1 LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG SƠN TẬP I (1930-1975) (Tái bản lần thứ nhất) NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
2 BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN1 1. Nguyễn Văn Huyền - Nguyên Bí thư Huyện ủy - Trưởng ban 2. Hà Văn Thạch - Bí thư Huyện ủy - Ủy viên 3. Trần Tuấn Khanh - Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy - Ủy viên 4. Nguyễn Khắc Thứ - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện - Ủy viên 5. Hà Học Quán - UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy - Ủy viên 6. Lê Quang Đức - UVBTV, Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy - Ủy viên 7. Trần Văn Hiển - UVBTV, Nguyên UVBTV, Phó Chủ tịch HĐND huyện - Ủy viên 8. Phạm Hữu Bình - UVBCH Huyện ủy, Phó Chủ tịch UBND - Ủy viên 9. Phạm Văn Đào - UVBTV, Chủ nhiệm UBKT Huyện ủy - Ủy viên 10. Phạm Thị Lài - UVBCH Huyện ủy, Trưởng phòng tổ chức chính quyền - Ủy viên. BAN BIÊN TẬP2 : 1. Hà Học Quán 2. Võ Khắc Định 3. Nguyễn Khắc Lanh 4. Đinh Văn Thiềm 1 . BCĐ biên soạn giai đoạn 1945-1975 (giai đoạn 1930-1945, hiện chưa xác định cụ thể) 2 . BBT giai đoạn 1945-1975 (giai đoạn 1930-1945, hiện chưa xác định cụ thể)
3 BAN CHỈ ĐẠO BỔ SUNG, CHÍNH LÝ, TÁI BẢN B AN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY HƯƠNG SƠN THƯỜNG TRỰC BAN CHỈ ĐẠO 1. Nguyễn Quốc Lập - Nguyên TUV, Bí thư Huyện ủy - Trưởng ban. 2. Nguyễn Duy Trinh - Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện - Phó Trưởng ban. 3. Nguyễn Quang Thọ - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện - Phó Trưởng ban. 4. Đặng Đình Hiền - Nguyên UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo - Ủy viên. 5. Lê Nhật Lệ - UVBTV, Trưởng Ban Tuyên giáo - Ủy viên. BAN BIÊN TẬP BỔ SUNG, CHÍNH LÝ, TÁI BẢN : 1. PGS, TS Nguyễn Danh Tiên (Chủ biên) 2. PGS, TS Phạm Đức Kiên 3. PGS, TS Hồ Thị Tố Lương 4. TS Nguyễn Thị Hồng Mai 5. TS Nguyễn Thị Mai 6. TS Trần Thị Nhẫn 7. TS Nguyễn Thị Nguyệt Ánh 8. ThS Lâm Văn Hưng 9. .......Đặng Đình Hiền 10. ThS Phan Thị Hoài Thương
4 LỜI GIỚI THIỆU Hương Sơn là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Hà Tĩnh, là địa bàn biên giới tiếp giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ của tỉnh Hà Tĩnh mà còn là của cả nước. Suốt chiều dài lịch sử gần 550 năm hình thành và phát triển, nơi đây đã hun đúc nên nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp để lại cho muôn đời sau. Những giá trị lịch sử ấy là nền tảng tinh thần vô cùng to lớn trong tiến trình đấu tranh, xây dựng và phát triển. Đặc biệt từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ huyện Hương Sơn được thành lập (tháng 11 năm 1930) trực tiếp lãnh đạo phong trào, những giá trị truyền thống ấy ngày càng được phát huy đã cùng với ánh sáng của tư tưởng, lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nên những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng ở địa phương. Để khắc họa lại bức tranh lịch sử sinh động và vô cùng oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hương Sơn trong suốt 85 năm qua, nhằm ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng, đúc rút những bài học trong lãnh đạo phong trào và nhất là tuyên truyền giáo dục truyền thống cho các thế hệ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Hương Sơn, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tổ chức biên soạn, xuất bản cuốn sách lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn, gồm: Tập 1 (giai đoạn 1930 - 1945), xuất bản năm 1972; Tập 2 (giai đoạn 1945 - 1975), xuất bản năm 2001; Tập 3 (giai đoạn 1975 - 2005), xuất bản năm 2009. Sau khi 3 tập lịch sử lần lượt ra đời đã được cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân huyện nhà, bạn đọc gần xa đón nhận, đánh giá cao về nội dung và hình thức, đồng thời cũng đóng góp thêm nhiều ý kiến. Tuy vậy, những tập lịch sử đã xuất bản do nhiều yếu tố khách quan, chủ quan không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Hiện nay, tập 1 bị thất truyền (không còn bản gốc), tập 2 và 3 cần được chỉnh sửa một số tư liệu (nhất là việc xác định các nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ, bổ sung thêm các sự kiện đồng thời tiếp nối, bổ sung giai đoạn 10 năm từ 2005-2015 là cần thiết, xem đây là một công trình thiết thực chào mừng kỷ niệm 550 năm thành lập huyện Hương Sơn. Từ những lý do trên, để tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị 15-CT/TW, ngày 28-8-2002 của Ban Bí thư, Chỉ thị số 22-CT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc “tăng cường và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử và giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng địa phương”, Ban Thường vụ
5 Huyện ủy Hương Sơn đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, phối hợp với Viện sử Đảng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh biên tập, chỉnh lý, bổ sung lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (1930-2015). Cuốn lịch sử Đảng bộ huyện lần này được chia làm 2 tập. Tập 1, giai đoạn từ 1930-1975, tái hiện bức tranh lịch sử hào hùng và đầy cam go, thử thách của huyện nhà từ những ngày đầu thành lập Đảng bộ và vai trò của Đảng bộ huyện trong lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hương Sơn, giành, giữ chính quyền cách mạng và tham gia tích cực vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược - xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước. Tập 2, giai đoạn 1975-2015, tái hiện bức tranh huyện nhà từ ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, phản ánh rõ nét về những kết quả lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ từ những ngày đầu khôi phục hậu quả chiến tranh, tham gia tích cực kháng chiến bảo vệ biên giới phía Nam, phía Bắc Tổ quốc, vững bước trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Việc sắp xếp, bố trí thành 2 tập của lịch sử Đảng bộ huyện như trên nhằm giúp cho sự lưu hành, theo dõi, nghiên cứu thuận tiện. Sau một thời gian tích cực, khẩn trương nghiên cứu, việc chỉnh lý, bổ sung nội dung các tập lịch sử Đảng bộ huyện 1930-2015 đã hoàn thành. Mặc dù Ban Chỉ đạo, biên tập đã nỗ lực, cố gắng song khó tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý chân thành của bạn đọc để cuốn lịch sử tiếp tục được hoàn thiện ở lần tái bản sau. Nhân dịp này, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn Trung ương và tỉnh Hà Tĩnh, các nhà khoa học thuộc Viện Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các bậc lão thành cách mạng, lãnh đạo huyện qua các thời kỳ và cán bộ, đảng viên trong và ngoài huyện đã giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến quý báu, góp phần hoàn thiện các tập lịch sử Đảng bộ huyện, đáp ứng mong mỏi của Đảng bộ và Nhân dân huyện nhà. Ban Thường vụ Huyện ủy Hương Sơn trân trọng giới thiệu tới đông đảo bạn đọc các tập lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (1930-2015). Hương Sơn, tháng 8 năm 2018 BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN UỶ HƯƠNG SƠN
6 Chương mở đầu HƯƠNG SƠN - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐẤT HƯƠNG SƠN 1. Đặc điểm địa lý và tự nhiên Hương Sơn là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Hà Tĩnh: phía Bắc và Đông Bắc giáp các huyện Thanh Chương và Nam Đàn (tỉnh Nghệ An), phía Nam giáp huyện Vũ Quang, phía Đông giáp huyện Đức Thọ, phía Tây giáp tỉnh Bôlykhămxay (Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào). Toàn huyện có diện tích tự nhiên là 1.104.15km2 (theo số liệu Niên giám thống kê của huyện năm 2015). Tổng diện tích đất đai là 110.414,78 ha, trong đó: đất nông, lâm nghiệp: 95.387,83 ha, đất thủy sản: 87,85 ha, đất phi nông nghiệp: 7.166,97 ha, đất chưa sử dụng: 7.859,98 ha. Địa hình Hương Sơn rất đa dạng, có độ dốc lớn từ Tây sang Đông, là kết quả của quá trình lịch sử kiến tạo lâu dài và phức tạp. Núi đồi trung du chiếm phần lớn đất đai, đồi núi xen kẽ đồng bằng, thung lũng sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và các phụ lưu dốc từ Tây sang Đông. Đất đai Hương Sơn chủ yếu là loại địa hình vùng núi cao, kiểu địa hình vùng đồi chiếm một diện tích đáng kể. Kiểu địa hình đồng bằng chiếm tỷ lệ thấp. Đồng bằng Hương Sơn có hai dạng: dạng đồng bằng dốc tụ, phân bố ở các xã: Sơn Bằng, Sơn An, Sơn Mỹ, Sơn Hà, Sơn Long, Sơn Phú, Sơn Phúc, Sơn Ninh, thị trấn Tây Sơn, thị trấn Phố Châu... và dạng thung lũng hẹp, phân bố ở các xã: Sơn Châu, Sơn Diệm, Sơn Giang, Sơn Mai, Sơn Ninh, Sơn Thịnh.... Hương Sơn có con sông lớn nhất là sông Ngàn Phố và một hệ thống suối, rào, khe, bàu, vực dày đặc. Do cấu tạo địa hình nên phần lớn sông, suối, rào... đều bắt nguồn từ dãy Giăng Màn, Bà Mụ..., chảy về sông Ngàn Phố, hợp lưu
7 với sông Ngàn Sâu, đáp bến Tam Soa, đổ về sông La, sông Cả, sau đó đổ ra biển. Sông Ngàn Phố đã nhiều lần phải đổi dòng, ngày nay những bàu, vực, những dải đồng sâu kéo dài, chính là dấu tích còn lại của sự đổi dòng ấy. Các khe hói nhỏ, sự thay đổi, bồi lấp lại càng nhiều. Từ xưa, sông Ngàn Phố đã có ảnh hưởng lớn, là con đường thủy độc đạo nhưng rất thuận lợi để Hương Sơn có thể giao lưu kinh tế, văn hóa với nhiều địa phương khác trong tỉnh và trong nước. Sông Con là một phụ lưu lớn của sông Ngàn Phố. Sông Ngàn Sâu, tuy nằm rất ít trên phần đất Hương Sơn nhưng sông Ngàn Sâu vẫn có quan hệ mật thiết với Hương Sơn xét trên cả hai mặt tự nhiên và xã hội. Rừng Hương Sơn còn là một kho dược liệu với nhiều loại quý hiếm: trầm hương, chỉ xác, hà thủ ô, lạc tiên, ba kích, kim tiền thảo, thiên niên kiện, hoàng đằng, ngũ gia bì, hoài sơn, xuyên sơn giáp, lộc nhung hươu, mật ong. Khí hậu huyện Hương Sơn mang đặc điểm chung là nhiệt đới gió mùa. Một năm có hai mùa: mùa lạnh và mùa nóng. Mùa lạnh bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 3. Mùa nóng bắt đầu vào tháng 4 và kết thúc vào tháng 10. Tại Hương Sơn, câu tổng kết được truyền miệng trong dân gian "Đủ mưa, thừa nắng". Bởi khu vực này do địa hình và ảnh hưởng của hệ thống thời tiết lớn như bão, áp thấp nhiệt đới, dải hội tụ nhiệt đới, rãnh áp thấp, gió mùa Đông Bắc… gây ra những đợt mưa lớn kéo dài. Lượng mưa ở Hương Sơn chủ yếu tập trung vào từ tháng 5 đến tháng 11, chiếm đến 70% lượng mưa của cả năm. Tuy nhiên, trong 2 tháng 6 và 7 do hoạt động của gió mùa Tây Nam khô nóng nên lượng mưa giảm rõ rệt. Tháng có lượng mưa lớn nhất ở Hương Sơn là tháng 9 và tháng 10. Mùa mưa bắt đầu từ trung tuần tháng 8 và mùa khô bắt đầu từ trung tuần tháng 3. Vì vậy, trên cương vực Hương Sơn luôn nhận được một nguồn nhiệt lượng lớn mặt trời. Ngược lại, các đợt không khí lạnh từ phương Bắc tràn xuống khi về đến đây đã suy yếu không còn lạnh khô. Điều đó làm cho vùng này có một mùa đông ngắn hơn, ít lạnh hơn nhưng lại ẩm ướt hơn rất nhiều. Ảnh hưởng của vĩ độ thấp khiến cho mùa hè vùng này đến sớm hơn và kết thúc lại muộn hơn. Do bị dãy Trường Sơn Bắc kéo dài án ngữ ở phía Tây nên gió mùa Tây Nam vốn mát mẻ đã bị Trường Sơn chặn lại, trút hết nước bên sườn Tây, gây nên hiệu ứng "phơn nhiệt", làm cho Hương Sơn cũng như nhiều vùng của Hà
8 Tĩnh phải đón nhận gió Tây Nam (hay còn gọi là gió Lào). Trên địa bàn của Hương Sơn có nhiều dãy núi lớn nhỏ chia cắt, tạo nên nhiều tiểu vùng khí hậu. Đó là những yếu tố tạo nên sự khác biệt về thời tiết khí hậu của Hương Sơn. Theo các tài liệu khí tượng thủy văn, do chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, nên lượng mưa của Hương Sơn biến đổi khá rõ rệt và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Lũ lụt tiểu mãn ít xảy ra và ở mức độ nhỏ hơn trước. Mưa có sự biến động lớn cả về không gian, thời gian xuất hiện và cường độ. Thời gian mưa không nhiều, nhưng cường độ lớn gây ra lũ quét. Hiện tượng mưa dầm trong vài thập kỷ gần đây cũng ít xuất hiện hơn. Tần suất và quy luật lũ lụt cũng thay đổi. Nếu như trước đây lũ chỉ xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 10, thì nay kéo dài hơn, lũ dữ dội hơn, đỉnh lũ cao hơn và gây hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt là sự gia tăng của hiện tượng xâm thực trên các núi. Đã có nhiều đợt lũ, kèm theo là sự sụt lở núi gây thiệt hại nghiêm trọng về người, của cải và sản xuất nông nghiệp. Trận lũ lụt tháng 10-2002, được coi là lịch sử, có phạm vi ảnh hưởng rộng và gây thiệt hại nặng nề nhất trong vòng 100 năm nay đối với Hương Sơn. Hương Sơn còn có khá nhiều tài nguyên, khoáng sản, nhiều nhất là đá granit, đá xây dựng, trữ lượng đá trong rừng núi Hương Sơn rất lớn. Rừng núi Hương Sơn với hàng ngàn khe suối lớn, nhỏ còn là nguồn nước vô tận thường xuyên cung cấp cho đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Rừng xưa nay vẫn là kho tài nguyên vô giá và là một thế mạnh về kinh tế của Hương Sơn. Rừng Hương Sơn được kiến tạo với hệ thực vật, động vật phong phú và đa dạng, gồm 523 loài, 360 chi của 5 ngành thực vật bậc cao. Trong đó nhóm cây lấy gỗ 121 loài, nhóm cây cho dược liệu 122 loài, nhóm cây cảnh 31 loài, nhóm cây thực phẩm 69 loài, nhóm cây cho tinh dầu 11 loài, nhóm cây cho dầu béo 7 loài. Trước năm 1945, rừng Hương Sơn cơ bản là rừng nguyên sinh, với rất nhiều thứ gỗ quý như: đinh, lim, sến, gụ, kiền kiền, pơmu, săng lẻ, vàng tâm, dổi, chò chỉ... Rừng Hương Sơn là thế giới của nhiều loài động vật như voi, hổ, hươu, nai, lợn rừng, gấu, sóc, khỉ, chồn, nhím, cáo, cầy hương và các loài bò sát, các giống côn trùng, ong mật và hàng trăm thứ chim từ công, trĩ, gà lôi, đa đa, cuốc, quạ, cu gáy, chích chòe...
9 Đáng chú ý là mỏ nước khoáng Sơn Kim và mỏ đất hiếm ở vùng Sơn Bình, Sơn Trà... Về hệ thống giao thông vận tải của Hương Sơn trước đây phải nói đến những "con đường thượng đạo" từng đi vào lịch sử. Đó là những con đường, thực chất là những lối mòn trong núi, có thể đi dọc Trường Sơn ra Bắc với Thanh - Nghệ, hoặc vào Nam với Quảng Bình, cũng có thể vắt qua núi để thông sang nước bạn Lào. Mặt khác, sông Ngàn Phố là con đường thủy độc đạo, rất thuận lợi cho người dân Hương Sơn đi lại giao lưu kinh tế, văn hóa với nhiều địa phương khác trong tỉnh. Tuy nhiên, phương tiện vận tải đường thủy ngày càng trở nên hạn chế, phần vì do nguồn nước ngày càng cạn về mùa hè. Còn mùa mưa, đường thủy vẫn thuận lợi cho thuyền bè đi lại. Càng ngày mạng lưới giao thông đường bộ ở Hương Sơn phát triển nhanh, với chiều dài 739,2km, trong đó Quốc lộ là 85km, bao gồm: Quốc lộ 8A đoạn qua 14 xã, thị trấn trên địa bàn Hương Sơn, dài 65km; đường Hồ Chí Minh qua Hương Sơn dài trên 20km. Huyện lộ gồm 20 con đường, với tổng chiều dài 223,9km. Trong đó có những tuyến đường dài trên 10km. Ngoài Quốc lộ, tỉnh, huyện lộ, mạng lưới đường liên xã, liên thôn cũng được phát triển. Tất cả 32/32 xã, thị trấn trong huyện đều có đường trục chính được bêtông hóa về đến trung tâm xã. Nhờ vậy, hoạt động dịch vụ vận tải trên địa bàn huyện tương đối phát triển. Hiện nay, Hương Sơn có hai bến xe ô tô ở thị trấn Phố Châu và thị trấn Tây Sơn, được xây dựng năm 2011. Trong huyện có nhiều Công ty vận tải hành khách và hàng hóa đi các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh và một số tỉnh, thành trong cả nước như: thành phố Vinh, Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Với vị trí địa lý cũng như những đặc điểm về điều kiện tự nhiên trên, đã tạo ra nhiều tiềm năng, lợi thế của thiên nhiên để Hương Sơn phát triển kinh tế - xã hội. 2. Đặc điểm dân cư Hương Sơn là địa bàn cư trú của người Việt cổ và là nơi có nhiều dân tộc cư trú. Dấu vết người nguyên thủy được phát hiện ở hang Thẩm Ồm, huyện Quỳ Châu, Nghệ An chứng minh rằng, ở đây có người vượn cư trú. Cùng với hang Thẩm Ồm, các nhà khảo cổ học cũng phát hiện các công cụ đá của người
10 Thẩm Ồm ở làng Vạc, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Nghĩa Đàn, ở một số đồi gò của huyện Thanh Chương và ở xã Sơn Kim, huyện Hương Sơn. Ở khu vực Hương Sơn đã phát hiện có di chỉ của văn hóa Sơn Vi. Những công cụ ở Làng Vạc - Nghĩa Đàn làm bằng đá Thạch Anh, còn những công cụ ở Sơn Kim, Hương Sơn làm bằng đá Quartzite. Đáng chú ý là, có một công cụ Chopping - Tool, ghè tạo lưỡi hai mặt. Vết ghè thô, khá sâu tạo ra lưỡi hình dích dắc. Đây là những công cụ khá hiếm trong văn hóa Sơn Vi, là đặc trưng riêng ở Hương Sơn. Các cư dân thuộc văn hóa này đã làm nông bằng cuốc, thuổng, xuất hiện một nền nông nghiệp dùng cuốc, nhưng không phải nông nghiệp độc canh mà là đa canh. Săn bắt và hái lượm vẫn song song tồn tại. Đến thời đại Đồng thau, tương đương với Nhà nước Văn Lang và tiếp đó là thời Bắc thuộc, đã phát hiện di chỉ đồ đồng, thuộc nền văn hóa Đông Sơn ở xã Sơn Phú. Tại đây, vào năm 1996, đã phát hiện 3 rìu đồng và 1 lưỡi thuổng. Trong số này, có 1 chiếc rìu được trang trí hoa văn, họa tiết đặc biệt, phản ánh kỹ thuật đúc đồng khá điêu luyện, vừa đúc nổi, vừa chìm trên một hiện vật. Chiếc rìu này lần đầu tiên gặp ở Hương Sơn. Tiếp theo luyện đồng, ở Hương Sơn đã phát hiện vết tích lò luyện sắt theo phương pháp hoàn nguyên. Như vậy, đồ sắt ra đời trong văn hóa Đông Sơn đã thúc đẩy sự phát triển rất nhanh về kinh tế, mà thành tựu lớn nhất là sản xuất nông nghiệp dùng cày. Cày có lưỡi bằng kim loại và dùng động vật làm sức kéo. Đây là hạ tầng cơ sở để hình thành nhà nước sơ khai - Nhà nước Văn Lang và Âu Lạc. Cư dân Đông Sơn ở Hương Sơn đã góp phần vào bước tiến đó của xã hội Việt Nam thời tiền sử và sơ sử. Một số hiện vật khảo cổ được phát hiện ở các xã Sơn Kim, Sơn Lâm, Sơn Phú đã chứng minh con người có mặt trên đất Hương Sơn liên tục từ thời đá cũ hậu kỳ (thuộc văn hóa Sơn Vi), đá mới hậu kỳ (thuộc văn hóa Quỳnh Văn - Bàu Tró) đến thời đại Kim khí (thuộc văn hóa Đông Sơn). Với vị trí địa lý đặc biệt, vừa xa xôi, vừa hiểm trở, nên ở Hương Sơn có câu truyền: “Thiên hạ đại loạn... Hương Sơn độc yên”. Do đó, từ cuối thế kỷ XIV, Hương Sơn trở thành đất tụ cư của người tứ xứ. Lịch sử phát triển của
11 Hương Sơn là cuộc trường kỳ khai hoang để lập lên làng xóm, mở mang ruộng vườn, tạo nên cuộc sống như ngày nay. Ở Hương Sơn, có dấu tích của làng cổ với 13 địa danh mang từ “Kẻ” (là một đơn vị cộng đồng cư dân tương đương với làng). Những cái tên Kẻ Choi, Kẻ E, Cá Lăng, Trại Đầu... gợi bóng dáng những ngôi làng đầu tiên. Cùng với sự tiến triển của lịch sử, cư dân Hương Sơn ngày càng đông đúc. Theo số liệu năm 2015, dân số của huyện Hương Sơn là 34.800 hộ, 116.831 nhân khẩu. 3. Quá trình hình thành và thay đổi địa lý hành chính Hương Sơn là vùng đất cổ, dưới triều Lý - Trần có tên gọi Hương Đỗ Gia (thế kỷ thứ XI). Thời thuộc Minh chia làm hai huyện Cổ Đỗ và Thổ Hoàng. Đầu thời Lê nhập lại thành huyện Đỗ Gia cho đến năm 1469. Đến nay, Hương Sơn có lịch sử gần 550 năm. Theo các nhà địa phương học, tên huyện Hương Sơn có từ năm Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 đời Lê Thánh Tông (1469). Đến thời vua Lê Thánh Tông, đổi huyện Đỗ Gia thành huyện Hương Sơn. Địa danh Hương Sơn bắt đầu có từ đó. Huyện Hương Sơn thuộc phủ Đức Quang, đạo Thừa Tuyên, Nghệ An, có 34 xã 1 thôn (có sách ghi 34 xã). Đến thời nhà Nguyễn, huyện Hương Sơn có những thay đổi lớn. Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), nhà Nguyễn đổi tên Quy Hợp làm tổng Quy Hợp, gồm 7 xã, cho lệ vào huyện Hương Sơn. Đến đời Tự Đức, Hương Sơn có 9 tổng, 57 xã, thôn, phường, trại, giáp, vạn. Năm Đinh Mão Tự Đức thứ 20 (1867), Hương Sơn được chia làm hai huyện, lấy tổng Thổ Hoàng và Thổ Lỗi chia làm ba tổng: Phương Điền, Chu Lễ, Phúc Lộc; tổng Bảo Khê, đổi làm tổng Hương Khê và tổng Quy Hợp, tất cả là 5 tổng, thành lập huyện mới Hương Khê; tổng Tự Đồng đổi làm Du Đồng cùng 5 xã thuộc tổng Thượng Bồng (đều thuộc huyện La Sơn) dồn làm 1 tổng, hợp với các tổng Đồng Công, Dị Ốc, Đỗ Xá, Yên Ấp, Hữu Bằng của huyện Hương Sơn (cũ), tất cả là 7 tổng, làm huyện Hương Sơn (mới) gồm: Du Đồng, Thượng Bồng (lúc đầu dồn làm một, sau vẫn là hai tổng), Đồng Công, Dị Ốc, Đỗ Xá, Yên Ấp, Hữu Bằng, gồm 42 xã, thôn, phường, trại, giáp, vạn.
12 Đến đời Duy Tân, Đồng Công và Du Đồng được chuyển về Đức Thọ, huyện Hương Sơn còn lại 5 tổng gồm 50 xã, thôn. Từ đó về sau, còn ít nhiều thay đổi, nhưng địa bàn huyện Hương Sơn căn bản vẫn được giữ đến ngày nay. Năm 1925, Hương Sơn có 5 tổng, 41 làng; năm 1938 có 5 tổng, 46 làng và năm 1942 có 50 xã, thôn, vạn. Cho đến trước năm 1945, Hương Sơn có 5 tổng, nhưng số làng tăng thêm. Năm 1946, theo điều chỉnh địa giới hành chính, Hương Sơn từ 48 xã, thôn (năm 1945) và 3 đồn điền Sông Con, Voi Bổ, Hà Tân hợp lại thành 22 xã. Từ năm 1948 đến năm 1951, hợp nhất một số xã với nhau, từ 22 xã, còn lại 15 xã. Trong lần điều chỉnh đơn vị hành chính năm 1954, Hương Sơn từ 15 xã lớn chia thành 29 xã nhỏ. Năm 1968, chuyển xóm 13, xã Sơn Lĩnh cùng các xóm dân 9 xã lên khai hoang lập xã mới Sơn Hồng. Năm 1971, cắt đất xã Sơn Tây, Sơn Trường và các xã Hương Điền, Hương Đại huyện Hương Khê, đưa dân 8 xã huyện Đức Thọ lên khai hoang cùng dân địa phương để lập xã Sơn Thọ. Năm 1976, xã Ân Phú thuộc Hương Sơn chuyển sang huyện Đức Thọ và đổi tên thành xã Đức Ân. Năm 1988, chuyển xóm 4 và 5 của xã Sơn Phố và xóm Kẻ Mui, xã Sơn Trung để thành lập thị trấn Phố Châu, đến năm 1999 nhập xã Sơn Phố vào thị trấn Phố Châu. Năm 1997, cắt 1 xóm của xã Sơn Kim nhập với 15 xóm tự quản của Lâm trường Hương Sơn (hay còn gọi là “Trung Tâm”) ở khu vực Rào Qua, lập thị trấn Tây Sơn. Năm 2000, chuyển xã Sơn Thọ về huyện mới Vũ Quang. Năm 2004, chia xã Sơn Kim thành hai xã: Sơn Kim 1 và Sơn Kim 2. Từ đây (2004), huyện Hương Sơn có hai thị trấn là Phố Châu, Tây Sơn và 30 xã: Sơn An, Sơn Bằng, Sơn Bình, Sơn Châu, Sơn Diệm, Sơn Giang, Sơn Hà, Sơn Hàm, Sơn Hòa, Sơn Hồng, Sơn Kim1, Sơn Kim 2, Sơn Lâm, Sơn Lễ, Sơn Lĩnh, Sơn Long, Sơn Mai, Sơn Mỹ, Sơn Ninh, Sơn Phú, Sơn Phúc, Sơn Quang, Sơn Tân, Sơn Tây, Sơn Thịnh, Sơn Thủy, Sơn Tiến, Sơn Trà, Sơn Trung, Sơn Trường. 4. Đặc điểm kinh tế Hương Sơn là một huyện có núi đồi chiếm 80% diện tích (trên 80.000 ha), chỉ có khoảng 20% là đất canh tác (trên 20.000 ha), đó là vùng thung lũng Ngàn Phố, một thung lũng nằm lọt giữa ba bề rừng núi.
13 Đặc điểm nổi bật của kinh tế Hương Sơn từ bao đời nay là sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi và nghề rừng). Hương Sơn có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp. Song, điều kiện tự nhiên, địa hình và thổ nhưỡng không thuận lợi để Hương Sơn phát triển cây lương thực như: ruộng bậc thang thuộc vùng đồi núi bị xói mòn, ruộng trong các thung lũng nhỏ dễ bị lũ quét, đất núi sạt lở bồi lấp... Nông dân Hương Sơn từ lâu đời có thói quen quảng canh, kỹ thuật canh tác lạc hậu, nên năng suất lúa đạt rất thấp. Trước Cách mạng Tháng Tám, năng suất các loại cây trồng, nhất là năng suất lúa đạt từ 350-400kg/ha. Ngày nay, nhờ áp dụng các tiến bộ của khoa học - kỹ thuật trong chọn giống mới, phương pháp gieo trồng, thâm canh, phân bón, thủy lợi và mở rộng diện tích, nên năng suất cây trồng, sản lượng đều tăng. Sản lượng lương thực tăng bình quân khoảng 3%/năm. Ngoài lúa, ngô là cây lương thực chủ đạo, diện tích và năng suất, sản lượng cây lương thực: khoai lang, sắn và một số loại cây trồng khác cũng được phát triển. Lợi thế đất đồi, đất bãi đã tạo điều kiện thuận lợi để Hương Sơn phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, nhất là trồng lạc, đậu, mía... Diện tích trồng lạc tập trung chủ yếu ở các xã: Sơn Tiến, Sơn Lễ, Sơn Giang, Sơn Tây, Sơn Châu, Sơn Trung, Sơn Bằng, Sơn Quang. Ngày nay, những cây trồng này đã có thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Cây ăn quả là cây trồng thế mạnh của Hương Sơn. Lịch sử khai phá đất đai ở Hương Sơn là lịch sử “lấn rừng, khai núi” để hình thành nên những làng đồi, mỗi gia đình đều có một mảnh vườn, có những vườn rộng đến hàng vài mẫu, trong đó nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Có thể nói, Hương Sơn từ xa xưa đã chú trọng phát triển kinh tế vườn. Cây cam là một trong những loại được trồng sớm nhất ở Hương Sơn và ngày càng phát triển. Hiện nay, tổng diện tích trồng cam là 2.918 ha, diện tích cho sản phẩm là 740 ha; năng suất bình quân 110 tạ/ha, sản lượng 8.140 tấn/năm. Đặc biệt là hai loại cam bù và cam chanh, là loại cây ăn quả truyền thống và nổi tiếng của Hương Sơn, được trồng tập trung ở các xã Sơn Mai, Sơn Trường, Sơn Thủy.... Cam bù không chỉ là một đặc sản của Hương Sơn, mà còn chứa đựng trong đó cả yếu tố văn hóa. Ngoài ra, còn có một số giống cam khác như cam đường, cam sành, cam gốm, cam giấy...
14 Cây chanh là loại cây được trồng nhiều ở Hương Sơn. Diện tích trồng chanh là 365 ha, tập trung chủ yếu ở Sơn Tiến, Sơn Mai, Sơn Trường, Sơn Thủy và Sơn Tây... năng suất trung bình 114 tạ/ha, sản lượng 2.850 tấn/năm. Cây bưởi đường là một cây đặc sản truyền thống được trồng chủ yếu ở Sơn Quang, Sơn Lâm, Sơn Hồng… Hiện nay đang được nhân rộng ra các xã trong huyện. Cây mít, trong đó mít mật, mít giai, mít nhạn… là loại cây ăn quả được trồng phổ biến ở Hương Sơn. Phát triển cây công nghiệp dài ngày cũng được chú trọng ở Hương Sơn. Cây chè là một loại cây truyền thống nổi tiếng của Hương Sơn. Hiện nay, cây chè đã trở thành “vành đai quy hoạch xanh” tại các vùng Tây - Kim - Lĩnh. Vùng Sơn Kim được quy hoạch thành những “làng chè công nhân của Xí nghiệp Chè Tây Sơn” và “làng chè Tổng đội Thanh niên xung phong Tây Sơn”. Hằng năm, đã xuất khẩu ra nước ngoài hàng trăm tấn chè búp khô, tạo lợi nhuận đáng kể về kim ngạch xuất khẩu. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi phát triển khá sớm ở Hương Sơn. Là một huyện có nhiều đồng cỏ, đất vườn rộng, nên chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển mạnh. Ngày nay, chăn nuôi có những bước đột phá và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá trị sản xuất nông nghiệp. Các mô hình trang trại, gia trại, tổ hợp tác xã được nhân rộng và phát triển mạnh. Trên địa bàn huyện, xuất hiện nhiều cơ sở chăn nuôi lợn tập trung, quy mô lớn theo hình thức liên doanh, liên kết với doanh nghiệp để phát triển bền vững. Chăn nuôi hươu là thế mạnh trong ngành chăn nuôi của Hương Sơn, nhằm giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu. Nuôi hươu tập trung nhiều nhất ở các xã: Sơn Quang, Sơn Giang, Sơn Trung, Sơn Lâm, Sơn Ninh, Sơn Châu, Sơn Tây, Sơn Kim, Sơn Hồng... Nhiều hộ nuôi từ 10-30 con, thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm. Hươu, từ loài động vật hoang dã trong rừng, ngày nay đã trở thành một loại vật nuôi mang lại giá trị về kinh tế. Nhung hươu Hương Sơn là một loại dược phẩm cao cấp. Nghề nuôi hươu không những góp phần xóa đói giảm nghèo, mà nhiều gia đình nhờ vào chăn nuôi hươu đã trở thành tỷ phú.
15 Nuôi trồng thủy sản ở Hương Sơn phát triển tương đối nhanh cả về diện tích và sản lượng. Từ 408 ha (năm 2000) tăng lên 486 ha (năm 2013) với sản lượng là 260 tấn và 670 tấn. Ngoài thực vật, động vật, rừng Hương Sơn còn có tài nguyên khoáng sản nhiều nhất là đá granit, đá xây dựng, trữ lượng đá trong rừng núi Hương Sơn rất lớn. Rừng núi Hương Sơn với hàng ngàn khe suối lớn, nhỏ còn là nguồn nước vô tận thường xuyên cung cấp cho đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Đáng chú ý là mỏ nước khoáng Sơn Kim và mỏ đất hiếm ở vùng Sơn Bình, Sơn Trà... đã tạo thành trung tâm khu du lịch sinh thái đặc biệt. Ngành nghề truyền thống ở Hương Sơn chủ yếu là chế biến nông lâm sản, công nghiệp còn nhỏ lẻ, chế biến sản phẩm thô sơ mang tính chất thủ công, một số nghề và làng nghề thủ công cũng xuất hiện từ khá lâu, trong đó có những nghề và làng nghề nổi tiếng. Hiện nay, do sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, một số nghề thủ công không còn tồn tại nữa, hoặc chỉ tồn tại ở quy mô nhỏ, trong phạm vi kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên, cũng có những ngành nghề tiếp tục được mở rộng và phát triển. Làng Thịnh Xá (nay là Sơn Thịnh) từ lâu đã có nhiều nghề thủ công, nghề nào cũng đạt đến trình độ kỹ xảo và đem lại thu nhập khá, nhất là nghề dệt. Người dân Hương Sơn đã truyền cho nhau câu ca: “Lắm lúa Trị Yên, lắm tiền Thịnh Xá”. Nghề kéo sợi, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải không chỉ phát triển mạnh ở các làng nghề truyền thống, mà đã lan sang các xã vốn thuần nông. Trước đây sử dụng khung cửi truyền thống để dệt vải, nên chỉ dệt các loại vải thô (thô bố) vải khổ hẹp. Ngày nay, nhờ kỹ thuật dệt ngày càng cao hơn, hợp tác xã đã mở mang dệt vải khổ rộng và dệt chăn. Sản phẩm làm ra đáp ứng yêu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, đã dệt được vải nhân tự, vải quả trám, lồng mốt, lồng đôi, lụa … Ngoài nghề dệt vải, nghề làm guốc, nghề làm quạt nan, nghề làm mành, nghề đan lát cũng được phát triển ở Sơn Thịnh. Làng Xa Lang (nay là Sơn Tân) là nơi có nghề mộc nổi tiếng lâu đời. Các phường mộc Xa Lang đi khắp nơi làm nhà ở, đình chùa, có truyền thuyết kể về tài năng nghề mộc Xa Lang được lưu truyền nhiều nơi trong tỉnh.
16 Ở Yên Đồng, Tứ Mỹ... có nghề ép mật mía, mà ngày xưa thường gọi là "nghề che chảo" (che là dụng cụ để ép mía, chảo là dụng cụ để nấu thành mật) đã góp phần đắc lực vào nền kinh tế tự cấp, tự túc của địa phương. Ngày nay, nghề "che chảo" không còn nữa. Ngoài các nghề trên, ở Hương Sơn còn có nhiều nghề thủ công khác như: nghề làm đồ chơi, nghề tạo dáng từ những gốc tre, thân gỗ làm đồ trang trí, nghề rèn, nghề ép (hoặc nấu) dầu thực vật như dầu vừng, dầu trẩu, dầu hạt bưởi... Đáng chú ý là nghề làm kẹo "cu đơ" đã trở thành đặc sản nổi tiếng của Hà Tĩnh. Thương mại - Dịch vụ ở Hương Sơn trước đây chủ yếu buôn bán nhỏ lẻ, trao đổi, mua bán sản phẩm nông nghiệp thông qua các chợ nông thôn. Trong thời kỳ đổi mới, hoạt động này ngày càng sôi động trên cơ sở khai thác tiềm năng, lợi thế về giao thông và quan hệ thương mại với các nước qua Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo. Trước đây, trung tâm trao đổi bán mua của các vùng nông thôn là các chợ. Năm 1925, Hương Sơn có 13 chợ, đến năm 1942, có 15 chợ: Phố, Gôi, Choi, Nền Rạp, Bè, Đình, Tàng, Nầm, Chùa, Sông Con, Hà Tân, xóm Đình và chợ Quát... Ngày nay, chợ được xây dựng lại, mở rộng thêm và trở thành những trung tâm thương mại mới, đáp ứng nhu cầu đời sống ngày càng cao của người dân trên địa bàn huyện. Thị trường giao lưu hàng hoá được mở rộng, hàng hóa đa dạng, phong phú. Nhiều điểm kinh doanh dịch vụ - thương mại được mở. Các đầu mối thương mại, dịch vụ ở thị trấn Phố Châu và Tây Sơn và khu vực thị tứ Nầm tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Hoạt động thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển, đáp ứng nhu cầu lưu thông và trao đổi hàng hóa của nhân dân, đặc biệt là khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo. Các loại hình dịch vụ phát triển đa dạng, nhất là hoạt động của khu du lịch tâm linh gắn với khu di tích Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, với các dịch vụ thu hút đông đảo khách tham quan nghỉ dưỡng. II. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HÓA 1. Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán, tín ngưỡng Ở Hương Sơn có một kho tàng văn hóa dân gian và nghệ thuật dân gian được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nơi đây đã quy tụ dân tứ xứ đến cùng sinh sống với người bản địa. Trong văn học dân gian có những sáng tác bằng
17 ngữ văn như các thể loại thơ ca truyền miệng trong dân gian: ca dao, đồng dao, vè...; các loại truyện kể: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười... Tại Hương Sơn, có nhiều bài đồng dao phổ biến như: Lộn rồng rồng, Cầu ông Chủi mụ Chủi... Các làn điệu dân ca Nghệ - Tĩnh khá phong phú, mang đậm chất trữ tình, tiêu biểu là các điệu hò, hát ru con, hát ví, hát giặm. Trong hò, có hò kéo gỗ, xeo gỗ, đẩy thuyền...; hát ví, hát giặm là hai thể loại dân ca phổ biến ở Nghệ - Tĩnh. Về mỹ thuật, kiến trúc dân gian, thợ mộc Xa Lang nổi tiếng tài hoa về những công trình chạm khắc gỗ. Từ xưa, ở Hương Sơn đã có lời truyền về ba công trình chạm gỗ đặc sắc ở hai huyện Hương, La: Thứ nhất Hương án Xa Lang; thứ hai gác chuông chùa Thượng; thứ ba Tam quan Du Đồng. Tam quan Du Đồng ở xã Đức Đồng (có thời thuộc Hương Sơn) nay vẫn còn. Đó là những công trình kiệt tác của thợ Xa Lang. Hai công trình chạm trổ tiêu biểu vẫn còn lưu lại ở Hương Sơn là: ngôi đền Bạch Vân ở Thịnh Xá (Sơn Thịnh) và đền Trúc ở Xa Lang (Sơn Tân). Đền Trúc còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, trong đó, bài vị Thành hoàng cũng là một tác phẩm nghệ thuật, chạm 4 con cá hóa rồng. Cũng như các miền quê khác của đất nước, ở Hương Sơn có tục lệ thờ thần và tín ngưỡng thờ Thành hoàng, thờ cúng tổ tiên và các vị có công với nước, với dân. Trước năm 1945, huyện Hương Sơn có 4 tổng, gồm 46 làng, xã. Làng xã nào cũng có đình, đền, miếu, trong đó, có 1 ngôi đền thờ Thành hoàng. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn huyện có hơn 100 ngôi đình, đền, miếu thờ. Lễ hội dân gian cổ truyền ở Hương Sơn, chủ yếu là hội làng. Trong Hội làng có rước Thành hoàng làng. Một số làng xã ở Hương Sơn: Văn Giang, Thịnh Xá, Gôi Mỹ, Bình Hòa, Xuân Trì, Ninh Xá, Yên Bài… có tục lễ rước thần vào rằm tháng Giêng hàng năm. Trong các lễ hội, người dân Hương Sơn thường tổ chức các trò chơi cướp cù, đấu vật, đánh đu (ở Yên Ấp), đánh cờ thẻ, đua thuyền (ở Long Ốc), bắn nỏ, thả diều sáo (ở Phúc Đậu); một vài nơi khác (Ninh Xá, Hữu Bằng, Mân Xá...) còn có đánh cờ người, tổ tôm điếm... Những năm gần đây, việc khôi phục và phát triển lễ hội tri ân Đại danh y Lê Hữu Trác đã thu hút đông đảo người dân địa phương và khách thập phương. Năm 2014,
18 Lễ hội Hải Thượng Lãn Ông được Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Tục thờ cúng Thần Nông và Văn Thánh rất phổ biến ở các làng, xã. Làng nào cũng có đàn thờ Thần Nông, xây gạch hoặc đắp đất lộ thiên, gọi là nền xã tắc. Các thần, thánh được thờ tại đền miếu ở Hương Sơn bao gồm: các thần có xuất xứ từ giới tự nhiên như đá, núi, sông, rắn...; các thần có xuất xứ là tinh linh từ trời xuống (thiên thần) được thờ phổ biển nhất là “Liễu Hạnh công chúa”, “Song đồng - Ngọc nữ”, “Quế Hoa công chúa”... ; các nhân thần bao gồm: các vị đế, hậu, các vị anh hùng, các nhân vật lịch sử của quốc gia và nhân vật lịch sử địa phương, từ các vị văn thần, võ tướng, các nhà khoa bảng, nhà ái quốc, các tổ nghề, tổ khai cơ, khai canh, những người được tôn làm thần... Một số đền, miếu ngoài thờ vị phúc thần, còn đặt bài vị thờ thánh mẫu Liễu Hạnh như: đền Cả (Sơn Trà), đền Kim Cương (Sơn Kim 1), chùa Phúc Linh (Phúc Đậu)... Nhưng lớn nhất là đền Đức Mẹ, dưới chân núi Thiên Nhẫn (Sơn Thịnh). Các nhân vật có công với dân, với nước, nhất là các văn thần, võ tướng được thờ ở Hương Sơn khá nhiều. Thời nhà Lê và nhà Nguyễn: Nguyễn Tuấn Thiện (đền Kim Quy xã Sơn Ninh), Lê Hữu Trác (Sơn Quang), Lê Hữu Tạo (làng Thọ Lộc, xã Sơn Lễ), Nguyễn Lỗi (làng Bảo Thịnh xã Sơn Bình), Nghĩa Quận công Tống Tất Thắng, một trung thần của nhà Lê (xã Sơn Hòa), Trần Đạt, Trần Lê (ở đền Trúc xã Sơn Tân) là hai danh tướng của Lê Lợi. Ở vùng núi Đại Hàm (Sơn Bình) có đền thờ Phan Đa, một vị tướng nhà Lê (đền thờ chính ở Võ Liệt huyện Thanh Chương), Cao Thắng (xã Sơn Lễ)... Tại Hương Sơn có hai tôn giáo lớn là: Phật giáo và công giáo đều được coi là đời sống tâm linh lâu đời của người dân. Về Phật giáo, từ trước năm 1945, làng nào cũng có chùa, Hương Sơn có 4 tổng 46 xã, thôn, thì có đến 35 ngôi chùa, có nhiều ngôi chùa lớn, có tiếng trong vùng, như: chùa Linh Sơn (Hữu Bằng), chùa Tàng Sơn (Long Ốc) (nay là xã Sơn Long), chùa Phan Ngoại, thường gọi là chùa Phan (Đỗ Xá) (nay là xã Sơn Tân), lớn nhất là chùa Nhiễu Long (ở Hàm Phố) (nay là thị trấn Phố Châu) và chùa Tượng Sơn ở thôn Yên Hạ (làng Quát), xã Tình Diễm, tổng Hữu Bằng (nay là xã Sơn Giang)....
19 Tuy nhiên, do biến cố lịch sử, nên ngày nay còn lại 8 chùa được trùng tu tôn tạo. Theo thống kê sơ bộ, hiện có 27 chùa đã dỡ phá hoặc hợp tự vào với các cơ sở thờ tự khác. Hiện nay, toàn huyện có 8 cơ sở thờ tự, có 5 chức sắc, khoảng 4.500 phật tử, trong đó có khoảng 2.500 phật tử Quy y Tam bảo. Việc tế lễ hàng năm chủ yếu là: lễ Phật đản, lễ hội Quan Âm và lễ Trung nguyên, Thượng nguyên, ngoài ra còn có lễ hội cầu yên cho nhân dân địa phương. Chùa Côn Sơn ở xóm Côn Sơn (xã Sơn Tiến) là ngôi chùa có lịch sử lâu đời nhất ở Hương Sơn. Ngôi chùa lớn, đẹp và có nhiều vị sư trù trì nhất là chùa Tượng Sơn ở thôn Yên Hạ (xã Sơn Giang) còn gọi là chùa Hầm Hầm. Chùa Nhiễu Long thường gọi là chùa Cao (thị trấn Phố Châu) cũng là một ngôi chùa đẹp, chùa thường xuyên có sãi chùa và sư trụ trì coi sóc và tổ chức nghi lễ. Hương Sơn là vùng đất mà đạo Công giáo du nhập vào sớm so với nhiều huyện trong tỉnh. Năm 1846, Giáo hoàng Grêgôriô XVI ban sắc cắt một phần giáo phận Tây đàng ngoài, lập Giáo phận Nam đàng ngoài (giáo phận Nam); từ 1924, gọi là giáo phận Vĩnh, rồi Vinh. Đồng bào theo đạo Thiên Chúa ở Hương Sơn khá đông. Hiện nay, Hương Sơn có 5 giáo xứ, 24 họ, đó là: Đông Tràng (xã Sơn Châu - 1846); Kẻ Mui (thị trấn Phố Châu - 1905); Kẻ Đọng (xã Sơn Tiến - 1918); Kim Cương (xã Sơn Kim 1 - 2005); Khe Sắn (xã Sơn Lâm - 2007), với 13.157 giáo dân (theo số liệu năm 2013), chiếm khoảng 10% dân số. Xứ Đông Tràng có từ giữa thế kỷ XVIII, là một trong 18 giáo xứ đầu tiên khi thành lập địa phận Vinh (1846). Hiện nay, giáo xứ có 2.116 giáo dân (năm 2013), được chia làm 5 giáo họ: Bình Hòa, Phúc Nghĩa, Đông Trung, Yên Bài, Tứ Mỹ và trải rộng trên địa bàn của 3 xã: Sơn Hòa, Sơn Ninh, Sơn Châu. Sở xứ ở xã Sơn Châu. Xứ Kẻ Đọng thành lập năm 1918, được tách từ xứ Đông Tràng. Hiện nay, giáo xứ có 2.850 giáo dân. Sở xứ của giáo xứ đặt ở xã Sơn Tiến, có các họ: Kẻ Đọng, Quỳnh Linh, Kẻ Trúa, họ Tân Vạc, họ Tiền Sơn; Kẻ E chủ yếu ở địa bàn của 2 xã: Sơn Tiến, Sơn An. Xứ Ke Mui, được thành lập năm 1905, tách từ giáo xứ Đông Tràng. Hiện nay, giáo xứ có 5.073 giáo dân. Xứ Kẻ Mui có: Kẻ Mui, Yên Hòa, Khe Sắn, Đức Vọng, Kim Cương, Yên Quát, Tịnh Di, Trang Mỹ, Hà Tân. Sau này, do
20 quá trình phát triển, từ Giáo xứ Kẻ Mui đã thành lập thêm 2 giáo xứ là: Kim Cương (2005) và Khe Sắn (2007), có các họ: Kẻ Mui, Yên Hòa, Đức Vọng, Yên Quát, Tịnh Di, Trang Mỹ, Hà Tân, Tân Thành, Sở xứ ở xã Sơn Trung. Xứ Kim Cương được thành lập năm 2005, tách từ Giáo xứ Kẻ Mui, có các họ: Chè, Kim Cương. Sở xứ ở xã Sơn Kim 1. Xứ Khe Sắn (Thánh An Tôn), được thành lập năm 2007, tách từ giáo xứ Kẻ Mui, có các họ: Khe Sắn, Tân Thành. Sở xứ ở xã Sơn Lâm. Trong tiến trình lịch sử, đồng bào lương, giáo và các dân tộc ở Hương Sơn đã cùng nhau đoàn kết “kính Chúa, yêu nước”, “sống tốt đời, đẹp đạo”, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. 2. Truyền thống cần cù, sáng tạo, tinh thần vượt khó vươn lên trong lao động sản xuất Quá trình khai núi, lấn rừng làm nương rẫy trồng, trỉa và khai thác đầm lầy thành ruộng lúa nước là quá trình lao động cần cù sáng tạo của người dân Hương Sơn. Ở xã Hữu Bằng xưa có những đồng ruộng còn mang dấu tích lấn núi như cánh đồng ruộng Khái (khái tức là con hổ) có thể xưa kia đây là cánh rừng rậm có nhiều hổ. Ở các xã Phúc Dương có xóm Cửa Nương, xưa kia người dân đã phá rừng làm nương rẫy và lập nên một xóm quần cư trước cửa rừng đi vào nương rẫy, nên có tên là xóm Cửa Nương. Nhiều nơi trong huyện còn có địa danh Cửa Truông (tức cửa đi vào rừng để phở (vỡ) "rày" làm nương rẫy). Ở các địa phương như: Thủy Mai, Phúc Đậu, Trị Yên, Tiên Bì, Tràng Sim... đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân còn lên rừng, lên đồi núi đốt rẫy, chọc lỗ xuống đất tra hạt ngô, hạt thóc theo kiểu "Đao canh hòa chủng" thời cổ xưa để sản xuất ngô "rày" lúa "rày" (tức ngô rẫy, lúa rẫy). Nhiều làng ven triền núi Hoa Bảy, dưới chân truông Mèn, Thiên Nhẫn còn có tập quán sản xuất lúa trỉa (lúa nương rẫy). Tại Hữu Bằng có một cánh đồng với tên gọi là ruộng Săng, dấu vết của một đồi tranh săng mà người dân xưa đã đốt để làm nương rẫy. Tập quán gieo trỉa lúa nước kéo dài đến những năm 1960-1970 của thế kỷ XX với những giống lúa nếp phổ biến như nếp cục, nếp lem,... Hầu hết ruộng cấy, đất trồng đều nằm xen vào giữa đồi cao, đồi thấp, mà nay đã trở thành vườn bãi.
21 Nhà Nguyễn từng lập đồn điền ở trại Giàm. Đến thời thuộc Pháp, ở Hương Sơn có nhiều đồn điền lớn: đồn Phe Rây ở Sông Con, Booc-đê ở Hà Tân, Cu Đúc ở Voi Bổ. Ngoài đồng ruộng, nghề làm vườn ở Hương Sơn có từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII. Thời đó đất rộng, người thưa, ai có sức thì khai phá. Đầu thế kỷ XIX, ở Hương Sơn có nhiều vườn nhân tạo và trồng nhiều cây trái: chuối, cam, bưởi, mít và nhiều loại cây đặc sản khác có giá trị về kinh tế như cây chè. Từ đó đến nay, vườn cho một nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông dân. Vườn còn là “trại” chăn nuôi nhỏ. Con hươu rừng cũng được thuần hóa sớm ở Hương Sơn, lúc đầu chỉ là sinh vật cảnh của một số gia đình, nay trở thành đàn gia súc quý. Ngày nay, ở Hương Sơn loại hình vườn đồi (trang trại, gia trại) được phát triển, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Từ khi đất nước được độc lập, người dân được làm chủ cuộc sống, làm chủ mảnh vườn, gắn bó với quê hương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền đã phát động phong trào lên khai khẩn vùng này. Trải qua bao đời, nông dân là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội. Bàn tay khéo léo, sự cần cù, thông minh, sáng tạo của người dân đã biến đồng hoang thành ruộng đất cày cấy, đất cằn cỗi trở thành phì nhiêu. Những di tích và khai hoang phát thảo, đào mương, đắp đập hiện còn nhiều trong huyện. Truyền thống lao động sản xuất không ngừng được bồi đắp để nhân dân Hương Sơn bền bỉ vươn lên tạo dựng cuộc sống, vươn lên làm giàu quê hương, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới của quê hương, đất nước. Nhiều người được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động: bà Trần Thị Đường, quê xã Sơn Phố; ông Lê Văn Quế, quê xã Sơn Thịnh, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. 3. Truyền thống hiếu học, khoa bảng Hương Sơn xưa kia thuộc phủ Đức Quang (gồm Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc) là vùng đất học của xứ Nghệ và có nhiều người tài giỏi, đỗ đạt cao.
22 Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, ở Hương Sơn đã xuất hiện nhiều làng học nổi tiếng. Những tên làng Gôi Mỹ, Bình Hòa (Sơn Hòa), Xuân Trì (Sơn An), Hữu Bằng (Sơn Bằng), Thịnh Xá (Sơn Thịnh), Xa Lang (Sơn Tân), Dĩ Long (Sơn Long), Long Ốc..., là niềm tự hào của Hương Sơn đối với cả nước. Ở Hương Sơn thời nào cũng có người giỏi, đỗ đạt cao. Trong thời kỳ phong kiến, Hương Sơn có hơn 20 vị đỗ đại khoa (từ tiến sĩ trở lên) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Đinh Nho, Tống Trần, Hà Huy, Lê Khánh, Nguyễn Khắc, Đào Duy, Lê Xuân, Văn Đình, Đặng Đình, Trần Đình … Thời nhà Lê, có câu truyền tụng: “Phú Cống Lan, văn Cống Hồ”. Cống Lan (tức Lê Khoan Lan); Cống Hồ ( Hồ Đào Miễn) ở xã Hữu Bằng. Khoa thi Hương trường Nghệ năm Ất Dậu, Cảnh Hưng thứ 26 (1765), có 4 người đỗ hương cống thì 3 người ở làng Hữu Bằng là các ông: Lê, Hồ và Nguyễn Khắc Tiệp và 1 người ở Yên Ấp. Thời Lê, có 6 vị đỗ tiến sĩ, gồm: Nguyễn Kính Hải ở Tân Ốc đỗ khai khoa (1478), Nguyễn Tử Trọng ở Yên Ấp (1502), Nguyễn Văn Lễ ở Dương Trai (1650), Đinh Nho Công ở Yên Ấp (1670), Nguyễn Thủ Xứng ở Dương Trai (1683), Đinh Nho Hoàn ở Yên Ấp (1700). Đến thời nhà Nguyễn, có Nguyễn Duy Dư ở làng Kẻ Trảy (Tri Lễ - Sơn Tiến) nổi tiếng hay chữ, được Hội Tư văn huyện xếp vào hàng “Hương Sơn tứ hổ”. Rất tiếc là đi thi, ông chỉ đỗ Tú tài, trở về đang ôn luyện chờ thi khoa sau thì ốm nặng rồi mất. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, có thêm 11 khoa thi Hương và 10 khoa thi Hội ở Trung Kỳ. Hương Sơn có 3 vị đỗ đại khoa (1 Hoàng giáp, 1 Tiến sĩ, 1 Phó bảng), 25 vị đỗ bảng giáp Hương khoa (Cử nhân) và nhiều vị đỗ bảng ất (Tú tài). Sau năm 1945, đại bộ phận những trí thức Tây học đều trở thành nhà cách mạng hoặc nhà chuyên môn tài năng, phát huy vai trò trong chế độ mới. Ngày nay, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn đặc biệt quan tâm sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Nối tiếp truyền thống hiếu học, nhiều người con của Hương Sơn thành đạt trên các lĩnh vực công tác đã và đang giữ các chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, các trường đại học. Theo tài liệu ghi chép chưa đầy đủ, đến nay, Hương Sơn có tới 127 vị là giáo sư, phó
23 giáo sư, tiến sĩ đã và đang hoạt động trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật trong và ngoài nước (trong đó có 2 viện sĩ Viện Hàn lâm nước ngoài), nhiều tên tuổi đã làm rạng rỡ quê hương, đất nước: Lê Xuân Tùng, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội (quê xã Sơn Lễ); Thượng tướng Lê Minh Hương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an (quê xã Sơn Tân); Phạm Song, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế (quê xã Sơn Long); Lê Đức Thúy, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (quê xã Sơn Thịnh); Trần Cẩm Tú, Uỷ viên Ban Bí Thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (quê xã Sơn Bằng); Lê Khả Kế, giáo sư, nhà ngôn ngữ học (quê xã Sơn Bằng); Hà Huy Khoái, giáo sư, viện sĩ toán học, nguyên Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam (quê xã Sơn Thịnh); Lê Xuân Lựu, giáo sư, trung tướng, nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quân sự (quê xã Sơn Lễ); Hà Học Hợi, nguyên Phó trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (quê xã Sơn Hòa); Đinh Nho Liêm, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao (quê xã Sơn Hòa); Lê Minh Hưng - Ủy viên Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Đoàn Minh Huấn - Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản,... 4. Truyền thống yêu nước đấu tranh chống giặc ngoại xâm Hương Sơn có bề dày truyền thống yêu nước và cách mạng. Theo một số gia phả của người xưa để lại thì Hương Sơn là đất lành nên nhiều tướng võ, văn thần lên đây dựng nghiệp. Thời thuộc Minh đầu thế kỷ XV, cha con Trạng nguyên Sử Hy Nhan từ Bình Lãng Thượng lên ẩn ở vùng Kẻ Tàng, chiêu dân lập ấp, dựng nên xã Trại Đầu (Ân Phú) và nhiều thôn nay thuộc xã Sơn Long, Sơn Trà. Khoảng những năm 1470-1480, Thái bảo Nguyễn Đúc Ly là con trai công thần khai quốc nhà Lê, Nguyễn Lội từ Thanh Hóa về Đỗ Gia, lập lên làng Bảo Thịnh, xã Dương Trai (Sơn Bình). Hương Sơn không chỉ là đất dụng võ của các bậc hiền tài mà còn là đất thượng võ. Trong đó dòng họ Đinh Văn ở Lạc Phố (Sơn Châu) có tiếng tăm lẫy lừng thiên hạ với 3 quận công: Văn Đình Nhiệm, Văn Đình Dần và Văn Đình Úc.
24 Khi Tổ quốc lâm nguy, Hương Sơn trở thành đất tụ nghĩa. Đã có hai cuộc hội tụ lớn ở đây: Cuộc tụ nghĩa dưới cờ của vua Lê chống giặc Minh đầu thế kỷ XV và cuộc tụ nghĩa dưới cờ Cần vương của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX. Nguyễn Tuấn Thiện, người làng Phúc Đậu, xã Phúc Dương, huyện Đỗ Gia (nay là xã Sơn Phúc, huyện Hương Sơn), đã tập hợp trai tráng trong làng và vùng xung quanh lập đội nghĩa binh Cốc Sơn khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược. Mùa xuân năm 1425, Nguyễn Tuấn Thiện tổ chức “đội quân Cốc Sơn” ra đón mừng Lê Lợi và Nghĩa quân Lam Sơn, cùng “giết ngựa trắng ăn thề” kết nghĩa anh em dưới gốc cây thị ở xóm Nậy thôn Phúc Đậu, xã Sơn Phúc ngày nay. Từ ấy, đội quân Cốc Sơn trở thành một bộ phận của nghĩa quân Lam Sơn và Nguyễn Tuấn Thiện là một tướng lĩnh xuất sắc, được xếp vào hàng công thần khai quốc, được ban quốc tính là Lê Thiện và được phong Đô tổng quản, Phó nguyên súy. Về sau, ông giữ chức Đại tướng quân, coi châu Hoan và châu Ái (Nghệ Tĩnh - Thanh Hóa) và cai quản cả một dải đất dài từ châu Ô đến Đồ Bàn (Quảng Trị đến Bình Định). Sau khi ông mất (1494), nhân dân địa phương mai táng và lập miếu thờ trên ngọn đồi Kim Quy (Sơn Ninh). Trong hai năm 1425-1426, căn cứ Đỗ Gia - Lục Niên là đất đứng chân vững chắc, làm cơ sở cho nghĩa quân Lam Sơn phát triển vượt bậc, thành đội quân chính quy lớn mạnh, làm bàn đạp cho cuộc tiến quân giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của nhà Minh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Địa bàn hiểm yếu Đỗ Gia đã tạo cho căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn vị thế bất khả xâm phạm và căn cứ này lại tạo điều kiện cho Đỗ Gia, Hương Sơn phát triển về kinh tế, văn hóa, nhất là ở phía Bắc. Đến thời nhà Nguyễn có cuộc nổi dậy của Lê Hữu Tạo ở làng Tuần Lễ (nay là xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn). Theo sách ở địa phương Nghệ - Tĩnh, dựa vào lời kể và tài liệu sưu tầm trong dân gian, thì ông đã liên kết với một số bạn bè cùng chí hướng, thường lấy của nhà giàu, chia cho dân nghèo. Ông bị bắt giam, nhưng đã vượt ngục về quê tổ chức cuộc nổi dậy, lấy Truông Mây làm căn cứ chống lại triều đình. Cuộc chiến đấu kéo dài hơn 3 năm (1818- 1821), sau đó ông bị giết hại.
25 Năm1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Triều đình Tự Đức nhường cho Pháp ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Pháp chiếm luôn ba tỉnh miền Tây, rồi năm 1873, đánh thành Hà Nội. Sĩ phu Bắc Hà đang sục sôi căm phẫn thì triều đình lại ký “Hòa ước Giáp Tuất”, nhường 6 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Một phong trào phản kháng quyết liệt cùng phối hợp khởi nghĩa nổ ra ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Người cầm đầu nghĩa quân ở Hà Tĩnh là Trần Quang Cán, xã Phúc Dương, tổng Yên Ấp (nay là xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn). Ông lấy đồn điền Sông Con cùng hai trại Bạch Sơn (nay là Sơn Tiến), Yên Đức (nay là Sơn Lễ) và xóm Cửa Ngăn làm căn cứ, để tổ chức lực lượng, tập luyện võ nghệ, binh bị, đóng thuyền, sắm voi chiến, sắm binh khí, binh lương được chuẩn bị tích cực. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu nổ ra từ mùa Xuân năm Giáp Tuất (2-3-1874) đã tiến đánh trên một vùng rộng lớn từ Hương Sơn xuống Đức Thọ, Thạch Hà và chiếm giữ thành Hà Tĩnh. Tuy nhiên, trước sức mạnh của đội quân viễn chinh Pháp, cuộc khởi nghĩa thất bại. Cuộc khởi nghĩa Giáp Tuất mặc dù chỉ duy trì được nửa năm, nhưng đã thể hiện được tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm của nhân dân Hà Tĩnh nói chung, nhân dân Hương Sơn nói riêng. Đây là ngọn lửa đầu tiên được thổi lên để rồi 10 năm sau bùng cháy mạnh mẽ trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Tiếp nối truyền truyền thống yêu nước và phong trào đấu tranh cách mạng ở Hương Sơn tiếp tục được phát huy, nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc sau này, Nhân dân Hương Sơn đã không quản ngại gian khổ, hy sinh cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp vẻ vang đấu tranh giành độc lập, hòa bình, thống nhất Tổ quốc và bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội, nhiều người con ưu tú của Hương Sơn được Đảng và Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó tiêu biểu là: Trần Văn Nhỏ, quê xã Sơn Long; Trần Hành, quê xã Sơn Châu; Lê Bình, quê xã Sơn Tân; Uông Xuân Lý, quê xã Sơn Phúc; Anh hùng Liệt sĩ Nguyễn Dung, quê xã Sơn An. Có 14 người, được Đảng và Nhà nước phong tặng sĩ quan cấp tướng và hàng trăm người là Đại tá trong lực lượng vũ trang; Nhiều địa phương được Nhà nước phong tặng đơn vị Anh hùng lực
26 lượng vũ trang nhân dân trong 2 cuộc kháng chiến cống Pháp và chống Mỹ cũng như trong sự nghiệp đổi mới; Nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Hương Sơn vinh dự được Nhà nước phong tặng đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân và nhiều phần thưởng cao quý khác của Đảng và Nhà nước. Những truyền thống quý báu mà các thế hệ nhân dân Hương Sơn vun đắp từ đời này qua đời khác là điểm tựa vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Hương Sơn hôm nay và mai sau.
27 Chương 1 ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG SƠN THÀNH LẬP VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945) I. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG Ở HƯƠNG SƠN NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG BỘ HƯƠNG SƠN 1. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Hương Sơn đầu thế kỷ XX Sau khi hoàn thành việc xâm chiếm nước ta, thực dân Pháp tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn. Hệ quả của chính sách thống trị của thực dân Pháp làm cho tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung, Hương Sơn nói riêng có nhiều biến đổi. Về kinh tế: Ở Hương Sơn, ruộng đất, tư liệu sản xuất chủ yếu bị chính quyền thực dân, phong kiến tước đoạt gần hết. Thực dân Pháp đã chiếm ruộng đất của người dân để lập đồn điền. Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, ở tỉnh Hà Tĩnh có 19 đồn điền, trong đó có nhiều đồn điền ở Hương Sơn, lớn nhất là đồn điền Sông Con của Pherây (Ferey), Hà Tân - Hà Thượng của Boócđê (Bordet), Voi Bổ của Công ty S.A.N.A (Hội Nông nghiệp Bắc Trung Kỳ). Các đồn điền này chủ yếu trồng lúa, cà phê… Người nông dân ở Hương Sơn chỉ còn 36% ruộng đất; các tư liệu sản xuất khác hoặc thiếu và không có. Vì vậy, năng suất lúa những năm được mùa chỉ đạt bình quân 6-7 tạ/ha. Kết quả, sản phẩm thu hoạch không đủ nộp tô tức, sưu thuế…Còn những năm mất mùa, thì “hết mùa là hết lúa, treo hái là treo niêu”. Nhờ quyền lực chính trị dựa vào thế lực đế quốc, phong kiến, có những tên địa chủ bao chiếm hàng chục, vài trăm héc ta ruộng đất. Ngoài đất đai gieo trồng, chúng chiếm cả từng cành cây, ngọn cỏ, đến cá nước, chim trời. Người nông dân muốn lấy củi phải nộp tô (tô rừng). Về mặt chính trị - xã hội:
28 Giai cấp nông dân ở Hương Sơn chiếm tuyệt đại dân số. Do bị mất ruộng đất, nên hầu hết nông dân không có ruộng đất, hoặc thiếu ruộng, phải nhận ruộng của địa chủ về cày thuê, cấy rẽ. Người nông dân ở Hương Sơn bị tầng lớp địa chủ, quan lại, cường hào, tổng lý địa phương bóc lột nặng nề bằng nhiều hình thức cho vay nặng lãi. Chính quyền thực dân phong kiến còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý, ngoài thuế thân, hay thuế sưu đánh theo đầu người. Sưu cao, thuế nặng, nông dân không nộp được, nên bị chính quyền thực dân, phong kiến áp bức một cách tàn bạo, chúng treo người dân lên xà nhà, tẩm dầu vào đầu ngón tay lấy lửa đốt. Chính sách áp bức, đàn áp dã man khiến nhiều người phải cầm cố đồ đạc, nhà cửa, trâu bò, ruộng vườn và phải tha phương cầu thực xin ăn. Ở Thọ Lộc, Hàm Lại (Sơn lễ), ruộng đất tính theo đầu người chiếm khá cao (5-6 sào Trung bộ/người), nhưng người dân quanh năm phải đốt than kiếm củi để sống. Nhiều nơi như Phúc Dương, Phúc Đậu, 90% gia đình nông dân phải ngược sang nước Lào sinh sống, xóm Sâm (Xuân Trì), 99% người dân phải lên rừng sinh sống, phải sống trong sự sợ hãi, làm mồi cho thú dữ để kiếm lấy miếng cơm. Nhân phẩm con người cũng bị chà đạp thậm tệ. Nhiều làng: Bạch Sơn, Yên Đức, Lê Định, Sơn Tiến, bất cứ lý do gì, người dân đều bị bọn hào lý đánh đập, chửi mắng, thậm chí cả tù tội. Họ là nạn nhân của chế độ chia để trị, những thảm cảnh nồi da xáo thịt, lương, giáo chém giết lẫn nhau dưới thời Tự Đức, nhắc đến ai cũng đau lòng. Tầng lớp địa chủ ở Hương Sơn có điều kiện phát triển nhanh. Đại bộ phận xuất thân từ quan lại cường hào, một số ít do buôn gian bán lậu hoặc cho vay nặng lãi mà giàu có. Với bản chất giai cấp là bóc lột địa tô, địa chủ Hương Sơn cũng như toàn bộ giai cấp địa chủ nói chung chủ yếu sống trên sự bóc lột mồ hôi, nước mắt của người dân lao động. Bọn địa chủ theo đạo Công giáo và đội lốt thầy tu còn lợi dụng thần quyền, vừa mở rộng chiếm đoạt thêm ruộng đất, vừa ru ngủ về mặt tinh thần đối với nhân dân. Từ sau khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1918), số lượng địa chủ lớn tăng lên, nhất là ở Sơn Hòa. Giai cấp địa chủ đã cấu kết với đế quốc để đàn áp, bóc lột nông dân và trở thành tay sai đắc lực của chính quyền thực dân.
29 Ngoài giai cấp nông dân, ở Hương Sơn còn có một lực lượng quan trọng chiếm 15% dân số, gồm thợ thủ công, người buôn bán nhỏ. Hầu hết họ sống tập trung ở thị trấn Phố Châu và một số làng: Thịnh Xá, Xa Lang, Phúc Dương. Cũng như nông dân, họ bị áp bức, bóc lột thậm tệ và do các ngành nghề thủ công bị mai một, phần lớn phải phiêu bạt đó đây, phải tìm đến thành thị, xưởng máy, hầm mỏ để kiếm kế sinh sống. Do đời sống bấp bênh, nên họ dễ dao động, tuy nhiên, trong số họ một số người có trình độ, sẵn có tinh thần yêu nước, nên đây là mảnh đất tốt để ươm hạt giống cách mạng. Về chính sách khai thác tài nguyên: Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên và bóc lột người dân Hương Sơn. Mặc dù có đủ điều kiện mở mang các xí nghiệp khai thác lâm sản, chế biến hoa quả, nhưng gần một thế kỷ đô hộ, chính quyền thực dân không mở mang ở Hương Sơn một xưởng nhỏ nào. Vì vậy, ở Hương Sơn, lực lượng công nhân chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong dân cư, chủ yếu là làm công việc trong các đồn điền. Như vậy, chính sách cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp làm cho đời sống của người dân Việt Nam nói chung, người dân Hương Sơn nói riêng rơi vào cảnh bần cùng hóa và tạo ra mâu thuẫn mới. Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng sâu sắc, trở thành mâu thuẫn chủ yếu. Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Do bị áp bức, đè nén, nông dân Hương Sơn liên tục vùng dậy đấu tranh, chống thực dân phong kiến và sẵn sàng đi theo Đảng làm cách mạng. Đây là lực lượng quan trọng để Đảng bộ Hương Sơn lãnh đạo tiến hành các cuộc cách mạng. 2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Hương Sơn trước khi thành lập Đảng bộ Ngày 20-8-1883, thực dân Pháp đánh chiếm Thuận An, triều đình nhà Nguyễn đã ký “Hòa ước Quý Mùi”, chấp nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp; thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Với bản “Hòa ước Giáp Thân” mà nhà Nguyễn đã ký với Pháp ngày 6-6-1884, nước An Nam hoàn toàn đặt dưới sự bảo hộ của nước Pháp.
30 Những cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp do sĩ phu yêu nước lãnh đạo đã diễn ra trên địa bàn Hương Sơn. Hưởng ứng chiếu Cần vương, người đầu tiên ở Hương Sơn là Phó bảng võ Đinh Nho Hạnh (vốn họ Phùng, lấy họ mẹ là Đinh Nho), quê xã Yên Ấp đã đứng ra chiêu mộ 500 nghĩa quân đấu tranh chống thực dân Pháp. Nghĩa quân đã phối hợp cùng với nghĩa quân của Phan Đình Phùng trong một số trận đánh. Sau đó một thời gian, ông ốm nặng rồi qua đời. Tiếp đó, các đội quân ứng nghĩa Cần vương lần lượt ra đời ở Hương Sơn. Thái Vĩnh Chinh (1845-1896), người xã Hữu Bằng, đỗ Cử nhân võ. Ông đứng ra tổ chức lực lượng để chống Pháp và được vua Hàm Nghi phong chức Lĩnh binh (1885) và trở thành một võ tướng xuất sắc ở căn cứ Vụ Quang. Năm 1886, lực lượng của ông đã gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng. Ông cùng nghĩa quân chiến đấu dũng cảm đến khi bị giặc bắt và giết hại, nghĩa quân Cần Vương của ông cũng tan rã. Cũng quê xã Hữu Bằng, Nguyễn Năng Định (1851-1889), hiệu Cự Phong, là học trò Thám hoa Nguyễn Đức Đạt, đỗ Đầu xứ, thường gọi Đầu xứ Định. Ông cùng Thái Vĩnh Chinh lập đội nghĩa quân “Thiết Lâm” chống Pháp. Năm 1886, đội quân này gia nhập nghĩa quân Cần Vương Phan Đình Phùng. Ông được đưa lên Đại đồn, phụ trách công việc văn thư, sau đó bị ốm nặng và mất năm 1889. Ở vùng Đôn Mỹ (Sơn Trà ngày nay) và các xã lân cận có đội quân của Nguyễn Quỳnh và Nguyễn Huy Giao (người làng Đôn Mỹ) cùng tổ chức đội quân Cần Vương khoảng vài trăm người, hoạt động trong vùng. Nguyễn Huy Giao được giao chỉ huy Quân thứ Hương Sơn, Nguyễn Quỳnh lên nhận việc ở Đại đồn Vụ Quang đều là những tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng. Đội nghĩa binh Tình Diệm, do Cao Đạt ở xóm Bàu Thượng (nay thuộc xã Sơn Quang) tổ chức và chỉ huy. Ông đỗ Cử nhân võ, làm Hiệp quản. Trong khi phong trào Cần Vương đang suy yếu, ông đã tập hợp lực lượng, tổ chức đội quân Cần Vương ở Tình Diệm và xây dựng căn cứ núi Đại Hàm. Khi Phan Đình Phùng từ ngoài Bắc về tổ chức lại lực lượng Cần Vương, Cao Đạt được phong chức Phó đề đốc, chỉ huy quân thứ Tình Diệm (Diệm thứ). Ông tiếp tục xây dựng
31 Đại Hàm thành một căn cứ mạnh, lúc cao nhất, lực lượng lên tới 400 quân, súng ống được trang bị khá đầy đủ. Cao Đạt cùng nghĩa quân tham gia nhiều trận đánh các nơi. Sau khi Phan Đình Phùng mất, Cao Đạt cùng một số người chạy sang Xiêm hoạt động trong phong trào yêu nước của Việt kiều. Ông bị Chính phủ Xiêm bắt giao cho Pháp, bị kết án chung thân và đày ra Côn Đảo 10 năm. Tiêu biểu nhất trong phong trào Cần Vương kháng Pháp cuối thế kỷ XIX ở vùng Lệ Động - Tuần Lễ do Cao Thắng tổ chức và chỉ huy. Ông là người thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp (nay là Sơn Lễ), huyện Hương Sơn. Khi Phan Đình Phùng bị Pháp đánh bật khỏi đại đồn Đông Thái, phải đưa quân lên xã Phụng Công (1886), ông đã đưa 60 quân đinh gia nhập lực lượng Cần Vương. Là người tài giỏi, nên Cao Thắng được Phan Đình Phùng phong chức Quản cơ, phụ trách việc tổ chức nghĩa quân. Năm 1887, Phan Đình Phùng ra Bắc liên kết các lực lượng chống Pháp và đã trao quyền chỉ huy cho ông. Để xây dựng và củng cố lực lượng, Cao Thắng cùng với Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên xây dựng Cồn Chùa (nay thuộc xã Sơn Lâm, Sơn Giang) thành một căn cứ với hệ thống đồn lũy vững chắc tại Cửa Vua, Cồn Trại Đồn, Hố Đập, Bằng Cửa Cổng, xây dựng căn cứ Thượng - Hạ Bồng và sau đó phát triển sang vùng Hói Trùng, Hói Trí của huyện Hương Khê (nay là các xã Hương Minh, Hương Thọ, huyện Vũ Quang). Việc xây dựng lực lượng được chú trọng, quân số đã có hàng nghìn, được trang bị vũ khí không chỉ giáo mác mà cả bằng súng do cướp được của địch và súng do Cao Thắng và những người giúp việc tự chế theo kiểu 1874. Ông đã khéo léo vận động người dân giúp đỡ lương thực, tiền bạc, xây dựng kho tàng và bảo vệ căn cứ. Nhiều lần quân địch tấn công vào đây, đều bị nghĩa quân đánh lui. Tháng 9-1889, Phan Đình Phùng về Hà Tĩnh và cùng Cao Thắng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Cuối 1893, theo đề nghị của Cao Thắng, Phan Đình Phùng quyết định đánh xuống Nghệ An nhằm mở rộng phạm vi hoạt động, và để khơi lại phong trào. Đây là cuộc hành quân lớn do Cao Thắng lãnh đạo và chỉ huy. Tuy nhiên, khi chỉ huy trận đánh đồn Nu (nay thuộc xã Thanh Xuân, huyện Thanh Chương, Nghệ An) Cao Thắng bị thương nặng và hy sinh khi mới
32 29 tuổi. Đây là một tổn thất vô cùng lớn đối với cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng và nghĩa quân mất đi một người chỉ huy mưu lược, dũng mãnh. Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng kéo dài 10 năm (1885-1896). Trong phong trào Cần vương, Hương Sơn là nơi cung cấp cho phong trào một lực lượng nghĩa binh đông đảo, trong đó có nhiều dũng tướng kiệt xuất, tiêu biểu nhất là Cao Thắng, nhà tổ chức và chỉ huy quân sự tài năng. Khi cuộc khởi nghĩa dưới Chiếu Cần Vương của Phan Đình Phùng bị thất bại, phong trào tan rã. Đến đây, kết thúc một giai đoạn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các văn thân, sĩ phu yêu nước mang ý thức hệ phong kiến lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Hà Tĩnh, Hương Sơn cũng như trên phạm vi cả nước và mở ra một giai đoạn mới. Sau phong trào Cần Vương và khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, nét chủ đạo của phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX là phương thức đấu tranh phi bạo lực mà người lãnh đạo tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Với phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX mà Nghệ - Tĩnh cũng là một trung tâm quan trọng. Trong giai đoạn từ năm 1905-1910, ở Hương Sơn có hai người là yếu nhân của Hội Duy Tân. Đinh Doãn Tế (Đinh Nho Thục) người làng Gôi Vỵ, xã Yên Ấp (nay là xã Sơn Hòa). Ông tham gia Hội Duy Tân, năm 1908 xuất dương sang Nhật, vào học Đồng Văn thư viện. Tiếp đó, Nguyễn Đình Kiên, hiệu Hy Cao, người làng Xa Lang (nay là xã Sơn Tân) đỗ Tú tài Hán học, thường gọi Tú Kiên. Ông tham gia phong trào Duy Tân. Sau vụ chống thuế năm 1908, ông bị bắt giam tại Hà Tĩnh và bị kết án đày ra Côn Đảo. Tại đây, các tù chính trị đã lập nhóm “Phục Việt”. Nguyễn Đình Kiên cùng với Trần Hoành (Cửu Cai), Phạm Cao Đài (Kim Đài) vượt ngục sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu. Sau đó, ông bị mật thám Pháp bắt đưa về nước và lại đưa ra Côn Đảo. Được tha, Nguyễn Đình Kiên lại tiếp tục hoạt động. Ông cùng với các sĩ phu và thanh niên yêu nước như: Lê Văn Huân, Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt... đã gặp nhau tại Vinh và quyết định thành lập một số tổ chức cách mạng, lấy tên là Hội Phục Việt. Sau đó, ông vào Sài Gòn quy tụ một số trí thức trẻ (Trần Ngọc Danh, Trần Phạm Hổ, Hà Huy Tập...) lập Kỳ bộ Tân Việt Nam Kỳ và nhận trách nhiệm làm Bí thư. Năm 1929, ông bị bắt giam
33 ở Khám lớn, Sài Gòn. Năm 1933, được trả tự do, ông về Hương Sơn, tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản cho đến khi mất (1942). Trong những năm 1928-1929, phong trào đấu tranh chống áp bức của các tầng lớp nhân dân lao động phát triển rộng khắp trong huyện. Bằng nhiều hình thức hợp pháp như kêu kiện, nông dân nhiều làng đã buộc bọn lý hương phải trả lại những ruộng đất chiếm đoạt, tiền lúa và bồi thường những thiệt hại trong việc phụ thu trong việc đóng thuế. Nhân dân làng Tứ Mỹ (Sơn Châu) đã đấu tranh xóa bỏ tệ nạn "xôi thịt", một trong những nguyên nhân gây nên cảnh đói nghèo, lạc hậu đối với người dân. Nông dân nhiều làng đứng lên tổ chức Hội tương tế (lợp nhà, trợ táng…) thu hút động đảo dân nghèo tham gia. Học sinh lúc bấy giờ cũng đã có những cuộc đấu tranh khá quyết liệt. Tháng 7 năm 1928, học sinh trường Thịnh Xá (Sơn Thịnh) đã bãi khóa để phản đối tên đốc giáo (hiệu trưởng) đánh đập chửi bới học sinh, kế đó học sinh Đông Trung, Đông Tràng (Sơn Châu) học ở trường chủng viện Xã Đoài Nghệ An đã bỏ học về để tẩy chay nền giáo dục ngu dân và chính sách phân biệt đối xử giữa học sinh người Việt Nam và người Pháp của nhà trường. Ngoài ra lẻ tẻ một số địa phương đã thành lập được phường bát âm, hội bóng đá, nhóm đọc sách báo. Các tổ chức này đã góp phần thiết thực nâng cao một bước trình độ văn hóa, chính trị và sức khỏe cho thanh niên lúc bấy giờ. Trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, ở Hương Sơn, phong trào yêu nước và cách mạng đã bùng lên trong các tầng lớp nhân dân. Thời nào cũng có những tấm gương chói lọi, tiêu biểu cho ý chí đấu tranh bất khuất trong suốt quá trình lịch sử đấu tranh của huyện Hương Sơn. 3. Sự ra đời của Đảng bộ huyện Hương Sơn Ngày 14-7-1925, Lê Văn Huân là hội viên của Hội Duy Tân triệu tập cuộc họp bí mật ở rú Con Mèo (Bến Thủy), gồm: Lê Văn Huân, Trần Đình Thanh (tức Trần Mộng Bạch), Trần Phú, Tôn Quang Phiệt, Ngô Đức Diễn, quyết định thành lập Hội Phục Việt do Lê Văn Huân chủ trì. Từ cuối năm 1925, Lê Văn Huân lập một tổ Phục Việt ở Lạc Thiện (Trung Lễ) ở quê ông. Sau khi thành lập (14-7-1925), Hội Phục Việt ngày càng phát triển mạnh về tổ chức lực lượng. Trong những năm 1927-1928, Hội Phục Việt đổi thành Hưng Nam, sau đó là Tân Việt cách mạng đảng (1928). Ở Nghệ
34 - Tĩnh, Trung Kỳ, Tân Việt phát triển rất mạnh. Hương Sơn có một Đại tổ gồm 37 đảng viên. Từ giữa năm 1928, ở Cẩm Xuyên và Hương Khê xuất hiện tổ chức của Thanh niên. Nhưng ở Hà Tĩnh, tổ chức Tân Việt vẫn là chủ yếu. Tháng 6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời. Tháng 9-1929, một bộ phận tiên tiến trong Tân Việt cũng đứng ra thành lập tổ chức Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Cuối năm 1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Trường Tiểu học thị xã Hà Tĩnh, do Lê Bá Cảnh làm Bí thư. Đây là Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Hà Tĩnh. Từ đầu năm 1930, khi Xứ ủy Đông Dương Cộng sản Đảng cử đồng chí Trần Hữu Thiều vào Hà Tĩnh xây dựng cơ sở, phát triển đảng viên, thì các chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng tiếp tục ra đời ở Phù Việt (Thạch Hà), Hà Linh (Hương Khê), ở Trường Tiểu học Thịnh Xá (Hương Sơn). Cuối tháng 3-1930, Hội nghị đại biểu các chi bộ cộng sản (cả Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) họp tại bến đò Thượng Trụ (Can Lộc) quyết định thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời tỉnh Hà Tĩnh và cử đồng chí Trần Hữu Thiều làm Bí thư. Tháng 4-1930, đồng chí Nguyễn Kính (tức Liễn) được cấp trên cử về Ban lãnh đạo tổ Tân Việt Hương Sơn để bàn kế hoạch tiến tới thành lập tổ chức Đảng. Qua nghiên cứu quá trình hoạt động công tác của từng cán bộ, có 17/37 đảng viên Tân Việt của huyện được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đồng chí này được phân công về các địa phương xây dựng cơ sở đảng. Những chi bộ được thành lập trong thời gian này là: - Chi bộ trường Thịnh Xá (3 đảng viên). - Chi bộ ghép Phố Châu, Tình Diệm (4 đảng viên) và các chi bộ Đông Trung, Tứ Mỹ, Đông Tràng (Sơn Châu), sau đó ít lâu sang tháng 6-1930 chi bộ Phúc Nghĩa (Sơn Ninh), Làng Đông (Hữu Bằng) được thành lập; Tháng 7-1930 một loạt chi bộ khác ra đời như Yên Nghĩa (Hữu Bằng), chi bộ Xuân Trì, Thọ Lộc, Yên Bài3 lần lượt ra đời. Tổng số đảng viên trong thời gian này có 44 đồng chí. 3 . Yên Bài còn có tên gọi khác là An Bài
35 Đối với các làng chưa đủ điều kiện thành lập chi bộ Đảng, thì tổ chức nông hội như Gôi Mỹ, Đôn Mỹ, Đồng Lộ, Hàm Lại, Yên Đồng, Bảo Thịnh đã thu hút những quần chúng tích cực rèn luyện họ trở thành đảng viên sau này. Tháng 9-1930, phần lớn các làng trong huyện có tổ chức Nông hội, gồm 3-4 hội viên, có nơi từ 9-10 hội viên. Làng Đôn Mỹ (Sơn Trà), hầu hết nông dân lao động tham gia vào tổ chức Nông Hội với số lượng lớn, gồm 60 hội viên, chiếm tỷ lệ cao nhất trong huyện lúc bấy giờ. Nông Hội đã trở thành nòng cốt trong các cuộc đấu tranh chống hương lý, thu lại được một số ruộng đất công... Đối với Tự vệ đỏ, các tiêu chuẩn lựa chọn cao hơn. Vì vậy, mới chỉ tổ chức được ở những nơi có chi bộ, mỗi nơi có từ 3-5 người. Lực lượng Tự vệ có nhiệm vụ bảo vệ các cuộc họp và các cuộc mít tinh, biểu tình. Đặc biệt, ở các trường học như: Thịnh Xá, Phố Châu đã lập ra tổ chức Sinh Hội, thu hút số học sinh lớn tuổi, rèn luyện họ trở thành những đảng viên sau này. Trong các Sinh Hội, Trường Thịnh Xá có đông hội viên nhất, khoảng 30 hội viên và được chia làm 3 tổ để hoạt động. Hoạt động của Hội được tiến hành bí mật và các hội viên đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao như: rải truyền đơn, treo cờ đỏ, đưa tin tức và là lực lượng nòng cốt trong phong trào đọc sách báo, thể dục thể thao ở địa phương. Nhiều người sau này trở thành đảng viên Đảng Cộng sản và là cán bộ nòng cốt của Đảng bộ huyện, trong đó có đồng chí Nguyễn Mật và đồng chí Hồ Hảo. Đối với tổ chức Hội Phụ nữ giải phóng thì chưa nơi nào thành lập được, nhưng một số chị em được Đảng trực tiếp giao nhiệm vụ đã hoạt động tích cực. Ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhiều chị em còn tranh thủ học thuộc lòng một số bài ca cách mạng, lời kêu gọi phụ nữ của Đảng ... các chị bàn nhau phổ biến trong chị em phụ nữ và nhiều bà, nhiều chị đã lấy đó làm bài hát ru con, ru cháu. Hình thức tuyên truyền này của chị em phụ nữ đã lan rộng ra khắp các vùng trong huyện. Hội Cứu tế đỏ cũng được thành lập trong thời gian này. Tháng 11-1930, Tỉnh ủy Hà Tĩnh cử cán bộ về phụ trách Hương Sơn để tổ chức hội nghị thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời. Hội nghị được tiến hành ở làng Gôi Mỹ (Sơn Hòa). Hội nghị quyết định một số nhiệm vụ quan trọng: lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đòi giảm
36 sưu thuế; bỏ thuế chợ, thuế đò; tổ chức huấn luyện cho hội viên Nông Hội đỏ; xuất bản tờ báo “Dân cày”; phát triển đảng viên mới; thành lập một số Tổng ủy ở miền Thượng và Hạ huyện4 và chỉ định Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời, gồm các đồng chí sau: Đồng chí Trần Chí Tín - Bí thư; đồng chí Lê Kinh Phố - Phó Bí thư; Ủy viên gồm đồng chí Nguyễn Mật, đồng chí Đinh Nho Khoách5 . Sau hôm đó, Huyện ủy lâm thời họp phiên đầu tiên tại nhà ông Đinh Nho Huề ở xóm Đồng Vực. Căn cứ vào Nghị quyết của Hội nghị thành lập Huyện ủy lâm thời, Huyện ủy đã vạch ra kế hoạch hoạt động và phân công trách nhiệm sau đây: 1. Tìm mọi cách bắt liên lạc với các làng trước có chi bộ và nông hội đỏ. 2. Củng cố chi bộ và ”học sinh đoàn trường Thịnh Xá” để làm đầu mối cho toàn huyện. Tổ chức nông hội đỏ các làng chưa có để có cơ sở tổ chức chi bộ sau này. Phát triển Hội cứu tế đỏ. 3. Tổ chức thêm đường dây liên lạc dự bị từ huyện đến làng và từ huyện lên Thường vụ La - Hương - Hương đề phòng khi bế tắc. 4. Dời cơ quan trực tiếp và ấn loát về Gội Mỹ. 5. Ra tờ báo ”Dân cày” phát hành rộng rãi trong quần chúng để phổ biến các cuộc đấu tranh và tuyên truyền mọi chủ trương của Đảng, in thêm tài liệu huấn luyện hội viên nông hội đỏ ở tỉnh gửi về để cung cấp cho các nông hội .Tờ báo phát hành được 5 số, sau vì điều kiện giao thông liên lạc đi lại giữa huyện và tỉnh gặp nhiều khó khăn, thiếu sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, nên tờ báo phải đình bản. 6. Tổ chức quần chúng để phổ biến các cuộc đấu tranh, biểu tình đình công trong nước và tuyên truyền mọi chủ trương của Đảng... II. ĐẢNG BỘ HƯƠNG SƠN LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG (1930 - 1939) 1. Cao trào đấu tranh 1930-1931 4 . Theo Hồi ký của đồng chí Đinh Nho Đang, Tổng ủy lúc bấy giờ của Hữu Bằng gồm có đồng chí Ngôn Tín, Tổng An Ấp: Nguyễn Quang Cự, Lê Kinh Phố. 5 . Theo Hồi ký của đồng chí Đinh Nho Đang, cuối tháng 2-1931, bổ sung đồng chí Nguyễn Đình Xứng vào Huyện ủy lâm thời Hương Sơn.
37 Tiếp nối truyền thống yêu nước và cách mạng, trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng ở Hương Sơn diễn ra sôi nổi. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh, dưới sự chỉ đạo của các chi bộ Đảng, nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, đêm ngày 30-4-1930, nhân dân rải truyền đơn, biểu tình kêu gọi người lao động vùng dậy đánh đổ áp bức bóc lột, đấu tranh đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm. Truyền đơn, cờ đỏ xuất hiện ở nhiều nơi như: đình, chùa, trường học và cả nhà tên tri huyện Hương Sơn. Lần đầu tiên trong lịch sử, lá cờ đỏ rộng 1,2m được ông Đinh Nho Linh, người làng Tứ Mỹ (xã Sơn Châu ngày nay) cắm trên đỉnh Rú Nầm. Sự kiện này tác động mạnh mẽ đến tinh thần của quần chúng nhân dân lao động. Trước tình hình đó, bọn hương lý các thôn lân cận không dám đến để hạ cờ, mà chỉ chạy lên báo đồn, báo huyện. Ngay ở đồn Phố Châu và nhà tên tri huyện Hương Sơn cũng có truyền đơn, cờ đỏ. Nhân kỷ niệm ngày chống đế quốc chiến tranh (1-8-1930), nhân dân nhiều nơi trong huyện cùng với nhân dân một số địa phương khác thuộc tỉnh Hà Tĩnh: Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh và các huyện Thanh Chương, Nam Đàn (tỉnh Nghệ An) kéo lên huyện đốt phá huyện đường, mở nhà lao, thả tù chính trị và đòi yêu sách. Trước sức mạnh của quần chúng nhân dân, bọn tri phủ, tri huyện tên thì bỏ trốn, tên thì cúi đầu chấp nhận yêu sách. Trong lúc phong trào đấu tranh của nhân dân toàn huyện ngày càng phát triển mạnh mẽ, trung tuần tháng 9-1930, tại làng Đông Trung, hội nghị cán bộ toàn huyện được triệu tập dưới sự chỉ đạo của đồng chí cán bộ lãnh đạo do Tỉnh ủy cử về. Sau khi phân tích tình hình thực hiện nghị quyết của Tỉnh ủy ở các địa phương trong tỉnh, đồng chí nhắc lại nhiệm vụ của Hương Sơn được tỉnh giao là phá nhà Án sát Nguyễn Khắc Niêm vừa để trả thù cho 2 đồng chí cộng sản ở Nghệ An, vừa để cảnh cáo những tên phản cách mạng khác, trên cơ sở đó để lựa chọn những người tốt đưa vào các tổ chức quần chúng, vào Đảng. Ban vận động đấu tranh kiêm chỉ huy cuộc biểu tình được thành lập gồm các đồng chí: Trần Bình, Nguyễn Lê Tiệp… Hội nghị quyết định tạm thời chia Hương Sơn làm ba khu vực để thuận lợi cho cuộc vận động cũng như tập hợp quần chúng, mỗi khu vực có một địa điểm tập trung riêng. Địa điểm ở Bãi Côi,
38 Thịnh Xá được chọn làm nơi tập trung toàn huyện, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Lê Tiệp. Việc chuẩn bị cho cuộc đấu tranh được tiến hành khẩn trương và được phân công, giao nhiệm vụ cụ thể: mua sắm 100 lá cờ đỏ lớn, nhỏ, truyền đơn được phân phát cho các làng để rải theo đúng như quy định. Các địa phương được phân công nhiệm vụ đêm hôm đó được lệnh đánh trống, gõ mõ thật rầm rộ để giương cao khí thế quần chúng và uy hiếp tinh thần bọn thống trị. Hội nghị lấy ngày 19-9-1930 làm ngày tiến hành đấu tranh. Sau hội nghị, nhiều cuộc tập hợp quần chúng ở các thôn và liên thôn liên tiếp được tổ chức để phổ biến chủ trương kế hoạch đấu tranh. Khoảng 1 giờ sáng ngày 19-9-1930, từ một địa điểm ở trung tâm huyện đã vang lên hồi trống ngũ liên, tiếp đó tiếng trống, mõ vang lên khắp nơi. Quần chúng nhân dân trong huyện phấn khởi hào hứng đón chờ giờ xuất phát xuống đường đấu tranh. Trong khi đó, bọn lý hương rất hoang mang, lo sợ quần chúng bất ngờ tiến đến vây đánh. Sáng sớm ngày 19-9-1930, trên các ngả từ địa điểm tập trung ở khu vực từ Choi (Sơn Hà) đến Võ Dương (Sơn Ninh), mọi người tập hợp thành từng đoàn rất đông từ 50-100 người, có nơi đông tới trên 1.000 người, vũ trang bằng gậy gộc bước chân rầm rập, giương cao lá cờ đỏ tiến về trung tâm huyện vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc Pháp và Nam triều quan lại”, “Ủng hộ Nga Xô viết”. Sau đó, theo kế hoạch đã định, từ các khu vực, đoàn người kéo đến Bãi Côi (Thịnh Xá) và được lệnh dừng lại. Đồng chí Nguyễn Lê Tiệp, thay mặt Ban Chỉ huy cuộc đấu tranh chỉ huy đoàn người tiến về xóm Chính Trung (hay còn gọi là Cơn Trôi) và xông vào đốt nhà Án sát Nguyễn Khắc Niêm để thị uy. Khi phong trào quần chúng đang lên thì khoảng 9 giờ sáng, thực dân Pháp cho hai máy bay lượn nhiều vòng ở các làng Xuân Trì, Phúc Nghĩa, Yên Bài, Bình Hòa, Thịnh Xá, lúc này quần chúng mới giải tán, địch không phát hiện được gì. Tiếp nối thắng lợi của cuộc đấu tranh ngày 19-9, ngày 21-9-1930, khoảng 300 công nhân và tá điền ở Sông Con kéo đến nhà tên chủ đòi tăng lương, giảm giờ làm, đưa yêu sách không được đánh đập phu. Lúc đầu tên chủ ngoan cố không chịu giải quyết, quần chúng nhân dân kéo vào đập phá nhà.
39 Trước thái độ kiên quyết của quần chúng, cuối cùng tên chủ buộc phải nhượng bộ yêu sách, hứa sẽ tăng lương cho anh chị em mỗi ngày một xu và thôi không đánh đập. Phát huy kết quả thắng lợi của các cuộc đấu tranh trên, Ban vận động quyết định gấp rút tranh thủ thời gian đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng lên một bước cao hơn với yêu sách là đòi giảm sưu thuế. Đêm ngày 21, rạng ngày 22-9-1930 được chọn làm thời gian tổ chức biểu tình trong toàn huyện để đòi yêu sách. Rút kinh nghiệm hai cuộc đấu tranh, ngày 19 và 21-9, cuộc biểu tình lần này được chuẩn bị kỹ càng hơn. Việc gây thanh thế càng trở nên náo nhiệt hơn các lần trước. Quần chúng nhân dân không chỉ dùng trống, mõ, chiêng, cồng, khánh, thùng thiếc để đại náo, mà còn sử dụng nhiều địa điểm để phô trương thanh thế như: nhà chùa, nhà thờ và cả ngoài cánh đồng, trên cả đỉnh núi. Thôn nào, thôn nấy, quần chúng vũ trang bằng gậy gộc tới địa điểm tập trung để chờ giờ xuất phát. Đặc biệt, làng Thọ Lộc (Sơn Lễ) đã có sáng kiến bắt lý trưởng ra đình đánh trống cổ động nhằm ngăn chặn âm mưu chỉ điểm bắt cán bộ của tên này. Đúng 1 giờ sáng ngày 22-9-1930, mặc dù đường sá đi lại khó khăn, nhưng nhân dân trong toàn huyện, từ khắp các làng đã đến địa điểm Rú Nầm tập trung. Đoàn người xếp thành hàng 5, hàng 7 theo khu vực kéo dài hàng cây số, ước tính khoảng hàng vạn người. Đây là đợt đấu tranh được quần chúng tham gia đông đảo nhất. Sau đó, đoàn người biểu tình đấu tranh theo đường 8 tiến thẳng đến huyện lỵ Phố Châu, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: - Đả đảo đế quốc Pháp và Nam triều quan lại. - Giảm thuế thân, thuế ruộng. - Bãi bỏ thuế chợ, thuế đò. - Ủng hộ Nga Xô viết. Khi đoàn biểu kéo đến huyện thì trời sáng, tiếng reo hò vang cả một vùng. Sau cuộc biểu tình này, địch tiến hành đàn áp phong trào cách mạng Hương Sơn, lùng bắt cán bộ, đảng viên và đốt phá làng mạc, tịch ký gia sản
40 đảng viên, dỡ nhà của cán bộ về làm đồn bốt, bắt nhân dân rào làng lập điếm canh ngày đêm. Địch tiến hành điều thêm lính về tăng cường cho đồn Phố Châu, lập đồn lê dương ở Tứ Mỹ (Sơn Châu), các nơi khác như Xuân Trì (Sơn An), Hữu Bằng (Sơn Bằng), mỗi nơi thực dân Pháp lập thêm 1 đồn khố xanh do lính Pháp cầm đầu. Chúng bắt nhân dân cung đốn nguyên vật liệu: tranh tre, thực phẩm: gạo thịt phục vụ cho chúng. Để tăng cường cho bộ máy đàn áp, chính quyền thực dân đã tổ chức một mạng lưới đoàn phu từ xã đến huyện, rồi lựa chọn những tên gian ác trung thành với chế độ của chúng cho cầm đầu. Thực dân Pháp còn đặt thêm chức bang tá trong toàn huyện gồm 13 tên, trong đó có 5 lính tuần sai để hỗ trợ cho việc vây bắt cán bộ, đảng viên. Chúng tổ chức mỗi thôn 1 hương biểu, 1 đại hào mục, mỗi họ có 1 tộc biểu để kiềm chế những hoạt động cách mạng đến từng gia đình. Tháng 10-1930, chính quyền thực dân phong kiến cử tên Thái Văn Chính làm tri huyện ở Hương Sơn thay cho tên Đặng Văn Oánh và đưa một số tên tay sai về các làng lừa phỉnh nhân dân nhận thẻ quy thuận yên nghiệp làm ăn. Những phần tử đội lốt thầy tu cũng được sử dụng để kêu gọi con chiên ngoan đạo trở lại hoạt động chống đối cách mạng. Bên cạnh đó, bọn cường hào địa chủ đã đứng ra thành lập đảng Lý nhân, một tổ chức chính trị phản động do chính quyền thực dân phong kiến lập nên để hoạt động chống phá cách mạng. Ngoài ra, chính quyền tay sai phong kiến còn phát không tờ báo Thanh - Nghệ - Tĩnh tân văn, một tờ báo phản động chuyên ca tụng bọn đế quốc và xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản xuống tận thôn xóm để làm lung lạc tinh thần của quần chúng nhân dân. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, Đảng bộ Hương Sơn tập trung lãnh đạo các tầng lớp nhân dân trong huyện đấu tranh và đã giành được nhiều thắng lợi trong phong trào 1930-1931. Để kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, ngày 7-11-1930, quần chúng nhân dân đã rải truyền đơn khắp nơi trong huyện. Các làng Đông Lỗ (Sơn Tiến), Hàm Lại, Thọ Lộc (Sơn Lễ) quần chúng tổ chức biểu tình tuần hành thị uy quanh vùng trấn áp bọn tổng lý ở đây, buộc chúng phải đình chỉ những hình phạt và hành động chống phá cách mạng.
41 Những cuộc đấu tranh chống cung đốn nguyên vật liệu làm đồn, rào huyện… đã nổ ra ở nhiều làng. Đặc biệt, tại làng Tứ Mỹ, nhân dân đấu tranh trực diện chống lại tên đồn trưởng đã đưa lính lính đến đốt nhà dân và bắt phu. Cuộc đấu tranh giành được thắng lợi, buộc lý trưởng phải chấp thuận theo yêu sách của dân làng. Ở các làng: Đông Trung, Đông Tràng, nhân dân đấu tranh buộc lý trưởng phải cúi đầu xin tha tội chết. Lực lượng tự vệ cùng nhân dân ở các làng: Thịnh Xá, Yên Đồng, Bảo Thịnh, Đông Tràng, Đông Trung, Tứ Mỹ, Xa Lang, Đậu Xá, Bình Hòa, Gôi Mỹ, Xuân Trì, Thọ Lộc, Phúc Nghĩa, An Bài (Yên Bài), đã phối hợp hai lần đấu tranh chống lại tên bang tá và lý trưởng… bảo vệ cơ sở cách mạng và bảo vệ cán bộ. Ở Xuân Trì, nhà của đồng chí Nguyễn Quang Cự, bị địch đốt buổi chiều, ngay tối hôm đó các chi bộ họp tổ chức quyên góp được 12 đồng để giúp gia đình, dựng lại ngôi nhà. Thực hiện Chỉ thị chống đói của Trung ương, đồng chí Đinh Nho Khoách được phân công về Ân Phú trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng. Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ, quần chúng nhân dân tiến hành đấu tranh, lấy lúa của nhà giàu chia cho người nghèo. Quần chúng nhân dân đã tịch thu 12 tấn lúa của địa chủ để chia cho nông dân Ân Phú và buộc tên lý trưởng phải ký giấy cam đoan không bao giờ có hành động chống đối cách mạng nữa. Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động, ngày 1-5-1931, đông đảo quần chúng nhân dân làng Tứ Mỹ…biểu tình tuần hành vòng quanh làng, hô vang khẩu hiệu. Bọn hương lý phải đầu hàng cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, Nông Hội tiến hành tổ chức đời sống cho nhân dân, cấp giấy qua lại, tổ chức học chữ quốc ngữ, chia lại ruộng đất… Điếm canh đê của địch biến thành trạm gác của ta. Được sự lãnh đạo của Huyện ủy lâm thời, bất chấp lưỡi lê, họng súng của địch, phong trào Hương Sơn lại tiến bước vững vàng, nhiều làng bộ máy lý hương bị tê liệt hoặc tan rã hẳn, có làng như Phúc Nghĩa, Yên Bài, Tứ Mỹ bọn trên làm gì phải tuân theo ý kiến của nông hội, đặc biệt là Đôn Mỹ - làng có cơ sở quần chúng được xây dựng sớm và bao gồm rộng rãi nông dân lao động (hầu hết dân cày đã vào nông hội đỏ), tổ chức tự vệ đỏ có tới 60 người.
42 Hoảng sợ trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, địch chủ trương triệt làng Đôn Mỹ, hòng uy hiếp tinh thần các nơi khác. Tên đồn trưởng Tứ Mỹ được lệnh thực hiện việc này, hắn đã đưa toàn bộ binh lính đồn kéo về vây kín làng, rồi châm lửa đốt. Sáu mươi nóc nhà bị thiêu hủy, hai em bé bị chết cháy, hai trăm người không có nơi ăn, chốn ở. Để tránh sự thương vong, đổ máu của đồng bào, Ban Chỉ huy ra lệnh cho quần chúng rút lui. Trong cuộc đấu tranh này có 7 người đã anh dũng hy sinh, trong đó có 1 đồng chí là đảng viên, 6 đồng chí là hội viên Nông Hội. Đoàn người biểu tình đấu tranh khiêng thi thể các đồng chí đã hy sinh đặt trước cửa huyện để tố cáo tội ác giết người của chính quyền thực dân và tay sai. Trong đoàn người biểu tình đấu tranh có 20 người bị thương, được quần chúng nhân dân đưa về địa phương cứu chữa; 32 người lúc qua sông bị nước cuốn trôi, thi hài trôi dạt đến đâu dân địa phương đều chôn cất chu đáo. Chúng tưởng làm như thế sẽ làm cho nhân dân ta khiếp đản để không ai dám hoặc làm theo cách mạng nữa, nhưng kết quả đã ngược lại, nhân dân càng khắc sâu căm thù đối với chúng. Tinh thần đoàn kết đấu tranh của quần chúng được củng cố thêm. Những người bị nạn được cưu mang đùm bọc, được giúp đỡ thức ăn, vật dụng, sửa sang nhà cửa. Nhiều người còn đưa người bị nạn về nhà mình chăm sóc hết sức tận tình. Nhằm ổn định tình hình và củng cố tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân, tối ngày 23-9-1930, các địa phương đã tiến hành mít tinh và họp bàn kế hoạch tổ chức lễ truy điệu những người đã hy sinh, chăm sóc người bị thương và cứu tế các gia đình bị nạn. Qua rèn luyện, thử thách trong các phong trào đấu tranh, đã có nhiều quần chúng ưu tú của huyện được kết nạp Đảng. Đến tháng 12-1930, 19 quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng. Một số chi bộ tiếp tục được thành lập: Chi bộ Đôn Mỹ (Sơn Trà), Gôi Mỹ (Sơn Hòa) và Chi bộ đồn điền Hà Tân. Từ sau cao trào Xôviết Nghệ -Tĩnh (1930-1931), thực dân Pháp tiến hành khủng bố gắt gao, nhiều đảng viên, quần chúng bị bắt và giết hại. Các cơ sở cách mạng bị phá vỡ, ở Hương Sơn không còn tổ chức Đảng. Một số đảng viên ra tù không bắt liên lạc được với cấp trên.
43 Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy đã phân công các đồng chí lãnh đạo về trực tiếp phụ trách từng vùng. Hương Sơn cùng với Đức Thọ (La Sơn) và Hương Khê đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự chung của ba huyện, gọi tắt là La - Hương - Hương để xây dựng lại tổ chức. Để kiện toàn bộ máy lãnh đạo của huyện Hương Sơn, thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ La - Hương - Hương, tháng 5- 1931, Hội nghị đại biểu được tiến hành 7 ngày tại nhà bà Nguyễn Thị Phiên, làng Gôi Mỹ (Sơn Hòa). Dự hội nghị có 20 đại biểu. Hội nghị bàn một số nhiệm vụ cho phù hợp với hoàn cảnh mới và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ chính thức. Hội nghị dành nhiều thời gian để học tập bản Luận cương Chính trị của Đảng. Hội nghị quyết định một số nhiệm vụ quan trọng sau: - Phát động đợt đấu tranh đòi giảm sưu thuế, bỏ thuế đò, củng cố và mở rộng tổ chức tự vệ ở các địa phương thành lập đội tự vệ tập trung. - Tổ chức khu căn cứ để chuẩn bị cho việc đón thời cơ; trừng trị một số tay sai đắc lực của đế quốc, phong kiến. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ chính thức, gồm 5 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đình Xứng được bầu làm Bí thư. Đồng chí Đinh Nho Đang làm Phó Bí thư; đồng chí Nguyễn Mật: Thường vụ; đồng chí Hoàng Nguyên: Ủy viên; đồng chí Nguyễn Quang Cự: Ủy viên. Sau khi hội nghị kết thúc, cơ quan Huyện ủy và bộ phận ấn loát cũng di chuyển lên làng Phúc Nghĩa (Sơn Ninh) để in ấn tài liệu của Huyện ủy, kịp thời gửi xuống cho các chi bộ. Hội nghị đánh dấu một bước tiến quan trọng của Đảng bộ nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Ngày 2-6-1931, Huyện ủy họp Hội nghị mở rộng ở Phúc Nghĩa để thảo luận kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Đại hội và bầu bổ sung Ban Chấp hành Đảng bộ, bầu lại chức danh Bí thư. Đồng chí Đinh Nho Đang được bầu làm Bí thư kiêm chỉ đạo viên đội tự vệ tập trung và bổ sung một tổng ủy viên tổng Hữu Bằng vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện.
44 Hội nghị vừa kết thúc, địch cho lính về vây bắt, nhưng được sự che chở của nhân dân, các đồng chí đều được an toàn, riêng đồng chí Năm Tuyền (Phúc Nghĩa) bị địch vây bắt, biết không thể thoát khỏi tay địch nên đã tự sát. Bị quân địch theo dõi ráo riết nên cơ quan làm việc của Huyện ủy phải dời chuyển vào Thọ Lộc, Hàm Lại (Sơn Lễ). Sau đó, lại di chuyển đến khe Tràm (Sơn Lâm). Trong thời gian đầu, việc tiếp tế do các xã trong vùng luân phiên nhau đảm nhận dưới hình thức đi than, đi củi. Sau một thời gian hoạt động, số cán bộ trên bị địch bắt gần hết, nên số cán bộ còn lại phải phân công nhau tự về các địa phương để lấy lương thực, địch phát hiện và bủa lính canh gác các nẻo đường vào khu căn cứ khám xét không từ bất kỳ người nào. Trước tình hình trên, Huyện ủy chủ trương phải tự túc lương thực mới kéo dài được cuộc chiến đấu với địch. Các đồng chí tổ chức đắp bờ giữ nước, cày cuốc và cấy lúa; đồng thời, mở con đường thông sang Nghệ An để đề phòng nếu tình hình căng thẳng thì sẽ di chuyển sang đó. Công việc chưa được tiến hành, thì tháng 7-1931, địch đưa lính vào vây bắt đồng chí Đinh Nho Đang trong lúc đồng chí đang ốm, Huyện ủy cử một đồng chí lên quyền Bí thư6 và bổ sung thêm đồng chí Trần Cao Thử cùng một đồng chí đang công tác ở Nghệ An được điều về để tăng cường. Huyện ủy chủ trương xây dựng nơi đây thành căn cứ địa vững chắc. Cuối năm 1931, số cán bộ, đảng viên và quần chúng cảm tình Đảng bị địch bắt gần hết. Tại các làng Phúc Nghĩa (Sơn Ninh) và Tứ Mỹ (Sơn Châu), có từ 10 đến 20 người bị bắt. Sau đó, tháng 12-1931, đồng chí Trần Chí Tín bị bắt, tiếp đó đồng chí quyền Bí thư trên đường đi liên lạc ở Đức Thọ cũng bị địch bắt. Tính đến tháng 12-1931, toàn huyện có 214 người bị bắt; 54 người bị kết án tù từ 1 đến 5 năm, 3 người bị án trên 5 năm, 26 người bị giam không xét xử, hàng chục người hy sinh trong các cuộc đấu tranh hoặc bị tra tấn giam cầm. Đầu năm 1932, số ít cơ sở trước đây còn giữ được an toàn, nay cũng bị phá vỡ. 2. Thời kỳ phục hồi phong trào 1932-1935 6 . Hiện nay vẫn chưa xác định được họ tên đồng chí quyền Bí thư tại thời điểm này là ai.
45 Đến đầu năm 1932, phong trào đấu tranh của quần chúng tạm thời lắng xuống, nhưng các cuộc đấu tranh lẻ tẻ vẫn diễn ra. Dưới hình thức hợp pháp như kêu kiện, nhiều nơi quần chúng tiến hành đấu tranh đòi bọn cường hào chia lại ruộng đất công, trả lại tiền lúa công, tổ chức đắp đường sá, đào giếng, đòi giảm nợ nần. Một số nơi đã tập hợp số anh em cảm tình Đảng vận động nông dân lập ra “làng dân” để đấu tranh với cường hào, giành lại ruộng đất công, đòi quyền được bàn bạc việc làng, quyền tổ chức bảo vệ hoa màu, hoặc đòi thực hiện việc cải cách xã hội như giảm tế tự, lập vườn ươm, trồng cây… Để xoa dịu phong trào đấu tranh của nhân dân, chính quyền thực dân, phong kiến buộc phải cách chức một số tên lý trưởng ở làng Đông Trung, Gôi Mỹ. Nhân dân làng Tình Diệm bắt trói lý trưởng, một số khác buộc phải bồi thường một số quyền lợi: lúa, tiền, phụ thu lạm bổ, tiền quyên góp cầu cống hoặc đền chùa, trả lại cho nhân dân vì phong trào chưa có cơ quan lãnh đạo nên không thể đẩy mạnh lên được. Cuối năm 1932, một số đồng chí bị địch bắt đã trở về địa phương hoạt động, tiếp tục khôi phục lại cơ sở. Mặc dù bị mật thám theo dõi gắt gao, nhưng các đồng chí vẫn bí mật tìm cách liên lạc với nhau, với cán bộ địa phương để nắm bắt tình hình, trao đổi, bàn kế hoạch khôi phục phong trào đấu tranh của nhân dân. Các đồng chí đã tìm nhiều hình thức để liên lạc với Đảng như: phải di chuyển từ địa phương này sang địa phương khác; bỏ nghề nông chuyển sang đồn điền buôn bán; có đồng chí tìm đến đồn điền nơi tập trung nhiều dân nghèo làm tá điền để hoạt động xây dựng cơ sở; có đồng chí tìm cách vượt biên giới sang nước bạn Lào đến vùng mỏ trà trộn trong công nhân để hoạt động. Nhân sự kiện công nhân ở đây bị tên chủ đánh chết, một số đồng chí đã vận động công nhân đình công để phản đối chủ mỏ. Sau đó một thời gian, đã bắt đầu có sự chắp nối gây dựng cơ sở. Nhưng do nhiều yếu tố, nên việc chuẩn bị tài liệu và kết nối liên lạc chưa thành, vì vậy Hương Sơn lúc này không có tổ chức của Đảng. Cuối năm 1933, đầu năm 1934, một số đồng chí hoạt động ở Xiêm (Thái Lan) về nước và bắt liên lạc với một số đồng chí ở các huyện: Hương Khê, Can Lộc, Nghệ An và thành lập Liên Tỉnh ủy lâm thời Nghệ - Tĩnh. Nhưng chưa kịp chắp nối liên lạc với các huyện, thì bị tên phản bội Trần Ky dẫn mật thám về
46 vây bắt. Số cán bộ lãnh đạo cốt cán bị địch bắt hết, tổ chức Đảng một lần nữa lại bị phá vỡ. 3. Đấu tranh trong thời kỳ mặt trận dân chủ 1936-1939 Đến giữa năm 1936, thực dân Pháp thực hiện lệnh thả tù chính trị, trả lại tự do cho một số cán bộ, đảng viên bị bắt trong thời kỳ 1930-1931, trong đó có đồng chí Hồ Hảo. Các đồng chí trở về các địa phương và bắt tay ngay vào việc xây dựng, khôi phục lại cơ sở đảng và lãnh đạo phong trào đấu tranh. Năm 1936, lợi dụng thời cơ ở Pháp mặt trận bình dân lên cầm quyền, Đảng ta chủ trương thành lập mặt trận dân chủ đấu tranh đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ cho công khai phát hành một ố sách báo vừa tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng vừa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin trong quảng đại quần chúng cần lao. Mặt khác, lợi dụng mọi điều kiện hợp pháp, nửa hợp pháp để hoạt động và tập hợp quần chúng đấu tranh. Lúc này, phong trào cách mạng mới được phục hồi sau thời kỳ bị khủng bố khóc liệt, các tổ chức tương tế, tương trợ, đấu tranh chống bọn cường hào và đòi quyền dân sinh, dân chủ cho nông dân tham gia một số việc chung được thực hiện. Nhân chuyến thị sát tình hình Đông Dương của đại sứ Pháp Gô-đa đến thành phố Vinh, nhân dân làng Yên Bài đã cử ba đại biểu đến Vinh để đưa nguyện vọng. Để đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, ngoài việc củng cố và mở rộng các phường hội đã có của quần chúng như: phường tranh, hội trợ táng, phường bát âm ở làng Đông Trung, Hàm Lại… hầu hết các thôn xã trong huyện đã thành lập được phường cày, phường than, phường săn. Ở những vùng có nghề thủ công, có người buôn bán nhỏ thì tổ chức phường tiền; vùng đồn điền tổ chức thêm hội nhà quê. Nhiều làng như: Thịnh Xá, Thọ Lộc, Đông Trung, Tứ Mỹ, Dĩ Long, Tình Diệm đã thành lập hội bóng đá của lực lượng thanh niên. Ở thôn Hàm Lại (Sơn Lễ), các em nhỏ ở mướn chăn trâu cho nhà giàu đã bàn nhau luân phiên giữ trâu bò, để hàng tháng em nào cũng có một, hai ngày nghỉ về nhà thăm gia đình hoặc làm việc khác. Đặc biệt, ngày 15-8 (âm lịch) năm đó, ngoài tiền công phải trả hàng năm, các em đã buộc các chủ nhà phải cho mỗi người một con gà, một số gạo nếp để tổ chức làm cỗ ở nơi chăn dắt trâu bò, dân gian gọi là “cỗ lều”. Sự kiện này sau trở thành tập quán của địa
47 phương và được duy trì đến Cách mạng Tháng Tám thành công (1945) mới thôi. Phong trào đấu tranh kiện hương lý đòi lại quyền lợi cho người dân diễn ra sôi nổi và lan rộng ra nhiều địa phương trong toàn huyện. Từ Đôn Mỹ, Mỹ Xá, Gôi Mỹ, Đông Trung, Hàm Lại đến Trị Yên, Tiên Bì, Tình Diệm, ở đâu bọn hương lý cũng bị nhân dân kêu kiện vì tội chiếm đoạt ruộng công, ăn cướp tiền lúa công, phụ thu lạm bổ. Các cuộc đấu tranh trực tiếp chia thành hai phe “làng dân” thực sự là đối trọng với “làng hào”, bắt buộc “làng hào” phải tuân theo các điều kiện của dân. Các vụ kiện lý trưởng, bắt giữ hào lý ngày càng nhiều. Nhiều làng có hàng trăm người ký đơn, điển hình là nhân dân làng Gôi Mỹ, Đông Trung, Đôn Mỹ, Trị Yên đã đấu tranh chống lại lý trưởng và bắt tên này phải từ chức, giành lại được một số ruộng đất công, tiền lúa công (Đôn Mỹ: 50 mẫu, Trị Yên: 5 mẫu, Đông Trung: 2 mẫu). Nông dân Tình Diệm đã buộc tên chủ đồn điền Sông Con phải trả lại ruộng đất xứ Đá gần 50 mẫu. Năm 1937, phong trào đấu tranh trong các đồn điền của thực dân Pháp diễn ra sôi nổi. Các yêu sách đưa ra đòi bọn chủ đồn điền phải bỏ hẳn tô phụ, tô rừng, tăng tiền công, giảm giờ làm. Phong trào đấu tranh giành được thắng lợi ở Sông Con, Cẩm Lĩnh. Ở Voi Bổ, quần chúng nhân dân đấu tranh chống độc quyền thu mua ngô đã giành thắng lợi. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, bọn chủ đồn điền phải nhượng bộ. Tinh thần đoàn kết đã lan rộng trong mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, động viên nhau hăng hái đấu tranh. Trước áp lực mạnh mẽ của phong trào, buộc nhà cầm quyền phải giải quyết quyền dân sinh, dân chủ cho người dân. Tháng 3-1938, Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh được lập lại, tạo nên một chuyển biến mới cho cuộc đấu tranh của huyện nhà. Truyền đơn kêu gọi đấu tranh của Đảng phát ra đã gây cho mọi người thêm tin tưởng, phấn khởi. Đây là cơ sở tinh thần để đưa phong trào huyện nhà tiến lên.
48 Tháng 1-1939, sau khi nhờ Lê Hữu Quán bắt liên lạc được với Xứ ủy viên Trần Quỳ, một số chi bộ được thành lập, trong đó Chi bộ ghép đồn điền Sông Con - Cầm Lĩnh được thành lập, gồm 4 đảng viên. Chi bộ Phúc Nghĩa, Yên Bài, Hữu Bằng, Phố Châu được tái thành lập, gồm 18 đảng viên, trong đó có 3 đồng chí là nữ. II. ĐẢNG BỘ HUYỆN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG, ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 - 1945) 1. Quá trình chuẩn bị lực lượng Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939), Chính phủ Pháp thi hành chính sách phản động, đàn áp lực lượng cộng sản và tiến bộ trong nước và các thuộc địa. Ở Đông Dương, thực dân Pháp thực hiện phát xít hóa bộ máy thống trị. Ở Hương Sơn, chính quyền thực dân tăng quyền hành của bọn hào mục, khôi phục lại hệ thống đoàn phu, lập lại chức bang tá, buộc các làng phải lập lại các điếm canh và cho lính ngày đêm canh gác. Ở những làng gần biên giới Việt - Lào như Kim Cương (Sơn Kim) và giáp ranh với Nghệ An: Đông Lộ, Tri Lễ, Bạch Sơn (Sơn Tiến), chính quyền thực dân, tay sai tiến hành kiểm soát gắt gao người qua lại. Bọn mật thám cải trang làm người buôn bán hoặc ăn xin trà trộn vào để điều tra tình hình hoạt động của cán bộ, đảng viên. Các sách báo có xu hướng tiến bộ bị cấm không được đọc và lưu hành, các cuộc tụ họp đông người cũng bị cấm đoán, mọi hoạt động của các tổ chức tương tế ái hữu bị đình chỉ. Dựa vào luật thời chiến, nhà nào có con trai, nhất là thanh niên sẽ bị bắt đi lính cho chính quyền thực dân, tay sai. Bên cạnh đó, chúng còn khuyến khích lập nghĩa thương trợ chiến - một hình thức của quỹ chiến tranh hậu cần tại chỗ; đồng thời tổ chức lạc quyên sổ số nhằm vơ vét đến từng đồng xu nhỏ của người dân trong vùng. Đối với viên chức thông ngôn ký lục, giáo viên… thì kêu gọi quyên góp hàng tháng một số tiền để cứu giúp nạn nhân chiến tranh ở Pháp. Lương thực bị cướp hết. Riêng ở xứ Hà Tân, năm 1944, có 75 ha ruộng đất cấy lúa vụ chiêm đã bị thu 300 tạ thóc cho vào quỹ. Cùng với việc ra sức vơ vét tài nguyên, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân dân Hương Sơn bằng hình thức tăng các loại thuế khóa, tăng thuế cũ, đặt thuế mới (thuế ba mẫu), thuế nhà gạch, cây ăn quả, gia súc, bắt nhân dân kê
49 khai gạo thóc, hàng hóa hiện có để khi cần thì trưng thu. Dầu hỏa và một số hàng bằng đồng bị liệt vào hàng chiến lược cấm buôn bán trên thị trường. Thực dân Pháp thu vét hầu hết thóc gạo đưa về chứa ở Hà Tân, Voi Bổ dự trữ cho quỹ chiến tranh. Số còn lại chúng ra lệnh cho bọn hương lý thu vét lập quỹ chiến tranh của địa phương, làm hậu cần tại chỗ và đặt cho cái tên mỹ miều là “nghĩa thương trợ chiến”. Cùng với việc tăng cường bóc lột nhân dân Hương Sơn, chính quyền thực dân còn thực hiện chính sách mị dân và cho lập một trạm phát thuốc tại làng Thịnh Xá. Từ khi Nhật đặt chân lên đất Hương Sơn (1940), Pháp - Nhật cấu kết với nhau đàn áp, bóc lột tàn nhẫn người dân Hương Sơn, bắt thanh niên đi làm phu và vào đội quân chiến đấu chết thay cho bọn phát xít. Đối với những người yêu nước, khi bị bắt, chúng dùng nhiều hình phạt tra tấn dã man như: treo người lên lấy lửa thui hoặc xẻo tai, mũi, đập đầu vào tường cho vỡ sọ… Ngoài việc tổ chức các công ty khai thác lâm sản như: Đại Nam và Hương Quỳ để vơ vét nguồn tài nguyên, cung cấp cho xưởng đóng tàu ở Bến Thủy, quân Nhật còn bắt nhân dân Hương Sơn đào quặng sắt ở Thiên Nhẫn để đem về nước; bắt nhân dân phá ngô, khoai để trồng đay, trồng thầu dầu hoặc làm đồng cỏ để nuôi trâu bò. Ở Sông Con, những nương ngô tốt sắp đến kỳ thu hoạch đều bị nhổ làm thức ăn cho lừa, ngựa. Những nông sản khác như vừng, lạc… bị liệt vào hàng chiến lược để thu mua. Hậu quả là hàng ngàn người dân Hương Sơn bị chết đói. Nạn đói diễn ra ngày càng trầm trọng. Có những làng như: Xa Lang, Đậu Xá (Sơn Tân và Sơn Mỹ ngày nay) có 450 người chết đói, trong đó có 7 người trong một gia đình đã chết hết. Để xoa dịu lòng căm phẫn của quần chúng, Chính phủ bù nhìn bày ra chiêu trò cứu tế nạn đói. Chúng trích một số gạo cho bọn lý hương tổ chức thanh niên tiền phong đứng ra nấu cháo phát chẩn cho dân. Chính sách cai trị của đế quốc và tay sai làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Hương Sơn với chính quyền thực dân, phong kiến ngày càng trở nên gay gắt. Trước sự chuyển biến mới của tình hình thế giới và trong nước, tháng 11- 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp tại Bà Điểm (Gia Định, nay là thành phố Hồ Chí Minh), quyết định đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc là nhiệm
50 vụ cấp bách. Đảng chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Hà Tĩnh, mặc dù bị kẻ địch khủng bố gắt gao, nhưng đến tháng 3- 1940, Tỉnh ủy lâm thời được khôi phục và phân công cán bộ về các địa phương để xây dựng cơ sở đảng. Được sự lãnh đạo trực tiếp của các đồng chí cán bộ cấp trên, công tác khôi phục tổ chức Đảng ở Hương Sơn được tiến hành. Đồng chí Hồ Hảo, Lê Hữu Quán phân công nhau đi các nơi và đến Nghệ An gặp đồng chí Trần Quỳ, Xứ ủy viên phụ trách Bắc Trung Kỳ để thực hiện gây dựng, phát triển cơ sở và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Sơn. Tháng 4-1940, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời được khôi phục, gồm các đồng chí: Hồ Hùng, Nguyễn Liên, Hồ Hảo. Đồng chí Hồ Hảo được cử làm Bí thư và phụ trách về quân sự. Vì lý do không bắt được liên lạc với Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời, do đồng chí Hồ Hảo làm Bí thư, nên đồng chí Trần Bình ở Tứ Mỹ và một số đồng chí ở các làng lân cận: Xa Lang, Yên Đồng, Bảo Thịnh đã thành lập Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời, gồm các đồng chí: Trần Bình, Nguyễn Mật, Trần Đoàn. Đồng chí Trần Bình được cử làm Bí thư, sau đó bổ sung đồng chí Nguyễn Thanh Sơn và bắt mối liên lạc với Tỉnh ủy Hà Tĩnh. Đến năm 1940, ở Hương Sơn có hai Đảng bộ cùng song song tồn tại và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của hai cấp khác nhau, Thượng huyện do Xứ ủy trực tiếp lãnh đạo, Hạ huyện do Tỉnh ủy Hà Tĩnh trực tiếp lãnh đạo. Đến đây, hệ thống của Đảng được nối lại thông suốt từ Trung ương đến địa phương, nên mọi chủ trương của cấp trên được phổ biến nhanh chóng tới cơ sở. Huyện ủy Hương Sơn sắm thêm một bàn máy chữ để soạn các tài liệu của cấp trên gửi xuống chuyển về các địa phương. Cùng với công tác xây dựng và mở rộng cơ sở, chủ trương chuẩn bị về lực lượng để đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền được Đảng bộ Hương Sơn tiến hành khẩn trương. Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh ra đời và phát triển, bao gồm các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc lấy tên là cứu quốc. Mục tiêu là động viên tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng và cá nhân yêu nước vào một mặt trận dân