The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Đội đập đá trại 6 Nghệ Tĩnh - Tác giả Louis Lê Tuấn

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by lanthicung, 2022-03-09 19:32:02

Đội đập đá trại 6 Nghệ Tĩnh- Louis Lê Tuấn

Đội đập đá trại 6 Nghệ Tĩnh - Tác giả Louis Lê Tuấn

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Bò Lục như một bông hoa mọc giữa rừng gươm, dù cho
loài hoa này có phải là loài (hoa cứt lợn) hay không, thì nó vẫn
mang đến một sắc màu cho đời sống bớt phần tẻ nhạt. Thật ra
hoa cứt lợn là một loài hoa ngũ sắc khá đẹp, chỉ vì thân và lá có
mùi hôi, nên phải mang cái tên xấu xí ấy.

Bò Lục có một người tù phụ giúp đó là Trung úy Đẩu
huấn luyện viên võ thuật cho Không Quân, tôi không biết
nguyên do từ đâu mà anh Đẩu được làm phụ tá cho Bò Lục, coi
luôn đội Già yếu, bệnh hoạn.

Đội Giá yếu nằm cuối trại, bên cạnh cái giếng nước, và
một cây mít tỏa bóng mát. Vị trí đội cũng gần với phòng biệt
giam, nơi giam những người tù bị kỷ luật. phòng giam kỷ luật
thật bẩn thỉu, tối tăm, người tù sẽ bị cùm chân vào bệ xi măng
(ciment), tiểu tiện tại chỗ, ăn uống rất thiếu thốn, mỗi ngày được
tháo cùm ra ngoài để làm vệ sinh.

Phòng biệt giam luôn có một người tù, đó là một vị linh
mục (không nhớ tên), mỗi buổi sáng, ông được tháo còng ra
giếng múc nước mỗi ngày. Sau này nhà thơ Hà Thượng Nhân và
nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm cũng đã tạm trú nơi biệt giam một thời
gian, đến khi cụ Hà Thượng Nhân được thả ra cụ Hà đã được
chuyển đến đội gìa yếu, làm người bạn cờ tướng với nhà văn
Nguyễn Trung Dũng.

Đại úy Nguyễn Trung Dũng binh chủng Truyền Tin. Ông
sinh quán tại Bắc Ninh, di cư vào miền nam, học sinh Chu Văn
An, sau nhập ngũ, chức vụ cuối cùng Đại Úy Truyền Tin. Anh
Dũng là một nhà văn, có nhiều tác phẩm đã xuất bản trước năm
1975.

Trong Thành Phố - Ngoài Mặt Trận (1966)
Bên Này Sông - Bên Kia Sông (1968)

100

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Vết Đạn Thù (1969).

Sau này định cư tại Hoa Kỳ ông cũng xuất bản nhiều tác

phẩm. Tôi và nhà văn Nguyễn Trung Dũng có một cơ duyên, khi

gặp lại ông tại thành phố San Jose. Tôi đã giúp ông (layout)

trình bày và bố cục, cho hai tác phẩm truyện ngắn, sách in tại hệ

thống Amazon.

Góc thương xá phố Tấu.

Bụi hồng vàng và con chim cánh đỏ. (2018)

Nguyễn Trung Dũng, một con người có nhân cách, tự
trọng và điềm đạm, ít nói, dáng người nhỏ, gầy. Ông có mặt
trong đội (Già yếu), rất sớm. Ông kể cho tôi nghe, khi ông bị
bệnh đến khám bệnh tại trạm xá, ông khai bệnh với nữ ý tá Bò
Lục, lúc đó đội trưởng Đẩu đứng gần đó nói chen ngang;

Tôi thấy anh Dũng này, không bệnh hoạn gì cả, cho đi
lao động. Nữ ý tá Bò Lục nhìn anh Dũng, nhận thấy con người
nhỏ con, gầy yếu, đang đứng trước mặt, dường như không đủ
sức đi lao động. Bò Lục cho anh Dũng miễn đi lao động, và từ
đó anh Dũng trở thành đội viên, đội già yếu. Và cũng kể từ đó
anh Dũng, không có thiện cảm với đội trưởng Đẩu (huấn luyện
võ thuật Không Quân)

Đội già yếu không phải ra ngoài đi lao động, chỉ loanh
quanh trong trại, những công việc của anh em trong đội Già yếu,
phân ra hai loại.

Loại quá yếu thì quét sân, hay ngồi nhổ cỏ. Loại còn ít

sức khỏe thì làm công việc khá nặng nhọc, mỗi ngày phải

khiêng thùng đến các nhà cầu (cầu tiêu), múc nước tiểu và phân,

đổ vào thùng chứa, khiêng ra cổng cho người mang đến đội tăng

gia sản xuất, làm phân bón trồng rau. Công việc này hôi thối vô

cùng. Anh Dũng đã nhiều lần phải làm công việc này.

101

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Đội Gìa yếu vậy mà cũng có nhiều mẩu chuyện vui. Một
hôm có anh đến khám bệnh, rồi kể lại cho anh em nghe. Anh
nói: Con mụ ý tá Bò Lục coi trạm xá, cũng là loại dâm nữ.

Một hôm tôi đến khám bệnh, tôi khai bệnh, bị đau bọng
đái, muốn xin thuốc uống giảm đau. Bò Lục cố tình bắt tôi cởi
quần để khám mới chịu cấp thuốc. Cởi thì cởi, thế là tôi tụt quần
cởi truồng. Bó Lục đứng nhìn hai mắt cứ đờ ra.

Có anh bạn nói chen vào câu chuyện về Bò Lục
Anh bạn này nói:
- Đến bây giờ các ông mới biết Bò Lục là dâm nữ, thì quá
muộn rồi. Tụi tôi đi lao động ngòai trại, mỗi buổi chiều về, cả
đám trần truồng nhào xuống ao tắm, mười lần hết chín, chúng
tôi nhìn lên, đều thấy Bò Lục đi ngang, tay cầm nón cối che mặt,
nhưng mắt thì liếc nhìn, những thân hình đàn ông trần truồng
như nhộng dưới ao. Dường như Bò Lục cố tình đi ngang vào
những giờ người tù xuống ao tắm.
Có những lần chúng tôi nhìn thấy Bò Lục đi bên cạnh anh
Đẩu, một sĩ quan võ thuật, thân hình cường tráng, hai người dẫn
nhau đi hái dược thảo, bên những bụi cây, hay bên sườn đồi núi,
trông như đôi tình nhân, không biết có chuyện gì xảy ra, chì có
trời biết, đất biết.
Đội già yếu có thêm một nhân vật đó là Minh khùng,
không biết Minh khùng bị điên giả hay thật, nhưng sau nhiều lần
kiểm chứng, Minh khùng được về đội Già yếu. Trước khi vượt
qua những kiểm chứng bệnh tâm thần. Minh đã bị biệt giam,
nhưng Minh đã tuyệt thực, chống đối đến cùng, suốt ngày chửi
rủa cộng sản, anh bị đánh đập cũng không ăn thua, cuối cùng
cán bộ trại nhượng bộ, cho Minh khùng miễn lao động, suốt
ngày lang thang nhìn trời nhìn đất, lẩm bẩm nói lung tung. Anh

102

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Minh bị điên thật hay giả, chỉ một mình anh biết, điều duy nhất
chúng tôi nhận thấy đó là, anh Minh đã thành công, là người tù
duy nhất không phải làm bất cứ điều gì.

Cuộc sống trong tù vậy mà có nhiều tin tức đồn thổi lung
tung, từ những tin lượm lặt đăng trong tờ báo cũ, dùng để gói
quà, rồi tin đồn từ thân nhân đến thăm nuôi, tức là tin từ miền
Nam, có cả tin đồn chính phủ Mỹ đang thương lượng, sẽ đến tận
nhà tù để bốc tù chính trị đi thẳng qua Mỹ, những tin đồn được
thổi phồng, qua các nhà tiên tri, bói toán mới nổi lên trong trại
tù. Vậy mà nó cũng có một tác động nho nhỏ, tạo thêm niềm tin
cho người tù.

Tuy nhiên có một tin tức rất nóng hổi, từ đội rau xanh,
anh em đã chứng kiến tận mắt, có một xe Molotova chở đến một
chuyến hàng, gồm có 7 thùng hàng lớn, được tù hình sự khiêng
xuống, nguồn tin còn cho biết rất chính xác, bên trong thùng
chứa toàn là còng số 8, loại còng để còng tay tội phạm.

Tin đồn rồi cũng nhanh chóng qua đi. Mỗi sáng tiếng
kẻng đánh thức, khi mặt trời vừa ló rạng qua bức tường đá, tiếng
con gà trống nuôi tại nhà bếp cất tiếng gáy vang. Người tù uể
oải thức dậy chuẩn bị cho một ngày mới, lao động vất vả, cuốc
đất, lên luống trồng rau, khoai, sắn, đập đá, nấu vôi. Một ngày
với những công việc nặng nhọc, vất vả, dưới cái nắng nóng khi
mùa hè, hay cái buốt giá mưa phùn, khi mùa đông. Thân xác
người tù rã rời, mệt mỏi, cho đến khi buổi chiều vàng, lầm lũi đi
về trại tù, nhận lãnh một phần ăn quá ít, chỉ đủ không bị chết vì
đói. Tiếng kẻng vang lên (leng keng) như tiếng chuông gọi hồn,
đó là tiếng kẻng vào chuồng, lại đếm số từ 1 cho đến người cuối

103

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

cùng, cửa phòng giam khóa lại, người tù chìm trong giấc ngủ ma
quái, không có một tia hy vọng nào cho tương lai.

Ấy thế mà trại tù số 6, cũng xảy ra một vụ trốn trại. Cuộc
vượt ngục lần này tổ chức có vẻ rất quy mô. Cửa sổ song sắt đã
được cưa từ trước và ngụy trang rất khéo léo, chỉ cần bẻ cong là
chui ra ngoài. Nhóm trốn trại có 4 người, tôi chỉ nhớ tên, gồm có
Anh Xường – Anh Đại (Quận trưởng Chợ Gạo, Long Xuyên) –
Anh Xuyên (Thiết giáp) và anh Thơm phi công trực thăng.

Nhóm 4 người đã vượt thoát một cách ngoạn mục, khiến
cho ban chi huy trại phải huy động lực lượng đi truy lùng. Cả
trại nghỉ lao động phải lên hội trường nghe thuyết giảng với đủ
thứ lời đe dọa. Chúng tôi ngồi nghe, anh em thầm cầu cho,
nhóm 4 người vượt thoát một cách bình an.

Mấy ngày sau, một tin buồn đến với chúng tôi. Ban chi
huy trại tuyên bố, nhóm trốn trại đã bị bắt, 2 trong số người này
đã bị bắn chết, Anh Đại và anh Xường còn sống, 2 anh bị
thương nặng vì bị đánh đập trên đường chuyển về trại 6. Cả hai
bị biệt giam, suốt một thời gian dài, cho đến ngày 2 anh được
cho về đội. Tôi đã đến thăm Anh Đại, anh nằm trên cái chiếu
rách, cài vòng bụng của anh mỏng dính như dán chặt dưới manh
chiếu, tất cả xương cốt nổi lên, gương mặt anh trông như một
cái đầu lâu, riêng cặp mắt anh Đại vẫn chuyển động, trông anh
như bộ xương người trưng bày cho sinh viên y khoa học. Anh
Đại đã sống sót. Sau này được biết anh Đại đi định cư tại Texas.

Những tin tức, những sự kiện rồi cũng nhanh chóng qua
đi, không ai còn đủ sức để mà nghĩ đến. Lại có nguồn tin mới
lan truyền rộng rãi trong trại, đó là trên ban chỉ huy trại, đang có
một buổi họp quan trọng với giới chức từ Tỉnh Thành về họp.

104

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Nguồn tin lần này có vẻ đáng tin cậy, như vậy chắc chắn phải có
chuyện gì xẩy ra, theo tin đồn là sắp có đợt chuyển trại.

Người tù cũng không cần phải đợi lâu. Vào mộ buổi sáng
sớm, cánh cổng trại tù mở rộng, một toán đông công an áo vàng,
súng AK cầm tay đi vào đứng hai bên, một vài cán Bộ cấp cao,
tay sách cặp, tay cầm những hồ sơ dầy cộm, tất cả bước vào hội
trường.

Cán bộ ra lệnh cho tất cả các đội, mang hết tư trang ra tập
họp chuẩn bị chuyển trại. Chúng tôi mang hết tư trang ra ngồi
xẹp xuống đất, ngồi chờ lệnh. Đại đa số anh em cũng bàn tán
suy đoán chuyển trại lần này chắc sẽ đi vào miền Nam, thế
nhưng tin tức về mấy thùng còng số 8 thì sao, không lẽ để còng
tay chúng mình.

Không phải chờ đợi lâu. Trại trưởng trại tù số 6 đã lên
tiếng, với chất giọng Nghệ Tĩnh hơi khó nghe, ông ta đọc thông
cáo.

Các anh nghe đây, do chỉ thị từ trên đưa xuống, hôm nay
các anh sẽ có một đợt chuyển trại. Các anh hãy giữ im lặng,
nghe cán bộ đọc tên, những ai có tên thì đứng lên, đi về bên trái
hội trường, những ai không nghe đọc tên mình, thì ngồi yên tại
chỗ sẽ có cán bộ hướng dẫn sau.

Cán bộ đọc tên từng người, lần lượt những người nghe
đọc tên mình thì đứng lên đi qua bên trái, số người được đọc tên
càng lúc càng đông, tất cả đứng dồn về bên trái hội trường, số
anh em không được đọc tên mình thì ngồi lại tại chỗ, những
khoảng trống cáng lúc càng rộng hơn, còn lại lưa thưa một số ít
người ngồi lại. Cá nhân tôi cũng nằm trong số những người
không có tên, vào khoảng 50 người bị kẹt ở lại, anh em chúng
tôi nhìn nhau với một tâm trạng thật buồn, không biết số phận

105

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

của mình sẽ đi về đâu. Một số bạn bè có tên ra đi, nhắn lời chia
tay với số ít người còn ở lại.

Tất cả những anh em có tên chuyển trại, đã lần lượt ra
khỏi cổng trại, nơi đó có đoàn xe Molotova đang chờ sẵn, sẽ đưa
tất cả ra nhà ga Vinh, trên sân ga có đoàn tầu đang chờ sẵn, số
thùng còng số 8, được mở ra, cứ hai người tù bị còng chung một
cái, người bên tay trái, người bên tay phải, thành một cặp đôi,
nếu một người muốn đi tiểu, người bạn chung một cái còng,
cũng phải đi theo, anh em sẽ bị còng như thế, cho đến điểm cuối
cùng tại nhà ga Hàm Tân. Chuyển về trại giam Hàm Tân Z30D.

Những anh em còn ở lại được gộp chung thành một đội,
vào khỏang 50 người, chúng tôi mang hết tư trang, tập trung vào
một phòng, lần này phòng giam tù trở nên trống trải rộng rãi,
mỗi người có thể trải chiếu, giăng màn, nằm thoải mái.

Trong nhóm người bị ở lại, ngoài tôi ra, còn có Dương
Văn Chương tức (Chương Dỏm), Cưu TSQ Đại úy Phạm Trọng
Khiêm (An ninh quân đội) và những người bạn mà tôi quên tên.
Trại tù số 6, trở nên trống vắng, nhiều phòng giam bỏ trống,

Những người còn ở lại, mấy ngày liền chúng tôi không
phải đi lao động, nhìn quanh trại tù, chỉ toàn là tù hình sự,
những người tù chính trị, còn lại như chúng tôi không biết sẽ đi
về đâu, có những tin đồn chúng tôi sẽ chuyển trại đi nơi khác.

Thời gian này là mùa hè, đã bước vào tháng 7 năm 1982.
Một tháng sau khi có đợt chuyển tù chính trị về hàm Tân Z30D.
Đến lượt chúng tôi chuyển trại.

Buổi sáng sớm, một toán nhỏ cán bộ công an vào trại:
Cán bộ cấp cao trên Ban Chỉ Huy trại tuyên bố;
- Tất cả các anh chuyển trại ngay hôm nay, các anh vào lấy
hành trang chuẩn bị ra xe,

106

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

lần này cán bộ không dấu diếm, họ nói thẳng nơi đến. Đó là trại
3 Tân Kỳ, Nghệ An, điều này có nghĩa rằng, chúng tôi bị đi
ngược về phía bắc, không được vào miền Nam, thật đáng buồn
cho anh em chúng tôi.

Ngoài cổng trại có 4 xe Molotova chờ sẵn, chúng tôi leo
lên, ngồi bệt xuống sàn xe, có một điều ngạc nhiên là chúng tôi
không bị còng tay. Đoàn xe từ từ chuyển bánh chạy trên con
đường đất đỏ bụi mù, hình ảnh trại 6, những bức tường đá,
những ruộng rau, và hai ngọn núi đá vôi, mờ dần theo lớp bụi
đường xa.

Đoàn xe chạy đến bến đò Dùng, bắc ngang sông Lam,
chạy về Đô Lương đến thành phố Vinh, chạy theo QL15 về xã
Nghĩa Dũng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An. Trại giam số 3, trực
thuộc V26 Tổng Cục 8 Bộ Công An.

Trại tù số 6 Thanh Chương, cũng giống như trại tù số 3
Tân Kỳ, đều trực thuộc Bộ Công An quản lý, chúng tôi đền trại
3 cũng không có gì là bỡ ngỡ, chỉ có vị trí và phong cảnh là khác
biệt. Chúng tôi được phân theo đội và nhập chung với, những tù
chính trị đã ở đây trước khi chúng tôi chuyển đến. tất cả đều là
anh em Sĩ Quan chế độ cũ, chúng tôi lại gặp nhau, đôi khi có
người đã quen biết từ trước, như cùng khóa, cùng đơn vị.

Có một điều sự gặp gỡ lần này, đã làm tôi lo âu, bởi vì
thành phần tù chính trị tại nơi này có nhiều thành phần khác
nhau. Đặc biệt là anh em biệt kích, phải nói cho đúng hơn đó là
những điệp viên xâm nhập vào lãnh thổ của miền bắc VN. Mà
sau này tôi có dịp đọc qua tác phẩm Thép Đen của nhà văn
Đặng Chí Bình, với bí danh (X20), là một trong những tù binh
chiến tranh từ năm 1962.

107

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Đặng Chí Bình đã trải qua 18 năm lưu đầy, nhưng ông
vẫn hiên ngang, tâm hồn ông chính là sắt thép, một viên kim
cương quý hiếm nhất, một tinh thần bất khuất của người chiến sĩ
QLVNCH.

Tôi giật mình chợt nghĩ không lẽ thân phận tôi chỉ là một
con tép riu nhỏ bé, lại bị lưu đầy một thời gian dài như vậy hay
sao. Tôi chợt nhìn lại xung quanh có biết bao anh em giống như
mình, thôi thì cũng mặc cho số phận đưa đẩy tới đâu hay đó.

Trại 3 Tân Kỳ, vào thời gian đông đúc nhất có thể chứa
trên 1000 tù nhân, thế nhưng gần đây mới có lần chuyển trại,
một số đông anh em tù chính trị đã chuyển về miền Nam, và một
số ít tù chính trị ở các trại bị dồn về đây, trong đó có anh em trại
6 Thanh Chương.

Trại 3 Tân Kỳ có hai khu, anh em tù đặt tên là khu Đông
Đức và khu Tây Đức, hiện tại trại 3 có vào khoảng 500 tù nhân,
bao gồm nhiều thành phần.

Nổi bật nhất là anh em Biệt Kích, người tù nổi tiếng nhất
trong nhóm biệt kích là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, anh Luyện
là người tù binh duy nhất không bị đi lao động, sự cương quyết
đấu tranh, của anh đã được mặc nhiên thừa nhận từ rất lâu.
Nguyễn Hữu Luyện có tiếng nói rất trọng lực, vì toàn thể anh
em tù biệt kích đều lắng nghe mệnh lệnh của anh, mọi người
xem anh là vị chỉ huy tối cao.

Ngoài ra trại 3 còn giam giữ, một lực lượng Fulro. Mặt
trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức (Front unifié pour
la Libération des races opprimées), đây là một tổ chức do người
Pháp bảo trợ. Phong trào này đã hình thành từ năm 1960, đã gây
không ít phiền toái dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Đa số anh em

108

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Fulro là người Thượng Tây Nguyên, có một điều lạ, là anh em
Fulro khai báo toàn chức vụ cao, từ Thiếu Tá đến cấp Đại
Tướng, riêng trại 3 Tân Kỳ đã giam giữ khoảng 200 cấp tướng
của Fulro. Mà thật ra những anh em này chỉ là đồng bào thiểu
số, không biết chữ, họ rất ngây thơ, thể hiện qua từng cử chỉ lời
nói, họ chỉ nhe răng cười một cách rất hồn nhiên, vậy mà họ rất
thích cấp bậc cao, tự khai lý lịch là cấp tướng cho oai.

Trại 3 Tân Kỳ là một trại giam, có nhiều thành phần tù
chính trị bị giam cầm tại nơi này. Một số đông các vị linh mục
Tuyên Úy Công Giáo (các Cha) từ trại Bình Đà, trại Thanh
Phong thuộc Thanh Hóa, bị chuyển trại đến tập trung tại trại 3
Tân Kỳ. quý Cha có hỏi thăm tôi, vì biết tôi là người Công Giáo,
tôi không nhớ tên các vị Linh Mục, vì tôi ở đội khác, không
cùng chung một phòng giam.

Còn một thành phần tù chính trị rất đặc biệt đó là (Những
người tù khờ dại) từ con tầu định mệnh Việt Nam Thương Tín.

Con tàu Việt Nam Thương Tín là một con tàu vận tải
hang hải. Ngày 30 tháng 4 năm 1975. Từ Sài Gòn con tàu này
chạy qua khu Rừng Sát trên sông Lòng Tàu, vào khoảng 12 giờ
trưa, con tàu đã bị bắn trúng 3 trái đạn pháo, không may cho nhà
văn Chu Tử và một cháu bé, trúng đạn, chết ngay trên tàu. Con
tầu bị trúng đạn, vẫn tiếp tục chạy đến Vịnh Subic thuộc Philip-
pines. Tại nơi đây con tầu VNTT đã được sửa chữa, chạy về đảo
Guam.

Anh em tù VNTT đã kể lại cho tôi nghe, vào thời gian
đó, Hải Quân Hoa Kỳ, đã cung cấp đầy đủ tiện nghi, thực phẩm
dư thừa, quần áo, chăn màn rất nhiều, người tị nạn tha hồ lấy về
lều, ăn không hết, thì vứt đi, những tấm (chăn đắp) còn mới
nguyên trong bọc, người tị nạn lấy về, đem trải xuống nền cát

109

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

trong lều để làm thảm dẫm lên, hình ảnh này làm người Mỹ phải
lắc đầu, bởi vì họ phát chăn để đắp, không phải để làm thảm
nhà.

Trên đảo Guam vào thời điểm đó có vào khoảng 1,600
người, một số đông họ đòi trở về Việt Nam. Chính quyền Hoa
Kỳ cho họ có quyền tự quyết định. Riêng con tầu VN Thương
Tín , đã được Hải Quân Hoa Kỳ, cho sửa chữa, trang bị đầy đủ
nước uống và thực phẩm, để sẵng sàng trở về VN. Người Chỉ
Huy con tàu là Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ, và một nhạc
sĩ Hải Quân Nguyễn Thìn, tức Trường Sa

Sau này tôi có dịp nói chuyện với Trung Tá Trần Định
Trụ, ông đã kể lại, vào thời gian đó tâm trạng cuả người tị nạn,
đều nhớ nhà không muốn xa gia đình, cộng thêm sự tuyên
truyền của cộng sản (Xóa bỏ hận thù) qua những tờ báo do Nga
Xô ấn hành, do đó một số đông đồng bào đòi về lại VN. Con số
ghi danh trở về là 1,600 người. Một con số quá đông. do đó hải
Quân Mỹ phải nâng cấp và sửa chữa con tầu VNTT.

Sáu tháng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày định
mệnh đã đến đó là ngày 16 tháng 10 năm 1975, con tàu VNTT
đã được phép ra khơi trở về VN. Chính Phủ Mỹ cũng biết những
người tị nạn VN, đang bị cộng sản tuyên truyền xúi dục. Trước
khi lên tàu, người Mỹ vẫn mở ra một cơ hội cuối cùng cho
những ai muốn xin ở lại. Tại cổng lên tầu Hải Quân Mỹ, phân ra
hai cổng, một cổng lên tàu, và một cổng ở lại, cũng có một số
người đi vào cổng xin ở lại. Cuối cùng có tất cả 1,546 người
quyết định về lại VN.

Trung Tá Trụ, kể tiếp cho anh em chúng tôi nghe, khi con
tàu VNTT ra khơi. Hải Quân Mỹ luôn theo dõi, có những chiếc
trực thăng bay thấp trên vùng trời con tầu VNTT, để bảo đảm sự

110

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

an toàn tuyệt đối, sự quan tâm của Hải Quân Mỹ đã theo sát con
tàu VNTT cho đến khi về đến Việt Nam.

Ngày 27 tháng 10 năm 1975, con tàu VNTT cặp bến
Vũng Tầu, nhưng chính quyền (Mặt trận giải phóng) tại nơi đây
không cho cặp bến, con tàu VNTT phải rời bến chạy về Nha
Trang, tất cả người tị nạn đều bị bắt giam ở trại Đồng Tre,
tỉnh Phú Khánh. Thành phần người tị nạn bị phân loại, và số
đông quân nhân Hải Quân VNCH, bị lưu đày đến Trại 3 tân Kỳ.
Đây là lý do khi mở đầu câu chuyện về người tù VNTT, tôi đã
viết trong dấu ngoặc (Những người tù khờ dại).

Những người tù VNTT bây giờ cảm thấy hối tiếc vì thời
gian tại đảo Guam, so với hoàn cảnh hiện tại thì được ví như.
Thiên Đàng và Địa Ngục. Họ đã đến cửa Thiên Đường của thế
giới tự do, nhưng họ muốn trở về một Thiên đường mù cộng
sản, để bây giờ ngồi ôm hận, bởi vì quá (Khờ dại)

Những tháng cuối năm 1982 tôi đã gặp Trung Tá Trụ tại
trại 3, và một số anh em tù trở về từ con tầu VNTT, bây giờ mọi
người đều có chung một niềm mơ ước đó là được quay trở lại
quá khứ, để quyệt định ở lại trên vùng đất tự do.

Người tù nhạc sĩ Trường Sa, trong ban trật tự của trại
giam số 3, dường như sống biệt lập, không gần gũi với anh em
tù, mỗi lần tập trung đi lao động, tôi thấy Trường Sa với nét mặt
thật buồn, đứng một bên nhìn anh em tù đi lao động.

Tôi hỏi thăm một số anh em ở đây đã lâu, mọi người cho
biết, không ai có thiện cảm với Trường Sa, vì họ cho rằng ông
này là cây Anten cho công an trại 3. Trường hợp của Trường Sa,
gần giống như nhạc sĩ Vũ Thành An, đã để lại nhiều tai tiếng
trong tù.

111

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Trại 3 Tân Kỳ còn có một câu chuyện rất hấp dẫn, đó là
sự vượt ngục thành công của Huỳnh Công Ánh. Tôi được anh
em tù chính trị, ở đây đã lâu kể lại.

Đại Úy Sư Đoàn 22 Bộ Binh Huỳnh Công Ánh, người tù
chính trị trại 3 Tân Kỳ, một con người rất dễ mến, anh có khả
năng sử dụng những nhạc cụ như Guitar hay chơi Violon rất
hay. Huỳnh Công Ánh, là một nhạc sĩ trong ban văn nghệ của
trại 3, vào những ngày lễ Tết, trại 3 thường tổ chức văn nghệ
giúp vui, đôi khi mời cả dân địa phương đến xem, do đó anh
Ánh tạo được nhiều cảm tình với mọi người.

Có một người con gái tên Trần Thị Hoa, trong làng quê,
đem lòng thầm yêu anh Ánh, và một người bạn tù (Hình Sự) tên
Nguyễn Đình Chiến, anh Chiến người tù hình sự được thả ra tù.
Nguyễn Đình Chiến đã trở lại trại giam để giúp Huỳnh Công
Ánh vượt ngục.

Đây là một câu chuyện mang đầy tính nhân bản, một biểu
tượng thiêng liêng của tình người, và một tình yêu thật trong
sáng, và thật vĩ đại của người con gái chân quê Trần Thị Hoa, cô
đã chấp nhận một tình yêu đơn phương, để thầm yêu một người
tù chính trị, mà cô Hoa cũng biết rằng xã hội cộng sản không
chấp nhận, nếu dính líu đến chuyện này, cô sẽ bị bắt và bị giam
cầm tù tôi, nhưng cô không sơ, vì tâm hồn cô Hoa đã tràn ngập
một sức mạnh thật vĩ đại của tình yêu, đó chính là một động lực

mạnh mẽ nhất đã thúc đẩy cô Trần Thị Hoa cùng với
Nguyễn Đình Chiến, giúp Huỳnh Công Ánh vượt ngục.

Chuyện vượt ngục xảy ra vào khoảng năm 1980. Người
tù hình sự Nguyễn Đình Chiến, cùng với cô Trần Thị Hoa, đã
thu xếp một chuyến vượt tù ngọan mục. Họ đã chuẩn bị mọi thứ.

112

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Một ngày Huỳnh Công Ánh đi lao động ra ngoài trại, họ gặp
nhau.

Huỳnh Công Ánh đã nhanh chóng thay bộ quần áo tù,
bằng bộ quân phục bộ đội, đội chiếc nón cối, ngồi sau chiếc xe
đạp, Nguyễn Đình Chiến chở anh Ánh đi ra bờ sông Hiếu.

Sông Hiếu, còn có tên gọi khác là sông Con, là một
nhánh của sông Lam, chảy ngang qua Huyện Tân Kỳ, gần trại 3.
Tại một bến đỗ trên dòng sông này, có con thuyền chờ sẵn, con
thuyền đã đưa hai người trốn thoát khỏi trại 3 Tân Kỳ.

Ban chỉ huy trại tù số 3 Tân Kỳ, sau khi phát hiện tù trốn
trại, họ đã huy động lực lưởng phù kín các con đường đi về
thánh phố, nhất là hướng ra thành phố Vinh, nhưng họ không
thể ngờ được Huỳnh Công Ánh đã đi theo đường sông.

Sau này đọc lại quyển hồi ký của Huỳnh Công Ánh, tôi
mới biết Nguyễn Đình Chiến đã giúp anh Ánh một cách nhiệt
tình, đưa anh Ánh ra nhà ga Vinh, từ đó cả hai về Sài Gòn. Năm
1981 Huỳnh Công Ánh vượt biên đến đảo Pulau Bidong Malay-
sia. Riêng số phận người con gái đa tình Trần Thị Hoa, sẽ như
thế nào tôi không biết. Đọc trong hồi ký của Huỳnh Công Ánh
tôi thấy anh viết như sau:

"Tôi trân quý vô cùng sự hy sinh thầm lặng của cô Hoa.
Tôi nghĩ bất cứ ai trong hoàn cảnh như tôi cũng không làm sao
khỏi cảm động và thương cô. Chữ "thương" ở đây không nhất
thiết là tình cảm trai gái, và dù có cũng không có gì là lạ, mà là
thương cái tình con người, thương sự hy sinh mà không hề đòi
hỏi gì khác.”

Cũng ở trại 3 Tân Kỳ, tôi còn gặp một trường hợp rất hy
hữu, có lần anh bạn rủ tôi đến gặp một người xem chỉ tay, đóan
mệnh số, tôi đến gặp nhà bói toán, thì một số anh em đang ngồi

113

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

nói chuyện với ông thầy, họ nói chuyện bằng tiếng Anh (Eng-
lish).

Từ đó tôi biết câu chuyện rất oan khiên về người tù này.
Thật ra ông là một thuyển trưởng người Đài Loan, khi con tàu
của ông cặp bến, chuyển hàng tại một bến cảng Đà Nẵng, đúng
vào dịp Tết Nguyên Đán, năm Mậu Thân 1968.

Ông thuyền trưởng ghé thăm cố đô Huế như một khách
du lịch, nhưng ông không ngờ xẩy ra cuộc chiến năm Mậu Thân,
khi cộng quân tràn vào chiếm kinh đô Huế. Đêm 30, rạng ngày
31/1/1968, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân bắt đầu tại Huế,
với 25 ngày đêm, nổ súng, để lại biết bao tang thương.

Những tên chỉ điểm cùng với chiến binh cộng sản đi lùng
sục khắp thành phố, chúng bắt và giết rất nhiều thường dân.
Trong số người bị bắt, có ông thuyền trưởng người Đài Loan, vì
ông không biết tiếng Việt, và không tên chỉ điểm nào biết gì về
ông, do đó chúng không giết ông, nhưng chúng bắt giữ ông để
điều tra, từ đó số phận của ông đã trở thành người tù (không có
ngày về), bởi vì họ đã bắt lầm một người Đài Loan vô tội, nếu
họ tha cho ông về Đài Loan, thì không khác gì tự mình tố cáo
chính quyền cộng sản VN, đã vi phạm nhân quyền một cách
trầm trọng. Sau này tôi nghe tin ông đã chết già trong trại tù.

Trại 3 Tân Kỳ lại có một trường hợp đau thương khác, đó
là một người bị điên, ông là một Thiếu Tá đơn vị Địa phương
Quân, lâu quá tôi không nhớ tên ông, nhưng câu chuyện của ông
thật đau lòng, ông Thiếu Tá đã ngoài 60 tuổi, vì bị tù quá lâu,
lòng ông đã quặn đau vì nỗi nhớ thương vợ con, chắc hẳn hoàn
cảnh vợ con ông, đang gặp nhiều khó khăn trong một xã hội
cộng sản, mọi đạo lý luân thường bị lật ngược, những người
Chinh Phụ miền Nam và con cái họ, đang bị phân biệt đối xử, bị

114

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

chèn ép, bị đánh đổ tư sản, bị cưỡng bức đi kinh tế mới. Nỗi lo
âu luôn đè nặng trong tâm trí ông, nó đã gặm nhấm, giằng xé
trong tâm hồn ông, hằng đêm ông thường mê sảng, gọi tên vợ
con, nỗi đau đã bào mòn tâm hồn ông và tâm trí ông , để rồi hóa
điên.

Có một hôm cả trại đang tập họp để phân công đi lao
động, thì ông Thiếu Tá đã trèo lên thật cao trên cây đa gần cuối
sân trại, ông đứng trên đó nhìn xuống những người công an áo
vàng, với giọng nói miền trung, ông bắt đầu chửi.

- Tổ cha bây. Chúng bây hại dân hại nước. Bây hại vợ con
tau, tổ cha bây bất nhân vô hậu. Ông chửi liên tục không ngừng.
Cán bộ đến gần gốc cây, ông đe dọa sẽ nhảy cắm đầu xuống đất
chết. Mọi người đều biết ông Thiếu Tá bị điên, ban chỉ huy trại
cũng biết rõ điều này, nên họ không làm khó ông, họ chỉ khuyên
răn, nhưng ông nhất định không nghe, vậy mà có một người tù
đi đến và khuyên ông leo xuống, không hiểu sao ông lại nghe
lời. Người tù đó chính là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện.

Câu chuyện ông Thiếu Tá điên cũng là một trường hợp
được mặc nhiên thừa nhận, thỉnh thoảng ông lại leo lên cây chửi
chơi, rồi leo xuống.

Trở lại với thân phận của tôi, chỉ có mình tôi đứng riêng
một đội, với một túi xách nhỏ may bằng bao cát, bên trong là
một ít cọ vẽ, cây bút chì, nhúm thuốc lào, một cái ống điếu bằng
tre, do tôi tự làm với cái nõ khoét bằng đá, mỗi lần hút nó kêu
như con dế.

Số phận tôi cũng hơi lạ, vì khi vừa chuyển về trại 3,
người tù (họa sĩ) làm công việc trang trí cho ban Chỉ Huy trại,
đã chuyển về miền Nam, do đó thiếu người, ban quản giáo tìm
người biết vẽ, anh em giới thiệu tôi, và tôi nhân lời, cũng vì

115

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

thích vẽ (hội họa), do đó mỗi lần đi lao động, chỉ có mình tôi đi
đến hội trường, tại nơi này có một phòng vẽ, do Thiếu Úy Công
an tên Thắng phụ trách, cán bộ này cũng có một đam mê (Hội
Họa) nhưng không biết vẽ, tôi vả cán bộ Thắng, vẽ những bức
tranh, phong cảnh như Vịnh Hạ Long, ngoài ra tôi còn làm
những bích chương cho ngày lễ, hay ngày Tết. Tôi không phải là
họa sĩ, nhưng có năng khiếu vẽ.

Có lần Cán bộ Thắng trao cho tôi một quyển (lưu bút
ngày xanh) của một em gái Nghệ Tĩnh, em chính là người tình
của cán bộ Thắng, Thắng không biết làm sao vẽ trang trí cho
quyển lưu bút, cán bô Thắng nhờ tôi, tôi từ chối, nhưng do sự
năn nỉ quá, cuối cùng tôi nhận lời vẽ đại. Sau khi vẽ xong vài
trang trong quyển lưu bút tôi trả lại, cán bộ Thắng vội mở ra
xem, và nói

- Anh Tuấn vẽ đẹp lắm, tôi sẽ đưa lại cho cô ấy
Mấy hôm sau cán bô Thắng cho tôi biết. Em gái nữ sinh

muốn gặp tôi. Tôi vội từ chối ngay lập tức, vì tôi biết nếu dây
dưa vào chuyện này thì tôi lãnh một hậu quả, có thể do ghen
tuông rất nguy hiểm, và tôi đã thoát được chuyện này, tuy nhiên
tôi cũng nhận ra cô em nữ sinh của cán bộ Thắng, đã nhìn lén tôi
một cách thầm kín.

Những tháng ngày tiếp nối tại trại 3, chỉ là thời gian
người tù sống trong tuyệt vọng, không biết đến bao giờ mới
được thả ra. Người tù bị giam cầm lâu năm, đã hóa thân thành
loài vượn cổ xưa mà không hề hay biết, vì yếu tố thời gian là sự
gặm nhấm bào mòn, thầm lặng, cho đến khi người tù chợt giật
mình nhìn lại, nhận ra chính mình đã trải qua, một thời gian qúa
dài cho một đời người, phải sống lưu đày trong những trại tập
trung của cộng sản.

116

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Mùa xuân sớm trở về, những chồi non bắt đầu nảy
mầm, cành hoa đào đã khoe sắc với những nụ hoa xanh
biếc, đang chuẩn bị nở hồng chào đón gió xuân. Ngày Tết
sắp đến gần, không khí trong trại 3, trở nên nhộn nhịp hơn,
vì sự chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền, thì bao giờ cũng vậy.
Tâm trạng của Cán bộ coi tù, cũng xôn xao, do đó có phần
dễ dãi hơn, không qúa khắt khe như ngày thường.

Riêng người tù, thì sự chuẩn bị cho ngày Tết, vô
cùng đơn giản, anh em tù, cố kiếm thêm, một nhúm thuốc
lào, một nhúm trà (móc câu), để 3 ngày Tết, được nghỉ lao
động, ngồi nhâm nhi hụm nước trà, kéo một điếu thuốc lào,
thổi một làn khói thuốc vào không gian, mơ màng ngắm
nhìn làn khói thuốc tan loãng biến mất vào không gian, như
chính niềm mơ ước, ngày được trở về sum họp với gia đình,
mà người tù hằng mong đợi, cũng sẽ tan biến đi trong tuyệt
vọng.

Ngày 13 tháng 2 năm 1983, tức là ngày mùng một
Tết năm Quý Hợi, đây là cái Tết đầu tiên, anh em chúng tôi
từ trại 6 chuyển đến trại 3 Tân Kỳ. Trong đêm Giao Thừa,
tôi và một số anh em thức suốt một đêm tới khi trời sáng,
chúng tôi thức không phải để đón Giao Thừa, thức vì không
ngủ được, vì nỗi buồn nhớ nhà, vì những kỷ niệm về ngày
xuân khi sống bên mái ấm gia đình. Chúng tôi ngồi bên
nhau, hát những ca khúc về mùa xuân, hay kể cho nhau
nghe, những câu chuyện của thời xa xưa. Anh em chúng tôi
đều có chung một tâm trạng, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ về mái
ấm gia đình.

117

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Ngày mai là ngày mùng một Tết, chúng tôi sẽ được
nghỉ ăn Tết trong 3 ngày. Những ngày nghỉ, cũng là những
ngày vui, người từ đội này đến thăm viếng bạn bè từ những
đội khác, sẽ có nhiều chuyện để nói, và có rất nhiều tin tức
vui buồn, được bàn đến, trong đó có nguồn tin sau Tết sẽ có
một đợt thả tù, mà lần này con số tù nhân được thả khá
đông có thể lên đến con số trên 20 người. Tin tức sắp có đợt
thả tù, cũng là một tin vui, có thêm một nguồn hy vọng, lóe
sáng cho một tương lai đen tối.

Ngày Tết rồi cũng qua mau, mọi sinh hoạt trong trại
tù sổ 3, bắt đầu như thường ngày, mỗi buổi sáng, tất cả các
đội tập họp trước sân và lần lượt từng đội với sự hướng dẫn
của công an, đi ra ngoài lao động.

Tôi đến phòng vẽ của cán bộ Thắng, hôm nay tôi sẽ
vẽ tiếp bức tranh phong cảnh Vịnh Hạ Long, đang bỏ dở
dang chưa hoàn tất. Trong lúc đang làm việc, có một cán bộ
công an bạn của cán bộ Thắng đến thăm, ông này cho tôi
biết một tin vui.

- Anh Tuấn này. Tôi thấy trong danh sách thả lần này
có tên anh.

- Tôi nghe như một tin sét đánh ngang tai, tự nhiên
trong lòng tôi nó nôn nóng và bồn chồn vô cùng, sau đó tôi
chấn tỉnh lại, và tự an ủi biết đâu chỉ là một lời nói cho vui,
không đúng sự thật.

Tôi cám ơn người cán bộ đã cho tôi biết tin. Không
khí mùa xuân vẫn còn phảng phất nơi đây, trong một không

118

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

gian hơi lạnh vào buổi sáng, và thường có những cơn mưa
phùn bay lất phất.

Một buổi sáng như thường lệ, tất cả các đội đều tập
trung trong sân trại, nhưng hôm nay có vẻ hơi lạ, vì sự hiện
diện của vài cán bộ công an trên Ban Chỉ Huy có mặt, họ
cầm theo xấp hồ sơ.

Cán bộ trại tuyên bố, hôm nay sẽ có một số trại viên
được thả, những người có tên sau đây sẽ đứng qua một bên.

- Tôi nghe lời thông báo, mà lòng tôi bỗng dưng bồn
chồn lo lắng, vì chính tôi đã nghe một cán bộ trên Ban Chi
Huy cho biết, tôi có tên trong đợt tha này, tôi lo lắng vì
không biết có đúng là sự thật, hay chỉ là một giấc mơ mà
bao năm qua, tôi đã từng nghe nhiều đợt đọc tên những
người tù được thả, nhưng không bao giờ có tên tôi.

- Cán bộ Ban Chỉ Huy trại đọc thật to, tên từng người
- Tôi nghe có một vài anh em cùng trại 6 mới chuyển

về đây, cán bộ đọc tiếp
- Dương Văn Chương (Chương dỏm), Phạm Trọng
Khiêm (AET. Khiêm) và tiếp theo Anh Lê Quốc Tuấn,
đúng tên tôi thật rồi, tôi mừng quá, tâm hồn tôi như chết
đứng vì niềm vui quá lớn đã tràn vào phủ kín, còn niềm vui
nào lớn hơn, khi người tù lâu năm nghe tên mình được thả,
nó đến một cách choáng ngợp, như chết đi sống lại, phải
một lúc sau tôi mới bình tĩnh lại.

Tôi và khoảng 25 người vừa được đọc tên, đứng sang
một bên thành một nhóm. Trong khi tất cả các đội lần lượt

119

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

đi lao động, một số anh em cố quay đầu nhìn lại, tôi thấy
trong ánh mắt họ có những nỗi buồn thật xa vắng.

Cán bộ nói với chúng tôi
- Các anh về phòng lấy hành trang, khoảng một tiếng
sau sẽ có cán bộ hướng dẫn các anh lên Ban Chỉ Huy nhận
giấy ra trại.

Tất cả anh em chúng tôi trở về phòng, đem hết hành
trang của một người tù ra phân chia cho những người bạn
còn ở lại, như cái lon guigoz, cái ca múc nước, cái nồi tự gò
để đựng cơm, cái ống điếu cầy tự làm. Tài sản lớn nhất của
tôi là cây đàn guitar thùng, tôi cũng xin để lại cho những
anh em tù, cây đàn sẽ là niềm vui an ủi những người tù còn
ở lại, tạm quên đi ngày tháng.

Tôi mặc trên người bộ quần áo lính cũ đã bạc màu,
đó cũng là bộ quần áo tốt nhất mà tôi có, hầu hết những
người được về, đều không mang gì ngoài bộ quần áo mặc
trên người.

Chúng tôi tập trung trước cổng trại, cán bộ hướng
dẫn chúng tôi lên Ban Chỉ Huy Trại, tại văn phòng làm
việc, từng người một bước vào văn phòng, được cấp một tờ
giấy ra trại, tờ giấy mỏng màu vàng úa, có in dòng chữ
(Giấy Ra Trại) với tên họ, cấp bậc và tôi danh Ngụy Quân.
Tờ giấy này rất quan trọng, vì nó là sự chứng nhận duy nhất
về cá nhân của người tù, tờ giấy mỏng đến nỗi rất dễ rách,
tôi phải nâng niu cẩn thận gấp lại bỏ vào túi nilông vì sợ
rách. Ngoài tờ giấy ra trại, văn phòng Ban Chi huy còn cấp

120

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

phát cho mỗi người chúng tôi một số tiền, gọi là tiền tàu xe,
coi như tiền để mua vé tàu về Sài Gòn.

Chúng tôi đứng đợi trước cổng trại, nhìn khung cảnh
trại 3 Tân Kỳ, một lần cuối, hai hàng cây tỏa bóng mát, trên
con đường đi vào cổng trại, có một vài đội tù, đi lao động
đang trở về, anh em nhìn thấy chúng tôi, họ vẫy tay chào
tạm biệt, tôi nhìn theo, những người tù tiếp tục lầm lũi bước
vào cổng trại, tôi cảm thấy có một điều gì đó thật xót xa cho
thân phận những người bạn tù còn ở lại. Những người tù
không bản án, không biết đến bao giờ mới được về.

Có một chiếc xe Molotova vừa chạy vào rồi dừng lại,
cán bộ nói chúng tôi tập họp, chuẩn bị lên xe, đây là chiếc
xe chở tất cả những người tù mới được thả, sẽ đến nhà ga
thuộc thành phố Vinh.

Chúng tôi lên xe mà trong lòng mọi người đều
thoáng một niềm vui, nhìn trên gương mặt ai cũng tươi vui,
hớn hở, nở một nụ cười. Chiếc xe từ từ chuyển bánh, bỏ lại
phía sau hình ảnh trại tù số 3, trong làn khói bụi mịt mù,
những đồi trồng trà xanh bát ngát, những thửa ruộng lúa,
ruộng trồng rau, như xa dần, chiếc xe chạy vào thành phố
Vinh, trên những con đường xe cộ tấp nập, chiếc xe dừng
lại trước cổng nhà ga Vinh, người công an lái xe mở cái
bửng xe, cho anh em chúng tôi nhảy xuống.

Người công an chỉ tay về phía nhà ga và nói
- Các anh vào nhà ga mua vé về Thành phố Hồ Chí

Minh
- Tất cả anh em nhảy xuống, nói lời cám ơn cán bộ lái

121

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

xe. Khung cảnh nhà ga, một buổi chiều muộn vừa tắt nắng,
dưới những ánh đèn điện, tỏa sáng màu vàng mờ nhạt, ánh
đèn đêm đủ soi sáng một khoảng tối, để nhìn thấy cơn mưa
phùn với những giọt nước nhỏ li ti, đang nhẹ bay trong cơn
gió mùa đông lạnh lẽo, khung cảnh nhà ga Vinh trông thật
ảm đạm, anh em chúng tôi kẻ ngồi, người đứng trước cánh
cổng khép kín của nhà ga, không biết cách nào để vào bên
trong mua vé, vì giờ này trời đã tối lắm rồi, nhân viên sân
ga đã nghỉ làm, phòng vé đã đóng cửa.

Trên vỉa hè còn một vài người bán hàng nước, bán
thuốc lá ngồi rải rác trong khu vực, họ nhìn chúng tôi và hỏi

- Các anh là những người tù mới được thả phải không
Chúng tôi trả lời, dúng thế chúng tôi mới được thả từ
trại 3 Tân Kỳ

- Họ nói, giờ này nhà ga nghỉ rồi, phải chờ đến sáng
Thôi. Chúng tôi không biết làm gì, thì bỗng dưng có một cô
gái đi đến gần.

- Cô gái hỏi thăm chúng tôi, các anh có phải là tù cải
tạo mới được thả? Không đợi chúng tôi trả lời, cô gái nói
tiếp. Các anh theo tôi, tôi sẽ đưa các anh chui qua lỗ hàng
rào, vào trong sân ga

Chúng tôi mừng quá, tất cả anh em đi theo sự hướng
dẫn của cô gái, quả nhiên bên bức tường, có một lỗ hổng đủ
cho một người chui qua, tất cả chúng tôi lần lượt chui qua
lỗ chó, đi vào tận bên trong sân ga, cô gái chỉ đường rất tận
tình giúp chúng tôi.

- Cô gái nói tiếp.

122

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Các anh phân tán mỏng ra ngồi từng toán nhỏ trên
sân ga, vào khoảng 12 giờ đêm nay, có một đoàn tàu đi về
Sài Gòn, sẽ dừng lại tại sân ga, để xuống hàng. Khi tàu
dừng lại các anh cứ nhảy lên bất cứ toa nào dừng trước mặt,
đừng dồn qúa đông lên một toa.

Cô gái còn cho biết thêm một chi tiết rất quan trọng,
đoàn tàu này, toàn bộ nhân viên phục vụ là người miền
Nam (người Sài Gòn).

Chúng tôi rất vui khi nghe cô gái nói như thế. Chúng
tôi rất biết ơn cô gái người Nghệ An, một thiếu nữ rất tốt
bụng, biết cảm thông với những con người cùng khổ như
chúng tôi. Qua hoàn cảnh của cô, tôi nghĩ chắc cuộc sống
của cô, cũng không may mắn lắm, nên phải bon chải kiếm
tiền vào ban đêm như thế.

Xin cám ơn cô gái Nghệ An, với một tâm hồn bao
dung, cô đã giúp chúng tôi mà không hề đòi hỏi phải trả ơn,
một cô gái rất bình thường, nhưng tâm hồn không bị nhuộm
đỏ, bởi lòng hận thù. Cô chính là ân nhân của chúng tôi.

Nhóm của tôi khoảng 5 người gồm có, tôi (Lê Tuấn)
và Chương Dỏm, Phạm Trọng Khiêm cùng với 2 người nữa
(quên tên), chúng tôi chọn đại một vị trí ngồi trên sân ga.
Trên sân ga có những người bán nước trà nóng, bán thuốc
lá, thuốc lào, họ kê một cái bàn thấp với ngọn đèn dầu leo
lét, người đàn bà bán hàng ngồi co ro, trong cơn gió lạnh
đang thổi về, mang theo hạt nước mưa, càng về đêm không
khí càng lạnh hơn, cảnh vật trên sân ga trông càng ảm đạm
và thật buồn, cho những con người còn thức chờ chuyến tầu

123

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

về đêm, với hy vọng kiếm thêm ít tiền từ việc bán hàng cho
khách đi tàu.

Không khí trên sân ga bỗng dưng nhộn nhịp hơn,
những người bán hàng nói với nhau, đoàn tàu sắp về đến
ga, vì họ qúa quen thuộc với giờ giấc tàu đi, một lúc không
lâu sau đó, chúng tôi nghe tiếng đoàn tàu đang đến gần, một
luồng ánh sáng đèn pha rọi thẳng vào đường ray, con tàu đồ
sộ tiến vào sân gà, tiếng bánh sắt cọ sát trên đường ray, rít
lên một âm thanh chói tai và con tàu dừng lại.

Trước mặt tôi là một toa tàu, tất cả cửa sổ toa tàu
đóng kín, không cần biết đó là loại toa tàu nào, tất cả 5
người chúng tôi đều nhảy lên phía đầu ráp nối của hai toa,
cánh cửa toa đóng chặt, chúng tôi gõ cửa xin vào, tiếng gõ
cửa càng mạnh hơn, có tiếng người từ bên trong nói vọng
ra,

- Giờ này cửa toa đóng rồi, không đi nhờ gì hết, hãy đi
nơi khác

- Chúng tôi nói thật to, chúng tôi là những sĩ quan tù
cải tạo, mới được thả, xin đi nhờ.

- Nghe giọng nói con gái miền Nam, hỏi vọng ra, các
chú là tù cải tạo người miền Nam

- Đúng vậy. Xin cô mở cửa cho chúng tôi đi nhờ,
chúng tôi trả lời

- Cánh cửa toa mở ra, người thanh niên và cô gái miền
Nam nhìn thấy chúng tôi, họ nhận ra, quả đúng là những
người tù cải tạo. Cô gái và người thanh niên, mời anh em
chúng tôi vào bên trong, khi vào bên trong toa, tôi mới biết

124

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

đây là toa (căng tin), toa nhà hàng (Ăn uống). Nhân viên
phục vụ trên toa này toàn là thanh niên, thiếu nữ người
miền Nam, họ cho biết gia đình họ cũng có những người
thân đi cải tạo, do đó họ rất thông cảm với hoàn cảnh những
người như chúng tôi.

Anh chị em phục vụ trên toa tàu, đều thức dậy, nhìn
chúng tôi, tất cả đều có một sự thông cảm, thương mến
chúng tôi. Anh chị em phục vụ cư xử rất tốt, mời chúnh tôi
đến ngồi một góc trên toa, các cô gái phục vụ, pha cho
chúng tôi mỗi người một ly cà phê sữa đá, và cho chúng tôi
mấy gói thuốc chia nhau hút, các cô cũng ngồi bệt xuống
sàn toa tàu, cùng nói chuyện và hỏi thăm chúng tôi.

Con tàu giảm tốc độ từ từ chạy vào sân ga Huế và
dừng lại, cảnh nhộn nhịp tại sân ga, những người buôn bán
lẻ mời chào, đủ thứ loại quà bánh, một số hành khách
xuống sân ga, và một số hành khách lên tàu.

Lần đầu tiên sau 8 năm tù đầy, tôi mới thấy lại khung
cảnh nhộn nhịp này, lòng tôi lại nôn nao, không biết gia
đình mình ra sao, chắc là mọi người trong gia đình, không
ai biết tôi đang trên đường trở về nhà.

Đang suy nghĩ miên man thì một tay công an xuất
hiện đi đến chỗ anh em chúng tôi đang ngồi, tay công an lên
tiếng.

- Các anh này đưa giây tờ đây, ai cho các anh ngồi chỗ
này

- Các cô nhân viên quá quen với thái độ của những tay

125

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

công an đường sắt, các cô xúm vào nói giúp chúng tôi. Các
cô nói, họ là những người tù cải tạo mới được thả, chúng tôi
giúp họ.

- Tay công an vì quá quen thuộc với các cô gái, nên có
vẻ chần chừ rồi lên tiếng.

- Thôi được rồi, nhưng mấy người này phải ra ngoài
đầu toa ngồi, không được ở bên trong.
Anh em chúng tôi đi ra ngoài chỗ ráp nối của hai toa

tàu ngồi, chỗ này cũng thoải mái vì ở bên ngoài, hứng gió
mát và ngắm cảnh trên đường tàu. Một lúc sau khi con tàu
chạy ra khỏi nhà ga Huế, các cô phục vụ lại ra ngoài cùng
ngồi với chúng để nói chuyện cho vui. Đến giờ ăn, các cô
mang cho chúng tôi những phần cơm sườn và trứng rất
ngon, nó như một bữa tiệc thịnh soạn mà trong suốt 8 năm
qua chúng tôi chưa bao giờ được ăn như thế.

Trong suốt đoạn đường về đến Sài Gòn, anh chị em
phục vụ tại toa (Căng tin) đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều, đã
cho chúng tôi những bữa ăn, hoàn toàn miễn phí. Anh chị
em đã cư xử với chúng tôi như người thân trong một đại gia
đình, đại gia đình đó chính là Miền Nam Tự Do.

Chúng tôi rất biết ơn những anh chị em này, đã cho
đi mà không hề đòi hỏi bất cứ một điều kiện nào.

Con tàu dừng lại tại ga Bình Triệu, tất cả anh em
chúng tôi, những người đi nhờ tàu (không có vé) đều xuống
ga Bình Triệu. Chúng tôi đã được anh chị em phục vụ trên
tầu hướng dẫn, nên xuống đây vì ở nhà ga nhỏ không bị
kiểm soát vé tàu như ở nhà ga chính, đó là ga Sài Gòn.

126

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Khi chúng tôi bước xuống sân ga Bình Triệu, thì trời
cũng đã về chiều. Tôi và anh Phạm Trọng Khiêm đi chung
với nhau, anh Khiêm nói, nhà anh ở tận miền Tây, sáng mai
mới ra bế xe đò đi về nhà.

Tôi nói với anh Khiêm nên về chung với tôi, ở tạm
nhà tôi qua đêm, sáng sớm hôm sau ra bến xe đò đi về nhà.
Anh Khiêm đồng ý, hai anh em chúng tôi đứng lớ ngớ tại
cổng nhà ga, một người chạy xe xích lô đạp, đến hỏi chúng
tôi đi đâu, tôi nói đi về Xóm Gà, Gia Định, anh ta nói cũng
gần đây và mời chúng tôi lên xe.

Sau 8 năm tù trở về nhà, tôi hoàn toàn mất phương
hướng, đường phố trở nên xa lạ, tôi không còn biết đi
hướng nào về nhà, cuối cùng tôi đồng ý lên xe xích lô, đưa
tôi về Xóm Gà. Trong khi ngồi trên xích lô, nhìn dóng xe
cô ngược suôi, tôi cũng rất thông cảm cho những người đạp
xích lô, mỗi lần xe lên dốc cầu, hai anh em chúng tôi đều
nhảy xuống để đẩy phụ xích lô lên dốc cầu cho nhẽ nhàng
hơn, tôi không biết cử chỉ này của anh em chúng tôi có làm
người đạp xích lô, có một chút nào đó của lòng thương cảm

Trong xã hội thì luôn luôn có những người xấu, họ sẽ
lợi dụng bất cứ sơ hở nào có thể kiếm tiền, người thanh
niên đạp xích lô mà tôi đã chọn lầm, chính là người không
tốt, anh ta nắm bắt được sự ngơ ngác của chúng tôi, anh ta
đã chặt đẹp, tính giá cắt cổ cho một cuốc xe. Khi về đến
nơi, tôi đã phải móc hết tiền túi để trả cho anh ta, khi vừa
nhận tiền, như sợ bị đòi lại, anh ta phóng lên xích lô, đạp
thật nhanh mất hút trong dòng xe cộ đông đúc.

127

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Một buổi chiều tắt nắng, bầu trời bắt đầu tối dần. Tôi
cùng anh Khiêm bước vào con hẻm nhỏ đi về nhà.

HẾT

Ghi Chú:

Tôi viết câu chuyện này như một hồi ký của người tù cải
tạo. Tôi đã cố gắng liên lạc với một số anh em bạn tù để hỏi
thăm, mỗi người, mỗi nhân chứng nhớ một ít, rồi gom lại thành
câu chuyện. Nếu có thiếu sót, chỉ vì người viết không nhớ hết,
nếu có những chi tiết không đúng lắm, mong quý đọc giả bỏ qua
cho.

Với sự đóng góp thêm nhiều chi tiết, như ngày tháng, nơi
chốn, đia danh
Của các anh em cùng hoàn cảnh với tôi như:

- Cựu TSQ Thiếu Úy Lôi Hổ Lâm Ngọc Chiêu
- Thiếu Úy Lê Anh Thượng
- Đại Úy Nhà thơ Nguyễn Thượng Dực
- Đại Úy Nhà Văn Nguyễn Trung Dũng.

Rất cám ơn các anh đã giúp tôi gợi nhớ lại, những chi tiết

để hoàn tất một câu chuyện khá dài, xem như một tư liệu sống,
của những trại tù cải tạo, từ Nam ra Bắc, một tư liệu cần ghi
dấu lại, trong một giai đoạn lịch sử, dưới thời cộng sản Việt
Nam đang thống trị. Để lưu lại cho mai sau, còn những ai
muốn đọc và tìm hiểu thêm về một giai đoạn. Những trại
tập trung khổng lồ tại Việt Nam.

San Jose, November 2019

128

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Người Tù Cải Tạo Và
Lon GUIGOZ

Lê Tuấn

Tôi nhớ vào khoảng thời gian năm 1979, khi quân Trung
cộng chuẩn bị (Dậy cho Việt Cộng một bài học) Ngày 17 tháng
2 năm 1979 Trung Cộng đem quân tấn công trên toàn biên giới
phía bắc Việt Nam, đây là một cuộc chiến ngắn nhưng rất tàn
khốc. Cuộc chiến kết thúc khi Trung cộng tuyên bố hoàn thành,
và rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được
các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng
biên giới phía bắc Việt Nam.

Trước khi cuộc chiến xẩy ra, tất cả những trại tập trung
cải tạo nằm rải rác vùng Hoàng Liên Sơn, đã chuyển trại đi về
vùng Liên khu 4 (Thanh Hoá - Nghệ Tĩnh), về gần miền trung
phần Việt Nam.

Trại 6 Huyện Thanh Chương - Tỉnh Nghệ Tĩnh, là trại tù,
tập trung rất đông thành phần sĩ quan, thuộc ngành tâm lý chiến
của QLVNCH.

Mùa đông năm 1980 một ngày cuối tuần nghỉ lạo động, một
số anh em tù gom lại nói chuyện tại hội trường của trại giam.
Hội trường trại giam là căn nhà lợp lá rất lớn, với nhiều cột
chống đỡ, không có vách ngăn, để mỗi khi tập trung tù cải tạo
ngồi nghe cán ngố, nghêu ngao như một cuộn băng cassette, bị
nhão vì thâu đia thâu lại nhiều lần, người tù phụ trách trông coi

129

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

hội trường là Hoạ sĩ Phạm Hoàng, anh được lệnh vẽ lại tất cả
những cấp bậc trong QLVNCH. Anh hỏi chúng tôi:

- Cấp bậc cao nhất trong Quân Đội là Thống Tướng phải
không anh em?

- Đa số anh em trả lời là đúng, chúng ta có Thống Tướng
Lê Văn Tỵ

- Tôi vừa cười vừa nói, vần còn một lon nữa cao hơn.
- Phạm Hoàng hỏi lon gì
- Tôi trả lời anh cứ vẽ cái lon guigoz thật to lên trên là

đúng nhất
- Cả đám cười ầm lên.

Guigoz là lon sữa bột của nước Hòa Lan sản xuất. Hầu
hết trước năm 1975, nhiều gia đình dùng loại sữa này, và cái lon
đựng sữa trở nên rất thông dụng để đựng những thứ lặt vặt.
Ngày 27 tháng 6 năm 1975 theo lệnh Uỷ Ban Quân Quản cộng
sản. Tất cả sĩ quan cấp úy, đi học tập cải tạo 10 ngày, đó là ngày
tôi khăn gói qủa mướp, đi trình diện tại trường

Đại Học Bách Khoa, nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại
đối diện cư xá Lữ Gia. Khi ấy tôi không biết rằng cuộc đời tù
tội, của tôi phải trải qua 8 năm trời, lận đận ra tận vùng rừng núi
Việt Bắc, và cuộc sống trong tù luôn gắn liền với cái lon guigoz.

Tại nơi tập trung tạm thời, trong khu trường Đại Học
Bách Khoa, tất cả anh em rất bỡ ngỡ, bán tín bán nghi “không
biết bị giam 10 ngày hay 10 năm không chừng”.

Buổi sáng hôm sau khi thức dậy tìm trong balô hành trang,
là nhận ra ngay một vật rất cần thiết, đó là cái lon guigoz, trong
đó có sẵn bàn trải và kem đánh răng, mang ra vòi nước đánh
răng rửa mặt, khi ấy tôi vẫn chữa ý thức được, công dụng thiết

130

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

thực nhất của cái lon guigoz, thật là tiện lợi khi dùng nó vì nó
chứa được nhiều nước.

Ngày 29 tháng 6 năm 1975. Một buổi chiều, khi ánh
hoàng hôn vừa chợt tắt. Chúng tôi nhận thấy có một đoàn xe
Molotova bít bùng, tiến vào khuôn viên trường. Chúng tôi được
lệnh mang theo hành trang và tập trung dưới sân, chia theo từng
nhóm nhỏ, mỗi nhóm lần lượt lên xe Molotova, mỗi xe có hai
người bộ đội, cầm súng AK 47 ngồi hai bên.

Đoàn xe từ từ ra khỏi cổng. Việt cộng luôn luôn di chuyển
tù nhân vào ban đêm, để tránh cái nhìn soi mói từ dư luận,.

Tất cả tù nhân được chở trên những chiếc xe Molotova
của Nga sản xuất, chiếc xe căng bạt bít bùng, anh em chúng tôi
chỉ đoán đi về hướng Tây, thật ra không biết đi đâu, bởi vì cách
thức làm việc của việt cộng luôn luôn vào ban đêm, họ di
chuyển anh em chúng tôi vào buổi tối để tránh sự dòm ngó của
dân chúng miền nam, mà đa số thân nhân của họ cũng đang bị đi
tập trung theo lệnh của ủy ban quân quản.

Đoàn xe di chuyển từ Sài Gòn về hướng Tây Ninh, khi xe
chạy ngang bưng Mũi Lớn, đoạn đường giữa Hốc Môn và Củ
Chi, đoàn xe dừng lại bên vệ đường, cho anh em tù xuống xe đi
tiểu, đây là lúc duỗi tay chân cho thoải mái một chút, vì ngồi bó
gối trên xe đã lâu, anh em ngồi bệt xuống đường nhựa, hơi nóng
của mặt đường, vẫn còn toả hơi ấm như hương vị của Sài Gòn
thân yêu, đang xoa dịu nỗi buồn của những người chiến sĩ.

Tôi nhìn quanh khu vực và nhận ra bưng “Mũi Lớn”, vì
nơi đây chính là trận chiến đầu tiên mà tôi tham dự trong chiến
dịch trực thăng vận vào mùa đông năm 1970, một tiểu đội du
kích đã bị phơi thây.

131

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Sau khi định hướng anh em nhận ra họ đang đưa chúng
tôi đi về hướng Tây Ninh, cho đến khi xe dừng lại một khu xóm
nhỏ, vùng kinh tế mới gần bìa rừng, chúng tôi mới được dân
chúng cho biết địa danh nơi đây là KaTum, một vài anh em rỉ tai
không lẽ Việt Cộng nó đem chúng ta đến đây rồi bắn chết hết,
giống như những phim chiến tranh thời Đức Quốc Xã.

Xe dừng lại giữa một trảng (khoảng trống giữa rừng gọi
là trảng), anh em chúng tôi xuống xe, lần lượt đi theo mũi súng
của những tay du kích (Bộ đội). Họ phân chia chúng tôi ra thành
từng đội, mỗi đội 50 người chia làm 5 tổ “tiểu đội” và dẫn đến
những chòi tranh ở tạm.

Chúng tôi bầu chọn một đội trưởng, đội phó và tổ nấu
nướng, trại tù phát cho mỗi đội một cái chảo gang thật lớn, rồi đi
lãnh thực phẩm, là vài ký gạo mục, ba gói mì gói hiệu 3 con cua,
đem về tự nấu cơm và ra hố bom múc nước, rồi bỏ mì gói vào
làm canh, phân chia cho một đội 50 người, đây là bữa ăn đầu
tiên, nó cũng là một sự khởi đầu, cho những ngày tháng tù tội, ở
dưới đáy của tầng địa ngục, tôi liên tưởng đến câu chuyện.

“Tầng đầu địa ngục” của nhà văn Nga Alexander Solzhe-
nitsyn (1918-2008)

Tầng đầu địa ngục là một tác phẩm nối tiếp tập Hồi
ký của Dostoevsky. Trong thời gian chế độ Xô Viết ngự trị trên
đất Nga, chúng ta có một chuỗi dài vô tận, những tiết lộ bi thảm
về những trại giam tù chính trị.

Cũng giống như Dostoevsky, Solzhenitsyn là người sống
sót, một người trở về từ địa ngục lao tù. Ông từng sống nhiều
năm trong tù ngục và lưu vong. Những người đàn ông, đàn bà
trong tác phẩm của ông đều là những nhân vật bằng xương, bằng
thịt, họ yêu, họ ghét, họ thù, họ thương, họ cười, họ khóc, họ trò

132

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

chuyện, họ ước mơ, để từ đó chúng ta hiểu rằng lao tù, khủng
bố, sa đọa và tàn ác, chỉ làm trong sạch thêm tinh thần con
người.

Cuối cùng, không phải tù nhân là những kẻ bị tiêu diệt,
dù rằng họ có thể bị mất đời sống. Kẻ bị tiêu diệt chính là những
tên cai ngục. Bọn đàn áp chính là bọn thất bại.

Ngày 29 tháng 6 năm 1975, tôi đến trại tù ở Katum Tây
Ninh. Thị trấn Kà Tum là trung tâm của xã Tân Đông, cách biên
giới Campuchia khoảng 10 cây số về phía đông bắc.

Kà Tum là trung tâm của ngã ba tỉnh lộ 785 đi Tân Châu
và đường 794 đi Bình Phước, hướng Suối Ngô. Thị trấn KaTum
là cách nói trên bản đồ, vì nơi chúng tôi đến chỉ là một khu vực
hoang sơ, khỉ ho cò gáy, một cánh đồng cỏ tranh, sen kẽ trong
một khu rừng tan hoang bị cầy xới bởi bom đạn, vì nơi đây
trong chiến tranh là một vùng oanh kích tự do, đầy những hố
bom, đây chính là một mật khu của Việt Cộng, chỉ còn sót lại
vài lán trại, lợp lá đơn sơ nằm rải rác.

Từng trung đội bộ đội, cầm súng AK 47, dẫn đường cho
từng đội tù, đi đến láng trại. Đội chúng tôi khoảng 50 người,
được chỉ định ở trong một căn chòi lá rất nhỏ, không vách che
thật đơn sơ. Anh em chúng tôi, tự đi tìm những khoảng trống
quanh căn tròi, hay tìm những bụi cây có thể căng poncho, và
giăng võng nằm, giống như đi cắm trại.

Sau khi điểm danh và phân chia chỗ ở xong, việc đầu tiên
của hầu hết anh em, là xách chiếc lon guigoz đi tìm nước uống,
và nhân tiện tìm kiếm thêm thứ gì có thể ăn được, hoàn toàn
không có gì có thể ăn được, anh em chúng tôi đun nước sôi uống
nước cho đỡ đói, dĩ nhiên chúng tôi đun nước bằng cái lon gui-

133

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

goz, bắt đầu từ đó cái lon trở thành một vật dụng vô cùng cần
thiết cho một người tù.

Những tháng ngày tập trung tại Katum là những bài học
bằng xương máu, những dự trữ dinh dưỡng trong cơ thể con
người, đã bị hao mòn vì phải bù đắp, cho những thiếu hụt, mất
cân bằng của cuộc sống, cái đói đang hành hạ người tù một cách
khủng khiếp, vì tại nơi giam cầm này, bọn việt cộng đã cho
chúng tôi ăn những loại gạo (gạo ẩm, gạo mục) loại gạo chôn
dấu dưới lòng đất từ thế kỷ nào, chúng lấy ra phân phát cho Tù
ăn, mỗi khi lãnh gạo về, anh em nhà bếp chỉ đổ nước vào rồi
khoáng sơ sơ, cho những con mọt gạo nổi lên, rồi chắt bỏ đi, nếu
vo gạo lâu thì hạt gạo sẽ vỡ tan ra, ăn loại gạo này thì không còn
chất gì, người tù sẽ bị bệnh phù thũng và chết dần chết mòn.

Chỉ một tháng sau trại Katum đã có một số anh em ta hy
sinh, đội của tôi có anh bạn (lâu ngày không nhớ tên) mới đến
đây anh là người rất to con, bắp thịt cuồn cuộn như một vận
động viên thể dục, anh chính là người hy sinh đầu tiên, vì không
chịu nổi những cơn đói hành hạ, nên ăn bậy và chết.

Từ đó cái lon guigoz của anh em trở nên rất hữu hiệu, nó
được làm thêm quai để sách, buộc thêm dây để làm gầu múc
nước giếng, đựng nước uống khi đi lao động, cắt cỏ tranh về lợp
nhà, chặt thêm cây rừng về dựng nhà, quốc cỏ dại trồng rau,
trồng bắp, trồng khoai mì, khoai lang, đi đâu người tù cũng
mang theo cái lon guigoz, nó là vật dụng mà nhiều anh em
không có rất muốn sở hữu, có khi phải đổi cả quần áo, hay thuốc
lào để sở hữu một cái lon, anh em nào không có, thì phải tự gò
cho mình một cái lon bằng nhôm, sau này ở lâu trong tù, tôi đã
trở thành một chuyên viên đồ nhôm, vì khéo tay hay làm, tôi đã
sản xuất những vật dụng bằng nhôm khá đẹp.

134

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Những ngày đầu tập trung tại Katum anh em còn tỏ ra
lịch sự, mỗi khi nhận phần ăn, đem về thì để ra ăn chung, nhìn
nhau mà ăn, nhưng càng về sau thì tình trạng này càng trở nên
hỗn độn, tổ của tôi có tay (biệt danh là Hiệp nuốt) vì hắn không
nhai mà chỉ nuốt thôi, do đó hắn múc cơm nhiều hơn mọi người,
tình trạng này không thể kéo dài thêm, anh em đi đến quyết định
chia đều phần cơm, lúc đầu chia đều nhưng chỉ một thời gian
ngắn, anh em nhận thấy vẫn không công bằng vì khi múc cơm
(ấn mạnh hay ấn nhẹ là số lượng cơm nhiều ít khác nhau) do đó
mọi người đồng ý đi đến quyết định chia cơm đều cho mỗi phần,
rồi sau đó bắt thăm, ai trúng phần nào thì nhận phần đó, đây
chính là giải pháp công bằng, giải pháp này được lưu truyền mãi
trong thời gian bị tù.

Tôi quên kể cho quý vị nghe về ngày đầu tiên ở trại Ka-
tum, hoàn toàn không có điện, ban đêm chỉ thắp bằng đèn dầu
(trại sẽ phát mỗi đội một lon sữa bò dầu hôi để thắp đèn) vì trại
tù là một mật khu cũ, do đó không có láng trại, không có hàng
rào ngăn tù vượt ngục, chỉ là một chòi lá nhỏ đủ cho vài người
giăng võng nằm, do đó chúng tôi phải chia ra thành từng nhóm
nhỏ (bạn bè) tìm chỗ ở quanh cái chòi lá “tạm gọi là bộ chỉ huy
đội tù”.

Tôi và hai người bạn là Tân và Ngọc ba đứa chúng tôi
căng ba cái võng quanh một gốc cây, và căng poncho che sương
đêm hay mưa, chúng tôi cũng tạo thêm một vài tiện nghi ở
quanh chỗ ngủ, như làm thành một bếp lửa đun nước, làm thêm
chỗ treo ba lô hay quần áo.

Tiếp theo là những ngày lên lớp tập trung nghe cán bộ
(cán ngố giảng về chủ nghĩa xã hội) hay (chủ nghĩa xếp hàng cả
ngày) đám người rừng này thích nói nhiều, nói dài nói dai,

135

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

chúng nói về những điều hoang tưởng như một con vẹt, tôi có
cảm tưởng đầu óc những tên cán ngố này, như một cuộn băng
nhựa thâu đi thâu lại nhiều lần do đó bị nhão, rồi phát thanh tầm
bậy tầm bạ, nếu những loại cán ngố này còn tồn tại đến hôm
nay, thì họ sẽ nhận ra chủ nghĩa không tưởng cộng sản, đã sụp
đổ hoàn toàn.

Tôi nhớ có một câu nói:
“Trên thế giới này, mọi con đường đều đông đúc. Chỉ
riêng con đường chủ nghĩa cộng sản là, vắng bóng người, còn
lại ngo ngoe vài đứa”.
Cho đến thời đại hiện tại, tất cả những đảng viên cộng
sản, chúng đã trở thành những loại tư bản đỏ, tham nhũng hối lộ
bán cả đất nước để làm tay sai cho bọn giặc tầu Trung Cộng.
Những tên cán ngố này nghĩ rằng những sĩ quan chế độ
cũ, đang bị giam cầm nơi đây không biết gì cả, không quen lao
động, cán bộ hướng dẫn, chỉ cách cho anh em chúng tôi, làm
nhà bằng cây rừng, bằng tre nứa, lợp nhà bằng cỏ tranh hay lá
dừa.
Họ không ngờ rằng, trong số những sĩ quan tập trung nơi
đây, có những kỹ sư, có những kiến trúc sư xây dựng, có bác sĩ
quân y, có rất nhiều những nhân tài, ngoài ra những anh em
trong binh chủng Công Binh, đều có khả năng xây dựng.
Không bao lâu sau, anh em chúng tôi đã xây dựng, thành
những láng trại rất khang trang, và dựng thành một hội trường
rộng lớn bằng tre nứa rất đẹp. Sau này bọn cán ngố phải tâm
phục khẩu phục, về khả năng sáng tạo của những sĩ quan
QLVNCH.

136

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Thấm thoát đã vài tháng qua đi, con số 10 ngày theo quy
định ban đầu của Ban Quân Quản Việt cộng, chỉ là trò lừa bịp,
tất cả anh em chúng tôi cũng nhận ra điều này.

Đã có biết bao lời thì thầm (trốn trại) nhưng từ nhà tù
nhỏ, bỏ trốn đi đâu? Hay quay về nhà, ngôi nhà tù lớn hơn, đó là
xã hội cộng sản.

Mặc dù trại không có hàng rào, nhưng trốn khỏi nơi này
cũng không dễ, vì khoảng cách đi ra đường lộ rất xa, và nhiều
đơn vị bộ đội, cũng như dân phòng canh chừng, còn đi qua Miên
(Campuchia) lại khó hơn, vì thời gian này (Khờ Me Đỏ đang
nắm quyền) chúng bắt được là chỉ có chết.

Tuy nhiên cũng có vài anh em bỏ trốn thành công, có lẽ
những anh em này đã được thân nhân sắp xếp cho vượt biên. Về
sau cán bộ trại đã bắt anh em chúng tôi làm hàng rào tre quanh
trại, để tự giam mình.

Mọi sinh hoạt trong trại, đi dần đến ổn định, nhưng đời
sống của anh em thì càng thê thảm hơn vì đói, vì bệnh phù
thũng, do ăn gạo mục, khẩu phần ăn là một bát cơm gạo mục, và
một bát canh mì gói (có thêm vị mặn của muối), nói là một chén
mì gói (cho oai), thật ra chỉ có 3 gói mì gói, nấu một nồi canh
cho 50 người ăn, thì quý vị nghĩ xem (canh này là canh gì, hay
chỉ là loại canh nước muối).

Cái lon guigoz trở nên hoạt động tích cực hơn, nó được
dùng để đun nấu đủ thứ, ếch nhái, chuột, cào cào châu chấu, lá
khoai, măng tre rừng, lá rau tầu bay (lá rau tầu bay tôi không ăn
được, vì có lần tôi ăn xong thì bị nôn ói ghê lắm), nói chung là
nấu bất cứ thứ gì có thể ăn được, anh em đi đào rễ cây “Hà Thủ
Ô” cây “Mật Nhân” về nấu nước uống.

137

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Có một hôm đội của tôi đi vào rừng chặt cây, phát hiện
một cây ăn trái (loại như qủa trám, hạt to hai đầu nhọn, ruột thì
ít mà rất chua), anh em hái ăn cho đỡ đói, có anh bạn nuốt luôn
cả hột, mà lại ăn nhiều vì đói, do đó mấy ngày sau đau bụng sút
chết, vì bí ỉa (phải chổng mông nhờ bạn bè lấy cây moi ra từng
hạt) may mà không chết.

Đi lao động trong rừng Katum rất nguy hiểm vì dễ bị đạp
phải mìn, nhất là loại Bom Bi do quân đội Mỹ thả còn sót lại, đã
có một bạn tù đạp phải loại bom này, may không chết chỉ bị gãy
chân, đem về bệnh xá cưa chân, câu chuyện này được anh em tù
kể cho nhau nghe.

Tại bệnh xá cũng có một tay bộ đội, bị cưa chân nhưng,
vì được ưu đãi, cho ăn nhiều thịt và đường sữa, do đó vết thương
mưng mủ không lành, dẫn đến tử vong, trong khi người tù ăn
uống kham khổ, thì vết thương lại mau lành không chết.

Có một hôm vào ngày nghỉ (chủ nhật) không biết chuyện
gì xây ra mà hai anh tù đánh nhau, anh em xúm lại xem đông
gây ồn ào, trong lúc cao hứng, anh Hội (sĩ quan quân y).

- Hội cao hứng hô to
- (Không có gì quý hơn đập lộn tự do)
câu nói này vừa thốt lên làm anh em cười ầm, tiếng cười chưa
dứt, thì khoảng vài phút sau, một tiểu đội bộ đội với súng AK 47
lên đạn lách cách, chạy rầm rập chĩa súng bao vây anh em tù,
“sau này mới biết có kẻ muốn lập công nên báo cáo cho VC
biết.
- Cán bộ trại lớn tiếng:
- Anh nào giám phỉ báng lời Bác
- Thưa cán bộ Tôi Anh Hội đứng ra nhận tội

138

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

- Ngay lập tức hai tên bộ đội lôi cổ anh Hội, và trói ngược
hai tay ra sau, chúng kéo anh

Hội đi như muốn xử bắn ngay, về sau được biết chúng lôi anh
Hội, lên ban chi huy, rồi nện cho anh một trận đòn, nhốt anh
xuống một cái hố sâu (như chuồng cọp).

Qua sự kiện này anh em tù bị lên lớp học tập mấy ngày
liên tục, và bị răn đe cảnh cáo ngăn cấm, không được phỉ báng
lời của lãnh tụ, nhất là lời của bác Hồ, lời bác nói “Không gì quý
hơn độc lập tự do” thế mà các anh dám nói là “Không gì quý
hơn đập lộn tự do” thật láo lếu quá. Bác đang được liệng cống
“lộng kiếng” tại Ba Đình, nếu nghe được thì bác vặn cổ các anh
đấy. Đây cũng là một câu chuyện cười ra nước mắt.

Trong tù vậy mà cũng có nhiều chuyện buồn cười lắm
lắm, ví dụ như câu chuyện, phải hô to báo cáo khi đi đái vào ban
đêm, lệnh của trại là mỗi khi người tù ra khỏi láng đi đái vào
ban đêm (đêm trong rừng trời rất tối, ngoại trừ sáng trăng)

Phải hô to cho bộ đội gác đêm biết, là mình đi đái, người
tù vừa đi vừa hô to “báo cáo cán bộ tôi đi đái” có nhiều anh còn
ngái ngủ nên nói nhỏ, nhưng đánh rắm thì to, vừa đi vừa bịp
“bắn liên thanh” do ăn khoai sắn không nấu chín.

Khi lên lớp học tập, vấn đề này cũng được nêu lên
- Cán bộ nói: Ban đêm các anh ra ngoài báo cáo thì nhỏ,

mà đánh rắm thi to, thế là cả trại cười ầm lên.
Câu chuyện về trại Katum nếu mà kể hết thì dài lắm nên tôi xin
dừng lại.

Gần cuối năm 1975, sau vài tháng tập chung tại KaTum,
chúng tôi được lệnh chuyển trại, tôi nghe nhiều nguồn tin cho
biết, sẽ chuyển một số anh em về Biên Hòa, một nơi có đèn

139

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

điện, nghĩa là sẽ được nhìn thấy ánh đèn điện, của một thế giới
văn minh hơn.

Đến ngày chuyển trại, tôi cũng được đọc tên lên xe, từ
Katum chuyển về Trung Tâm An Dưỡng Biên Hoà nằm phía
sau, chu vi vòng đai của phi trường Biên Hoà.

Chuyến đi lần này cũng di chuyển vào ban đêm “VC là
một loại ma cà rồng thích hút máu vào ban đêm” chuyến đi này,
những chiếc xe Molotova chở chúng tôi phủ bạt che nhưng
không bít bùng, xe chạy qua đường phố từ hướng Tây Ninh về
Biên Hoà.

Đã mấy tháng sống trong rừng, hôm nay được nhìn lại
khung cảnh thân quen, được nhìn lại cuộc sống ngoài đời, mà
lòng thấy xôn xao với nỗi buồn vô tận, tôi thấy người dân đi trên
đường phố, với một sắc màu thật ảm đạm, tôi thấy cảnh hàng
quán thắp đèn dầu ngồi bán bên vệ đường, tôi thấy những thiếu
phụ ngồi ôm con, tôi thấy những đứa trẻ con chạy theo xe tù cải
tạo, như đang muốn tìm gặp lại người thân, tìm gặp người cha
của mình, hiện đang phải tù tội trong các trại tập chung, mà việt
cộng dùng từ ngữ (mị dân) hay đánh lừa dư luận quốc tế bằng
tên gọi (Học tập cải tạo).

Thật đau buồn cho một dân tộc, một đất nước đã bị bần
cùng hoá trong một chủ thuyết không tưởng (Cộng Sản)

Ở trại An Dưỡng so với trại Katum có phần văn minh
hơn, vì có đèn điện và ở trong một dãy nhà lợp tôn nhưng rất
nóng bức, chỗ nằm thì mỗi người, được khoảng trống từ 3 đến 4
gang tay, do đó rất dễ lây bệnh, ăn uống thiếu thốn, điều kiện vệ
sinh hoàn toàn không có, sức khỏe người tù càng ngày càng suy
yếu, không lâu sau, từ khi chúng tôi chuyển từ trại Katum về nơi

140

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

đây, đã xảy ra một trận dịch tả khủng khiếp, làm chết rất nhiều
anh em ta.

Trại An Dưỡng gợi nhớ nhiều kỷ niệm cho đời lính hơn,
cũng tại nơi đây không đầy 2 năm trước là nơi an dưỡng, nghỉ
ngơi của các chiến sĩ QLVNCH. Bây giờ nó đã trở thành nơi
giam cầm những người lính thua trận, ở quanh doanh trại này là
những hàng rào cọc sắt kẽm gai, những bao cát, những lô cốt,
những container còn in hàng chữ của quân đội Mỹ. thật đau
buồn cho một quân đội hùng mạnh như thế, mà bị bức tử trong
một bàn cờ chính trị quốc tế.

Trại An Dưỡng các tù nhân được phân phát những bữa ăn
bằng loại gạo mục, gạo hẩm mốc từ lâu đời, do đó sức khoẻ của
anh em càng xuống cấp một cách trầm trọng, việc (Ca Cóng)
hay từ ngữ VC là (Cải thiện) được đun nấu lén lút rất thường
xuyên, bây giờ công dụng của cái lon guigoz mới được tận dụng
hết công xuất, từ công việc dùng làm gầu múc nước dưới giếng,
cả mấy trăm người tù chen nhau một cái giếng khá sâu, mực
nước thì luôn luôn cạn vì không đủ cung cấp, ăn ở như vậy rất
thiếu vệ sinh, ruồi nhặng nhiều, tạo thành một trận dịch tả khủng
khiếp, người này lây lan qua người kia, gây tử vong rất nhiều,
thuốc của trại cấp phát thì toàn là (xuyên tâm liên) loại thần
dược trị trăm thứ bệnh do VC tuyên truyền.

Anh em viết thư xin gia đình gửi thuốc kiết lỵ nhưng
không đủ thuốc, một số anh em mang theo thuốc ký ninh “chlo-

roquine” (viên màu đỏ) và (viên thuốc màu đen) than hoạt tính,

nói một cách đơn giản nhất là (viên đen - viên đỏ) do quân đội,
thường phát cho lính chiến uống ngừa sốt rét rừng. Tôi thường
uống loại thuốc này, có lẽ nhờ viên thuốc màu đen (than hoạt
tính) mà tôi không bị kiết lỵ.

141

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Trận kiết lỵ lan rộng tại trại An Dưỡng và nhiếu trại tù
khác, đã giết chết rất nhiều anh em tù cải tạo. Không gì khủng
khiếp hơn là bệnh kiết lỵ, vì nó hôi thối vô cùng, nhiều anh em
không còn đủ sức đi đến nhà vệ sinh, nên ngồi tại chỗ dính bê
bết vào quần áo, nước giếng thì cạn khô, không đủ nước, mà
người bệnh thì còn sức đâu để múc nước, do đó trận dịch càng
lan rộng số người chết càng nhiều.

Cán bộ trại cũng bắt đầu quan tâm vì con số người chết
càng ngày càng nhiều, do đó họ cũng cấp thêm thuốc trị bệnh
kiết lỵ, và cho thêm đợt gửi qùa, nhờ sự tiếp tế từ gia đình bệnh
kiết lỵ cũng thuyên giảm dần.

Công việc lao động tại trại An Dưỡng là cuốc đất, đào sới
những sân trải nhựa. Nơi đây trước kia là căn cứ không quân
Hoa Kỳ, do đó những con đường quanh khu vực trại, thường trải
nhựa, để xe dễ dàng di chuyển và làm bãi đáp trực thăng.

Việt cộng đã biến nơi này thành một trại giam khổng lồ,
sức chứa vào khoảng 2 ngàn người, chia ra làm nhiều khu trại.
Những tên bộ đội coi tù, họ không cần biết lợi ích, của những
con đường trải nhựa quanh khu vực vành đai phi trường, là để
bảo vệ phi trường Biên Hòa. Những tên cán ngố này muốn biến
khu vực phi trường, thành một nông trại trồng rau, để tạo màu
xanh cho khu vực quanh phi trường Biên Hoà “nói theo cách
VC là tăng gia sản xuất, trồng rau, khoai, sắn).

Họ bắt người tù phải nhổ những cây cọc sắt, hàng rào
kẽm gai, rồi đập dẹp đi một đầu làm cuốc, đây là một công việc
khổ sai dưới cái nắng gay gắt của mùa hè.

Mỗi buổi sáng toàn bộ trại tù, đứng xếp hàng tập chung
riêng từng đội, hầu hết tù nhân đều mặc những quần áo lính cũ

142

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

bạc màu, có người dùng bao cát may thành áo để mặc, người
nào cũng cầm trên tay, hay vác trên vai một cây cuốc làm bằng
cọc sắt, lâu ngày bị rỉ xé, tạo thành màu sắc, nâu xậm hoen rỉ,
hòa nhập vào những bộ quần áo bao cát, trông như một đống rác
đang tập họp lại.

Có người bạn tù, hình như cùng suy nghĩ như tôi, anh ấy
nói hơi to trong hàng.

- Tụi mình trông giống như một đống rác biết đi.
Anh nói khá to, khiến mọi người cùng quay lại nhìn và

mỉm cười như là sự đồng tình.
Dưới cái nắng gay gắt, những giọt mồ hôi nhễ nhại trên mặt,
người tù vẫn phải đứng trong hàng để nghe cán bộ lải nhải
những điều, phi lý về chủ nghĩa xã hội “không tưởng”.

Đây cũng là một cực hình đối với người tù. Sau khi phân
công, khu đất (đường nhựa), anh em tù xếp hàng ngang, bắt đầu
cuốc đường nhựa, mỗi nhát cuốc bổ xuống mặt đường nhựa, là
bàn tay ê ẩm, vị độ cứng của nhựa trộn đá dăm, vậy mà cứ ngày
này qua ngày khác, anh em tù cũng lột bỏ lớp nhựa đường, tạo
thành một khu đất trồng rau (bạc hà) loại rau húng quế, và húng
lủi.

Thượng úy bộ đội, trên đầu đội cái nón cối, che khuất tạo
thành một khoảng tối trên mặt, hắn nói luyên thuyên, chúng tôi
chỉ thấy cái hàm răng hô (cán cuốc) đập lên xuống trong cái
mồm cá ngão, nhìn thấy gớm. tay cán bộ này nói với chúng tôi.

- Chúng ta sẽ trồng rau bạc hà, dùng để chưng cất thành
loại dầu bạc hà.
Tôi sẽ mời một kỹ sư “bạc hà” từ miền bắc xã hội chủ

nghĩa vào đây để hướng dẫn các anh.

143

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Anh em chúng tôi cười thầm, khi nghe “cán bộ ngố” giới
thiệu chức vụ (kỹ sư bạc hà) đây cũng là lần đầu nghe đến loại
kỹ sư này, chắc chỉ có ở miền bắc xã hội chủ nghĩa, mới có chức
vụ (nổ như bom tấn).

Sau này anh em cũng được biết ông kỹ sư, thật ra chỉ là
anh nông dân trồng rau, cùng quê với ông cán bộ. Ông cán bộ
muốn nổ cho oai.

Qủa nhiên khoảng một tuần sau, anh ta dẫn đến một ông
“kỹ sự bạc hà” cán bộ nói:

- Giới thiệu với các anh đây là cán bộ, kỹ sư, sẽ hướng dẫn
các anh trồng bạc hà.
Sau những lời thuyết giảng dài dòng văn tự (mà không

hiểu gì hết). Cán bộ kỹ sư, nông dân, cũng hướng dẫn, cách
trồng bạc hà, gọi là bạc hà, thật ra là rau húng quế và loại húng
lủi, hai loại rau thơm này dùng để chưng cất thành dầu bạc hà.

Dưới cái nón cối che khuất gương mặt đen sạm, nhô ra
hàm răng lưỡi cầy, hoen vàng vì khói thuốc lào. Ông kỹ sư nói
sùi cà nước bọt:.

- Đất phải xới đều, phải sử dụng phân bón tự nhiên.
Phân bón cho các loại rau là (phân bắc), cứt đái lấy từ các
thùng phi, hứng dưới nhà cầu, đem ra hoà với nước tưới cây,
theo cán bộ cho biết đây là loại phân quý giá lắm đấy, họ còn
bắt anh em chúng tôi phải dùng tay không, bóp đất chung với
loại phân này, thật là khủng khiếp vô cùng, đây có lẽ là đỉnh cao
trí tuệ, của những con người mới tiến hóa từ loài khỉ đột.
Nói đến loại phân bón này, tôi lại nhớ đền câu chuyện.
Khi ấy chúng tôi đang bị lưu đầy tại trại 6 Nghệ Tĩnh, một buổi

144

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

lao động, trồng rau xanh, anh em tù phải sử dụng 3 loại phân
bón:

- Phân Bắc “cứt người”
- Phân chuồng “cứt trâu bò”
- Phân xanh “cây lá chặt nhỏ ra làm phân”.

Trong lúc làm việc cao hứng, anh Hậu cất tiếng hát bài
(Áo lụa Hà Đông) nhưng anh
sửa lời lại thành, loại nhạc chế. Anh Hậu hát thật to, giọng anh
vang và ấm.
- “Áo nàng vàng anh về yêu phân bắc.
- Áo nàng xanh anh mến đống phần chuồng
- Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương.
- Anh thêm đạm cho đượm màu nhớ thương.”
Anh Hậu dáng người gầy cao, có giọng hát hay, tiếng hát
của anh vang vọng cả khu vực đồi núi, tình cờ một vài cô gái ở
nông trường trồng trè gần đấy đi ngang, họ đứng lại lắng nghe
và khen hay quá, bài hát thật có ý nghĩa “tăng gia sản xuất”.
Các cổ hỏi chúng tôi.
Bài này tên gì mà chúng em chưa bao giờ được nghe.
Anh em chúng tôi cười và nghĩ thầm (loại nhạc vàng này
làm sao các em nghe được) mà các em có biết, lời do các anh
chế ra không?
Anh Hậu là giảng viên trường Sinh Ngữ Quân Đội, anh
chơi thân với tôi trong tù, sau này khi ra tù về Sài Gòn năm
1983 tôi gặp lại anh.
Anh Hậu dạy sinh ngữ tại tư gia cho nhiều học sinh, vì
giai đoạn này rất nhiều người muốn học tiếng Anh, để tìm
đường vượt biên.

145

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Thật là đau thương, khoảng vài tháng sau, tôi nhận được
tin anh Hậu qua đời. Anh Hậu chết tại bệnh viện (có lẽ một loại
bệnh ung thư nào đó) tôi không rõ. Anh chết để lại vợ và 3
người con, tang lễ của Anh Hậu, tôi có tham dự, tiễn đưa anh lần
cuối cùng trở về cõi vô thường.

Trở về câu chuyện của trại An Dưỡng, một nơi mà người
tù, luôn luôn cảm thấy sự ngột ngạt của cái nóng gay gắt, và sự
ăn ở thiếu vệ sinh, cái đói và suy dinh dưỡng, sinh ra bệnh phù
thũng, chân tay sưng to đi đứng khó khăn, nhưng biết làm sao
bây giờ, thôi thì “hãy cố quên đi mà sống”

Anh em tù tại trại An Dưỡng, đã sáng tạo ra nhiều thứ vật
dụng, từ những thứ vứt đi của quân đội, đa số anh em nhặt bao
cát (có hai loại bao cát, một loại bằng vải bố và loại bằng nilon
màu xanh đen) cà hai loại đều có công dụng, lấy về may áo (loại
áo khóac có nhiều túi đựng) và may túi xách, bao đựng hành
trang, ngoài bao cát còn nhiều thứ như, ống trái sáng, ống nhôm,
cà men bằng inox (stainless steel), tất cả được gò để làm thành
những vật dụng như, nồi nấu nướng, cà men, lược chải tóc, lắc
đeo tay, trâm cài tóc tặng vợ hay người yêu, hộp đựng thuốc,
ống điếu thuốc lào, trạm trổ đánh bóng rất đẹp, có người sáng
tạo làm cả một cây đàn Guitar, lấy tôn gò thành thùng đàn, gỗ
thông gọt đẽo thành cần đàn, dây đàn là những sợi dây điện
thoại, dây đồng, tự cuốn lại chế biến thành các loại dây đàn, sau
khi hoàn tất, cây đàn guitar thùng bằng tôn gò, đã tạo thành
những âm thanh nghe rất hay.

Từ những sáng tạo này, đã làm cho thời gian qua mau,
quên đi thân phận của một người tù không bản án, các tên “quản
giáo, cán bộ” 2 từ ngữ của VC để chỉ những tên cai tù, họ

146

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

thường nói (các anh học tập tốt thì về) biết thế nào là tốt hay
xấu, họ thường rêu rao.

- Các anh thấy không. bác và đảng cũng mong các anh về,
nhân dân cũng mong các

anh về với gia đình… vân vân….
- Anh em chúng tôi thường nói thâm.
- Vậy thì địt mẹ nó, đứa nào vẫn giam cầm các ông ở đây”.
- Trong khi chính Ủy ban Quân Quản, chính quyền lừa bịp
đã tuyên bố.

Cấp Tá học tập một tháng. Cấp úy học tập 10 ngày. Đến thời
điểm này đã 2 năm qua đi, biết bao giờ mới được thả.

Bản án tập trung cải tạo:

Cộng sản miền bắc, áp dụng một bản án vô nhân đạo và
tàn ác tột cùng, bản án không cần xét xử, và cho quyền kết án
rộng lớn từ cấp xã, có quyền ra lệnh tập trung cải tạo bất cứ
người dân nào. đó là bản án (Tập trung cải tạo) cứ mỗi lệnh án
tập trung, là thời gian 3 năm, hết 3 năm, lại thêm 3 năm tiếp
theo, cứ thế mà kéo dài, đây là bản án (dây thung) kéo cỡ nào
cũng được.

Một bản án không có (văn bản, án lệnh) vì không ra tòa,
không định dạng tội gây án, chỉ biết là (án tập trung). Sau này
khi anh em chúng tôi, bị chuyển trại, lưu đầy ra miền bắc, gặp
những người tù hình sự, họ cho biết các anh (sĩ quan chế độ cũ)
bị bản án tập trung 3 năm, còn lâu mới được thả.

Những người tù hình sự, khi bị án tập trung, họ cố tình
gây án trong tù, hay bỏ trốn ra ngoài xã hội gây án (buôn lậu,
cướp giật) để bị bắt, đem ra tòa xét xử, khi ấy họ có bản án của

147

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

tòa án quyết định, họ an tâm ở tù hết án thì được về, còn hơn án
cao su (Tập trung cải tạo) không có ngày về.

Trong thời gian này họ vẫn thường xuyên bắt anh em
chúng tôi (lên lớp) ngồi nghe họ nói về sự sáng tạo, của chủ
nghĩa xã hội, của những con khỉ tiến hoá lên làm người, nghe
mà chán ngấy, cho những cán ngố, tất cả có chung một luận điệu
tuyên truyền, như một cuộn băng cassette được thâu lại rồi phát
ra.

Tôi nghĩ sau này họ cũng nhận biết đảng cộng sản bán
nước. Chính Tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Văn Linh, đã
tuyên bố:

- “Tôi cũng biết dựa vào Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng
mất nước còn hơn mất đảng.”
Đảng cộng sản, xem tổ quốc Việt Nam, xem nhân dân

Việt, như là một công cụ, để bảo vệ đảng, nghĩa là bảo vệ cái
ghế mà họ đang ngự trị, bảo vệ quyền lợi của bè lũ đảng viên.
Thật ra họ không yêu thương gì dân tộc này. Thật tội cho những
người bộ đội chân chính, họ đã lầm tưởng, đi theo một đảng
cướp, lừa bịp người dân, một chế độ bán nước cầu vinh.

Chính quyền cộng sản Việt Nam, đã dâng hiến đất nước
vào tay Trung Cộng qua (Hội Nghị Thành Đô) còn gọi là (Mật
Ước Thành Đô) vào tháng 9 năm 1990. Tổng Bí Thư đảng cộng
sản VN do Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đã ký
kết với Giang Trạch Dân và Lý Bằng của Trung Cộng.

Theo mật ước Thành Đô. Năm 2020 Việt Nam sẽ chính
thức trở thành một chư hầu của trung Cộng. Ông Nguyễn Cơ
Thạch, nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị - Bộ trưởng Bộ ngoại giao
lúc ấy đã nhận định về thỏa thuận Thành Đô 1990 rằng

"Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự."

148

Đội Đập Đá Louis Tuấn Lê

Mỗi lần ngồi nghe cán ngố lên lớp, nói luyên thuyên, ho-
ang tưởng. Tôi ngồi cạnh một người bạn, trước kia anh làm
trong nha quân pháp (vì anh là luật sư), vóc dáng thư sinh, đeo
cặp kính cận thị, anh thường nghêu ngao bài hát nhạc ngoại lời
việt (do anh sửa lời), giọng hát nhỏ nhẹ, vừa dủ vài người ngồi
gần nghe. Anh cất tiếng hát:

- “Biết mà mình đéo nói…. Mình đéo nói.. thì nó nghĩ rằng
.. là mình không biết..”

Tại trại An dưỡng, cán bộ quản giáo, bắt buộc mỗi đội
phải củ vài người đi, để chứng kiến vụ sử án.

Anh Hùng Nguyễn Ngọc Trụ, đã bị hy sinh bị (xử bắn)
tại Trại An Dưỡng Biên Hòa. Anh Nguyễn Ngọc Trụ đã đỗ bằng
Cao Học Ban Công Pháp Quốc Tế (International Laws).

Anh cũng đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ trong một thời gian.
Cấp bậc cuối cùng là Thiếu Úy Giảng Viên, môn công pháp
quốc tế, tại Trường
Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt,

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh cũng như các sĩ quan
khác phải ra trình diện chánh quyền cộng sản, để đi học tập cải
tạo.

Khi lên hội trường, ngồi nghe cán bộ chính trị, giảng về
chủ nghĩa xã hội, cán bộ chính trị, tỏ ra dân chủ trong khi thảo
luận, đã yêu cầu mọi người tham gia góp ý kiến. Anh Trụ đã
đứng lên giữa hội trường, cả ngàn người, phản bác lại lý thuyết
sai lầm căn bản của Karl Marx, Lenin và Hồ Chí Minh.

Cán bộ chính trị, hoảng hốt, vì những lý luận hùng hồn và
sắc bén của Nguyễn Ngọc Trụ, đã ra lệnh cho bộ đội, bắt nhốt
anh vào thùng sắt (connex) mà quân đội thường dùng để chứa

149


Click to View FlipBook Version