51 tộc rộng rãi nhằm đánh đổ Nhật - Pháp và bè lũ tay sai, giành độc lập dân tộc. Việc thành lập các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh ở các cơ sở được thực hiện. Việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền được tiến hành khẩn trương. Các vùng Cẩm Lĩnh, Dồm Dồm đã xây dựng được 1 trung đội, hoặc 1 đại đội du kích. Hoạt động dưới nhiều hình thức: đi săn, đi kéo, các đồng chí đã vào rừng tổ chức học tập tài liệu du kích chiến tranh của Trung ương và luyện tập quân sự; tổ chức quyên góp tiền bạc của những nhà giàu và cử người sang nước Lào mua sắm súng đạn. Thực hiện Chỉ thị của Xứ ủy Trung Kỳ, việc vận động binh lính quy sung trở về với cách mạng cũng được tiến hành. Truyền đơn kêu gọi binh lính do Trung ương gửi về có cả bằng tiếng Pháp được chuyển đến. Một số đồng chí đã vận động binh lính đồn Phố Châu, đồn chợ Bông và lính lê dương ở Nghệ An trở về với cách mạng. Nhờ vận động được một số binh lính địch, nhất là ở Phố Châu, việc đối xử của binh lính đối với người tù chính trị được dễ hơn; các đồng chí trong tù được liên lạc với nhau và với người ngoài, tạo sự thuận lợi cho các chuyến vượt ngục sau này. Đã có 25 binh lính tuyên bố đi theo cách mạng, nhiều người sau này được kết nạp và Đảng. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và Đô Lương liên tiếp nổ ra, nhưng cuối cùng đều bị thất bại, thực dân Pháp lại tiến hành khủng bố dã man; cán bộ, đảng viên ở Hương Sơn lần lượt bị bắt. Đồng chí Hồ Hảo và các đồng chí lãnh đạo khác đều bị bắt và giam ở thị xã Hà Tĩnh. Lúc này chỉ còn một mình đồng chí Lê Hữu Quán, cán bộ Xứ ủy trực tiếp lãnh đạo phong trào. Địch đã dùng nhiều thủ đoạn tra tấn dã man và dụ dỗ, mua chuộc cán bộ đảng viên để khai thác thông tin, tài liệu nhằm phá cơ sở đảng. Song không đạt được kết quả, chính quyền thực dân liền chuyển các đồng chí về giam ở Phố Châu để chờ ngày tuyên án. Trước tình hình đấu tranh của quần chúng nhân dân trong và ngoài huyện ngày càng diễn ra mạnh mẽ, ở trong tù sau nhiều lần bàn bạc, các đồng chí đã quyết định tổ chức vượt ngục. Đầu năm 1941, đồng chí Hồ Hảo, Bí thư Huyện ủy và một số chính trị phạm ở đồn Phố Châu đã vượt ngục về vùng đồn điền Sông Con, Cẩm Lĩnh để hoạt động. Hai đồng chí Hồ Hùng, Hồ Lượng là những
52 người thông thạo đường rừng và biết tiếng Lào, nên được chỉ định cùng vượt ngục với đồng chí Hồ Hảo. Theo kế hoạch và ngày giờ đã định, đồng chí Hồ Hảo, Hồ Nhu, Hồ Lượng sẽ vượt ngục, nhưng vào đúng phiên gác của Nguyễn Tỉu - lính khố xanh, một tên cai khét tiếng gian ác ở đồn Phố Châu trực gác, do đó việc vượt ngục không thực hiện được. Cuối cùng, các đồng chí phải lợi dụng phiên gác của một người lính đã được giác ngộ cách mạng giúp để thoát khỏi nhà lao ra ngoài và người lính ấy cũng đi theo cách mạng. Đúng vào đêm ngày 11-3-1941, các đồng chí thoát ra ngoài đã được đồng chí Lê Hữu Quán chờ đón và dẫn ngay lên vùng đồn điền. Hôm sau, bọn đồn huyện biết tin đã tiến hành lùng sục trong toàn huyện những nơi mà chúng nghi các đồng chí cán bộ, đảng viên có thể trốn. Nhờ sự che chở, bảo vệ của quần chúng, các đồng chí đã đến được địa điểm quy định một cách an toàn. Tại Sông Con, hoạt động trong một thời gian ngắn, tháng 4-1941, các đồng chí đã tái lập chi bộ ghép Sông Con - Cẩm Lĩnh, gồm 20 đảng viên, chia làm 7 tổ. Cùng với công tác xây dựng cơ sở, sau khi thành lập, chi bộ đã lãnh đạo tiến hành một cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của bọn chủ đồn điền, chống tên cai đánh đập phu giành thắng lợi. Nhân dân Kẻ De (Sơn Hàm) kéo ra đốt nhà ký rượu vừa để làm hiệu cho các nơi khác đồng loại tấn công, vừa để thu hút lực lượng đồn huyện vào việc chữa cháy, làm cho đồn Phố Châu bị bỏ trống, ta thừa cơ xông vào chiếm lấy. Trước tình hình vũ trang bạo động ở các nơi diễn ra dồn dập, cuối tháng 4-1941, Huyện ủy Hương Sơn họp và quyết định đánh đồn Phố Châu để giải thoát tù nhân, trong đó có các đồng chí đã tham gia vụ binh biến Đô Lương đang bị giam giữ ở đó; cướp vũ khí của địch và phối hợp với Huyện ủy Thanh Chương (tỉnh Nghệ An) xây dựng khu căn cứ, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị quyết định, đêm ngày 18-6-1941 sẽ tấn công đồn; lấy vùng Sông Con làm địa bàn hoạt động và xây dựng Khe Chéc làm khu căn cứ địa. Tuy nhiên, chủ trương đánh đồn Phố Châu không được Xứ ủy chấp nhận, vì nếu cuộc tấn công xảy ra sẽ để lại hậu quả khôn lường. Công việc tuy không được tiến hành, nhưng về tư tưởng “bạo động non” của các đồng chí lúc bấy giờ
53 vẫn chưa triệt để được giải quyết. Vì vậy, sau vài ngày, Chi bộ Sông Con - Cẩm Lĩnh tiến hành họp tại Cây Kè để bàn giết tên chủ đồn điền Sông Con là Pherây lấy súng đạn. Lần này báo cáo lên cũng không được Xứ ủy chấp nhận với lý do làm như vậy sẽ tạo cớ cho địch khủng bố, tàn sát cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trung tuần tháng 5-1941, nhân một số cán bộ lãnh đạo đi vắng, đồng chí Hồ Hảo đi Thanh Chương, Hồ Hùng, Nguyễn Ngại đi Thọ Lộc để bắt liên lạc xây dựng cơ sở vùng này, đồng chí Hồ Trung Lượng đã triệu tập một số đảng viên ở Sông Con họp bàn việc giết tên chủ đồn điền Pherây lấy súng đạn. Đêm ngày 14, rạng ngày 15-5-1941, cuộc bạo động đã nổ ra, lực lượng của ta ở ngoài đã có sự phối hợp nhịp nhàng với đồng chí Cu Trử được cử làm nội ứng vào nhà tên chủ đồn điền Sông Con. Việc hạ sát Pherây diễn ra nhanh gọn, thu 14 súng, 700 viên đạn, sau đó rút lui vào rừng. Chưa đầy 24 giờ sau, tên bang tá Hồ Dũng Tài cũng bị giết. Cuộc bạo động ở Hương Sơn nổ ra khi chưa có thời cơ, chưa có một cao trào cách mạng rộng lớn làm hậu thuẫn, vì thế bị địch đàn áp nhanh chóng. Ngay sau khi Pherây và Hồ Dũng Tài bị giết, tên đồn trưởng Phố Châu và tri huyện Hương Sơn đã báo động cho các tỉnh Bắc trung Kỳ, các tỉnh thuộc Lào giáp Hà Tĩnh phối hợp hành động. Thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã tăng cường đàn áp, bắt bớ những người tham gia bạo động. Chúng bủa lính vây kín vùng đồn điền Sông Con, Cẩm Lĩnh, không cho nhân dân trong huyện được ra ngoài, người ở địa phương khác không được đến. Chúng đóng ba đồn (1 đồn ở Đượng Dẻ để chặn đường sang Lào; 1 đồn ở Khe Sắn để chặn đường sang Nghệ An; 1 đồn ở Nam Nhe để chặn đường sang Hương Khê). Để đối phó lại với ta, chính quyền thực dân làm án cho tất cả những đồng chí hiện đang giam giữ ở Phố Châu và chuyển ngay vào thị xã, còn các đồng chí chính trị phạm trong huyện đều bị chúng bắt đi an trí. Chính quyền thực dân đã điều tên Tri phủ Trần Mậu Trinh, một tên khát máu làm tri huyện. Để phá hoại phong trào cách mạng ở Hương Sơn, chúng cho lập thêm đồn bốt, bắt phát quang làng mạc, mở rộng đường sá vào tận các thôn xóm hẻo lánh của vùng thượng huyện để thuận tiện cho việc hành quân vây quét. Tại xã Phúc Dương, địch cho lập 2 đồn và tổ chức một chiến dịch bắt bớ, chém giết tại chỗ làm chết 3 người. Những
54 cuộc vây lùng, chém giết, đốt phá xảy ra liên tục. Chỉ trong 2 tháng đã có trên 170 người bị bắt, 30 người bị xử bắn7 , trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng. Đồng chí Lê Hữu Quán, cán bộ Xứ ủy cũng bị bắt, bị kết án tù chung thân và đày lên Sơn La, sau đó bị đưa ra Côn Đảo. Làng Cẩm Lĩnh 10 người bị bắt, Sông Con 8 người và kết án tử hình 1 người. Cuộc khủng bố trắng còn lan rộng đến cả huyện Hương Khê, làng Vân Cù, có gia đình bị địch tàn sát cả nhà. Đến đây, phong trào cách mạng ở Hương Sơn tạm thời lắng xuống, nhưng nhờ sự che chở của quần chúng nhân dân địa phương, một số đồng chí hoạt động cách mạng vẫn được an toàn và chờ đợi thời cơ để hoạt động trở lại. Tháng 11-1941, do chưa đánh giá đầy đủ tinh thần đấu tranh của quần chúng, nên một số đồng chí cán bộ đảng viên sợ quần chúng không chịu đựng được sự khủng bố dã man của kẻ thù, nên đã quyết định chuyển đi nơi khác để tiếp tục hoạt động. Đồng chí Hồ Hảo sang Thanh Chương, tìm đến nhà Nguyễn Dương Ba với mục đích làm chỗ dựa để hoạt động. Nhưng tên này đã phản bội lại cách mạng và chỉ điểm cho mật thám, lính đồn về phục kích vây bắt đồng chí Hồ Hảo. Ngày 16-11-1941, địch giết hại đồng chí và kéo thi hài đồng chí đi khắp các vùng trong huyện từ Phố Châu đến Voi Bổ và Sông Con để uy hiếp tinh thần của quần chúng nhân dân dân. Chúng dựng xác đồng chí lên, lấy hai thanh gươm kề vào cổ đồng chí, rồi bắt thân nhân bỏ tiền bạc ra làm “chay” cho tên Pherây suốt 3 ngày đêm. Đồng chí Hồ Nhu và đồng chí Nguyễn Tỉu và một số đồng chí khác trên đường sang Lào ản náu cũng bị địch đưa lính vây bắt và giết hại vào ngày 21-11-1941. Đến tháng 8-1943, khi các địa phương khác như: Can Lộc, Thạch Hà, Đức Thọ đã xây dựng được một số cơ sở quần chúng để tuyên truyền chủ trương của Đảng vào quần chúng, thì ở Hương Sơn, phong trào vẫn chưa có động thái. Cuối năm 1943, đầu năm 1944, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt trước đó đã được thả, các đồng chí liên lạc với nhau bàn kế hoạch xây dựng lại cơ sở, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. 7 Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nghệ Tĩnh (Sơ thảo), xuất bản năm 1987, tr 170.
55 2. Khởi nghĩa giành chính quyền Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, nhận được tin này, sáng ngày 20- 3-1945, đồn trưởng Phố Châu cùng hai tên chủ đồn điền Sông Con và Voi Bổ hốt hoảng đánh xe chạy sang Lào trốn, đến Lạc Xao thì bị hiến binh Nhật đón bắt và giải về Vinh (Nghệ An). Ở vùng đồn điền lúc này hai tên là con của Phê rây bị bắt về Phố Châu, bọn tay sai hoang mang. Tình thế cách mạng đang đến gần, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Hương Sơn họp tại làng Thịnh Xá, bàn kế hoạch chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Các đồng chí nhất trí lấy việc chống sưu thuế là nhiệm vụ trước mắt cần tập trung giải quyết, trên cơ sở đó mà xây dựng lại cơ sở đảng và cơ sở quần chúng. Để lãnh đạo công tác trên, Ban Chấp hành Huyện ủy lâm thời gồm các đồng chí: Trần Bình, Hồ Cường, Trần Chí Tín đã phân công nhau về các địa phương bắt liên lạc với các đồng chí cũ, trên cơ sở đó thành lập chi bộ, tổ chức Việt Minh. Lúc này, tin tức hoạt động của Việt Minh khắp nơi đổ về đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cách mạng của quần chúng. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Việt Minh liên tỉnh được thành lập. Ở Hương Sơn, hai căn cứ du kích ở Tràng Sim (Sơn Trường) và ở Khe Tràm (Sơn Lâm) mỗi nơi xây dựng được 1 trung đội du kích tập trung, ngày đêm luyện tập quân sự. Tháng 5-1945, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời huyện họp trên một chiếc đò cắm giữa sông Phố nơi giáp giữa hai làng An Bài (Yên Bài, Sơn Ninh) và Tứ Mỹ (Sơn Châu) để kiểm điểm tình hình công tác, đề ra nhiệm vụ mới và phát động quần chúng xây dựng tổ chức. Việt Minh liên tỉnh công nhận Hương Sơn là một đơn vị trực thuộc liên tỉnh và cử đồng chí Trần Văn Quang, Ủy viên Ban Chấp hành Việt Minh liên tỉnh sang trực tiếp lãnh đạo công tác. Tiếp đó, hai ngày sau, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời tiến hành cuộc họp lần thứ ba ở đình làng Tứ Mỹ để kiểm điểm công việc và nghe đại biểu Việt Minh liên tỉnh phổ biến tình hình nhiệm vụ mới. Hội nghị cho rằng, so với sự phát triển của phong trào cách mạng chung, phong trào cách mạng huyện Hương Sơn phát triển chậm. Hội nghị chỉ rõ việc cấp bách là phải xúc tiến mạnh mẽ việc thành lập Mặt trận Việt Minh và các hội cứu quốc ở khắp nơi
56 trong toàn huyện, phải lấy chi bộ đảng, nếu chưa có thì lấy đảng viên làm nòng cốt mới đẩy mạnh phong trào. Sau cuộc họp, Việt Minh và tự vệ cứu quốc được phát triển mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn, đã có 26/54 làng xã trong huyện thành lập được tổ Việt Minh, tự vệ cứu quốc. Huyện ủy lâm thời đồng thời cũng là Chấp ủy Việt Minh lâm thời đã tổ chức cuộc họp thứ tư tại chùa Chọ (Tứ Mỹ - Sơn Châu) để phân công trực tiếp phụ trách từng khu vực. Địa bàn Hương Sơn được chia làm 3 khu vực: Khu vực I, gồm các làng thuộc tổng Đậu Xá, Thượng Bồng và Dĩ Ốc (Sơn Long), Xa Lang v.v… do đồng chí Nguyễn Đình Xứng và đồng chí Ba phụ trách. Khu vực II, tổng An Ấp, gồm Thịnh Xá (Sơn Thịnh), Bình Hòa, Gôi Mỹ (Sơn Hòa), Phúc Nghĩa, An Bài (Yên Bài, Sơn Ninh), Thọ Lộc, Hàm Lại (Sơn Lễ), Kẻ Trúa, Lê Định (Sơn Tiến) do đồng chí Nguyễn Mật phụ trách. Khu vực III, gồm tổng Hữu Bằng và một số làng thuộc tổng An Ấp và Đậu Xá từ Hữu Bằng (Sơn Bằng) đến Kim Cương (Sơn Kim) do đồng chí Trần Bình và Lê Khánh Du phụ trách. Đồng chí Trần Đoàn và đồng chí Hồ Thị Nhiệm (em ruột đồng chí Hồ Hảo) phụ trách các xã: Trị Yên, Tiên Bì (Sơn Thủy), Phúc Đậu (Sơn Phúc). Việc phân công cán bộ phụ trách từng địa phương đã tạo thuận lợi cho phong trào phát triển nhanh và vững. Bộ máy hương lý bị tê liệt, tổ chức thanh niên Phan Anh dần dần do Việt Minh nắm và hoạt động theo chương trình của Việt Minh. Thực hiện chủ trương của Trung ương về gấp rút chuẩn bị lực lượng giành chính quyền, tháng 7-1945, Việt Minh liên tỉnh cử đồng chí Mai Kính về Hương Sơn để truyền đạt một số công việc phải tiến hành gấp để tạo thời cơ, trong đó tập trung vào nhiệm vụ củng cố và xây dựng lại tổ chức Đảng ở cơ sở, tổ chức thêm đảng viên mới; nắm chắc tình hình bọn phản cách mạng để có kế hoạch chặn đứng sự phá hoại của chúng ngay từ bước đầu. Để giương cao khí thế cách mạng của quần chúng, Huyên ủy lâm thời quyết định thành lập ba đội tuyên truyền xung phong về tận các thôn xóm vạch trần những thất bại quân sự và chính trị của phát xít Nhật; đồng thời, tuyên truyền và phổ biến sâu rộng chương trình, chính sách của Việt Minh trong các
57 tầng lớp nhân dân và kêu gọi quần chúng sẵn sàng vùng dậy giành lấy chính quyền theo sự hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh. Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương hoang mang, chính quyền tay sai của Nhật bị tê liệt. Thời cơ cách mạng đã đến. Thi hành lệnh của Ủy ban khởi nghĩa liên tỉnh, ngày 17-8-1945, Huyện ủy lâm thời Hương Sơn tiến hành Hội nghị đại biểu Việt Minh toàn huyện tại làng Tứ Mỹ (Sơn Châu). Đồng chí Nguyễn Trọng Tạo, đại diện Ủy ban khởi nghĩa liên tỉnh dự và chỉ đạo, bàn kế hoạch giành chính quyền và lập Ủy ban khởi nghĩa huyện. Hội nghị quyết định việc khởi nghĩa giành chính quyền với phương châm: Lấy bạo lực chính trị của quần chúng làm lực lượng chủ yếu, có lực lượng vũ trang làm hậu thuẫn; đấu tranh kết hợp với thương lượng; lấy huyện trước, làng xã sau. Hội nghị quyết định: - Lấy làng Tình Diệm, làng ở gần Nhật trú quân vùng dậy giành chính quyền trước. - Phát động quần chúng nhân dân trong toàn huyện biểu tình bao vây huyện lỵ Phố Châu, buộc huyện trưởng phải giao chính quyền cho nhân dân, lấy đội du kích Tràng Sim làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh. - Bắt giữ những tên tay sai thực dân, phong kiến có nợ máu với nhân dân để ngăn chặn hành động phá hoại của chúng. - Dời trụ sở làm việc của chính quyền cách mạng về làng Xuân Trì (An Lễ). - Chia huyện ra làm hai vùng: vùng thượng huyện từ Hữu Bằng có nhiệm vụ tập trung tại Phố Châu để cùng với đội du kích chiến khu Tràng Sim giành chính quyền ở huyện và đồn Phố Châu; vùng hạ huyện gồm các làng thuộc khu vực I và II có nhiệm vụ tập trung tại Xuân Trì để tiếp đón chính quyền cách mạng dời về đây. - Lấy ngày 19-8-1945, là ngày tổng biểu tình toàn huyện để giành chính quyền.
58 Đồng chí Trần Bình được cử làm chỉ huy cuộc biểu tình. Đồng chí Nguyễn Trọng Tạo làm chỉ huy đội du kích cùng hợp lực trong việc giành chính quyền huyện xong sẽ về giành chính quyền ở các làng. Riêng đồn điền Sông Con, Nhật đóng giữ, cần có một lực lượng quần chúng đông đảo làm áp lực, có một lực lượng vũ trang mạnh làm hậu thuẫn thì việc giành chính quyền mới đảm bảo thắng lợi. Do đó, việc giành chính quyền ở đây sẽ tiến hành sau và do huyện phụ trách. Hội nghị bầu Ủy ban khởi nghĩa huyện gồm 5 đồng chí: Trần Bình, Hồ Thị Nhiệm, Nguyễn Đình Xứng, Trần Chí Tín, Nguyễn Quang Tấn, do đồng chí Trần Bình làm Chủ tịch, sau này sẽ là Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện khi giành chính quyền về tay nhân dân. Thực hiện kế hoạch khởi nghĩa, khắp các làng xã trong huyện chuẩn bị cờ, khẩu hiệu, toàn dân quyết tâm nhất tề đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 18-8-1945, khắp nơi trong toàn huyện đã tổ chức mít tinh, trống mõ vang dội. Trước sức mạnh của quần chúng, bọn hương lý ở Phúc Dương đã phải giao nộp sổ sách, triện bạ lại cho nhân dân. Chính quyền cách mạng do Chấp ủy Việt Minh đảm nhiệm đã tuyên bố thành lập ngay trong cuộc mít tinh. Tại làng Tình Diệm, địa phương được chọn làm thí điểm của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, đêm ngày 18-8-1945, thực sự là đêm hội của quần chúng nhân dân ở đây. Trong các xóm, trống mõ vang dội, cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, nhân dân đổ về đình tập hợp theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: Đả đảo phát xít Nhật! Đả đảo chính quyền bù nhìn tay sai! Mặt trận Việt Minh muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm! Sau đó, nhân dân tập trung ở đình để chứng kiến việc hương lý giao nộp giấy tờ, sổ sách, các triện, trong đó có triện lý trưởng, đại hào, hương bộ, hương bản và xin nhân dân tha tội chết.
59 Ủy ban khởi nghĩa thay mặt nhân dân tuyên bố bộ máy của chính quyền tay sai phong kiến vĩnh viễn bị xóa bỏ, Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời xã được thành lập. Cuộc khởi nghĩa ở Tình Diệm giành được thắng lợi hoàn toàn. Để cổ vũ tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong huyện và tạo niềm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng, tin thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Tình Diệm được Ủy ban khởi nghĩa huyện kịp thời lan truyền đi khắp nơi trong huyện ngay đêm ngày 18-8-1945. Ngày 19-8-1945, diễn ra tổng biểu tình trong toàn huyện để giành chính quyền. Đúng 7 giờ sáng, quần chúng nhân dân từ Hữu Bằng kéo lên, từ Tình Diệm kéo xuống dọc đường số 8 thuộc địa phận Phố Châu. Với khí thế xung thiên, đoàn biểu tình trong tay cờ đỏ sao vàng tung bay, tạo thành một biển người từng lớp trong, ngoài kéo đến vây chặt đồn huyện Phố Châu. Quần chúng hô vang khẩu hiệu: Đả đảo Pháp, Nhật xâm lược; đả đảo Chính phủ bù nhìn; hoan hô Mặt trận Việt Minh vang dậy cả một vùng. Trong đồn huyện Phố Châu lúc đó có 7 tên Nhật. Trước thái độ nằm im của bọn Nhật, huyện trưởng, đồn trưởng phải đầu hàng vô điều kiện ngay giữa sân và chấp nhận giao nộp lại ấn tín cho nhân dân. Lúc này, đồng chí Trần Đình Bé - Chỉ huy trưởng, cưỡi con ngựa bạch và cầm thanh kiếm dài chỉ huy hạ cờ ba que xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt, những tràng pháo tay vang dội kéo dài8 . Theo kế hoạch đã định, đoàn biểu tình lại kéo xuống Xuân Trì để cùng nhân dân ở vùng hạ huyện chung mừng thắng lợi. Đến đây, số người do hai đoàn hợp lại rất đông lên tới hàng vạn người. Trước đông đảo quần chúng nhân dân toàn huyện, huyện trưởng đã tuyên bố trao trả chính quyền về tay nhân dân. Tiếp đó, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời gồm các đồng chí: Trần Bình, Hồ Thị Nhiệm, Nguyễn Đình Xứng, Nguyễn Quang Tấn đã ra mắt trước toàn thể nhân dân. Tiếng hô, tiếng vỗ tay lại vang dội như sấm dậy kéo dài không ngớt. Sự kiện này đánh một mốc son trong lịch sử, từ nay Nhân dân Hương Sơn có một chính quyền mới. Chính quyền cách mạng. 8 Theo lời kể của ông Đào Xuân Thanh - Nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh huyện, người trực tiếp được chứng kiến cảnh này.
60 Sau đó hai ngày, các làng xã còn lại trong toàn huyện đều nổi dậy giành được chính quyền về tay nhân dân. Riêng đồn điền Sông Con, đến ngày 25-8- 1945, sau khi ổn định xong bộ máy chính quyền ở các địa phương, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện đã trở lại huyện lỵ Phố Châu chỉ đạo quần chúng nhân dân ở đây đánh chiếm đồn điền. Cuối cùng Nhật buộc phải trao trả chính quyền và xin được cấp phương tiện để rút về Vinh. Cuộc khởi nghĩa ở Hương Sơn đã giành được thắng lợi. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài đầy khó khăn, gian khổ và hy sinh lớn lao của các tầng lớp nhân dân Hương Sơn. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hương Sơn đã góp phần vào thắng lợi chung của cả nước, phá tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam. *** Trải qua chặng đường cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, với truyền thống lịch sử vẻ vang và tinh thần yêu nước, kiên cường, bất khuất, nhân dân Hương Sơn đã một lòng theo Đảng làm cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, nhân dân Hương Sơn cùng cả nước đứng lên đấu tranh lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền về tay nhân dân, người dân Hương Sơn được sống trong chế độ mới, độc lập, tự do. Những truyền thống quý báu mà các thế hệ cán bộ, đảng viên và người dân Hương Sơn vun đắp từ đời này qua đời khác, là tiền đề vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Hương Sơn qua các thời kỳ. Thành quả mà Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn đạt được của thời kỳ này là nền móng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn tiếp tục phát huy trong những chặng đường tiếp theo.
61 Chương II ĐẢNG BỘ HUYỆN HƯƠNG SƠN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) I. GIẢI QUYẾT NHỮNG KHÓ KHĂN CẤP BÁCH, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (8/1945-12/1946) Sau Cách mạng Tháng Tám, phong trào cách mạng của huyện Hương Sơn đứng trước những thuận lợi rất cơ bản: Huyện ủy lâm thời được thành lập và phát triển được các tổ chức mặt trận Việt Minh hầu khắp ở các thôn từ miền xuôi đến miền ngược. Một không khí náo nức, phấn khởi được sống trong tự do, độc lập bao trùm toàn huyện. Đại bộ phận nhân dân tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, hăng hái gia nhập các đoàn thể cứu quốc và tích cực tham gia lực lượng tự vệ. Tuy nhiên, phong trào cách mạng Hương Sơn còn rất nhiều khó khăn, thử thách: Hậu quả của nạn đói khủng khiếp đầu năm 1945 còn dai dẳng tại một số địa phương. Ngân quỹ của chính quyền cách mạng trống rỗng. Trình độ dân trí thấp, 90% nhân dân mù chữ. Trong xã hội, tệ nạn xã hội nhất là nạn mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc còn phổ biến. Trên địa bàn huyện, nhiều địa chủ quan lại, công chức cũ, có cả quan lại cao cấp nghỉ hưu ở địa phương, trong số đó có nhiều chức sắc, phẩm hàm cao. Một số người dân còn hoang mang, dao động, lưng chừng, thậm chí có cả những phần tử mang tư tưởng đối lập. Về tổ chức Đảng, ngoại trừ Ban Chấp hành lâm thời của huyện được thành lập, các chi bộ ở cơ sở chưa được tái lập do các đảng viên chưa bắt mối được với nhau. Cán bộ cách mạng, kể cả đảng viên và quần chúng ngoài Đảng trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết cơ bản về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Điều kiện làm việc của chính quyền cách mạng vô cùng thiếu thốn. Trong lúc tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, kẻ thù lại lăm le tìm cách bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. Từ vĩ tuyến 16 trở ra, 20 vạn quân Trung hoa dân quốc kéo vào đem theo bọn phản động người Việt lưu vong là Việt quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng) và Việt cách (Việt Nam Cách mạng
62 đồng minh hội), các sư đoàn quân Tưởng triển khai lực lượng dọc đường số 8 sang Lào. Ở Hương Sơn, một số phần tử theo Việt quốc, Việt cách, mặc dù chưa dám ra mặt nhưng ngấm ngầm đợi thời cơ chống phá cách mạng. Hương Sơn có đường biên giới phía Tây giáp với nước bạn Lào dài 56 km. Trong lúc đó, tàn quân Pháp sau ngày Nhật đảo chính lẩn trốn trong rừng núi ở biên giới Việt - Lào đang tập hợp lại, tìm cách tràn xuống cướp phá và chiếm lại các vị trí đã mất. Ngày 15-8-1945, chúng cùng quân nhảy dù Pháp mới tới chiếm lại từ tay quân Nhật một số vị trí hai bên đường 8 trên đất Lào, lập thành một hành lang quân sự, lấy Na-pê làm bàn đạp khi tiến đánh Nghệ An, Hà Tĩnh9 . Giặc ngoài, thù trong, các hậu quả do chế độ cũ để lại đe dọa nền độc lập của dân tộc, chính quyền cách mạng của nhân dân bị uy hiếp nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo quân dân toàn huyện khắc phục mọi khó khăn xây dựng chế độ mới và chuẩn bị lực lượng mọi mặt để chống kẻ thù xâm lược. 1. Lãnh đạo nhân dân khắc phục khó khăn, chống "giặc đói", diệt "giặc dốt", xây dựng đời sống mới Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thành công, ngày 24-8- 1945, Hội nghị cán bộ Việt Minh toàn tỉnh Hà Tĩnh họp bàn và quyết định những chủ trương và biện pháp đưa phong trào cách mạng của tỉnh tiến lên. Hội nghị chủ trương: “nhanh chóng ổn định chính trị, thực hiện một số cải cách xã hội”, “giải quyết những khó khăn về kinh tế, đời sống, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang bảo vệ địa phương”. Cuối tháng 8-1945, Huyện ủy lâm thời Hương Sơn họp, bổ sung thêm một số ủy viên và phân công lại Ban Chấp hành để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Trần Chí Tín, nguyên Huyện ủy viên được phân công làm Bí thư, đồng chí Trần Bình tiếp tục làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng và được phân công kiêm công tác quân sự. Hội nghị đề ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt: Nhanh chóng củng cố, phát triển tổ chức Đảng, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc và chính quyền cách mạng; phát triển, củng cố lực lượng vũ trang để bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân, bảo vệ biên giới; hết sức tranh thủ các tầng lớp trí thức, quan lại, công chức cũ, các tôn giáo, lôi kéo 9 Na-pê là một đồn lính của Pháp, cách biên giới Hương Sơn 13 km (BBT).
63 những người còn lưng chừng đi theo cách mạng, đồng thời kiên quyết trấn áp bọn phá hoại; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nâng cao giác ngộ cách mạng cho các tầng lớp nhân dân; thực hiện một số cải cách xã hội nhằm đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân. Ngay sau Hội nghị Huyện ủy, ngày 1-9-1945, Ban Chấp ủy Việt Minh huyện, do đồng chí Lê Khánh Du làm Bí thư, triệu tập Hội nghị Việt Minh toàn huyện để quán triệt chủ trương của Việt Minh tỉnh và nghị quyết của Huyện ủy. Vì các chi bộ đảng chưa được phục hồi nên tổ chức Việt Minh ở cơ sở vừa đảm nhận chức năng tập hợp quần chúng nhân dân, vừa đóng vai trò như một tổ chức lãnh đạo của quần chúng. Mọi chủ trương, nghị quyết của Đảng đều thông qua tổ chức Việt Minh cơ sở để vận động quần chúng nhân dân. Sau khi quán triệt chủ trương của cấp trên và nghị quyết của Huyện ủy, Hội nghị Việt Minh toàn huyện thảo luận việc đón mừng ngày độc lập 2-9. Sau một quá trình khôi phục, tổ chức Đảng bước đầu được củng cố, chính quyền dân chủ nhân dân từng bước đi vào hoạt động có hiệu quả. Phong trào cách mạng của nhân dân trong toàn huyện phát triển rộng khắp. Đầu tháng 12- 1945, Huyện ủy lâm thời triệu tập Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Sơn tại đồn điền Sông Con. Tham dự Đại hội có khoảng 40 đại biểu 10. Đại hội tiến hành trong hoàn cảnh thuận lợi, Trung ương Đảng vừa ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Ở Hà Tĩnh, Tỉnh ủy lâm thời đã được thành lập. Đồng chí Phạm Thể thay mặt Tỉnh ủy về dự và chỉ đạo Đại hội. Đại hội phân tích tình hình, hoàn cảnh của Hương Sơn, thống nhất đánh giá những thắng lợi to lớn đã đạt được; đồng thời, thẳng thắn phê phán các tư tưởng cục bộ, địa phương, thành kiến, hẹp hòi gây nên trước đây, do cùng tồn tại 2 Huyện ủy, 2 Tổng bộ, dẫn đến nội bộ thiếu sự nhất trí với nhau, làm cho phong trào cách mạng Hương Sơn gặp khó khăn. Đại hội quyết định các nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ trong thời gian tới là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác phát triển, củng cố tổ chức Đảng, chú ý các địa phương chưa có chi bộ, chưa có đảng viên; củng cố, mở rộng Mặt trận Việt 10 Do chưa xác minh được chính xác số đại biểu của đại hội, nên tạm thời chúng tôi căn cứ vào một hồi ký của một cán bộ lão thành cách mạng lưu ở TBLSĐ tỉnh là “khoảng bốn chục”. (BBT).
64 Minh và các đoàn thể cứu quốc, củng cố chính quyền, tiến hành hợp xã theo chủ trương của tỉnh, hoàn thành tốt công tác bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; củng cố lực lượng vũ trang, quyết tâm cùng các đơn vị của tỉnh phòng ngự vững chắc biên giới, bảo đảm anh ninh trật tự xã hội; xây dựng nền tài chính của huyện; đẩy mạnh các cuộc vận động sản xuất, tiết kiệm, bình dân học vụ, xây dựng đời sống mới lên cao hơn nữa. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện chính thức gồm 5 ủy viên, đồng chí Trần Chí Tín được bầu làm Bí thư, đồng chí Trần Bình được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Đại hội cử đại biểu đi dự đại hội Đảng bộ tỉnh. Thành công của Đại hội có ý nghĩa to lớn, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ trước những nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền và chuẩn bị tiềm lực mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện chủ trương của Trung ương và của tỉnh Hà Tĩnh, chống “giặc đói” là nhiệm vụ được Đảng bộ, chính quyền Hương Sơn hết sức coi trọng. Để chống đói lâu dài, Huyện ủy Hương Sơn chỉ đạo nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, “Không bỏ ruộng hoang”. Tất cả các xã thực hiện chia lại công điền, thực hiện giảm tô 25% theo sắc lệnh của Chính phủ. Thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”, khắp nơi nhân dân hăng hái sản xuất lương thực và rau màu. Đồng thời, phong trào khai hoang phục hóa được đẩy mạnh, phong trào mở rộng sản xuất phát triển, hệ thống kênh mương được khai thác. Các bãi bờ, cồn đống hoang hóa đều được khai phá để trồng hoa màu. Ruộng đất công được tạm giao cho nông dân cày cấy. Cà phê trong các đồn điền được phá để trồng cây lương thực. Các địa phương rầm rộ đưa người lên đồn điền khai hoang hơn 100 mẫu. Đồng thời, xây dựng được 3 lò than và lập 1 tổ thương mại. Nhân dân Hương Sơn tập trung cấy hết diện tích, kết hợp trồng lúa với trồng các cây ngắn ngày để cứu đói. Những người hành khất, những người vô gia cư được cách mạng cứu tế và đưa lên đồn điền sản xuất. Huyện ủy còn cho các địa phương lĩnh trâu, bò của đồn điền về giao nông dân mượn. Hội Nông dân Yên Đồng, Bảo Thịnh (Sơn Bình) vận động nhân dân lên
65 Hạ Vàng (Sơn Kim) để sản xuất. Việc khai thác lâm sản được tổ chức lại có quy củ, góp phần chống đói cho nhân dân. Đồng thời với việc tăng gia sản xuất, Ban Vận động cứu đói được thành lập từ huyện đến xã. Nhiều hình thức tương trợ, tương thân, tương ái có hiệu quả được tổ chức như “Quỹ tình thương”, “Hũ gạo cứu đói”. Phong trào “Nhường cơm sẻ áo” được tuyên truyền, vận động và phát triển có hiệu quả. Hội Nông dân các địa phương phối hợp với Hội Phụ nữ tổ chức các ban cứu tế, quyên góp, giúp đỡ những gia đình thiếu đói, vận động những người không có việc làm tham gia sản xuất. Ngoài ra, chính quyền thực hiện các biện pháp hành chính như chống đầu cơ, tích trữ, nghiêm cấm nấu rượu… để tập trung lương thực cứu đói. Bên cạnh đó, một số nơi còn thực hiện xóa nợ cũ, hoãn nợ mới vay để nông dân nghèo có vốn sản xuất hoặc vận động các điền chủ trả công thỏa đáng cho người làm thuê. Những chủ trương thiết thực và quan trọng này đã tạo niềm tin cho nông dân vào chế độ mới. Để xây dựng nền tài chính quốc gia, từ ngày 18 - 9 đến 25 -9 -1945, “Tuần lễ vàng” được phát động ở Hương Sơn nhằm ủng hộ tài chính cho Chính phủ Cách mạng lâm thời. Đại bộ phận nhân dân trong huyện đã hăng hái hưởng ứng “Tuần lễ vàng”, xây dựng “Quỹ độc lập”. Nhiều phụ nữ đóng góp những đồ trang sức quý giá như: kiềng vàng, dây chuyền có nạm kim cương cho đất nước. Trong 1 tuần thực hiện, toàn huyện quyên góp được 1,7265 kg vàng ta và 0,027 kg vàng tây11. Tổng kết phong trào “tuần Lễ vàng”, huyện Hương Sơn đứng đầu tỉnh Hà Tĩnh về số vàng quyên góp. Các ngành chuyên môn của huyện như Bưu điện, Công chánh, Thủy lâm được chấn chỉnh hoạt động. Công tác diệt “giặc dốt” được đặc biệt coi trọng, song thời gian đầu gặp nhiều khó khăn, nhất là tư tưởng ngại học của người dân. Trước tình hình đó, các cấp bộ Việt Minh giao cho các đoàn thể, các tổ chức tự vệ tập trung vận động hội viên, đội viên đi học. Ban Bình dân học vụ được thành lập từ huyện đến từng thôn. Trưởng ban bình dân học vụ đầu tiên của huyện là thầy giáo Nguyễn Duy Điều, quê ở Phúc Dương (Sơn Phú). Ban bình dân học vụ các cấp tích cực tuyên truyền vận động, từ vận động người học đến vận động người dạy, 11 Báo cáo của Chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Tĩnh ngày 30-10-1945, lưu tại TBLSĐ, Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
66 bồi dưỡng phương pháp mới cho người dạy. Các lớp bình dân học vụ được mở khắp nơi, mỗi lớp học có từ 3 đến 5 người. Có lớp học buổi trưa, lại có lớp học buổi tối, tạo điều kiện thuận tiện cho người học. Khắp các làng xã, đình làng, trước cổng chợ…đâu đâu cũng có khẩu hiệu, biểu ngữ, truyền đơn kêu gọi, động viên nhân dân tham gia dạy và học chữ nhằm đẩy lùi giặc dốt. Mặt trận Việt Minh huyện vận động mọi người dạy và học theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Người biết viết dạy cho người chưa biết, người biết đọc dạy cho người chưa biết đọc, vợ chưa biết thì chồng bảo, người làm, người ở chưa biết thì chủ bảo..”. Các thôn xóm đã mở được lớp học, người đi học ngày càng đông. Điển hình là phong trào diệt dốt của các xã Sơn Thịnh, Hàm Phố. Ở các xã, hàng trăm lớp bình dân được mở tại các nhà dân, công sở, đình làng… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Phương pháp dạy mới, học mới theo vần quốc ngữ mới của Hội Truyền bá quốc ngữ mang lại kết quả rõ rệt. Người học nhanh biết, dễ nhớ. Sau vài ba tháng, trên địa bàn huyện đã có một số lớp học đầu tiên thoát nạn mù chữ. Bước sang năm 1946, phong trào bình dân học vụ của huyện lên rất cao. Chị em giúp nhau giữ con, vần công, đổi công để đi học. Đến tháng 11-1946, Hương Sơn có 372 lớp bình dân, 392 giáo viên, 6.796 học viên12. Lớp học mở khắp nơi: ở tư gia, nhà thờ họ, hội quán, đình, chùa… Để khắc phục tình trạng khan hiếm giấy, học viên lấy giấy đã viết đem ngâm nước gạo, phơi sương nắng để dùng lại. Có người dùng lá chuối luộc lên, phơi ráo để tập viết. Nhiều xã có hình thức động viên giúp đỡ bà con đi học như xã Mạc Phượng (Sơn Tiến), phát không giấy bút cho học viên. Ban bình dân học vụ các xã tìm ra nhiều biện pháp để đẩy mạnh phong trào như tổ chức đố chữ, đón đường đi chợ, đi làm để kiểm tra thi đọc thi viết, tổ chức thi mãn khóa và phát bằng thanh toán nạn mù chữ… Các lớp bình dân học vụ không chỉ là nơi dạy chữ mà còn là nơi tuyên truyền, phổ biến tin tức và các chủ trương, chính sách của cách mạng nên càng lôi cuốn nhân dân tham gia các lớp học. Cùng với phong trào bình dân học vụ, ngành giáo dục phổ thông có bước phát triển nhanh. Bước vào năm học 1946-1947, có thêm nhiều xã mở trường cơ bản, hoặc toàn cấp, hoặc bán cấp (trường tiểu học có lúc gọi là trường cơ 12 Báo cáo của Ty bình dân học vụ Hà Tĩnh ngày 20-11-1946, lưu tại Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
67 bản). Đặc biệt xã Mạc Phượng (Sơn Tiến) đầu tư xây dựng được ngôi trường ngói. Trước Cách mạng Tháng Tám, huyện Hương Sơn có 3 trường tiểu học toàn cấp là: Trường Thịnh Xá có 9 lớp, trường Phố Châu có 6 lớp, trường Dĩ Long có 6 lớp. Trường Tiểu học Thịnh Xá bán cấp: Xa Lang, Hữu Bằng, Đậu Xá. Bên cạnh đó, một số nơi có trường dạy vỡ lòng. Ngoài ra, còn có một số lớp học tư thục mở ở tư gia. Sau Cách mạng tháng Tám, các trường học trên địa bàn huyện được củng cố và mở rộng, tạo điều kiện để con em nông dân đến trường ngày càng nhiều. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân cách mạng huyện cử ông Tống Trần Trinh, nguyên là Hiệu trưởng trường Tiểu học Thịnh Xá làm Trưởng Ban Giáo dục huyện. Đầu tháng 10-1945, các trường phổ thông trong toàn huyện tổ chức lễ khai giảng năm học đầu tiên dưới chế độ mới. Giáo viên do nhân dân các địa phương tuyển lựa qua bỏ phiếu tín nhiệm. Bởi vậy, lớp giáo viên năm 1945, lớp giáo viên đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên địa bàn huyện tình nguyện làm việc không lương, phục vụ cách mạng, được mệnh danh là “giáo viên bầu”. Mặc dù các lớp học còn sơ sài, đồ dùng học tập thiếu, nhưng phong trào học tập hết sức sôi nổi nên giặc dốt dần được đẩy lùi. Hàng ngàn người thuộc các tầng lớp, lứa tuổi khác nhau trên địa bàn huyện thoát khỏi nạn mù chữ. Đời sống văn hóa của nhân dân được nâng lên. Xã nào cũng có các tổ phát thanh, tuyên truyền hoạt động sôi nổi. Nhiều xã lập được tủ sách. Phong trào xây dựng đời sống mới lan rộng khắp huyện. Thực hiện chủ trương của Ủy ban hành chính tỉnh, tháng 8-1946, Ban vận động đời sống mới huyện ra đời. Đến tháng 11-1946, khắp 22 xã đều có ban vận động. Các tệ nạn xã hội như thuốc phiện, cờ bạc được bài trừ gần hết. Trộm cắp giảm nhiều. Cướp tuyệt nhiên không có. Tục đốt vàng mã, tệ đồng bóng, lệ ăn uống linh đình trong các đình đám bị lên án kịch liệt đã giảm nhiều. Tết Bính Tuất (1946) theo chủ trương của Huyện ủy, các thôn xóm tổ chức đón xuân tiết kiệm mà rất vui, có mít tinh đón mừng năm mới, có nhiều cuộc vui tập thể, nhiều đêm ca kịch. Tết Trung thu năm 1946 là Tết Trung thu độc lập đầu tiên của thiếu nhi Việt Nam. Với thiếu nhi Hương Sơn, lại là Tết Trung thu đầu tiên trong đời, vì trước cách mạng các em không khi nào được tổ chức vui chơi. Đoàn Thanh niên cứu quốc
68 đã tổ chức cho các em đón Tết. Các em rất phấn khởi được nghe đọc thư của Bác Hồ và thư của anh bộ đội Thép Mới viết “Giữa trăng ngàn và gió núi bao la” gửi cho các em nữa. Thay vào những hội hè và đình đám ngày xưa là những ngày lễ hội 1-5, 19-5, Tết độc lập 2-9… với những trò vui cổ truyền như: kéo co, ném cổ chai, cờ thẻ, cướp cù, đá bóng, đua thuyền trên sông và những trò vui mới như thi đố chữ, thi đọc, thi viết, vấn đáp về thời sự, về chủ trương, chính sách, liên hoan văn nghệ… Cùng với việc tập trung diệt “giặc dốt”, Huyện ủy lãnh đạo nhân dân bắt tay xây dựng cuộc sống mới. Ngay sau khi giành được chính quyền, Ủy ban Nhân dân cách mạng các cấp liền tuyên bố hủy bỏ những luật lệ, các chế độ sưu thuế của chính quyền cũ, thiết lập mối quan hệ xã hội mới tự do, bình đẳng, mọi công việc trong thôn xóm đều do Hội nghị nhân dân quyết định, mọi công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam, nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trước hết là thực hiện ăn ở hợp vệ sinh, không phóng uế bừa bãi, bỏ các tệ nạn xôi thịt, rượu chè, cờ bạc, bài trừ các tục lệ mê tín dị đoan, ma chay, đồng bóng. Cuộc vận động gặp không ít khó khăn bởi nếp sống mới chưa hình thành, nếp cũ đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mọi người dân. Mặt khác, bọn phải động lại phao tin Việt Minh không tôn trọng tự do tín ngưỡng để chống phá. Mặt trận Việt Minh, nhất là các đoàn thể như thanh niên, học sinh là đội xung kích trong cuộc vận động này. Các đội công tác vệ sinh được thành lập, hàng tuần tổ chức làm vệ sinh những nơi công cộng, đường làng, ngõ xóm, phát bờ bụi làm cho nông thôn trở nên sạch sẽ, thông thoáng; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nên các hủ tục lạc hậu dần dần được loại bỏ. Các đội tuồng, chèo cũ cùng các hình thức hát ví, hát dặm trong các ngày mùa được khuyến khích phục hồi. Một số nơi thành lập được các đội ca kịch, đội văn nghệ của thanh niên, phụ nữ. Lễ hội và các trò chơi truyền thống trong những ngày Tết Nguyên đán được tổ chức. Cuộc vận động xây dựng đời sống mới tuy còn gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại nhưng bước đầu thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, thu hút quảng đại quần chúng nhân dân đi theo; tình hình trật tự trị an được đảm bảo tốt; đường thôn ngõ xóm thông thoáng; nhân dân phấn khởi tham gia vào mọi công việc để xây dựng nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
69 2. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân Làn gió mới của cách mạng, của độc lập, tự do không chỉ có sức lôi cuốn, thuyết phục, thu hút quảng đại quần chúng mà còn cảm hóa được cả những kẻ bất lương thành người lương thiện. Vì thế, tình hình trật tự trị an trên địa bàn huyện sau cách mạng nói chung được đảm bảo. Nhân dân lao động, những người bị áp bức nhiều nhất dưới chế độ cũ, nhất là phụ nữ, hồ hởi phấn khởi đứng lên làm người công dân của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tham gia vào mọi công việc của xã hội. Cán bộ Việt Minh chia nhau đi vận động, giải thích, thuyết phục những người còn lưng chừng, rụt rè ra hoạt động. Ủy ban nhân dân cách mạng huyện triệu tập các vị nhân sĩ, quan lại cũ để nói rõ chủ trương, chính sách của Việt Minh, của chính quyền và yêu cầu họ tùy theo sức của mình để làm việc cho cách mạng; đồng thời, trấn áp, cảnh cáo những kẻ ngang ngược, ngoan cố, tống giam tên mật thám Phạm Tuyên ở Yên Bài (Sơn Ninh). Những người lưng chừng, các vị nhân sĩ, quan lại cũ dần dần hiểu và hăng hái ra hoạt động, có nhiều người tích cực, tận tụy không tiếc công, tiếc của với cách mạng. Cán bộ từ huyện đến cơ sở, đến tận các xóm hẻo lánh, khai hội, mít tinh quần chúng để phổ biến tình hình nhiệm vụ, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, vận động chống đói, diệt dốt, thực hiện đời sống mới, ủng hộ Nam Bộ kháng chiến v.v…; gây cơ sở cho các đoàn thể cứu quốc, khôi phục và phát triển tổ chức Đảng. Do nền tài chính eo hẹp, nên cán bộ làm việc không lương. Cán bộ huyện về cơ sở thì ăn cơm với gia đình đồng chí, đồng bào, về trụ sở thì ăn cơm tại “bình dân phạm điếm” do huyện tổ chức đài thọ; cán bộ cơ sở lên huyện thì quần nâu, áo vá, chân đất, với một cái xà cột bằng vải nâu và chéo gạo lẫn khoai để nạp cho phạm điếm. Tất cả đều hồ hởi, phấn khởi ăn cơm nhà, làm việc nước với tinh thần hy sinh tận tụy vô bờ bến. Với những cố gắng không mệt mỏi đó, lần lượt các chi bộ thôn được thành lập: Yên Đồng, Bảo Thịnh (Sơn Bình), ngày 10-9-1945; Tứ Mỹ (Sơn Châu), ngày 12-9-1945; Trị Yên (Sơn Thủy) vào đầu tháng 12-1945. Các thôn mới có một vài đảng viên thì ghép thành các chi bộ ghép: Dĩ Long + Đôn Mỹ (Sơn Long và Sơn Trà), Bạch Sơn + Đông Lỗ + Hàm Lại (Sơn Tiến), Phố Châu + cơ quan huyện, Gôi Mỹ + Bình Hòa (Sơn Hòa) v.v…
70 Vừa tích cực chăm lo xây dựng phong trào, Huyện ủy vừa hết sức chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như: gửi đi huấn luyện ở Nghệ An, cử cán bộ đi huấn luyện ở Hà Tĩnh. Trong tháng 10-1945, Huyện ủy mở được hai lớp huấn luyện chính trị về chương trình, Điều lệ Việt Minh, phương pháp vận động quần chúng, phương pháp khai hội… và một lớp huấn luyện quân sự cho cán bộ cơ sở. Huyện ủy còn điều cán bộ ở cơ sở này giúp địa phương khác như điều động một số đảng viên, cán bộ ở Yên Đồng (Sơn Bình), Tứ Mỹ (Sơn Châu), Đồng Khánh (Sơn Giang)…, giúp miền sơn cước thượng huyện, vận động thanh niên, học sinh vùng xuôi lên dạy văn hóa ở miền ngược… Trong tháng 11-1945, lần lượt các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc. Nông dân cứu quốc mở Đại hội đại biểu toàn huyện, kiểm điểm, đánh giá lại phong trào của đoàn thể mình, đề ra phương hướng hoạt động trong thời gian tới và bầu các Ban Chấp hành chính thức, bầu đại biểu đi dự Đại hội cấp tỉnh. Đồng chí Lê Hữu Đạm, Bí thư Đoàn xã Mỹ Hòa (Sơn Hòa) được bầu làm Bí thư Huyện đoàn thay cho đồng chí Tống Trần Đức, nguyên là Bí thư Ban Chấp hành lâm thời Huyện đoàn Thanh niên cứu quốc, được Liên khu ủy điều động. Đồng chí Hồ Thị Nhiệm (quê Sơn Bằng) vừa là Ủy viên Ban Chấp ủy Việt Minh huyện, Ủy viên Ủy ban nhân dân cách mạng huyện kiêm Bí thư lâm thời Phụ nữ, được bầu làm Bí thư Phụ nữ huyện. Đồng chí Nguyễn Mật (quê Sơn Bình) - đảng viên 30-31, một cán bộ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám ở Hương Sơn, Bí thư lâm thời Nông hội, được bầu làm Bí thư Nông dân cứu quốc. Các tầng lớp nhân dân hăng hái gia nhập đoàn thể cứu quốc. Đồng bào theo đạo Phật còn lập ra hội Phật giáo cứu quốc. Để xây dựng Nhà nước, ngày 6-1-1946, ngày bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thật sự là một ngày hội lớn của nhân dân, của gần 30 ngàn cử tri Hương Sơn. Công tác tuyên truyền, cổ động được tiến hành liên tục trong cả tháng trước đó rất rầm rộ và sâu rộng. Lần đầu tiên, người Việt Nam được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ thiêng liêng, cao cả nhất của người công dân một nước độc lập, dân chủ. Già trẻ, gái trai đến tuổi cử tri, ai ai cũng náo nức chờ đợi ngày bầu cử. Thơ, ca, hò, vè được sáng tác để cổ động cho ngày Tổng tuyển cử có một không hai, cổ động cho những ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh. Lần đầu tiên, người dân lao động được cầm lá phiếu thực
71 hiện quyền công dân, lựa chọn đại biểu xứng đáng vào Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Vì thế, mọi người ai cũng phấn khởi, vui vẻ. Trong ngày bầu cử Quốc hội, hơn 90% cử tri Hương Sơn nô nức đi bỏ phiếu. Ngày Tổng tuyển cử thực sự là ngày hội của non sông. Tất cả 7 đại biểu của Hà Tĩnh do Mặt trận giới thiệu được cử tri Hương Sơn hoàn toàn tín nhiệm. Nhân dân Hương Sơn phấn khởi, tự hào vì trong số 7 đại biểu Quốc hội đầu tiên của tỉnh có đồng chí Trần Bình, quê xã Sơn Châu, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện và đồng chí Lê Lộc, quê Sơn Tân, Chủ tịch Ủy ban quân sự tỉnh. Ngày 17-02-1946, cử tri Hương Sơn hăng hái tham gia bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân xã. Kết quả, toàn tỉnh bầu được 36 đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh khóa I, huyện Hương Sơn có 3 đại biểu trúng cử vào Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên của tỉnh. Tại các xã, 100% xã bầu xong đại biểu Hội đồng nhân dân xã với số phiếu cao, trong đó, có nhiều đại biểu là người ngoài Đảng. Đến tháng 4-1946, tất cả các xã họp Hội đồng nhân dân khóa đầu tiên để bầu Ủy ban Hành chính. Từ cuối tháng 12-1945, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh chủ trương phân chia lại địa giới hành chính các địa phương cấp xã, xóa bỏ cấp tổng, hợp nhất các làng, xã nhỏ thành xã lớn. Huyện ủy hết sức quan tâm lãnh đạo thực hiện chủ trương hợp xã để góp phần xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh. Thời điểm đó, Hương Sơn có 5 tổng và 59 thôn. Hai thôn Long Ốc và Sủng Ốc tự nguyện hợp làm một thành thôn Dĩ Long (nay là xã Sơn Long) khi khởi nghĩa giành chính quyền. Nay tỉnh sáp nhập tổng Thượng Bồng và thôn Ân Phú (trừ xóm Đầu Trại) giáp tổng Thượng Bồng vào huyện Đức Thọ. Cuộc vận động hợp xã là một cuộc đấu tranh quyết liệt chống những tư tưởng thủ cựu, bảo thủ, cục bộ địa phương và những luận điệu tuyên truyền, phá rối của một số ít phần tử chống đối. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy và các chi bộ, công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành sâu sắc và khôn khéo, làm cho đại đa số nhân dân hiểu rõ lợi ích của việc hợp xã, sẵn sàng đoàn kết giữa thôn này và thôn khác; đồng thời, tranh thủ được sự đồng tình của tầng lớp nhân sĩ và các bô lão có nhiều uy tín trong thôn xóm. Sau khoảng ba đến bốn tháng tích cực vận động, việc hợp xã thu được thắng lợi. Chỉ có 8 thôn cũ có quy mô lớn, hoặc vì địa lý cách trở được để nguyên, nhưng đều gọi là xã, 37
72 thôn khác được lập lại thành 13 xã mới. Thôn Dĩ Long cũng đổi thành xã Dĩ Long, có thêm xóm Đầu Trại của thôn Ân Phú sáp nhập vào. Huyện cũng tiến hành điều chỉnh lại địa giới một số xã như: cắt xóm Thuần Mỹ và Bãi Dinh của Thịnh Xá (Sơn Thịnh), sáp nhập vào xã Mỹ Xá (Sơn Mỹ), cắt xóm Bãi của Mân Xá (Sơn Hà) sáp nhập vào xã Thịnh Văn (Sơn Thịnh). Đến tháng 3-1946, việc hợp xã đã hoàn thành về mặt địa lý và hành chính. Toàn huyện có 22 xã13 và 3 đồn điền. Các đồn điền có ban quản trị điều hành mọi công việc, đảm nhận cả chức năng hành chính. Sau khi hợp nhất, các xã tiến hành đại hội chi bộ Đảng, mặt trận, các đoàn thể quần chúng để kiện toàn tổ chức. Tuy nhiên, việc hợp xã chỉ mới đạt được kết quả bước đầu. Các chi bộ còn phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh để thống nhất kinh tế - tài chính trong các xã mới. Đến cuối năm 1946, chỉ có một số xã tiến hành xong nhiệm vụ này, còn các xã khác phải phân chia cho các thôn cũ đóng góp ngân sách, đến năm 1948 mới hoàn thành. Sau khi kiện toàn xong chính quyền cấp xã, bộ máy lãnh đạo huyện được kiện toàn một bước. Do yêu cầu của quân đội và để giúp Đảng bộ Hương Sơn giải quyết một số khúc mắc trong nội bộ ban lãnh đạo huyện và giữa một số cán bộ huyện với một số cán bộ lãnh đạo địa phương, Tỉnh ủy điều động đồng chí Trần Chí Tín và đồng chí Trần Bình đi làm chính trị viên trong quân đội, đồng thời điều một số cán bộ tỉnh tăng cường cho Hương Sơn. Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Trần Đoàn làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí Đinh Nho Liêm làm Phó Bí thư, đồng chí Hồ Văn Ninh làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện, đồng chí Đặng Giáp làm Bí thư Việt Minh huyện. Thực hiện quyết định của Tỉnh ủy, Đảng đoàn chính quyền được thành lập, Ủy ban hành chính huyện được mở rộng, mời một số nhân sĩ có uy tín trong huyện tham gia. Hệ thống tư pháp từ huyện xuống xã cũng hình thành. Qua các cuộc đấu tranh, vận động thực hiện các chủ trương, công tác của Đảng, nhiều quần chúng tiên tiến được kết nạp vào Đảng, các chi bộ được củng cố. Nhiều chi bộ mới được thành lập: Chi bộ Phúc An ninh (Sơn Ninh) vào tháng 3- 1946; Phúc Dương (Sơn Trung, Sơn Phú) vào tháng 6-1946; Dĩ Long (Sơn Long) 13 Danh sách thôn cũ, xã mới được ghi ở phần phụ lục (BBT).
73 tháng 7-1946; Thịnh Văn (Sơn Thịnh) v.v… Đến cuối năm 1946, hầu hết các xã có chi bộ Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng bộ được tăng cường. Các xã được hợp nhất, tạo ra nhiều thuận lợi mới. Các cuộc vận động quần chúng được đẩy mạnh hơn. Huyện ủy giao trách nhiệm cụ thể cho các đoàn thể cứu quốc giáo dục, vận động đoàn viên, tích cực hưởng ứng đẩy mạnh các phong trào sản xuất, tiết kiệm, bình dân học vụ, xây dựng đời sống mới. Được sự quan tâm lãnh đạo của Huyện ủy, Hội Nông dân cứu quốc hoạt động rất tích cực. Một mặt, Ban Chấp hành huyện hội chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mở nhiều lớp tập huấn ngắn ngày cho cán bộ xã do cán bộ tỉnh làm huấn luyện viên14. Mặt khác, Hội chăm lo xây dựng tài chính bằng cách vận động hội viên góp cổ phần, kết quả, thu được trên 200 đồng (tương đương 60 kg gạo) làm vốn để tổ chức trại sản xuất ở Khe Chè (Sơn Tây). Hội vận động bà con nông dân lập ra các nhóm vần công, đổi công, các nhóm khai hoang, các tổ tương cứu tế để đẩy mạnh sản xuất và giúp nhau trong đời sống. Hưởng ứng chủ trương của Huyện hội, Hội nông dân xã Dĩ Long lập được 2 tổ tương tế, mỗi tổ có 2-3 tấn thóc cho các hộ thiếu ăn. Hội nông dân xã Bình Dương thành lập hợp tác xã khai hoang ở Trưng (Sơn Kim)… Hội Công nhân cứu quốc được thành lập muộn hơn các đoàn thể khác (vào cuối năm 1945) nhưng đã tích cực vận động các tổ sản xuất thủ công nghiệp, các tổ tiểu thương, các tổ công ty hương hỗn hợp ở các làng nghề thủ công, các tụ điểm buôn bán như: Gôi, Choi, Nầm, Trị, Phố… Đến gần cuối năm 1946, Hội Công nhân cứu quốc đổi thành Công đoàn và tiến hành Đại hội lần thứ nhất. Đồng chí Nguyễn Khắc Tịnh, nguyên Bí thư Ban Chấp hành lâm thời Hội công nhân cứu quốc huyện được bầu làm Thư ký Công đoàn đầu tiên của Hương Sơn. Sau Đại hội, Công đoàn càng tích cực vận động đẩy mạnh sản xuất của các ngành tiểu công nghệ và buôn bán. Công đoàn còn lập được một hợp tác xã lâm nghiệp tập hợp những người làm sơn tràng, đưa việc khai thác lâm sản vào quy củ hơn. 14 Đồng chí Nguyễn Hữu Quang - quê Sơn Bình - cán bộ Tỉnh hội phụ trách Hương Sơn, Hương Khê làm huấn luyện viên.
74 Hội Phụ nữ là đội xung kích trong phong trào tiết kiệm. Hàng tháng, cán bộ hội đến từng nhà thu gom số gạo tiết kiệm tổ chức tương trợ những gia đình thiếu đói, ủng hộ bộ đội tự vệ luyện tập. Chị em còn lập ra các tổ, nhóm gửi chợ, gửi con (bấy giờ chưa có nhà trẻ) để có thời gian sản xuất, học tập, công tác. Phong trào thanh thiếu nhi diễn ra sôi nổi. Huyện đoàn tổ chức các đội ca kịch lưu động, các buổi diễn thuyết, các cuộc hành quân cắm trại, các đêm lửa trại… theo hình thức hoạt động của hướng đạo sinh để tuyên truyền, giáo dục, phát triển đoàn viên và tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các công tác của cách mạng. Thanh thiếu niên các xã hăng hái học võ, tập hát gây phong trào văn thể, tích cực tham gia các cuộc vận động tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, nhất là thực hành đời sống mới, Đoàn xã lập các đội thông tin tuyên truyền, đội công tác vệ sinh, đội bảo vệ đồng áng, đội chăm sóc trâu bò… nhiều xã có đội bóng đá, huyện có đội tuyển nghiệp dư thường đấu giao hữu với nhau và với Đức Thọ… Đặc biệt, đoàn thể nào cũng tổ chức khai hoang, lập các “vườn cứu tế” để trồng rau màu chống đói, trong đó thanh thiếu nhi có nhiều “vườn cứu quốc” nhất. Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Hội trưởng danh dự, cụ Huỳnh Thúc Kháng giữ chức Hội trưởng, cụ Tôn Đức Thắng là Phó Hội trưởng. Phần chính trị chung của Cương lĩnh viết: “1. Giữ vững quyền tự chủ để đi đến hoàn toàn độc lập. 2. Thống nhất Trung - Nam - Bắc làm cho lãnh thổ Việt Nam được toàn vẹn. 3. Thực hiện củng cố chế độ dân chủ cộng hòa trong toàn cõi Việt Nam. Bình đẳng, tương trợ và đoàn kết với tất cả các dân tộc thiểu số” (1). Mặt trận Việt Minh được xác định là một thành viên của Liên Việt. Mặt trận Việt Minh có sức mạnh đoàn kết công nhân, nông dân là hai lực lượng chiếm đại đa số dân chúng, là trụ cột của cách mạng, do đó Việt Minh chính là nòng cốt của Liên Việt. Ngày 27-7-1946, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chính thức thành lập và trở thành hội viên của Liên Việt. Thành lập Hội Liên hiệp Liên Việt là một chủ trương đúng đắn, sáng tạo, đầy khoa học của Chính phủ, Hồ Chủ tịch, nhằm động viên tất cả mọi lực lượng (1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, NXB, Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.348
75 chính trị - xã hội có tinh thần dân tộc, mọi tôn giáo (cả Phật giáo, Thiên chúa giáo và các tôn giáo khác), động viên các tín đồ yêu nước tham gia công cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng. Sau đó, Hội Liên Việt huyện Hương Sơn cũng ra đời, Chủ tịch Hội đầu tiên của huyện là ông Trần Cao Tiếp. Hội Liên Việt Hương Sơn đã giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong huyện hăng hái tham gia công cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và tự lực cánh sinh. 3. Chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ Ngay sau khi cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi, thực dân Pháp đã âm mưu trở lại thống trị nước ta. Cuối tháng 8-1945, một đại đội địch do 1 viên quan ba Pháp chỉ huy dùng Na Pê làm bàn đạp, chuẩn bị tấn công theo đường 8, đánh chiếm thị xã Hà Tĩnh và thành phố Vinh. Để kịp ngăn chặn từ xa âm mưu của địch, Ủy ban quân sự tỉnh Hà Tĩnh quyết định tổ chức một đại đội gồm 40 đội viên giải phóng quân Đức Thọ và 20 đội viên giải phóng quân Hương Sơn, đặt dưới quyền chỉ huy của đồng chí Trần Đình Bé, Chỉ huy trưởng giải phóng quân Hương Sơn tiến đánh Na Pê. Lực lượng tự vệ chiến đấu của Hương Sơn được huy động mỗi thôn một tiểu đội, mang theo vũ khí và lương thực phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Khí thế ra trận rất sôi nổi, hào hùng. Tự vệ các thôn tranh nhau đi trận. Nhân dân tiễn đưa và động viên con em lên đường chiến đấu rất rầm rộ. Phụ nữ Dỹ Long (Sơn Long) may tặng mỗi tự vệ một chiếc mũ ca lô. 10 giờ sáng ngày 6-9-1945, các đơn vị từ một địa điểm tập trung ở Hương Sơn xuất phát, 3 giờ sáng ngày 7-9 tới Na Pê. Trời rất tối, quân ta chia làm 6 tốp tiến đánh. Đúng 5 giờ sáng, trận đánh mở màn. Quân địch nấp trong nhà băng-ga-lô bắn liên thanh dữ dội. Đến 8 giờ, quân giải phóng tiến vào cách nhà băng-ga-lô 30m, bắn chết một sĩ quan Pháp, 5 lính ngụy Lào và bắn bị thương 1 tên Pháp khác. Về phía ta, chỉ có 2 người bị thương. Nhưng thế địch còn mạnh nên quân ta rút lui và đóng quân lại ở km 96, cách Na pê 15 km. Địch không dám đuổi theo. Sáng 8-9, có thêm một trung đội giải phóng quân của Nghệ An chi viện. Quân ta mở đợt tấn công thứ hai. Địch có kinh nghiệm đề phòng, đánh trả quyết liệt nên trận chiến đấu diễn ra ác liệt. Trước khí thế tấn công của ta, địch thất bại, bỏ đồn tháo chạy. Quân ta đuổi theo, bắn chết tên quan ba chỉ huy ở gần cầu Ba-na-phào. Ta chiếm đồn, thu toàn bộ
76 vũ khí, quân trang, quân dụng. Cuộc tiến công địch ở Na Pê thu được thắng lợi hoàn toàn, 1 trung đội địch bị tiêu diệt, trong đó 2 sĩ quan chỉ huy Pháp và 1 quan hai Pháp bị bắt làm tù binh. Chiến thắng Na Pê là chiến công xuất sắc đầu tiên của lực lượng vũ trang Nghệ An và Hà Tĩnh có sự ủng hộ của lực lượng yêu nước Lào, là chiến công đầu của chi đội giải phóng quân tự vệ Hương Sơn. Chiến thắng này đập tan âm mưu của thực dân Pháp dùng Na Pê làm bàn đạp theo trục đường 8 để đánh chiếm Nghệ An và Hà Tĩnh. Mặc dù chiến trường là vùng rừng núi xa lạ, đất nước mới độc lập được 4 ngày, bộ đội chưa được tập luyện nhiều, vũ khí trang bị thô sơ, phần nhiều đội viên còn đi chân đất, lương thực thực phẩm thiếu thốn nhưng quân ta đã giành thắng lợi. Đó là chiến công của lòng yêu nước nồng nàn, là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của bộ đội giải phóng quân và tự vệ ta, tiêu biểu là đồng chí Trần Đình Bé - một cựu sĩ quan sớm giác ngộ cách mạng từ thời tiền khởi nghĩa chỉ huy rất sáng suốt và gan dạ, đã anh hũng hy sinh trong trận này15. Sau chiến thắng Na pê, mặt trận phòng thủ đường 8-Na Pê được hình thành. Bộ đội ta còn giúp bạn giải phóng thêm nhiều vị trí trên đất nước Lào như Cam Cớt, Na Xa Lum, Lạc Xao, Noọng Coóc và nhiều thôn bản khác; xây dựng lực lượng và chính quyền cách mạng ở hai huyện Cam Kớt và Lạc xao thành những căn cứ kháng chiến của tỉnh Khăm Muộn. Từ trong đấu tranh cách mạng, mối quan hệ giữa Việt Nam - Lào càng thêm gắn bó. Ngày “Lào - Việt thân thiện” được tổ chức ở Phố Châu có hàng trăm cán bộ, thanh niên, viên chức Lào tới dự. Nhân dịp này, phía bạn tặng cho huyện Hương Sơn 3 con ngựa. Ngày 11-11-1945, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Hương Sơn và đại diện đơn vị giải phóng quân Lào đóng ở Na Pê ký Hiệp ước thân thiện. Hai bên cam kết phối hợp cùng nhau trong việc phòng thủ biên giới chung. Đường 8 trở thành một mặt trận phòng ngự chung. Bộ đội và tự vệ Hương Sơn phối hợp với bạn ngày đêm tuần tra, canh gác16. 15 Lễ truy điệu đồng chí Bé được tổ chức trọng thể tại sân vận động Phố Châu, có rất đông đồng bào trong huyện tới dự. Sau đó, bộ đội và nhân dân đã rước linh cữu đồng chí về quàn tại sân vận động Thịnh Văn (Sơn Thịnh), quê hương của đồng chí để bà con thân thích và đồng bào đến viếng trước lúc đưa đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang quê nhà. 16 Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1930-1945), Nxb CTQG, Hà Nội 2014, tr152.
77 Ngày 23-9-1945, quân Pháp gây hấn ở Nam Bộ, cùng với nhân dân Nam Bộ, khắp nơi trong huyện Hương Sơn, nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình đả đảo thực dân Pháp xâm lược, ủng hộ kháng chiến của nhân dân Nam Bộ bằng nhiều hình thức phong phú như: Ngày đồng tâm ủng hộ và tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh ở Nam Bộ; quyên góp lúa gạo, tiền bạc, kêu gọi thanh niên tình nguyện đi chiến đấu tại Nam Bộ; lập “phòng Nam Bộ” để thanh niên ghi tên tình nguyện Nam tiến… Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến diễn ra sôi nổi trong toàn huyện. Ngay đợt đầu tiên, 30 thanh niên Hương Sơn tình nguyện lên đường vào Nam chiến đấu. Để chuẩn bị lực lượng kháng chiến lâu dài, công tác xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang được triển khai khẩn trương. Thanh niên và trung niên sôi nổi, hăng hái gia nhập tự vệ. Nhiều chị em nữ thanh niên đã mạnh dạn cắt tóc ngắn, mặc quần gôn và xung phong gia nhập lực lượng vũ trang. Chỉ một tuần lễ sau ngày khởi nghĩa, lực lượng tự vệ toàn huyện đã lên tới vài ngàn người. Chi đội cứu quốc quân của huyện phát triển thành một đại đội giải phóng quân, quân số lên tới 120 người, trong đó có 46 cựu binh sĩ của quân đội Pháp trước đây tình nguyện theo cách mạng. Huyện còn thành lập một đội du kích thường trực để làm công tác tuyên truyền, bảo vệ chính quyền cách mạng và trấn áp bọn chống phá, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Ngày 1-10-1945, đội du kích (sau này gọi là đội du kích Khe Chè) được thành lập và làm lễ ra mắt tại đình làng Tứ Mỹ (Sơn Châu) - ngôi đình lịch sử nơi tập hợp đông đảo quần chúng đứng lên trong cao trào Xô-viết 1930-1931. Quân số của đội có 28 người được chia làm 3 tiểu đội, do đồng chí Trần Đại Đồng làm đội trưởng, đồng chí Trần Ba làm chính trị viên. Ngoài ra, huyện còn thành lập một đội nữ giải phóng quân không thường trực. Ở mỗi xã có một trung đội tự vệ chiến đấu, mỗi xóm có một đội tự vệ hay dân vệ. Lực lượng vũ trang của huyện có sự phát triển về số lượng và chất lượng. Vũ khí của tự vệ thôn, xóm chỉ có gươm, dao găm, gậy do anh chị em tự sắm. Tuy vũ khí thô sơ nhưng mọi người hăng say luyện tập, nâng cao năng lực chiến đấu, đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ chính quyền. Vũ khí để trang bị cho giải phóng quân và đội du kích thường trực của huyện và một số súng đạn của đồn Phố Châu, của các đồn điền và của số binh
78 lính ở Linh Cảm mang về theo cách mạng. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, đồng chí Hồ Văn Hào lúc này là đồn trưởng đồn Phố Châu được cử đi mua vũ khí của hiến binh Nhật ở Vinh, nhưng số lượng mua được rất ít. Về sau nhờ phát hiện được một hầm chôn giấu khá nhiều súng đạn của địch nên lực lượng vũ trang của huyện được trang bị tương đối khá. Trang phục do anh em đội viên tự túc, tự góp tiền may sắm. Tuy ăn, mặc còn thiếu thốn, vũ khí còn thô sơ, nhưng anh chị em du kích và tự vệ trong toàn huyện rất hăng say học tập chính trị và huấn luyện quân sự. Huấn luyện viên quân sự là những cựu binh sĩ trong quân đội Pháp và dăm người lính Nhật tình nguyện ở lại theo ta được gọi là người Việt Nam mới. Các đội du kích quân và tự vệ đều nêu cao tinh thần kỷ luật của quân đội cách mạng, luôn sẵn sàng làm tròn nhiệm vụ huấn luyện, tuần tra, canh gác và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Từ đầu năm 1946, cuộc chiến từ Nam Bộ lan ra miền Nam Trung Bộ. Chính phủ đã nhân nhượng, ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, rồi Tạm ước 14-9- 1946, Trung ương Đảng có chỉ thị “Hòa để tiến”, kêu gọi toàn dân bình tĩnh, kỷ luật, chuẩn bị. Nắm rõ chủ trương của Đảng, Chính phủ, nhân dân huyện Hương Sơn chia làm 2 ngả như thác đổ về sân vận động Phố Châu và Thịnh Xá (Sơn Thịnh) để tỏ rõ tinh thần đoàn kết, nhất trí ủng hộ Chính phủ, đồng tình với nội dung Hiệp định 6-3, tin tưởng tuyệt đối vào Hồ Chủ tịch, đồng thời nêu cao quyết tâm sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng ra trận giết giặc. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, tháng 5-1946, các Ủy ban phòng thủ của huyện, xã được thành lập. Tháng 12-1946, Ủy ban kháng chiến các cấp ra đời thay thế cho các Ủy ban phòng thủ. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Hương Sơn do đồng chí Hồ Văn Ninh, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện kiêm nhiệm. Đội du kích thường trực đóng ở Tứ Mỹ được điều lên đóng quân tại Phố Châu. Những ngày giáp Tết Nguyên đán Bính Tuất, đội được Ủy ban hành chính giao nhiệm vụ tuần tra, cùng lực lượng tự vệ các địa phương giữ gìn an ninh, trật tự toàn huyện để bảo vệ nhân dân ăn tết. Trong 2 tuần lễ trước và sau Tết, du kích và tự vệ đã hoàn thành nhiệm vụ, đảm bảo cho nhân dân ăn Tết vui vẻ, tuyệt đối an toàn.
79 Tiếp đó, Ủy ban huyện giao cho đội nhiệm vụ xây dựng khu an toàn ở Khe Chè. Đội chuyển quân lên Khe Chè và từ đó có tên gọi là đội du kích Khe Chè. Khe Chè là một địa điểm thuộc xã Sơn Tây, nằm giữa núi rừng hiểm trở. Phía Bắc cách đồn điền Voi Bổ khoảng hơn 3 km. Phía Tây cách đồn Na Pê khoảng gần 50 km. Phía Nam xuyên rừng, xuyên suối có thể đi đến Hương Khê hoặc lên Trường Sơn. Địa thế ở đó hiểm trở, quân ta có thể cố thủ nếu bị địch tấn công, đồng thời dễ dàng cơ động lên phục kích địch ở đường 8 hoặc rút lui sang Hương Khê, hoặc rút vào Trường Sơn khi cần thiết. Ở giữa thung lũng có đất bằng có thể khai phá để trồng trọt, kể cả trồng lúa và chăn nuôi. Khe Chè là một địa điểm tốt cho việc sản xuất tự túc của đội, vì nơi đây quanh năm nhiều nước thuận lợi cho sản xuất. Từ tháng 2 đến tháng 6-1946, đội du kích tích cực khai phá, biến Khe Chè thành một chiến khu của huyện và đi vào luyện tập các khoa mục quân sự, học tập chính trị cùng với đẩy mạnh sản xuất lúa ngô, khoai sắn, chăn nuôi bò, lợn… Đầu năm 1946, huyện còn thành lập đội du kích Khe Mơ (Sơn Trường) chuyên trách nhiệm vụ quản lý trại giam tù binh ở đó. Đại đội giải phóng quân của huyện lúc này trở thành một đại đội Vệ quốc đoàn của bộ đội chính quy. Tự vệ các xã được chấn chỉnh, bổ sung và tăng cường luyện tập. Phong trào luyện tập quân sự có nề nếp, bài bản hơn từ sau Hội nghị quân sự của tỉnh ngày 26-12-1945 và được trường Quân chính của tỉnh ở đồn Trường (Cẩm Xuyên) cung cấp cho huyện nhiều cán bộ quân sự. Cuối quý I năm 1946, huyện mở lớp huấn luyện quân sự 1 tháng tại Tứ Mỹ (Sơn Châu) cho cán bộ chỉ huy các xã. Tự vệ các xã hăng hái luyện tập và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng ra trận. Chị em nữ tự vệ cũng tập cưỡi ngựa, múa đao, bắn súng. Nhân dân tích cực quyên góp tiền, gạo để giúp đỡ, động viên bộ đội và tự vệ luyện tập, góp sắt vụn để rèn đao, kiếm. Hàng tháng, tự vệ các xã đều đặn thay phiên nhau làm nhiệm vụ phòng ngự biên giới phía Tây cùng các đơn vị bộ đội chủ lực. Trong hoàn cảnh còn thiếu thốn mọi bề về trang bị, thuốc men, lương thực ở giữa rừng núi âm u, cuộc sống của anh em bộ đội và tự vệ ta vô cùng gian khổ. Nhưng tất cả đều hăng hái làm tròn nhiệm vụ canh gác, tuần tra, chống trả những trận tập kích của quân địch. Các chiến sĩ không quản ngại đói, rét, bệnh tật, không sợ hy sinh tính mệnh để bảo vệ vững chắc biên giới. Ngày 1-3-1946,
80 đồng chí Hà Thưởng, y tá của đơn vị chủ lực, quê xã Sơn Hòa hy sinh trong một trận phục kích của kẻ thù. Ở miền Nam, các chiến sĩ trong đội quân Nam tiến ở Hương Sơn, Hà Tĩnh chiến đấu dũng cảm. Đồng chí Phan Quyền (quê Sơn Tiến), đồng chí Lê Bình (quê Sơn Tân, trú quán thị xã Hà Tĩnh) hy sinh. Ngoài ra, con em Hương Sơn sinh sống ở miền Nam từ trước đã sát cánh chiến đấu cùng quân dân Nam Bộ, nhiều người ngã xuống vì Nam Bộ thành đồng như Nguyễn Khắc Khoan, Nguyễn Khắc Hành (Sơn Hòa), Nguyễn Mậu Phương (Sơn Ninh). Đặc biệt, đồng chí Lý Chính Thắng (Sơn Lễ) là một cán bộ lãnh đạo Tổng công đoàn Nam Bộ, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tháng Tám ở Sài Gòn đã anh dũng hy sinh. Cấp ủy, chính quyền huyện lãnh đạo nhân dân các địa phương, đơn vị làm lễ truy điệu trọng thể những người con anh hùng của quê hương. Càng tiếc thương các liệt sĩ đã hy sinh vì quê hương đất nước, nhân dân ta càng căm thù giặc Pháp, càng tỏ rõ quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch sau khi ký Tạm ước 14-9: “Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra sức tổ chức mở mang kinh tế, xây dựng nước nhà, thực hành đời sống mới, khắp mọi phương diện, bất kỳ gái trai, già trẻ, bất kỳ sĩ, nông, công, thương, toàn thể quốc dân phải ra sức làm việc”. Mặc dù trong một thời gian ngắn (hơn một năm) từ khi giành được chính quyền, nhưng Đảng bộ Hương Sơn đã khôi phục tổ chức ở hầu khắp các cơ sở và lãnh đạo toàn dân bước đầu xây dựng cuộc sống mới; Đồng thời chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, bước đầu đã thu được những kết quả quan trọng. Chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố và ngày càng có uy tín đối với nhân dân. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể phát triển rộng rãi. Tuy công việc mới mẻ, khó khăn chồng chất, cán bộ chưa có kinh nghiệm, năng lực bất cập. Song hầu hết cán bộ đã tận tụy phục vụ cách mạng, đưa hết khả năng và nhiệt tình điều hành, quản lý, vận động quần chúng nhân dân xây dựng xã hội mới ngày càng tốt đẹp. Nạn đói bị đẩy lùi; hàng ngàn người thoát nạn mù chữ, thôn xóm hoàn toàn thay đổi so với trước cách mạng; lực lượng vũ trang lớn mạnh. Biên giới phía Tây được phòng thủ vững chắc. Nhân dân đoàn kết, một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ
81 tịch Hồ Chí Minh. Đó là những thắng lợi hết sức to lớn của Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn trong hơn một năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám. Những thắng lợi toàn diện đó tạo cơ sở và niềm tin để huyện Hương Sơn vững vàng bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. II. XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG VỮNG CHẮC, CHI VIỆN TIỀN TUYẾN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP GIÀNH THẮNG LỢI (12/1946 - 7/1954) 1. Tổ chức bố phòng, xây dựng hậu phương, bảo vệ biên giới phía Tây (12-1946 đến 4-1948) Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” 17. Cùng với cả nước, quân dân Hà Tĩnh đã đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh chống thực dân xâm lược Pháp. Tại Hương Sơn, Đảng bộ, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể cứu quốc được củng cố. Nhân dân ngày càng hiểu hơn tình hình đất nước, tình hình cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, của Hồ Chủ tịch. Song, đời sống còn nhiều khó khăn. Lực lượng vũ trang đã lớn mạnh nhưng vũ khí, trang bị còn kém. Một số ít phần tử đối lập vẫn chờ thời cơ để chống phá, vẫn dựa vào những kẻ thủ cựu, chậm giác ngộ để gieo rắc hoài nghi trong nhân dân. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn đẩy mạnh xây dựng tiềm lực mọi mặt của địa phương, nhằm xây dựng Hương Sơn thành hậu phương, một trong những địa bàn đứng chân vững chắc của quân dân Liên khu IV. Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình, Huyện ủy Hương Sơn đã tích cực lãnh đạo nhân dân tổ chức công tác bố phòng, tăng cường lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc biên giới, đẩy mạnh mọi mặt sản xuất, tiết kiệm, diệt dốt, thực hành đời sống mới... nhằm xây dựng Hương Sơn 17 Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chủ tịch.
82 thành hậu phương an toàn, vững chắc, sẵn sàng đón nhận các cơ quan, công xưởng và đồng bào sơ tán, sẵn sàng cung cấp sức người và sức của cho tiền tuyến, sẵn sàng chiến đấu nếu quân giặc liều lĩnh tấn công. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới đầy khó khăn, phức tạp này, Huyện ủy tăng cường chỉ đạo xây dựng, củng cố các chi bộ. Những xã chưa có chi bộ được tập trung chỉ đạo để phát triển đảng viên. Tháng 2-1947, xã Mạc Phượng (Sơn Tiến) thành lập chi bộ Đảng. Đến tháng 5-1947, toàn huyện có 410 đảng viên (217 đảng viên chính thức, 193 đảng viên dự bị) trong đó có 16 đảng viên nữ, 2 đảng viên người Công giáo. Trên địa bàn huyện, chỉ còn 2 xã chưa có chi bộ, đến cuối năm, chi bộ Kim Đan (Sơn Trường) ra đời. Trung bình 1 đảng viên Hương Sơn lãnh đạo 71 cử tri, trong khi toàn tỉnh tỷ lệ ấy là 1/8418. Trong không khí sôi nổi của những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến, tháng 2-1947, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh được tổ chức. Đại hội bàn công tác bảo vệ địa phương, chuyển mọi hoạt động của tỉnh cho phù hợp với tình hình thời chiến, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường công tác bố phòng, xây dựng kế hoạch tản cư và lập các trại di cư của tỉnh, huyện… Cùng với việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, toàn Đảng bộ Hương Sơn còn học tập thư Hồ Chủ tịch gửi các đồng chí Trung bộ ngày 1-3-1947, học tập chủ trương, đường lối kháng chiến của Đảng. Trong quá trình học tập, từng chi bộ, từng đảng viên đã tiến hành phê bình và tự phê bình, kiểm điểm nhằm khắc phục những tư tưởng, nhận thức và biểu hiện sai lầm như: địa phương chủ nghĩa, bè phái, hẹp hòi, ích kỷ, kiêu ngạo, chạy theo thành tích v.v... Qua học tập, tư tưởng, nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ được nâng lên. Trên cơ sở đó, Huyện ủy đã triệu tập Đại hội Đảng bộ vào đầu quý III1947, tại Đông Mỹ (Sơn Châu). Đại hội khẳng định công tác xây dựng tổ chức Đảng đạt nhiều kết quả, lực lượng vũ trang khá lớn mạnh, chính quyền được củng cố, công việc chuẩn bị kháng chiến được tiến hành tích cực. Đại hội quyết định phát huy thắng lợi đợt học tập thư Hồ Chủ tịch, đẩy mạnh củng cố tổ chức Đảng, 18 Bảng thống kê số lượng đảng viên toàn tỉnh ngày 15-6-1947. Tài liệu lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
83 chấn chỉnh chính quyền các xã còn yếu, gấp rút tăng cường công tác bố phòng, bảo vệ trị an, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng tiềm lực cho kháng chiến, xây dựng Hương Sơn thành một vùng an toàn vững chắc của chiến khu Đức - Hương - Hương19. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa mới có 9 ủy viên. Đồng chí Trần Đoàn được bầu lại làm Bí thư, đồng chí Hồ Văn Ninh làm Phó Bí thư, phụ trách chính quyền. Thành công của Đại hội có ý nghĩa rất lớn trong giai đoạn bước vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ. Khối đoàn kết nội bộ, ý chí quyết tâm, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ được nâng lên rõ rệt. Ngay sau Đại hội, Ban Chấp hành khóa mới tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng đối tượng và đảng viên mới và tổ chức một đợt kết nạp đảng viên Tháng Tám. Ngay sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, thực hiện Chỉ thị của Ủy ban Kháng chiến Hà Tĩnh, Huyện ủy đã chỉ đạo Ủy ban Kháng chiến huyện triệu tập Hội nghị kháng chiến toàn huyện, thảo luận kế hoạch kháng chiến. Trên cơ sở nhận định, Hương Sơn là một huyện biên giới, lại có đường 8 là một con đường chiến lược quan trọng, giặc Pháp có thể theo con đường này tiến quân từ Na Pê thọc xuống chiếm thành phố Vinh, chiếm Nghệ Tĩnh. Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, Hội nghị quyết định: phải gấp rút làm tốt công tác bố phòng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang đủ sức chiến đấu chống địch tấn công biên giới. Quân dân Hương Sơn tích cực phá hoại đường 8, xây dựng trận địa dọc hai bên đường. Công tác được tiến hành rất khẩn trương, ngay mồng Một Tết Đinh Hợi (1947) vẫn có những đội xung phong đi làm. Một hệ thống trận địa phục kích ở những nơi hiểm yếu như: Kim Cương, Quang Diệm, Nầm... với hầm hào giao thông liên lạc thông suốt từ Kim Cương đến Linh Cảm, để đề phòng quân địch đánh chiếm, vì vậy, những nhà cửa kiên cố dọc đường 8 xét thấy nếu quân giặc đến có thể đóng quân đều được dỡ bỏ. Đến tháng 4-1947, các trụ sở cơ quan, các đồn bốt cũ, các nhà gạch của tư gia ở Phố Châu, Voi Bổ, ở các đồn điền đều đã được phá hết. Các cơ quan huyện phân tán vào nhà dân ở Phố Châu. Huyện còn huy động dân công đi tham gia phá thành phố Vinh, đồn Linh Cảm và đường xe lửa ở Đức Thọ. Sau Đại hội huyện Đảng bộ, công tác bố phòng được đẩy lên một bước cao hơn. 19 Bao gồm Đức Thọ - Hương Sơn - Hương Khê (BBT).
84 Các cơ quan phân tán và sơ tán triệt để xa Phố Châu, đến các xã Phúc Dương (Sơn Trung và Sơn Phú), Hữu Bằng (Sơn Bằng), Phúc An Ninh (Sơn Ninh). Các gia đình đều đào hầm trú ẩn và hầm bí mật cất giấu lương thực, tài sản. Nhân dân đào hào giao thông liên lạc thông suốt xóm này sang xóm khác, xã này sang xã khác, đi vào các khu an toàn của huyện. Huyện còn lập trại di cư Thạch Lĩnh (Sơn Mai). Ngay sau khi hình thành, trại đã cấy trỉa được 50 mẫu lúa và cây lương thực vụ thu20. Thạch Lĩnh trở thành khu an toàn thứ hai của huyện. Song song với công tác bố phòng, Huyện ủy hết sức chú ý tăng cường lực lượng vũ trang. Hai đội du kích thường trực được tăng quân số lên thành 2 trung đội và cử cán bộ đi đào tạo tại trường võ bị Trần Quốc Tuấn ở Thanh Chương (Nghệ An). Vũ khí được trang bị thêm, tuy vẫn còn thô sơ. Mỗi đội viên được trang bị 2 bộ quần áo, còn chăn màn, giày dép phải tự túc. Tuy vậy, đội viên rất tích cực luyện tập, đi tuần tiễu các nơi xung yếu, giúp dân trong ngày mùa, tích cực tuyên truyền cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Đặc biệt, các đội viên luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và hăng hái tham gia cùng bộ đội chủ lực nhiều lần đánh đồn Na Pê. Ngày 21-2-1947, hồi 4 giờ 30 phút, một đại đội của Trung đoàn 103 phối hợp với dân quân du kích Hương Sơn và bộ đội Lào đột kích Na Pê. Quân ta xung phong vào đồn và nhà Bănggalô, dùng liềm, mã tấu, lựu đạn tiêu diệt địch. Bị tấn công bất ngờ, 20 tên Pháp và ngụy binh Lào bị giết, nhiều tên bị thương. Ngày 20-5-1947, bộ đội và du kích Hương Sơn, Đức Thọ lại hành quân tấn công Na Pê, tiêu diệt 50 tên địch. Tại các địa phương, các chi bộ tập trung lãnh đạo việc chuyển các đội tự vệ thành dân quân, du kích. Mỗi xã trung bình có 2 trung đội du kích. Các xã lớn như Phúc Dương, Hữu Bằng có 1 đại đội. Mỗi xóm trung bình có 1 tiểu đội dân quân. Đoàn Thanh niên lập ra các đội cảm tử. Ngoài ra, nhiều xã còn có lão quân, nữ quân. Nhiệm vụ của du kích, của dân quân được quy định cụ thể trong Chỉ thị ngày 28-3-1947 của Ủy ban Kháng chiến tỉnh. Lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải cải tổ bộ máy chỉ đạo từ trên xuống dưới cho phù hợp. Tháng 7-1947, các cơ quan Tỉnh đội, 20 Báo cáo nguyệt đề tháng 9 năm 1947 của UBKCHC Hương Sơn, Lưu tại UBND tỉnh Hà Tĩnh.
85 Huyện đội, Xã đội ra đời thay thế cho Ban lãnh đạo dân quân của Ủy ban Kháng chiến các cấp. Huyện đội Hương Sơn được thành lập ngày 26-7-1947, với 20 cán bộ và chiến sĩ, do ông Nguyễn Mỹ làm Huyện đội trưởng và ông Trần Đình Chi làm Huyện đội phó. Bộ đội, dân quân, du kích hăng hái luyện tập, diễn tập tác chiến trong từng xã, hợp đồng chiến đấu giữa các xã, giữa bộ đội chính quy và dân quân, hướng dẫn nhân dân phòng tránh, tản cư và phục vụ chiến đấu. Mùa Xuân năm 1948, Huyện đội tổ chức Đại hội toàn huyện tại Đông Mỹ (Sơn Châu) và tham gia Đại hội toàn tỉnh tại Đồng Công (Đức Thọ) đạt kết quả tốt. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân, du kích, công tác bảo mật phòng gian, giữ vững an ninh trật tự cũng được đặc biệt chú trọng. Các đoàn thể quần chúng giáo dục, vận động nhân dân lập các tổ liên gia và thực hiện “3 không” (không thấy, không nghe, không biết) để giúp nhau giữ gìn an ninh và bí mật kháng chiến. Tháng 10-1947, Ban Công an được thành lập từ xã đến huyện. Tổ trinh sát của các đoàn thể được sáp nhập vào công an. Đội thiếu niên còn lập các tổ tình báo hoạt động rất có hiệu quả trong việc bảo mật phòng gian. Lực lượng du kích, dân quân và công an luôn luôn phối hợp cùng nhau, tích cực tuần tra, canh gác, giữ vững an ninh trật tự thôn xóm, đập tan những luận điệu phản tuyên truyền, ngăn ngừa những hành vi phá hoại của kẻ xấu. Do đời sống còn nhiều khó khăn nên dân quân, du kích, công an phải lo tự túc lương thực. Quân thường trực huyện, dân quân du kích và công an các xã đều tích cực khai hoang, xin ruộng để cày cấy xây dựng quỹ tự túc. Các chiến khu Khe Chè, Khe Mơ đẩy mạnh sản xuất và có kế hoạch dự trữ lương thực, thực phẩm thời chiến. Huyện đội còn phối hợp với trại kháng chiến Thạch Lĩnh (trước gọi là trại di cư) tổ chức một trung đội nông binh có 40 người để sản xuất, mỗi mùa thu hoạch được khoảng 20 tạ thóc. Nhờ có sự ủng hộ của nhân dân và quỹ tự túc, đời sống của dân quân, du kích từng bước được cải thiện, đồng thời, được trang bị thêm nhiều vũ khí. Đầu năm 1948, Huyện đội tổ chức một xưởng sản xuất vũ khí ở Choi, trong 20 ngày đã sản xuất được 20 khẩu súng kíp. Tuy nhiên, do khó khăn nhiều mặt nên xưởng phải ngừng hoạt động. Từ cuối năm 1946 đến cuối năm 1947, mọi công việc phục vụ kháng chiến đều do Ủy ban Kháng chiến điều hành, chỉ đạo song song với Ủy ban
86 Hành chính, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy. Tháng 7-1947, Trung ương chủ trương sáp nhập Ủy ban Hành chính và Ủy ban Kháng chiến các cấp thành Ủy ban Hành chính kháng chiến. Cùng thời điểm này, Hội nghị Ban Chấp hàng Đảng bộ tỉnh chủ trương cải tổ lại các Ủy ban hành chính huyện, xã yếu; rút bớt đảng viên trong các cấp chính quyền theo đúng tỷ lệ 1/3 và bổ sung thêm cán bộ ngoài Đảng, thực hiện đơn giản hóa bộ máy hành chính cho phù hợp với điều kiện kháng chiến, tiến hành hợp nhất các Ủy ban Hành chính với các Ủy ban Kháng chiến từ cấp tỉnh xuống cấp xã. Ủy ban Kháng chiến hành chính Hương Sơn do đồng chí Hồ Văn Ninh làm Chủ tịch, cụ Phạm Đài - một nhân sĩ có uy tín làm Phó Chủ tịch. Hệ thống giao thông liên lạc của Ủy ban, của các đoàn thể trong huyện được tổ chức lại, thống nhất vào một mối do Ủy ban Kháng chiến hành chính điều hành, bảo đảm giao thông liên lạc nhanh, thông suốt và thống nhất. Sau khi kiện toàn ủy ban, các xã đã thực hiện được việc hợp nhất kinh tế - tài chính, nhiệm vụ mà trước khi hợp xã chưa làm được. Theo đánh giá của Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện, “kháng chiến và hành chính ăn khớp với nhau, công việc được phân định rõ ràng nên trôi chảy”, “10 Ủy ban xã thực sự có năng lực, số ủy ban yếu giảm xuống còn 5”21. Song song với việc chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, kiện toàn và củng cố chính quyền, Huyện ủy chú ý tăng cường củng cố, mở rộng khối đoàn kết toàn dân, củng cố Mặt trận Việt Minh, thành lập Mặt trận Liên Việt, đẩy mạnh hoạt động của các đoàn thể quần chúng. Đến giữa năm 1947, Mặt trận Việt Minh đã thu hút 80% dân số. Giới phật tử ở Hương Sơn đông, hăng hái hoạt động trong Hội Phật giáo cứu quốc - thành viên của Mặt trận Việt Minh. Liên đoàn Công giáo tuy không gia nhập Việt Minh, nhưng vẫn chấp hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Chỉ một thiểu số phần tử Phật giáo và Công giáo có tư tưởng chống đối nhưng không hoạt động được. Chủ trương thành lập Mặt trận Liên Việt nhằm thu hút những người còn đứng ngoài Việt Minh nhanh chóng có kết quả. Đến giữa năm 1947, Liên Việt có 4.000 hội viên, do cụ Trần Cao Tiếp làm Chủ tịch. Mặt trận đã động viên được đông đảo tầng 21 Báo cáo nguyệt đề tháng 9 năm 1947 của UBKCHC Hương Sơn, Lưu tại UBND tỉnh Hà Tĩnh.
87 lớp nhân sĩ, trí thức tích cực tham gia kháng chiến, được Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh biểu dương22. Việc tuyên truyền tổ chức cơ sở của Đảng Dân chủ được tiến hành ở Hương Sơn nhưng chỉ thành lập được 1 chi bộ ở Phố Châu, thu hút một số cán bộ cơ quan huyện và thanh niên học sinh. Chi bộ này hoạt động trong một thời gian ngắn, mở được một lớp bổ túc chương trình tiểu học cho cán bộ. Đến đầu năm 1948, khi các cơ quan huyện rời khỏi Phố Châu thì chi bộ đảng Dân chủ cũng ngừng hoạt động. Các đảng viên Đảng Dân chủ về sau phần nhiều được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Nhiều nơi còn lập ra một số tổ chức quần chúng khác để giúp kháng chiến như Đoàn thanh niên kháng chiến của xã Hàm Phố (Sơn Hàm + Sơn Phố). Hội phụ lão kháng chiến được thành lập ở nhiều xã. Hội mẹ chiến sĩ cũng phát triển nhanh chóng. Cuối năm 1946, Hội mới có ở 4 xã Phúc An Ninh (Sơn Ninh), Dĩ Long (Sơn Long), Thịnh Văn (Sơn Thịnh), Hàm Phố (Sơn Phố và Sơn Hàm), đến đầu năm 1947, thêm 5 xã Đôn Mỹ (Sơn Trà), Mỹ Hòa (Sơn Hòa), Bình Dương (Sơn Bình, Sơn Hà), Mạc Phượng (Sơn Tiến), Đồng Khánh (Sơn Giang). Đầu năm 1948, Hội đã có cơ sở ở khắp toàn huyện. Ngày 10 tháng Giêng năm Mậu Tý (1948), Đại hội Mẹ chiến sĩ toàn huyện đã bầu bà Trần Thị Huyên23 làm Hội trưởng đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, các đoàn thể đẩy mạnh công tác phát triển, củng cố tổ chức và hoạt động kháng chiến. Tháng 4-1947, Đại hội Huyện đoàn Thanh niên cứu quốc lần thứ 2 bầu đồng chí Phạm Hưng làm Bí thư, thay đồng chí Lê Hữu Đạm được Khu ủy điều động. Đại hội chủ trương đẩy mạnh phong trào xung phong tòng quân trong thanh niên. Hai đợt Nam tiến và các đợt tuyển vệ quốc đoàn đã có hàng trăm thanh niên hăng hái lên đường. Đội du kích thường trực của huyện cung cấp nhiều cán bộ cho bộ đội chủ lực. Các đồng chí cán bộ chỉ huy từ tiểu đội đến trung đội lớp đầu tiên khi mới thành lập đội đã được tăng cường vào chiến đấu ở Bình Trị Thiên vào đầu năm 1947. Hè năm 1947, Huyện đoàn tổ chức trại Trần Đình Bé tại trường tiểu học Thịnh Văn (Sơn Thịnh) cho 80 cán bộ đoàn (60 nam, 20 nữ) để bồi dưỡng 22 Báo cáo số 4579 KC-KT/HT, Lưu TBLSĐ Hà Tĩnh, năm 1948. 23 Bà Huyên thường gọi là bà Bát Túy ở Phố Châu (BBT).
88 phương pháp công tác đoàn cho thanh thiếu nhi. Trại vinh dự được đón tiếp Chính ủy Quân khu IV Trần Văn Quang đến nói chuyện về tình hình, nhiệm vụ kháng chiến. Bế mạc trại, thanh thiếu nhi toàn huyện tổ chức biểu dương lực lượng với khí thế rất sôi nổi, hào hùng. Từ ngày 23 đến 25-11-1947, thanh niên huyện Hương Sơn vinh dự được tham gia tổ chức Đại hội Tỉnh đoàn tại Đông Mỹ (Sơn Châu). Các đội cảm tử của thanh niên Hương Sơn biểu dương lực lượng và biểu diễn võ thuật chào mừng Đại hội, làm cho các đại biểu trong toàn tỉnh thêm phấn khởi, tin tưởng vào lực lượng tuổi trẻ trong tỉnh. Trong khi đó, Đại hội Tỉnh đoàn được tổ chức dưới hình thức cắm trại đã thổi một luồng gió mới, tươi trẻ vào phong trào thanh thiếu nhi Hương Sơn. Tiếp đó, vào sáng mùng 3 Tết Mậu Tý (1948), Huyện đoàn tổ chức cắm trại tại sân vận động Dĩ Long (Sơn Long). Thanh thiếu nhi các xã cũng tổ chức cắm trại, họp bạn, liên hoan văn nghệ, dạ hội và nhiều hoạt động thể dục thể thao trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Bên cạnh Đoàn Thanh niên cứu quốc làm nòng cốt, tổ chức Hội Thanh niên Việt Nam cũng phát triển, thu hút một số thanh niên ngoài đoàn. Đại hội đầu tiên của Hội Thanh niên Việt Nam Hương Sơn được tổ chức vào giữa năm 1947 tại trường Thịnh Văn (Sơn Thịnh). Tuy nhiên, cũng như Đảng Dân chủ, Hội Thanh niên Việt Nam ở nông thôn Hương Sơn không có cơ sở để tồn tại lâu dài vì dần dần hầu hết thanh niên đều gia nhập Đoàn Thanh niên cứu quốc. Hội Phụ nữ, Hội Mẹ chiến sĩ hăng hái động viên con em tòng quân, ủng hộ bộ đội, dân quân. Các mẹ, các chị thực sự là nòng cốt trong việc tổ chức “mùa đông binh sĩ”, hội giúp binh sĩ bị nạn, ngày thương binh liệt sĩ, trong phong trào hũ gạo nuôi quân, áo ấm bộ đội... Mùa đông binh sĩ 1947, Hội mẹ chiến sĩ 18 xã quyên góp được 34.160 đồng và hơn 2.000 bánh mật, bánh nổ tặng bộ đội. Các mẹ, các chị lên tận biên giới tặng quà cho các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ phòng thủ, đến các trạm xá của bộ đội thăm hỏi, chăm sóc thương binh, bệnh binh... Tổ chức Nông hội và Công đoàn tích cực vận động hội viên, đoàn viên đẩy mạnh phong trào sản xuất, tiết kiệm, tổ chức giúp nhau trong sản xuất và đời sống. Thấm nhuần tư tưởng kháng chiến trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh, nhân dân Hương Sơn ra sức canh tác, khai hoang, phục hóa, phát triển các vườn tăng gia sản xuất cứu quốc hoặc kháng chiến, phát triển các nghề thủ công
89 và ra sức tiết kiệm. Xã Đồng Khánh (Sơn Giang) tiến hành đắp đập lấy nước tưới cho 120 mẫu lúa; xã Hữu Bằng (Sơn Bằng) đắp đập chắn nước lũ dài 130 m, bảo vệ được 53,5 ha lúa màu24. Năm 1947 và vụ chiêm năm 1948 được mùa, lúa gạo rẻ, nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền địa phương. Ngày 1-5-1947, Công đoàn tổ chức cuộc mít tinh với sự tham gia đông đảo giới công thương tại đền Gôi Mỹ (Sơn Hòa) để kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động và vận động đẩy mạnh sản xuất, lưu thông. Công đoàn lập ra các tổ sản xuất như tổ dệt, tổ kéo sợi, tổ làm guốc, tổ mộc, tổ đan, tổ may, tập đoàn rèn, tổ kinh tiêu, tổ công thương... Hàng nội được khuyến khích sản xuất. Hàng ngoại, xa xỉ phẩm bị bài trừ. Công đoàn phối hợp với các cơ quan, đoàn thể khác tổ chức những tuần lễ bài trừ xa xỉ phẩm, những chiến dịch bài trừ hàng ngoại được tổ chức đạt hiệu quả cao. Hàng ngoại không thâm nhập được vào thị trường Hương Sơn. Chợ búa đông vui, hàng hóa lưu thông và đảm bảo được những nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Đồng bạc tài chính dần dần đẩy lùi đồng bạc Đông Dương ra khỏi vùng tự do. Mặc dù đời sống vật chất còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân huyện Hương Sơn ngày càng được nâng cao. Phong trào giáo dục ngày càng phát triển. Trên địa bàn huyện có 19 xã xây dựng được trường tiểu học, chỉ còn 3 xã chưa có trường học là Kim Đan, Kim Cương, Cẩm Lĩnh. Đặc biệt, xã Mỹ Hòa và xã Bình Dương xây dựng được trường lợp ngói. Trước nhu cầu học tập rất cao của con em nhân dân, Huyện ủy quyết định mở trường trung học và giao cho Mặt trận Liên Việt thành lập Ban vận động. Trước đây học sinh trung học của Hương Sơn phải đi học ở Nghệ An hoặc Đức Thọ. Ngày 1-10-1947, trường PTTH bán công bán tư Hương Sơn có các lớp từ lớp đệ nhất đến lớp đệ tam đã khai giảng trước niềm vui vô hạn của gần 200 học sinh và toàn thể phụ huynh. Địa điểm đầu tiên trường đóng là Mân Xá (Sơn Hà), đến năm thứ 2 trường dời đến Tứ Mỹ (Sơn Châu). Hiệu trưởng đầu tiên đặt nền móng xây dựng trường là thầy Trần Văn Thứ. Trường có 1 chi bộ Đảng, với 7 đảng viên (1 giáo viên, 6 học sinh). 24 Báo cáo tổng kết năm 1948 của Ủy ban KCHC Hà Tĩnh, Lưu TBLSĐ Hà Tĩnh.
90 Phong trào bình dân học vụ ngày càng phát triển. Với khẩu hiệu “Đi học là yêu nước”, “Đi học là kháng chiến”, “Mỗi lớp học là một pháo đài”, “Mỗi người thoát nạn mù chữ là một trận thắng lớn”... mọi người dân hăng hái đi học. Đến tháng 9-1947, toàn huyện đã có 355 lớp công cộng, 84 lớp tư gia, 670 cán bộ và giáo viên, 10.228 học viên. Toàn huyện còn lại 8.465 người, bằng 30% tổng số người trong độ tuổi 16 đến 50 còn mù chữ25. Đến cuối quý I năm 1948, 6 xã được cấp bằng thanh toán nạn mù chữ của Chính phủ là: Dĩ Long, Bình Dương, Mỹ Hòa, Mạc Phượng, Thịnh Văn, Hữu Bằng. Phong trào xây dựng đời sống mới phát triển. Nhiều xã lập được hương ước mới như: Thịnh Văn, Đông Mỹ, Hàm Phố, Mỹ Hòa...26. Những đám cưới tập thể theo đời sống mới ra đời. Phong trào vệ sinh yêu nước được đẩy mạnh, đường thôn, ngõ xóm, chợ búa sạch sẽ hơn trước. Huyện ủy cũng quan tâm công tác thông tin tuyên truyền, văn nghệ, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Đầu năm 1947, Ban Thông tin tuyên truyền được thành lập, có hệ thống từ huyện đến xã. Đồng chí Phùng Đối là Trưởng ban đầu tiên. Cán bộ Ban tuy ít nhưng nhiệt tình, thường xuyên về các xã để tuyên truyền, phổ biến công tác, đưa tin tức thời sự và phổ biến các bài hát mới, mỗi xóm có 1-2 chòi phát thanh. Thanh niên thi nhau làm chòi thật cao để tiếng loa được truyền đi thật xa. Các tổ thông tin thi nhau đi lấy tin. Trong hoàn cảnh kháng chiến, sách báo ít, cả huyện lại chỉ có 1 chiếc đài bán dẫn chạy bằng năng lượng dầu hỏa. Chiều chiều, cán bộ thông tin các xã đến ngồi chờ ở trụ sở thông tin huyện để chép bản tin đọc chậm của Đài Tiếng nói Việt Nam. Tin chiến thắng, thành tích tăng gia sản xuất, bình dân học vụ... vang lên tối tối ở các chòi phát thanh. Ngoài lực lượng chuyên trách, tất cả cán bộ các cơ quan, đoàn thể của huyện đều nắm được tình hình thời sự và những tin tức cập nhật để tuyên truyền, phổ biến trong các cuộc họp, cuộc tập trung khi về cơ sở. Nhân dân háo hức theo dõi tình hình ngoài mặt trận, đặc biệt là tình hình Việt Bắc - Thủ đô kháng chiến. Tin chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947 được truyền đi càng làm nức lòng quân và dân trong huyện. 25 Báo cáo nguyệt đề tháng 9 năm 1947 của UBKCHC Hương Sơn, Lưu tại UBND tỉnh Hà Tĩnh. 26 Báo cáo nguyệt đề tháng 9 năm 1947 của UBKCHC Hương Sơn, Lưu tại UBND tỉnh Hà Tĩnh.
91 Hơn một năm kể từ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng bộ Hương Sơn đã lãnh đạo toàn dân tổ chức bố phòng, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, đảm bảo an ninh trật tự xã hội và phòng ngự vững chắc biên giới phía Tây. Đồng thời, các phong trào sản xuất, tiết kiệm, giáo dục, xây dựng đời sống mới v.v... cũng được đẩy mạnh. Hương Sơn bước đầu được xây dựng thành một chiến khu an toàn, vững chắc, đón nhận xưởng ấn loát tài chính Trung Bộ và đồng bào Bình Trị Thiên sơ tán, nuôi dưỡng thiếu sinh quân, sẵn sàng bước vào những giai đoạn gay go, ác liệt hơn của cuộc kháng chiến. 2. Lãnh đạo phong trào thi đua ái quốc, tích cực củng cố hậu phương vững mạnh, chung sức chiến đấu với Bình - Trị - Thiên (5-1948 đến 1950) Bị thất bại trong chiến dịch tấn công Việt Bắc, thực dân Pháp phải từ bỏ chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh chuyển sang đánh lâu dài, lấy người Việt đánh người Việt. Chúng thực hiện kế hoạch bình định vùng tạm chiếm và phá hoại vùng tự do của ta. Giặc Pháp ra sức càn quét, Bình - Trị - Thiên chìm trong khói lửa. Thanh - Nghệ - Tĩnh trở thành một vùng tự do rộng lớn, là hậu phương của chiến trường. Ngày 10-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh điện cho Thanh - Nghệ - Tĩnh: “Chung sức chiến đấu với Bình - Trị - Thiên”. Hương Sơn được xem là một vùng an toàn trong chiến khu Đức - Hương - Hương của tỉnh Hà Tĩnh. Cuối năm 1948, xưởng quân giới Hà Huy Tập từ Quảng Bình sơ tán đến Bình Dương (Sơn Bình và Sơn Hà). Đầu năm 1949, các cơ quan tỉnh, cảnh vệ tỉnh dời trụ sở đến Dĩ Long (Sơn Long). Cuối năm 1949, xưởng quân giới Hoàng Văn Thụ từ Liên khu III về đóng tại xã Kim Hoa (Sơn Phúc và Sơn Thủy). Tháng 6-1950, Trường thiếu sinh quân Liên khu IV từ Thanh Hóa vào đóng tại 2 xã Thịnh Văn (Sơn Thịnh) và Mỹ Hòa (Sơn Hòa). Sang năm 1951, trường dời lên Hàm Phố (Sơn Phố), Quang Diệm (Sơn Diệm). Bộ Chỉ huy Mặt trận Trung Lào đóng tại Phúc An Ninh (Sơn Ninh). Bộ đội ở mặt trận Trung Lào thường về địa bàn huyện an dưỡng sau mỗi trận đánh. Đồng bào Bình - Trị - Thiên, nhân dân Lào tản cư đến Hương Sơn ngày một đông. Do nhận thức được “Tản cư là kháng chiến”, “Đón người tản cư cũng là kháng chiến”, ngay từ đêm 19-12-1946, Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn tổ
92 chức đón tiếp ân cần, chu đáo xưởng ấn loát tài chính Trung Bộ; cán bộ, công nhân, đồng bào sơ tán đến từ bất kỳ nơi nào, thời gian nào. Nhân dân Hương Sơn không hề tiếc vườn tược, cây cối, dành đất để dựng xưởng, dành nhà ngoài rộng rãi cho cán bộ, công nhân, đồng bào ở và làm việc, chia sẻ với nhau từng bát gạo, củ khoai khi khó khăn, lụt lội. Các mẹ nhận công nhân, bộ đội làm con nuôi, con rể. Trong thời gian này, Hương Sơn đón nhận cán bộ, đồng bào (kể cả già, trẻ) tản cư ra Hà Tinh; Đón và nuôi mấy chục học sinh từ các trường ở Quảng Bình, Quảng Trị ra để học tiếp. Dân quân, du kích ngày đêm bảo vệ các cơ xưởng. Thanh niên Hương Sơn nhiều người thành công nhân làm việc trong các xưởng. Để tăng cường tiềm lực mọi mặt cho kháng chiến, tháng 3 năm 1948, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Ngày 11-6-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi thi đua ái quốc, trong đó nêu rõ: “Thi đua là yêu nước. Yêu nước thì phải thi đua”. Thực hiện chủ trương này, trong 2 ngày 19 và 20-6- 1948, Tỉnh ủy Hà Tĩnh mở Hội nghị liên tịch giữa Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh và các đoàn thể, các huyện để quán triệt mục tiêu, ý nghĩa của phong trào thi đua ái quốc và đề ra những chủ trương, biện pháp thực hiện trong các ngành, các giới, các đoàn thể và các địa phương. Thực hiện chủ trương của Trung ương và của Tỉnh ủy, Huyện ủy Hương Sơn phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân với các nội dung: Thi đua xây dựng chi bộ tự động công tác, chi bộ kiểu mẫu; Thi đua làm tốt công tác bố phòng, xây dựng “làng Cự Nẫm”27, luyện quân lập công, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng; đẩy mạnh sản xuất, tiết kiểm, đảm bảo tự túc ăn mặc và có chi viện cho kháng chiến, đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, xây dựng đời sống mới, quyết tâm thanh toán nạn mù chữ sớm nhất. So với những ngày đầu kháng chiến, Đảng bộ Hương Sơn ngày càng lớn mạnh. Tất cả các xã đều có chi bộ, với tổng số 1.440 đảng viên, gấp 3 lần so với năm 1947. Giữa năm 1948, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Sơn được tiến hành tại Trường Tiểu học xã Kim Hoa (Sơn Phúc, Sơn Mai và Sơn Thủy ngày 27 Một làng chiến đấu kiểu mẫu của Quảng Bình (BBT).
93 nay). Tuy lúc này Đảng chưa ra hoạt động công khai, nhưng chiếm được lòng tin yêu rất lớn trong quảng đại nhân dân. Hội trường được trang trí lộng lẫy và công khai gọi là đại hội “Đoàn thể”. Nhân dân địa phương biết rõ “Đoàn thể” là Đảng, đại hội “Đoàn thể” là đại hội Đảng, càng thêm tin tưởng và đón tiếp các đại biểu về dự Đại hội với tình cảm gắn bó chân thành. Đại hội đánh giá bước phát triển của Đảng bộ và những thành tích to lớn mà quân, dân Hương Sơn đạt được, đồng thời, nghiêm khắc kiểm điểm những mặt yếu kém, nhất là phong trào không đều giữa các địa phương. Đại hội đề ra nhiệm vụ quyết tâm tổ chức tốt phong trào thi đua ái quốc, xây dựng Hương Sơn thành một hậu phương vững mạnh, chi viện đắc lực sức người, sức của cho Bình - Trị - Thiên. Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa mới và đoàn đại biểu đi dự Đại hội tỉnh. Đồng chí Trần Đoàn được bầu lại làm Bí thư và đồng chí Hồ Văn Ninh được bầu lại làm Phó bí thư Huyện ủy. Đại hội có tác dụng củng cố và nâng cao một bước tổ chức và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hương Sơn. Tháng 4-1949, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh đề ra những nhiệm vụ trọng tâm: Huy động mọi khả năng quân sự, kinh tế vào chi viện cho Quảng Bình; kiện toàn và mở rộng tổ chức dân quân để đối phó với mọi sự đột kích của địch; đẩy mạnh xây dựng kinh tế theo phương châm “lấy sức dân làm lợi cho dân” nhằm tự túc ăn, mặc và học; cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện giảm tô; tiếp tục bài trừ giặc dốt, xây dựng đời sống mới. Mở các lớp dạy nghề, dạy văn hóa, chính trị, phát triển văn hóa, giáo dục; xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố các đoàn thể cứu quốc, tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Xây dựng chính quyền dân chủ mới, phát huy chức năng hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện khẩu hiệu “chính trị - kinh tế phối hợp”, “hòa hợp Việt Minh - Liên Việt”…; xây dựng Đảng thành Đảng có tính chất quần chúng rộng rãi, phát triển đạt cho được tỷ lệ 300%, đặc biệt là phụ nữ, công, nông, thanh niên; làm cho Đảng có cơ sở trong mọi ngành, mọi tổ chức, mọi thôn xóm; chống tư tưởng cô độc, hẹp hòi, địa phương, bản vị. Nâng cao trình độ lý luận và văn hóa cho đảng viên. Mọi công
94 tác của tỉnh, huyện phải hướng thẳng về chi bộ, xây dựng chi bộ tự động công tác28. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và huyện, phong trào thi đua ái quốc được thúc đẩy mạnh mẽ. Công tác xây dựng chi bộ tự động công tác, chi bộ kiểu mẫu được các cơ sở chú trọng. Trong đợt thi đua phát triển Đảng do Tỉnh ủy phát động từ 11-2 đến 19-5-1949, Đảng bộ Hương Sơn kết nạp được 972 đảng viên; 6 tháng cuối năm, kết nạp được 1.863 đảng viên; trong 3 tháng đầu năm 1950, kết nạp 431 đảng viên. Chỉ trong vòng 15 tháng, số đảng viên tăng 3.266 người. Việc phát triển đảng viên ồ ạt trong giai đoạn này dẫn đến chất lượng đảng viên không đảm bảo. Tỉnh uỷ cũng đã nhận ra khuyết điểm này nên sau đợt phát triển mùa xuân, đã chủ trương tạm ngừng kết nạp để nâng cao chất lượng đảng viên. Công tác huấn luyện đảng viên, bồi dưỡng cán bộ được tăng cường. Huyện ủy mở 5 lớp, các chi bộ mở 35 lớp cho 1.107 đảng viên dự bị, 30 đảng viên chính thức, 133 chi ủy viên. Huyện ủy tổ chức thi chính trị cho đảng viên, có 200 người dự và đều đạt yêu cầu. Đến tháng 5-1949, có 13 chi bộ được công nhận đạt tiêu chuẩn chi bộ tự động công tác29. Bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố. Ngày 15-9-1949, toàn dân nô nức đi bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh khóa II. Nhân dân Hương Sơn bầu 2 đại biểu của huyện vào Hội đồng nhân dân tỉnh. Các xã nhỏ tiếp tục được sáp nhập. Đến đầu năm 1950, Hương Sơn còn 15 xã30. Các xã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban Kháng chiến hành chính xã. Ủy ban Kháng chiến hành chính huyện có sự thay đổi. Đồng chí Hồ Văn Ninh được điều ra Việt Bắc công tác. Ngày 22-11-1949, Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu IV ra quyết định bổ nhiệm đồng chí Đinh Xuân Bính làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Hữu Lệ làm Phó Chủ tịch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, phong trào thi đua ái quốc bước vào việc thi đua tự túc ăn, mặc và chi viện chiến trường. Phong trào đã phát triển rộng rãi, có chiều sâu, đến từng gia đình. Các tổ chức Công đoàn, Nông hội đi sát từng tiểu tổ, từng nhà vận động thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, 28 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh , tập 1, (1930-1954), Nxb CTQG H 2014, tr 180. 29 Báo cáo tổng kết thi đua của Tỉnh ủy ngày 28-5-1949. Lưu Tiểu ban LSĐ. 30 Xem danh sách ở phần phụ lục.
95 đẩy mạnh khai hoang phục hóa, xây dựng, phát triển đổi công, hợp tác. Trong 6 tháng cuối năm 1948, có 12 hợp tác xã nông nghiệp, 1 hợp tác xã thủ công nghiệp, nhiều nông đoàn, hợp công, tập đoàn sản xuất ra đời. Trong đó, có một số hợp tác xã tiến khá nhanh, khá mạnh như hợp tác xã dệt Thịnh Văn (Sơn Thịnh), hợp tác xã nông nghiệp Tân Địa (Sơn Tân). Sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp đều có bước phát triển. Phong trào thi đua ái quốc trong lực lượng vũ trang diễn ra rất mạnh mẽ. Mở đầu phong trào thi đua ái quốc cũng là mở đầu kế hoạch “một năm xây dựng dân quân” do tỉnh phát động với 5 yêu cầu: Mở rộng tổ chức, đẩy mạnh huấn luyện, sẵn sàng tác chiến, tự túc ăn mặc, tự túc vũ khí. Để triển khai cuộc vận động, các địa phương tổ chức học tập từ trong chi bộ ra ngoài quần chúng để quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân, nhiệm vụ của dân quân, du kích. Chi bộ phân công cho tất cả các đảng viên lãnh đạo dân quân. Các buổi họp chi bộ và các đoàn thể quần chúng đều có kiểm điểm công tác dân quân. Trên cơ sở đó, với khẩu hiệu “mỗi người dân là một dân quân”, mọi công dân nam từ 18- 45 tuổi đều hăng hái gia nhập dân quân. Những người trên độ tuổi 45 lập ra các đội lão quân. Thiếu niên lập ra thiếu niên quân. Mỗi xã có 2 trung đội du kích, mỗi xóm có 1 trung đội dân quân. Huyện ủy còn chú ý tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng dân quân du kích. Bí thư hoặc Phó bí thư chi bộ được cử làm chính trị viên xã đội, tổ trưởng đảng làm chính trị viên các trung đội. Huyện đội liên tục mở các lớp huấn luyện xã đội trưởng, trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, quân báo, liên lạc cho các xã. Dân quân, du kích cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu: rào làng, cắm chông ở các bãi trống, canh phòng trực chiến v.v... Hầm hào được củng cố. Phong trào xây dựng “làng Cự Nẫm” tuy được phát động một thời gian nhưng không duy trì được lâu do tư tưởng chủ quan khinh địch trong cán bộ, nhân dân còn nặng. Trên cơ sở lực lượng dân quân, du kích phát triển mạnh, Huyện ủy chủ trương chuyển 2 trung đội du kích thường trực của huyện thành một đại đội độc lập. Tháng 8-1948, đại đội độc lập của huyện làm lễ ra mắt, có 60 người, do đồng chí Hồ Khiêm làm Đại đội trưởng. Đại đội độc lập hoạt động được một năm thì chuyển thành bộ đội địa phương theo chủ trương của tỉnh, quân số lên tới 120 người và vẫn do đồng chí Hồ Khiêm chỉ huy. Đại đội được trang bị đầy
96 đủ hơn trước nhờ có các xưởng của quân khu, của tỉnh sản xuất ngày một nhiều vũ khí. Trách nhiệm của đơn vị được quy định là: thay quân chủ lực làm nhiệm vụ bảo vệ địa phương. Trung đoàn chủ lực 103 của tỉnh được Khu điều động trở thành đơn vị chủ lực của Quân khu. Bộ đội địa phương huyện cùng dân quân, du kích các xã luôn luôn làm tròn nhiệm vụ phòng ngự mặt trận đường 8, bảo vệ an toàn hậu phương. Tuy nhiệm vụ được giao rất nặng nề nhưng bộ đội địa phương và dân quân du kích vẫn chưa có chế độ rõ ràng, chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của nhân dân và sản xuất tự túc. Trước tình hình đó, huyện đã phát động phong trào tiết kiệm nuôi quân, bán lúa định giá, bán gạo khao quân... Trong “tuần lễ quân dân nhất trí” Tết Kỷ Sửu (1949), nhân dân đón bộ đội, công nhân về ăn Tết ở gia đình vui vẻ, đầm ấm. Trong các mùa mưa ở Lào, bộ đội mặt trận Trung Lào về nghỉ, đều được nhân dân đón tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng tận tình. Hội Mẹ chiến sĩ, Hội Phụ nữ cử hội viên thường xuyên đến nuôi thương binh, bệnh binh ở các trạm xá. Tình quân - dân, quân - cán gắn bó như cá với nước. Trong năm 1949, phong trào “đỡ đầu dân quân” diễn ra rầm rộ. Đồng bào hăng hái hiến điền, hiến của cải cho dân quân, du kích xây dựng quỹ tự túc. Đại bộ phận nhân dân tự giác hưởng ứng các cuộc vận động nuôi quân. Các cuộc vận động thu được kết quả lớn nhưng cũng đã phạm phải một số sai lầm là động viên quá sức dân và phương pháp tiến hành đôi lúc còn thiếu dân chủ. Cùng với việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, phong trào tòng quân giết giặc trên địa bàn huyện diễn ra hết sức sôi nổi. Các đơn vị địa phương luôn sẵn sàng bổ sung quân cho các đơn vị bộ đội chủ lực. Thanh niên hồ hởi, phấn khởi gia nhập vệ quốc quân và hành quân ra trận. Đại hội tòng quân mùa Thu năm 1949 do Tỉnh đoàn tổ chức được thanh niên Hương Sơn xung phong ghi tên cao hơn nhiều lần số tuyển. Mặt trận Bình - Trị - Thiên là mặt trận nóng bỏng, là tiền tuyến trực tiếp của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Thực hiện chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh (4- 1949): “Hà Tĩnh phải chung sức với Quảng Bình”, “Đánh mạnh về mọi mặt vào quân địch ở Quảng Bình tức là giữ vững Hà Tĩnh” 31, quân và nhân dân 31 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tập 1, (1930-1954), Nxb CTQG, H 2014, tr 179.
97 Hương Sơn ngày đêm hướng về Bình - Trị - Thiên khói lửa, chung sức chiến đấu với Bình - Trị - Thiên. Ban cứu tế tản cư được thành lập tự huyện đến xã, đầu tiên là các xã Kim Hoa, Hàm Phố, Thịnh Văn, Xa Lang, Quang Diệm. Đến tháng 9-1948, ban cứu tế tản cư huyện làm được 2 nhà, mỗi nhà 3 gian ở Đôn Mỹ và Hàm Phố để đón đồng bào tản cư. Trong tuần lễ “Hướng về Bình - Trị - Thiên khói lửa”, nhân dân Hương Sơn đã nhiệt tình quyên góp tiền, gạo, áo quần, sách vở, giấy bút gửi vào Bình - Trị - Thiên. Đầu năm 1949, thực hiện chủ trương của tỉnh Hà Tĩnh, một trung đội vũ trang công tác gồm những dân quân, du kích ưu tú của các xã trong huyện được Tỉnh đội huấn luyện trong 15 ngày và điều vào chiến đấu ở Bình - Trị - Thiên. Ngày 21-3-1949, đơn vị lên đường vào vùng địch hậu Bố Trạch (Quảng Trạch, Quảng Bình). Đơn vị cùng quân dân địa phương chống càn, phá đồn giặc, diệt tề, trừ gian trong 3 tháng. Anh em chiến đấu rất anh dũng, không hề sợ gian khổ, hy sinh, đánh nhiều trận, lập nhiều thành tích32. Trong hai năm 1948, 1949, huyện Hương Sơn gặp phải hạn hán, lụt lội liên tiếp. Vụ lúa năm 1948 bị mất sạch. Bà con nông dân kiên cường chống thiên tai, tổ chức liên tục các tuần lễ đẩy mạnh sản xuất, các chiến dịch thu đông canh tác v.v... nên vẫn thu hoạch khá, nạn đói không xảy ra. Năm 1949, tổng sản lượng lúa của huyện đạt 688 tấn. Tuy bình quân đầu người chỉ mới khoảng 100kg thóc, nhưng do diện tích trồng màu nhiều và do nhân dân thực hành tiết kiệm nên đã đủ ăn tiêu và đóng góp cho kháng chiên, chi viện chiến trường. Nông dân trong huyện cũng đã du nhập một số cây trồng mới cho thu hoạch cao, điển hình là cây đậu nành. Phong trào chăn nuôi cũng phát triển, huyện Hương Sơn có một trại chăn nuôi tập thể của hợp tác xã. Cùng với sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề thủ công có bước phát triển. Nghề kéo sợi, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải không chỉ phát triển mạnh ở các làng nghề truyền thống cũ mà còn lan sang các xã trước đây vốn thuần nông. Làng Thịnh Xá (Sơn Thịnh) trước chỉ dệt vải khổ hẹp, nay hợp tác xã mở mang dệt vải khổ rộng và dệt chăn. Hợp tác xã có 5 khung cửi khổ hẹp, 96 khung khổ 32 Tổng kết chiến tranh du kích Hà Tĩnh. Lưu tại TBLSĐ Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
98 rộng, 6 khung dệt chăn, 78 xa kéo sợi, 2 máy đánh sợi 33, dệt được vải nhân tự, vải quả trám, lồng mốt, lồng đôi, lụa tuýt-xo v.v... Nghề mật mía thịnh hành ở Bình Dương, Đông Mỹ, Phúc An Ninh, Đồng Khánh (Sơn Giang) v.v... Hợp tác xã Tân Lĩnh (Sơn Lĩnh) có cơ sở làm đường kính. Lần đầu tiên, nghề làm đường kính du nhập vào Hương Sơn và phát triển khắp các làng nghề mật mía. Cùng với mật đường, nghề bánh kẹo phát triển, nổi tiếng là kẹo Cu-đơ (ở Sơn Thịnh, Sơn Hà). Các nghề rèn, mộc, sản xuất đồ gỗ, đồ sừng như thùng có đai, guốc, lược, quạt v.v... cũng phát triển khá mạnh. Thợ rèn Trung Lương (Đức Thọ) đã lên Hương Sơn mở lò rèn khắp huyện. Thợ Thái Yên (Đức Thọ) mở các cơ sở tiện bút máy bằng sừng. Bên cạnh đó, còn có nghề ép dầu thực vật bằng phương pháp thủ công. Dầu hạt bưởi, dầu trảo, dầu bùi, dầu vừng dần dần thay thế dầu hỏa. Xưởng giấy Hương Sơn đảm bảo được một phần nhu cầu học tập của học sinh. Thế mạnh kinh tế vườn (cam, quýt, chuối, bưởi, mít, chè...), kinh tế rừng (soong, mây, gỗ, củi, nứa, nâu...) của huyện được phát huy. Lò cứu rừng ra đời nhằm tiết kiệm củi, bảo vệ rừng. Xã Mỹ Hòa dẫn đầu toàn huyện về phong trào lò cứu rừng. Nông hội và Công đoàn có nhiều thành tích trong việc vận động đẩy mạnh sản xuất tự túc. Công đoàn Hương Sơn là một trong hai công đoàn huyện của Hà Tĩnh được Liên hiệp Công đoàn tỉnh và Liên hiệp Công đoàn khu IV khen thưởng. Thương mại có bước phát triển, hàng hóa lưu thông từ vùng này sang vùng khác, chợ búa, đò giang đông vui, nhộn nhịp. Trên dòng sông Ngàn Phố, những chuyến đò đầy ắp hoa quả, những cánh bè gỗ, nứa nối đuôi nhau về Đức Thọ, về Vinh. Chợ Phố, chợ Choi, chợ Gôi, chợ Bè, chợ Cơn Bàng trở nên sầm uất, không chỉ phục vụ nhân dân địa phương mà còn phục vụ công nhân, bộ đội, đồng bào tản cư... Chợ Cơn Bàng (Sơn Thịnh) thành nơi trao đổi mua, bán bông, vải, sợi, khuôn, go giữa Nam Đàn, Thanh Chương, Hương Sơn, Đức Thọ. Mỗi ngày, chợ Cơn Bàng tiêu thụ khoảng 30 kg bông. Chợ tết Hương Sơn 33 Báo cáo của hợp tác xã Thịnh Văn tại Hội nghị hợp tác xã toàn tỉnh. Lưu tại UBND tỉnh Hà Tĩnh.
99 (thường gọi là chợ trâu, chợ bò) thu hút khách buôn từ Thanh Hóa, Nghệ An vào. Đặc biệt, chợ Tết Kỷ Sửu (1949), đoàn trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng ở Đức Thọ đến cắm trại, tham quan chợ, được coi là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa của Hương Sơn trong những ngày kháng chiến gian khổ. Hương Sơn trở thành nơi giao lưu kinh tế - văn hóa giữa hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Sản xuất phát triển, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên. Nông hội tích cực vận động các chủ ruộng giảm tô 25%. Phong trào này manh nha từ năm 1948, nhưng sang năm 1949 được đẩy mạnh hơn. Tháng 9-1949, Bình Dương là xã đầu tiên hoàn thành giảm tô 25%. Tuy vậy, kết quả cuộc vận động còn hạn chế. Nhiều chủ ruộng chỉ giảm tô từ 5-10% hoặc không chịu giảm tô. Tuy còn chật vật, nhưng Hương Sơn cơ bản tự túc được ăn, mặc, tiêu dùng và có chi viện cho công nhân, bộ đội, đồng bào tản cư đến địa phương và chi viện cho chiến trường. Cùng với phong trào thi đua phát triển kinh tế, Huyện ủy rất chú ý lãnh đạo phát triển văn hóa - giáo dục. Tất cả các xã đều có trường tiểu học, có xã 2 trường, toàn huyện có 3 trường trung học 34. Năm 1949, trường phổ thông trung học Hương Sơn mới khai giảng khóa đầu tiên, song đạt tỷ lệ 30% học sinh tốt nghiệp, không thua kém các trường được thành lập trước trong Liên khu IV. Đặc biệt, ngành bình dân học vụ huyện Hương Sơn vươn lên đạt thành tích xuất sắc. Đến cuối năm 1948, trường được công nhận thanh toán nạn mù chữ và là một trong 6 huyện của tỉnh Hà Tĩnh. Xã Bình Dương được báo cáo điển hình ở Hội nghị tổng kết toàn Liên khu. Bà Nguyễn Thị Phiến (Bình Dương), 65 tuổi là học viên chăm chỉ, học giỏi được thưởng một chiếc áo lụa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với thành tích đạt được, huyện tiếp tục lãnh đạo phát triển phong trào lên cao, mở các lớp sơ cấp bình dân và tiểu học tráng sinh cho người lớn35. Cuộc sống nông thôn ngày càng văn minh, nhiều gia đình có nhà tiêu, giếng nước, nhiều xã có trạm xá. Đường làng, cầu cống, bến nước công cộng thường xuyên được làm vệ sinh quang đãng, sạch sẽ. Tuy vậy, cuộc vận động 34 Trường Trung học bán công Hương Sơn của Liên Việt mở và 2 trường trung học tư thục Phổ Quang và Phổ Minh của Hội Phật giáo cứu quốc mở. 35 Tháng 6-1949, toàn huyện có 116 lớp bình dân học vụ với 182 giáo viên, 5.488 học viên, 99 lớp sơ cấp với 112 giáo viên, 2.148 học viên, 6 lớp tiểu học tráng sinh với 157 học viên.
100 đào giếng còn gặp khó khăn vì một bộ phận nhân dân còn mê tín lo sợ “động mạch”. Năm 1949, trên địa bàn huyện diễn ra phong trào hợp tự rộng khắp. Tất cả các đền, chùa trong một xã đều hợp lại một nơi. Tất cả các nhà thờ trong một họ cũng hợp nhất vào nhà thờ lớn. Cuộc vận động có tác dụng ít nhiều trong việc giảm bớt một số hủ tục thờ cúng lạc hậu nhưng lại phạm sai lầm lớn là phá hủy một số di tích, thắng cảnh của địa phương, như Đền thờ hai cha con trạng nguyên họ Sử ở Sơn Long. Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta ngày càng thu được nhiều thắng lợi. Trong tỉnh, phong trào thi đua đạt nhiều thành tích to lớn. Đặc biệt, Hà Tĩnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi về công tác dân quân và được thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì về thành tích thanh toán nạn mù chữ sớm nhất cả nước từ đầu năm 1949. Trong bối cảnh đó, đầu năm 1950, Đại hội Đảng bộ Hương Sơn được tổ chức tại Phố Châu. Đồng chí Trần Quế và đồng chí Trần Chỉ thay mặt Tỉnh ủy về chỉ đạo Đại hội. Đại hội đánh giá Đảng bộ Hương Sơn đã lớn mạnh vượt bậc. Số đảng viên tăng lên gấp 10 lần so với năm 1947, có nhiều chi bộ “tự động công tác”. Chi bộ xã Bình Dương được công nhận là chi bộ kiểu mẫu, được Liên khu ủy thưởng 1 chiếc xe đạp. Phong trào thi đua ái quốc thu được nhiều thắng lợi trên mọi mặt. Xã Bình Dương được Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu tặng Cờ Thi đua xuất sắc. Công đoàn huyện được giải thưởng của Công đoàn Liên khu, hợp tác xã Thịnh Văn và hợp tác xã Tân Địa là hai trong bốn hợp tác xã điển hình của tỉnh, lực lượng vũ trang lớn mạnh, tinh thần cách mạng, tinh thần kháng chiến của quân dân lên cao. Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong quá trình Đảng bộ lãnh đạo phong trào cách mạng tại địa phương. Số lượng đảng viên tăng nhanh nhưng chất lượng không cao; một số chi bộ còn yếu, phong trào thi đua ái quốc không đều; Đảng bộ chưa quan tâm đúng mức đến việc giảm tô, tạm cấp ruộng đất, bồi dưỡng sức dân; đời sống nhân dân tuy có khá hơn nhưng vẫn còn thấp. Trên cơ sở phân tích những thành tựu và hạn chế, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chính: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, xây dựng nhiều chi bộ tự động công tác, chi bộ kiểu mẫu hơn nữa, nâng cao năng lực lãnh đạo