The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Lương Mạnh, 2023-03-05 11:15:13

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

101 và điều hành của Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 7 người; đồng chí Nguyễn Mật được bầu làm Bí thư, đồng chí Đinh Xuân Bính làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền36. Sau Đại hội, thực hiện chủ trương phát triển Đảng của Tỉnh ủy, từ tháng 1 đến tháng 3-1950, tất cả các chi bộ đều mở đợt phát triển Đảng mùa Xuân. Số đảng viên được kết nạp là 431 đồng chí, đưa tổng số đảng viên toàn huyện lên 4.706 đồng chí (963 nữ, 122 người Thiên Chúa giáo, 1.761 đảng viên dự bị) 37. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, Đảng bộ Hương Sơn phát triển mạnh, nhiều đảng viên trở thành lực lượng nòng cốt trong tất cả các ngành, các đoàn thể, đồng thời cung cấp nhiều cán bộ cho tỉnh, khu và Trung ương. Không kể thời gian trước đó, chỉ riêng đầu năm 1950, Khu điều từ Hương Sơn 24 cán bộ (1 tỉnh ủy viên, 3 huyện ủy viên, 4 cán bộ huyện, 15 chi ủy viên, 1 đảng viên). Tuy nhiên, việc phát triển Đảng trong các đợt thi đua ồ ạt, ít chú trọng về chất lượng. Số đảng viên tăng quá nhanh, công tác bồi dưỡng không theo kịp. Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã nhận ra khuyết điểm đó nên sau đợt phát triển Đảng mùa Xuân, Tỉnh ủy chỉ đạo tạm ngừng kết nạp để nâng cao chất lượng đảng viên. Huyện ủy Hương Sơn tự kiểm điểm và chỉ đạo các chi bộ kiểm điểm công tác phát triển Đảng, đề ra kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đảng viên, cử cán bộ trực tiếp giúp các chi bộ yếu kém củng cố tổ chức, nâng cao năng lực công tác. Cuộc kháng chiến chuyển biến ngày càng có lợi cho ta. Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ: “Gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công”. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, ngày 29-4-1950, Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra nghị quyết: “Hà Tĩnh không được thiếu người, thiếu của, không được thiếu một thứ gì cung cấp cho kháng chiến”. Từ tháng 5 đến tháng 10- 1950, Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh phát động chiến dịch Lê Hồng Phong với nội dung: thi đua tòng quân, ủng hộ tân binh đỡ đầu bộ đội, ủng hộ quân giới, tăng gia sản xuất, đóng công lương, bán lúa định giá, đẩy mạnh bố 36 Lúc này, đồng chí Trần Đoàn được trên điều động ra công tác tại chiến khu Việt Bắc. 37 Báo cáo tam cá nguyệt 1-1950 của Tỉnh ủy. Lưu TBLSĐ tỉnh Hà Tĩnh.


102 phòng, sửa đường quốc lộ. Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (6-1950) đề ra 3 trọng tâm công tác lớn: Đẩy mạnh mọi mặt công tác nhằm phục vụ kháng chiến, đồng thời đưa cách mạng dân chủ mới tiến tới đúng với tinh thần chuyển mạnh sang tổng phản công; tổng động viên nhân tài, vật lực, xây dựng lực lượng, lấy việc xây dựng bộ đội địa phương làm trọng tâm để cung cấp dồi dào, nhanh chóng cho mặt trận, bảo vệ địa phương; tích cực xây dựng Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê nin, để đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng, quán xuyến mọi ngành, mọi mặt và trực tiếp lãnh đạo chiến tranh38. Tất cả những nhiệm vụ trên nhằm xây dựng Hà Tĩnh thành một hậu phương mạnh mẽ. Trên tinh thần đó, Đảng bộ Hương Sơn lãnh đạo nhân dân tích cực hưởng ứng và thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh. Từ ngày 13-5 đến 13-7- 1950, một chiến dịch tuyên truyền và thực hiện tổng động viên được phát động rầm rộ trong toàn huyện. Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, nhân dân Hương Sơn nô nức ủng hộ tân binh, đỡ đầu bộ đội, tiếp nhận thương binh làm con nuôi, lập trại thương binh ở An Bài (Sơn Ninh), đóng công lương, bán lúa định giá, thu gom sắt thép ủng hộ quân giới… Chỉ trong vòng một tuần lễ của đợt 2 chiến dịch Lê Hồng Phong, toàn huyện đã đóng đủ công lương và vượt mức lúa định giá. Xã Bình Dương bán 270 tạ lúa định giá, dẫn đầu phong trào toàn huyện. Thiếu nhi hăng hái thu gom sắt thép cho các cơ xưởng. Nhiều người nhiệt tình ủng hộ cả mâm thau, nồi đồng, lư hương còn tốt để rèn vũ khí tổng phản công. Dân công vui vẻ, phấn khởi đi san ụ, lấp hố, sửa đường quốc lộ 8. Thanh niên hăng hái xung phong tòng quân, nhất là thanh niên học sinh háo hức “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, sợ bỏ lỡ cơ hội trai thời chiến. Năm đợt tuyển quân, đợt nào Hương Sơn cũng vượt chỉ tiêu. Bộ đội địa phương huyện, dân quân du kích các xã hăng hái luyện tập, nắm vững kỹ thuật chiến đấu cá nhân, hợp đồng chiến đấu giữa chủ lực và dân quân. Để tập trung thống nhất sự chỉ đạo quân sự về tỉnh, từ tháng 5-1950, tỉnh tăng cường cơ quan Tỉnh đội, bỏ Huyện đội và thay thế bằng một đoàn kiểm tra 38 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh , tập 1, (1930-1954), Nxb CTQG H 2014, tr 187.


103 quân sự giúp Ủy ban huyện theo dõi tình hình. Tỉnh đội chỉ đạo sâu sát hơn nhưng lại thiếu nhanh nhạy và hạn chế tính độc lập và cơ động của huyện. Ngày 26-10-1950, Đại hội quân dân chính tỉnh tổng kết chiến dịch đã biểu dương 2 huyện Hương Sơn và Đức Thọ có phong trào thi đua phát triển nhất. Bên cạnh đó, Huyện ủy vận động, tổ chức nông dân tích cực hưởng ứng “vụ chiêm quyết thắng”, “vụ mùa tổng phản công” do Liên khu phát động. Chính quyền tạm cấp ruộng đất của đồn điền và ruộng đất vắng chủ cho nhân dân cày cấy. Năm 1950, Hương Sơn bị hạn nặng và lụt lớn, 2/3 diện tích ruộng bị hạn trầm trọng. Nhân dân tự xuất công của đắp 12 con đập và đào mương máng hết 3.270 công, chống hạn cho 1.182 mẫu 5 sào lúa39. Lúa chiêm được mùa lớn nhưng lúa mùa gần như mất trắng vì lụt to và dài ngày (từ 19 đến 29- 10). Tuy vậy, nhờ tiềm lực từ các vụ trước, nhờ công tác cứu tế, tương trợ lẫn nhau tốt nên nạn đói không xảy ra. Trong khó khăn, nhân dân đã chia sẻ với công nhân, bộ đội, thiếu sinh quân, đồng bào tản cư từng bát gạo, củ khoai, từng gáo nước sạch, từng cành củi khô trong những ngày nước lũ mênh mông. Xã Mỹ Hòa, xã Thịnh Văn đã cưu mang 1.000 thiếu sinh quân. Xã Dĩ Long nhiệt tình chăm sóc thương bệnh binh của Trung đoàn Trung Lào về an dưỡng. Trong năm 1950, sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế của huyện đều đạt những thành tích quan trọng. Đặc biệt, ngành giáo dục đạt thành tích xuất sắc. Trường Tiểu học An Lễ được tỉnh chọn là một trong ba trường kiểu mẫu của tỉnh trong cải cách giáo dục. Trường trung học Hương Sơn tốt nghiệp khóa II đạt 80%, trong khi toàn tỉnh chỉ đạt 21%40; đạt 4 giải nhất trong kỳ thi học sinh giỏi toàn Liên khu (1 giải môn Văn, 1 giải môn Sử, 2 giải môn Toán). Thành tích rực rỡ của trường tô đẹp thêm truyền thống hiếu học của Hương Sơn. Mùa hè năm 1950, ngành giáo dục Hương Sơn đón tiếp 1.180 giáo viên toàn tỉnh về dự Hội nghị rèn cán chỉnh cơ ở Dĩ Long và thực hiện cải cách giáo dục. Tất cả các trường tiểu học được sắp xếp lại và đổi thành trường phổ thông cấp 1. Trường Trung học Hương Sơn thành trường phổ thông quốc lập cấp 2. Trước nhu cầu học tập ngày càng cao, Huyện ủy quyết định mở thêm trường dân lập cấp 2 Hương Sơn bên cạnh trường quốc lập cùng đóng tại Sơn Thịnh. 39 Báo cáo tổng kết 1950 của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh. 40 Báo cáo thượng bản niên của Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Tĩnh. Lưu TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.


104 Xã Bình Mỹ và xã Mỹ Long cũng mở trường dân lập cấp 2 không toàn cấp. Thực hiện chủ trương phát triển trường dân lập, các trường tư thục của các tôn giáo trong huyện đều tự giải thể. Hương Sơn trở thành huyện có nhiều trường học nhất tỉnh Hà Tĩnh, đội ngũ giáo viên không chỉ đủ cho các trường trong huyện, còn có hàng trăm giáo viên đi dạy ngoại huyện, ngoại tỉnh. Riêng xã Hữu Bằng, có khoảng 200 thầy giáo. Một năm “gấp rút hoàn thành chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công” đã đưa phong trào Hương Sơn lên cao, dẫn đầu chiến dịch Lê Hồng Phong của tỉnh, dẫn đầu sự nghiệp giáo dục cả về số lượng và chất lượng. Song, tỉnh Hà Tĩnh có nhận định chung: chủ trương này tuy động viên được sức người, sức của cho kháng chiến, nhưng là một chủ trương nóng vội, chủ quan, ảnh hưởng đến việc thực hiện của các địa phương. Việc chỉ đạo thực hiện phạm một số sai lầm như huy động sức dân quá mức, cách làm thiếu dân chủ. Để khắc phục tình trạng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Liên khu ủy uốn nắn tình hình. Từ cuối năm 1950 đến đầu năm 1951, Huyện ủy Hương Sơn lãnh đạo các chi bộ tổ chức học tập thư Bác từ trong Đảng ra ngoài quần chúng, rồi tổ chức đại hội nhân dân kiểm điểm việc thực hiện các sắc luật và chỉ thị về tổng động viên. Ngày 28-4-1951, Đại hội nhân dân toàn huyện được tổ chức. Nhân dân được góp ý, phê bình trong bầu không khí dân chủ, cởi mở. Những gia đình bị thiệt thòi do đóng góp quá mức được hoàn lại. Từ đó, mối quan hệ đoàn kết giữa cán bộ và quần chúng được củng cố. Nhân dân phấn khởi tiếp tục tự nguyện đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Chiến dịch Biên giới Thu Đông (năm 1950) thắng lợi, mở cửa thông suốt nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với phe xã hội chủ nghĩa, đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta sang một giai đoạn mới. Trải qua 4 năm kháng chiến, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn ngày càng lớn mạnh. Tổ chức Đảng phát triển đều khắp, phát huy được vai trò lãnh đạo. Đời sống vật chất của nhân dân từng bước được ổn định, có phần được cải thiện. Đời sống tinh thần trên địa bàn huyện được nâng lên. Lực lượng vũ trang và công an đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ biên giới, quốc phòng và trị an. Nhân dân Hương Sơn làm tròn và vượt mức nhiệm vụ chi viện chiến trường Bình - Trị - Thiên, đón tiếp và ủng hộ các đơn


105 vị bộ đội, công nhân và đồng bào tản cư đến địa phương. Thanh niên hăng hái xung phong tòng quân. Tình quân - dân, công - nông ngày càng thắm thiết. Với những kết quả đạt được, Đảng bộ và quân dân Hương Sơn sẵn sàng bước vào giai đoạn mới gay go, ác liệt hơn của cuộc kháng chiến. Cán bộ, đảng viên thực sự là những người tiên phong, gương mẫu, dẫn dắt nhân dân toàn huyện tiến lên. 3. Đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1953) Chiến thắng Biên giới đã làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho ta. Tháng 2-1951, Đại hội Đảng toàn quốc đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và quyết định đưa Đảng ra công khai. Những thắng lợi to lớn về quân sự và chính trị đó đã cổ vũ, động viên Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn tiếp tục vươn lên. Ngày 26-6-1951, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh họp tại Quang Diệm (Hương Sơn). Đại hội đề ra 2 nhiệm vụ lớn là: phục vụ tiền tuyến, bảo vệ hậu phương và đẩy mạnh sản xuất để đảm bảo cung cấp cho mặt trận, cải thiện đời sống nhân dân. Hai nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến và tăng gia sản xuất phải đi đôi với nhau, nhưng căn bản là phải đẩy mạnh sản xuất mới đảm bảo cung cấp cho nhu cầu kháng chiến và bồi dưỡng sức dự trữ của dân. Tất cả mọi nhiệm vụ phải hướng vào phục vụ hai nhiệm vụ đó. Đại hội còn nêu các nhiệm vụ cụ thể về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, về xây dựng Đảng41. Thực hiện kế hoạch của Tỉnh ủy, tháng 6-1951, Huyện ủy Hương Sơn tổ chức mít tinh mừng Đảng ra hoạt động công khai và học tập Chính cương của Đảng. Toàn Đảng bộ, toàn dân sống trong bầu không khí sôi nổi, phấn khởi chào mừng chiến thắng Biên giới, chiến thắng Trung du, chào mừng Đảng ra công khai, chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh tại Quang Diệm (Sơn Diệm). Đồng chí Đinh Xuân Bính được cử làm Bí thư Huyện ủy thay đồng chí Nguyễn Mật được điều lên công tác ở Khu. Đồng chí Thái Diệm giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện. 41 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh , tập 1, (1930-1954), Nxb CTQG, H 2014, tr 191.


106 Tháng 8-1951, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn họp tại Trại Cau, Cẩm Lĩnh (Sơn Lĩnh). Đồng chí Trần Quang Đạt thay mặt Tỉnh ủy về dự Đại hội. Đại hội đánh giá, kiểm điểm phong trào và sự lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các lĩnh vực. Bên cạnh những thắng lợi đã đạt được, Đại hội chỉ ra nhiều yếu kém tồn tại như lực lượng vũ trang chưa đủ mạnh, đời sống nhân dân vẫn còn thấp, công tác bố phòng, sẵn sàng chiến đấu, có lúc, có nơi còn lơi lỏng, tư tưởng chủ quan, khinh định còn nặng… Đại hội thảo luận và phân tích kỹ tình hình và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới, quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh (6-1951), căn cứ vào điều kiện thực tế của Hương Sơn, Đại hội đề ra nghị quyết tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, quyết tâm lãnh đạo nhân dân dồn sức người, sức của phục vụ tiền tiến, bảo vệ hậu phương, ra sức đẩy mạnh sản xuất và mọi mặt công tác khác, đảm bảo cung cấp cho mặt trận và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gòm… nguời, đồng chí Thái Diệm được bầu làm Bí thư, đồng chí Đinh Xuân Bính làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện. Sau Đại hội, Huyện ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo mở Đại hội thống nhất Việt Minh và Liên Việt huyện. Đảng đã ra hoạt động công khai, Mặt trận Việt Minh chỉ còn đóng vai trò đoàn kết toàn dân, từ đó Đảng chủ trương thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Các xã thực hiện cuộc vận động này và tổ chức thành công đại hội ở xã. Tháng 10-1951, Đại hội Việt Minh và Liên Việt huyện được tiến hành để củng cố Mặt trận, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đồng thời Đại hội cũng đề ra kế hoạch củng cố các đoàn thể thành viên để đủ sức gánh vác những nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Đồng chí Đinh Nho Quách - Huyện ủy viên, được bầu làm Chủ tịch của Mặt trận. Cuộc kháng chiến càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan. Năm 1951 là năm cuộc chiến đấu diễn ra gay go, quyết liệt giữa ta và địch. Địch điên cuồng càn quét, bình định vùng tạm chiếm và tăng cường bắn phá vùng tự do, nhất là Thanh - Nghệ - Tĩnh. Trước tình hình đó, Huyện ủy chủ trương tăng cường lãnh đạo công tác bố phòng. Các cơ quan, trường học đều quân sự hóa. Hầm hào được củng cố và đào thêm rất nhiều, nhất là dọc hai bên đường cái, ở những nơi tập trung, ở cơ quan, trường học, chợ, bến sông v.v… Trường học và chợ được


107 phân tán. Hè 1951, Tỉnh đội mở hội nghị bố phòng toàn tỉnh. Sau hội nghị, công tác bố phòng càng được thực hiện khẩn trương, chu đáo hơn. Nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng vũ trang địa phương được các cấp, các ngành chú trọng. Thực hiện Chỉ thị số 08 (tháng 2-1951) của Bộ Tư lệnh Quân khu IV, dân quân được tổ chức lại trên cơ sở nông hội lấy du kích làm nòng cốt. Mỗi tổ nông hội tổ chức 1 đến 2 tiểu đổi dân quân do tổ truởng, hoặc tổ phó nông hội làm tiểu đội trưởng. Tiểu đội chia thành từng nhóm 4-5 người hỗ trợ nhau làm nhiệm vụ bố phòng, tuần tra, canh gác và chiến đấu khi có chiến sự. Mỗi xóm có ban chỉ huy xóm đội do tổ trưởng Đảng làm chính trị viên xã đội. Lão quân, nữ quân phân tán về xóm, trực thuộc xóm đội. Khi học quân sự, dân quân học riêng; khi học chính trị, dân quân học chung với nông hội. Qua quá trình thực hiện, chủ trương này bộc lộ nhiều nhược điểm như giao cho Nông hội nhiệm vụ quá nặng, giải tán mất đội du kích thường trực các xã, nên thực hiện không được triệt để. Để khắc phục nhược điểm này, về sau các đội du kích thường trực được lập lại. Bộ đội địa phương huyện được tăng cường quân số, chia làm hai đại đội. Cuối năm 1951, tập trung chỉnh huấn trong 3 tháng. Bộ đội, dân quân, du kích được học tập tài liệu “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng thời tăng cường luyện tập chiến đấu, chữa cháy, cứu thương, tăng cường tuần tra, canh gác. Ở các cơ quan, trường học và trong nhân dân thường xuyên tổ chức tập báo động, phòng tránh, tản cư… Nhiệm vụ tiền tuyến lúc này đặt ra rất nặng nề và cấp bách đối với Đảng bộ và nhân dân huyện Hương Sơn, thôi thúc hàng trăm thanh niên lên đường nhập ngũ. Năm 1951, có xã số thanh niên tòng quân lên tới 40-50 người, 6 tiểu đội của bộ đội địa phương được Khu điều đi mặt trận. Thanh niên các xã sẵn sàng bổ sung cho bộ đội địa phương. Những tháng đầu năm 1951, dân công nườm nượp lên đường phục vụ hỏa tuyến. Tháng 3-1951, dân công Hương Sơn cùng dân công toàn tỉnh chở 500 tấn hàng cho mặt trận Bình - Trị - Thiên. Tháng 5-1951, có 150 dân công Hương Sơn phục vụ mặt trận Trung Lào, 600 dân công đi làm đường chiến lược. Thời gian đầu, do chưa có kinh nghiệm nên việc huy động dân công còn thiếu sót. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa chu


108 đáo, có nơi, có lúc ép buộc, ảnh hưởng đến tinh thần, tư tưởng người đi, có đợt tuyển không đủ quân, đợt tháng 3-1951, toàn huyện thiếu 15 người. Thực hiện Điều lệ Dân công do Chính phủ mới ban hành và Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy lãnh đạo thành lập Ban phụ trách dân công huyện và Ban tiếp vận các xã. Dân công được biên chế thành 3 loại A, B, C tùy theo sức khỏe, tuổi tác và hoàn cảnh gia đình. Anh chị em được học tập thấm nhuần Điều lệ Dân công, được mệnh danh là “chiến sĩ” có vinh dự như bộ đội chiến đấu. Toàn dân cũng được học tập để thấy rõ trách nhiệm của người ở nhà đối với người đi. Xã An Lễ (Sơn An và Sơn Lễ) làm tốt công tác giáo dục, huy động dân công. Xã tổ chức đưa đón chu đáo khi anh chị em đi, về. Hội Nông dân, Hội Phụ nữ tổ chức các nhóm đổi công, vần công giúp đỡ các gia đình có người đi dân công. Kinh nghiệm của xã An Lễ được phổ biến, thực hiện trong toàn tỉnh. Trên cơ sở đó, phong trào dân công của huyện được chấn chỉnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Cuối năm 1951, một đại đội dân công gồm 187 người được tổ chức thành 3 trung đội, 12 tiểu đội, có chỉ huy trưởng và chính trị viên từ đại đội đến tiểu đội như một đơn vị bộ đội hoàn thành nhiệm vụ chở vũ khí vào Bình - Trị - Thiên. Giữa Tết Nhâm Thìn (1952), 1.350 dân công cho 1 cán bộ huyện và 90 cán bộ xã phụ trách, biên chế thành 20 trung đội đi phục vụ chiến trường trong 15 ngày. Đoàn vừa hoàn thành nhiệm vụ trở về thì 300 dân công khác lên đường vận tải lương thực cho mặt trận Lào. Vào các ngày 5, 7, 9 tháng 3-1953, có ba đại đội, gồm 471 người lần lượt lên đường vào phục vụ mặt trận Nam Quảng Bình và Thừa Thiên, cuối tháng 3, một đại đội gồm 150 người lên mặt trận Lào. Đầu tháng 4, một đại đội gồm 160 người vào mặt trận Liên khu V, cuối tháng lại có một đại đội gồm 120 người vào tiếp. Phong trào phát triển sôi nổi, có đợt chưa về, đợt khác đã lên đường (ngày 30-3-1953, 150 dân công đi chiến dịch Trung Lào chưa về thì ngày 10-5-1953, 146 người khác đi tiếp cũng hướng Trung Lào). Có đợt dân công phục vụ 2 tháng (đợt 600 dân công phục vụ chiến trường Bình - Trị - Thiên). Dân công Hương Sơn có mặt ở nhiều chiến trường: Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Lào, Hòa Bình, Hà Nam Ninh… Trong chiến dịch Hà - Nam - Ninh, Hương Sơn huy động thuyền, người và 20 thợ mộc lành nghề đi phục vụ… Trong năm 1951, toàn huyện huy động 1.291 dân công; năm 1952, gần 2.500 dân công phục vụ hỏa tuyến. Bên cạnh đó


109 là các đợt dân công phục vụ vận tải của Tổng công đoàn, phục vụ công trường than hoặc các công trường khác của Bộ Giao thông vận tải. Ngoài ra là các đợt dân công thủy lợi, chuyển vận hàng hóa trong tỉnh, khôi phục các cơ xưởng bị bắn phá trong huyện. Riêng đợt đắp đê La Giang tháng 9-1952, có 2.707 dân công Hương Sơn trên công trường…42. Biết bao gian khổ, hy sinh diễn ra trên con đường tiếp vận. Trang bị thiếu thốn, chăn chiếu phải tự túc, ai có chăn mang chăn, ai có chiếu mang chiếu. Những đêm mưa rét giữa rừng với sên, vắt, muỗi. Những ngày vượt dốc đá tai mèo cheo leo U Bò, Ba Rền. Những lúc bị hổ, báo rình đuổi. Những trận chiến đấu vượt qua các ổ phục kích của quân thù…, nhiều chiến sĩ dân công đã hy sinh anh dũng. Nhưng các đợt dân công của huyện không khi nào thiếu người và không có người đào ngũ. Nhiều người xung phong đi đến 2-3 đợt liền, luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ, được bầu là chiến sĩ thi đua. Có những điển hình như anh Phạm Tám, quê xã Sơn Long, đi dân công hỏa tuyến về mới cưới vợ được 3 ngày đã xung phong nhập ngũ. Chiến tranh ngày càng diễn ra ác liệt. Tháng 9-1951, máy bay địch hai lần đánh phá xã Mỹ Long (Sơn Long), gây thương vong trên 10 người. Trường Dĩ Long bị đánh sập hoàn toàn. Tiếp đó, tháng 11, chúng đánh vào xã Thịnh Văn, nơi có xưởng ấn loát đóng. Tháng 3-1952, chúng liên tục đánh vào xã Bình Mỹ, bắn phá xưởng Hà Huy Tập, ném bom làm sập cầu Cửa Khâu (Choi). Tháng 4-1952, xưởng Hoàng Văn Thụ ở Kim Hoa bị đánh. Xưởng Hà Huy Tập và Hoàng Văn Thụ được lệnh sáp nhập với nhau và di chuyển địa điểm. Nhân dân địa phương nhiệt tình cùng công nhân khôi phục xưởng. Mặc cho máy bay địch điên cuồng bắn phá, mặc cho luận điệu của bọn phản động gieo rắc hoang mang, ly gián, nhân dân vẫn một lòng tin tưởng và quyết tâm kháng chiến, không hề tiếc vườn tược, nhà cửa, không hề sợ bom đạn tàn phá làng xóm, vẫn luôn luôn sẵn sàng cùng công nhân làm nhà, dựng xưởng, đón tiếp cán bộ, công nhân, bộ đội, thương binh về ở trong nhà. Nhằm hạn chế đến mức thấp nhấp những thiệt hại do địch gây ra, công tác bố phòng ngày càng được cấp ủy các địa phương tăng cường. Bước sang 42 Tất cả các số liệu về dân công nêu trên lấy trong tập “Thông tư về việc huy động dân công” của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh. Lưu trữ Ủy ban nhân dân tỉnh.


110 năm 1952, nhiều sinh hoạt từ ban ngày chuyển sang ban đêm như: chợ họp đêm, trường học đêm… Để có tiềm lực cung cấp cho kháng chiến và cải thiện đời sống nhân dân, trong năm 1951, Liên khu phát động “vụ chiêm chủ lực”, “vụ mùa thắng lợi”. Các mặt sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, lâm nghiệp đều được đẩy mạnh. Tiền tuyến thi đua giết giặc lập công, hậu phương thi đua sản xuất, công tác. Công đoàn, Nông hội chăm lo bồi dưỡng những nhân tố tích cực “đề cao chiến sĩ” trong phong trào thi đua sản xuất. Các ngày lễ 1-5, 19-5, 2-9, 19-12 năm 1951, được tổ chức rầm rộ hơn hẳn các năm trước, là những chặng đường của phong trào thi đua “sản xuất lập công, đề cao chiến sĩ”. Trong nông nghiệp, phong trào chống hạn, làm cỏ, bón phân phát triển mạnh. Hương Sơn thực hiện triệt để giảm tô 25%. Nông hội tích cực vận động nhân dân dùng phân phốt phát, phân tiêu và bỏ tệ cấy chay. Do đó, năm 1951 tuy diện tích lúa chiêm bị sụt hơn các năm trước vì hạn nặng, nhưng toàn huyện năng suất cao hơn, thu hoạch cao hơn, lúa chiêm, lúa mùa đều đạt năng suất cao hơn trước. Năm 1951, tổng thu hoạch 3 vụ lúa đạt 8.888 tấn, vượt xa các năm trước. Ngoài ra, còn 5.000 tấn khoai, 33 tấn ngô sớm. Chăn nuôi trâu bò tăng 14%, lợn tăng 25%43. Phong trào nuôi dê, thỏ phát triển trong toàn huyện, nhất là ở các xã: Bình Mỹ, An Lễ, Thịnh Văn, Mỹ Hòa, Tân Mỹ… Công tác khai thác, chế biến lâm sản, trồng cây gây rừng và bảo vệ rừng có nhiều tiến bộ. Xã Phúc Dương, xã Đồng Khánh lập hợp tác xã sản xuất lá nón, đốt than hoa. Ngành Lâm chính vận động nhân dân trồng được 2.000 cây thông và 200 bạch đàn ở đồi Nầm. Các nghề rèn, mộc, dệt, ép dầu, làm mật đường đều phát triển vì thị trường đòi hỏi lớn. Ủy ban tỉnh phối hợp với ngành quân trang để sản xuất tơ nên nghề tơ tằm truyền thống của Hương Sơn rất phát triển. Sau hội nghị hợp tác xã toàn tỉnh (đầu năm 1951), hợp tác xã Thịnh Văn và Tân Địa ngày càng lớn mạnh. Tuy vậy, phong trào hợp tác hóa nói chung không tiến bộ. Nhiều hợp tác xã sản xuất phải chuyển thành hợp tác xã tiêu thụ, 43 Theo tình hình kinh tế, văn hóa Hà Tĩnh 1931-1954 - Ủy ban kế hoạch và Chi cục thống kê xuất bản.


111 có hợp tác xã phải giải thể vì thực tế hình thức đổi công, vần công thích hợp hơn. Sang năm 1952, mặt trận sản xuất càng gặp nhiều khó khăn. Hạn hán nặng hơn cả năm 1951. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc đại vận động sản xuất và tiết kiệm. Tỉnh ủy chủ trương tập trung chỉ đạo cuộc vận động tăng gia sản xuất và tiết kiệm nhằm đẩy mạnh tốc độ sản xuất trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp quốc phòng. Ngày 11-3-1952, Tỉnh ủy họp và quyết định phát động cuộc vận động sản xuất, mở đầu bằng phong trào “đại vận động chống hạn” để đảm bảo năng suất, sản lượng cho vụ chiêm đang bị hạn hán đe dọa. Thực hiện chủ trương ấy, Hương sơn mở đầu cuộc vận động là chiến dịch chống hạn sôi nổi và quyết liệt. Những trạm tát nước dày đặc ven sông, ven bàu, ven hói; có những trạm phải tát 5-6 bậc mới đưa được nước lên ruộng. Bà con nông dân quyết “vắt đất ra nước, thay trời làm mưa”. Bộ đội, cán bộ, công nhân, giáo viên, học sinh tích cực tham gia chống hạn giúp dân, cứu lúa. Nông dân Hương Sơn được cấp 1.083 mẫu đất, 443 mẫu ruộng. Các tổ Nông hội tổ chức học tập điều lệ quân cấp công điền, công thổ. Bà con nông dân phấn khởi làm chủ ruộng đất được cấp. Thêm vào đó là nhờ có phong trào Hoàng Hanh44 thúc đẩy, bà con nông dân quyết liệt đấu tranh với thiên nhiên. Nhưng do hạn quá nặng, mía bị rầy, lúa bị trổ non, thiệt hại đến khoảng 30%. Vụ thu và vụ mùa bị lụt nên thất bát, để lại hậu quả nghiêm trọng là nạn đói giáp hạt diễn ra đầu năm 1953. Trong hoàn cảnh đó, Huyện ủy chủ trương phát huy tinh thần tương thân, tương ái của nhân dân, tổ chức tương trợ, cứu tế, đưa Hương Sơn vượt qua nạn đói và đẩy mạnh sản xuất vụ chiêm Xuân. Sản xuất nông nghiệp giảm sút, kéo theo sự trì trệ của các ngành thủ công nghiệp. Ngành vải sợi giảm từ 30 đến 50% sản lượng vì thiếu bông để sản xuất, lại bị hàng ngoại tràn vào chèn ép. Cuộc kháng chiến ngày càng gay go, quyết liệt càng đòi hỏi bồi dưỡng sức dân và tăng cường tiềm lực của Nhà nước. Năm 1951, Chính phủ ban hành những chính sách lớn như sắc lệnh giảm tô, điều lệ thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp. 44 Hoàng Hanh là Anh hùng nông nghiệp. Trung ương đã phát động phong trào thi đua Hoàng Hanh.


112 Cuộc vận động giảm tô thực hiện trong các năm trước kết quả còn thấp. Nay thực hiện chủ trương triệt để giảm tô 25%, Nông hội các xã tích cực vận động nông dân tham gia phong trào giảm tô, nhất là các xã Đồng Khánh, Phúc Dương… nhưng vẫn không đạt yêu cầu. Trong hoàn cảnh đó, Huyện ủy tập trung lãnh đạo công tác thuế, huy động cả lực lượng đông đảo giáo viên, học sinh làm công tác tuyên truyền, điều tra, kê khai, phân mảnh định hạng, xây dựng mức thuế. Tuy nhiên, vì công việc quá mới mẻ, tư tưởng trong lãnh đạo thiếu thống nhất, lại gặp phải sự lén lút phá hoại của bọn phản động nên việc thu thuế phạm một số sai lầm như: đặt mức thuế quá cao, dùng phương pháp ép buộc, trấn áp buộc nhân dân phải đóng… Do đó, việc thu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp rất chậm, không đạt yêu cầu. Trong năm 1952, tỉnh phát động thu thuế vụ chiêm và tận thu thuế năm 1951. Tiếp đó, tỉnh lại phát động thu thuế vụ mùa, việc thực hiện càng khó khăn. Thường trực Tỉnh ủy nhận xét Hương Sơn là “Điển hình kém nhất, vô nguyên tắc, không khẩn trương, hữu khuynh, quan liêu, mệnh lệnh…, tự động hạ mức, tự động làm sai phương pháp”45. Huyện ủy nghiêm khắc tự kiểm điểm và tích cực bổ cứu. Đến tháng 1-1953, có 7 xã hoàn thành việc thanh thuế là Tây Sơn, Quang Diệm, Hàm Phố, Phúc Dương, Thịnh Văn, Mỹ Hòa, Bình Mỹ. Nhưng các xã khác vẫn còn thiếu nhiều. Lợi dụng những hạn chế đó, bọn phản động tăng cường phá hoại. Trước yêu cầu cấp bách phải thanh toán thuế, Tỉnh ủy chủ trương phát động trong toàn tỉnh cuộc đấu tranh chống dây dưa thuế, gắn liền với tố cáo, trấn áp bọn phản động và lưu manh. Song song với việc lãnh đạo vận động sản xuất, tiết kiệm, Huyện ủy chú trọng đẩy mạnh phát triển lĩnh vực văn hóa - xã hội, đặc biệt chú trọng chăm lo công tác giáo dục. Tháng 9-1951, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Mặt trận Liên Việt đứng ra tiến hành hợp nhất 2 trường dân lập Bình Mỹ và Mỹ Long, lấy tên là trường dân lập cấp II Nguyễn Huệ và mở thêm trường dân lập cấp II Hồ Tùng Mậu cho học sinh nửa huyện miền trên. Trường dân lập cấp II Hương Sơn dời địa điểm đến xã Mỹ Hòa và đổi tên là trường dân lập cấp II Võ Liêm Sơn. Đến tháng 9-1951, toàn huyện có 1 trường cấp II quốc lập và 3 trường cấp II dân lập toàn cấp ở 3 vùng khác nhau, tạo thuận lợi cho việc học tập của học 45 Biên bản Hội nghị Thường vụ Tỉnh ủy ngày 25-7-1952. Lưu TBLSĐ tỉnh Hà Tĩnh.


113 sinh. Được Huyện ủy lãnh đạo thông qua Phân đoàn giáo dục huyện46, có Ban cán sự Đảng phụ trách, phong trào thi đua trong các nhà trường diễn ra sôi nổi, mặc dù hoàn cảnh dạy và học rất khó khăn. Sách giáo khoa không có, giáo viên tự tìm lấy bài để dạy theo đúng chương trình của Nhà nước. Phân đoàn giáo dục đã có sáng kiến tổ chức các nhóm soạn bài tập thể để giáo viên giúp nhau soạn bài. Đoàn Thanh niên cứu quốc và hiệu đoàn học sinh tổ chức các nhóm, tổ tương trợ học tập để giúp nhau đối chiếu, bổ sung bài ghi, học bài và làm bài ở nhà. Gian khổ nhất là thời gian học đêm. Đèn dầu ta lờ mờ, bảng xoa nhọ nồi không đen, phấn bằng đất sét không trắng lại cứng, giấy Cầu Khống (Đức Thọ) vừa nhám, vừa hút. Thế nhưng, thầy vẫn say sưa dạy, trò vẫn chăm chỉ học; việc kiểm tra, thi cử hết sức nghiêm túc. Các trường học từ cấp I đến cấp II, từ quốc lập đến dân lập đều có chất lượng, đào tạo nên những học sinh có trình độ học vấn vững chắc cung cấp cho cả nước. Nhiều gương sáng về học tập, tiêu biểu là Hà Học Hợi (xã Mỹ Hòa), học sinh lớp 7 trường cấp II quốc lập, nhà nghèo, vừa đi học vừa làm nghề xe chỉ để tự nuôi sống bản thân mà vẫn học giỏi, hoạt động tốt. Năm 1952, Hà Học Hợi được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc trong Đại hội thi đua công nông binh lần thứ nhất. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển thành phong trào bổ túc văn hóa, chống quay lại nạn mù chữ thu được những kết quả khá. Song song với sự phát triển của giáo dục, ngành y tế cũng có nhiều tiến bộ, xã nào cũng có trạm xá, ở mỗi vùng, khoảng 4-5 xã có một nhà hộ sinh. Đối với công tác giáo vận, Huyện ủy Hương Sơn chỉ đạo, vận động nhân dân cảnh giác, không để bọn phản động lợi dụng tôn giáo chống lại chính quyền. Trước tình hình bọn phản động đội lốt Phật giáo ở Phúc Dương, Hữu Bằng, Quang Diệm cấu kết với bọn đội lốt Thiên Chúa giáo lập nên cái gọi là “Liên tôn chống cộng”, có sự chỉ đạo của quan thầy trong bộ máy chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, được sự giúp đỡ của tỉnh, Huyện ủy tổ chức cuộc mít tinh phát động quần chúng đấu tranh chống bọn phản động tổ chức ở Rú Cửa (Sơn Bằng) có cảnh vệ tỉnh thị uy. Quần chúng tố cáo bắt những tên đầu sỏ. Nhưng vì không lường trước được tình huống có một tên phản động chưa lộ mặt và một số người xấu tố cáo, vu khống người tốt, ban lãnh đạo cuộc đấu tranh lúng túng làm cho quần chúng có phần hoang mang. Tuy vậy, cuộc 46 Một đơn vị của tổ chức công đoàn ngành giáo dục.


114 đấu tranh chống bọn phản động phá hoại đã đẩy cuộc đấu tranh chống dây dưa thuế tiến lên. Nhiều chi bộ đã làm tốt, nhất là chi bộ xã Phúc Dương. Nhưng cũng có một số chi bộ làm sai nguyên tắc, sai chính sách, sai phương pháp, thậm chí dùng nhục hình cưỡng bức nhân dân. Nhiều nơi nhận định không sát, thu quá cao, sau đó phải trả lại, làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, làm cho nhân dân không an tâm sản xuất. Cuộc đấu tranh triệt để giảm tô 25% và thực hiện chính sách thuế nông nghiệp thực sự là cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn và những thử thách của cuộc kháng chiến gian khổ đã phân định rạch ròi giữa ai trung kiên, ai thực lòng đi với cách mạng đến cùng, ai nửa vời. Những bọn phản động đội lốt này lốt khác đã bị vạch mặt. Nhưng những sai lầm trong phương pháp đấu tranh, tư tưởng thành phần chủ nghĩa đã ảnh hưởng đến khối đoàn kết nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân. Một số cán bộ trung kiên, có năng lực nhưng vướng vào thành phần lớp trên bị nghi ngờ tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh, dao động, hoài nghi xuất hiện. Trong Ban Thường vụ Huyện ủy nảy sinh mâu thuẫn từ cuối năm 1951 trên các vấn đề đánh giá, nhận định cán bộ và phong trào. Trong 2 năm (1952-1953), cuộc vận động chỉnh Đảng, chỉnh quân được tiến hành sâu rộng. Trước tình hình ấy, Thường vụ Tỉnh ủy giúp huyện Hương Sơn kiểm điểm, khắc phục, nhưng tình trạng mất đoàn kết vẫn kéo dài. Bởi vậy, suốt thời gian 1952-1953, Huyện ủy luôn luôn có sự xáo động. Đồng chí Thái Diệm được điều động lên tỉnh, đồng chí Nguyễn Liêu được cử làm Quyền Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đinh Xuân Bính được điều động, đồng chí Nguyễn Hữu Lệ thay thế làm Quyền Chủ tịch, sau đó là đồng chí Nguyễn Mận. Đến giữa năm 1953, đồng chí Nguyễn Xuân Cúc - một cán bộ xã đội ở cơ sở qua chỉnh huấn được coi là cốt cán, trung kiên, thuộc thành phần cơ bản được đưa lên làm Quyền Bí thư Huyện ủy. Đến trước đợt chỉnh đốn tổ chức, Ban Chấp hành, do Đại hội 1951 bầu ra chỉ còn lại chưa đầy ¼ số ủy viên cũ, những ủy viên khác đều mới được bổ sung. Trong năm 1953, nhằm khắc phục những tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh, ảo tưởng hòa bình, hoang mang dao động, sợ địch, sợ gian khổ của một số cán bộ, đảng viên và để chuẩn bị cho chỉnh đốn tổ chức, Tỉnh ủy liên tục mở các lớp chỉnh huấn, chỉnh đảng, chỉnh quân, học tập các quan điểm đấu tranh


115 giai cấp, quan điểm chiến tranh nhân dân, âm mưu của địch và nhiệm vụ bảo vệ hậu phương. Các đợt chỉnh huấn mang lại hiệu quả tích cực; góp phần nâng cao lập trường, quan điểm tư tưởng, tác phong vô sản cho cán bộ, đảng viên, bộ đội, ngăn ngừa những tư tưởng sai trái. Nhưng các đợt chỉnh huấn cũng đã phạm phải một số sai lầm về nội dung, phương pháp, dẫn tới việc đánh giá tình hình điều động, sắp xếp cán bộ, đảng viên thiếu chính xác, gây mất đoàn kết, căng thẳng trong tổ chức Đảng và các đoàn thể trước mắt cũng như lâu dài. Huyện Hương Sơn bị ảnh hưởng bởi những sai lầm đó. Nhưng với truyền thống yêu nước và cách mạng của Đảng bộ và nhân dân cũng như những yêu cầu cấp bách, nóng bỏng của cuộc kháng chiến đang bước vào giai đoạn quyết định không cho phép một ai chần chừ. Trong những năm cầm cự quyết liệt giữa ta và địch ở chiến trường, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo nhân dân làm tròn nhiệm vụ bảo vệ hậu phương vững chắc, phục vụ tiền tuyến đánh to thắng lớn. Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan và chủ quan, Đảng bộ chưa làm tốt nhiệm vụ triệt để giảm tô và thuế nông nghiệp. Trước những yêu cầu to lớn của kháng chiến trong giai đoạn mới, Đảng bộ quyết tâm phát huy sức mạnh của nhân dân, tiếp tục bảo vệ hậu phương, dốc sức chi viện chiến trường đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược. 4. Đẩy mạnh phong trào kháng chiến toàn diện, góp phần cùng cả nước đánh bại hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược (1953 đến 7-1954) Bị thất bại nặng nề trên khắp chiến trường Đông Dương, thực dân Pháp lâm vào thế hoàn toàn bị động. Từ mùa Hè năm 1953, thực dân Pháp phải dựa vào đế quốc Mỹ để thực hiện kế hoạch Na-va. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Trung ương và Liên khu ủy giao nhiệm vụ hết sức nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang cho Hà Tĩnh là “bảo vệ hậu phương phục vụ tiền tuyến”. Đảng bộ Hương Sơn quyết tâm lãnh đạo nhân dân cùng với toàn tỉnh hoàn thành nhiệm vụ của Trung ương, Liên khu và tỉnh giao. Bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, nhân dân Hương Sơn phải đối phó với sự đánh phá điên cuồng của máy bay địch. Ngày 31-5-1953, địch nhiều lần ném bom vào xã Bình Mỹ. Trong 6 tháng cuối năm, chúng thường xuyên đánh phá, nhiều nhất là vào các xã Bình Mỹ, Phúc Dương, đánh sập cầu


116 Nầm. Thậm chí trong 10 ngày cuối tháng 6-1954, chúng còn điên cuồng bắn phá các xã: Quang Diệm, Mỹ Long, Đồng Khánh, Thịnh Văn, Phúc An Ninh, Bình Mỹ, Phúc Dương, gây nhiều thiệt hại cho nhân dân. Riêng xã Phúc Dương, bị cháy 40 nóc nhà, xã Bình Mỹ và Thịnh Văn bị thương vong hơn chục người… Kẻ thù còn ra sức tuyên truyền, vu khống Việt Minh, phao tin thất thiệt để reo rắc hoang mang trong nhân dân, kêu gọi nhân dân chống lại kháng chiến. Chúng rải truyền đơn khắp nơi, có khi ngồi trên máy bay thấp và dùng loa phóng thanh nói chõ xuống. Đồng thời, máy bay địch còn rải côn trùng, rải những chất lạ hòng làm cho nhân dân hoang mang, lo sợ. Chúng dùng trăm phương, ngàn kế hòng lung lạc tinh thần của nhân dân, phá hoại tiềm lực của địa phương, mưu toan ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Trước tình hình đó, Đảng bộ Hương Sơn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đảng viên, cán bộ và nhân dân nhận rõ tình hình nhiệm vụ, nhất là nhận rõ sự suy yếu của thực dân Pháp xâm lược trong bước đường cùng phải dựa vào đế quốc Mỹ; đồng thời, làm cho nhân dân quán triệt chủ trương tổng tiến công chiến lược giành thắng lợi quyết định trên chiến trường của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ mà Đảng bộ, nhân dân Hương Sơn phải tăng cường bố phòng, bảo vệ vững chắc địa phương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới phía Tây, ra sức bồi dưỡng sức dân, đẩy mạnh sản xuất và chi viện cao nhất sức người, sức của cho các chiến trường. Các chi bộ tổ chức học tập cho đảng viên và lãnh đạo tổ chức học tập cho các đoàn thể quần chúng, các tổ chức vũ trang. Qua đó, tạo nên một bầu không khí sôi nổi, hào hùng, lạc quan, tin tưởng bao trùm khắp các thôn xóm, từ vùng xuôi đến vùng thượng. Nhân dân Hương Sơn lại vừa thoát ra khỏi những ngày đói kém, giáp hạt nặng nề từ đầu năm. Vụ chiêm, vụ mùa năm 1953, đều bội thu nhờ tích cực làm cỏ, bón phân, tiêu biểu như các xã: Tân Mỹ, Mỹ Hòa, An Lễ, Tuần Tiến. Lúa mùa, trừ các xã ở thấp bị lụt mất, còn đa số cho thu hoạch khá. Năm 1953, tổng thu hoạch vụ chiêm đạt 6.510 tấn, vụ mùa và vụ bát đạt 5.783 tấn, vượt hẳn so với năm 1951 là năm được mùa trước đây47. Giá gạo hạ xuống, nhân dân phấn 47 Tình hình kinh tế - văn hóa Hà Tĩnh 1931-1954. Ủy ban kế hoạch và Chi cục thống kê xuất bản.


117 khởi. Bà con nông dân càng hồ hởi vì cuộc đấu tranh triệt để giảm tô 25% đã thu được thắng lợi. Chủ trương của Trung ương: “Phóng tay phát động quần chúng đấu tranh thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất”, tuy chưa triển khai đến Hương Sơn nhưng các chi bộ đã biết khai thác thuận lợi này để đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nông dân đòi triệt để giảm tô 25%. Cuộc đấu tranh làm cho các chủ ruộng không dám chần chừ trước đòi hỏi chính đáng của nông dân. Một số nơi, nông dân đòi giảm 50-60%, các chủ ruộng cũng phải thực hiện. Nông nghiệp được mùa, các ngành thủ công nghiệp được vực dậy nhanh chóng. Sau khi Tỉnh ủy chỉ đạo mở các hội nghị chuyên đề về thủ công nghiệp, Công đoàn huyện Hương Sơn tranh thủ được sự giúp đỡ của Ty kinh tế và Liên hiệp công đoàn Hà Tĩnh để phục hồi và đẩy mạnh các ngành nghề thủ công. Sau Hội nghị bông vải sợi của tỉnh (tháng 5-1953) và Hội nghị phát động đấu tranh kinh tế với địch (tháng 6-1953), một chiến dịch tuyên truyền dùng hàng nội, bài trừ hàng ngoại được tổ chức trong toàn huyện. Công đoàn, Nông hội, Phụ nữ, Thanh niên… mở các hội nghị phổ biến chủ trương của tỉnh đến tận đoàn viên, hội viên. Công đoàn còn phân công cán bộ về từng cơ sở, từng gia đình thủ công nghiệp để phổ biến, bàn bạc việc phục hồi sản xuất. Các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất thủ công được chấn chỉnh lại. Ngành dệt nhờ có mậu dịch cung cấp sợi và thu mua vải cho quân nhu nên càng tiến mạnh. Cuối năm 1953, quân nhu không thu mua nữa nhưng hợp tác xã Thịnh Văn vẫn tìm được thị trường tiêu thụ để duy trì và đẩy mạnh sản xuất. Trong 5 tháng đầu năm 1954, số vải dệt bằng cả năm 1953. Trong bom đạn ác liệt, không những sản xuất vẫn được đẩy mạnh mà sự nghiệp văn hóa, giáo dục vẫn phát triển nhanh. Các trường cấp II quốc lập Bình Mỹ, Hàm Phố, An Lễ lần lượt ra đời. Các trường cấp I đã chuẩn bị chuyển hướng thành trường dân lập. Công tác chống tái mù chữ, bổ túc bình dân được đẩy lên cao. Sau khi biết đọc, biết viết, nhân dân càng hăng hái đi học. Nhiều người vừa đi dân công về đến lớp ngay để ôn tập. Công tác thông tin tuyên truyền có cơ hội phát triển mạnh. Bộ máy thông tin tuyên truyền từ trên xuống dưới được củng cố và tăng cường. Tin chiến thắng dồn dập từ các mặt trận cùng những thắng lợi trên mọi mặt ở hậu phương được truyền đi nhanh chóng và sôi nổi. Những đêm lửa trại, những đêm ca kịch


118 mừng thắng lợi, tiễn đưa tân binh, dân công lên đường làm nhiệm vụ, những đêm liên hoan giữa đồng bào địa phương với cán bộ, công nhân các cơ xưởng, những chiều đá bóng, đấu bóng chuyền, điền kinh giữa các đoàn thể thanh niên kết nghĩa của địa phương với cơ xưởng… diễn ra liên tục làm cho không khí trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc kháng chiến tuy gay go, gian khổ hơn trước nhưng luôn luôn sôi động. Đặc biệt, tháng liên hoan hữu nghị Việt - Trung - Xô (tháng 2-1954) mừng thắng lợi ngoại giao và thắng lợi quân sự diễn ra rất vui nhộn, rầm rộ, đều khắp ở tất cả các thôn xóm, cuốn hút cả ông già bà lão cùng ca hát, nhảy múa với con cháu. Ban thông tin tuyên truyền huyện phối hợp với Đoàn thanh niên kịp thời phổ biến cho thanh thiếu nhi những bài hát, điệu múa vui, đơn giản, dễ tập, lôi cuốn mọi người. Tiếng hát thắm tình Việt - Trung - Xô vang lên khắp mọi nơi, trong các lớp học, trong các cuộc họp, các buổi tập trung… Mối tình hữu nghị Việt - Trung - Xô lúc bấy giờ thật thắm thiết cùng với những tin thắng lợi ở các chiến trường, ở Hội nghị Giơnevơ có sức động viên rất lớn các tầng lớp nhân dân. Trước yêu cầu đòi hỏi của chiến trường, được sự giáo dục động viên của các cấp bộ Đảng, chính quyền và đoàn thể, thanh niên hăng hái ra mặt trận, sợ lỡ mất cơ hội ngàn năm có một của trai thời chiến. Dân công tranh nhau đi tiền tuyến. Cuối năm 1953, đầu năm 1954, các đợt tuyển quân và thanh niên xung phong của huyện đều vượt kế hoạch. Báo cáo tháng 3-1954 của Tỉnh ủy về đợt 4 thanh niên xung phong nhận xét: “Tinh thần thanh niên rất hăng hái, huyện ủy lãnh đạo sít sao như Hương Sơn, Đức Thọ” 48. Trong tháng 3-1954, Tỉnh ủy thành lập 2 đại đội chủ lực cầu đường, trong đó có 1 trung đội phá bom nổ chậm gồm 66 người, làm nhiệm vụ sửa chữa đường ở những nơi xung yếu kịp thời cho bộ đội và dân công hành quân cấp tốc. Một nửa số quân của đơn vị này là thanh niên Hương Sơn49. Bước vào mùa Hè năm 1953, tỉnh huy động một lực lượng khá lớn dân công để sửa đường, làm kho thóc, phục vụ ngân hàng, mậu dịch để chuẩn bị công tác hậu cần cho mặt trận. Hương Sơn huy động 3 đợt dân công gồm 780 người loại B đi làm kho thóc cho tỉnh trong 10 ngày, 2 đợt dân công phục vụ 48 Báo cáo tháng 3-1954 của Tỉnh ủy, lưu tại TBLSĐ tỉnh Hà Tĩnh. 49 Báo cáo tháng 3-1954 của Ủy ban kháng chiến hành chính Hà Tĩnh. Lưu TBLSĐ Hà Tĩnh.


119 ngắn hạn trong các tháng 4, 5, 6 và tổ chức 1 đơn vị dân công loại C ở xã Bình Mỹ thường xuyên phục vụ việc chở hàng của xưởng quân giới ra bến sông. Tháng 10-1953, Ty công chính và Ủy ban kháng chiến hành chính Hương Sơn được tỉnh giao mở đường Truông Mèn (đường từ Hương Sơn sang Thanh Chương, Nghệ An). Dân công Hương Sơn trong đó có rất nhiều thợ mộc, thợ rèn đã đóng góp 15.000 công làm đường và 1.000 công làm cầu. Nhân dân các xã Quang Diệm, Kim Hoa, Đồng Khánh, Tuần Tiến được giao nhiệm vụ vào rừng lấy gỗ phục vụ công trường. Dân công và nhân dân 4 xã trên tích cực, khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn. Tiếp đó, thực hiện lệnh của Liên khu, từ ngày 15-1 đến 28-2-1954, dân công Hương Sơn cùng dân công các huyện kề cận hoàn thành việc sửa chữa 47 km đường quốc lộ 8 đến tận Na Pê. Dân công hỏa tuyến liên tục ra mặt trận. Trong tháng 5-1953, hai đại đội đi tiếp viện cho mặt trận Trung Lào và mặt trận Nam Thừa Thiên. Đến tháng 9, có 492 dân công đi tiếp vào Nam Thừa Thiên… Chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, đúng ngày 31-1-1954, gần Tết Quý Tỵ, 1.845 dân công trai tráng khỏe mạnh với thuyền, xe đủ loại, xe cút kít, xe đạp thồ rầm rập lên đường. Đội vận tải đường sông của Hương Sơn được chấn chỉnh lại để phục vụ chiến dịch. Dù là giữa ngày mùa bận rộn hay phải đón Tết giữa rừng sâu hoặc ngoài mặt trận, dù phải chịu đói, chịu rét và phải chống chọi với những cơn sốt rừng ác liệt… dân công Hương Sơn luôn luôn làm tròn nhiệm vụ và đi về rất hào hứng, phấn khởi. Người về kể lại những tin tức cụ thể sinh động những cảnh Tây đầu hàng, dân công áp giải hàng binh và áp tải chiến lợi phẩm ra tuyến sau… làm cho mọi người càng háo hức ra hỏa tuyến. Người ở nhà thay người đi đảm đang mọi công việc của hậu phương. Huyện ủy chăm lo lãnh đạo việc động viên thanh niên tòng quân, đi thanh niên xung phong cũng như tổ chức các đợt dân công, lúc nào cũng bố trí cán bộ trung kiên lãnh đạo các đơn vị. Đồng chí Nguyễn Liêu - nguyên Quyền Bí thư Huyện ủy liên tục đi dân công Thanh Hóa rồi đi phụ trách thanh niên xung phong và hy sinh anh dũng ngoài mặt trận. Song song với việc dốc sức phục vụ chiến trường, Huyện ủy hết sức coi trọng lãnh đạo công tác bảo vệ hậu phương. Lực lượng vũ trang và bán vũ trang của huyện, của xã được chấn chỉnh và tăng cường. Mỗi lần tỉnh rút người của bộ đội địa phương bổ sung cho quân của tỉnh hay bộ đội chủ lực, lập tức dân


120 quân du kích xã được điều lên thay thế. Vào tháng 4-1953, Huyện đội được tái thành lập. Các đại đội, trung đội du kích thường trực xã cũng được thành lập. Quân số dân quân du kích các xã tăng lên nhanh chóng, như xã Bình Mỹ có 1 đại đội du kích, 1 tiểu đoàn dân quân, 1 trung đội lão quân, 1 trung đội nữ quân. Giữa năm 1953, bộ đội địa phương huyện được dự lớp chỉnh huấn trong 2 tháng do tỉnh tổ chức tại Đức Thọ. Chỉnh huấn chính trị xong, đơn vị trở về địa phương tổ chức học 12 lời thề của lực lượng vũ trang và huấn luyện quân sự từ tiểu đội, trung đội đến đại đội tác chiến. Dân quân du kích xã cũng được chỉnh huấn, chỉnh quân tuy thời gian ngắn hơn. Các ban chỉ huy xã đội, xóm đội được huấn luyện đủ sức chỉ huy tiểu đội, trung đội chiến đấu. Các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân góp phần nâng cao nhận thức của các chiến sĩ về bản chất giai cấp của bộ đội, tinh thần chiến đấu hy sinh vì giai cấp, vì dân tộc; hiểu biết về tình hình, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến trong giai đoạn quyết định, đồng thời nâng cao trình độ kỹ thuật chiến đấu cho bộ đội. Trước tình hình, nhiệm vụ mới, bộ đội địa phương và dân quân du kích thường xuyên tăng cường tuần tra canh gác, công tác bố phòng. Hệ thống hầm, hào, giao thông liên lạc, hầm, hào tác chiến… được củng cố. Các bãi trống có điều kiện cho quân địch nhảy dù đều được cắm chông tre. Công tác phòng không của nhân dân được chấn chỉnh, tăng cường. Đồng thời, công tác bảo mật phòng gian, giữ gìn an ninh trật tự hết sức được chú trọng. Các bộ, các cấp, các ngành, các đoàn thể được học tập tài liệu “Công an xã” và tài liệu “Quản chế”, quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ của công an, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm, chủ trương, chính sách đối với những phần tử phá hoại và tình nghi phá hoại… Sau khi học tập xong, Huyện ủy chỉ đạo ngành công an củng cố tổ chức từ huyện đến tất cả các xã, đồng thời củng cố và tăng cường các đội thiếu niên trinh sát, liên lạc, thông tin giúp công an. Tháng 7-1953, việc củng cố tổ chức công an được hoàn thành. Từ đó, công an, bộ đội, dân quân du kích các xã phối hợp chặt chẽ với nhau, có phương án tác chiến trong mọi tình huống nên nắm bắt và ngăn chặn kịp thời các hành động phá hoại của những phần tử xấu trong nội bộ nhân dân cũng như đánh lui các đợt biệt kích của quân địch từ bên ngoài vào.


121 Trong các tháng 7, 8, 9, 10, 12 năm 1953, nhiều lần quân Pháp và Lào gian từ Na Pê kéo xuống Kim Cương nhưng đều bị dân quân du kích và công an đánh lui. Ngày 5-9-1953, ba chục tên đến cách Kim Cương 1 km đã bị dân quân du kích ném lựu đạn, giật mìn đánh trả, chúng phải bỏ chạy 50. Tiếp đó, ngày 26- 10, có 120 tên hóa trang làm dân thường vừa đến Kim Cương đã bị dân quân du kích phát hiện, ném lựu đạn, giật mìn giết chết 2 tên, làm bị thương 12 tên, những tên sống sót phải tháo chạy 51. Trung đội trưởng Nguyễn Thanh (giáo dân), người chỉ huy chống biệt kích gan dạ của dân quân du kích Tây Sơn cùng toàn thể quân dân Tây Sơn bảo vệ vững chắc biên giới quê hương. Trong công tác bảo vệ hậu phương, phòng ngự biên giới, sự lãnh đạo của Đảng bộ khá sát sao. Các cấp ủy luôn luôn kiểm tra, đôn đốc các cơ quan chức năng triển khai nhiệm vụ nhằm bảo đảm an toàn tính mạng cho nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do địch gây ra. Cán bộ Huyện ủy, Huyện đội thường xuyên kiểm tra biên giới, khi có tin báo biệt kích, cán bộ huyện thường có mặt ngay để chỉ đạo địa phương tác chiến và rút kinh nghiệm bố trí cho lần sau. Từ trong công tác bảo vệ hậu phương phục vụ chiến dịch tổng tấn công cũng như các cuộc vận động triệt để giảm tô, thu thuế nông nghiệp, các chi bộ đã bồi dưỡng, kết nạp được nhiều đảng viên thuộc thành phần cơ bản. Qua đó, đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể các cấp được kiện toàn, hầu hết thuộc thành phần cơ bản. Những cán bộ có vướng vào thành phần lớp trên hoặc được điều động thay đổi, hoặc được cho nghỉ để chuẩn bị cho công tác chỉnh đốn tổ chức và phóng tay phát động quần chúng sắp tới. Mọi công việc từ xây dựng, bảo vệ hậu phương đến phục vụ tiền tuyến diễn ra dồn dập, sôi nổi, khẩn trương trong tinh thần lạc quan, tin tưởng. Nhưng vẫn còn một số ít đảng viên, cán bộ, nhân dân có nơi, có lúc nảy sinh những tư tưởng dao động, hoài nghi, sợ địch hoặc ảo tưởng hòa bình… Các chi bộ lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, các tổ chức vũ trang luôn luôn cảnh giác, đấu tranh chống lại những biểu hiện lệch lạc đó; đồng thời, động viên nhân dân và lực lượng vũ trang hoàn thành nhiệm vụ, nhất là dốc sức phục vụ chiến trường, 50 Báo cáo ba tháng 7, 8, 9 năm 1953 của Tỉnh ủy. Lưu TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh. 51 Báo cáo tháng 10 năm 1953 của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh. Lưu TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.


122 phục vụ chiến dịch tổng tấn công thắng lợi. Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta kết thúc. Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn vô cùng phấn khởi, tự hào vì đã đóng góp công sức của mình vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc. * * * Giành được chính quyền chưa bao lâu, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo quân dân trong huyện góp sức cùng cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược. Trải qua chặng đường gian lao, thử thách, chống thù trong, giặc ngoài và chống thiên tai khắc nghiệt, Đảng bộ huyện ngày càng lớn mạnh cả số lượng và chất lượng, cũng như tổ chức và năng lực; phát huy cao độ truyền thống yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, truyền thống hiếu học lâu đời của nhân dân trong huyện để xây dựng Hương Sơn thành hậu phương an toàn, vững chắc, làm tròn nhiệm vụ đón nhận các cơ quan, cơ xưởng sơ tán và đồng bào tản cư; không tiếc sức người, sức của chi viện tiền tuyến và cung cấp cho cả nước nhiều cán bộ, nhiều thanh niên có trình độ cao. Ngoài mặt trận, con em Hương Sơn chiến đấu anh dũng, tiêu biểu như đồng chí Trần Hành (quê Sơn Châu) được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang; 465 người con của Hương Sơn đã anh dũng hy sinh để góp phần đem lại chiến thắng vinh quang cho Tổ quốc. Ở hậu phương, nhân dân và lực lượng vũ trang Hương Sơn ra sức đẩy mạnh sản xuất, bảo vệ xóm làng, phòng ngự biên giới. Tại Đại hội Liên hoan dân quân du kích toàn tỉnh ngày 3-7-1954, dân quân du kích xã Hữu Bằng được biểu dương và các đồng chí Lê Văn Tần, trung đội trưởng (quê Sơn Thịnh); đồng chí Nguyễn Thanh, trung đội trưởng (quê Sơn Kim), em Đào Huấn 15 tuổi, một thiếu niên dũng cảm, mưu trí (quê Sơn Bằng) là 3 trong số 12 người của toàn tỉnh được khen thưởng. Đồng chí Lê Văn Tần và em Đào Huấn được Đại hội cử đi dự Liên hoan toàn Khu. Trên các công trường và ngoài hỏa tuyến, thanh niên xung phong và dân công Hương Sơn luôn luôn xung kích, hăng hái đi đầu. Chị Tống Thị Nuôi (quê Sơn Hòa) được tặng danh


123 hiệu Chiến sĩ thi đua dân công Liên khu IV, là người đầu tiên của Hương Sơn ở hậu phương được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Nhân dân Hương Sơn thực sự được hưởng một cuộc sống tự do trong một nước độc lập, dưới chế độ dân chủ. Giữa những ngày giáp hạt, giữa lúc thiên tai, tuy vẫn có người bị đói tạm thời, nhưng nhờ có Đảng, có chính quyền, đoàn thể và có sự đùm bọc, tương trợ lẫn nhau của mọi người nên đã nhanh chóng vượt qua khó khăn. Đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân so với trước cách mạng đã có sự chuyển biến nhảy vọt. Mọi người được học hành, được chữa bệnh, được hưởng những quyền lợi văn hóa. Từ 90% dân số mù chữ đã thành 90% dân số biết chữ. Hầu hết con em trong độ tuổi đều được đến trường. Mặc dù có 56 km phía Tây đối mặt với quân thù, nhưng suốt 9 năm kháng chiến, không một toán biệt kích, một tên thám báo nào lọt vào lãnh thổ và đứng chân được 24 tiếng trên địa bàn huyện. Tuy còn những khuyết điểm như còn ấu trĩ, lúc tả khuynh, lúc hữu khuynh, còn nhiều thiếu sót trong phương pháp lãnh đạo như có khi mệnh lệnh, gò ép, cưỡng bức quần chúng, nhưng Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo quân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ hậu phương, đón nhận các cơ quan, các đơn vị bộ đội, xưởng ấn loát Trung Bộ, các xưởng quân giới của Liên khu 3, Liên khu 4, Trường thiếu sinh quân Liên khu 4, nhiều đồng bào, học sinh Bình - Trị - Thiên và nhân dân Lào tản cư đến, phục vụ tiền tuyến trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bước vào một thời kỳ cách mạng mới.


124 Chương III LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÔI PHỤC KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954 - 1964) I. HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, KHÔI PHỤC KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ VÀ HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (8/1954 - 12/1957) 1. Lãnh đạo công tác hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (ngày 21-7-1954), hòa bình được lập lại trên miền Bắc Việt Nam. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới: tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Bước vào giai đoạn cách mạng mới, tình hình Hương Sơn có nhiều thuận lợi. Toàn Đảng, toàn dân vui mừng, phấn khởi, tự hào trước thắng lợi to lớn của 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đảng bộ đã lớn mạnh và trưởng thành thêm một bước. Tổ chức chính quyền ngày càng vững vàng. Các đoàn thể quần chúng phát triển rộng rãi. Lòng yêu nước và trình độ giác ngộ cách mạng của nhân dân được nâng cao. Nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, tình hình chung của huyện còn nhiều khó khăn. Tuy Hương Sơn không bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng thương tích chiến tranh không phải là ít, thêm vào đó, hàng năm, thiên tai liên tiếp xảy ra đã để lại những hậu quả nghiêm trọng. Tình hình chính trị cũng có phần phức tạp. Lợi dụng đức tin của con chiên, bọn phản động đội lốt tôn giáo tung tin Chúa đã vào Nam, tuyên truyền, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào theo đạo Công giáo di cư vào Nam. Chúng xuyên tạc thắng lợi to lớn mà nhân dân ta đã giành được, chia rẽ Đảng với nhân dân, chính quyền với nhân dân. Trong lúc đó, nội bộ cấp ủy huyện qua các đợt kiện toàn, bổ sung có nhiều xáo trộn. Một số đồng chí huyện ủy viên được cấp trên


125 điều đi công tác nên dẫn đến thiếu hụt cán bộ lãnh đạo chủ chốt của huyện; Nội bộ biểu hiện mất đoàn kết kéo dài. Để khắc phục những khó khăn, thách thức đó, được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, Đảng bộ Hương Sơn đã kịp thời bổ sung, kiện toàn một bước Ban lãnh đạo huyện và đề ra các kế hoạch chuyển hướng mọi hoạt động từ thời chiến sang thời bình, từng bước hàn gắn vết thương chiến tranh, chuẩn bị phát động quần chúng đòi giảm tô. Các cơ quan huyện trở về huyện lỵ Phố Châu, huyện tổ chức nhân dân sửa lại đường 8 và các đường liên hương, liên huyện, bắc cầu phao ở Choi, cầu tạm ở Nầm… Chợ cũng dời về địa điểm cũ. Trường lớp tập trung về một địa điểm với những phòng học tạm bằng tranh tre. Mọi hoạt động kinh tế - văn hóa được chuyển hướng và phát triển trong không khí hòa bình. Các địa phương trong toàn huyện tổ chức rầm rộ, sôi nổi với nhiều cuộc vui văn nghệ, thể dục, thể thao, đá bóng, cướp cù, đua thuyền trên sông v.v… nhân Ngày Quốc khánh (2-9-1954). Thực hiện chỉ thị của Trung ương, của Liên khu ủy Khu 4 và Tỉnh ủy Hà Tĩnh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hương Sơn sẵn sàng đón tiếp và tạo điều kiện cho cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc. Trong tháng 4-1954, Hương Sơn đã đón 18 cán bộ về ở trong 17 gia đình. Mặc dù đời sống còn nhiều khó khăn nhưng các gia đình đều đã tạo điều kiện thuận lợi để các cán bộ miền Nam ăn, ở, sinh hoạt. Trong lúc nhân dân đang phấn khởi xây dựng cuộc sống mới trong hòa bình, bọn phản động lại ra sức phá hoại, phao tin đồn nhảm, đả kích cán bộ, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào Công giáo di cư vào Nam. Chúng hoạt động mạnh ở các xã Sơn Lâm, Sơn Trung, Sơn Châu, Sơn Tiến, Sơn An, nhất là vào thời điểm tháng 6-1955. Lợi dụng lễ Thánh An Tôn, vào các ngày 10 và 11-6-1955 chúng tập trung giáo dân 3 huyện: Hương Sơn, Đức Thọ, Hương Khê tại Sơn An, ngày 13-6, chúng lại tập trung hơn 1.000 đồng bào tại nhà thờ Khe Sắn (Sơn Lâm) để tuyên truyền việc vào Nam theo Chúa. Hàng ngày, một số đồng bào Công giáo bị mê hoặc, bị lừa gạt đã đến trụ sở Ủy ban xã, thúc ép chính quyền cấp giấy để đi Nam52. Cuộc đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù diễn ra vô cùng gay go và không kém phần quyết liệt. Ngày 28-12-1954, Tỉnh ủy Hà Tĩnh ra quyết 52 Ở Sơn Châu, ngày 16-6 có 20 người, ngày 21-6 có 41 người; Sơn Tiến ngày 11-6 có 19 người, ngày 29-6 có 20 người.


126 định thành lập các đội công tác chính trị đấu tranh chống âm mưu Mỹ và tay sai. Đội công tác ở Hương Sơn có 20 người, có 1 chi bộ Đảng trực thuộc Tỉnh ủy. Đội chỉ đạo các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương tổ chức lực lượng đấu tranh chống địch, tuyên truyền về thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ, giải thích cho đồng bào hiểu rõ âm mưu của địch, thuyết phục đồng bào Công giáo yên tâm ở lại làm ăn. Dân quân du kích và giáo viên, học sinh là lực lượng đông đảo của các đội chống địch cưỡng ép di cư ở các địa phương. Phần đông đồng bào Công giáo đã từng tích cực tham gia kháng chiến, nay sớm nhận rõ âm mưu của bọn phản động, yên tâm ở lại quê hương. Nhiều người đã giúp cán bộ vạch trần những luận điệu tuyên truyền xảo trá của bọn phản động, vận động những người khác đấu tranh đòi ở lại. Trong những người ra đi, chỉ có một số ít người tự nguyện, phần đông bị địch cưỡng ép vì lý do này hoặc lý do khác. Ngoài những khó khăn, phức tạp trong cuộc đấu tranh chống thiên tai và chống địch phá hoại, nội bộ Đảng lúc này lại bộc lộ nhiều khó khăn chủ quan. Huyện ủy chỉ còn lại 4 đồng chí đều mới được lần lượt bổ sung trong năm 1954. Ban chỉ huy các xã mới được đề bạt trong giảm tô, hầu hết là cốt cán trong đấu tranh nhưng trình độ thấp, chưa có kinh nghiệm công tác. Cán bộ cũ có năng lực, có kinh nghiệm hầu hết đã nghỉ hoặc chuyển công tác khác. Một số đảng viên và nhân dân đã bước đầu có phần hoang mang, lo lắng. Ở nhiều địa phương việc cấp phát cứu đói tiến hành không thật sự công bằng, không đúng chủ trương càng làm cho nhân dân, cán bộ, đảng viên thắc mắc. Diện tích cấy vụ chiêm 1955 giảm xuống so với vụ chiêm trước đến 300 ha. Ruộng đất của đồng bào đi Nam bỏ hoang hóa… Để khắc phục tình hình đó, đầu tháng 2-1955, một đoàn cán bộ của Liên khu ủy về nắm tình hình và giúp Hương Sơn bổ cứu. Ngày 31-3-1955, Tỉnh ủy ra Chỉ thị đẩy mạnh phong trào sản xuất tương trợ mùa xuân và chăm bón lúa chiêm. Tiếp đó, Tỉnh ủy chỉ đạo tổ chức lực lượng dân quân du kích kết hợp chống địch cưỡng ép di dân với sản xuất cứu đói và chăm sóc lúa. Nhờ có sự giúp đỡ của Liên khu ủy và Tỉnh ủy, dân quân du kích và các tổ nông hội bắt đầu hoạt động tích cực, thúc đẩy được phong trào chung. Năng suất vụ chiêm đạt sản lượng khá, sản lượng cao hơn vụ chiêm trước. Được thương nghiệp tỉnh đầu tư, huyện xây dựng cửa hàng mậu dịch quốc doanh ở Phố Châu.


127 Tháng 3-1955, công trường Tà vẹt của tỉnh thành lập ở xã Sơn Tây. Trong 3 tháng, công trường đã sản xuất được hơn 10 vạn tà vẹt phục vụ công cuộc khôi phục đường sắt. Đông đảo bà con sơn tràng Hương Sơn đã tích cực phục vụ công trường và nhờ đó đã cải thiện được một phần đời sống của mình. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, công trường tà vẹt chuyển thành quốc doanh lâm khẩn Ngã Đôi, sau đổi thành lâm trường Hương Sơn, đã thu hút một số lớn lao động của huyện. 2. Hoàn thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất Thời gian này, cuộc cách mạng ruộng đất đang diễn ra sôi nổi ở khắp vùng nông thôn. Các đội giảm tô đã về ở một số xã trong huyện từ cuối năm 1953 để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh của nông dân. Bước vào đợt 5 giảm tô53, bắt đầu từ tháng 9-1954, tất cả các xã đều có đội về phát động quần chúng. Cuộc đấu tranh thực sự diễn ra sôi động, quyết liệt và đã hoàn thành vào cuối năm 1954. Cuộc phát động quần chúng giảm tô đã đem lại những kết quả bước đầu. Các chủ ruộng phải truy nạp trả lại cho nông dân số tô và tức trước đây họ chưa giảm và nạp đủ số thuế còn thiếu mấy năm trước. Toàn huyện đã thu được 90% số thóc thuế còn thiếu. Sau khi hoàn thành giảm tô, các đội đã điều chỉnh bản đồ hành chính các xã và thực hiện một bước kiện toàn tổ chức. Toàn huyện, từ 15 xã chia thành 29 xã (có 5 xã giữ nguyên)54, dân số là 66.051 người, có 29 chi bộ xã với số đảng viên là 3.191 người. Cấp ủy, chính quyền và ban chấp hành các đoàn thể từ huyện đến xã bao gồm tuyệt đại đa số những người thuộc thành phần bần, cố nông. Chi ủy ít nhất là chi ủy Sơn Phú có 2 đồng chí. Chi ủy đông nhất là chi ủy Sơn Ninh và chi ủy Sơn Thịnh, mỗi nơi có 7 đồng chí. Ở huyện, đồng chí Nguyễn Mật được điều đi làm công tác giảm tô, đồng chí Lê Văn Thịnh được chỉ định làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Hà Huy Giáp làm Chủ tịch UBHC huyện. Bước sang năm 1955, tình hình trở nên khó khăn, phức tạp. Hạn hán đầu năm và hai trận lụt liên tiếp vào tháng 9 và tháng 10, trận sau lớn hơn trận trước, đã gây nhiều thiệt hại. Vụ chiêm thất bát, thu hoạch giảm hơn vụ chiêm trước 2.600 tấn. Vụ mùa cấy không hết diện tích, năng suất lại quá thấp (194kg/ha), thu hoạch rất kém, giá gạo và thực phẩm nhảy vọt. Tình trạng đói kém càng trầm trọng vào đầu năm 1955. Các ngành nghề thủ công bị đình đốn, việc khai thác lâm sản cũng khó khăn vì 53 Trong toàn Liên khu IV có 6 đợt phát động quần chúng giảm tô. 54 Xem danh sách xã mới ở phần phụ lục


128 sản phẩm không tiêu thụ được. Dịch bệnh phát triển. Tỉnh phải cấp phát thóc, gạo, vải cứu tế cho dân. Cùng với đó, cuộc vận động cải cách ruộng đất diễn ra từ tháng 6-1955, các đội cải cách ruộng đất đợt 455 của Liên khu về phát động quần chúng ở Hương Sơn. Đây thực sự là một cuộc đấu tranh “long trời lở đất” diễn ra ở tất cả các xã trong huyện. Nông dân, nhất là bần cố nông vùng dậy đấu tranh, tố cáo tội ác của địa chủ, phú nông theo khẩu hiệu “có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”. Mối thù giai cấp được khơi dậy. Những gia đình địa chủ bóc lột bị cô lập hoàn toàn. Các tòa án nhân dân được thiết lập ở từng xã để xét xử những người bị quy kết là địa chủ gian ác, là cường hào, là phản động. Những án tử hình được thi hành ngay tại chỗ, ngay tại đấu trường, trước đông đảo nông dân càng làm cho khí thế đấu tranh của nông dân bùng lên mạnh mẽ. Phong trào văn nghệ quần chúng lên cao, thể loại hò vè được sáng tác kịp thời tại chỗ tuyên truyền, cổ động cho cuộc đấu tranh. Qua cuộc vận động này, toàn huyện đã quy 610 hộ địa chủ (4,34% tổng số hộ), 890 hộ phú nông (6,33% tổng số hộ). Ruộng đất, nhà cửa, tài sản của địa chủ, phú nông bị tịch thu, trưng thu, trưng mua toàn bộ hoặc một phần để chia cho nông dân. Bà con nông dân hồ hởi, phấn khởi đi nhận quả thực, nhà ở và đi cắm thẻ nhận ruộng. Vừa tiến hành cải cách ruộng đất, các đội công tác vừa tiến hành chỉnh đốn tổ chức, kiện toàn lại mỗi tổ chức quân, dân, chính, đảng ở địa phương, đưa những người thuộc thành phần bần, cố nông và trung nông lớp dưới đã tích cực đấu tranh lên làm cán bộ. Tổ chức dân quân và công an cũng được kiện toàn, bao gồm những người thuộc thành phần cơ bản. Nhiều cán bộ mới được đề bạt trong giảm tô cũng được thay thế. Một bộ máy lãnh đạo, quản lý từ huyện đến xã, xóm gần như hoàn toàn mới. Đồng chí Hà Huy Giáp - Chủ tịch Uỷ ban Hành chính huyện trong giảm tô được điều đi làm công tác ngoại thương, đồng chí Lê Văn Thịnh được cử thay thế. Ban lãnh đạo mới đã phát động phong trào chống hạn sôi nổi, chăm sóc lúa tốt, nâng tổng sản lượng lúa cả năm 1956 cao hơn năm trước 1.526 tấn; Đồng thời, bước đầu phục hồi được một số nghề thủ công như: dệt vải, làm được mật, gạch ngói và nghề sơn tràng, thành lập hợp tác xã mua bán huyện và phát triển mậu dịch. Cuộc cải cách ruộng đất đã thu được thắng lợi to lớn và rất cơ bản. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam nêu trong Luận cương Chính trị 1930 của Đảng là “Người 55 Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở Liên khu 4 chia làm 5 đợt.


129 cày có ruộng” đã được thực hiện. Ước mơ ngàn đời của người nông dân đã được đáp ứng. Uy quyền của địa chủ phong kiến ở Hương Sơn rất lớn, ngự trị ở nông thôn từ bao đời nay bị thủ tiêu hoàn toàn. Nông dân lao động được giải phóng vĩnh viễn khỏi ách áp bức, bóc lột của địa chủ, phong kiến. Quan hệ sản xuất phong kiến cơ bản bị xóa bỏ, tạo điều kiện cho việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, bước đầu tạo điều kiện cho sức sản xuất phát triển. Nhưng quá trình tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, gây ra những thiệt hại cho Đảng, cho dân, cho đất nước cả trước mắt và lâu dài. Đặc biệt, các đợt 5, 6 giảm tô và đợt 4 cải cách ruộng đất ở Hà Tĩnh phạm phải những sai lầm nặng nề nhất. Hương Sơn tiến hành thực hiện giảm tô vào đợt 5 và cải cách ruộng đất vào đợt 4 nên gánh chịu tất cả những sai lầm nghiêm trọng đó. Vì số địa chủ, phú nông được áp đặt theo chỉ tiêu của cấp trên giao nên các đội công tác về địa phương phải kích thành phần lên cho đủ và phải tìm cho ra cường hào, ác bá để xử. Nhiều địa chủ kháng chiến, nhân sĩ ở Hương Sơn đã một lòng một dạ theo cách mạng, theo kháng chiến nay bị quy là địa chủ phản động. Nhiều đảng viên, cán bộ trung kiên, có cả đảng viên từ thời 1930 - 1931 cũng bị án tù, bị tử hình oan uổng. Tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở đều bị coi là do giai cấp địa chủ phong kiến và phản động Quốc dân Đảng lũng đoạn nên bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân bị phân hóa, nghi ngờ lẫn nhau. Cha con, mẹ con, anh em thân thích, thầy trò có khi bị phân hóa thành thù bạn và đấu tố lẫn nhau. Một không khí nặng nề, căng thẳng trùm lên các cơ quan, các thôn xóm. Nhiều truyền thống đạo đức trong nền văn hóa làng xã bị phương hại, nhiều mối quan hệ bền chặt, tốt đẹp trong gia tộc bị cắt đứt. Tình đồng chí trong Đảng, tình cốt nhục trong họ hàng, tình làng nghĩa xóm trong nhân dân bị giảm sút. Nguyên nhân cơ bản của những sai lầm, khuyết điểm kể trên là “do không nắm vững tình hình đặc điểm của địa phương, do trình độ nhận thức của cán bộ bị hạn chế, phương pháp công tác của cán bộ chủ quan, áp đặt, giáo điều, không lắng nghe ý kiến của quần chúng, của tổ chức. Những sai lầm trong nhận định, đánh giá, trong phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban cải cách ruộng đất từ Trung ương


130 đến Khu ủy đã tạo cho cán bộ đoàn, đội ở Hà Tĩnh mắc khuyết điểm, sai lầm”56. Các đoàn, đội hoàn toàn không dựa vào các tổ chức cũ ở địa phương mà dựa vào “rễ, chuỗi” để phát động quần chúng và chỉnh đốn tổ chức. Bên cạnh đó, một số “rễ, chuỗi” bần, cố nông có phẩm chất tốt, không ít những phần tử lưu manh, buôn thần bán thánh, lừa đảo nhân dân cũng được đưa lên làm cốt cán, đưa vào Đảng, nắm giữ các chức vụ lãnh đạo ở địa phương, bất chấp Điều lệ Đảng. Có người vừa mới được kết nạp vào Đảng đã được chỉ định làm bí thư chi bộ. Những phần tử cơ hội là những kẻ nguy hiểm nhất trong việc vu khống người tốt. Các tổ chức Dân, Chính, Đảng cũ dưới con mắt của đoàn, đội đều bị các tổ chức của Quốc dân đảng, đều bị chỉnh đốn hết. Thậm chí như chi bộ xã Phúc Dương đã bị giải tán hoàn toàn trong đợt giảm tô cuối năm 1954. Các đảng viên bị oan ở chi bộ Phúc Dương đã cùng nhau ký tên vào một bản kiến nghị gửi lên Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trình bày quá trình thành lập và phấn đấu của chi bộ, những sai lầm trong phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, kiến nghị yêu cầu cấp trên giải quyết để đảm bảo cho cải cách ruộng đất thắng lợi. Nhờ tinh thần đấu tranh kiên quyết của những cán bộ, đảng viên trung kiên ở khắp nơi gửi nhiều kiến nghị, đơn thư như vậy nên Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh biết có sai lầm và kiên quyết sửa sai. Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa II) đã ra Nghị quyết khẳng định những thắng lợi và sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đề ra phương hướng, nhiệm vụ sửa sai. Công tác sửa sai được tiến hành theo phương châm trong trước, ngoài sau, trên trước, dưới sau, trong chỉnh đốn tổ chức trước, cải cách ruộng đất sau. Công tác sửa sai ở Hương Sơn được bắt đầu từ tháng 10 năm 1956. Các đảng viên, cán bộ bị xử lý sai nhanh chóng được trả lại đảng tịch, danh dự. Huyện ủy và UBHC huyện được kiện toàn. Đồng chí Nguyễn Xuân Cúc được chỉ định làm quyền Bí thư, rồi Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Mận được trả lại chức vụ Chủ tịch UBHC huyện; đồng chí Lê Văn Thịnh - nguyên Chủ tịch sau cải cách ruộng đất, được cử giữ chức Phó Chủ tịch UBHC huyện. 56 Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh, tập 2 (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1957, tr.15- 16.


131 Vào cuối tháng 11, đầu tháng 12-1956, cán bộ huyện và xã được tổ chức học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương khoá II; từ đó, triển khai xuống chi bộ và ra ngoài quần chúng nhân dân. Cán bộ, đảng viên, nhân dân Hương Sơn đã từng đồng cam cộng khổ trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, ra sức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, cuộc sống mới, đã từng hết lòng tin tưởng vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nay theo lời kêu gọi của Đảng và Bác, xóa bỏ mọi thành kiến, bất đồng, cùng bắt tay nhau khắc phục khó khăn, vượt qua những tổn thất, đau đớn do sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức gây ra, tiến hành từng bước sửa sai và phát huy những thắng lợi đã đạt được. Tuy vậy, tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân diễn biến phức tạp trong quá trình sửa sai như khuynh hướng chỉ thấy sai lầm, không thấy thắng lợi của cải cách ruộng đất, phủ nhận thành quả của cải cách ruộng đất hoặc khuynh hướng thành phần chủ nghĩa còn nặng. Một số người đòi trả thù, thóa mạ những cán bộ được đề bạt trong cải cách ruộng đất. Những cán bộ mới và thành phần bần cố nông, nhất là những người từng vu cáo, bịa đặt trong đấu tranh thì hoang mang, lo sợ, bọn phản động tiếp tục phá rối… Công tác sửa sai ở Hương Sơn không đều và tiến độ chậm hơn các huyện khác. Có nơi đảng viên chưa thông, không chịu đi họp như Sơn Phú. Có nơi đảng viên đi làm ăn ngoài xã, ngoài huyện nên chi bộ không họp được như Sơn Tân. Tỷ lệ đảng viên tham gia học Nghị quyết Trung ương 10 thấp. Đến ngày 20-1-1957, tất cả các huyện khác trong tỉnh đã hoàn thành xong bước I sửa sai (bước kiện toàn tổ chức) nhưng ở Hương Sơn vẫn còn 3 xã chưa tiến hành được. Đến bước II (bước sửa sai cải cách ruộng đất), số đảng viên tham gia học đường lối sửa sai tuy đông hơn, song cũng chỉ đạt 59% tổng số đảng viên. Ngày 15-6-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Hà Tĩnh. Các cán bộ lãnh đạo huyện, một số cán bộ lãnh đạo xã và một số đồng chí cách mạng lão thành được Tỉnh ủy mời về gặp Người và nghe Người nói chuyện. Người đã phân tích cho nhân dân thấy rõ ưu, khuyết điểm của Hà Tĩnh, chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt, đặc biệt, phải tiến hành sửa sai và chăm lo đời sống nhân dân cho tốt. Người ân cần dặn dò phải tăng cường đoàn kết, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật trong Đảng; cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu trước quần chúng để đưa phòng trào Hà Tĩnh tiến lên.


132 Sự quan tâm, lòng ưu ái và những lời dặn dò ân cần của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đạt nhanh chóng, rộng rãi đến các cơ sở, có sức mạnh to lớn để ổn định tư tưởng, củng cố đoàn kết trong Đảng và nhân dân, là động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy Hà Tĩnh nói chung, Hương Sơn nói riêng đẩy mạnh công tác sửa sai và các công tác khác. Ngày 12-9-1957, Ban Thường vụ Huyện ủy họp, nhận định công tác sửa sai của huyện về căn bản đã đạt được một số thành tích nhưng nói chung tiến độ còn quá chậm. Hội nghị quyết định: “Chuyển hướng kịp thời và đúng mức tinh thần khẩn trương và tập trung vào việc lãnh đạo của các cấp ủy vào công tác sửa sai là công trung tâm quan trọng bậc nhất”57, đồng thời, bổ sung thêm 3 đồng chí vào Ban công tác sửa sai, đưa số thành viên của Ban lên thành 7 đồng chí, cử đồng chí Nguyễn Mận - Chủ tịch UBHC làm Trưởng ban. Đến hết năm 1957, các chi bộ Đảng, các cơ quan Quân, Dân, Chính từ xã đến xóm được kiện toàn, công tác minh oan, sửa sai thành phần cơ bản được hoàn thành. Qua sửa sai, số địa chủ từ 610 hộ rút xuống còn 345 hộ, bằng 2,4% tổng số của huyện, trong đó, có 31 địa chủ kháng chiến, 2 địa chủ kiêm hộ công thương, chỉ có 20 địa chủ cường hào gian ác. Số phú nông từ 890 hộ giảm xuống còn 117 hộ, bằng 1,47% tổng số hộ. Song song với việc tiến hành sửa sai, Huyện ủy chú trọng lãnh đạo các lĩnh vực. Lĩnh vực sản xuất: trung tuần tháng 2-1957, Huyện ủy mở hội nghị sơ kết vụ chiêm, sau đó, liên tục phát động các đợt thi đua trên các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, phong trào của huyện chuyển biến khá mạnh, nhất là trong đợt phát động đấu tranh chống Mỹ - Diệm âm mưu chia cắt lâu dài đất nước. Nhìn chung, các xã đều cấy hết diện tích, có một số xã vượt chỉ tiêu kế hoạch. Công tác phòng chống hạn, chống lụt bão được chú ý. Xã Sơn Bình đắp đập Khe Su dài 50m, cao 8m, rộng 10m, được UBHC tỉnh tặng Bằng khen. Với những nỗ lực đó, mặc dù vụ chiêm bị hạn, vụ thu mùa bị lụt, nhưng tổng sản lượng lúa của huyện vẫn đạt 15,576 tấn, cao hơn các năm trước. Sản lượng mía, lạc cũng tăng hơn, diện tích lạc gấp 2 lần năm 1955, sản lượng đạt 359 tấn. Nhân dân các xã Sơn Tây, Sơn Kim, Sơn Lĩnh còn 57 Nghị quyết số 58-QN/HS ngày 12-9-1957 của Thường vụ Huyện ủy Hương Sơn. Lưu tại kho lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy.


133 trồng được 27 mẫu đay. Sơn Bằng có nhiều vườn cây ăn quả tốt. Các phong trào giúp đỡ thương binh miền Nam, phong trào dân công đắp đê La Giang đều đạt nhiều thành tích. Trong Hội nghị tổng kết phong trào nông nghiệp toàn tỉnh 2 năm 1956- 1957, xã Hương Sơn và tổ lâm nghiệp Sơn Trung được khen thưởng, trong số 36 chiến sĩ thi đua của toàn tỉnh, Hương Sơn có 6 người. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Lực lượng dân quân du kích và công an được chấn chỉnh lại, được giao nhiệm vụ vừa đảm bảo quốc phòng, trị an tốt, vừa tham gia đẩy mạnh sản xuất. Công an huyện đã phá được vụ gây rối của những phần tử xấu - tàn dư của Mặt trận quốc gia liên hiệp ở Sơn Trung, chặn đứng được nhiều đường dây vượt biên từ ngoài Bắc vào theo đường tắt qua biên giới sang Lào, có bọn phản động địa phương dẫn đường, cũng như phá được nhiều vụ móc nối của bọn gián điệp Mỹ từ Lào với bọn bản động nội địa, nhiều tên gián điệp bị sa lưới. Dân quân xóm Rù xã Sơn Kim nêu cao cảnh giác đã chặn được một nhóm vượt biên sang Lào. Tuy đạt được một số thành tích, song phong trào của huyện còn nhiều yếu kém và không đều giữa các địa phương, giữa các mặt. Sự lãnh đạo của Huyện ủy còn thiếu đồng bộ, khi tập trung vào công tác sửa sai thì bê trễ sản xuất, khi lo thuế thì bỏ phế sửa sai… Công tác sửa sai diễn ra quá chậm, chỉ có 6 xã hoàn thành đúng tiến độ. Việc thu thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp chưa đạt chỉ tiêu, kế hoạch. Công tác bổ túc văn hóa còn nhiều tồn tại. Phong trào tổ đổi công chưa khôi phục được. Nội bộ Huyện ủy thiếu đoàn kết: “Nội bộ thắc mắc, nghi ngờ nhau, đồng chí huyện ủy viên có khả năng hơn khinh đồng chí bí thư kém năng lực”58. Đây vừa là tồn tại vừa là nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém nêu trên của phong trào. Mặc dù còn những tồn tại nhất định, song nhìn chung, Đảng bộ, quân và dân Hương Sơn đã nỗ lực phấn đấu và cơ bản hoàn thành thắng lợi kế hoạch ba năm khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa, chuẩn bị mọi điều kiện để bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960). II. THỰC HIỆN KẾ HOẠCH 3 NĂM CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1958 - 1960) 58 Báo cáo tổng kết công tác tổ chức của Tỉnh ủy năm 1957. Lưu tại TBLSĐ tỉnh.


134 1. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và các Nghị quyết của Tỉnh ủy, xuất phát từ tình hình thực tế địa phương, Đảng bộ huyện Hương Sơn xây dựng kế hoạch 3 năm (1958-1960) tập trung vào các nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa các thành phần kinh tế, đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp và thủ công nghiệp, phát triển kinh tế vườn, tiếp tục phát triển phong trào bổ túc văn hóa và chống quay lại mù chữ, đồng thời, hoàn thành công tác sửa sai. Để đảm bảo lãnh đạo thực hiện những nhiệm vụ nặng nề nêu trên, được Thường vụ Tỉnh ủy tận tình giúp đỡ, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết, nhất trí trong nội bộ. Một số huyện ủy viên được tỉnh điều đi nhận công tác khác. Nhờ vậy, tình hình được cải thiện, sau một năm phấn đấu, “nội bộ đã đoàn kết hơn, do đó ảnh hưởng tốt đến công tác chung của Đảng bộ”. Tuy nhiên, “tinh thần đấu tranh vẫn kém, hiện tượng nghi ngờ nhau, chưa thật tin nhau vẫn chưa được giải quyết được”59. Vừa lo củng cố các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, Huyện ủy vừa rất coi trọng nhiệm vụ khôi phục phong trào đổi công trong nông nghiệp và thủ công nghiệp. Phong trào này ở Hương Sơn bị tan rã trong cải cách ruộng đất, đến cuối 1957, mới được nhen nhóm lại, thu hút khoảng 10% số hộ nông dân. Để thúc đẩy phong trào, Huyện ủy ra quyết nghị, giao cho Nông hội phát động và giao nhiệm vụ cho đảng viên làm nông nghiệp phải đi đầu trong việc xây dựng các tổ đổi công. Đến trước vụ chiêm 1958, toàn huyện có 1025 tổ đổi công từng vụ, từng việc, 125 tổ đổi công thường xuyên. Ngày 14-7-1958, Huyện ủy tiếp tục ra Nghị quyết đẩy mạnh phong trào hơn nữa để làm cơ sở cho việc xây dựng hợp tác nông nghiệp, và cử 10 cán bộ đi tập huấn công tác hợp tác hóa ở tỉnh. Phong trào phát triển mạnh ở các xã như: Sơn Diệm, Sơn Tây, nhưng có nhiều nơi không phát triển được, có xã mất trắng như Sơn Tân. Vì vậy, đến cuối năm 1958, mới có 33% số hộ nông dân tham gia các tổ đổi công. Có tổ đổi công, có các chiến sĩ thi đua làm nòng cốt, phong trào sản xuất nông nghiệp được đẩy lên một bước. Phong trào làm thủy lợi nội đồng, du nhập giống lúa Nam Ninh, lúa ré Quảng thay cho lúa địa phương, mía Quảng đen thay mía Quảng 59 Bản tự kiểm điểm của BCH Đảng bộ tháng 3-1959. Lưu tại VP Tỉnh ủy.


135 trắng… ; đồng thời, tăng cường cải tiến kỹ thuật: cày sâu, bừa kỹ, gieo mạ thưa, cấy dày, bình tuyển và xử lý giống trước khi gieo mạ… huyện Hương Sơn được tỉnh cho thí điểm dùng cày 51 và trang bị 2 máy bơm đặt ở Sơn Trung và Sơn Mỹ. Công tác thủy lợi bắt đầu trở thành phong trào quần chúng rộng rãi. Cán bộ, công nhân viên các cơ quan, giáo viên và học sinh tích cực làm thủy lợi cùng bà con nông dân. Toàn huyện đã sửa và đắp được 15 con đập, 7 con mương dài 4.274m, trong đó, có đập Làng Chùa (Sơn Hàm), đập Cao Thắng (Sơn Giang), đường trục từ đập Choi lên núi nhà Chang (Sơn Bình)… là những công trình tương đối lớn. Huyện còn huy động dân công đắp đập Toi (Sơn Lễ), đập Háp (Sơn Tiến). Phong trào làm phân bón được phát động trong toàn huyện. Nhiều xã có phong trào khá như: Sơn Ninh, Sơn Châu, Sơn Hà, Sơn Long, Sơn Trường… Thanh thiếu niên có phong trào làm phân xanh, phân rác, phân bùn với khẩu hiệu “Đi tay không, về tay lá”, “Sạch làng, tốt ruộng”. Mùa Hè năm 1958, Hương Sơn gặp hạn nặng. Đến tháng 9, hai trận lụt lớn tràn vào làm ngập 1.250 mẫu lúa của toàn huyện. Sau lụt, sâu đục thân phát triển. Vụ chiêm và vụ mùa đều bị thất bát, chỉ có vụ Thu cho thu hoạch tương đối khá. Trước tình hình đó, huyện đã vận động nhân dân phấn đấu trồng nhiều rau màu, phát triển chăn nuôi nên đã kịp thời ngăn không để nạn đói xảy ra. Với những cố gắng đó của Đảng bộ và nhân dân, Hương Sơn vinh dự được UBHC Liên khu IV tặng cờ “Huyện có thành tích thi đua thực hiện kế hoạch nông nghiệp khá nhất tỉnh năm 1958”. Cùng với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, các ngành thủ công tiếp tục được khôi phục và phát triển, nhất là nghề ép mía thủ công. Nhân dân các xã Sơn Châu, Sơn Bình, Sơn Long, Sơn Trà đã biết làm đường cát và đường phèn. Ty Thương nghiệp giúp xã Sơn Tây tổ chức được 2 tổ làm đường cát bằng lò cải tiến 3 chảo. Các hợp công, hợp tác thủ công nghiệp, các tổ kinh tiêu buôn bán bị tan rã hầu hết trong thời kỳ cải cách ruộng đất dần dần được khôi phục. Hợp tác xã dệt vải của Sơn Thịnh tiếp tục nhận dệt gia công cho mậu dịch. Các hợp công Hồng Minh và Hồng Sơn làm guốc, làm quạt của Sơn Thịnh hợp lại thành hợp tác xã Minh Sơn. Ở Phố Châu, bắt đầu xây dựng hợp tác xã Bình Minh tập hợp nhiều ngành nghề thủ công như rèn, mộc, may, chữa xe đạp, chữa đồng hồ… vào làm ăn tập thể. Số xã viên lên tới hơn 100, trong đó, thợ mộc và thợ rèn chiếm số đông, gồm 67 người.


136 Trong ngành thương nghiệp, hợp tác xã mua bán huyện phát triển thêm các cửa hàng Choi, Gôi, Chợ Chùa, Chợ Đình, Hà Tân và cửa hàng lâm thổ sản Phố Châu. Mặc dù bị thiên tai gây thiệt hại nhiều cho sản xuất nông nghiệp, nhưng phong trào các mặt vào cuối năm 1958 từ sau khi có Nghị quyết của Huyện ủy “Tăng cường lãnh đạo tập trung hơn nữa công tác sản xuất làm mùa, đổi công, diệt dốt”60 đã khởi sắc. Trên cơ sở phát triển của phong trào đổi công và các lĩnh vực công tác của huyện, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, từ ngày 9 đến 12-10-1958, Huyện ủy họp quyết định xây dựng hợp tác xã Nam Nhe (xã Sơn Tây) làm thí điểm cho phong trào hợp tác hóa toàn huyện và cử đồng chí Đinh Học - Huyện ủy viên, phụ trách. Cũng trong hội nghị này, Huyện ủy quyết định phát động “Vụ Đông Xuân và Vụ Chiêm vượt bậc 1959” nhằm đạt các chỉ tiêu: diện tích lúa chiêm: 5.319ha, năng suất lúa: 40 tạ/ha, tổng sản lượng lúa: 391.669 tạ. Tuy nhiên, do tình trạng nôn nóng, muốn xây dựng ngay hợp tác xã thay cho tổ đổi công xảy ra ở nhiều địa phương nên Huyện ủy lại quyết định xây dựng 4 cơ sở thí điểm nữa là Trung Lĩnh (Sơn Lĩnh), Diệm Hồng (Sơn Diệm), Phúc Thành (Sơn Trung), Thành Bình (Sơn Bình). Rút kinh nghiệm các hợp tác xã thí điểm, phong trào được nhân ra diện rộng và phát triển nhanh chóng. Đến tháng 3-1959, đã có 40 hợp tác xã tổ chức xong đại hội xã viên và bầu ban quản trị, 75 cơ sở khác chuẩn bị các điều kiện thành lập hợp tác xã. Trên cơ sở tình hình mọi mặt đã tương đối ổn định, để tăng cường hơn sự lãnh đạo của Đảng bộ, được Tỉnh ủy nhất trí, Huyện ủy triệu tập Hội nghị cốt cán toàn huyện vào trung tuần tháng 3-1959. Sau khi nhất trí đánh giá những thành tích và tồn tại từ khi bắt đầu sửa sai, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành lâm thời, Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành huyện Đảng bộ chính thức gồm 19 ủy viên, trong đó 4 ủy viên dự khuyết. Hội nghị quyết định phải hoàn thành việc đền bù tài sản trong năm 1959 và đẩy nhanh tốc độ xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, phấn đấu đến cuối năm 1959 có 75% hộ nông dân gia nhập hợp tác xã (trong đó, có 20% hộ Công giáo) và 20% hộ vào hợp tác xã cấp cao. Ngày 25-3-1959, phiên họp đầu tiên của Huyện ủy đã phân công đồng chí Nguyễn Xuân Cúc làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Trương 60 Nghị quyết số 08-QN/HU ngày 14-7-1958. Lưu tại kho lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy.


137 Hà làm Phó Bí thư61. Huyện ủy đã phát động một đợt thi đua trong 2 tháng nhằm chăm sóc lúa chiêm, trồng nhiều rau màu ngắn ngày, chuyển những ruộng bị hạn sang trồng rau màu với quyết tâm nhất thiết không để đất hoang, tích cực chuẩn bị vụ Thu, vụ mùa, chú trọng đủ giống, mạ để đảm bảo cấy dày. Hội nghị cốt cán toàn huyện (3-1959) có ý nghĩa như một đại hội, đánh dấu mốc kết thúc quá trình kiện toàn và ổn định tổ chức của Đảng bộ. Sau Hội nghị, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể huyện đều được củng cố. Ủy ban hành chính huyện từ 5 ủy viên tăng lên 9 ủy viên do đồng chí Nguyễn Trương Hà - Phó Bí thư Huyện ủy làm Chủ tịch. Tiếp đó, cuộc bầu cử HĐND và UBHC các xã được tổ chức thắng lợi. Như vậy, kể từ khi hòa bình lập lại, chính quyền các cấp mới được củng cố qua bầu cử. Uy tín, hiệu lực điều hành của chính quyền từ huyện đến xã được nâng lên một bước. Sự ổn định của tình hình chính trị đã thúc đẩy mọi mặt công tác của huyện. Hương Sơn có thuận lợi là được tỉnh đầu tư trong kế hoạch xây dựng miền Tây của tỉnh nhằm làm cho 2 huyện Hương Sơn và Hương Khê thực sự vừa là căn cứ địa, vừa là tiền phương. Huyện ủy Hương Sơn đã đẩy mạnh công tác giao thông, thủy lợi và xây dựng các xã miền biên giới như xây dựng được lò gạch ở Sơn Quang và Sơn Tây, mở được cửa hàng bách hóa Sơn Kim, các cửa hàng hợp tác xã mua bán Sơn Kim, Sơn Trường. Tất cả các cầu cống trên đường 8 đều được sửa chữa, mặt đường được nâng cấp để ô tô 10 tấn có thể đến tận km 92. Phong trào làm thủy lợi nội đồng được đẩy mạnh, đã hoàn thành và xây dựng được các công trình trung thủy nông Hạ Vàng, Khe Su, Da Mông. Năm 1959, huyện Hương Sơn được UBHC tỉnh tặng Cờ “Huyện có nhiều thành tích thủy lợi”. Phong trào mọi mặt của huyện năm 1959 đã thu được nhiều thắng lợi lớn. Nhờ làm tốt công tác thủy lợi, lại gặp năm mưa thuận, gió hòa, nông nghiệp được mùa chưa từng có. Năng suất lúa chiêm đạt 20 tạ/ha, cao hơn năng suất bình quân toàn tỉnh 2 tạ, chỉ đứng sau Đức Thọ. Sản lượng lúa chiêm đạt 9.989 tấn, lúa Thu 1.382 tấn, lúa mùa 7.914 tấn, tổng sản lượng cả năm đạt 19.285 tấn, mức cao nhất trong khoảng 10 năm (1954-1964). Các loại cây trồng như khoai, đậu, lạc đều cho thu hoạch cao hơn các năm trước. Ngoài ra, còn có mía, ngô, đay. Chăn nuôi cũng 61 Đồng chí Nguyễn Trương Hà là cán bộ Khu ủy được tăng cường cho Hương Sơn.


138 tăng tiến đáng kể. Đàn bò của huyện mặc dù giảm sút nhưng đàn trâu và đàn lợn đều tăng. Một thắng lợi nổi bật của huyện là phong trào hợp tác hóa nông nghiệp phát triển nhanh. Đến cuối năm 1959, đã có 231 cơ sở kết nạp 8.086 hộ (đạt 60,3% tổng số hộ) trong đó có 9 cơ sở cấp cao của 7 xã gồm 82 hộ (6,2%); có 14 xã có hợp tác xã trong tất cả các xóm toàn huyện, chỉ còn lại 63 xóm chưa có hợp tác xã, 10 xã đạt tỷ lệ cao, có từ 70-90% số hộ vào hợp tác xã62. Ngoài ra, huyện còn thành lập được Nông trường Voi Bổ ở xã Sơn Tây (về sau đổi thành Nông trường Tây Sơn) và tập đoàn sản xuất Nam Sơn, sau một năm hoạt động đã có kết quả. Các tổ đổi công, các hợp tác xã, các chiến sĩ thi đua đã đi tiên phong trong các phong trào thi đua khai hoang, mở rộng diện tích, cải tiến kỹ thuật, áp dụng các biện pháp liên hoàn nước, phân, cần, giống, tăng năng suất lúa và hoa màu. Đồng thời, các hợp tác xã cũng đi tiên phong trong việc làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Năm 1959, toàn huyện đã thu mua được 200 tấn thóc, 216,8 tấn lạc, 80,5 tấn đỗ, 44,5 tấn vừng, tuy còn thua kém các huyện khác nhưng đã tăng gấp 2-3 lần lượng thu mua năm trước của huyện63. Vui mừng trước những thành tích của năm 1959, toàn Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn phấn khởi bước vào năm 1960, năm cuối cùng của kế hoạch cải tạo XHCN, năm có nhiều ngày kỷ niệm trọng đại. Huyện ủy phát động nhiều đợt thi đua lập thành tích chào mừng 30 năm Ngày thành lập Đảng, 15 năm ngày thành thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, 70 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, quyết tâm hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN và kế hoạch Nhà nước 3 năm (1958-1960). Ngay từ đầu năm, sau khi tổ chức trọng thể và rầm rộ lễ kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, toàn Đảng bộ bước vào đợt giáo dục đảng viên mùa xuân. Các chi bộ xã được tổ chức lại thành Đảng bộ cơ sở gồm nhiều chi bộ nhỏ. Các chi bộ nhỏ tổ chức theo thôn, xóm, hợp tác xã, thuận tiện cho việc lãnh đạo phát triển và củng cố phong trào hợp tác hóa. Trong toàn Đảng bộ chỉ có chi bộ xã Sơn An đổi thành Đảng bộ nhưng không chia ra chi bộ 62 Báo cáo phong trào hợp tác hóa 6 tháng đầu năm của Huyện ủy. Lưu tại Văn phòng UBND tỉnh. 63 Báo cáo công tác lương thực 1959 của Tỉnh ủy. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.


139 nhỏ. Sau khi kiện toàn, huyện Hương Sơn có 29 đảng bộ xã gồm 107 chi bộ. Ngoài ra, còn có 18 chi bộ cơ quan, trường học trực thuộc Huyện ủy. Tổng số đảng viên toàn huyện là 3.735 đồng chí. Đại hội các chi bộ, đảng bộ đã bầu xong các chi ủy, đảng ủy mới. Tổ chức Đảng được kiện toàn, có điều kiện đi sâu đi sát lãnh đạo các xóm, các hợp tác xã tiến lên hơn nữa. Đợt giáo dục đảng viên mùa Xuân tiến hành trong 5 ngày theo đơn vị đảng bộ cơ sở với 71,4% số đảng viên tham dự. Sau đó là đợt giáo dục mùa Xuân cho cán bộ ngoài Đảng và xã viên hợp tác xã kết thúc vào cuối tháng 3-1960. Qua đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn này, lập trường tư tưởng, nhận thức về con đường đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của cán bộ, đảng viên, xã viên được nâng lên một bước. Sau đợt giáo dục mùa Xuân, phong trào thi đua xây dựng chi bộ “Tự động công tác” phát triển. Nhiều chi bộ kém đã vươn lên khá. Số đảng viên kém giảm từ 10% năm 1959, xuống còn 2%. Tuy vậy, vẫn còn 108 đồng chí không chịu vào hợp tác xã hoặc xin ra khỏi hợp tác xã, phải kỷ luật 27 đồng chí. Năm 1960, Đảng bộ kết nạp được 99 đảng viên mới, trong đó 50% là đoàn viên thanh niên lao động, 14 nữ và 2 đồng chí là người miền Nam tập kết. Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ được tăng cường. Huyện ủy đã cử 87 người đi học Trường Đảng Trần Phú của tỉnh, 6 người đi học Trường Nguyễn Ái Quốc (Phân hiệu 4). Ngoài ra, còn có 131 cán bộ đi học bổ túc văn hóa tập trung, 14 cán bộ đi học các lớp đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ. Trong không khí thi đua sôi nổi lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh (cuối tháng 6-1960), Đại hội Đảng toàn quốc (tháng 9-1960) và mừng thọ Bác 70 tuổi, mừng thắng lợi của đợt giáo dục mùa Xuân, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn khóa III64 đã tiến hành từ ngày 12 đến 16 tháng 6 năm 1960 tại hội trường huyện. Đồng chí Nguyễn Thế Thức đại diện Tỉnh ủy Hà Tĩnh về dự và chỉ đạo Đại hội. Trong vòng 10 năm (1951-1960), do tình hình chủ quan và khách quan của huyện có nhiều khó khăn nên không triệu tập được đại hội. Bởi vậy, các đại biểu về 64 Các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện từ năm 1960 đến năm 2015 được xác định thứ tự từ khóa III đến khóa XXII (có tư liệu thành văn), tại Kho lưu trữ Văn phòng Tỉnh ủy, tỉnh Hà Tĩnh,


140 họp Đại hội lần này rất phấn khởi, đảng viên toàn huyện tin tưởng chờ mong kết quả Đại hội. Đại hội đã thảo luận, góp ý kiến xây dựng các dự thảo văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, kiểm điểm, đánh giá phong trào cách mạng của huyện trong thời gian qua và quyết định nhiệm vụ nhiệm kỳ tới (1960-1961). Đại hội khẳng định: Đảng bộ Hương Sơn đã vững vàng đi lên, vượt qua nhiều sóng gió, đạt thắng lợi to lớn về mọi mặt, nhất là phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Đại hội quyết định phải hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở nông thôn vào cuối năm 1960, tích cực xây dựng ba ngọn cờ hồng, hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước 3 năm, tạo cơ sở và chuẩn bị điều kiện cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đại hội nhất trí đến cuối năm 1960 phải đạt chỉ tiêu 82% hộ nông dân vào hợp tác xã, trong đó, 32% hộ giáo dân, 10% vào hợp tác xã cấp cao. Đi đôi với phát triển, phải củng cố hợp tác xã theo khẩu hiệu “đưa hợp tác từ vừa lên khá, từ kém lên vừa, dần dần thanh toán loại vừa”. Song song với phát triển và củng cố hợp tác xã nông nghiệp, phải hoàn thành xây dựng các hợp tác xã thủ công, đưa một số lên cấp cao, hoàn thành việc cải tạo, sắp xếp lại tiểu thương, chủ yếu chuyển sang sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi, đồng thời, phải hoàn thành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm có 19 ủy viên và bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh, Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Nguyễn Trương Hà, nguyên Phó Bí thư - làm Bí thư Huyện ủy. Đại hội Đảng bộ Hương Sơn đánh dấu một bước chuyển biến mới trong quá trình trưởng thành của Đảng bộ và sự phát triển phong trào cách mạng của nhân dân toàn huyện. Mọi người đều vui mừng trước việc Đảng bộ được củng cố, có một Ban Chấp hành mới được lựa chọn qua bầu cử, có một hạt nhân mới đã được thử thách và rèn luyện trong thực tế của địa phương65. Sau Đại hội, phong trào thi đua mọi mặt của huyện được đẩy mạnh. Huyện ủy ra Nghị quyết đặc biệt về nhiệm vụ xây dựng “Ba ngọn cờ hồng”, giao nhiệm vụ cho tất cả đảng viên đều phải đi tiên phong trong phong trào, đề ra tiêu chuẩn kết nạp 65 Trong Đại hội Đảng bộ đã xảy ra một sự việc đáng tiếc ảnh hưởng ít nhiều đến kết quả thành công của Đại hội. Có một đồng chí lãnh đạo chủ chốt của huyện ủy đã vi phạm nguyên tắc, Điều lệ Đảng trong quá trình tiến hành bầu cử BCH. Đồng chí này sau đã bị Tỉnh ủy ra quyết định kỷ luật (số 399-QN/TU ngày 28-12-1960) với hình thức cách chức huyện ủy viên (BBT).


141 đảng viên mới là người đã vào hợp tác. Kết quả, đến cuối năm, huyện đã phát triển thêm được 62 hợp tác xã nông nghiệp, kết nạp thêm 2.880 xã viên, đưa tổng số hợp tác xã lên 295 với 10.921 hộ nông dân, đạt 81,7% tổng số hộ, 71,5% ruộng đất canh tác. Toàn huyện, có 4 xã hoàn thành công cuộc hợp tác hóa, 16 xã căn bản hoàn thành. Chỉ còn 25 trên tổng số 234 xóm của 11 xã chưa có hợp tác xã. Toàn huyện có 9 xã xây dựng được hợp tác xã cấp cao, gồm 1.867 hộ (13%). Đặc biệt, có 216 hộ giáo dân đã vào hợp tác xã (24% số hộ giáo dân), trong đó có 01 hợp tác xã giáo toàn tòng ở Sơn Châu, còn 18 xóm vùng giáo chưa có hợp tác xã. Song song với việc vận động nông dân vào hợp tác xã, Huyện ủy cũng hết sức quan tâm đến việc củng cố quan hệ sản xuất mới. Trong năm 1960, huyện đã mở các lớp đào tạo bồi dưỡng cho 819 cán bộ quản trị và tổ lao động, tiến hành bầu lại 85 ban quản trị, củng cố, bổ sung 15 ban quản trị còn yếu, thực hiện đúng đường lối giai cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ các hợp tác xã với hai phần ba cán bộ là bần cố nông và trung nông lớp dưới, trung nông chỉ có một phần ba nhưng không giữ các chức vụ quan trọng, hai phần ba cán bộ là đảng viên. Hầu hết các ban quản trị, kiểm soát đều có phụ nữ. Nhìn chung, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện phát triển lành mạnh, tăng thêm khối đoàn kết nông thôn, giảm bớt nhiều lãng phí trong sản xuất. Các cuộc vận động áp dụng kỹ thuật tiên tiến được triển khai thuận lợi, việc huy động nghĩa vụ với Nhà nước nhanh chóng, kịp thời hơn trước. Cùng với phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, việc xây dựng các hợp tác xã vay mượn cũng được tiến hành nhưng còn chậm. Cuối năm 1960, có 29 cơ sở với 4.893 hộ xã viên (35,9% số hộ dân), tăng 2 cơ sở và 977 hộ xã viên so cùng kỳ năm trước. Vốn huy động cả năm 1960 là 33.790 đồng, bình quân mỗi tháng một cơ sở đạt 97 đồng, bằng 23% chỉ tiêu kế hoạch. Ngoài ra, huyện còn lập được 17 sổ tiết kiệm. Tuy nhiên, phong trào còn yếu. Toàn huyện, có 3 xã Sơn Quang, Sơn Mai, Sơn Ninh không huy động được đồng vốn nào trong nhân dân. Hợp tác xã mua bán phát triển thêm 811 xã viên, nâng tổng số xã viên cuối năm 1960 lên 10.110 hộ, đạt 81,1% kế hoạch, với số cổ phần là 11.137, đạt 101,7% kế hoạch. Trạm ngoại thương Hương Sơn cũng được thành lập. Hai cửa hành bách hóa Phố Châu và Sơn Kim vượt chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước 4,17%. Bưu điện huyện là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh.


142 Trong 2 năm (1959 - 1960), Huyện ủy cũng tập trung lãnh đạo việc cải tạo thành phần kinh tế thủ công nghiệp, cá thể và buôn bán nhỏ. Trước khi tiến hành cải tạo, toàn huyện có 11 xã có tiểu thương, với tổng số 1.148 người. Sau khi tổ chức học tập chủ trương, chính sách xóa bỏ con đường buôn bán nhỏ, cá thể để xóa bỏ con đường tự phát lên CNTB, đã có 79,72% số tiểu thương vào 41 tổ kinh tiêu, số còn lại chuyển sang sản xuất nông nghiệp và các nghề khác. Đến cuối năm 1960, có 1.091 tiểu thương được tập hợp vào con đường làm ăn tập thể, chiếm 93% số hộ tiểu thương; trong đó, có 7 xã có tiểu thương tập trung đông (1.071 người), đạt tỷ lệ cao hơn (97,93%) được cải tạo. Số người làm nghề thủ công chuyên nghiệp trong toàn huyện trước đây là 486, được học tập và tổ chức thành 13 cơ sở hợp tác xã, có 1 cơ sở cấp cao, thu hút 321 người, chuyển sang sản xuất nông nghiệp 132 người, đạt 85,5% kế hoạch; những vùng tập trung thợ thủ công như Sơn Tân, Sơn Thịnh, Sơn Phố đạt 91% kế hoạch. Những người làm nghề vận tải đường sông cũng được học tập đường lối cải tạo XHCN và tổ chức lại thành hợp tác. Bước đầu, 75 thuyền viên được tập hợp lại thành bến thuyền Hương Giang, đóng trụ sở tại xã Sơn Giang, có 30 thuyền, năng lực vận tải 65 tấn. Đến tháng 10-1959, bến thuyền Hương Giang được chuyển thành hợp tác cấp thấp Sông Hương. Tháng 2-1960, Hợp tác xã Tân Hương ra đời, thu hút nốt những thuyền viên còn lại. Nhiệm vụ của Hợp tác xã Sông Hương chủ yếu là vận chuyển gỗ phục vụ kiến thiết thành phố Vinh, cảng Bến Thủy và xuất khẩu sang Liên Xô. Nhiệm vụ chủ yếu của Hợp tác xã Tân Hương là vận chuyển gỗ ván và các nông sản xuôi về Vinh hoặc vào Hà Tĩnh. Khi trở về, cả 2 hợp tác xã đều chuyên chở hàng phục vụ dân sinh. Thành phần kinh tế tư bản tư doanh Hương Sơn chỉ có 01 hộ buôn bán cỡ trung bình và 7 hộ nhỏ. Sau khi được học tập chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, tất cả các chủ tư bản đều sẵn sàng từ bỏ con đường bóc lột, đều xin gia nhập các tổ kinh tiêu và các tổ hợp tác. Công cuộc cải tạo tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương và công thương nghiệp tư bản tư doanh cơ bản đã hoàn thành thắng lợi. Đời sống người thợ thủ công, tiểu thương được cải thiện, ổn định, nhất là thợ thủ công. Trên địa bàn huyện, có một số cơ sở làm ăn tốt như hợp tác xã Minh Sơn (Sơn Thịnh) sản xuất guốc và thùng 3 đai. Thị trường chịu sự lãnh đạo quản lý của Nhà nước đã đi vào thế ổn định, hợp tác.


143 Thợ thủ công và tiểu thương từ sau khi được cải tạo đã hăng hái tham gia các chiến dịch chống hạn, chống lụt, các đợt sản xuất cao điểm phục vụ nông nghiệp, tăng cường thêm mối đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân. Bên cạnh những thành tích đạt được, việc xây dựng ba ngọn cờ hồng còn nhiều yếu kém và tồn tại. Trong quá trình tiến hành hợp tac hóa do không thực hiện đúng nguyên tắc tự nguyên, nên nhiều người vào rồi lại ra, còn do dự “chân trong chân ngoài”, thiếu ý thức làm chủ hợp tác xã, năng suất lao động thấp, chất lượng hàng hóa kém. Thu nhập của hợp tác xã đưa lại cho xã viên thấp. Trình độ lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, trình độ quản lý các ban quản trị bất cập, non kém, hạch toán không kịp thời, lại bắt đầu nảy sinh tư lợi, tham ô. Các hợp tác xã vay mượn và hợp tác xã mua bán lại càng bộc lộ nhiều yếu kém hơn. Nhiều hợp tác xã thủ công và tổ buôn bán tuy mang danh nghĩa tập thể nhưng lại sản xuất, kinh doanh theo lối cá thể. Dù còn nhiều khuyết, nhược điểm nhưng “Công cuộc cải tạo XHCN một năm qua đã thắng lợi vô cùng to lớn… Quan hệ sản xuất tư hữu, cá thể đã thành quan hệ sản xuất tập thể… biến người lao động làm thuê thành người lao động làm chủ. Do đó, sức sản xuất được giải phóng, đời sống vật chất và văn hóa ngày càng được cải thiện, khối đoàn kết nông thôn, đoàn kết công nông được tăng cường hơn, phong trào chuyển biến mạnh mẽ đi lên rõ rệt”66. Cùng với việc đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa, Đảng bộ và các ngành, các cấp đã chủ động lãnh đạo, tổ chức các phong trào thi đua trên mọi mặt nhằm hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1960. Vụ chiêm năm 1960, toàn tỉnh thu hoạch kém vì hạn hán quá nặng. Để khắc phục tình hình đó, Tỉnh ủy đã phát động Chiến dịch “Chiến thắng An Khê”67: “Lấy mùa bù chiêm”, nêu khẩu hiệu “Cấy dày cày sâu vùi đầu Mỹ - Diệm” để hưởng ứng phong trào cả nước phản đối Mỹ - Diệm thi hành Luật 10-59 và ủng hộ phong trào đồng khởi của đồng bào miền Nam. Phấn khởi trước thành công của Đại hội Đảng bộ huyện, Huyện ủy lãnh đạo tất cả các cấp bộ Đảng, các ngành và toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng chiến dịch An Khê. Nhiều đơn vị xuất sắc, nhiều đảng viên, đoàn viên, xã viên giành danh hiệu kiện tướng phong trào 3 tốt: thủy lợi, phân bón, công cụ cải tiến. Tổng khối lượng 66 Báo cáo tổng kết năm 1960 của Huyện ủy. Lưu tại Kho lưu trữ VP Tỉnh ủy. 67 Chiến dịch mang tên một địa danh của tỉnh Bình Định kết nghĩa (BBT).


144 đào đắp thủy lợi năm 1960 là 227.175m3 , bình quân 4,6m3 /người; 7,3m3 /lao động, đạt 50% kế hoạch. Trong năm 1960, đã có một số công trình được hoàn thành, đi vào sử dụng như đập Cơn Gạo (Sơn Quang), đập Dằm, đập Trại Cồ (Sơn Lĩnh). Huyện cũng bắt đầu tập trung lực lượng đắp đê Tân Long dài 11,8km từ Choi đến cống Hói Hiến (Sơn Long) và đập Cơn Trường ở Sơn Diệm. Đập Cơn Trường được đặt tên là đập Hoài Nhơn68. Việc sử dụng công cụ cải tiến trở nên rộng rãi hơn: cày 59 và cày 51, bừa sắt, xe cút kít, xe trâu kéo. Một vài nơi đã có phong trào phát huy sáng kiến, cải tiến công cụ, sáng chế ra cày trỉa lúa, máy cấy… Để kịp thời bù đắp sự thiếu hụt của vụ chiêm, các hợp tác xã ở Sơn Phố, Sơn Bình, Sơn Long và nhiều nơi khác đã huy động xã viên lên các xã Sơn Tây, Sơn Kim, Sơn Lĩnh làm rẫy, tăng thêm được 30 mẫu lúa, 120 mẫu ngô trái. Căn cứ vào thực tế đồng ruộng và kết mấy năm trước, Huyện ủy đã chỉ đạo hợp tác xã chuyển những ruộng mùa có điều kiện sang làm vụ Thu để tránh lụt. Chủ trương này đã bước đầu thắng lợi. Nhờ tinh thần phấn đấu cao của toàn Đảng, toàn dân, vụ Thu năm 1960 giành thắng lợi chưa từng có, toàn huyện cấy được 1.138 ha lúa, năng suất đạt 16,64 tạ/ha; tổng sản lượng 1.894 tấn. Ngành chăn nuôi cũng đạt nhiều thành tích, đặc biệt, hợp tác xã Thanh Bình (Sơn Bình) được công nhận là lá cờ đầu về chăn nuôi tập thể của tỉnh. Giữa lúc toàn dân, toàn quân huyện Hương Sơn đang thi đua quyết tâm hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1960, thì tháng 9-1960, một trận lụt chưa từng có trong lịch sử Hương Sơn đã xảy ra, tàn phá mùa màng, gây nhiều thiệt hại nặng nề về người và của. Một số khá lớn nhà cửa của dân, của cơ quan, trường học bị đổ, bị lũ cuốn trôi. Nhiều vườn tược bị phá hủy. Sau khi nước rút, cây cối đổ ngổn ngang, xác súc vật rữa nát đã gây ô nhiễm nặng cho môi trường; sâu keo và các dịch bệnh phát triển. Toàn Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn đã nêu cao truyền thống tương thân, tương ái để khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của lũ lụt. Được sự cứu trợ của Nhà nước, sự đùm bọc lẫn nhau của nhân dân, của hợp tác xã, nhờ có các chiến dịch sản xuất rau màu ngắn ngày do Huyện ủy phát động liên tục, nhờ có chủ trương khuyến khích trồng khoai chuối từ mấy năm trước của Huyện ủy, nên 68 Hoài Nhơn là huyện ở tỉnh Bình Định.


145 nạn đói không xảy ra, tình hình sớm được ổn định. Mặc dù còn khó khăn, song các hợp tác xã vẫn làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước. Các ngành, các cấp đều ra sức khắc phục khó khăn do hạn hán, lũ lụt gây ra, dốc sức hoàn thành kế hoạch Nhà nước. 2. Phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh Cùng với phong trào thi đua sản xuất, các lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có những bước phát triển mới với nhiều tiến bộ. Sau cuộc họp bạn mùa Xuân của giáo viên bổ túc văn hóa toàn huyện, ngành giáo dục đã đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ và bổ túc văn hóa với các chiến dịch “Tiếng trống diệt dốt”, “Hè diệt dốt”. Cuối năm 1958, Hương Sơn hoàn thành kế hoạch thanh toán nạn mù chữ cho độ tuổi từ 12 đến 50 và kế hoạch bổ túc văn hóa 3 năm, được xếp vào hàng thứ 3 toàn tỉnh. Nhiều trường phổ thông đã thanh toán các phòng học tranh tre, thay bằng trường gỗ. Trường phổ thông cấp II Hương Sơn được tỉnh đầu tư xây dựng đủ phòng học bằng gỗ và phòng thí nghiệm, thư viện bằng gạch ngói. Ngành giáo dục phát triển thêm các trường phổ thông cấp II Sơn Mỹ, Sơn An, Sơn Trà, Sơn Bằng và trường phổ thông nông nghiệp Sơn Giang. Toàn huyện có 34 trường cấp I chuyển thành trường dân lập, 7 trường cấp II và một trường phổ thông nông nghiệp. Tổng số học sinh phổ thông toàn huyện là 11.880 em. Ngành học vỡ lòng phát triển đều khắp ở 29 xã. Toàn huyện, có 164 lớp với 2.271 học sinh. Ngành Bổ túc văn hóa phát triển nhiều loại hình trường lớp, đáp ứng yêu cầu học tập của mọi đối tượng, với 284 lớp địa phương, 28 lớp trường đoàn, 14 lớp của hợp tác xã, 27 lớp tại chức. Nhờ đó, đã có 3.680 người mãn khóa cấp I (2.164 đối tượng chính) và 8.104 người đang theo học. Trường bổ túc văn hóa cấp II tập trung cho cán bộ đang có 186 học viên theo học, không kể số lớp bổ túc văn hóa cấp II của các trường phổ thông cấp II mở. Hội Phụ nữ bắt đầu triển khai cuộc vận động xây dựng nhà trẻ, nhóm trẻ. Tuy nhiên, công tác bổ túc văn hóa không hoàn thành chỉ tiêu, kế hoạch và còn bị các cấp lãnh đạo xem nhẹ. Toàn huyện vẫn còn 1.615 đối tượng chính không đến lớp. Về trình độ, phần đông cán bộ chủ chốt từ huyện đến xã chỉ học hết lớp 1, lớp 2. Nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ còn nặng. Học sinh phổ thông bắt đầu có hiện tượng bỏ học. Cơ sở vật chất cho trường học quá nghèo nàn, thiếu thốn.


146 Ngành y tế tiếp tục phong trào sạch làng, tốt ruộng, phong trào 3 công trình: giếng nước, nhà tắm, nhà tiêu. Phòng y tế xây dựng thêm nhiều trạm xá xã, 7 nhà hộ sinh dân lập khu vực, 88 tổ hộ sản, đào tạo được 334 cán bộ y tế, vệ sinh cho các xã. Công tác vệ sinh phòng bệnh của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Các sản phụ đã có thói quen đến nhà hộ sinh để sinh nở. Công tác chữa bệnh đạt chất lượng khá cao, tỷ lệ tử vọng hạ thấp còn 1%. Các dịch cúm, đậu, sởi đều được dập tắt kịp thời, không gây tử vong; bệnh sốt rét được hạn chế. Nhất là sau trận lụt (9-1960), phòng y tế cùng bệnh xá, các trạm xá tổ chức các đội vệ sinh, chống dịch đã kịp thời vận động nhân dân làm sạch môi trường, dập tắt được các dịch bệnh. Trạm xá huyện được nâng cấp lên thành bệnh xá, với 30 giường bệnh, có 1 y sĩ phụ trách và dời địa điểm từ Sơn Diệm đến Sơn Trung. Hội Đông y của huyện được thành lập. Tuy vậy, cơ sở vật chất cho bệnh xá, trạm xá quá nghèo nàn, thiếu thốn, một số xã chưa có trạm xá. Ngành văn hóa và ngành thông tin được thống nhất về tổ chức từ huyện đến xã, đẩy mạnh các công tác văn nghệ, văn hóa quần chúng và phát hành sách báo. Toàn huyện có 12 đội văn nghệ quần chúng, 10 nhà văn hóa xã, 16 tủ sách và một đội chiếu bóng lưu động. Ngành văn hóa từ huyện đến xã đã tổ chức 52 buổi biểu diễn văn nghệ, 2 cuộc triển lãm và nhiều hoạt động khác phục vụ các ngày kỷ niệm lớn trong năm 1960. Phong trào xây dựng nhà văn hóa xã được phát động. Phong trào thể dục thể thao phát triển. Hầu hết các xã có đội bóng đá, nhiều xã đã tổ chức các cuộc thi đấu bóng chuyền, bóng bàn. Công tác quốc phòng - an ninh được Đảng bộ chú trọng lãnh đạo. Do vậy, tình hình trật tự, trị an nông thôn tiến bộ nhiều so với trước và được xếp thứ 3 toàn tỉnh. Toàn huyện, có 23 xã đã xây dựng được Quy ước nông thôn. Ngành Công an được kiện toàn và tăng cường. Thực hiện chủ trương của cấp trên, vào tháng 3-1959, lực lượng Công an vũ trang huyện được thành lập. Hương Sơn là đơn vị dẫn đầu tỉnh về công tác huấn luyện, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho công an viên xã, xóm69. Tổ chức dân quân, tự vệ được soát xét lại và kiện toàn, được giao nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ địa phương và nòng cốt, xung kích trong sản xuất, đắp đê, thủy 69 Báo cáo tổng kết của Ty Công an năm 1959. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.


147 lợi, chống bão lụt. Hàng ngàn dân quân Hương Sơn đã tập trung về Khe Lang (Đức Thọ) cùng dân quân các huyện khác, kết hợp lao động đắp đập với huấn luyện. Lực lượng dân quân được tổ chức lại thành dân quân 1, dân quân 2 theo đơn vị hợp tác xã, gắn liền nhiệm vụ luyện tập, bảo vệ trị an, quốc phòng với đẩy mạnh sản xuất. Trong đội ngũ công an và dân quân có nhiều quân nhân phục viên làm nòng cốt. Huyện đã tổ chức huấn luyện quân sự năm 1960 cho dân quân 1, dân quân 2 và nữ dân quân đạt tỷ lệ khá cao. Hàng năm, đều hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Các hợp tác xã xây dựng các tổ cốt cán bảo vệ trị an, xây dựng quy ước nông thôn, quản lý chặt chẽ hộ khẩu, trấn áp, ngăn chặn kịp thời những luận điệu phản động tuyên truyền, những hành động gây rối của bọn phá hoại, bọn địa chủ định ngóc đầu dậy. Tiếp theo thắng lợi của việc thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa (1954-1957), Đảng bộ Hương Sơn tiếp tục lãnh đạo quân dân toàn huyện giành được nhiều thành tích trong việc thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo XHCN (1958 - 1960). Công cuộc cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN diễn ra nhanh chóng, lành mạnh và đã thu được thắng lợi. Các mặt sản xuất, văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng được quan tâm lãnh đạo nên có những nét khởi sắc, có mặt đạt thành tích khá. Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng được củng cố, kiện toàn… Tuy nhiên, việc lãnh đạo thực hiện kế hoạch 3 năm còn một số hạn chế, khuyết điểm. Phong trào còn chưa vững chắc; việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế. Công tác phòng, chống thiên tai chưa hữu hiệu nên thu hoạch thất bát, đời sống nhân dân khó khăn. Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng thành phần chủ nghĩa và đầu óc hẹp hòi nên trong xã hội còn nhiều định kiến không đúng với tầng lớp trên thuộc thành phần bóc lột và con em họ. Do đó, các địa phương đã không huy động được tài năng và sức lực của nhiều người, nhất là tầng lớp trí thức, học sinh vốn có tâm huyết với cách mạng để tiếp tục xây dựng quê hương. Tình hình nông thôn sau sửa sai tuy đã ổn định nhưng chưa tạo được nếp sống đầm ấm, nghĩa tình như những ngày kháng chiến gian khổ trước đó. Những thắng lợi, thành tích, những thiếu sót, sai lầm từ sau khi kết thúc chiến tranh cùng với những kinh nghiệm thành công và thất bại sẽ là cơ sở để Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.


148 III. CỦNG CỐ QUAN HỆ SẢN XUẤT MỚI VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT - KỸ THUẬT CHO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1961 - 1964) 1. Củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội Tháng 9-1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III xác định hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng Việt Nam là tiến hành xây dựng CNXH ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà. Sau thắng lợi của công cuộc cải tạo XHCN, miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH (1961-1965). Những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp ấy đòi hỏi Đảng phải nâng cao tính giai cấp, tính tiên phong, vững mạnh cả về tư tưởng, tổ chức để không ngừng nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình. Tháng 4-1961, Trung ương Đảng mở cuộc vận động xây dựng Đảng bộ và chi bộ 4 tốt; phát động các phong trào thi đua trong toàn dân, toàn quân: Phong trào “Đại phong” trong nông nghiệp, phong trào “Thành công” trong tiểu thủ công nghiệp, phong trào “Duyên hải” trong công nghiệp, phong trào “Bắc Lý” trong giáo dục, phong trào “Vân Đình” trong y tế, phong trào “Ba nhất” trong quân đội v.v… Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh tháng 2-1961 đề ra phương hướng 2 năm 1961- 1962 của Hà Tĩnh là: “Ra sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đi đôi với đẩy mạnh cải tạo XHCN, đặc biệt là đối với nông nghiệp…, lấy sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc làm cơ sở cho công nghiệp, thủ công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của tỉnh đã soi sáng cho con đường đi tới của Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn. Mặt khác, từ sau Đại hội III của Đảng bộ huyện (6-1960), Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Huyện ủy đã được tăng cường về chất lượng. Ủy ban Hành chính huyện, Mặt trận và các đoàn thể, lực lượng vũ trang đều được củng cố thêm một bước. Đồng chí Đào Hòe – nguyên Ủy viên Thường vụ, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính được cử làm Phó Bí thư Huyện ủy và Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện. Công cuộc cải tạo XHCN mới hoàn thành trên căn bản, mức độ còn thấp. Trận lụt (9-1960) đã để lại những hậu quả nặng nề, vì vậy, huyện gặp nhiều khó


149 khăn. Đảng bộ huyện vừa phải lãnh đạo việc củng cố, phất cao “Ba ngọn cờ hồng”, vừa phải ra sức khắc phục hậu quả lũ lụt, đẩy mạnh sản xuất chống đói, chăm bón vụ Đông Xuân. Thực hiện chủ trương đó, Huyện ủy đã cấp 50 tấn gạo cùng hạt giống, dây khoai cho nông dân khai hoang. Vừa đẩy mạnh khai hoang tại chỗ, các hợp tác xã còn tích cực đưa xã viên đi lên các vùng đất khác để khai hoang. Sơn Bình đi Sơn Kim, Sơn Châu đi Hạ Vàng, Sơn Mỹ, Sơn Hà đi Sơn Lĩnh, Sơn Long đi Hương Đại (Hương Khê) v.v… Nhân dân Hương Sơn đã phấn đấu tích cực, vượt qua những khó khăn trước mắt, nhất là vượt qua nạn đói giáp hạt tháng 3 và đi tới những vụ lúa, màu bội thu. Tổng sản lượng lúa cả năm 1961 đạt 16.426 tấn, cao hơn các năm trước (trừ năm 1959). Sản lượng khoai lang, ngô, sắn gấp 2-3 lần, lại có thêm khoai chuối và nhiều loại khoai khác. Tình hình nông thôn ổn định, phấn khởi. Phong trào hợp tác hóa tiến đều. Hương Sơn còn gửi 30 tạ ngô trợ giúp đồng bào Cẩm Xuyên. Năm 1961, năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm của huyện Hương Sơn kết thúc trong niềm vui thắng lợi “đỉnh cao muôn trượng” của cả nước. Ngày 19-3-1962, Đại hội Đảng bộ huyện Hương Sơn lần thứ IV khai mạc long trọng tại hội trường huyện với sự tham gia của 117 đại biểu chính thức. Đoàn đại biểu Tỉnh ủy có 3 đồng chí do đồng chí Nguyễn Huỳnh - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy làm Trưởng đoàn tham dự và chỉ đạo Đại hội. Phát biểu với Đại hội, đồng chí Nguyễn Huỳnh khẳng định: “Thành tích to lớn nhất sau trận lụt 1960 là sản xuất cứu đói, toàn huyện Đảng bộ Hương Sơn đã vận động quần chúng… chủ động vượt muôn ngàn gian khổ, biến đồi núi hoang vu thành ngô, khoai, sắn”70. Đại hội làm việc trong 4 ngày rưỡi, nhất trí “biểu dương thành tích hết sức to lớn của Đảng bộ và nhân dân…, tỏ rõ tinh thần dũng cảm chiến đấu của cán bộ, đảng viên, quần chúng… đã làm cho khó khăn biến thành thuận lợi”71. Đại hội vui mừng thấy rằng Hương Sơn đã căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp bậc thấp, trong đó, có 11,7% hộ đã vào bậc cao. Hợp tác xã mua bán cũng đã thu hút 60% hộ tham gia, hợp tác xã tín dụng có 54% số hộ tham gia tăng gấp 3 lần năm 1960. Phong trào giáo dục huyện Hương Sơn phát triển mạnh, cứ 100 người dân có 15 học sinh, đạt tỷ lệ vào loại cao nhất miền Bắc, sau Hà Nội, Hải Phòng. Các công 70 Biên bản Đại hội huyện Đảng bộ. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh. 71 Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ IV Lưu tại VPTU Hà Tĩnh.


150 tác khác như quốc phòng, y tế, ngân hàng, bưu điện đều được đẩy mạnh. “Những thắng lợi to lớn ấy đã tạo ra một chuyển biến mới sâu sắc trong phong trào thi đua72. Nhưng Đại hội cũng chỉ ra nhiều hạn chế, nhược điểm trong phong trào: “Cải tạo XHCN chưa hoàn thành, hợp tác phần nhiều còn ở bậc thấp, quy mô quá nhỏ, chưa được củng cố vững chắc, trình độ quản lý kém, sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, lệ thuộc vào thiên nhiên, nhiều mặt kế hoạch thực hiện thiếu cân đối. Phong trào chuyển mạnh nhưng chưa vững vàng. Tư tưởng bảo thủ, tư lợi, cục bộ còn nặng. Công tác giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng, phát triển đảng, bồi dưỡng giáo dục đoàn viên thanh niên và phụ nữ còn yếu”73. Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ những năm tới là “Tích cực củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp làm cơ sở vững chắc để phát triển nông nghiệp, kết hợp việc hoàn thiện quan hệ sản xuất với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, kết hợp chặt chẽ việc phát triển hợp tác hóa với thủy lợi hóa, dần dần cải tiến nông cụ, cải tiến kỹ thuật, nhằm mở rộng diện tích bằng tăng vụ và khai hoang; đồng thời, ra sức thực hiện thâm canh tăng năng suất theo phương châm toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, giải quyết tốt vấn đề lương thực là trọng tâm, đồng thời, phải hết sức coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, phát triển nghề phụ, nghề rừng, nghề cá, sử dụng tốt sức lao động tập thể là chính, đồng thời, phải tân dụng lao động gia đình của xã viên”74. Đại hội đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho năm 1962: 97% hộ nông dân vào hợp tác xã (trong đó vùng giáo là 80%), xây dựng được 35 cơ sở hợp tác xã có quy mô thôn, 45 cơ sở cấp cao, tổng sản lượng lượng thực 24.300 tấn, 100% hộ vào hợp tác xã mua bán, 70% chi bộ đạt tiêu chuẩn chi bộ tự động công tác… Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, gồm 19 ủy viên chính thức và 4 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Ban Thường vụ gồm 6 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Trương Hà được bầu lại làm Bí thư. Đồng chí Đinh Phùng Liễn được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Điểm mới trong cơ cấu của Ban Chấp hành lần này là số ủy viên mới, trẻ và trực tiếp ở cơ sở nhiều: có 2 đồng chí trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy xã, 6 đồng chí làm Chủ nhiệm hợp tác xã cấp cao. Ban Thường vụ có 1 đồng chí trực tiếp chỉ đạo và làm Chủ nhiệm hợp tác xã điểm Đại Châu (Sơn Châu). 72 Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ IV. Lưu tại VPTU Hà Tĩnh. 73 Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ IV. Lưu tại VPTU Hà Tĩnh. 74 Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ IV. Lưu tại VPTU Hà Tĩnh.


Click to View FlipBook Version