địa chất thủy văn trong
nước, khả năng thi công trong nước . Muốn làm được việc này, cần nghiên cứu học
hỏi tại hiện trường .
Do đó, đề tài mà tôi lựa cho sách KT đầu tiên là “ Ứng dụng vải & lưới địa kỹ thuật
trong xây dựng công trình “. Sách chỉ nhằm phổ biến những kỹ thuật tân tiến, đặc biệt
nhắm vào giới sinh viên, không có trí thức làm sao có thể đổi mới .
Dallas tạo cho tôi những thiên thời, địa lợi và nhân hòa để bắt đầu . Phòng làm việc
tôi giống như một thư viện bỏ túi, ba bề là kệ sách, sách bầy biện cả duới gầm giường,
bàn viết trông ra của sổ sau vườn . Chỉ khi nào đọc tài liệu, hay sách, tôi mới lái xe ra

công viên .

Công viên nào cũng xinh đẹp, không suối thì hồ hay cả hai, tạo nên bức tranh sơn
thủy hài hòa . Nhìn cây, biết thời tiết 4 mùa rõ rệt : xuân xanh, hè đỏ thu vàng, đông
nâu . Trong đó có công viên Đá Trắng ( White Rock ) là hùng vĩ hơn cả, hồ, thác,
suối đều tập trung nơi đây .
Mỗi lần thay đổi hướng ngồi, cảnh vật mới hiện ra, tôi cảm thấy đầu óc minh mẫn
hơn, chữ nghĩa dễ bắt hơn . Khi mỏi mắt, mầu xanh của lá cây làm tâm hồn tôi dịu lại
. Không có thiên nhiên, tôi không tài nào làm việc được . Ngay cả những hôm trời
mưa rét, tôi ngồi trong xe đọc sách mà cảm giác như ngồi trong nhà kính nhìn ra cảnh
vật bên ngoài .
Tôi chạy đua với thời gian, từ nhà tới thư viện, từ công viên tới trường để kịp giờđón
Đức Độ tan học về . Dướt qua bản thảo một lần chót, tôi chuyển sách cho nhà xuất
bản .
Cuối năm 2000, sách in đẹp , bìa mầu và được phát hành rộng rãi trên toàn quốc . Giá
bán mỗi quyển chỉ bằng chi phí ấn loát ( X. phụ chương III. I ) .
Công lao tôi được đền bu,ụ khi nghe một kỹ sư trẻ tâm sự :” Trước đây, cháu không
hiểu tại sao các nhà thầu nước ngoài trải vải trước khi đổ đất đắp trong công tác nâng
cấp QL 5, dường vào cầu Tân Đệ trên QL 10 ? Các anh trong ban quản lý dự án còn
thắc mắc, không biết nhà thầu sử dụng vải có đúng tiêu chuẩn kỹ thuật không ? Sau
khi đọc sách của bác, mọi thắc mắc đều được giải tỏa . Cảm ơn bác nhiều !” .
Hôm 19 / 12 / 00, ghé tiệm sách # 18 đường Hoa Lư, Hànội, tôi giả bộ mua sách :
- Tôi muốn mua sách “ vải và lưới địa kỹ thuật của tác gỉa . . .
Cô hàng cắt ngang :
- Tiệm cháu bán sạch , co ùcom măng thêm, nhưng nhà xuất bản cho biết đã phân
phối hết rồi !
Cũng trong thời gian này, tôi góp ý với ông Nguyễn Quang Chiêu và ông Đỗ Bá
Chương để soạn thảo cuốn “ Tự diễn thuật ngữ kỹ thuật đường ô tô Việt – Pháp – Anh
. Sách đã xuất bản năm 2001 .
Trong dịp về thăm quê năm 2000, tôi đề nghị với anh Khiết hai việc :
- Lập tủ sách gia đình gồm những sách đủ mọi thể loại do con cháu thầy sáng tác .

- Phổ biến họa đồ cầu tiêu tự hoại 2 ngăn, thay thế cầu tiêu chuồng . Ba cháu thực
hiện đầu tiên sẽ lãnh phần thưởng hiện kim .

*

Đầu năm 2001, tôi dời nhà về San Jose . Lần này, sách vở nhiều hơn đồ đạc . Tất cả
đều chất trong xe U haul, vượt qua 1000 km sa mạc New Mexico, Arizona để về miền
đất hứa . Không phải là 3 mà 5 lần dọn nhà, tôi sợ quá,hỏi Lạc :
- Cháu có còn dọn nhà nữa không ?
- Thưachú ,không .
Tôi mong như vậy . Cuộc đời tôi không có gì là chót, chỉ toàn là áp chót ; không co
ùgì là cuối , chỉ toàn là áp cuối .
Về đây, tôi dự định viết tiếp sách KT . Tuổi mỗi ngày một già, trí nhớ mỗi ngày một
mòn mỏi . Đổi ý, tôi phải viết Hồi Ký trước khi bệnh lú lẫn ( alzeimer ) xâm lăng ;
mọi sự sẽ tính sau nếu Trời cho còn sức khỏe .
Tôi moi trong ký ức 60 năm cuộc đời từ thủa ấu thơ cho đến lúc già . Rất nhiều sự cố
phải sàng qua lọc lại . Khi thì San Jose, khi thì xuôi Nam Cali , khi thì ngược Bắc, tôi
luôn đổi vùng để gây nguồn cảm hứng .
Tôi khóc theo từng trang nhật ký, nước mắt thấm dần trên key board tạo thành một
màng bụi mỏng . Viết hồi ký, tôi phải chứng kiến cảnh ngộ vui buồn của dời mình tới
2 lần, một lần cũng đủ tan nát đời người !
Nhữngbí mật của cuộc đời hay những truyện thuộc loại “ chưa kể cho ai nghe bao giờ
“ sẽ lần lượt phơi bầy trên trang giấy .
Các cháu trong nước cũng như ngoài nước thường kể cho tôi nghe cuộc đời của chúng
với những tình tiết cảm động . Tôi khuyên các cháu nên ghi lại một cách trung thực
những sự việc đã xẩy ra bằng những rung động của con tim mình . Đâu cứ phải là nhà
văn mới có thể viết hồi ký hay truyện ký . Đọc truyện do người thân viết, dễ cảm
thông và nhất là dễ rung động hơn . Các cháu cần được khuyến khích viết văn bằng
cách đềra những giải thưởng “ thi viết truyện ngắn “ .
Tôi hy vọng sẽ viết xong Hồi Ký và in thành sách vào cuối năm 2001 .

*

Gió thu đang khẽ lay động lá vàng .
Dán mắt vào màn ảnh, tôi đang rà lại chương III của hồi ký . Bỗng chuông điện thoại
reo, bạn tôi từ Louisiana gọi :
- Về hưu rồi, toa làm gì cho hết giờ ?
- Đi bộ và chơi computer .
Nếu tôi nói rằng bận, anh sẽ không tin .
- Ngày nào moa cũng làm vườn, sao thấy thì giờ thừa thãi quá .
- Sao không rủ bà xã đi chu du thiên hạ .
- Bà xã moa mắc đi cầy, 5 năm nữa mới tới tuổi hưu .

Anh kể tiếp nào là bà đi làm, moa ở nhà nấu ăn, chiều chiều ra cửa ngóng trông . Tôi
an ủi :
- Anh còn có người ngóng trông, tôi đây biết ngóng ai cho cùng !
Bị đau nhói trong bao tử, tôi tạm ngưng điện đàm . Mỗi năm ,Trời bắt một bệnh mới .
Đã cao huyết áp, cao đường, cao PSA, giờ lại thêm một thứ cao khác nữa là cao acít (
heartburn ) . Từ Pittsburg, Thúy gọi thẳng về tiệm thuốc tây tại San Jose, tôi chỉ việc
ra tiệm lấy thuốc prevacid về uống . Tôi hỏi Thúy :
- Uống đến bao giờ thì ngưng, con ?
- Uống hoài cho đến khi hết đau .
Một chữ “ chót “ đã làm cuộc đời tôi thêm vất vả, bây giờ nghe thêm chữ “ hoài “ ,
tôi thấy xương sống ớn lạnh .

4. Học được những gì
Tiếng bạn tôi từ bên kia đường dây :
- Viết xong hồi ký, rồi toa làm gì nữa ?
- Viết tiếp sách KT nếu đầu óc còn sáng suốt ; đi làm việc tông đồ nếu còn sức khỏe .
- Rồi sao nữa ?
- Nếu chẳng may bị stroke ( tai biến mạch máu não ), vô viện dưỡng lão .
- Sao thê thảm thế !
- Chuẩn bị tư tưởng đi là vừa .
Trưa ngaỳ 30 / 5 / 01 , một ngày nóng nực khác thường , tôi đến thăm người thân taị
nhà dưỡng lão Vista Manor, San Jose . Phần đông các cụ ngồi xe lăn, gục đầu hoặc
nghiêng đầu, mắt nhắm truớc máy truyền hình đang mở . Đối với các cụ, thời gian đã
ngưng đọng từ lâu, giờ đây chỉ có ngày và đêm với giờ cơm, giờ thuốc, giờ vệ sinh,
giờ tập đi . Cụ Chín, 90 tuổi ngồi xe lăn, tâm sư : “ Ông nghĩ, ở đây có bạn bè vui
hơn, ở nhà thui thủi một mình, các con cháu ban ngày đi làm, mình muốn đi tiểu đi
tiêu, không người vực dậy .”
Nếu sau này Trời bắt tôi như vậy, tôi muốn các con cháu gởi tôi vào nhà dưỡng lão ;
chỉ riêng một ý nghĩ “ không làm phiền hà những người thân yêu “ cũng đủ làm cho
tôi hạnh phúc .
Tôi đã lập living will ( di chúc khi sống ) : trong trường hợp mê man bất tỉnh nhiều
ngày, hay tim ngừng đập, bác sỹ sẽ không làm hồi sinh ( do not resuscitate ) . Trong
trường hợp bất đắc kỳ tử, tôi đã ký giấy dâng hiến những bộ phận tái sinh cho y học .
Thân xác tôi sẽ được hủy thiêu và thả tro ngoài Thái Bình Dương .
Mùa thu San Jose thật là êm đềm, lá cây đổi mầu, gió nhẹ, nắng vàng . Sáu mươi năm
qua mau, thoáng như giấc chiêm bao . Bản thân tôi đã rút ra những bài hoc gì sau 2
lần trỗi dậy :

Hiếu học : Vốn chăm học từ còn nhỏ, tôi được thầy gửi đi Tỉnh học, hết Nam Định
rồi đến Thái Bình . Cũng nhờ hiếu học, tôi mạnh dạn di cư vào Nam một mình và
quyết tâm theo đuổi con đường công chánh, quyết tâm trở lại nghề cũ .

Hoài bão : Làm người, ai chẳng có ước mơ, cất cánh tung bay như đại bàng . Cái khó
là ta có quyết tâm, kiên trì theo đuổi để biến giấc mơ thành sự thật . Hồi còn nhỏ, tôi
có quá nhiều mộng ước như : học thành tài, được nhìn tận mắt những tảng băng hà
trôi lềnh bềnh trên biển hồ Chicago, tòa nhà chọc trời tại Nữu Ước, tháp Eiffel tại
Pháp, Vạn lý trường thành của Trung Quốc v . v. Lớn lên, ước muốn càng nhiều , tôi
càng háo hức thực hiện .

Mạo hiểm : Chỉ có mạo hiểm, ta mới khám phá ra những chân trời mới . Trong lãnh
vực nghề nghiệp, có nhiều dự án tôi chưa hề một lần mó tay, tôi vẫn nhận để rồi vừa
làm vừa học như sửa cầu Old Gentilly, đường chui Press v . v . Trong một phiên họp,
viên Phó Giám Đốc Sở Kaufmann hỏi:
-Ai cho phép sở Cấp Thoát Nước thay đường ống thoát nước tại phố Mc Arthur .
Ngước nhìn về phía tôi, hắn chờ đợi câu trả lời có tính cách tránh né, đổ thừa hoặc xin
lỗi . Với tư cách là kỹ sư trưởng, tôi đáp :
-Tôi cho phép ! Nếu tôi không cho phép giờ, sau này họ sẽ đào đường mới của mình
lên thay ống .
Kể từ đó, hắn để bụng trả thù, tôi sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả .

Thận trọng : Tôi suy nghĩ kỹ trước khi hành động . Một khi quyết định, bắt tay ngay
vào việc . Nếu thất bại, rút ra những bài học . Sau đó, tập quên đi những thất bại, vì
thông thường những cái buồn ám ảnh ta nhiều hơn cái vui, cái xấu ám ảnh ta nhiều
hơn cái tốt .
Lại nữa, trong nhiều trường hợp, phương án này ( đã làm ) chưa chắc đã dở hơn
phương án kia, vì chưa thực hiện nên không thấy toàn bộ những khuyết điểm của nó .
Càng về già lại càng cẩn thận hơn . Có lần đi chơi xa, tôi cứ thắc mắc không biết cửa
nhà đã khóa chưa ? Sự lo lắng kéo dài làm cuộc đi chơi mất vui . Từ đó, mỗi lần làm
gì quan trọng, tôi đều có check list (danh sách những hạng mục cần kiểm tra ), cẩn tắc
vô ưu .

Khiêm tốn : Con người sinh ra đều tội lỗi, biết ăn năn sám hối sau những lần vấp ngã
mới là điều quý, chiến thắng chính mình không phải là chuyện dễ . Muốn được vậy, ta
phải biết sống khiêm tốn, như lời thánh Augustino : “ Thiên Chúa yêu thích sự khiêm
nhường trong việc nhỏ hơn là sự kiêu ngạo trong những việc thành công “ hoặc bắt
chước lời cầu xin của một linh mục : “ Xin cho con tinh thần đơn sơ để con không trở
nên gánh nặng cho những người đang sống chung quanh con, xin cho con tấm lòng
khiêm tốn để con không trở nên cứng cỏi trước những lời chỉ trích “ .
Đức khiêm tốn không cho phép ta phê bình người khác khi chưa đủ bằng cớ . Nhất là
trong thời buổi tin học, phán xét của mình đúng tới mức nào tùy thuộc vào số lượng
thông tin thu thập được . Nếu buộc phải phê bình, hãy phê bình trong tinh thần xây
dựng và nhân hậu .
Trong những buổi lễ hội hay sinh hoạt cộng đồng, tôi thường đứng cuối phòng họp để
điều động thay vì ngồi hàng ghế đầu ; đến trước nhất, và về sau rốt để cùng với ban tổ

chức trang trí và thu dọn. Trong thời gian vận động thành lập ban Đại Diện cộng
đồng, tôi minh định rõ người trong ban Vận Động không có quyền ứng cử . Nhờ lối
sống khiêm tốn và hòa đồng, tôi đã kết hợp nhiều người ngồi lại với nhau, thương yêu
nhau hơn để cùng nhau theo đuổi một mục đích chung .
Mỗi lần về quê, đi thì va li đầy, về thì đeo túi nhỏ ; có phương tiện di chuyển gì tôi sử
dụng phương tiện đó, gần thì đi chân, xe đạp, xathì đi buýt, xe ôm, xe máy .Tôi ăn
uống có chừng mực, chỉ cần 1000 đ xôi bán rong là xong bữa ăn sáng ; trưa ăn cơm
bụi, gặp đâu ăn đó ; chiều về ăn cơm với gia đình . Tôi thích những món ăn thuần túy
quê hương như cà ghém chấm mắm tôm, canh rau đay hay mùng tơi với cua rốc do
chị Khiết nấu hoặc rau bí do cháu Chử xào hơn là những bữa cơm thịnh soạn do họ
hàng khoản đãi . Mỗi lần các cháu mời ăn, tôi thường ra mơ nuy, có chịu, tôi mới đến
.
Bên Mỹ, phải thành thật mà thú nhận rằng tôi chẳng thấy ngon miệng khi buộc phải
dự những bữa ăn tốn kém 10, 20 mk hay hơn nữa . Thảo nào mẹ Thêrêsa đã nổi giận
khi thấy người ta vứt đi những thứ mà mẹ có thể dùng để phục vụ người nghèo .
Với bộ quần áo xuềnh xoàng, tôi đạp xe đạp cọc cạch tới tiệm Cao Nguyên , Hòngai
để thưởng thức cà phê phin, nổi tiếng là thơm ngon . Thấy bộ điệu tôi trông giống bác
nhà quê mới ra tỉnh và nhất là sợ tôi không đủ tiền trả, cô hàng lên tiếng trước :
-12,000 đ một cốc cà phê, đó bác !
Cô làm tôi mắc cỡ đối vói mấy khách hàng ngồi bên . Cà phê cô hàng đâu có ngon
bằng cà phê Thái vỉa hè Hànội hay tại phố hàng Đồng Nam Định, với tách cà phê
được ủ nóng trong chén nước sôi, giá cả lại nhẹ nhàng, chỉ có 3000 đ một tách .
Mỗi khi đi chơi một mình, các cháu đều nhắc nhở :
- Nếu họ biết chú là Việt Kiều, họ hay nói thách lắm !
Bề ngoài, tôi không những không bằng Việt Kiều, mà còn dưới cả dân trung lưu
Hànội .

Thành tín : Khổng Tử dạy : “ Khử binh, khử thực, bất khử tín “, có nghĩa là bỏ gì thì
bỏ, kể cả quân đội, lương thực nhưng không thể bỏ chữ tín . Tôi có thể tự hào trong
suốt 40 năm hoat động, tôi đã giữ trọn chữ tín . Trong trường hợp bất khả kháng, tôi
ân cần giải thích lý do và xin lỗi người tôi đã hứa .
Nhờ vậy, mọi người đến tham dự đông đủ buổi họp do tôi tổ chức dù rằng trời mưa
tầm tã, vì ho ỉtin rằng tôi chưa bao giờ thất hứa và luôn luôn giữ đúng giờ .
Tại San Jose, tôi tham dự một vài đám cưới, giấy mời đề 6 giờ chờ mãi tói 9 giờ mới
khai mạc . Trong khi đó tại New Orleans , chúng tôi thỏa thuận với nhau giờ khai mạc
không trễ quá 1 / 2 giờ, giờ ghi trong giấy mời .

Nhân ái : Đức Dạt Lai Lạt Ma đã phát biểu tại Central Park, Nữu Ước ngày 15 / 8 / 99
: “ Tôi thấy sự yêu thương người khác đã giúp cho tôi mạnh hơn .” Chúng ta sẽ cảm
thấy hạnh phúc ngay ở đời này, nếu biết yêu yêu thương người khác . Chỉ những gì
chúng ta cho đi, sẽ còn lại mãi mãi, những gì giữ lại sẽ mất giống như biển hồ Galilê

tưới nước ngọt cho cả dòng sông Jor dan, còn biển Chết nước quanh năm mặn nồng,
không có sự sống . Chúng ta hãy dành thì giờ nói cho người khác những cái hay nét
đẹp của họ mà chính họ không thấy .
Tôi đã cho đi nhiều thì giờ, tiền bạc nhưng đổi lại tôi đã nhận được không biết bao
nhiêu là ánh mắt chan chứa tình thương, những nụ cười thân ái . tôi quên sao được
những câu nói đầy ắp ân tình của anh chị Bảo :
- Khi nào bác về New Orleans, nghỉ tại nhà cháu, có phòng dành cho bác .
Hoặc của anh Tài, khi anh cho tôi quá giang xe tứ Venise về Empire :
- Báo chí nói nhiều đến bác, hôm nay cháu mới có hân hạnh gặp bác .
Rồi ở làng Việt Nam :
- Chú về, chú nhớù trở lại với dân làng .
Kể sao cho hết . Đó là những món quà tinh thần vô giá đối với tôi .

Quan niệm sống : Hạnh phúc hay đau khổ tùy thuộc vào cách nhìn của mỗi người
.Cùng một bụi hồng, người có cái nhìn tiêu cực thấy toàn gai làm chảy máu tay ;
người có cái nhìn tích cực sung sướng nói rằng : “ May thay trên gai còn có hoa hồng
. “. Để sống hạnh phúc, chúng ta tập tìm những mặt tích cực của từng sự việc mà
chúng ta phải đương đầu .
Hàng ngày, tôi cảm ơn Tgượng Đế những gì Ngài đã ban cho, kể cả những việc tầm
thường như thấy một bông hoa lạ, đọc một truyện hay . Đi bộ dưới trời mưa, tôi mới
cảm thấy thế nào là hạnh phúc được ở trong nhà . Tuy ăn uống thanh đạm, tôi lúc nào
cũng cảm thấy ngon miệng khi nhớ tới những ngày đói khát trên biển, những
người đói ăn ở khắp mọi nơi trên thế giới, những gia đình quê nhà làm việc quần
quật suốt ngày mà lợi tức không quá 1 mk / 1 ngày.
Ngày nay, những bệnh hiểm nguy như ung thư ( chỉ cần đụng tóc, bệnh nhân cũng
thấy đau ), viêm gan ( chờ chết ), tiểu đường ( cưa chân ), sida v . v. đang tràn lan mọi
nơi, mọi chỗ . Những chứng bênh lẻ tẻ của tôi như cao máu, cao mỡ, đau dạ dày, nhức
mỏi có nhằm nhò gì so với những chứng bệnh kể trên . Tôi cảm thấy may mắn hơn họ
. Nói như thế, bạn tôi phản đối :
- Như vậy là bất nhân, sống trên sự đau khổ của người khác .
Giữa ông vua và người chăn cừu, chưa chắc ai đã hạnh phúc hơn ai . Hạnh phúc là sự
cảm nghiệm mà Thượng Đế ban cho mỗi người . Người họa sỹ cụt 2 chân 2 tay mà
vẫn say sưa ngậm bút vẽ bằng mồm . Tony Melendez bẩm sinh cụt 2 tay, chơi Tây
Ban Cầm bằng chân, được mọi người ngưỡng mộ .
Tôi chấp nhận mọi sự khổ đau vì quan niệm rằng đau khổ là sự thử thách, là những
bài học quý giá trong trường đời, là góp phần vào sự đồng công cứu chuộc .
Để kết thúc phần này, tôi xin lược thuật câu chuyện “ Nhà tỷ phú và người vô gia cư “
như sau :
Từ công viên bên kia đường, người vô gia cư ngày nào cũng nhìn lên biệt thự nguy
nga của nhà tỷ phú . Thấy vậy, nhà tỷ phú hỏi :
- Hình như anh có điều gì ước muốn ?

- Tôi chỉ ao ước được ở trong căn phòng lộng lẫy của Ngài một tháng .
Nhà tỷ phú chấp thuận . Ở chừng 1 / 2 tháng, người vô gia cư xin dọn ra . Nhà tỷ phú
hỏi tại sao vậy, anh ta đáp :
- Ở đây, ngày nào tôi cũng lo sợ sẽ phải dọn ra, chi bằng dọn ra trước an tâm hơn .

Niềm tin : Hàng cây trước nhà bắt đầu đâm chồi, chú quạ sà xuống cột điện cao thế,
quang quác mấy tiếng rồi vỗ cánh bay . Sáng nào, tôi điểm qua các báo, bản tin sau
đây khiến tôi rụng rời : “ Hồi 9 giờ sáng ngày 12 / 3 / 01 tại cổng xe lửa số 6 Phú
Nhuận, một thiếu phụ còn trẻ đã ôm đứa con 4-5 tuổi lao vào toa xe tự tử . Người mẹ
bị bánh xe nghiền nát đứa bé bị dập tay và chân trong tình trạng nguy kịch . Bà con ở
khu vực trên cho biết, người phụ nữ này đã ôm con ngồi đây từ 2-3 ngày nay, không
rõ tông tích lai lịch . “
Nếu có niềm tin nơi Trời Phật, người thiếu phụ sẽ không bao giờ kết thúc đời mình
và con mình mội cách tang thương . Không tôn giáo nào cho phép con người hủy hoại
mạng sống của chính mình cũng như của người khác .
Chỉ có Đạo dạy loài người phải thương yêu nhau, làm điều lánh tránh điều dữ. Đạo
không cứu đời, đạo ở với ai ? Niềm tin tôn giáo mang lại hạnh phúc thật sự cho con
người . Đối với bệnh nhân, niềm tin không những giúp họ có can đảm chịu đựng
những đau đớn do bệnh tật gây ra mà còn giúp cho họ mau lành bệnh .
Trong buổi phát thanh dành cho giới trẻ, thượng tọa Thích Tịnh Từ đã kêu gọi : “ Các
em nên có niềm tin ở Chúa hay ở Phật . “ . Không kiến thủ kiến, thượng tọa đã thấy
tôn giáo là nơi hiệp thương của tình yêu .
Cũng vậy, qua mạng lưới internet toàn cầu, linh mục Nguyễn Văn Lý nhắn nhủ các
bạn trẻ : “ Các bạn sẽ trở thành ánh sáng theo đường lối tôn giáo nào cũng được cả,
theo con đường tu thân của Phật giáo càng quý và theo con đường tu đức của Kitô
giáo càng tốt . “

Phụ chương III

Phụ Chương III. A

NHÂN VẬT CỦA NĂM 1998

Trong suốt năm năm qua, Nhóm SHVH/LA rất may nắm tìm được những nhân vật
của mỗi năm một cách thích ứng. Kết quả các nhân vật của Cộng Đồng được lựa chọn
cho thấy Nhóm quả đã làm việc với một tinh thần vô tư và đã phản ảnh được qua sự
hài lòng của dư luận quần chúng trong Cộng đồng Người Việt tại Louisiana một cách
tốt đẹp. Thành quả này chúng ta phải bảo trọng và giữ gìn.
Trên đây là nói mở đầu của thuyết trình viên trong buổi họp mặt cuối năm của Nhóm
để chọn lựa nhân vật cho năm 1998, được tổ chức cuối tuần qua tại nhà hàng Kim'
Restaurant.
Sau hơn ba giờ hàn huyên, nêu ý kiến phát biểu và thảo luận. Nhóm SHVH/LA đã

đồng thuận đi tới kết quả lựa chọn nhân vật của năm 1998 của Cộng Đồng Người Việt
tại Louisiana với kết quả Kỹ sư Bùi Đức Hợp được tuyên dương là nhân vật của năm

1998.

Kỹ sư Hợp được biết như một tên tuổi lớn tại New Orleans từ nhiều năm qua về
những đóng góp mà ông đã có với thành phố này và Cộng Đồng Người Việt tại
Louisiana, kể từ khi ông đến định cư tại đậy từ đầu thập niên 80. Thật vậy, thành tích
hoạt động của Kỹ sư Hợp thật đa dạng:
TRONG PHẠM VI CÔNG QUYỀN:
Ông Bùi Đức Hợp là Kỹ sư Trưởng (Senior Structural Engineer) tại Sở Công Chánh
New Orleans. Trong phạm vi trách nhiệm, qua suốt hơn 15 năm làm việc tại đây, Kỹ
sư Hợp đã đạt được nhiều công trình kiến tạo và trùng tu kiều lộ tại New Orleans. Đặc
biệt nhất là việc hoàn thành công trình kiến tạo hành lang Tchoupitoulas thuộc thương
cảng New Orleans ngày 16 tháng 5 năm 1998 với một kinh phí khiêm nhường là 75
triệu Mỹ kim với sự khen ngợi nồng nhiệt của thị Trưởng Marc Morial và Hội Đồng
Thành Phố New Orleans.
TRONG PHẠM VI CHUYÊN MÔN (Kiều Lộ):
Kỹ sư Hợp là tác giả của bảy cuốn sách chuyên biệt ghi nhận các kỹ thuật tân tiến
nhất đối với việc phát triển và bảo trì đường lộ. Các tác phẩm của ông được đánh giá
cao và có một giá trị hữu dụng lâu dài. Bảy tác phẩm đó là:
1- Kỹ thuật làm đường đỡ tốn tiền tại những quốc gia đang phát triển. (1974)
2- Đồ án nghiên cứu đường sá khả thi (1977).

3- Traffic Volume In New Orleans, Louisiana (1988).

4- A Practical Solution to Street Design & Construction (1992).

5- Street Designing & Construction Features In The City Of New Orleans (1997).

6- Designin Construction Building & Maintaining The New Orleans Streets To

Achieve Their Design Life (1997).

7- Tchoupitoulas Corridor Projects Lessons (1998).

TRONG PHẠM VI XÃ HỘI VÀ GIÁO DỤC: Kỹ sư Hợp thường dành thì giờ nghỉ
cuối tuần của mình để tham gia các công tác xã hội và giáo dục trong môi trường địa
phương. Ông là giảng viên của nhiều lớp luyện thi quốc tịch tại New Orleans East,
Algier, Harvey... Các lớp luyện thi này đã giúp rất nhiều quý vị cao niên tại New
Orleans trúng tuyển các kỳ thi nhập quốc tịch. Trong phạm vi xã hội, ông cũng là
người tham gia đầu tiên vào việc thành lập các hội như: Hội Người Việt Cao Niên,
Hội Cử Tri Người Mỹ Gốc Việt....
TRONG PHẠM VI TÔN GIÁO:
Kỹ sư Hợp là một tín đồ Thiên Chúa giáo thuận thành, nhưng lại hành sử và sinh hoạt
như một môn đệ của Mặc giáo. hầu như là cả cuộc đời ông là một chuỗi dài bận rộn.
Giống như Mặc Tử, một triết gia lớn của Trung Hoa thời Tiên Tần, Kỹ sư Hợp “mòn
chân, lỏng gối” mà lo việc thiên hạ. Ông luôn lo giúp đời và làm đẹp cho đời không sá
gì đến hoàn cảnh riêng tư đôi khi khắc nghiệt của cá nhân mình.
Ông giúp các công tác xây cất cho tất cả mọi tôn giáo... như Phật Giáo (Chùa Bồ Đề),

Cao Đài (Thánh Thất New Orleans), Thiên Chúa Giáo (Linh Đài Đức Mẹ La Vang,
New Orleans).... Làm những công việc này, ông giữ được cái đạo vị Dân Tộc và cái
tâm vô cầu.
TRONG PHẠM VI CỘNG ĐỒNG:
Ông là phối trí viên của Ủy ban Vận Động Thành Lập Cộng Đồng Người Việt tại
Louisiana do quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo tại New Orleans như: Đức Ông
Mai Thanh Lương, Thượng Tọa Thích Chơn Minh, Mục Sư Đặng Minh Lành và
Quyền Đầu Tộc Đạo Nguyễn Văn Đông tham gia, vận động.
Người Việt tới định cư tại New Orleans từ năm 1975, đến 1990 không hiểu vì lý do
gì, Cộng đồng không thành lập được, những người có lòng muốn đứng ra xây dựng
Cộng đồng đều gặp trở ngại. Được sự trợ giúp ý kiến của một ban tham vấn đặc
nhiệm và sự hỗ trợ của Ngọc Lân Magazine, Kỹ sư Hợp quyết tâm một mình một
ngựa thúc đẩy việc thành lập Cộng Đồng qua ngả tôn giáo. Kỹ sư Hợp đã thành công
và Cộng Đồng Việt Nam tại Louisiana đã được thành lập vào cuối năm 1993 và tiếp
tục sinh hoạt cho đến hôm nay, con đường gian nan của ông Hợp trong tiến trình
thành lập Cộng Đồng sẽ được công bố trong hồi ký “Những Năm Làm Báo Tại Hải
Ngoại” của Hoàng Hạc Vũ Như Sơn sẽ được ấn hành và được gởi tới độc giả nay mai
để chúng ta có dịp thẩm thấu được đôi câu đối của nhị vị danh nho đất Việt: Đặng
Trần Thường và Ngô Thời Nhiệm:
“Ai Công Hầu, ai Khanh Tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai.
Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.”
Những thành tích mà Kỹ sư Hợp thành đạt như vừa được trình bày trên, quả là một
thành tựu có cân lượng. Nhưng theo Kỹ sư Hợp, tất cả điều đó nay đã trở thành quá
khứ, ông mong được “gởi hương cho gió” để tiếp tục hướng về tương lai. Nói như vậy
dễ nhưng thực hiện được ý nguyện đó không phải là một điều dễ dàng. Bởi ai trong
chúng ta khi bước vào khoảng đời “Lục thập” (lục thập nhi nhi thuận, tới tuổi 60 nghe
nói gì cũng lọt tai không nóng nảy, chống đối, buồn phiền, làm chủ được chính mình,
kiểm soát được chính mình), thì thấy được những khó khăn trước mặt, nhất là sống tại
xã hội Mỹ bây giờ.
Nhưng cái gì đến sẽ đến, giữa Hè 1998, ở tuổi 62, ông Hợp quyết định hồi hưu non,
để hướng về một cuộc đời mới.
Trả lời cuộc phỏng vấn của ký giả lạo thành Nguyễn Trọng được đăng tải trên Văn
Nghệ Tiền Phong số 543, mục ký sự Ngọc Lân, Kỹ sư Hợp cho biết: sau khi hồi hưu,
ông sẽ dành một khoảng thời gian cần thiết để lo cho gia đình, sau đó khoảng đầu năm
1999 ông sẽ qua Phi Luật Tân tình nguyện phục vụ không lương bổng tại làng Việt
Nam tại Palawan trong phạm vi chuyên môn là giúp đồng bào Việt định cư tại làng
này về các công tác xây cất, bảo trì đường sá, cầu cống và nhất là tạo cho mỗi gia đình
định cư ở đây một khung cảnh quê hương mến yêu với “vươn rau, ao cá” như vận
thường thấy ở quê hương Việt Nam.
Rồi sau đó, nếu điều kiện thể chất của cá nhân cho phép, ông dự định vâng theo tiếng
gọi (vocation) của Thượng Đế để bước vào Đại Chủng Viện trong nếp sống tu trì phục

vụ Thượng Đế và Giáo Hội qua thiên chức “Tu Sĩ” ở tuổi gần 70.
Đây quả là một lựa chọn thích hợp mà tất cả chúng ta rất đáng ngưỡng phục. Ông đích
thực là nhân vật xứng đáng nhất và độc đáo của Cộng đồng Việt tại Louisiana trong
năm 1998.

Mặc Nhiên ghi
(Trích BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương III. B

VIẾT CHO NGƯỜI ĐI
Kỹ Sư Bùi Đức Hợp
Ảnh: Hoàng Mai Tường Thuật: Hoàng Hạc Vũ Như Sơn

Sau một thời gian đi du lịch xa, Kỹ sư Bùi Đức Hợp trở lại New Orleans. Như một
người bạn thân, tôi và anh đã đi ăn nhà hàng, gặp những bạn bè quen biết và tâm sự
rất nhiều về tưng lai...
Có những buổi chiều, tôi đã hỏi anh:
- Anh à! Anh đã có thời gian tại đây và làm ơn cho biết bao nhiêu người, cho những
cơ sở tôn giáo, chắc anh gặp lại họ, anh sẽ được “appreciate” lắm phải không anh?
- Không như anh nghĩ đâu. Nhưng có một điều tôi xin anh ghi nhớ cho là khi tôi làm
một việc gì tôi có đòi hỏi ân với nghĩa đâu, nên cũng không để tâm nhưng việc “đền
ơn”. Đời tôi mà anh, chỉ biết cho đi và chưa bao giờ nghĩ vấn đề được trả ơn. Ngay
lúc còn thanh niên cũng vậy. Tôi luôn luôn hăng hái hoạt động nếu thấy việc ấy là có
ích lợi chung.
Nhìn nụ cười luôn nở trên môi và ánh mắt đầy tự tin làm tôi nhớ lại lời ký giả
Nguyễn Trọng viết trên VNTP số 543 như sau: “... giai đoạn thứ hai của cuộc đời ông
là sẽ tình nguyện phục vụ cho làng Việt Nam ở Palawan (Phi Luật Tân) trong công
việc chuyên môn là xây cất và bảo trì đường sá và tạo cho mỗi gia đình một cảnh
“vườn rau ao cá” ... “rõ là nợ tang bồng trong trắng vỗ tay reo” và anh đang đi tìm
động hoa vàng như câu thơ của Phạm Thiên Thư: “Rằng xưa có gã từ quan. Lên non
tìm động hoa vàng ngủ quên...”. Động hoa vàng của anh không phải là nơi xa lánh thế
tục của một người tu tiên mà là nơi rất thế tục. Còn hơn thế nữa, anh còn dâng tặng tài
năng của mình của thời gian hưu dưỡng còn lại cho tha nhân, cũng như lúc anh còn
làm việc tại Sở Kiều Lộ ở New Orleans, anh luôn luôn là người giúp đỡ người nào cần
đến hay cơ sở tôn giáo về việc vẽ họa đồ và làm giấy phép xây cất mà không nhận
một xu thù lao.
Đời anh là tác phẩm tuyệt vời mà tôi sẽ cố gắng theo gót. Việt Nam có câu: “Giầu về
bạn sang về vợ” và người Mỹ rất thông thường nói nơi cửa miệng; “Nếu anh có một
người bạn tốt là anh đã giầu lắm rồi”. May cho tôi, có rất nhiều bạn tốt, như ông bạn
quý của tôi: Kỹ sư Bùi Đức Hợp chẳng hạn. Anh Hợp ơi! Anh hãy cố gắng thực hiện
những điều anh đã dự định. Hãy cố gắng hết sức để làm việc cho đến lúc “lực bất tòng

tâm” mới thôi. Chính anh và những người bạn tốt của tôi, đã làm cuộc đời tôi là
trường ca hạnh phúc đấy. Anh biết không?

Vũ Ninh Bình
(Trích BNS Đây Ngọc Lân)

Phụ Chương III. C

THƯ NGỎ GỬI CÁC BẠN TRẺ TẠI LÀNG VIỆT NAM THUỘC PHI

Hiện nay có trên 2 triệu người Việt định cư tại nước ngoài, hầu như khắp bốn biển
năm châu, từ miền băng giá lạnh cho đến vùng xích đạo nóng bỏng, đâu đâu cũng có
sự hiện diện người Việt. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, cứ 3 người vượt biển tìm
tự do, có một người chết chìm nơi biển cả, một người bị Cộng Sản bắt giữ, chỉ còn
một người tới bến bờ tự do. Đồng bào ta đã đánh đổi cả mạng sống của mình để lấy
hai chữ Tự Do.
Trong cái rủi lại có cái may, chưa có thời đại nào, dân tộc nào mà tỷ số sinh viên du
học cao tại các nước ngoài như Việt tộc vào cuối hậu bán thế kỷ 20. Nhiều em đã
thành tài, đang đóng góp công sức mình cho xứ sở định cư, làm vẻ vang nòi giống,
khiến người bản xứ phải ngưỡng mộ. Sở dĩ các em thành công, một phần là nhờ công
ơn cha mẹ dạy dỗ và duy trì cái truyền thống hào hùng của dân tộc, phần khác là nhờ
sự thông minh, di truyền huyết thống từ đời nọ sang đời kia.
Rút bài học lịch sử từ đời nhà Lý(*), người Việt tỵ nạn, dù định cư ở bất cứ nơi nào
trên thế giới, đều ao ước duy trì văn hóa dân tộc, một nền văn hóa lấy đạo “phụng
thiên, vị nhân, phò xã tắc” làm gốc. Nhưng họ đã không có những điều kiện “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa” như chúng ta đang có tại quốc gia Phi Luật Tân này.
Thiên Thời: Qua sự can thiệp của Giáo Hội, chính quyền Phi đã bằng long cho chúng
ta ở lại nơi đây, thay vì bị cưỡng bức hồi hương tủi nhục như một số quốc gia khác
vùng Đông Nam Á đã làm:
Địa Lợi: Khác hẳn với Cộng đồng người Việt trên thế giới, Cộng đồng người Việt tại
Phi sống quây quần thành làng xóm, trong đó có đình chùa, nhà thờ, thánh thất và hội
thánh, nhất là tình tự dân tộc được thể hiện qua nụ cười hồn nhiên của em bé cắp sách
đến trường, tiếng ru con ầu ơ..., tiếng trống đình, tiếng chuông chùa vang vọng.
Với những đường ngang phố dọc thẳng tắp. Làng được trang bị đầy đủ tiện nghi điện
nước, hệ thống thoát nước dơ, nước mua và những phương tiện truyền thông như
truyền hình, Internet v.v... Làng cũng là nơi giao lưu của hai con suối (giao long); phía
tây dựa vào Trường Sơn với cây cao bóng cả, phía đông trộng ra biển hiền hòa, khí
hậu trong lành. Đứng về phương diện cảnh sắc mà nói, Làng là nơi kết hợp hài hòa
giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận. Ắt nơi đây phải sản sinh ra nhiều anh hùng
hào kiệt. Thêm vào đó, quần đảo Palawan là trung tâm du lịch quốc tế nổi tiếng với
những bãi tắm trong xanh, sông ngầm suối nóng, thơ mộng không kém gì Miami. Đại
Lãnh, Hạ Long. Làng chỉ cách xa thủ phủ Palawan không đầy 13 km, chính quyền và

các công ty du lịch địa phương với niềm kiêu hãnh “không nói ra” đã thường xuyên
đưa du khách, sinh viên đến tham quan làng và coi đây như một kiểu mẫu về bảo vệ
môi sinh và nếp sống Việt Nam. Người Việt hải ngoại, khi đến thăm Làng đã bị cuốn
hút bởi hình ảnh quê hương thân thương, hồn thiêng sông núi như phảng phất đâu
đây; công viên Văn Lang, đường Hồng Bàng, đường Hùng Vương, đường Âu Cơ như
nhắc nhở những bài học lịch sử, những công ơn của tiền nhân trong việc xây dựng và
gìn giữ nước. Tiếng gà gáy ban đêm, những điệu vũ cổ truyền sẽ ru hồn du khách vào
những ngày xa xưa ấy. Còn đồng bào ta tại Phi, dù có làm ăn buôn bán xa xôi, không
quên trở về làng trong những dịp hội hè, đình đám, hay cuối tuần, niềm nhớ nhung
khôn xiết như một đồng bào đã diễn tả.
Nhân Hòa: Người Phi rất hiền hòa và hiếu khách. Đồng bào ta cần cù, chịu khó. Chỉ
trong một thời gian ngắn ngủi từ hai bàn tay trắng, đã làm nên sự nghiệp, nhiều người
đã trở thành chủ nhân của các cơ sở thương mại, kinh doanh.
Các trường học Phi từ bậc tiểu học đến đại học đều giảng dạy bằng tiếng Anh. Tiếng
Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế. Các bạn trẻ sau khi tốt nghiệp có thể dùng tài
năng của mình ra thi thố khắp năm Châu. Trong khi đó, kiều bào ta tại các nước Âu
Châu nhất là tại Đức, Na-Uy, phải mất rất nhiều thời gian học hỏi tiếng bản xứ để rồi
khi rời khỏi nước họ vẫn cảm thấy mình như câm như điếc.
Một chân trời xán lạn: Bên cạnh những tiểu công nghệ đang hoạt động, làng cần có
đường hướng phát triển kinh tế lâu dài. Dân có giầu, làng mới mạnh. Với những thuận
lợi như vừa trình bày trên, làng có thể trở thành một trung tâm du lịch có quán trọ, nhà
hàng và nơi trình diễn văn nghệ cổ truyền dân tộc. Kỹ nghệ du lịch không những làm
nổi bật nét văn hóa, đặc thù của một dân tộc đã có trên 4000 năm văn hiến mà còn tạo
nên nhiều công ăn việc làm có lợi tức cao cho đồng bào. Điều này đã được Ban Đại
Diện làng nghĩ tới, thực hiện lần từng bước mà khởi đầu là Trung Tâm Văn Hóa sẽ
được xây dựng trong một ngày gần đây.
Niềm tự hào: Sang thiên niên kỷ tới sử Việt sẽ ghi chếp rằng: “Một nhóm người Việt
đã vượt Thái Bình Dương đi tìm Tự Do. Sau những ngày tháng lênh đênh trên biển cả,
họ đã trôi dạt vào quần đảo Palawan thuộc Phi. Đổ biết bao mồ hôi nước mặt, học đã
xẻ núi, phá rừng, tạo nên một Làng trù mật với đầy đủ sắc thái Việt Nam...” Nối ý chí
tiền nhân, các bạn đang làm nên lịch sử. Công lao của các bạn sẽ muôn đời ghi vào sử
xanh. Các bạn sẽ là tổ tiên của dòng giống Việt tại xứ sở này.
Hãy tự hào là con nước Việt, hãy tự hào là dân Làng Việt, các bạn còn chần chờ gì
nữa không bắt tay vào công cuộc xây dựng Làng, biến mỗi gia đình thành một tổ ấm
có nếp sống văn minh, có tình tự dân tộc. Đây là một Làng Việt Nam ở ngoài nước
Việt Nam.
Để kết luận, chúng tôi muốn phỏng theo lời cố Tổng Thống Kennedy mà thưa với các
bạn “Đừng bao giờ đòi hỏi Làng phải làm gì cho mình, mà tự hỏi mình sẽ làm gì cho
Làng.” Chúc các bạn thành công trong sứ mạng.
Thân mến,

Kỹ sư Bùi Đức Hợp
Thiện nguyện viên hải ngoại
Việt Village 28/1/1999

(*) – Để tránh sự đàn áp của nhà Trần, một số cận thần nhà Lý đã di cư sang Triều
Tiên. Vì không duy trì văn hóa dân tộc, nên con cháu nhà Lý đã đồng hoá với người
Triều Tiên.

Phụ Chương III. C

THƯ NGỎ GỬI CÁC BẠN TRẺ TẠI LÀNG VIỆT NAM THUỘC PHI

Hiện nay có trên 2 triệu người Việt định cư tại nước ngoài, hầu như khắp bốn biển
năm châu, từ miền băng giá lạnh cho đến vùng xích đạo nóng bỏng, đâu đâu cũng có
sự hiện diện người Việt. Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, cứ 3 người vượt biển tìm
tự do, có một người chết chìm nơi biển cả, một người bị Cộng Sản bắt giữ, chỉ còn
một người tới bến bờ tự do. Đồng bào ta đã đánh đổi cả mạng sống của mình để lấy
hai chữ Tự Do.
Trong cái rủi lại có cái may, chưa có thời đại nào, dân tộc nào mà tỷ số sinh viên du
học cao tại các nước ngoài như Việt tộc vào cuối hậu bán thế kỷ 20. Nhiều em đã
thành tài, đang đóng góp công sức mình cho xứ sở định cư, làm vẻ vang nòi giống,
khiến người bản xứ phải ngưỡng mộ. Sở dĩ các em thành công, một phần là nhờ công
ơn cha mẹ dạy dỗ và duy trì cái truyền thống hào hùng của dân tộc, phần khác là nhờ
sự thông minh, di truyền huyết thống từ đời nọ sang đời kia.
Rút bài học lịch sử từ đời nhà Lý(*), người Việt tỵ nạn, dù định cư ở bất cứ nơi nào
trên thế giới, đều ao ước duy trì văn hóa dân tộc, một nền văn hóa lấy đạo “phụng
thiên, vị nhân, phò xã tắc” làm gốc. Nhưng họ đã không có những điều kiện “thiên
thời, địa lợi, nhân hòa” như chúng ta đang có tại quốc gia Phi Luật Tân này.
Thiên Thời: Qua sự can thiệp của Giáo Hội, chính quyền Phi đã bằng long cho chúng
ta ở lại nơi đây, thay vì bị cưỡng bức hồi hương tủi nhục như một số quốc gia khác
vùng Đông Nam Á đã làm:
Địa Lợi: Khác hẳn với Cộng đồng người Việt trên thế giới, Cộng đồng người Việt tại
Phi sống quây quần thành làng xóm, trong đó có đình chùa, nhà thờ, thánh thất và hội
thánh, nhất là tình tự dân tộc được thể hiện qua nụ cười hồn nhiên của em bé cắp sách
đến trường, tiếng ru con ầu ơ..., tiếng trống đình, tiếng chuông chùa vang vọng.
Với những đường ngang phố dọc thẳng tắp. Làng được trang bị đầy đủ tiện nghi điện
nước, hệ thống thoát nước dơ, nước mua và những phương tiện truyền thông như
truyền hình, Internet v.v... Làng cũng là nơi giao lưu của hai con suối (giao long); phía
tây dựa vào Trường Sơn với cây cao bóng cả, phía đông trộng ra biển hiền hòa, khí
hậu trong lành. Đứng về phương diện cảnh sắc mà nói, Làng là nơi kết hợp hài hòa
giữa hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận. Ắt nơi đây phải sản sinh ra nhiều anh hùng
hào kiệt. Thêm vào đó, quần đảo Palawan là trung tâm du lịch quốc tế nổi tiếng với

những bãi tắm trong xanh, sông ngầm suối nóng, thơ mộng không kém gì Miami. Đại
Lãnh, Hạ Long. Làng chỉ cách xa thủ phủ Palawan không đầy 13 km, chính quyền và
các công ty du lịch địa phương với niềm kiêu hãnh “không nói ra” đã thường xuyên
đưa du khách, sinh viên đến tham quan làng và coi đây như một kiểu mẫu về bảo vệ
môi sinh và nếp sống Việt Nam. Người Việt hải ngoại, khi đến thăm Làng đã bị cuốn
hút bởi hình ảnh quê hương thân thương, hồn thiêng sông núi như phảng phất đâu
đây; công viên Văn Lang, đường Hồng Bàng, đường Hùng Vương, đường Âu Cơ như
nhắc nhở những bài học lịch sử, những công ơn của tiền nhân trong việc xây dựng và
gìn giữ nước. Tiếng gà gáy ban đêm, những điệu vũ cổ truyền sẽ ru hồn du khách vào
những ngày xa xưa ấy. Còn đồng bào ta tại Phi, dù có làm ăn buôn bán xa xôi, không
quên trở về làng trong những dịp hội hè, đình đám, hay cuối tuần, niềm nhớ nhung
khôn xiết như một đồng bào đã diễn tả.
Nhân Hòa: Người Phi rất hiền hòa và hiếu khách. Đồng bào ta cần cù, chịu khó. Chỉ
trong một thời gian ngắn ngủi từ hai bàn tay trắng, đã làm nên sự nghiệp, nhiều người
đã trở thành chủ nhân của các cơ sở thương mại, kinh doanh.
Các trường học Phi từ bậc tiểu học đến đại học đều giảng dạy bằng tiếng Anh. Tiếng
Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế. Các bạn trẻ sau khi tốt nghiệp có thể dùng tài
năng của mình ra thi thố khắp năm Châu. Trong khi đó, kiều bào ta tại các nước Âu
Châu nhất là tại Đức, Na-Uy, phải mất rất nhiều thời gian học hỏi tiếng bản xứ để rồi
khi rời khỏi nước họ vẫn cảm thấy mình như câm như điếc.
Một chân trời xán lạn: Bên cạnh những tiểu công nghệ đang hoạt động, làng cần có
đường hướng phát triển kinh tế lâu dài. Dân có giầu, làng mới mạnh. Với những thuận
lợi như vừa trình bày trên, làng có thể trở thành một trung tâm du lịch có quán trọ, nhà
hàng và nơi trình diễn văn nghệ cổ truyền dân tộc. Kỹ nghệ du lịch không những làm
nổi bật nét văn hóa, đặc thù của một dân tộc đã có trên 4000 năm văn hiến mà còn tạo
nên nhiều công ăn việc làm có lợi tức cao cho đồng bào. Điều này đã được Ban Đại
Diện làng nghĩ tới, thực hiện lần từng bước mà khởi đầu là Trung Tâm Văn Hóa sẽ
được xây dựng trong một ngày gần đây.
Niềm tự hào: Sang thiên niên kỷ tới sử Việt sẽ ghi chếp rằng: “Một nhóm người Việt
đã vượt Thái Bình Dương đi tìm Tự Do. Sau những ngày tháng lênh đênh trên biển cả,
họ đã trôi dạt vào quần đảo Palawan thuộc Phi. Đổ biết bao mồ hôi nước mặt, học đã
xẻ núi, phá rừng, tạo nên một Làng trù mật với đầy đủ sắc thái Việt Nam...” Nối ý chí
tiền nhân, các bạn đang làm nên lịch sử. Công lao của các bạn sẽ muôn đời ghi vào sử
xanh. Các bạn sẽ là tổ tiên của dòng giống Việt tại xứ sở này.
Hãy tự hào là con nước Việt, hãy tự hào là dân Làng Việt, các bạn còn chần chờ gì
nữa không bắt tay vào công cuộc xây dựng Làng, biến mỗi gia đình thành một tổ ấm
có nếp sống văn minh, có tình tự dân tộc. Đây là một Làng Việt Nam ở ngoài nước
Việt Nam.
Để kết luận, chúng tôi muốn phỏng theo lời cố Tổng Phụ Chương III. D

TÂM TÌNH HẢI NGOẠI
(Bài nói chuyện của một TNVHN
trong lễ kỷ niệm 2 năm thành lập Làng)

Kính thưa quý vị,
Thưa các bạn,

Đầu năm 1999, dân Làng thấy một thanh niên, cỡ tuổi “Tri Thiên Mệnh” đi bộ từ đầu
đến cuối làng, từ nam đến bắc, khi vượt suối khi băng đồi, dưới ánh nắng gay gắt của
buổi trưa hè cũng như dưới cơn mưa tầm tã. Anh đi khắp 4 Vùng Chiến Thuật để thu
thập dữ kiện..., lập đồ án kiến thiết Làng, như lời chị Khỏe phát biểu.
Đó là hình ảnh của một thiện nguyện viên hảingoaị.

* **

Những lý do nào đã thôi thúc anh chị em thiện nguyện viên hải ngoại, bỏ công ăn việc
làm, đến đây để chung sống với dân Làng, đồng cam cộng khổ, chia xẻ cái vui cũng
như nỗi buồn. Hình ảnh anh Cung, chị Hải, chị Liễu và bao cảnh ngộ khác làm tim
chúng tôi thắt lại.
1. Quê Hương: Khi còn ở hải ngoại, được thấy hình ngôi chùa, mái đình cong, cảm
giác về Làng Việt Nam đối với chúng tôi rất mơ hồ bàng bạc. Chỉ khi nào về đây sống
với dân Làng, cảm nhận của chúng tôi mới trọn vẹn về cả hồn và xác. Hình ảnh quê
hương và tình tự dân tộc nơi đây được kết hợp nơi đây một cách hài hòa và nhuần
nhuyễn.
Khác hẳn với các Cộng đồng người Việt trên thế giới, Cộng đồng người Việt tại đây
sống quay quần thành làng xóm trong có đình, chùa, nhà thờ, hội thánh, thánh thất.
Với những đường ngang phố dọc thẳng tắp, Làng được trang bị đầy đủ tiện nghi như
điện nước, hệ thống thoát nước mưa, nước dơ cùng những phương tiện truyền thanh,
truyền hình.
Làng cũng là nơi giao lưu của 2 con suối, phía tây dựa vào trường sơn trùng trùng
điệp điệp, phía đông trông ra biển Su Lu hiền hòa, khí hậu trong lành. Với địa linh
như vậy, nơi đây ắt phá sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt.
Đi sâu vào trong Làng, đó đấy rải rác những luống rau, những dậu mồng tơi, những
bụi mía, giàn mướp, cùng những bầy gà ríu rít. Thấp thoáng trong màu xanh của lá là
bóng dáng hiền dịu của các bà nội trợ đưa con tới trường. Tiếng gà gáy ban mai, tiếng
ru con ầu ơ giữa buổi trưa hè đã làm chúng tôi nghẹn ngào: “Quê hương tôi còn đó”.
Công viên Văn Lang với tượng đài Đức Mẹ La Vang, đường Hồng Bàng, đại lộ Hùng
Vương, đường Âu Cơ như nhắc nhở những bài học lịch sử, những công ơn của tiền
nhân trong việc xây dựng và gìn giữ nước. Chúng tôi bị cuốn hút bởi hình ảnh quê
hương thân thương, hồn thiêng sông núi như phảng phất đâu đây. Không Cộng đồng
người Việt nào trên thế giới ngay cả trong nước còn duy trì những văn hóa cổ truyền
như tại đây. Chúng tôi bồi hồi xúc động khi chứng kiến ngày lễ dựng nên và đưa ông

Táo về trời (tập tục này hầu như mai một cả trong lẫn ngoài nước). Càng bồi hồi xúc
động hơn khi Tết đến. Ngày 28 Tết dân làng nấu bánh chưng chung. Đâu năm, nhà
nào cũng đưa thành câu đối đỏ, xác pháo đầy đường, người lớn hái lộc, trẻ con nhận lì
xì.
2. Niềm tự hào: Trong 2 năm tại Làng và trong 8 năm tại trại, quý vị đã đổ không biết
bao nhiêu mồ hôi nước mắt, chịu đựng bao nhiêu tủi hờn đắng cay để Làng Việt Nam
có một bộ mặt như ngày hôm nay. Riêng chuyện quý vị vượt Thái Bình Dương, một
biển sâu và nhiều bão tố nhất thế giới đã nói lên sự can trường của quý vị (tôi đề nghị
Chủ tịch Làng cấp chứng chỉ “Vượt Thái Bình Dương” cho quý vị).
Sang thiên niên kỷ tới, sử Việt sẽ ghi chép rằng “vào cuối thế kỷ 20, một nhóm người
Việt đã vượt Thái Bình Dương đi tìm tự do. Sau những ngày tháng lênh đênh trên biển
cả, họ đã trôi dạt vào quần đảo Palawan thuộc Phi. Họ đã đổ biết bao mồ hôi nước
mắt, tạo nên một Làng trù phú với đầy đủ sắc thái Việt Nam...! Nối ý chí tiền nhân,
quý vị đang làm nên lịch sử. Công lao của quý vị sẽ muôn đời ghi vào sử xanh. Quý vị
sẽ là tổ tiên của dòng giống Bách Việt tại xứ sở này. Đây là Làng Việt Nam ở ngoài
nước Việt Nam. Chưa thế kỷ nào, con cháu Bách Việt tản mát khắp 4 phương trời.
Trước khi chia tay, Bố Lạc Long Quân có dặn Mẹ Âu Cơ rằng “khi nào có biến, ta sẽ
về tiếp cứu”.
3. Đóng góp: Làng Việt Nam tại Phi là một niềm tự hào cho tất cả người Việt trong
nước và ngoài nước.
Chúng tôi chỉ là những người hưởng thụ niềm hãnh diện do công sức quý vị tạo ra.
Hưởng thụ mà không đóng góp là lỗi đạo công bằng. Đó là lý do thôi thúc các anh chị
em thiện nguyện viên hải ngoại đã, đang, và sẽ có mặt tại Làng.
Dù ở đây 1 tuần, 1 tháng hay 1 năm, chúng tôi đã đem tất cả con tim chan chứa tình
yêu đồng bào, quê hương, và khối óc ra kiến thiết Làng. Dù thành quả chẳng đáng là
bao, nhưng sự hiện diện của chúng tôi đã nói lên lòng biết ơn muôn một của chúng tôi
đối với quý vị. Tuy cách mặt không xa lòng, đồng bào hải ngoại lúc nào cũng hướng
về quý vị.

***

Kính thưa quý vị,
Con đường đi tới còn dài, còn lắm chông gai, chúng tôi hy vọng với sự quyết tâm của
dân Làng và sự hỗ trợ tích cực của đồng bào hải ngoại, việc dựng Làng và giữ Làng sẽ
nhất định thành công, Làng Việt Nam sẽ trường tồn mãi mãi.
Được như vậy, chúng ta sẽ không những làm rạng danh tiên tổ mà không hổ thẹn đối
với những thế hệ con cháu mai sau.
Trong một dịp khác, chúng tôi sẽ trình bày kế hoạch xây dựng và phát triển Làng. Xin
chân thành cảm ơn quý vị đã lắng nghe chúng tôi giãi bày tâm sự.
Trân trọng kính chào quý vị.

Bùi Đức Hợp

Phụ Chương III. E

LỄ DỰNG NÊU QUA CẢM NGHĨ CỦA MỘT ĐỒNG BÀO PHƯƠNG XA

Hằng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp ta, Làng Việt Nam tại Phi cử hành lễ dựng
nêu và đưa ông Táo về Trời.
Từ moị nẻo đường, dân Làng đổ xô về chùa, nơi có đặt sẵn một thân tre non xanh dài
độ 50 bộ với lá xanh tua tủa nơi ngọn cây. Chiều nay thời tiết mát dịu, gió biển từng
cơn thổi về. Tiếng trống, tiếng phèng, tiếng chân bước làm náo động cả bầu trời
phương Nam.
Đi đầu đám rước là các em thiếu niên thuộc Liên Đoàn “Hướng đạo ra khơi”. Các em
di chuyển nhịp nhàng thân nêu từ Chùa tới dinh theo tiên lệnh của trưởng đoàn. Theo
sau là đội múa lân với chiêng trống thùng thình, rồi đến các em học sinh mặc đồ đồng
phục, cùng nhiều dân Làng và đồng bào từ phương xa về ăn Tét. Sau cùng là quan
khách và các chức sắc trong Làng. Mọi người đều trang phục chỉnh tề, nhất là các
thiếu nữ xinh đẹp với tà áo dài thướt tha bay lượn. Đám rước như gợi lại những ngày
Tết tại quê nhà.
Quê tôi thuộc vùng châu thổ sông Hồng, mỗi lần Tết về giữa mưa phùn gió bấc, tôi và
các anh tôi thường băng qua những cánh đồng ải, thắp hương trên từng mộ phần để
mời ông bà tổ tiên về ăn Tết. Nhà nhà dựng nêu. Bàn thờ lau chùi sáng choang. Cây
nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh là những thứ không thể thiếu trong mấy ngày Tết.
Nhà giàu trong Làng tát ao, mổ bò, giết lợn. Từ năm 1948 - 1954, giặc về, cây nêu
không còn nữa. Từ năm 1954 - 1975, miền Nam tuy có những tháng năm thanh bình,
nhưng không mấy nhà dựng nêu. Cho đến nay, hình ảnh cây nêu hầu như mai một
trong các Cộng đồng người Việt khắp năm châu và ngay cả trong nước.
Cây nêu là tập tục cổ truyền trong ngày Tết, ngoài ý nghĩa trừ ma quỷ nó còn mang ý
nghĩa sâu xa của nền đạo lý cổ truyền. Nơi nào có cây nêu, nơi đó có hồn thiêng sông
núi.

Chẳng mấy chốc, mà đám rước tới đình. Giữa hồi chiêng trống, ông Chủ tịch Làng
Chế Nhật Giao cùng hai vị hô hào trong quốc phục trang nghiêm tiến lên bàn thờ tổ
khấn nguyện. Bàn thờ tổ với khói hương nghi ngút, có mâm ngũ quả, dàn cờ quạt và
gươm giáo hai bên, với lộng che. Anh hồn quốc tổ như đã về đây chứng kiến lòng
thành của con cháu. Quá xúc động tôi nghẹn ngào: “Mẹ Âu Cơ ơi, chúng con vẫn còn
đây”.
Sau phần cúng tế, ông Chủ Tịch và quý vị đại diện các tôn giáo tuần tự gắn lễ vật vào
ngọn cây nêu như là phướn, gương bát quái, khánh đồng với 12 con giáp, bánh chưng,
tràng pháo... v..v...
Dựng nêu là cả một kỹ thuật, từ cách cột dây đến cách kéo dây không đầy 5 phút, cây
nêu được dựng lên đứng sừng sững giữa trời cao trong tiếng vỗ tay đồng loạt của dân
Làng. Sau đó là múa lân và pháo nổ mừng xuân.
Lá phướn với câu “Xuân mãn càn khôn, phước lộc toàn” tung bay trước gió, tất cả

như nói lên tình tự của một dân tộc đã có trên 4000 năm văn hiến. Qua nét mặt hân
hoan của em bé đến cụ già đầu bạc răng long tôi cảm thấy một sức sống dạt dào đang
dâng tràn: “Dù trải qua trăm cây ngàn đắng trong suốt hai thế kỷ qua, dân tộc ta vẫn
trường tồn không một thế lực nào có thể hủy diệt nòi giống Việt”. Đã bao lần tôi
khóc vì vận nước nổi trôi, nhưng lần này tôi khóc vì niềm tự hào dân tộc mà dân
Làng đã dày công vun xới, quý vị đã làm sống lại những ngày dựng nước của tiền
nhân:
“Thủa mang gươm đi mở cõi bờ,
Ngàn năm vẫn nhớ đất Thăng Long”.
Tiếp theo lễ dựng nêu là hoạt cảnh Ngọc Hoàng - Táo quân tại sân khấu Đình. Hai
Táo Ông và một Táo Bà đã lần lượt tâu trình lên Ngọc Hoàng nhưng tiến bộ cũng như
những khó khăn tồn tại của dân Làng trong năm qua. Dân Làng cười nghiêng ngửa
khi nghe những báo cáo dí dỏm của Táo và những phán quyết trào lộng của Ngọc
Hoàng. Trước khi khai mạc triều đình, Ngọc Hoàng đã cho đòi ban văn nghệ của
Làng đến trình diễn. Đây là dịp để các thiếu nữ duyên dáng trong chiếc áo dài Việt
Nam biểu diễn vũ khúc “múa nón”. Các quan khách người Phi phải trầm trồ khen
ngợi người đâu mà đẹp vậy!”. Ngoài việc giải trí, sớ “Táo Quân” còn mang nặng tính
cách giáo dục để “thấm” vào lòng người. Tập tục này nên duy trì mãi mãi.
Buổi lễ kết thúc lúc 7 giờ. Dân Làng ra về trong niềm hân hoan tự hào giữa tiếng nhạc
mừng xuân. Không nơi nào trên khắp thế giới có không khí Tết bằng Làng Việt Nam
tại Phi. Làng thật xứng đáng với danh hiệu “bảo tồn văn hóa dân tộc”.
Một lần nữa, tôi xin cảm tạ dân Làng. Từ em bé mới lọt lòng mẹ đến cụ già ngoài 80,
đã cho tôi hưởng một cái Tết đầy tình tự dân tộc mà tôi đã tìm kiếm trong suốt năm
mươi năm dài.
Làng Việt Nam ngày 23 tháng Âm Lịch, năm Mậu Dần.

Trúc Đạo

Phụ Chương III. F

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN LÀNG VIỆT NAM

A. Phần Mở Đầu.
Cách thành phố Puerto Princesa 13km về phía Bắc, Làng Việt Nam (gọi tắt là Làng)
nằm ven quốc lộ Bắc Nam, một trục giao thông chính của quần đảo Palawan, phía Tây
bao bọc bởi trường sơn với cây xanh bóng rợp, phía Đông trông ra biển Sulu thơ
mộng.
Các Công ty du lịch thường đưa du khách từ mọi nơi trên thế giới đến tham quan
Làng, nay đang được chính quyền địa phương khen ngợi xem là tiêu biểu của văn hóa
Việt Nam và đồng thời cũng là một kiểu mẫu môi sinh của thành phố.
Thành phố Puerto Princesa - a taste of Eden - nằm giữa quần đảo, không những là một
trung tâm du lịch nổi tiếng trên thế giới mà còn được bình chọn là thành phố xanh


Click to View FlipBook Version