151 Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV đã thể hiện tinh thần đoàn kết nhất trí, tư tưởng cách mạng tiến công. Đại hội đã bầu được một cấp ủy mới trẻ, có năng lực và sát cơ sở, là thuận lợi to lớn cho Đảng bộ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Sau Đại hội, một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp diễn ra trong toàn huyện. Báo cáo 6 tháng đầu năm 1962 của Tỉnh ủy ghi nhận: “Hương Sơn có 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, có chỉ tiêu vượt khá như lạc 19,3%, mía 10%. Dẫn đầu làm cỏ sục bùn, cố gắng cải tiến công cụ và công tác thủy lợi”75. Trong tháng “đấu tranh chống Mỹ” do Tỉnh ủy phát động, phong trào càng tiến mạnh trên các mặt cải tiến công cụ, làm cỏ sục bùn, phân bón. Các hợp tác xã thi đua sôi nổi với Hợp tác xã Đại Phong của miền Bắc, Hợp tác xã Phan Đình Phùng (Cẩm Xuyên) của tỉnh và Hợp tác xã Đại Châu của huyện. Toàn huyện có 11 xã đã thay thế hết nông cụ lạc hậu bằng nông cụ cải tiến. Xã Sơn Tân dùng xe thay gánh trong hầu hết công việc đồng áng. Hầu hết diện tích lúa đều được làm cỏ sục bùn từ 2-3 lượt. Huyện đoàn thanh niên phát động phong trào “5.000kg phân các loại”, có 1.562 người đạt danh hiệu kiện tướng. Nhờ thế, lượng phân bón cho lúa đạt mức cao nhất tỉnh. Công tác thủy lợi có nhiều tiến bộ. Xã Sơn Bình đắp đập Khe Su, Bông tràm, đập Tràng Lầy. Xã Sơn Tiến đắp đập Khe Nhảy, Ma Ca. Dân công toàn huyện thi đua đẩy nhanh tốc độ đào đắp đập Cơn Trường và đê Tân Long. Phong trào hợp tác hóa cũng phát triển nhanh. Cuối năm 1962, có 118 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 12.899 hộ (85% tổng số hộ). Quy mô bình quân của các hợp tác xã là 130 hộ. Toàn huyện, có 63 cơ sở hợp tác xã bậc cao với 8.884 hộ (chiếm 67,3% số hộ trong các hợp tác xã, 29 cơ sở quy mô thôn với 3.058 hộ, chỉ có 26 cơ sở nhỏ (370 hộ); 11 xã hoàn thành bậc cao. Vùng giáo có 520 trong tổng số 870 hộ đã vào hợp tác. Các cấp bộ Đảng thường xuyên chú trọng lãnh đạo việc củng cố các hợp tác xã về mọi mặt. Vì vậy, có 72 hợp tác xã lập được kế hoạch sản xuất, 78 cơ sở thực hiện 3 khoán. Cơ sở vật chất của hợp tác xã được đầu tư: Cào cỏ Nghệ An, trục đôi, trục ba, bừa xát, xe cút kít, xe Kiến An, xe lồng cộ, cày 51, thuyền nan, thuyền 3 ván,... tuy chưa đủ phục vụ sản xuất, nhưng đã góp phần cải tiến công cụ, nâng cao năng suất lao động. Toàn huyện có 190 chuồng lợn 2 bậc, 19 nhà chế biến phân. Các tổ rèn, mộc, lò vôi, lò gạch, tổ cải tiến kỹ thuật đều tăng. Ngoài ra, toàn 75 Báo cáo sơ kết của Tỉnh ủy. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy.
152 huyện còn có 8 đội chuyên thủy lợi, 12 đội chuyên khai hoang. Các hợp tác xã bậc cao quản lý hết ruộng đất của xã viên, trừ đất 5%, chia lại ruộng đồng theo địa giới hợp tác xã, tạo điều kiện cho bà con xã viên đi về sản xuất thuận lợi. Các đội sản xuất điều hành sản xuất theo sự chỉ đạo của ban quản trị hợp tác xã kiêm quản lý cả công tác hành chính, trị an, quốc phòng, văn hóa, xã hội ở địa phương theo sự chỉ đạo của Ủy ban Hành chính xã. Tổ chức xóm bị bãi bỏ. Các tổ, các phân chi của các đoàn thể quần chúng, dân quân, công an cũng được tổ chức theo đội sản xuất. Hợp tác xã bảo đảm mọi chi phí cho sản xuất, quốc phòng, xã hội… Việc phát triển sản xuất nông nghiệp và phong trào hợp tác hóa đã tạo ra nhiều chuyển biến tốt, đưa phong trào toàn huyện tiến lên một bước mới. Tuy nhiên, phong trào cũng bộc lộ một số hạn chế. Tư tưởng làm ăn cá thể “chân trong, chân ngoài” của một bộ phận cán bộ, xã viên còn nặng như làm ruộng riêng, tập trung làm nghề phụ gia đình mà bỏ việc hợp tác. Trong năm 1962, có 542 hộ vào nhưng lại có 134 hộ ra khỏi hợp tác xã. Cuối năm, toàn huyện còn 1.032 hộ cá thể, 3 xã chưa hoàn thành hợp tác bậc thấp. Số hợp tác xã lập được kế hoạch chưa nhiều, kế hoạch lập ra không sát thực tế, không tập trung thực hiện đúng yêu cầu, nội dung, thiếu kiểm tra đôn đốc. Công tác 3 khoán chất lượng kém, giao khoán cưỡng ép, thưởng phạt không công minh, tính toán không rõ ràng, có nơi phải xóa khoán. Công tác tài vụ phạm nhiều khuyết điểm, gây ra tình trạng tham ô, lãng phí. Việc quản lý hợp tác xã có nơi không dân chủ, xã viên không phát huy được quyền làm chủ. Phần nhiều hợp tác xã chưa lập được các đội chuyên nên huy động lao động ồ ạt, lãng phí. Một số chính sách quan trọng như đất 5%, chia hoa lợi ruộng đất, công điền, quỹ tích lũy v.v… thực hiện tùy tiện. Trình độ cán bộ xã và hợp tác xã còn yếu, lúng túng trong điều hành, quản lý. Các đảng bộ, chi bộ tuy có tiến bộ nhưng chưa đều, chưa đủ mạnh để lãnh đạo hợp tác xã thực hiện nghị quyết của Đảng bộ các cấp và của đại hội xã viên… Những yếu kém, tồn tại của phong trào hợp tác huyện Hương Sơn nằm trong tình hình chung của phong trào cả nước và cả tỉnh. Bởi vậy, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương tiến hành việc cải tiến quản lý hợp tác xã. Tỉnh ủy Hà Tĩnh quyết định tiến hành 6 đợt cải tiến trong 3 năm (1963-1965). Trong đợt thí điểm và đợt 1 của tỉnh, Hương Sơn đã tiến hành cải tiến quản lý ở 12 hợp tác xã. Để thực hiện chủ trương của trên và đẩy mạnh phong trào cách mạng của Đảng bộ và nhân
153 dân toàn huyện, Đại hội lần thứ V Đảng bộ huyện Hương Sơn đã được tổ chức từ ngày 15 đến 19-5-1963. Đại hội kiểm điểm lại tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội huyện lần thứ IV qua một năm và nhận định: “Mọi mặt đều có tiến bộ: hợp tác xã nông nghiệp được mở rộng diện quy mô, chất lượng có tăng, sản xuất có nhiều tiến bộ, kể cả mở rộng diện tích và biện pháp kỹ thuật tăng năng suất, đời sống quần chúng có được cải tiến chút ít, trị an, quốc phòng tiến bộ, công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến… Tuy nhiên, theo yêu cầu tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, thì Hương Sơn là một huyện có khả năng tiềm tàng nhưng lương thực lại thiếu, kế hoạch phấn đấu còn hạn chế, chưa cân đối và toàn diện, năng suất thấp, đời sống quần chúng còn khó khăn”76. Trên cơ sở những thành công và tồn tại đó, Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ cho Đảng bộ nhiệm kỳ tới là: “Tiếp tục, tích cực củng cố, phát triển hợp tác xã nông nghiệp, thực hiện tốt cải tiến hợp tác xã nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc, biến nền nông nghiệp huyện ta từ độc canh tiến lên nông nghiệp có nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm, từ chỗ thiếu lương thực, ít nông sản tiến lên dần dần ổn định được lương thực… đồng thời, có nhiều nông sản và đặc sản khác cung cấp cho nhu cầu công nghiệp và xuất khẩu”77. Đại hội quyết nghị đến năm 1964 phải hoàn thành cải tiến hợp tác xã vòng 1 ở tất cả các cơ sở; toàn Đảng bộ phải quán triệt việc cải tiến quản lý hợp tác xã là cuộc cách mạng hết sức to lớn và quan trọng ở nông thôn, là công tác trung tâm toàn Đảng bộ. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa V do Đại hội bầu gồm 19 ủy viên chính thức, 4 ủy viên dự khuyết. Đa số các ủy viên cũ đều được tín nhiệm bầu lại, chỉ có 6 đồng chí ủy viên mới. Ban Thường vụ chỉ thay đổi 1 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Trương Hà và đồng chí Đinh Phùng Liễn được bầu lại làm làm Bí thư và Phó Bí thư Huyện ủy. Sau Đại hội, phong trào thi đua sản xuất, công tác trong các ngành, các giới phát triển sôi nổi và có bề sâu hơn. Tổng kết năm 1963, hợp tác xã Đại Châu được Trung ương khen thưởng, các hợp tác xã Thanh Bình (Sơn Bình), Đại Hà (Sơn Hà), Hồng Trường (Sơn Trường) được tỉnh khen thưởng. 76 Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện năm 1963. Lưu tại VPTU Hà Tĩnh. 77 Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ huyện năm 1963. Lưu tại VPTU Hà Tĩnh.
154 Bước sang năm 1964, các hợp tác xã sôi nổi hưởng ứng cuộc thi đua “Năng suất cao, hoa màu nhiều, chăn nuôi giỏi” và phong trào làm thủy lợi 2 năm 1964- 1965. Đặc biệt, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại đồng bào miền Nam ruột thịt”78 và Tỉnh ủy phát động phong trào: “Xây dựng Hà Tĩnh thành tỉnh gương mẫu xứng đáng với quê hương Xô viết anh hùng”, phong trào thi đua thực sự trở thành một cao trào rộng lớn trên toàn huyện. Thanh niên và dân quân luôn luôn là lực lượng đi đầu trong phong trào. Toàn huyện có 95 trong số 105 chi đoàn đăng ký danh hiệu “Điện Biên - Ấp Bắc”79. Đoàn xã Sơn Long đã đi tiên phong trong việc xây dựng đội thủy lợi chuyên nghiệp và du nhập giống lúa Ré Quảng vào địa phương. Dân quân thực sự là đội quân xung kích, tích cực lao động trên các công trường thủy lợi, kết hợp với huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Quán triệt chủ trương kết hợp hợp tác hóa với thủy lợi hóa, lấy thủy lợi là biện pháp hàng đầu để giải quyết vấn đề lương thực, Huyện ủy đã ra Nghị quyết chuyên đề về thủy lợi, nhấn mạnh các hợp tác xã phải kiến thiết lại đồng ruộng cho phù hợp với kế hoạch thủy lợi, lấy giữ nước là chính, kết hợp giữ nước với dẫn nước, kết hợp những công trình hạng vừa và hạng lớn do Nhà nước và nhân dân cùng làm. Thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy, các đảng bộ đã lãnh đạo các hợp tác xã làm các công trình thủy lợi nhỏ như đắp bờ vùng, bờ thửa, khoanh vùng giữ nước, đắp đập chắn tạo hồ chứa, làm mương máng chống hạn, chống úng. Đồng điền được cải tạo thành ô, thành thửa. Các công trình thủy lợi nội đồng của hợp tác xã đã bảo đảm tưới khoảng 60% diện tích ruộng đồng toàn huyện. Các đập nước lớn do Nhà nước và nhân dân cùng làm có công trình đã được hoàn thành, được tiếp tục bồi trúc, củng cố, có công trình bắt đầu khởi công. Đập Cơn Trường đã đưa vào sử dụng từ năm 1963, đập chính dài 180m, dung tích hồ chứa nước 2.240.000m3 , tưới cho 180 ha ruộng của các xã Sơn Diệm, Sơn Hàm, Sơn Phố, Sơn Trung. Đê Tân Long được hoàn thành, dài 11,8km bảo vệ 2.546 ha đất canh tác của các xã Sơn Bình, Sơn Hà, Sơn Tân, Sơn Mỹ, Sơn Long, Sơn Trà. Ngoài việc huy động nhân lực phục vụ công tác thủy lợi trong huyện công trường thủy lợi trong thủy nông, công trường 26-3 của Huyện đoàn Hương Sơn ra 78 Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 28-3-1964. 79 Ấp Bắc thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho có chiến thắng lẫy lừng ngày 12-1-1963.
155 đời. Hương Sơn luôn luôn đảm bảo đủ số dân công phục vụ các công trình của tỉnh như đê La Giang, trạm bơm Linh Cảm, hồ Khe Lang v.v... Nhân lực Hương Sơn phục vụ công tác thủy lợi của huyện và của tỉnh rất lớn: năm 1961, có 108.598 lượt người; năm 1962, có 2.000 lượt người; năm 1963, có 130.857 lượt người; năm 1964, có 145.600 lượt người 80. Cùng với công tác thủy lợi, Huyện ủy còn mở hội nghị bàn chuyên đề về công tác khai hoang, chủ trương di dân khai hoang, thành lập các đội sản xuất, các hợp tác xã ở nơi khai hoang, xây dựng thành vùng kinh tế mới. Chấp hành Nghị quyết của Huyện uỷ, các hợp tác xã đã tích cực vận động và thực hiện nhiều chế độ nhằm khuyến khích xã viên di dân khai hoang như: cung cấp vốn, giống, trâu bò, thóc gạo, làm lán trại, nhà cửa giúp bà con. Xã Sơn Bình đã làm 33 ngôi nhà ở vùng Khe Yên (Sơn Kim), biến nơi này thành vùng kinh tế mới. Đến tháng 12-1964, có tất cả 226 hộ khai hoang (gồm 490 lao động, 1.132 nhân khẩu) đã định cư, lập được 4 hợp tác xã có 133 hộ (275 lao động, 614 khẩu). Các hộ khác lập thành các đội sản xuất, gia nhập các hợp tác xã địa phương81. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ V, Huyện ủy đã lãnh đạo các cấp bộ Đảng, chính quyền tập trung đẩy mạnh công tác cải tiến quản lý các hợp tác xã. Đến cuối năm 1964, toàn huyện có 112 hợp tác xã nông nghiệp (trong đó có 80 hợp tác xã bậc cao), chiếm 86,5% số hộ nông dân. Tất cả các xã đều có hợp tác xã, trong đó, 15 xã có từ 91-99% hộ gia nhập hợp tác xã, 9 xã có từ 76-90% hộ và 5 xã có từ 50-75% số hộ tham gia. Trong tổng số các hợp tác xã, số cơ sở đã và đang cải tiến quản lý và cải tiến kỹ thuật là 74. Trong đợt thí điểm của tỉnh, có 6 cơ sở cấp cao tiến hành cải tiến quản lý. Triển khai đại trà đợt 1 có 6 cơ sở cấp cao, đợt 2 có 13 cơ sở cấp cao, đợt 3 có 22 cơ sở cấp cao và 3 cơ sở cấp thấp, đợt 4 có 20 cơ sở cấp cao và 4 cơ sở cấp thấp; còn lại 13 cơ sở cấp cao và 25 cơ sở cấp thấp chưa tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã82. Qua các đợt cải tiến, nhìn chung, các nhiệm vụ đề ra đều được thực hiện, trình độ quản lý được nâng lên, nhất là về mặt quản lý lao động và 3 khoán. Các biện pháp kỹ thuật mới được áp dụng, việc sử dụng công cụ cải tiến nhiều hơn, các giống 80 Báo cáo tổng kết thủy lợi 1961-1964. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy. 81 Báo cáo năm 1964 của Ban khai hoang Hà Tĩnh. Lưu Tiểu ban Lịch sử Đảng Tỉnh ủy. 82 Báo cáo tháng 10-1964 của Ban vận động cải tiến quản lý hợp tác xã Hà Tĩnh. Lưu Tiểu ban Lịch sử Đảng Tỉnh ủy.
156 lúa mới Nam Ninh, Nông nghiệp 1 chiếm ưu thế, lượng phân bón cao v.v... Sự lãnh đạo của các Đảng bộ đối với hợp tác xã được tăng cường. Toàn huyện có 109 đảng viên làm chánh, phó Chủ nhiệm hợp tác xã và Đội trưởng sản xuất. Các phong trào thi đua diễn ra sôi nổi, liên tục và công cuộc cải tiến quản lý hợp tác xã đã đưa lại những thắng lợi quan trọng. Mặc dù, thiên tai năm nào cũng nặng, đặc biệt năm 1964, hạn hán nghiêm trọng vừa chấm dứt thì liên tục 4 cơn bão trong một tháng (từ 15-9 đến 15-10) ập đến, nhất là cơn bão số 11 mạnh chưa từng có với sức gió trên cấp 12, gây thiệt hại lớn, nhưng sản lượng lúa, màu của huyện hàng năm đều tăng, đặc biệt năm 1964 tăng cao. Bảng thống kê số liệu sau đây đã chứng minh rõ điều đó83: 1962 1963 1964 Tổng sản lượng lúa 15.433 tấn 15.459 tấn 17.670 tấn Tổng sản lượng ngô 450,4 tấn 521,7 tấn 462,7 tấn Năng suất lúa 14,05 tạ/ha 14,35 tạ/ha 16,03 tạ/ha Trong thành tích chung, nổi bật là hợp tác xã Đại Hà (xã Sơn Hà) luôn dẫn đầu năng suất lúa toàn tỉnh (năm 1962, đạt 26,4 tạ/ha; năm 1963, đạt 29,5 tạ/ha; năm 1964, lên tới 30,8 tạ/ha). Hợp tác xã Đại Châu (Sơn Châu) năm 1964 đạt năng suất lúa 22,6 tạ/ha, đứng thứ 8 toàn tỉnh, năng suất mía 540 tạ/ha, đứng thứ 3 toàn tỉnh. Lúa gạo và màu, trong đó, có khoai chuối đã đảm bảo cho nhân dân Hương Sơn vượt qua được các kỳ giáp hạt kinh niên, đồng thời, làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, mặc dù bình quân lương thực đầu người còn thấp. Khoai chuối càng ngày càng được coi trọng vì có giá trị chế biến thành bột dong, miến dong cùng các cây mía, lạc, vừng v.v... tăng thêm thu nhập cho nhân dân. Cây đậu tương đã dần dần đứng vững trên đất Hương Sơn. Ngoài ra, cây chè xanh, cây dâu và các loại cây ăn quả đặc sản cũng được chỉ đạo phục hồi và phát triển, diện tích, sản lượng hàng năm đều cao hơn năm 1959 là năm cao nhất trước đó. 83 Theo “Số liệu thống kê cơ bản 10 năm (1955 - 1964) của Hà Tĩnh”, xuất bản 1965. Tài liệu lưu tại Tiểu ban LSĐ Tỉnh ủy.
157 Chăn nuôi cũng có sự tăng trưởng, tuy chưa bằng trước lúc có hợp tác xã. 1961 1962 1963 1964 Trâu 3.676 con 3.973 con 4.166 con 4.217 con Bò 10.857 con 11.858 con 13.076 con 14.187 con Lợn 18.890 con 22.206 con 23.225 con 22.028 con Nhiều hợp tác xã tổ chức chăn nuôi lợn tập thể. Hợp tác xã Thanh Bình (Sơn Bình) tiếp tục giữ vững và phát huy danh hiệu lá cờ đầu toàn tỉnh. Trại thụ tinh nhân tạo để gây giống lợn được xây dựng ở xã Sơn Bình. Các hợp tác xã nông nghiệp quản lý cả các nghề phụ của xã viên như mộc, nề, lập các tổ sửa chữa nông cụ, các tổ đốt vôi, làm gạch... Sau Đại hội Đảng bộ năm 1963, Huyện ủy vận động phát triển thủ công nghiệp trong hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng 9 điểm cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp và 2 lò gạch ở Sơn Châu và Sơn Phố. Nhiều xã khác cũng xây dựng lò gạch là: Sơn Thịnh, Sơn An, Sơn Hòa, Sơn Hà, Sơn Long, Sơn Bình, Sơn Bằng, Sơn Trung, Sơn Thủy, Sơn Giang, Sơn Phố, Sơn Diệm, Sơn Quang, Sơn Tây. Lò vôi ở Sơn Quang được củng cố, mở rộng. Nhiều xã khác xây dựng được lò vôi. Huyện còn xây dựng trại cam, trại ong, củng cố các hợp tác xã thủ công nghiệp, xây dựng hợp tác xã vận tải cấp cao Sông Hương, hợp tác xã rèn Liên Minh (ở Sơn Hà). Tháng 6-1961, hai hợp tác xã vận tải đường sông cấp thấp Sông Hương và Tân Hương hợp nhất thành hợp tác xã vận tải cấp cao Sông Hương, đóng tại vùng núi sát bờ sông giáp giữa 2 xã Sơn Trung và Sơn Ninh. Cũng từ đó, Sông Hương bước vào thời kỳ phát đạt nhất. Tất cả lao động nam đi vận chuyển hàng hóa cho nhà nước, mỗi năm chở 30.000 m3 gỗ đi Vinh và 500 tấn hàng hóa từ Vinh về, chưa kể các luồng khác. Toàn bộ lao động nữ thành lập trại sản xuất nông nghiệp và làm thêm nghề thủ công. Người lao động làm việc, ăn ở tập thể, theo chế độ giờ làm việc của Nhà nước, được hợp tác xã trả lương như công nhân nhà nước. Từ quỹ phúc lợi, hợp tác xã đã xây dựng được nhà ở tập thể, nhà ăn tập đoàn, nhà trẻ, trạm xá phục vụ xã viên. Trong 4 năm liên tục từ sau khi lên cấp cao, năm nào, Sông Hương cũng được nhận Cờ luân lưu của Ủy ban Hành chính tỉnh Hà Tĩnh. Được ngành Ngoại thương huyện giúp đỡ, hợp tác xã Minh Sơn (xã Sơn Thịnh) xây dựng một phân xưởng dệt thảm đay vào năm 1962 (trước đó, Minh Sơn
158 chỉ làm guốc và thùng 3 đai), sau đó, tiến lên dệt bao bì phục vụ quốc phòng và dệt mành cọ. Đầu năm 1964, vải Sơn Thịnh không có thị trường tiêu thụ, mậu dịch không thu mua nữa nên hợp tác xã vải Sơn Thịnh phải giải thể. Hầu hết xã viên dệt vải chuyển sang dệt bao bì và mành cọ, lập thành hợp tác xã Minh Thịnh vào đầu năm 1964. Hợp tác xã Minh Sơn chuyển giao phân xưởng dệt thảm (cùng với xã viên) cho hợp tác xã Minh Thịnh. Hợp tác xã Minh Sơn trở lại chuyên làm guốc và thùng 3 đai, gồm có 30 xã viên. Hợp tác xã Minh Thịnh có trên 60 xã viên, lúc thành lập có 48 cổ phần của xã viên mua. Hợp tác xã Bình Minh ở Phố Châu tách những xã viên không phải làm nghề rèn và nghề mộc thành một cơ sở khác. Bình Minh chỉ giữ lại 67 thợ rèn và thợ mộc, chủ yếu làm nhiệm vụ sản xuất và sửa chữa các công cụ cải tiến phục vụ các hợp tác xã nông nghiệp. Trong ngành thương nghiệp, mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán huyện sáp nhập với nhau thành xí nghiệp tổng hợp bán lẻ, chỉ giữ lại 4 cửa hàng bán lẻ ở Phố, Hà Tân, Choi và Gôi, nhưng lại phát triển đều khắp cửa hàng hợp tác xã mua bán ở tất cả các xã. Năm 1964, Huyện ủy chủ trương cải tiến quản lý các hợp tác xã thủ công, mở 2 lớp chỉnh huấn cho tất cả các xã viên thủ công ở hai vùng thượng và hạ huyện. Mục đích cuộc vận động là làm cho bà con xã viên hiểu được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được nội dung 5 quản (quản lý sản xuất, lao động, vật tư, sản phẩm và tài vụ) để xã viên có điều kiện làm chủ, tham gia quản lý hợp tác xã. Sau chỉnh huấn, các hợp tác xã đều tiến hành kiện toàn, củng cố và đẩy mạnh sản xuất. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân trong huyện được cải thiện một bước. Thu nhập bình quân năm 1964 so với năm 1960 tăng khoảng 10%, nhà ngói của dân mọc nhiều hơn. Năm 1964, toàn huyện có 1.796 nhà ngói, chiếm 11,1% tổng số nhà cửa của nhân dân trong huyện84. Công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp, thủ công nghiệp và cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã vòng 1 đã đưa lại những kết quả đáng khích lệ, làm cho quan hệ sản xuất mới được củng cố, sản xuất công tác được đẩy mạnh. Nổi bật là các công 84 Theo “Số liệu thống kê cơ bản 10 năm (1955 - 1964) của Hà Tĩnh” xuất bản năm 1965.
159 tác thủy lợi, kiến thiết đồng ruộng, khai hoang, các biện pháp kỹ thuật tăng năng suất đã phát triển mạnh mẽ. Hầu hết các công trình thủy lợi lớn nhỏ trên địa bàn toàn huyện đều được xây dựng trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhiều công trình tuy chưa hoàn thành nhưng đã được thi công hoặc khảo sát, thiết kế. Việc huy động sức người, sức của, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước diễn ra thuận lợi, được thực hiện nhanh chóng. Sơn Lễ và Sơn Tiến là 2 xã điển hình về thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Hợp tác xã trở thành một kết cấu xã hội cần thiết để đi lên một nền sản xuất lớn theo con đường XHCN. Nhất là về sau, khi có chiến tranh, hợp tác xã đã đóng vai trò to lớn trong việc động viên nhân lực, tài lực phục vụ kháng chiến. Bên cạnh những mặt tích cực trên, phong trào hợp tác hóa ngày càng bộc lộ nhiều tiêu cực, khuyết điểm. Các hộ gia đình không còn là một đơn vị sản xuất. Trong chế độ bao cấp, người nông dân không có quyền tự chủ trong lao động sản xuất vì sản phẩm mình làm ra trở nên thụ động và bị động, họ mất dần tính tích cực, tính sáng tạo. Hợp tác xã cũng không hoàn toàn làm chủ mà bị động với kế hoạch, chỉ tiêu của cấp trên áp đặt. Kinh tế phụ gia đình bị thu hẹp, ngành nghề phụ trong nông thôn bị teo lại. Kinh tế vườn, một thế mạnh của nhân dân huyện Hương Sơn bị sa sút. Việc hóa giá quá rẻ trâu bò, nông cụ, xóa bỏ hoa lợi ruộng đất đã gây thiệt hại đáng kể về mặt kinh tế - xã hội. Việc mở rộng quy mô hợp tác xã làm cho các ban quản trị, các bộ phận lãnh đạo xa rời sản xuất trực tiếp nên làm tăng khuynh hướng hành chính, quan liêu, cồng kềnh, bất lực... Hợp tác xã không còn là tổ chức kinh tế đơn thuần mà dần dần trở thành tổ chức chính trị, xã hội, hành chính. Tổ chức Nông hội đã tự triệt tiêu khi có hợp tác xã. Công tác quản lý hành chính ở thôn xóm hoàn toàn giao cho đội sản xuất. Ban quản trị hợp tác xã nắm cả đời sống kinh tế của xã viên, cả sinh mệnh chính trị của nhân dân, nhiều nơi, nhiều lúc khuynh loát cả đảng, chính quyền. Tình trạng này tồn tại không riêng ở một địa phương nào mà phổ biến cả miền Bắc, nên Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương cải tiến quản lý hợp tác xã vòng 2 để giải quyết những khuyết điểm đó. 2. Tiếp tục phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và chú trọng công tác xây dựng Đảng Cùng với việc phát triển phong trào hợp tác hóa và đẩy mạnh sản xuất, Đảng bộ thường xuyên chăm lo phát triển văn hóa - xã hội. Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ năm 1962 đề ra là “phát triển giáo dục,
160 văn hóa, y tế, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân”, Huyện ủy đã có những nghị quyết cụ thể về xây dựng trường phổ thông cấp 3, phát triển thêm loại hình trường phổ thông nông nghiệp, phát triển các thư viện và tổ khoa học, kỹ thuật trong các hợp tác xã, chăm lo đào tạo cán bộ y tế và nâng cấp bệnh xá huyện thành bệnh viện v.v... Đây là những chủ trương phù hợp với nguyện vọng tha thiết của quần chúng nên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Tháng 9-1962, trường phổ thông cấp III đầu tiên của Hương Sơn ra đời, đóng tại thôn Tứ Mỹ, xã Sơn Châu. Trường có đầy đủ toàn cấp, thu hút cả học sinh lâu nay phải đi học ở Đức Thọ, thậm chí phải vào tận Thị xã Hà Tĩnh trở về. Tuy mới ra đời, nhà trường đã có một đội ngũ giáo viên có chất lượng và đào tạo nên một thế hệ học sinh có đạo đức tốt, kiến thức vững vàng. Cũng trong năm 1962, Trường phổ thông Nông nghiệp Sơn Lễ được thành lập. Trường phổ thông Nông nghiệp Sơn Giang đã thành một điển hình tiên tiến của tỉnh. Số trường phổ thông cấp II của huyện đã tăng hơn 2 lần so với năm 1960. Các cấp vỡ lòng phổ cập trong tất cả các xã, do các hợp tác xã đài thọ. Nhiều hợp tác xã có nhà trẻ và các lớp mẫu giáo. Trường Mẫu giáo Sơn Tân trở thành điển hình tiên tiến của tỉnh. Từ khi có Nghị quyết của Huyện ủy bắt buộc cán bộ, đảng viên phải phổ cập cấp I bổ túc văn hóa, công tác bổ túc văn hóa được đẩy mạnh, các hợp tác xã luôn chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên và vận động người đi học. Nhiều cơ sở có quy chế khuyến khích, khen thưởng người dạy, người học. Những người trong diện học mà không tới lớp thì bị phạt, trừ công điểm sản xuất. Cá biệt, có nơi còn tính công điểm cho người đi học bổ túc văn hóa. Tổ giáo viên của Hợp tác xã Hoàng Trường (xã Sơn Trường) là một trong hai tổ tiên tiến xuất sắc của toàn tỉnh. Phong trào văn hóa quần chúng, thể dục thể thao tiếp tục phát triển ở các hợp tác xã và các xã. Nhiều xã đã có nhà văn hóa và thư viện. Thư viện huyện có phòng đọc sách, báo. Đội điện ảnh của huyện đi đến tận các vùng xa xôi hẻo lánh để phục vụ nhân dân. Năm 1964, Đài Truyền thanh của huyện ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong công tác thông tin, tuyên truyền. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân luôn được các cấp, các ngành chú ý. Hàng loạt cán bộ y tế được đào tạo chính quy để phục vụ hoạt động y tế từ huyện đến xã. Phòng y tế huyện chú trọng chăm lo công tác vệ sinh phòng bệnh, đẩy mạnh
161 phong trào “Ba công trình” (nhà tiêu, giếng nước, nhà tắm), phòng chống các dịch bệnh có hiệu quả. Đặc biệt, đến năm 1964, tất cả các xã đều có trạm y tế và nhà hộ sinh. Cuối năm 1964, Bệnh xá huyện được nâng lên thành Bệnh viện có khoa nội, khoa ngoại, khoa sản và một phòng dược. Bệnh viện có 100 giường, có bác sĩ làm bệnh viện trưởng và y sĩ làm trưởng khoa. Trong phong trào thi đua với bệnh xá Vân Đình85, ngành Y tế Hương Sơn được xếp vào loại khá. Những xã có phong trào bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân khá của huyện là Sơn Tân, Sơn Hà, Sơn Châu, Sơn Thịnh, Sơn Kim, Sơn Tây, Sơn Diệm, trong đó, Sơn Tân là xã dẫn đầu phong trào. Tuy vậy, trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động văn hóa – xã hội, Đảng bộ huyện còn bộc lộ một số hạn chế: Bổ túc văn hóa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành giáo dục nhưng trong thực tế, hoạt động này gặp rất nhiều khó khăn. Nhiệm vụ phổ cập trình độ cấp I cho cán bộ, đảng viên trong kế hoạch không hoàn thành. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục Hương Sơn chưa tương xứng với truyền thống của “đất học”. Bệnh xá huyện tuy được nâng lên thành bệnh viện nhưng cán bộ còn thiếu (cả huyện chỉ có 1 bác sĩ), cơ sở vật chất, phương tiện khám chữa bệnh còn đơn giản, thiếu thốn. Song song với công tác phát triển, củng cố phong trào hợp tác hóa, đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - văn hóa, công tác quốc phòng và trị an cũng được Đảng bộ hết sức chú trọng. Công tác quân sự trong năm 1961 được các cấp, các ngành đầu tư, quan tâm đúng mức. Trong phong trào “Học tập, đuổi kịp và vượt xã Xuân Hải” (Nghi Xuân) về “Ba nhất” do Tỉnh đội phát động, các đơn vị vũ trang của huyện Hương Sơn từ huyện đến xã, đến các nông, lâm trường đều hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến, phòng thủ, bảo vệ trật tự trị an. Từ tháng 5-1961 trở đi, các đơn vị đi vào quy hoạch huấn luyện đúng phương án, đạt kết quả. Ngoài nhiệm vụ sản xuất, xây dựng, sẵn sàng chiến đấu, bộ đội địa phương và dân quân Hương Sơn còn được điều động giúp quân và nhân dân Lào chiến đấu trên mặt trận đường 8. Các đơn vị luôn nêu cao tinh thần quốc tế, hăng hái chiến đấu và chiến đấu có hiệu quả. Tháng 4-1961, dân quân 85 Thuộc huyện Ứng Hòa (Hà Tây cũ), nay là Thành phố Hà Nội, Bệnh viện được thành lập năm 1957, là đơn vị đầu tiên triển khai, nghiên cứu áp dụng theo dõi quản lý chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân theo phương thức y học hiện đại và y học cổ truyền. Năm 1963, bệnh xá vinh dự được đón Bác Hồ về thăm.
162 Hương Sơn cùng dân quân Đức Thọ, Can Lộc phục vụ công trường 8A, 8B một tháng, giúp bạn xây dựng và phát triển sản xuất. Các đơn vị đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Lực lượng dân quân và công an được cải tổ phù hợp với tổ chức hợp tác xã bậc thấp, tiến tới mở rộng biên chế theo quy mô hợp tác xã bậc cao. Đội viên dân quân và công an đều là xã viên hợp tác xã, được hợp tác xã đài thọ công điểm và các chi phí để huấn luyện, mua sắm vũ khí, luyện tập theo khoán ước. Dân quân trở thành lực lượng nòng cốt của hợp tác xã trong các phong trào sản xuất, thủy lợi, khai hoang... Nhiều nơi đã phát huy được tác dụng của dân quân, kết hợp sản xuất với công tác huấn luyện, bảo vệ trị an, bảo vệ sản xuất. Phong trào tập luyện diễn ra sôi nổi. Năm 1962, phong trào dân quân tự vệ Hương Sơn được xếp vào loại khá của tỉnh, dân quân xã Sơn Trường – lá cờ đầu của huyện được tỉnh biểu dương. Từ quý I năm 1963, Tỉnh đội phát động phong trào thi đua giành danh hiệu xã tiên tiến, đơn vị tiên tiến, chiến sĩ tiên tiến, kết hợp hai nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng, sản xuất, bảo vệ sản xuất dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng. Đến giữa năm 1963, tất cả các cơ sở dân quân tự vệ đã tiến hành tổng kiểm tra vũ khí và điều chỉnh trang bị, diễn tập, đảm bảo thông tin liên lạc, thực hiện chế độ tuần tra canh gác, kế hoạch phòng thủ và kế hoạch chống biệt kích. Trước những âm mưu, hoạt động do thám, xâm nhập phá hoại miền Bắc ngày càng tăng của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, công tác bố phòng được tăng cường. Các xã biên giới và các xã vùng trọng điểm đã thành lập các cụm bố phòng liên hoàn có ban chỉ huy thống nhất: Cụm Tây - Kim - Lĩnh, cụm Giang -Quang - Lâm, cụm Châu - Bình - Hà-Thủy. Nửa đêm ngày 2-7-1963, một máy bay địch thả xuống vùng núi Sơn Giang, giáp giới giữa Nghệ An và Hà Tĩnh 13 chiếc dù. Lập tức dân quân, công an địa phương khẩn trương bố trí lực lượng bao vây và cấp báo lên trên. Công an và lực lượng vũ trang huyện đã phối hợp chặt chẽ với công an, dân quân và nhân dân địa phương triển khai truy lùng. Cuộc bao vây, truy lùng và chiến đấu diễn ra quyết liệt từ 01 giờ đến 09 giờ ngày 3-7. Kết quả, 6 tên biệt kích bị bắt, 1 tên bị bắn chết tại trận, còn 1 tên duy nhất lẩn trốn và bị dân quân bao vây chặt. Đến 7 giờ sáng hôm sau (4-7), tên biệt kích cuối cùng đã bị bắt và bị thu toàn bộ tang vật. Về phía ta, trung sĩ công an nhân dân vũ trang Nguyễn Xuân Cầu đã anh dũng hy sinh.
163 Thắng lợi trong trận vây bắt biệt kích ở Sơn Giang chứng tỏ tinh thần cảnh giác cao và chiến đấu dũng cảm của các lực lượng dân quân, công an địa phương từ xã đến huyện. Sau thắng lợi này, công tác huấn luyện quân sự, công tác bố phòng càng được đẩy mạnh. Hương Sơn cũng là đơn vị luôn luôn dẫn đầu tỉnh về công tác tuyển quân, điển hình là xã Sơn Diệm. Cũng như trong sản xuất, thanh niên Hương Sơn đã nêu nhiều tấm gương sáng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và trị an. Đầu năm 1964, đế quốc Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ, leo thang đánh phá miền Bắc, tăng cường hoạt động khiêu khích, đe dọa, gây sức ép đối để hòng cứu nguy cho nguỵ quân, ngụy quyền Sài Gòn đang lâm vào thế thất bại ở miền Nam. Máy bay địch nhiều lần xâm phạm vùng trời Hương Sơn và thả các chất lạ xuống địa bàn huyện. Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của địch, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội, khẳng định ý chí quyết tâm đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, kêu gọi mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt. Thực hiện chủ trương của trên, tháng 5-1964, Huyện ủy Hương Sơn ra quyết định thành lập Ban Chỉ huy phòng không huyện. Tháng 7-1964, nhân dịp kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Ban chỉ huy phòng không đã tổ chức “Tuần lễ sẵn sàng chiến đấu”. Bị thất bại trong “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ ồ ạt đem quân vào miền Nam gây ra cuộc “Chiến tranh cục bộ”, đồng thời, ngày 5-8-1964, chúng gây ra sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” để tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Trước tình hình đó, ngày 11-8-1964, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Nghị quyết “sản xuất phải gắn chặt với sẵn sàng chiến đấu”. Huyện ủy Hương Sơn đã tiến hành một đợt giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn dân, trong lực lượng vũ trang và các đoàn thể quần chúng. Mục đích của đợt giáo dục chính trị là nhằm làm cho mọi người nhận rõ tình hình, nhiệm vụ, quán triệt sâu sắc nghị quyết của Tỉnh ủy, noi gương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, đẩy mạnh mọi công tác sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, trước mắt, hưởng ứng “vụ sản xuất Đông Xuân Phú Hữu” do Tỉnh ủy phát động để trả thù cho anh Nguyễn Văn Trỗi.
164 Các lực lượng vũ trang từ huyện đến xã, từ dân quân, tự vệ đến công an được kiện toàn tổ chức một bước và tăng cường luyện tập, tăng cường hoạt động tuần tra, canh gác. Công tác bố phòng được đẩy lên cao hơn. Huyện đã tập trung xây dựng trận địa bảo vệ đường 8, bảo vệ các cầu phà, bảo vệ cơ quan, bảo vệ biên giới... Các trận địa được trang bị thêm vũ khí, có cả trung liên. Huyện đội đã chỉ đạo nhiều xã thành lập các đội công binh. Mỗi hợp tác xã có một trung đội ứng cứu, được giao trách nhiệm rõ ràng theo nhiều phương án tác chiến và tổ chức tập luyện một cách tích cực, khẩn trương. Các xã trọng điểm được giao nhiệm vụ cụ thể và được huyện chỉ đạo sát sao. Xã Sơn Bình được giao nhiệm vụ đắp 3 trận địa và tổ chức 1 trung đội bắn máy bay ở khu vực Cucu để bảo vệ đường 8, 1 đội công binh, 1 trung đội ứng cứu bảo đảm giao thông ở Choi và Nầm. Xã Sơn Bằng cũng được giao nhiệm vụ tương tự, đặc biệt là nhiệm vụ bảo vệ cầu Nầm. Đảng bộ, toàn dân, toàn quân Hương Sơn tích cực, khẩn trương cùng cả nước chuẩn bị bước vào giai đoạn kháng chiến hết sức gay go, ác liệt. Trải qua 4 năm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào của huyện, Đảng bộ huyện có bước phát triển mới về tổ chức và tư tưởng chính trị. Số chi bộ được kiện toàn theo tổ chức hợp tác xã, đảm bảo mỗi chi bộ lãnh đạo một hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, tổng số chi bộ toàn huyện rút xuống còn 97. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, các Đảng ủy và các chi ủy thường xuyên được kiện toàn, nâng cao chất lượng qua các kỳ đại hội. Các cấp ủy luôn đi sâu, đi sát các phong trào quần chúng, nhất là phong trào hợp tác hóa, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp. Số lượng cấp ủy viên trực tiếp phụ trách cơ sở ngày càng nhiều. Nhìn chung, tình hình các cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể quần chúng từ trên xuống dưới ổn định, phát huy được năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Lập trường, tư tưởng, trình độ cán bộ, đảng viên được nâng lên nhiều qua cuộc đấu tranh thiết lập quan hệ sản xuất mới, giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa CNXH và CNTB, giữa con đường làm ăn tập thể và cá thế. Số đảng viên và số chi bộ khá tăng lên. Số đảng viên và số chi bộ kém giảm xuống86. Công tác phát triển Đảng, giáo dục đảng viên, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được chú ý, nhất là việc phát 86 Năm 1962, số đảng viên khá đầu năm là 26,6%, cuối năm, chiếm 40,4% tổng số đảng viên; số đảng viên kém đầu năm là 16,21%, cuối năm là 15,9%.
165 triển Đảng trong tầng lớp thanh niên và phụ nữ có nhiều tiến bộ. Năm 1962, Đảng bộ kết nạp được 190 đảng viên, trong đó 57,7% là thanh niên, 10% là phụ nữ. Năm 1963, tỷ lệ nữ được kết nạp tăng gấp đôi. Những đợt chỉnh huấn, giáo dục đảng viên được tiến hành thường xuyên cùng với việc phân loại nghiêm túc đảng viên hàng năm đã tạo điều kiện cho đảng viên phấn đấu tự rèn luyện, làm cho tổ chức Đảng ngày càng vững mạnh hơn87. Ngoài lớp chính trị tại chức thường xuyên mở cho cán bộ, đảng viên luân phiên nhau đi học, năm 1963, có 761 cán bộ huyện, xã và hợp tác xã được cử đi học chính trị hoặc nghiệp vụ dài hạn. Điểm mạnh của Đảng bộ Hương Sơn là số đảng viên đông (3.557 đồng chí) chiếm 4,7% dân số, nơi nào cũng có chi bộ. Nhưng nhược điểm, khuyết điểm của Đảng bộ là số chi bộ khá, đảng viên khá còn ít, mới chiếm khoảng một phần ba; số đảng viên và chi bộ kém còn nhiều, thậm chí còn khoảng 0,3 đến 0,5% đảng viên quá kém. Công tác phát triển Đảng còn chậm, có 29 chi bộ có năm không kết nạp được đảng viên mới, có 2 đảng bộ xã có năm mất trắng. Lực lượng đảng viên trẻ của Đảng bộ còn ít. Theo số liệu thống kê, năm 1963, Đảng bộ chỉ có 92 đảng viên 20 tuổi, 680 đảng viên dưới 30 tuổi. Trình độ văn hóa của đảng viên còn thấp, hạn chế nhiều đến việc tiếp thu lý luận chính trị. Theo thống kê, toàn Đảng bộ huyện có 1.028 đảng viên mới có trình độ lớp 1, lớp 2 và 2.235 đảng viên lớp 3, thậm chí còn 61 đảng viên đang mù chữ. Nền nếp sinh hoạt Đảng có nơi còn lỏng lẻo, kỷ luật Đảng chưa nghiêm. Do tinh thần đấu tranh trong nội bộ chưa được phát huy đầy đủ nên tư tưởng tư lợi, cục bộ, địa phương... có điều kiện phát triển, ảnh hưởng phần nào đến sự đoàn kết nội bộ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng bộ. Nhằm khắc phục những yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào các mặt của huyện và cả trong công tác xây dựng Đảng, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ trong thời kỳ mới, từ ngày 4 đến 7-12-1964, Đại hội lần thứ VI Đảng bộ huyện được tổ chức tại hội trường huyện. Tham dự Đại hội có 102 đại biểu chính thức. Đại hội đã kiểm điểm những thành tựu, những tồn tại cùng những ưu, khuyết điểm trong nhiệm kỳ khoá V, quyết định những nhiệm vụ sắp tới để hoàn thành kế 87 Năm 1962 toàn Đảng bộ đã khai trừ 9 đảng viên, kỷ luật lưu đảng 1 đảng viên, cảnh cáo 2 đảng viên và có 12 đảng viên không được thừa nhận đủ tư cách.
166 hoạch 5 năm trong hoàn cảnh đặc biệt và để chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi chống cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù. Đại hội đã nghiên cứu, quán triệt Chỉ thị số 81-CT/TW của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Nghị quyết tháng 8-1964 của Tỉnh ủy Hà Tĩnh về việc chuyển hướng mọi mặt hoạt động từ thời bình sang thời chiến, nêu cao quyết tâm đánh bại mọi âm mưu, hành động chiến tranh của địch. Nhận rõ vị trí chiến lược quan trọng của huyện trong công cuộc xây dựng, bảo vệ hậu phương và đảm bảo chi viện cho các chiến trường B, C, Đại hội đã đề ra những chủ trương, biện pháp xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, vừa giữ vững và đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, công tác trong bất cứ tình huồng nào, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ địa bàn dân cư, bảo vệ sản xuất, bảo đảm giao thong vận tải, làm tròn nhiệm vụ chi viện chiến trường. Đại hội nêu cao tinh thần của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Hương Sơn quyết tâm chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, gồm 19 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết, trong đó, có 14 đồng chí ủy viên khóa trước được bầu lại. Đồng chí Nguyễn Trương Hà và đồng chí Đinh Phùng Liễn tiếp tục được bầu lại làm Bí thư và Phó Bí thư Huyện ủy. Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ huyện Hương Sơn có ý nghĩa đặc biệt. Đại hội diễn ra giữa lúc chuyển giai đoạn từ hòa bình sang chiến tranh. Ý chí quyết chiến, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược thể hiện trong Đại hội cũng là ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng bộ, toàn quân và dân Hương Sơn trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ sắp tới. * * * Trong mười năm kể từ sau hòa bình lập lại (1954-1964), đứng trước muôn vàn khó khăn, phức tạp, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo nhân dân nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành cuộc phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, hoàn thành cơ bản công cuộc cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế, từng bước xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, bước đầu xây dựng quan hệ sản xuất mới và một số cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong mười năm ấy, có những năm tháng, những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã
167 làm cho tình hình trong Đảng cũng như trong nhân dân không ổn định, lâm vào những khó khăn đặc biệt; sau đó, phải mất một thời gian dài để tiến hành sửa chữa sai lầm. Nhờ đường lối đúng đắn của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời, phát huy truyền thống đoàn kết và những truyền thống tốt đẹp của Đảng bộ và nhân dân, công tác sửa sai thu được thắng lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội đạt được những kết quả quan trọng. Đến cuối kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, gần 90% hộ nông dân toàn huyện đã vào hợp tác xã nông nghiệp. Ruộng đồng được cải tạo thành ô, thành thửa để đắp bờ giữ nước, xây dựng kênh mương dẫn nước. Nhiều công trình thủy lợi nhỏ và vừa được kiến tạo, trong đó, có đập Cơn Trường mang tên huyện kết nghĩa Hoài Nhơn đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Kỹ thuật canh tác đạt được nhiều tiến bộ từ khâu giống đến khâu công cụ, góp phần tăng năng suất và sản lượng cây trồng hàng năm đều tăng. Hầu hết số hộ thợ thủ công đã gia nhập các hợp tác xã sản xuất thủ công. Thành phần kinh tế tiểu thương được cải tạo về cơ bản, một số hộ chuyển sang sản xuất nông nghiệp hoặc thủ công, số còn lại được sắp xếp vào các tổ kinh tiêu. Mạng lưới cửa hàng mậu dịch và hợp tác xã mua bán phát triển. Xã nào cũng có cửa hàng mua bán của hợp tác xã. Trên cơ sở sản xuất phát triển, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện rõ rệt, đời sống tinh thần được nâng lên. Con em nhân dân hầu hết được đến trường, tỷ lệ học sinh phổ thông so với dân số đạt loại cao nhất miền Bắc. Hệ thống trường lớp từng bước hoàn chỉnh từ mẫu giáo đến cấp 1, cấp 2, cấp 3. Nhà văn hóa và thư viện xã phát triển. Nhân dân thường xuyên được xem chiếu bóng, kể cả ở vùng xa xôi hẻo lánh. Phong trào đời sống mới, văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao ngày càng phát triển trong các hợp tác xã. Hệ thống trạm xá và nhà hộ sinh đều khắp các xã. Bệnh xá huyện được nâng cấp thành bệnh viên, lại có thêm Hội đông y phục vụ việc chăm sóc sức khỏe nhân dân. Công tác vệ sinh phòng bệnh đã trở thành phong trào quần chúng. Công tác bảo vệ trị an và quốc phòng đảm bảo tốt, không một tên biệt kích nào lọt qua được biên gới, không một vụ gây rối nào xảy ra trên địa bàn huyện. Lực lượng dân quân và công an được phiên chế phù hợp với tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, luôn luôn làm tròn nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu; đồng thời, là
168 nòng cốt trong phong trào lao động sản xuất của hợp tác xã. Công tác tuyển quân luôn dẫn đầu toàn tỉnh. Đảng bộ không ngừng lớn mạnh cả về tư tưởng và tổ chức, nhất là đã có một thời kỳ ổn định từ trên xuống dưới, làm cho sự lãnh đạo của Đảng bộ có hiệu quả hơn, năng lực quản lý điều hành của chính quyền được nâng lên, vai trò các đoàn thể quần chúng được phát huy, nhất là Đoàn Thanh niên. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với một địa phương có nhiều tiềm năng kinh tế với ruộng đồng, rừng núi khá phì nhiêu, vườn cây ăn quả có từ lâu đời, nhiều nghề thủ công, nhiều thợ giỏi, lao động dồi dào, lại là một địa phương có truyền thống văn vật, mặt bằng văn hóa cao hơn nhiều nơi khác, một địa phương có một Đảng bộ đông đảng viên và có nhiều đảng viên có bề dày kinh nghiệm hoạt động từ những năm trước Cách mạng Tháng Tám. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhưng những thành tựu trong mười năm (1954-1964) là sự tiếp nối truyền thống vẻ vang của Đảng bộ từ thời Xô viết Nghệ - Tĩnh đến khởi nghĩa giành chính quyền và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Những thành tựu đã tạo đà cho Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân vươn lên giành nhiều thắng lợi vẻ vang trong một giai đoạn cách mạng mới, đầy thử thách gay go nhưng cũng vô cùng oanh liệt.
169 Chương 4 LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG CHẮC, GÓP PHẦN CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1965-1975) I. ĐÁNH THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (8-1964 đến 10-1968) 1. Lãnh đạo xây dựng lực lượng quốc phòng - an ninh và thế trận chiến tranh nhân dân Từ cuối năm 1964, đầu năm 1965, đế quốc Mỹ đã leo thang đánh phá ác liệt miền Bắc nhằm cắt đứt sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. Cùng với quân dân toàn tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn bước vào một thời kỳ đầy thử thách gay go, ác liệt nhưng vô cùng vẻ vang - thời kỳ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng địa phương về mọi mặt và góp phần chi viện cho tiền tuyến. Sau 10 năm xây dựng hòa bình, Đảng bộ huyện Hương Sơn đã lãnh đạo nhân dân cơ bản hoàn thành công cuộc cải tạo đối với các thành phần kinh tế: 90%. Đó là thuận lợi rất cơ bản đối với việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến. Lực lượng vũ trang huyện cũng đã lớn mạnh, các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, y tế v.v... đều có những bước phát triển nhanh chóng. Tổ chức Đảng không ngừng được củng cố. Tuy vậy, bước vào thời kỳ mới với những thử thách mới, Đảng bộ huyện Hương Sơn đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Trình độ phát triển của nền kinh tế toàn huyện nói chung còn thấp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn. Sản xuất nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp còn lạc hậu. Đời sống nhân dân còn rất khó khăn, đang ở trong tình trạng “làm chưa đủ ăn”. Thế nhưng trước cuộc chiến tranh phá hoại tàn bạo của kẻ thù, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Hương Sơn với truyền thống bất khuất, quyết xiết chặt đội ngũ, đạp bằng mọi khó khăn, gian khổ, không quản hy sinh, kiên quyết đứng lên chiến đấu với niềm tin bất diệt vào chiến thắng.
170 Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI Đảng bộ huyện (12-1964), dưới sự chỉ đạo tích cực của Ban Chấp hành Đảng bộ, tất cả các địa phương, các cơ quan trong huyện đều xây dựng các phương án phòng không, sơ tán, cứu thương, cứu tài sản và các phương án chiến đấu. Mọi kế hoạch được triển khai nhanh chóng. Lực lượng dân quân, du kích, tự vệ được khẩn trương kiện toàn, củng cố, tăng cường sức chiến đấu. Các đảng bộ, chi bộ phân công thêm nhiều đảng viên bổ sung vào lực lượng vũ trang. Đặc biệt, dân quân, du kích, tự vệ ở các xã vùng biên giới, các xã dọc Đường 8 và Đồn Công an vũ trang 93 được tăng cường cả số lượng, chất lượng, vũ khí, thực hiện trực chiến và tuần tra, canh gác nghiêm ngặt. Các mục tiêu trọng yếu trên các trục đường giao thông, các cơ quan lãnh đạo, kho tàng được chú trọng bảo vệ. Các cơ quan sơ tán khỏi thị trấn và các vùng trọng điểm. Công tác phòng không nhân dân được phát động rộng khắp, được quán triệt đến tận mỗi người dân. Hầm hào được đào khắp nơi, chỗ công cộng, trong các cơ quan, trường học, trạm xá, chợ búa và ở mỗi gia đình. Trước những hoạt động do thám, thả pháo sáng ngày càng tăng của máy bay địch, một bộ phận cán bộ, nhân dân tỏ ra hoang mang, lo lắng. Tuy nhiên, nhờ Đảng bộ huyện làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, công tác tuyên truyền đối với quần chúng nhân dân, và nhất là được sự cổ vũ, động viên của những chiến công mà quân dân cả nước nói chung, và quân dân Hà Tĩnh nói riêng, nên đã có tác dụng củng cố, nâng cao niềm tin vào đường lối chiến tranh, vào sự lãnh đạo của Đảng đối với quân, dân toàn huyện. Đặc biệt, chiến công vang dội của quân dân thị xã Hà Tĩnh trong trận đầu thắng lớn ngày 26-3-1965 và những chiến thắng của quân dân các huyện đã làm nức lòng mọi tầng lớp nhân dân. Ngày 10-4-1965, máy bay Mỹ ném bom đánh sập cầu Nước Sốt trên quốc lộ 8, thuộc địa phận xã Sơn Kim, mở đầu chiến dịch chúng đánh vào giao thông vận tải của Hà Tĩnh, cũng là mở đầu các trận đánh vào địa bàn Hương Sơn. Trong trận đầu, đồng chí trạm trưởng và 3 công nhân trạm giao thông Nước Sốt đã hy sinh. Từ đó, máy bay địch thường xuyên thám thính và bắn phá dọc đường 8. Để kịp thời đối phó với những thủ đoạn của địch, Huyện ủy phát động phong trào bảo vệ đường 8, bảo đảm giao thông vận tải, trả thù cho các chiến sĩ đã hy sinh. Quân, dân toàn huyện hăng hái đẩy mạnh sản xuất, công tác, sẵn sàng chiến đấu. Phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, phong trào “Ba đảm đang” trong phụ nữ
171 phát triển rất mạnh mẽ. Toàn huyện có 2.000 thanh niên hăng hái ghi tên tham gia trận địa bảo vệ Đường 8 và sẵn sàng đi chiến đấu bất kỳ đâu khi mà Đảng và Tổ quốc cần. Đường 8 là con đường huyết mạch đảm bảo chi viện cho chiến trường miền Tây, đi qua Hương Sơn, có 6 cầu lớn và hai bến phà Linh Cảm, Hà Tân là những trọng điểm đánh phá của địch. Bởi vậy, cuối tháng 4-1965, Huyện ủy thành lập 3 chi bộ Đảng và 3 chi đoàn thanh niên ở 3 đơn vị trọng yếu bảo vệ đường 8 (Đại đội cơ động của lực lượng vũ trang huyện, hai đơn vị giao thông ở cầu Nầm và phà Hà Tân). Đồng thời, huyện đã thành lập Đảng ủy quân sự huyện và Đảng ủy giao thông huyện. Ban Đảm bảo giao thông huyện được thành lập, do đồng chí Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện làm Trưởng Ban và đồng chí Bí thư Đảng ủy giao thông làm Phó Ban. Lực lượng đảm bảo giao thông được tăng cường gấp bội, con số lên đến vài ngàn người, gồm 6 cung đường bộ, hợp tác xã vận tải thủy Sông Hương, 1 đại đội thanh niên xung phong và 1 trung đội của Huyện đội là B37. Lực lượng thông tin liên lạc được tăng cường cả người và phương tiện. Ủy ban nhân dân huyện huy động 120 xe đạp giao cho Huyện đội, Bưu điện; một số cơ quan trọng yếu xung quanh huyện và 2 vùng xã biên giới sử dụng. Phòng Bưu điện được trang bị thêm xe con và thành lập thêm trạm bưu điện ở Trưng (Sơn Kim). Lực lượng công an từ huyện đến xã đều được tăng cường cả số lượng và chất lượng, kiện toàn vững mạnh hơn để đủ sức đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội trong mọi tình huống. Lực lượng vũ trang từ bộ đội địa phương đến dân quân tự vệ được trang bị thêm vũ khí và tăng cường luyện tập ngày đêm. Mỗi xã, mỗi cơ quan thành lập 1 đội trực chiến. Đồng chí xã đội trưởng phải là Ủy viên thường vụ Đảng ủy xã và trực tiếp chỉ huy đội trực chiến, được đi huấn luyện bắn máy bay tầm thấp do Tỉnh đội tổ chức ở Cồn Cồ (thị xã Hà Tĩnh). Dân quân, tự vệ luân phiên nhau trực chiến theo 3 hình thức: Trực thường xuyên, trực không thường xuyên, tay cày tay súng. Các xã dọc Đường 8 xây dựng được trận địa bắn máy bay để bảo vệ đường. Các trận địa ở gần biên giới và các trọng điểm giao thông như Khe Kẽm, Hà Tân, Nầm, Choi, Linh Cảm được trang bị khá đầy đủ súng trường và trung liên. Đơn vị tự vệ của Lâm trường Hương Sơn bảo vệ đập Choi gồm cả pháo cao xạ 37 ly.
172 Các mẹ, các chị, thiếu niên, học sinh thường xuyên chăm sóc, động viên, giúp đỡ dân quân tự vệ làm tròn nhiệm vụ trực chiến, giúp đỡ gia đình anh chị em trong việc sản xuất. Lực lượng thiếu niên thường xuyên thay lá ngụy trang cho các trận địa. Phụ nữ tổ chức đem cơm nước ra tận nơi để anh chị em có thì giờ luyện tập và canh giữ bầu trời quê hương. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới nặng nề, để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, vào trung tuần tháng 6-1965, Huyện ủy được Tỉnh ủy cho tăng cường thêm số ủy viên Thường vụ, từ 5 ủy viên lên 8 ủy viên. Các huyện ủy viên phụ trách huyện đội và công an huyện đều được bổ sung vào Ban Thường vụ. Đến tháng 8-1965, Tỉnh ủy điều động đồng chí Đinh Sỹ Nam - Tỉnh ủy viên, làm Bí thư Huyện ủy Hương Sơn thay đồng chí Nguyễn Trương Hà được điều lên tỉnh. Đồng chí Đinh Sỹ Nam kiêm cả chức vụ Trưởng ban quân sự huyện. Đồng chí Đinh Phùng Liễn, Phó Bí thư làm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính. Ủy ban Hành chính huyện cũng được bổ sung thêm 9 ủy viên. Máy bay địch ngày càng đánh mạnh các tuyến đường giao thông. Các địa điểm: Linh Cảm, Nầm, Choi, Hà Tân, Nước Sốt, Khe Kẽm trên Đường 8 bị bom đạn Mỹ chà đi, xát lại thường xuyên, liên tục, nhưng trước hỏa lực tầm cao, tầm thấp dày đặc của ta, chúng chưa đánh trúng mục tiêu. Ngày 17-6-1965, mới sáng sớm, máy bay địch đã đến đánh đập Cơn Trường trong khi dân công và học sinh các trường đang lao động làm 1 giáo viên và 11 học sinh bị chết. Căm thù cao độ trước tội ác man rợ của kẻ thù, bộ đội, dân quân càng quyết tâm bắn rơi máy bay Mỹ để trả thù cho đồng bào và các em học sinh. Tuy vậy, dân quân tự vệ huyện Hương Sơn còn thiếu kinh nghiệm chiến đấu nên hiệu quả còn thấp. Đầu tháng 7-1965, Tỉnh đội mở Hội nghị sơ kết 100 ngày đánh địch, phát động đợt sinh hoạt chính trị tư tưởng trong toàn quân, phê phán các tư tưởng tiêu cực, sợ hy sinh, bắn xua, bắn “vuốt đuôi”, kêu gọi toàn quân noi gương Nguyễn Viết Xuân “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Đợt sinh hoạt chính trị được Huyện ủy lãnh đạo sát sao nên đã có tác dụng nâng cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng cho tất cả các đơn vị. Đồng thời, các đơn vị đều xây dựng được phương án tác chiến và phối hợp tác chiến giữa các đơn vị chủ lực với dân quân tự vệ, giữa các trận địa với nhau, giữa các đơn vị trực chiến với các phân đội dân quân. Các đơn vị ra sức huấn luyện, thực tập theo phương án.
173 Đến hết tháng 7, tất cả các đơn vị trong toàn huyện đều cơ bản hoàn thành chương trình huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và lập công. Sáng ngày 3-8-1965, nhiều tốp máy bay địch từ phía Tây bay dọc đường 8, bất ngờ bổ nhào ném bom xã Sơn Tây. Đúng 9 giờ 15 phút, một tốp 3 chiếc F.105 liều lĩnh lao xuống ném bom cầu Nầm, loạt bom đầu tiên trúng ngay đỉnh cầu. Trung đội dân quân xã Sơn Bằng bảo vệ cầu Nầm gồm có 32 đội viên, với 18 khẩu súng trường, 14 khẩu trung liên do đồng chí xã đội trưởng Đào Huấn chỉ huy đã đồng loạt nổ súng nhằm vào chiếc đầu tiên theo tầm ngắm bắn. Sau loạt đạn thứ 2, chiếc máy bay đầu bốc cháy lao về phía Can Lộc, một chiếc khác bị thương nặng vội vã ném bom và quay đầu ra hướng biển Đông88. Như vậy, với chiến công này, trung đội trực chiến dân quân xã Sơn Bằng trở thành đơn vị đầu tiên của dân quân tự vệ tỉnh bắn rơi máy bay Mỹ và là trận đánh xuất sắc nhất của dân quân tự vệ Hà Tĩnh từ thời điểm ấy trở về trước. Chiến công này đã mở đầu cho phong trào bắn rơi máy bay bằng súng bộ binh của lực lượng dân quân tự vệ trong toàn tỉnh, có sức cổ vũ rất lớn khí thế thi đua chiến đấu, sản xuất của quân dân toàn huyện. Ngày 16-9-1965, Tỉnh đội mở Hội nghị quân sự toàn tỉnh để rút kinh nghiệm bắn máy bay bằng súng bộ binh và phát động đợt thi đua mới. Trung đội trực chiến Sơn Bằng được thưởng cờ Nguyễn Viết Xuân, đồng chí Xã đội trưởng được Chính phủ thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Cuộc chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt. Địch tăng cường, tập trung đánh vào các điểm hiểm yếu trên các trục đường của ta, cắt đứt một số tuyến đường và phá sập các cầu cống chủ yếu. Các chuyến giao thông vận tải, vì thế, nhiều lúc bị ách tắc. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy “địch đánh, ta sửa, ta đi”, Huyện ủy đã lãnh đạo tổ chức lực lượng dân quân thành các đội ứng cứu giao thông, động viên phong trào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Năm tốt” của thanh niên, phụ nữ, phụ lão và nhiệm vụ ứng cứu giao thông; tổ chức chặt chẽ, phân công cụ thể địa điểm ứng cứu. Sau mỗi lần đường, cầu, phá bị đánh phá hỏng, các đơn vị ứng cứu có mặt ngay để kịp thời san mặt đường, lấp hố bom, sửa chữa bến... Một khối lượng lớn đất, đá, rơm, bổi luôn được tập kết sẵn sàng ở các địa điểm xung yếu. Thuyền của hợp tác xã Sông Hương và thuyền của nhân dân địa phương thường xuyên tranh thủ những lúc 88 Một số trận đánh tiêu biểu của lực lượng vũ trang nhân dân Hà Tĩnh (1945-1975). Tập I. Bộ Chỉ huy Quân sự Hà Tĩnh xuất bản năm 1998.
174 yên tĩnh chở đá từ các núi đến các địa điểm tập kết. Dù phải hy sinh tài sản hoặc tính mệnh, nhân dân vẫn không sờn lòng, quyết tâm bảo vệ sự sống còn của đường 8. Khi cầu Nầm bị đánh hỏng, cụ Hồ Khắc Giai ở xóm 2, xã Sơn Bằng đã tự tháo ván thưng nhà cho công trình sửa cầu, và còn có nhiều gia đình, nhiều người dân đã sẵn sàng hiến dâng của cải và xương máu cho sự thông suốt của các tuyến đường. Ngày 12-9-1965, dân quân và nhân dân xã Sơn Bình tập trung chuẩn bị đi lấp hố bom ở đập Choi thì máy bay địch bất thần đánh bom làm 4 người chết, trong đó, có đồng chí Chủ nhiệm hợp tác xã Tân Bình, và 13 người bị thương. Công việc lấp hố bom không vì thế mà đình trệ. Ở miền ngược, Đường 8 đi qua giữa các triền núi cao, hoang vắng, có nơi vách núi gần như dựng đứng, bom đạn địch cày đi xới lại, đất đá hai bên đổ xuống lấp mặt đường. Nhưng cứ mỗi lần máy bay địch đến gần, dù ở gần hay ở xa, lực lượng ứng cứu giao thông đều có mặt kịp thời để thông đường cho xe qua. Ở km 83 thuộc địa phận xã Sơn Kim, có đợt địch đánh phá liên tục 3-4 ngày liền, ta phải huy động tới vài ngàn dân quân cùng thanh niên xung phong và B37, có khi có cả quân viện trợ tỉnh mới chuyển hết đất đá, cây cối để thông đường. Cầu Khe Kẽm nằm gần đó nhờ được ngụy trang kín, lại có sáng kiến làm một cầu giả đổ xuống khe để đánh lừa địch nên đã đứng vững trong suốt 2 cuộc chiến tranh phá hoại của địch. Lợi dụng mùa mưa đến, địch càng đánh phá mạnh, đường bị sụt lở hư hỏng nặng, việc tu sửa không được tiến hành kịp. Mặt trận giao thông vận tải lại gặp khó khăn lớn. Thực hiện chủ trương của Hội nghị Tỉnh ủy (tháng 10-1965) với khẩu hiệu: “Địch đánh, ta cứ đi”. Không kể ngày hay đêm, hễ không có máy bay địch là toàn dân đổ ra đường cùng bộ đội, dân quân, quân chủ lực giao thông làm đường xế, đường tránh, đường ngầm ở tất cả các đoạn xung yếu, cầu, phà. Để phá thế độc tuyến, Huyện ủy quyết định huy động toàn quân, toàn dân làm đường Hàu Hau89. Khẩu hiệu “Địch đánh, ta cứ đi” trở thành hiện thực. Địch đánh đường này, ta đi đường khác. Công nhân giao thông ngày đêm bám đường, bám cầu, bám phà, bám thuyền. Nhân dân gần xa nghe tiếng bom nổ là kịp thời đến ứng cứu. Các trận địa của bộ đội, của dân quân tự vệ luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm, đánh 89 Đường tránh đường 8, nhất là đoạn qua đập Choi, cầu Nầm và các trọng điểm địch phá ác liệt của máy bay Mỹ. Đường đi từ đập Hàu Hau (Sơn Bình đến Sơn Thủy), một nhánh đi về Đức Hương (Đức Thọ), một nhánh đi lên Sơn Phố.
175 đuổi máy bay địch, đảm bảo cho con đường tiếp viện lên phía Tây thông suốt, đảm bảo cho nhân dân sản xuất và công tác. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ càng khơi sâu lòng yêu nước, căm thù của nhân dân ta. Phong trào thanh niên xung phong tòng quân giết giặc diễn ra sôi nổi. Năm 1965, toàn huyện có 9.545 người ghi tên đăng ký vào quân dự bị, xấp xỉ bằng 11,7% dân số, trong đó, có 44,9% đủ điều kiện tuyển chọn. Hơn một nửa số hoặc quá tuổi, hoặc không đủ sức khỏe vẫn hăng hái ghi tên. Nhiều người viết đơn tình nguyện bằng máu xin ra tiền tuyến. Toàn huyện, năm 1965, có 249 người lên đường nhập ngũ, 123 người đi dân công hỏa tuyến, 174 người đi phục vụ giao thông và bưu điện của Bộ Quốc phòng. Đại đa số cán bộ, đảng viên luôn luôn nêu cao tinh thần tiên phong gương mẫu. Lực lượng dân quân, du kích luôn là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyển quân, dân công hỏa tuyến... Nữ thanh niên cũng hăng hái tham gia. Trong 249 tân binh, có 23 đảng viên, 176 đoàn viên, 53 nữ, 89 dân quân. Trong 123 dân công hỏa tuyến, có 29 đảng viên, 11 đoàn viên, 96 dân quân. Đặc biệt, các Đảng bộ xã đã làm tốt công tác giáo dục tư tưởng và thực hiện đúng chế độ, chính sách nên người ra đi phấn khởi, tự nguyện, không sợ hy sinh gian khổ, số người đào ngũ, lạc ngũ của Hương Sơn rất ít90. 2. Đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm giao thông vận tải làm tròn nhiệm vụ chi viện chiến trường, góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ Quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, Đảng bộ huyện hết sức chăm lo lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh sản xuất và công tác. Các hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, du nhập giống mới, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo đồng ruộng, đào đắp mương máng, hoàn chỉnh chỉ tiêu thủy nông. Một số nơi đã chuyển ruộng các vùng thường bị ngập úng từ vụ mùa sang vụ Thu. Nhiều hợp tác xã xây dựng những cánh đồng cao sản hoặc những thửa ruộng cao sản để làm thí điểm. Dân công huyện tiếp tục hoàn thiện đập Cơn Trường. Nhiều xã đắp được nhiều hồ, đập thủy lợi nhỏ như Cây Đa (Sơn Thịnh), Lôi Sen, Đùng Đình, Đập Dọc (Sơn Trường), Bảo Thượng (Sơn Giang), Đông Nậy (Sơn 90 Năm 1965, tổng số dân công đào, lạc ngũ toàn tỉnh là 1024 người, huyện Hương Sơn chỉ có 55 người.
176 Lâm). Nhiều hợp tác xã đạt năng suất lúa cao, đặc biệt, hợp tác xã Đông Hà (Sơn Hà) đã đưa năng suất từ 25 tạ lên 31 tạ/ha, trở thành hợp tác xã dẫn đầu toàn tỉnh. Các hợp tác xã thủ công, mua bán, vận tải... cũng kịp thời chuyển hướng sản xuất phục vụ chiến đấu, phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh. Tháng 3-1965, hợp tác xã vận tải Sông Hương đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ra cầu Cửa Tiền (Vinh) chở 100 tấn gạo cứu đói của tỉnh phân phối cho huyện, mặc dù, dọc đường đi, thuyền hợp tác xã bị máy bay địch đánh phá, 1 công nhân anh dũng hy sinh. Trong suốt những năm tháng chiến tranh ác liệt, hợp tác xã Sông Hương luôn luôn dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, chở hàng đến các điểm tập kết, chở đất đá kịp thời ứng cứu giao thông. Hợp tác xã Mua bán huyện đã không quản vất vả, khó khăn, tổ chức đi tìm nguồn hàng và lấy hàng về phục vụ nhân dân, không vận chuyển được bằng phương tiện cơ giới mà chủ yếu dùng đôi vai gánh hàng men theo các con đường làng kín đáo chẳng kể gần hay xa. Các hợp tác xã phải thường xuyên vào tận Hộ Độ (Thạch Hà), không quản đường xa, biết bao trọng điểm đánh phá ác liệt của địch để mua muối về phục vụ nhân dân. Cuối năm 1965, được đồng chí Bí thư Huyện ủy trực tiếp giao nhiệm vụ, 2 chi ủy viên và 43 cán bộ cơ sở của Hợp tác xã Mua bán huyện đã xung phong đi bộ (17 ngày vượt hàng trăm cây số ra Hà Nội lấy 45 xe đạp Phượng Hoàng, chở 1.800 kg hàng may mặc viện trợ, vượt qua bao nhiêu điểm địch đánh phá ác liệt về đến huyện an toàn. Cũng năm 1965, Hợp tác xã đã hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước. Các ngành y tế, giáo dục, văn hóa... đều chuyển hướng kịp thời sang trạng thái có chiến tranh, không những duy trì được hoạt động mà còn có những bước phát triển mới. Bệnh viện huyện từ chỗ chỉ có 3 khoa đã phát triển thành bệnh viện đa khoa, dời địa điểm vào xã Sơn Phú, đào hầm dựa vào các sườn đồi, khoét sâu vào lòng đất, bảo đảm an toàn cho đội ngũ thầy thuốc và người bệnh. Phòng Y tế và bệnh viện tổ chức các đội cứu thương lưu động, chỉ đạo mỗi trạm xá xã tổ chức 1 đội cứu thương, 1 đội tải thương cấp cứu trong chiến tranh, đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vệ sinh, phòng chống dịch bệnh trong chiến tranh, không để xảy ra dịch bệnh lớn nào.
177 Ngành Giáo dục mở thêm nhiều trường cấp 2 Sơn Diệm, Sơn Hòa, Sơn Hà... ,các trường cấp 1, cấp 2, cấp 3 thu nhận nhiều học sinh từ các đô thị sơ tán về. Các trường tổ chức phòng tránh, phân tán lớp học về các xóm xa nhau, đảm bảo đủ hầm hào cho thầy và trò ẩn nấp. Các lớp bổ túc văn hóa vẫn duy trì nền nếp học tập và tổ chức phong trào thi đua nước hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch 5 năm. Mặc dù khối lượng công việc trong thời chiến tăng lên gấp bội nhưng học viên vẫn vừa trực chiến, vừa sản xuất, vừa đi học. Xã Sơn Lễ là xã dẫn đầu, hoàn thành kế hoạch 5 năm về bổ túc văn hóa, vượt trước thời hạn 1 năm. Toàn huyện đã hoàn thành kế hoạch đúng vào tháng 12-1965, vượt trước thời hạn 5 tháng, xếp thứ 3 toàn tỉnh (sau Cẩm Xuyên và Đức Thọ). Phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” lan rộng khắp thôn xóm, trường học, đến tận các trận địa bắn máy bay. Các loại hình thơ ca, hò, vè được sáng tác phổ biến kịp thời, góp phần tuyên truyền, động viên phong trào thi đua “Hai giỏi” (sản xuất và công tác giỏi, chiến đấu giỏi). Tất cả những điều đó làm cho cuộc chiến đấu của quân dân huyện nhà chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ tuy diễn ra gay go, ác liệt, nhiều hy sinh, mất mát nhưng lại tràn đầy khí phách hào hùng, lạc quan, tin tưởng. Trong năm đầu tiên đụng đầu với không lực Hoa Kỳ, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân vững vàng đánh trả các đợt đánh phá của máy bay địch, làm tốt công tác tuyển quân và huy động dân công phục vụ tiền tuyến. Đồng thời, huyện cũng đã nhanh chóng chuyển hướng mọi công tác từ thời bình sang thời chiến, tổ chức phòng tránh tốt, đảm bảo hoạt động của mọi ngành, mọi mặt vẫn diễn ra bình thường, thậm chí có bước phát triển. Đời sống nhân dân không bị đảo lộn. Ngay trong những tháng ngày đầu của cuộc chiến tranh, quân dân Hương Sơn đã lập nên những thành tích xuất sắc như chiến công bắn cháy 01 chiếc F.105 bằng súng bộ binh của dân quân xã Sơn Bằng, hợp tác xã Đại Hà đạt năng suất lúa cao nhất tỉnh, kế hoạch 5 năm về bổ túc văn hóa hoàn thành vượt thời gian. Được rèn luyện, thử thách qua lửa đạn, từ cấp ủy huyện đến các Đảng bộ, chi bộ cơ sở ngày càng vững vàng thêm nhiều. Số đảng viên khá đầu năm mới chiếm tỷ lệ 46%, giữa năm tăng lên 48% và cuối năm đạt 50% tổng số đảng viên của Đảng bộ. Trong năm 1965, toàn
178 huyện đã kết nạp được 228 đảng viên (trong đó có 84 nữ, 167 thanh niên). Đảng bộ xã Sơn Kim được Tỉnh ủy đánh giá là một Đảng bộ vững vàng trong lửa đạn91. Vấp phải sức đánh trả quyết liệt của quân dân ta, để đánh lừa dư luận thế giới, đế quốc Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam trong 36 ngày, kể từ ngày 24-12-1965 để tỏ “thiện chí hòa bình”(!). Lợi dụng thời gian địch ngừng bắn, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã phát động chiến dịch Tết Quang Trung làm giao thông vận tải. Huyện ủy Hương Sơn đã phát động toàn quân, toàn dân với sự tham gia của hàng vạn người tranh thủ ngày đêm san lấp hố bom, san mặt đường, sửa chữa cầu phà, làm thêm đường mới, đường xế, đường tránh, đường ngầm; đồng thời, sửa chữa, củng cố hầm hào, lán lũy, trận địa, sẵn sàng đánh trả các đợt tấn công mới của quân thù. Mặt khác, Huyện ủy phát động nhân dân trồng thêm nhiều rau màu để phòng chống đói và cung cấp thêm cho các đơn vị bộ đội, các cơ quan, trường học sơ tán trên địa bàn huyện. Cũng như trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hương Sơn lại trở thành một an toàn khu vững chắc của tỉnh trong cuộc chiến đấu mới chống kẻ thù. Lần lượt các trường Bổ túc văn hóa công nông của tỉnh, các Trường Sư phạm cấp 2, Trường Sư phạm bồi dưỡng, Trường Sư phạm mẫu giáo đến đóng đô ở các xã Sơn Trà, Sơn Bình, Sơn Giang, Sơn An, Sơn Hòa, Sơn Tiến, Sơn Tân. Số lượng cán bộ, giáo viên, công nhân viên, học sinh và người nhà đi theo rất đông. Binh đoàn 12 cũng chọn Hương Sơn làm nơi tập kết và huấn luyện quân trước mỗi đợt đi chiến trường. Đảng bộ các cấp đã giáo dục nhân dân nêu cao truyền thống tương thân, tương ái, đón tiếp, giúp đỡ tận tình các đơn vị, xem đây là nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh dự của mình. Nhân dân Hương Sơn không hề tiếc vườn tược, cây cối để các trường dựng lớp học, nhà ở, các đơn vị bộ đội, giáo viên, học sinh về ở trong nhà. Dẫu biết rằng mỗi lớp học, mỗi lán trại, mỗi chỗ giấu xe, pháo là một mục tiêu bắn phá của máy bay Mỹ, mọi người dân, mọi nhà không hề sợ hy sinh, mà chỉ lo ngụy trang thật kín đáo, đảm bảo cho xe, pháo an toàn ra mặt trận. Ngày 31-1-1966, không quân Mỹ trở lại đánh phá miền Bắc với mức độ ngày càng ác liệt. Trong năm 1966, cường độ đánh phá của địch vào Hà Tĩnh gấp 3 lần năm 1965. Riêng ở Hương Sơn, chúng đánh 204 lần (179 lần vào ban ngày, 25 lần vào ban đêm). Có những tháng, chúng đánh liên tục, đặc biệt tháng 4, chúng đánh 26 91 Xã Sơn Kim là xã biên giới của huyện dã có rất nhiều khó khăn, phức tạp (BBT).
179 lần, tháng 8 đánh 43 lần. Rất ít ngày không có tiếng máy bay gầm rít, đêm đêm pháo sáng rực trời. Càng về sau, máy bay địch càng đánh khốc liệt với nhiều thủ đoạn tinh vi, dùng đủ mọi loại bom đạn giết người từ rốc két đến bom phá, bom bi, bom nổ chậm. Từ giữa năm 1967, chúng dùng đến cả bom từ trường, thủy lôi thả khắp các đường giao thông thủy, bộ. Máy bay địch ném bom bừa bãi vào cả vùng dân cư, trường học, bệnh viện. Sau khi gây ra vụ thảm sát 33 em học sinh ở trường cấp 2 Hương Phúc (Hương Khê), ngày 27-5-1966, máy bay Mỹ lại dã man ném bom xuống một lớp 2 của trường cấp I Sơn Thịnh, giết chết 1 bé gái 8 tuổi và làm 1 em khác bị thương nặng. Nhân dân ta và cả thế giới yêu chuộng hòa bình, công lý đều lên án hành động dã man của để quốc Mỹ và lại càng đấu tranh mạnh mẽ ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của chúng ta. Trước những thủ đoạn mới của địch, thời gian đầu, về phía ta còn bỡ ngỡ, lúng túng, phải chịu những thương vong và tổn thất không đáng có. Thế nhưng, dần dần, quân và dân trong huyện đã kịp thời rút kinh nghiệm, khắc phục và vươn lên để chiến thắng. Tháng 3-1966, Tỉnh ủy mở hội nghị cán bộ rút kinh nghiệm sau một năm “đánh thắng giặc Mỹ trận đầu” (ngày 26-3-1965); đồng thời, mở cuộc vận động “Phát huy chiến thắng 26-3, Bình - Hà quyết thắng”. Tiếp đó, Tỉnh ủy chủ trương mở Đại hội “Hai giỏi” từ cơ sở đến tỉnh để động viên phong trào “26-3” tiến lên. Thực hiện chủ trương của tỉnh, Huyện ủy Hương Sơn đã lãnh đạo các đoàn thể, các ngành, các địa phương tiến hành các đại hội “Ba sẵn sàng” của thanh niên, “Ba đảm đang” của phụ nữ, “Năm tốt” của phụ lão, cùng các đại hội “Hai giỏi” của công, nông binh từ cơ sở đến huyện, tạo nên một không khí rầm rộ, sôi nổi trong toàn huyện. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng từ trong Đảng ra ngoài quần chúng được các cấp ủy hết sức coi trọng. Các Đảng bộ tổ chức đảng viên và nhân dân học tập bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đoàn cán bộ Hà Tĩnh ngày 6-7- 196692 và Lời kêu gọi ngày 17-7-1966 của Người: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn 92 Ngày 6-7-1966, tại Hà Nội, đoàn cán bộ Hà Tĩnh do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Xuân Linh dẫn đầu đi thăm quan học tập kinh nghiệm ở tỉnh Thái Bình về, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp và nói chuyện (BBT).
180 độc lập - tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta lại xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”93. Đợt sinh hoạt chính trị “Phát huy chiến thắng 26-3, Bình - Hà quyết thắng” cùng với Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tác dụng nâng cao sức chiến đấu cho mọi người, mọi tầng lớp, cho toàn quân, toàn dân Hương Sơn, đẩy lùi những tư tưởng tiêu cực, hoang mang, dao động trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng. Nhằm hạn chế mức thấp nhất những tổn thất về người và của trước sự đánh phá ác liệt của địch, tháng 6-1966, Huyện ủy ra Chỉ thị số 37 tăng cường công tác phòng không nhân dân, nêu rõ nơi nào vì khinh suất để xảy ra những hy sinh không đáng có, nhất là hy sinh về người thì lãnh đạo nơi ấy phải chịu kỷ luật. Chỉ thị yêu cầu chỉ đạo quân dân làm hầm chữ A thay thế hầm tròn. Nhà nào cũng có hầm kiên cố, người già, trẻ em có thể ngủ trong hầm. Ở cơ quan, ngoài hệ thống hầm chữ A với những hào dẫn từ bàn làm việc đến hầm, có nơi hầm ở sát cạnh bạn làm việc, còn có những nhà hầm tương đối rộng ở dưới mặt đất để cơ quan có thể sinh hoạt. Ngoài đồng ruộng cũng có hầm chữ A cho người sản xuất. Thi hành Chỉ thị 37 của Huyện ủy, các địa phương đã kiên quyết tổ chức sơ tán dân ra xa các vùng trọng điểm bắn phá của địch, chỉ để lại lực lượng dân quân vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, vừa sản xuất. Xã Sơn Long sơ tán dân các xóm Long Hạ, xóm Đồng, xóm Bãi vào tận chân núi Mồng Gà. Xã Sơn Tây triển khai 9 điểm sơ tán dân xa các vùng cầu Hà Rọ, cầu Hà Tân, Voi Bổ, toàn bộ nhân dân vùng Đập Choi (Sơn Hà) đều phải sơ tán... ; các nhà trường phân tán lớp học ra xa nhau, xa các trục đường, các trận địa. Phòng học tuy vẫn làm bằng tranh tre, nứa nhưng có sàn chống bom bi, có lũy đất cao dày che bốn phía, có hào dẫn đến hệ thống hầm chữ A ở ngoại vi. Kỷ luật bắt buộc đối với học sinh là đi học phải đội mũ rơm. Bệnh viện làm nhà hầm ở trong phòng đất để khám, chữa bệnh, đặc biệt là có cả phòng mổ. Chiến thương cũng như nhiều ca phẫu thuật đáng lẽ phải đưa lên tuyến trên, nhưng vì hoàn cảnh chiến tranh nên bệnh viện huyện đã khắc phục khó khăn, đảm đương cả việc phẫu thuật lớn, phức tạp trong điều kiện vô cùng thiếu thốn về phương tiện, kể cả việc vô trùng phòng mổ. Nhưng với quyết tâm và sự say mê sáng 93 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập - Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2003, tập 26, tr 634.
181 tạo, những người thầy thuốc đã làm nên những điều kỳ diệu mà trong điều kiện hòa bình khó có thể có được. Các bến đò ngang đều có hầm hào trú ẩn, bảo đảm an toàn cho khách qua sông. Đảng ủy các xã chỉ đạo các chi bộ ở nơi có bến đò tổ chức bến bảo đảm an toàn cho khách đi lại. Đặc biệt, xã Sơn Long đã thành lập được 1 chi bộ bến đò. Các địa phương cử người đi học rà phá bom nổ chậm, bom TN, lập các đội rà phá bom, phối hợp với công binh để giải phóng đường giao thông, giải phóng đồng ruộng. Rất nhiều tấm gương dũng cảm xuất hiện, điển hình như ngày 1-8-1967, anh Phạm Hân ở xã Sơn Long đã xung phong lặn xuống sông dò tìm và phá được 1 quả bom nổ chậm để thông bến, kịp thời phục vụ một đoàn cán bộ qua phà gấp. Lực lượng vũ trang của huyện thường xuyên được củng cố và tăng cường. Lực lượng quân dự bị được đăng ký lại, tuyển chọn và phiên chế thành quân dự bị 1, quân dự bị 2 và được quản lý chặt chẽ. Đến tháng 3-1966, tổng số quân dự bị toàn huyện đã đăng ký là 6.456 trên tổng số 6.649 nam công dân từ 18 đến 45 tuổi còn sinh hoạt ở địa phương. Tất cả lực lượng này đều gia nhập dân quân tự vệ và hăng hái xung phong tòng quân. Các đợt tuyển quân của Hương Sơn luôn luôn vượt mức quân số và thời hạn. Thanh niên được giáo dục, động viên chu đáo nên khi đã lên đường nhập ngũ luôn làm tròn nhiệm vụ, rất ít trường hợp đào, lạc ngũ. Tháng 10- 1966, Huyện đội thành lập một BR2 đại liên, 1C trung liên 12,7 ly. Tổng số quân có 336 người, sẵn sàng theo lệnh điều động. Các xã còn tổ chức các trung đội lão quân, nữ quân và các đơn vị này cũng rất hăng hái tham gia trực chiến, bắn máy bay. Trong hoàn cảnh chiến tranh, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện rất phức tạp. Ngoài dân cư bản địa, còn có rất nhiều đơn vị cơ quan, trường học, bộ đội đóng trên địa bàn. Kẻ thù lại luôn luôn tìm cách xâm nhập, gây chiến tranh tâm lý, kích động những phần tử xấu chống phá. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân và các lực lượng vũ trang cùng lực lượng công an huyện đã làm tốt công tác trị an, lập nhiều thành tích xuất sắc. Nhờ sự giúp đỡ của quần chúng, ngày 10-5-1966, công an và dân quân xã Sơn Châu đã phát hiện và bắt gọn một toán chuẩn bị vượt biên. Ngày 25-1-1967, gần Tết Nguyên đán, dân quân tự vệ địa phương do đồng chí trưởng phòng tác chiến Huyện đội chỉ huy phối hợp với Đồn Công an nhân dân vũ trang 93 đã mưu trí bắt gọn một toán biệt kích 13 tên, thu toàn bộ vũ khí điện đài. Biết dồn địch vào chỗ hiểm nên cuộc vây bắt diễn ra nhanh gọn,
182 không có đổ máu. Bị bắt quá nhanh, bọn địch không kịp liên lạc với sở chỉ huy của chúng. Dưới sự chỉ đạo của Ty Công an tỉnh, quân và dân Hương Sơn đã lập chuyên án “K50”, bắt bọn này liên lạc về sở chỉ huy, kéo địch ra khỏi hang để bắt thêm nhiều toán biệt kích khác. Kết quả là 7 toán biệt kích liên tiếp sa vào bẫy. Riêng Đồn 93 và dân quân tự vệ, công an Hương Sơn đã bắt gọn 4 toán gồm 62 tên, thu nhiều tang vật. Với những thành tích đạt được trong phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, công an xã Sơn Kim được bình chọn là Lá cờ đầu của công an địa phương Hà Tĩnh, được thưởng Huân chương Quyết thắng. Công an xã Sơn Châu được tặng Bằng khen của Bộ Công an. Đồn 93 Công an nhân dân vũ trang được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 1-1-1967). Trên mặt trận sản xuất, khắc sâu lời dạy của Bác Hồ: Có sản xuất tốt mới chiến đấu tốt, có chiến đấu tốt mới bảo vệ được sản xuất, Huyện ủy xác định phương hướng,chỉ tiêu của huyện là tự túc lương thực cùng các hàng thiết yếu và hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Để thực hiện thắng lợi phương hướng đó, Huyện ủy đặc biệt coi trọng đẩy mạnh công tác thủy lợi. Trong chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn của Tỉnh ủy phát động ngày 1-6-1966, nhân dân toàn huyện đã tích cực làm thủy lợi kết hợp với cải tạo đồng ruộng. Chiến dịch đã diễn ra sôi nổi và giành được thắng lợi chưa từng có. Đập Cơn Trường được hoàn chỉnh, đê Tân Long được nâng cấp. Trên đà thắng lợi đó, huyện mở công trường 26-3, khởi công xây dựng đập Khe Cò. Hệ thống thủy nông Khe Cò dựa trên cơ sở những đập nhỏ đã có từ trước như đập Mạ, đập Toi, được thiết kế xây dựng thành một công trình trung thủy nông, mà đập chính là Khe Cò (địa phận xã Sơn Tiến) bảo đảm tưới 420 ha đất canh tác của các xã Sơn Tiến, Sơn Lễ, Sơn An và Sơn Hòa. Suốt thời gian chiến dịch, 65 đội thủy lợi chuyện nghiệp trên các công trường và 69 đội làm tiểu thủy nông của các xã thi đua nêu cao tinh thần dũng cảm lao động, quyết chiến quyết thắng kẻ thù, ban ngày phải tránh máy bay địch thì ban đêm làm bù. Lực lượng thanh niên thực sự là nòng cốt của chiến dịch. Lực lượng giáo viên, học sinh và cán bộ, công nhân viên các cơ quan đều hăng hái tham gia. Chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn trên địa bàn huyện Hương Sơn diễn ra trong những ngày tháng chiến tranh nên thực sự là một mặt trận gay go ác liệt. Trên các công trình thủy lợi không chỉ có mồ hôi mà phải đổ cả máu của đồng bào, đồng chí...
183 Càng căm thù quân xâm lược, các đội thủy lợi càng dốc sức thi đua không ngừng nâng cao năng suất lao động. Các đơn vị thi công đập Cơn Trường đạt năng suất cao nhất: 248%; tại đê Tân Long 213%, Xài Phố 208%, Khe Cò 184% v.v... Một số đội đạt năng suất chưa từng có như đội Trung Thịnh (Sơn Trung) 620%, Hạ Châu (Sơn Châu) 400%... Tổng kết chiến dịch thủy lợi Bồng Sơn, Hương Sơn là huyện đạt khối lượng và năng suất cao nhất tỉnh, giành Cờ luân lưu của tỉnh. Xã Sơn Long, Đoàn xã Sơn Long dẫn đầu toàn tỉnh, được đại biểu khắp nơi trong tỉnh đến tham quan, học tập và vinh dự được đón Thứ trưởng Bộ Thủy lợi Phan Mỹ về động viên, khen ngợi. Tổng cộng trong hai chiến dịch, huyện đã cải tạo hàng ngàn hécta đồng ruộng, biến các cánh đồng manh mún, mấp mô trước đây thành những “Cánh đồng Bồng Sơn”, “Cánh đồng Nguyễn Văn Bé”, “Cánh đồng thắng Mỹ”... có bờ vùng, bờ thửa thẳng hàng, với đường trục nội đồng vươn thẳng, bảo đảm có nước tưới, từ sản xuất một vụ tiến lên hai vụ ăn chắc. Đây là một cuộc cách mạng cải tạo đồng ruộng chưa từng có và đi đôi với nó là cải tạo được một bước tư tưởng làm ăn manh mún, thủ cựu lâu đời của bà con nông dân, tạo điều kiện để đưa tiến bộ kỹ thuật, đưa các loại giống lúa mới như Ré Quảng, Ré Trầm, Ré Liễu... vào, đưa bèo hoa dâu phủ kín đồng ruộng. Các hợp tác xã bắt đầu sử dụng máy bơm dầu để chống hạn, đầu tiên là Sơn Châu (1966) rồi đến các xã Sơn Hà, Sơn Phố, tiếp theo là Sơn Long, Sơn Mỹ, Sơn Thịnh, Sơn Bình trong những năm sau đó. Năm 1966 là năm thắng lợi lớn trên nhiều mặt, nhất là thủy lợi. Song do thiên tai quá nặng, hạn hán, sâu bệnh liên tiếp nên sản lượng thu hoạch cả năm của huyện không cao, chỉ có vụ Thu được mùa hơn năm trước. Để bù đắp cho những thiếu hụt về lương thực của năm 1966, Huyện ủy đã phát động triển khai chiến dịch “50 ngày lập công dâng Bác” do Tỉnh ủy đề ra từ ngày 26-3-1967 đến 19-5-1967, với 5 mũi giáp công: thủy lợi, phân bón, công cụ, giao thông vận tải và phòng không nhân dân; đồng thời, đẩy mạnh công tác cải tiến quản lý đợt III đang tiến hành ở 70 hợp tác xã nông nghiệp trên tổng số 80 hợp tác xã nông nghiệp toàn huyện. Để có đủ lượng phân bón, Huyện ủy chủ trương vận động nhân dân làm nhà tiêu 2 ngăn, phát triển bèo dâu và đốt vôi. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn huyện đã làm thêm được 8.288 nhà tiêu 2 ngăn, đưa 37 đội sản xuất lên Rú Thần đốt vôi. Thanh niên thi đua làm ruộng nhân giống bèo dâu. Với những biện pháp hữu hiệu
184 đó, vụ Đông Xuân năm 1966-1967 được mùa, năng suất vượt chỉ tiêu kế hoạch (18,1 tạ/ha, chỉ tiêu 18 tạ/ha). Nhiều hợp tác xã đạt năng suất cao (từ 22,5 tạ đến 26 tạ/ha) như các hợp tác xã của Sơn Tân, Sơn Bình, Sơn Châu, Sơn Hà... Đặc biệt, hợp tác xã Đại Hà (Sơn Hà) đạt 28 tạ/ha, dẫn đầu toàn tỉnh. Phong trào chăn nuôi lợn, gà phát triển mạnh, trở thành phong trào “nuôi lợn chống Mỹ”, “nuôi gà chống Mỹ”. Hợp tác xã Thanh Bình (Sơn Bình) tiếp tục giữ vững danh hiệu Lá cờ đầu về chăn nuôi tập thể của tỉnh. Ngoài ra, có 400 hộ miền xuôi với dân lên miền ngược trồng được 2.012 ha “sắn diệt Mỹ”. Chỉ có diện tích lạc, mía và số lượng đàn trâu không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Qua sản xuất và chiến đấu, phong trào các đoàn thể quần chúng tiến bộ đồng đều, nhất là phong trào đoàn thanh niên, với điển hình là Đoàn xã Sơn Long. Phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ diễn ra sôi nổi, điển hình là phong trào phụ nữ xã Sơn Bình. Hội đồng giáo viên trường cấp 1 Sơn Bình gồm toàn nữ nhưng đảm đang hết mọi công việc, trở thành trường tiên tiến của tỉnh, được Thứ trưởng Bộ Giáo dục Hồ Trúc về thăm, động viên khen ngợi và được nhân dân trìu mến gọi tên là “Trường Ba đảm đang”. Trên cơ sở phong trào quần chúng toàn huyện phát triển đồng đều, mạnh mẽ, Ban Thường vụ Huyện ủy chủ trương đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đưa cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, chi bộ “Bốn tốt” tiến lên, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng kịp yêu cầu đòi hỏi của phong trào. Năm 1966, toàn Đảng bộ kết nạp được 339 thanh niên ưu tú vào Đảng. Các Đảng bộ Sơn Châu, Sơn Long, Sơn Bình, Sơn Trường, Sơn Diệm; các chi bộ Long Hạ (Sơn Long), Đại Châu (Sơn Châu), Bệnh viện Hương Sơn, chi bộ 5 (lâm trường Hương Sơn) là những đơn vị dũng cảm, vượt lên mọi khó khăn, ra sức lãnh đạo công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu, phục vụ chiến đấu đạt hiệu quả cao, xứng dáng là những Đảng bộ, chi bộ “Bốn tốt”. Đảng bộ Sơn Diệm luôn luôn lãnh đạo tốt công tác tuyển quân. Đảng bộ Sơn Trường luôn luôn hoàn thành vượt mức chỉ tiêu và thời gian về nghĩa vụ lương thực, thực phẩm và các nông sản khác đối với Nhà nước. Tuy vậy, vẫn còn 50% tổng số Đảng bộ, 45% tổng số chi bộ và trên 30% tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ còn thuộc diện trung bình và yếu kém. Sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng ở một số nơi chưa tốt. Bên cạnh đó, sự đoàn kết, nhất trí trong nội bộ Ban lãnh đạo của huyện cũng chưa thật cao.
185 Do hoàn cảnh chiến tranh, nên tháng 7-1967, Huyện ủy mới triệu tập được Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII. Đại hội tiến hành trong 3 ngày tại xã Sơn Mai. Đánh giá về những thành tích đã đạt được, Đại hội nhận thấy trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và dân huyện Hương Sơn chuyển hướng kịp thời mọi công tác, sinh hoạt từ thời bình sang thời chiến. Vững vàng trong sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, chi viện tiền tuyến và giữ vững mọi mặt công tác, có mặt phát triển mạnh hơn cả trước chiến tranh như thủy lợi, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp đã giải quyết được một phần khó khăn về lương thực cho vùng hạ huyện... Đại hội cũng nghiêm khắc kiểm điểm những tồn tại và yếu kém, tập trung chủ yếu là công tác giao thông quốc phòng, cũng như giao thông nông thôn đều chưa đạt yêu cầu, sản xuất nông nghiệp còn bấp bênh theo thời tiết, kinh tế vườn sút kém, sản xuất công nghiệp bị coi nhẹ v.v... Đặc biệt, Đại hội đã tập trung phân tích những ưu, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết, nhất trí trong Đảng và trong cấp ủy. Trên cơ sở đó, Đại hội nhấn mạnh trong những năm tới phải đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, chi bộ “Bốn tốt”, đảm bảo cho mọi mặt sản xuất và chiến đấu thắng lợi; phải quyết tâm khắc phục những yếu kém trong công tác đảm bảo giao thông vận tải phục vụ quốc phòng và sản xuất; quyết tâm làm tốt hơn, nhiều hơn công tác thủy lợi, phân bón, khai hoang trồng màu, phát triển thủ công nghiệp; đồng thời, hết sức đảm bảo tốt công tác phòng không nhân dân, bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu có hiệu quả trong bất cứ tình huống nào. Mỗi một cán bộ, mỗi một đảng viên cũng như toàn Đảng bộ phải luôn luôn tâm niệm và làm tốt 2 điều: lo cho dân no, lo cho dân sống. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, gồm 25 ủy viên. Đồng chí Đinh Sĩ Nam được bầu lại làm Bí thư. Đồng chí Trần Sỹ94 được bầu làm Phó Bí thư trực Đảng, đồng chí Đinh Phùng Liễn - Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Đại hội lần thứ VII của Đảng bộ huyện Hương Sơn diễn ra trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng đã được đảm bảo an toàn tuyệt đối. Thành công của Đại hội đã củng cố thêm khối đoàn kết, nhất trí trong nội bộ Đảng nói chung và nội bộ cấp ủy nói riêng, có sức cổ vũ mạnh mẽ toàn Đảng, toàn dân huyện Hương Sơn bước vào 94 Đồng chí Trần Sỹ - nguyên Phó Ban công tác nông thôn Hà Tĩnh được tỉnh tăng cường cho Hương Sơn.
186 giai đoạn mới đầy thử thách ác liệt của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Tiếp theo thành công của Đại hội, cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân 2 cấp huyện và xã đã tiến hành thắng lợi. Tuy phấn khởi, tin tưởng trước thắng lợi của Đại hội Đảng và của cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân 2 cấp, nhưng nhân dân Hương Sơn lại phải đương đầu với thiên tai nặng nề liên tiếp ập đến. Trong ba tháng 6, 7, 8 năm 1967, hạn hán diễn ra nghiêm trọng. Trên địa bàn huyện, toàn Đảng bộ tập trung lãnh đạo công tác chống hạn. Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo xã điểm Sơn Châu, từng bước rút kinh nghiệm để đẩy mạnh phong trào toàn huyện. Phong trào chống hạn diễn ra rất sôi nổi, quyết liệt, đạt thắng lợi lớn, cứu được lúa Thu khỏi hạn hán, cấy hết diện tích lúa mùa. Nhưng từ ngày 17-9 đến 25-10-1967, các cơn bão số 6, 7, 8 dồn dập đổ bộ vào địa bàn huyện, trong đó, cơn bão số 7 quá mạnh, gây ra lụt lớn và mưa kéo dài. Đường 8 bị sạt lở nhiều chỗ, phải mất nhiều công sức để sửa chữa. Các đường xá liên thôn, liên xã và nội đồng bị hư hỏng nặng, phải kịp thời hàn gắn; 800 ha lúa thu bị lũ lụt phá hoại hoàn toàn, lúa mùa cũng bị thiệt hại nặng. Trước tình hình đó, để kịp thời khắc phục hậu quả thiên tai, Huyện ủy đã phát động chiến dịch trồng màu bù lúa và đẩy mạnh khai hoang xây dựng quê hương. Cuộc chiến đấu chống thiên tai diễn ra vô cùng quyết liệt, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh. Hơn lúc nào hết, quân và dân Hương Sơn vẫn một lòng tin vào Đảng, phát huy cao độ truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong những lúc khó khăn, hoạn nạn, quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách. Trong gian nan, cán bộ, đảng viên luôn xung phong gương mẫu đi trước, 1.000 lao động từ các vùng xuôi đã lên miền Tây trồng ngô, khoai, sắn và định cư, lập thành các đội sản xuất mới, các hợp tác xã mới ở vùng khai hoang. Một xã mới của huyện, xã Sơn Hồng được thành lập trong thời kỳ này. Các hợp tác xã có người di dân khai hoang đã tổ chức, sắp xếp lại lao động. Hai hợp tác xã của xã Sơn Bình đã hợp nhất lại trở thành hợp tác xã có quy mô toàn xã. Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ khóa VII, Huyện ủy tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo khôi phục và phát triển thủ công nghiệp, quyết định thành lập hợp tác xã cơ khí tách khỏi mộc. Cuối năm 1967, đầu năm 1968, Hợp tác xã Bình Minh được chia làm hai: Hợp tác xã Mộc Hương Phố và Hợp tác xã Cơ khí Thống Nhất. Huyện đã cử 70 thanh niên có trình độ văn hóa cấp II đi học nghề ở trường cơ khí
187 tỉnh để chuẩn bị cho hợp tác xã cơ khí phát triển thành một hợp tác xã thủ công có quy mô lớn nhất huyện. Hợp tác xã cơ khí Thống Nhất đảm nhận việc sản xuất nông cụ cho nông dân toàn huyện. Ngoài ra, ở các địa phương còn phát triển 22 lò rèn nhỏ, chủ yếu là phục vụ sửa chữa nông cụ cầm tay. Các hợp tác xã Minh Thịnh, Minh Sơn, Tiên Tiến của xã Sơn Thịnh cũng được củng cố, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất. Hợp tác xã Minh Thịnh do tìm được thị trường tiêu thụ mành cọ và thảm muồng mới là Liên Xô nên đã bước vào thời kỳ phồn thịnh, phát triển thêm xã viên, tăng cường trang thiết bị. Công việc sản xuất dè cót và đốt lò vôi của hợp tác xã Minh Sơn cũng khá phát đạt... Đời sống của xã viên thủ công nghiệp nhìn chung được nâng cao hơn trước. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trở ngại, nhưng cơ bản, Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, khơi dậy được truyền thống đấu tranh chống thiên tai của nông dân, truyền thống sản xuất của các làng nghề thủ công Sơn Phố, Sơn Thịnh v.v... Tết Mậu Thân (1968), cuộc tổng tấn công và nổi dậy của quân dân ta ở miền Nam đã giáng cho kẻ thù những đòn chí tử. Hòa cùng với không khí phấn khởi, hào hùng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Hương Sơn lại sôi nổi hưởng ứng cuộc động viên chính trị của Trung ương Đảng và phong trào “liên tục tiến công, liên tục nổi dậy” do Tỉnh ủy Hà Tĩnh phát động. Xã Sơn Châu đã khơi dậy được truyền thống, làm sống lại không khí hào hùng của Xô viết năm xưa trong sản xuất và chiến đấu. Trong phong trào thi đua, nhiều xã đã có sự tiến bộ vượt bậc. Xã Sơn Tiến kết nạp thêm được 39 hộ đồng bào Công giáo vào hợp tác xã. Hoảng sợ trước sự lớn mạnh của quân dân hai miền Nam, Bắc Việt Nam, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến dịch “ném bom hạn chế” đối với miền Bắc, tập trung đánh phá dải đất từ Bắc Nghệ An vào Hà Tĩnh hòng dốc toàn lực cắt đứt cuống họng của con đường chi viện từ Bắc vào Nam. Chiến dịch “ném bom hạn chế” của đế quốc Mỹ từ tháng 4 đến tháng 10-1968 diễn ra vô cùng ác liệt. Tất cả bom đạn Mỹ tập trung vào yết hầu của con đường chi viện Bắc - Nam, nhất là bom TN và bom nổ chậm đã gây cho ta những tổn thất lớn về người và của. Tại trọng điểm đập Choi (Sơn Hà), bị máy bay ném bom 24 lần, trong đó gây thương vong lớn nhất là vào lúc 17 giờ, trung tuần tháng 6-1968, máy bay Mỹ ném bom vào trận địa pháo 37 ly ở Cồn Nhoi (Sơn Hà), làm chết 7 người, bị thương 11
188 người.(trong đó có 6 cán bộ, chiến sĩ tự vệ Lâm Trường Hương Sơn hy sinh). Tiếp đó, ngày 21-7-1968, máy bay địch trút bom đạn xuống Sơn Phố gây nên thương vong lớn nhất đối với huyện, làm 21 người chết và 45 người bị thương. Lúc 23 giờ ngày 13-9-1968, chúng ném bom xã Sơn Bình làm cho 5 người bị chết, 17 người bị thương, 1 kho thực phẩm bị cháy mất hàng chục tấn hàng. Hai ngày sau, chúng lại đánh tiếp xuống Sơn Bình, gây thêm cho ta nhiều thiệt hại. Tất cả 7 điểm trú quân của Binh đoàn 12 và các điểm trọng yếu giao thông trong toàn huyện luôn luôn bị máy bay địch dò thám và đánh phá. Trước những thiệt hại ngày càng tăng do địch gây ra, các cấp ủy Đảng đã khẩn trương làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, kịp thời rút kinh nghiệm công tác phòng tránh. Các đoàn thể quần chúng đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, nâng cao lòng yêu nước, căm thù và ý chí chiến đấu cho đoàn viên, hội viên. Công tác phòng không được đẩy lên một bước. Hầm hào được cải tiến vững chắc hơn, có khả năng phòng tránh tốt hơn. Công tác đảm bảo giao thông vận tải tuy có nhiều khó khăn hơn, nhất là trong mùa mưa, nhưng khi việc vận tải bằng cơ giới bị hạn chế thì đã có phương tiện thô sơ thay thế. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy, phong trào giao thông, vận tải nhân dân phát triển mạnh mẽ, sâu rộng. Toàn dân làm giao thông, toàn dân làm vận tải. Huyện ủy đã tổ chức một đội xe đạp thồ gồm 250 chiếc và nhiều đoàn gánh bộ, huy động cả những thuyền con của nông dân hỗ trợ cho lực lượng vận tải thủy của Hợp tác xã Sông Hương. Lực lượng dân công ngày đêm sửa chữa, nâng cấp, làm thêm đường liên thôn, liên xã, liên huyện, phục vụ cho các đoàn vận tải đi lại dễ dàng. Đồng thời, huyện giao nhiệm vụ cho các xã dọc theo Đường 8 từ xã Sơn Bằng trở lên làm nhiều kho dã chiến để tập kết hàng từ các tỉnh phía Bắc vào. Chỉ trong vòng 10 ngày, 16 xã đã làm được 48 kho, ngụy trang kín đáo trong các vườn cây rậm rạp của nhân dân. Đánh hơi được kế hoạch đó, máy bay Mỹ liên tục hoạt động thám thính và bắn phá vào bất cứ chỗ nào chúng nghi là chân hàng, là trận địa hay là chỗ trú quân của ta. Sự hy sinh, chịu đựng của nhân dân các vùng có điểm cất giấu hàng, cất giấu xe, pháo, hoặc trú quân, thật là vô bờ bến. Mặc dù, phải chịu nhiều tổn thất về người và của, nhưng người dân Hương Sơn vẫn không hề do dự, vẫn sẵn sàng đưa đón quân đi, quân về, chặt tre, gỗ, lá trong vườn của nhà để làm kho, để ngụy trang v.v... Càng về sau, do có thêm nhiều kinh nghiệm ngụy trang,
189 phòng tránh, nên đã hạn chế được nhiều tổn thất. Kẻ thù không thể nào ngăn chặn được các con đường chi viện của miền Bắc nói chung, cũng như của quân, dân Hương Sơn nói riêng cho mặt trận. Hàng hóa, vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm... ngược Đường 8, ngược sông Ngàn Phố, theo các ngả đường, từng chặng, từng chặng ngắn trên vai người dân công, trên những chiếc xe đạp thồ, các thuyền nan, thuyền con vượt qua các bãi bom nổ chậm, bom từ trường, ngày đêm miệt mài không nghỉ hướng về Nam hoặc qua nước bạn Lào phục vụ các chiến dịch. Không chỉ đảm bảo thông đường cho hàng ra mặt trận, Đảng bộ huyện còn lãnh đạo quân và dân hoàn thành tốt mọi nghĩa vụ của hậu phương đối với tiền tuyến. Ngày 24-7-1968, theo lệnh của Sở chỉ huy tiền phương, một trung đội trinh sát và một trung đội dân công Hương Sơn đã lên đường sang giúp bạn chuẩn bị chiến trường Bô-ly-khăm-xây. Mặc dù, chiến dịch tiến hành trong điều kiện khó khăn (ở Lào đang là mùa mưa), lại thường xuyên bị bọn phỉ quấy phá, nhưng dân công và bộ đội ta đã hoàn thành công tác chuẩn bị để cho quân chủ lực của bạn và của ta tác chiến. Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt từ ngày 27-10 đến 29-10-1968, tuy chưa giải phóng được Bô-ly-khăm-xây, nhưng đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí. Trong năm 1968, nhân dân Hương Sơn còn lần lượt đón hàng ngàn con em của nhân dân ở Vĩnh Linh, Quảng Bình sơ tán theo kế hoạch K8, tạm dừng chân nghỉ ngơi trước lúc tiếp tục đi ra Bắc. Các mẹ, các chị đã đón các cháu về từng gia đình, ân cần chăm sóc như con em ruột thịt của mình. Đặc biệt, Huyện ủy Hương Sơn đã lãnh đạo tổ chức tốt công tác tuyển quân và huy động dân công phục vụ hỏa tuyến. Năm 1968, là năm huy động rất lớn, riêng tuyển quân chỉ tiêu huy động gấp 2 lần chỉ tiêu hai năm 1966 và 1967 cộng lại. Về thành tích tuyển quân 4 năm (1965-1968) huyện Hương Sơn đã được Tỉnh đội ghi nhận “Hồi hòa bình, huyện Hương Sơn và xã Sơn Diệm của Hương Sơn là những Lá cờ đầu của tỉnh về công tác tuyển quân. Trong 4 năm chống Mỹ cứu nước, các đơn vị ấy đã phát huy và giữ vững truyền thống. Xã Sơn Diệm được thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Lại có thêm nhiều đơn vị xuất sắc khác như Sơn Bình, Sơn Thịnh, Nông trường Tây Sơn v.v... Toàn tỉnh có 62 xã không có người đào lạc
190 ngũ thì ở Hương Sơn đã chiếm 21 xã”95. Ngày 21-8-1968, Hà Tĩnh vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất về thành tích và chính sách hậu phương. Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn vô cùng tự hào vì đã góp phần rất lớn và thành tích chung ấy. Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam, Bắc, lại bị sự lên án mạnh mẽ của dư luận tiến bộ trên thế giới, đêm 31-10-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt vô điều kiện việc đánh phá miền Bắc Việt Nam từ ngày 01-11 - 1968 và chấp nhận ngồi đàm phán với ta tại Pari. Cuộc chiến đấu của Đảng bộ, quân dân Hương Sơn chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ giành nhiều thắng lợi, góp phần vào thắng lợi chung của cả nước. Trải qua hơn 4 năm với biết bao gian khổ, hy sinh, Đảng bộ huyện Hương Sơn đã lãnh đạo quân dân toàn huyện từng bước vượt qua những thử thách ác liệt chưa từng thấy của cuộc chiến tranh, kịp thời chuyển hướng mọi hoạt động từ thời bình sang thời chiến, xây dựng và củng cố tiềm lực mọi mặt của địa phương, đương đầu và đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù. Trong những năm tháng đó, cùng với sự đánh phá của địch là những trận thiên tai liên tiếp, gây cho ta nhiều khó khăn và cả những sự lúng túng trong thời gian đầu. Thế nhưng, nhờ biết vận dụng sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện đã tổ chức lãnh đạo, duy trì phong trào mọi mặt của huyện trong thế ổn định, không những không để xảy ra những sự xáo trộn đột biến, mà một số mặt còn có sự chuyển biến khá hơn trước chiến tranh. Đời sống của nhân dân trên địa bàn nhìn chung được ổn định. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Đảng bộ huyện Hương Sơn đã lãnh đạo quân dân phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng và truyền thống quật khởi của quê hương, từng bước vươn lên rút kinh nghiệm qua từng trận đánh để lập nên nhiều chiến công vẻ vang. Trải qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, Đảng bộ đã được tôi luyện và trưởng thành thêm một bước. Hầu hết cán bộ, đảng viên đều nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu, có mặt ở những nơi khó khăn gian khổ, ác liệt nhất để hoàn thành nhiệm vụ của mình. 95 Báo cáo tổng kết 4 năm tuyển quân (1965-1968) của Tỉnh đội Hà Tĩnh. Lưu tại Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh.
191 Bên cạnh những thành tích cơ bản trên, trong lãnh đạo cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, Đảng bộ huyện cũng còn bộc lộ một số hạn chế. Trước sự đánh phá ác liệt của kẻ thù, nhất là thời gian đầu của cuộc chiến tranh, một bộ phận cán bộ, đảng viên còn dao động, lúng túng. Công tác đảm bảo giao thông vận tải nhiều khi còn bị ách tắc, hiệu suất chiến đấu trong buổi đầu còn thấp. Các ngành kinh tế của huyện phát triển chưa đồng đều, có mặt còn bị giảm sút so với trước. Công tác xây dựng Đảng tuy có nhiều cố gắng và đạt được một số thành tích nhất định, song nhìn chung, Đảng bộ vẫn chưa thật sự ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Từ những thành công và cả những khó khăn, tồn tại của phong trào toàn huyện trong những năm 1965-1968, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu để tiếp tục vươn lên giành nhiều thành tích xuất sắc hơn trong những năm tháng tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. II. KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, ĐÁNH THẮNG CUỘC CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (11/1968 - 1/1973) 1. Khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế-xã hội, tiếp tục chi viện cho chiến trường Tranh thủ thời cơ, từ ngày 01-11-1968, đế quốc Mỹ tạm ngừng ném bom, đánh phá miền Bắc nước ta. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, ngày 16-11-1968, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra Nghị quyết “Thừa thắng xông lên, khẩn trương thực hiện tốt những nhiệm vụ cần kíp trước mắt”. Huyện ủy Hương Sơn đã tổ chức học tập và triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, trước tiên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, làm cho mọi người nhận thức đầy đủ về thắng lợi to lớn của quân, dân ta, âm mưu của địch và tình hình nhiệm vụ mới của toàn Đảng, toàn dân. Công tác giáo dục tư tưởng của Đảng bộ tập trung làm cho mọi người quán triệt Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Hễ còn một tên xâm lược nào trên đất nước ta thì còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”. Đế quốc Mỹ đã ngừng ném bom đánh phá miền Bắc, nhưng chừng nào chúng còn chưa rút khỏi nước ta thì chúng chưa từ bỏ âm mưu đánh phá để cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Chính vì
192 vậy, Đảng bộ chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, củng cố và tăng cường lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, làm tốt công tác đảm bảo giao thông phục vụ chiến trường, đồng thời, ra sức khôi phục, phát triển sản xuất để giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm... Từ trong chiến tranh ác liệt bước ra, tuy chưa phải đã có hòa bình thật sự, nhưng không khí thi đua công tác, sản xuất của huyện đã sôi nổi hẳn lên. Thêm vào đó, vào những tháng cuối năm 1968, đầu năm 1969, lại có nhiều đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong Đảng, trong hợp tác xã, trong nhân dân. Đó là cuộc vận động “Không ngừng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn”, tiếp tục xây dựng Đảng bộ, chi bộ “Bốn tốt”, cuộc vận động chấn chỉnh công tác quản lý tư liệu sản xuất và khoán trong hợp tác xã nông nghiệp và tuyên truyền phổ biến điều lệ hợp tác xã; cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân hai cấp huyện và xã vào tháng 4- 1969; cuộc sinh hoạt báo công, bình công chống Mỹ, cứu nước từ các tổ công tác, tổ sản xuất lên đến đại hội báo công, bình công toàn tỉnh. Hương Sơn lại vinh dự được chọn làm nơi tổ chức Đại hội liên hoan chiến sĩ công nông binh toàn tỉnh. Đại hội đã khai mạc vào ngày 31-3-1969 tại xã Sơn Hàm, có hơn 1.000 chiến sĩ “Hai giỏi” ưu tú khắp nơi trong tỉnh về dự. Trong không khí tưng bừng của những sự kiện lịch sử ấy, nhân dân Hương Sơn tích cực hưởng ứng phong trào 3 mũi tiến quân: giải phóng giao thông, mở rộng diện tích canh tác, đào đắp thủy lợi nội đồng. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, với lực lượng dân quân làm nòng cốt, các hợp tác xã thi đua phục hồi ruộng đất hoang hóa, rà phá bom chưa nổ, gieo cấy hết diện tích Đông Xuân. Đặc biệt, huyện đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phong trào làm cỏ, sục bùn, chăm sóc lúa, nên vụ đông xuân 1968-1969 đã đạt được năng suất cao (17,42 tạ/ha). Hạn chế chủ yếu trong nông nghiệp là phong trào thủy lợi vẫn còn yếu, chỉ mới đạt 30 – 40% so với cùng kỳ năm trước. Mặt khác, do bị sâu đạo ôn và tiềm lửa phá hoài nên năng suất lúa đông xuân Hương Sơn mới chỉ đứng thứ hai toàn tỉnh, sau Đức Thọ96. Tất cả các hợp tác xã nông nghiệp của huyện chuyển lên bậc cao, có những hợp tác xã quy mô toàn xã. Tuy nhiên, do công tác quản lý còn yếu kém, nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh, nhất là những hợp tác xã quy mô lớn gặp rất nhiều khó khăn, đoàn kết nội bộ giảm sút. Trong hoàn cảnh như vậy, hợp tác xã Đại Bình (xã Sơn Bình) lại phải chia 96 Năng suất Đức Thọ 18,5 tạ/ha. Năng suất bình quân toàn tỉnh 15,3 tạ/ha.
193 thành hai hợp tác xã: Thành Bình và Đông Hòa như trước. Để giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, Huyện ủy dã lãnh đạo các địa phương kết hợp việc tuyên truyền phổ biến Điều lệ hợp tác xã với việc “chấn chỉnh 3 khoán và quản lý ruộng đất”. Nhờ đó, một số hợp tác xã đã hoàn thành công tác kiểm kê, quyết toán đúng thời hạn, hạn chế phần nào những tiêu cực trong ăn chia phân phối, trong quản lý ruộng đất, quản lý tài vụ... Đi đôi với công tác cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, Huyện ủy cũng quan tâm lãnh đạo việc quản lý vật tư hàng hóa, quản lý thị trường. Sau khi đã phát triển đều khắp mạng lưới các cửa hàng mua bán ở tất cả các xã trong huyện từ năm 1963, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường. Có lúc, trên địa bàn huyện hầu như chỉ còn tồn tại thị trường XHCN, không còn quán hàng của tư thương. Trong những năm chiến tranh ác liệt, hợp tác xã mua bán đã đưa hàng đến tận người tiêu dùng, giải quyết những nhu cầu thiết yếu của bộ đội, của nhân dân, của các cơ quan, trường học sơ tán đến, của các lâm trường, nông trường Trung ương đóng trên địa bàn. Cán bộ hợp tác xã mua bán tận tụy, hy sinh phục vụ nhân dân. Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, thị trường có tổ chức do ngành mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán độc quyền nắm như thế, không thể đáp ứng đầy đủ được việc lưu thông hàng hóa, nhất là các hàng nông nghiệp, làm ảnh hưởng nhiều đến đời sống và sản xuất của nông dân. Mặt khác, những tiêu cực trong công tác quản lý thị trường ngày càng tăng lên đã tha hóa mất nhiều cán bộ, đảng viên, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân. Một số nơi đã xảy ra tình trạng tham ô như ở hợp tác xã mua bán Sơn Hòa, Sơn Tây, Sơn Trung... Không thể để kéo dài những hiện tượng tiêu cực đó, nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín, bản chất tốt đẹp vốn có của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Huyện ủy đã kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết ngày 17-3-1969 của Tỉnh ủy mở đợt vận động chống ăn cắp, đầu cơ, buôn bán vật tư hàng hóa và tăng cường một bước quản lý thị trường. Cuộc vận động diễn ra khá sôi nổi kết hợp với phong trào bảo vệ trật tự XHCN, trị an, xây dựng xã quyết thắng về an ninh trật tự. Những vụ tham ô lớn được xử lý nghiêm minh đã có tác dụng thúc đẩy phong trào thi đua trong ngành mua bán. Nhiều cửa hàng đã xây dựng được phong trào tổ lao động XHCN như Sơn Kim, Sơn Lĩnh, Sơn Châu, Sơn Diệm, Sơn Bằng, Sơn Long, Sơn Thịnh... Các xã trong huyện đều đảm bảo tốt an ninh, nhiều xã đạt danh hiệu Quyết thắng. Xã Sơn
194 Kim được công nhận là đơn vị tiên tiến xuất sắc, xã Sơn Châu là xã quyết thắng tiêu biểu về an ninh trật tự của toàn tỉnh. Đồng thời với việc triển khai đồng đều và liên tục các cuộc vận động chính trị, vận động sản xuất trong quần chúng nhân dân, Đảng bộ tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng Đảng bộ và chi bộ “Bốn tốt” bằng việc triển khai thực hiện Nghị quyết ngày 31-1-1969 của Tỉnh ủy: “Không ngừng nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng trong tình hình mới”. Việc triển khai Nghị quyết được tiến hành trong 103 chi bộ toàn huyện. Huyện ủy lập các đoàn cán bộ xuống giúp các Đảng bộ và chi bộ đang gặp nhiều khó khăn trong lãnh đạo, chỉ đạo phong trào như quy mô hợp tác xã nông nghiệp quá lớn, quản lý bất cập, có nhiều tiêu cực cần phải chia nhỏ, hoặc tình trạng lấn chiếm ruộng đất nghiêm trọng, hoặc có hiện tượng tham ô trong hợp tác xã mua bán v.v... Một số cấp ủy yếu kém đã được kiện toàn, các đoàn thể quần chúng cũng được củng cố. Chính quyền huyện, xã cũng được kiện toàn qua bầu cử Hội đồng Nhân dân và bầu cử Uỷ ban Hành chính. Trong đợt sinh hoạt lớn này, Huyện ủy đã đấu tranh, củng cố nâng cao sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ để xây dựng Huyện ủy “Bốn tốt”, một vấn đề lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Để giúp Huyện ủy có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tăng cường sự đoàn kết, nhất trí nội bộ, Tỉnh ủy đã điều động đồng chí Đinh Sỹ Nam – Bí thư và đồng chí Đinh Phùng Liễn - Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện đi nhận nhiệm vụ khác ở tỉnh. Đồng chí Trần Sỹ, nguyên Phó Bí thư trực Đảng được bầu làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đào Thị Vượng - Ủy viên Thường vụ Huyện ủy, nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chính huyện được bầu làm Chủ tịch. Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời - một tổn thất vô cùng to lớn đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Biến đau thương thành hành động cách mạng, Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã ra Nghị quyết đặc biệt, phát động “Phong trào 3-9”, đồng thời, mở 3 cuộc vận động lớn: lao động sản xuất; tăng cường chế độ làm chủ tập thể; nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp “lớp đảng viên Hồ Chí Minh”. Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo toàn dân “Học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, và sôi nổi hưởng ứng các đợt thi đua và các cuộc vận động của tỉnh. Cuộc chiến tranh phá hoại của địch tuy đã chấm dứt, nhưng bom đạn do chúng reo giắc vẫn còn vương vãi khắp nơi, thỉnh thoảng lại gây thương vong cho
195 các đội công tác rà phá, cũng như cho người sản xuất. Lực lượng công binh, dân quân, nhất là thanh niên không quản ngại hy sinh, dũng cảm giải phóng đồng ruộng. Những giống lúa xuân Trân Châu, Nông nghiệp 8 được du nhập vào. Đặc biệt, phong trào làm bèo dâu phát triển mạnh chưa từng có. Hợp tác xã nào cũng có ruộng nhân giống bèo dâu do thanh niên đảm nhiệm. Công tác thủy lợi được đẩy mạnh hơn. Huyện đã hoàn thành công trình trung thủy nông Khe Cò và 11 hồ đập nhỏ khác. Máy bơm dầu phát triển lên tới 15 cái. Bờ vùng, bờ thửa, mương máng được kiến thiết và củng cố. Trên 1.000 ha đất canh tác được xây dựng hoàn chỉnh theo quy hoạch và gần 3.000 ha đã được chủ động tưới tiêu trong điều kiện hạn vừa. Sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân dưới sự lãnh đạo sát sao của huyện Đảng bộ trong “phong trào 3-9” để đền đáp công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa lại thắng lợi lớn: vụ lúa Xuân đạt năng suất cao (trung bình toàn huyện là 28 tạ/ha). Riêng hợp tác xã Đại Hà (Sơn Hà) đạt năng suất 40,8 tạ/ha, dẫn đầu toàn tỉnh. Nhiều hợp tác xã khác đạt năng suất cao như hợp tác xã Hương Mỹ (Sơn Mỹ) đạt 34,7 tạ/ha, hợp tác xã Đại Châu (Sơn Châu), Đông Hòa (Sơn Bình) đạt trên 30 tạ/ha. Tuy vậy, cuộc chiến đấu chống thiên tai trên mặt trận sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn còn nhiều khó khăn. Vụ Đông Xuân năm 1969-1970, do bị hạn hán, mưa rét và sâu bệnh nên diện tích toàn huyện giảm 144 ha lúa và 200 ha lạc, sản lượng lương thực năm 1970 chỉ bằng 67,6% năm 1965. Bình quân mức ăn nhân khẩu sụt xuống từ 216 kg năm 1965, nay còn 156 kg. Trong mấy năm trở lại đây, chăn nuôi liên tục có chiều hướng giảm sút. Chăn nuôi tập thể của hợp tác xã thua lỗ khiến nhiều hợp tác xã phải giải tán trại. Từ chỗ toàn huyện có 83 trại chăn nuôi tập thể trước đây, nay chỉ còn lại 48 trại (26 trại nuôi lợn, 22 trại nuôi bò). Đàn bò từ 15.000 con (năm 1965) còn lại 12.732 con. Trước những vấn đề nổi cộm trong sản xuất nông nghiệp, Huyện ủy đã ra Nghị quyết kêu gọi toàn dân nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy tinh thần chiến đấu trong chống Mỹ vào lao động sản xuất, giúp nhau đẩy mạnh sản xuất và tổ chức đời sống, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhân dân toàn huyện đã vượt qua khó khăn, giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau, không để nạn đói xảy ra và không những làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, mà còn vượt mức nhiệm vụ tạm thu vụ chiêm.
196 Huyện đã thành lập đội thanh niên xây dựng quê hương, quân số toàn huyện từ 1.000 đến 1.110 người; tập trung làm thủy lợi, thay đổi cơ cấu giống lúa, quyết tâm giành những vụ lúa bội thu. Nhờ quyết tâm của toàn Đảng bộ và toàn dân, lại gặp năm thời tiết thuận hòa, vụ Đông Xuân 1970-1971 được mùa lớn. Tổng sản lượng lúa đạt 10.000 tấn, tăng hơn vụ đông xuân trước 3.000 tấn. Trong sản xuất, Huyện ủy coi trọng việc phát triển màu. Khoai lang đạt năng suất cao; sắn tăng cả diện tích, năng suất, sản lượng, trước Đại hội Đảng bộ năm 1967 mới có 412 ha, đến năm 1970, đã có 1.008 ha, gấp 2,4 lần. Sản lượng màu quy thóc năm 1970, đạt 1.400 tấn, gấp 2,7 lần thời kỳ 1968 - 1970. Vụ lạc xuân 1971 cũng giành được thắng lợi lớn. Diện tích và năng suất đều tăng, tổng sản lượng đạt 733 tấn, gấp 2,8 lần năm 1965. Công tác trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng của huyện cũng có nhiều tiến bộ. Trong 4 năm (1968-1971), toàn huyện đã phủ xanh được 132 ha đồi trọc, xây dựng được 32 tổ trồng cây chuyên nghiệp và năm nào cũng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch khai thác gỗ. Vùng chè công nghiệp Sơn Thọ hàng năm đều mở rộng diện tích... “Phong trào 3-9” và cuộc vận động lao động sản xuất trên lĩnh vực thủ công nghiệp cũng diễn ra rất sôi nổi và thu được nhiều thắng lợi. Từ sau Đại hội Đảng bộ năm 1967, Huyện ủy ngày càng quan tâm hơn đến sản xuất thủ công nghiệp. Cuối năm 1969, Hợp tác xã cơ khí Thống Nhất dời địa điểm từ Sơn Trung lên Sơn Phố, ở vùng Chùa Cao, được Ngân hàng Đầu tư cho vay vốn, được Ty công nghiệp trang bị thêm nhiều máy móc: từ máy phát điện 30,4 KVA của Đức, máy tiện, máy búa cho đến các máy công cụ nhỏ. Chi bộ Đảng của Hợp tác xã được củng cố. Tổng số đảng viên của chi bộ lên đến 18 người, thực sự là những hạt nhân lãnh đạo phong trào thi đua “Nhiều, nhanh, tốt, rẻ” của hợp tác xã. Những năm 1970, 1971 thực sự là thời kỳ phát đạt của Hợp tác xã, năm nào cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất. Sản phẩm chủ yếu của hợp tác xã là dụng cụ cầm tay phục vụ sản xuất nông nghiệp và phục vụ quốc phòng của huyện với chất lượng đảm bảo. Ngoài ra, Hợp tác xã còn sản xuất một số sản phẩm phục vụ yêu cầu của bạn Lào. Các hợp tác xã Minh Sơn, Minh Thịnh cũng bước vào thời kỳ làm ăn phồn thịnh, thu hút hơn 50% lao động của xã Sơn Thịnh và còn giải quyết một phần việc làm cho con em xã viên nông nghiệp lúc nông nhàn, đóng góp tới một nửa ngân sách của xã. Hai năm 1971, 1972, Minh Thịnh là Lá cờ đầu ngành xuất khẩu Hà Tĩnh,
197 Minh Sơn cũng là Lá cờ đầu của ngành vật liệu xây dựng tỉnh. Các lò rèn ở địa phương, các ngành nghề khác như mộc, đan lát... cũng có bước phát triển. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân ổn định và có phần được cải thiện; hình thức hợp tác xã tín dụng cũng phát triển. Số dư tiết kiệm năm 1972 của Hương Sơn đạt cao nhất tỉnh, bình quân đầu người 39,53 đồng, vượt bình quân của tỉnh 10 đồng. Các ngành tài mậu, mua bán của huyện đều đảm bảo kế hoạch mua vào và bán ra, nhất là luôn luôn đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tuy nhiên, sự phát triển sản xuất chưa xứng với tiềm năng của huyện. Bên cạnh đó, các hiện tượng tiêu cực lại có xu hướng gia tăng do công tác quản lý hợp tác xã còn rất nhiều bất cập. Đến thời điểm này, toàn huyện có 83 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 97% họ nông dân tham gia, 95,6% hộ đã vào hợp tác xã cấp cao, chỉ còn 0,4% hộ vào hợp tác xã cấp thấp; 7 hợp tác xã có quy mô toàn xã. Theo kết quả điều tra, trong 8 hợp tác xã bao gồm Đại Hà (quy mô toàn xã), Trung Tiến, Hồng Thủy, Đại Thịnh, Hạ Giang, Diệm Hồng, Hưng Phú, Đại Châu, cho thấy tình trạng lấn chiếm ruộng đất hoặc đổi chác, mua bán ruộng đất xảy ra khắp nơi, tập thể lấn chiếm, cá nhân (trong đó có cả đảng viên) lấn chiếm. Ruộng đất bị bỏ hoang hóa còn khá nhiều. Trong 3 năm liền (1969-1971), 8 cơ sở đã bỏ hoang hóa hơn 20,6 ha97. Việc quản lý tài sản, tài vụ được khoán trắng cho một số cán bộ nên xảy ra tình trạng thu chi bừa bãi, bất hợp lý, tham ô của công, lãng phí vật tư. Riêng việc lãng phí vật tư, tiền vốn, tài sản đã gây hao tổn cho 8 cơ sở trên 65.922 đồng, trong đó, có 18.493 kg thóc tính thành tiền. Vốn liếng của hợp tác xã ngày càng sa sút, nợ nần ứ đọng. Kế hoạch tài vụ không rõ ràng, tùy tiện. Nhất là tình trạng lãng phí lao động, tình trạng rong công, phóng điểm khá phổ biến, thưởng phạt không công minh, người tích cực, thành thạo nghề cũng như người yếu kém, nên không phát huy được tính tích cực và khả năng của xã viên. Tổ chức hợp tác xã đã phát huy vai trò, tác dụng rất lớn trong việc kiến thiết lại đồng ruộng, làm thủy lợi, tạo bước chuyển biến mới về giống, cách mạng kỹ thuật, nêu cao truyền thống đoàn kết tương trợ trong thôn xóm. Đặc biệt là nếu không có hợp tác xã thì tất yếu việc huy động nhân tài, vật lực phục vụ kháng chiến sẽ không thực hiện được kịp thời, đầy đủ. Nhưng do việc tổ chức hợp tác xã chưa 97 Toàn huyện có gần 200 ha ruộng đất bị bỏ hoang hóa.
198 thực sự đúng theo Điều lệ, do việc quản lý còn quá nhiều thiếu sót, tồn tại, nên sinh ra rất nhiều tiêu cực trong sản xuất và đời sống. Thực hiện cuộc vận động “Phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên”, kết hợp với việc tuyên truyền, phổ biến Điều lệ hợp tác xã nông nghiệp năm 1969, cùng với cuộc vận động “Chống ăn cắp, đầu cơ, buôn lậu và tăng cường một bước về quản lý thị trường”, Huyện ủy đã tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề như: Tổ chức Đảng trong quản lý hợp tác xã nông nghiệp, chuyên đề về công tác quản lý thị trường v.v... kiên quyết chỉ đạo các Đảng bộ, chi bộ địa phương, cơ quan, trường học thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy. Đến hết năm 1972, cuộc vận động phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên đã được tiến hành đều khắp ở tất cả các hợp tác xã trong toàn huyện và thu được những kết quả bước đầu. Các hợp tác xã đã kiểm kê xong tài sản, tài chính. Một số vụ tham ô, lấn chiếm ruộng đất được giải quyết. Nhìn chung, bà con xã viên phấn khởi, tin tưởng hơn. Tuy vậy, những mâu thuẫn cơ bản trong quá trình phát triển hợp tác xã vẫn không được giải quyết triệt để. Tuy tư liệu sản xuất đã tập thể hóa, hợp tác xã nắm quyền kinh doanh phân phối, nhưng tư tưởng và phong cách làm ăn tiểu nông, cá thể vẫn tồn tại nặng nề trong mỗi người từ cán bộ đến xã viên. Điều kiện để sản xuất tập thể và quản lý sản xuất tập thể chưa có hoặc chỉ mới có tiền đề, chưa đủ để cho sản xuất tập thể, sản xuất lớn phát triển. Những mâu thuẫn ấy đã làm cho công tác quản lý hợp tác xã vấp phải khó khăn này đến khó khăn khác. Tình trạng đó làm cho một bộ phận xã viên vẫn mang tư tưởng “chân trong, chân ngoài” chỉ lo làm ăn riêng lẻ, tập trung chăm sóc kinh tế vườn, một nguồn thu nhập đáng kể của nông dân Hương Sơn. Nhìn một cách tổng quát, nền sản xuất nông nghiệp của Hương Sơn đang ở thế độc canh, phân tán là phổ biến, do đó, Tỉnh ủy Hà Tĩnh chỉ rõ: “Nền sản xuất nông nghiệp của Hương Sơn phát triển chậm”, “kinh tế vườn của Hương Sơn sụt”, “tác dụng phục vụ nông nghiệp của công nghiệp và thủ công nghiệp Hương Sơn còn vào loại yếu”. Những tồn tại đó của kinh tế nông nghiệp đã cản trở việc tiến hành cuộc cách mạng kỹ thuật và cách mạng văn hóa ở Hương Sơn. Mặt khác, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, nhưng dần dần thành một tổ chức chính trị - kinh tế, nắm cả sinh mệnh chính trị lẫn đời sống kinh tế - văn hóa của người dân và con em họ. Từ đó, một số hiện tượng tiêu cực bắt đầu nảy sinh như bệnh chuyên quyền, độc
199 đoán, mệnh lệnh, hách dịch, trù dập, thiên vị, tham ô... Tồn tại tình trạng ban quản lý hợp tác xã lấn át cả Đảng ủy, chính quyền. Tình trạng quản lý yếu kém, mất dân chủ không phải chỉ có ở các hợp tác xã nông nghiệp, mà cả trong các hợp tác xã thủ công, mua bán, tín dụng. Phần lớn hợp tác xã mua bán thua lỗ. Qua kiểm tra ở 30 xã, đã phát hiện được hơn 67.000 đồng của xã viên bị tham ô. Hàng hóa không đủ để phân phối cho nhu cầu thiết yếu của quần chúng. Tình hình đó, đòi hỏi công tác cải tiến quản lý hợp tác xã, cuộc vận động phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên và cuộc vận động chống tham ô, ăn cắp tài sản của Nhà nước, tài sản nhân dân vẫn phải tiếp tục đẩy mạnh. Thông qua các cuộc vận động lớn, Huyện ủy đã tiến hành cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh. Cuộc vận động được bắt đầu từ tháng 6-1970. Đến tháng 3-1971, toàn Đảng bộ lại triển khai thực hiện Nghị quyết số 19 của Trung ương Đảng, Nghị quyết số 195 của Bộ Chính trị, rà soát lại tiêu chuẩn đảng viên theo yêu cầu. Qua học tập và phân loại, chỉ có 29,2% tổng số đảng viên đạt yêu cầu cao, đại bộ phận đảng viên còn ở mức trung bình, còn 12,5% thuộc loại yếu kém, 49 người bị đưa ra khỏi Đảng. Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên đã làm cho mỗi đảng viên xác định rõ phương hướng phấn đấu, rèn luyện vươn lên, nâng cao hơn ý thức Đảng, ý chí chiến đấu và tinh thần, trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, kết quả cuộc vận động còn hạn chế, chưa đảm bảo mục đích yêu cầu đề ra, vì tinh thần đấu tranh trong nội bộ chưa thật sự thẳng thắn, vô tư. Việc phân loại và kỷ luật đảng viên chưa thật sáng suốt, công minh, hiện tượng trù dập chưa được ngăn chặn triệt để, nhất là sau khi kết thúc việc phân loại và kỷ luật. Công tác phát triển Đảng được các cấp ủy đẩy mạnh hơn. Đảng bộ Hương Sơn tuy đông (chiếm 6,5% dân số), nhưng phần đông đảng viên đã lớn tuổi. Từ sau Đại hội Đảng bộ năm 1967 đến tháng 10-1971, Đảng bộ đã kết nạp được 1.524 đảng viên mới, trẻ hóa thêm một bước hàng ngũ Đảng. Riêng trong đợt phát triển đảng viên lớp Hồ Chí Minh, Đảng bộ đã kết nạp được 58 người. Đội ngũ cán bộ cốt cán cũng được trẻ hóa, chiếm 24,3% tổng số cấp ủy viên từ chi ủy trở lên. Công tác đào tạo cán bộ, huấn luyện đảng viên được tăng cường. Năm 1969, Huyện ủy mở Trường Đảng huyện, đặt địa điểm tại xã Sơn Phúc98. Từ năm 1970 trở về sau, hàng 98 Sau trường Đảng dời về xã Sơn Phú (BBT).
200 năm, Huyện ủy đều có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, lần lượt cử người đi học ở các Trường Đảng Trung ương, tỉnh và huyện. Để tiếp tục kiện toàn, nâng cao sức chiến đấu của Đảng bộ trong thời kỳ mới, từ ngày 24 đến 29-11-1971, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn lần thứ VIII được tiến hành tại xã Sơn Phúc. Đồng chí Nguyễn Hồng Lam - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã về dự và trực tiếp chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá một cách sâu sắc những thành tích và tồn tại trong nhiệm kỳ khoá VII. Thành tích nổi bật nhất là Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Trong khói lửa chiến tranh ác liệt, tuyệt đại bộ phận đảng viên và quần chúng không hề nao núng tinh thần, kiên quyết bám trụ ruộng đồng, cơ quan, đơn vị để sản xuất, công tác, với ý chí quyết tâm “một tấc không đi, một ly không rời”. Sản xuất nông nghiệp vẫn được giữ vững, có những mặt phát triển hơn trước, nhất là công tác thủy lợi với phương hướng đúng là phát triển tiểu thủy nông, làm hồ đập nhỏ và việc chuyển đổi cơ cấu giống lúa đã mở ra nhiều triển vọng tốt. Đảng bộ đã chú ý hơn trong việc lãnh đạo sản xuất thủ công nghiệp. Các mặt văn hóa, giáo dục, y tế vẫn duy trì nề nếp, hoạt động và đều đạt hiệu quả khá. Đại hội đã nghiêm khắc kiểm điểm những thiếu sót, tồn tại, tập trung phân tích 3 mâu thuẫn chính trong phong trào cách mạng của Hương Sơn: Một là, nền nông nghiệp XHCN, nền sản xuất tập thể hóa quy mô lớn mâu thuẫn với trình độ quản lý cùa đội ngũ cán bộ các cấp còn thấp kém. Hai là, yêu cầu thâm canh, phát triển sản xuất của nền nông nghiệp tập thể hóa XHCN mâu thuẫn với cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ kỹ thuật còn kém. Ba là, tư tưởng, quan điểm sản xuất lớn XHCN của giai cấp công nhân mâu thuẫn với tư tưởng sản xuất nhỏ của người nông dân cá thể còn quá nặng. Ba mâu thuẫn chính ấy là trở ngại lớn, là nguyên nhân cản trở sự phát triển của kinh tế huyện. Việc giải quyết ba mâu thuẫn trên còn ít hiệu quả vì tinh thần cách mạng tiến công, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong gương mẫu của đảng viên cưa cao, tinh thần đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng trước hết là trong các cấp ủy Đảng chưa tốt. Tự hào với những thành tích đạt được, quyết tâm khắc phục những yếu kém, tồn tại, Đại hội đề ra phương hướng phấn đấu của 2 năm tới là: “Tiến hành đồng thời