The words you are searching are inside this book. To get more targeted content, please make full-text search by clicking here.

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

Discover the best professional documents and content resources in AnyFlip Document Base.
Search
Published by Lương Mạnh, 2023-03-05 11:15:13

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Sơn (Tập 1, giai đoạn 1930-1975)

201 và mạnh mẽ 3 cuộc cách mạng ở nông thôn, phấn đấu đạt 3 mục tiêu trong nông nghiệp. Dốc sức giải quyết cho được vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng hóa tiêu dùng và xuất khẩu. Đưa sản xuất nông nghiệp tiến lên một bước mới cân đối và toàn diện, đưa công tác chăn nuôi lên thành ngành chính. Đẩy mạnh công tác trồng cây, khai thác lâm sản thành phương hướng kinh doanh trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Khôi phục và phát triển tiểu thủ công nghiệp. Tăng cường chỉ đạo các mặt văn hóa, giáo dục chính trị tư tưởng và khoa học kỹ thuật. Làm tốt nhiệm vụ phục vụ tiền tuyến, bảo vệ hậu phương, giữ vững trật tự an ninh, bảo đảm pháp chế XHCN. Phấn đấu đưa phong trào toàn huyện tiến lên nhanh, mạnh, đồng đều, vững chắc 99. Nghị quyết đề ra nhiệm vụ tăng cường công tác xây dựng Đảng trên cả 2 mặt, tổ chức và tư tưởng. “Xây dựng khối đoàn kết nhất trí, tinh thần tiến công cách mạng liên tục, tinh thần tự lực, tự cường, toàn Đảng một lòng tiến liên phía trước, lãnh đạo quần chúng vượt mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của Đảng”100. Ban Chấp hành Đảng bộ mới do Đại hội bầu gồm 20 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Tứ, nguyên là Phó Ty Nông nghiệp tỉnh, được bầu làm Bí thư. Đồng chí Đào Thị Vượng được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Để triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội, trước mắt toàn Đảng bộ, quân dân Hương Sơn quyết tâm giành thắng lợi trong vụ sản xuất Đông Xuân 1971-1972 để bù đắp cho những thất bát nặng nề của vụ thu, mùa vừa qua. Với khí thế thi đua và quyết tâm đó, vụ Đông Xuân đã thu được thắng lợi lớn: 2.938 ha lúa nông nghiệp 8 đạt năng suất cao chưa từng có (17,9 tạ/ha). Ngành chăn nuôi đang được chấn chỉnh. Việc chăn nuôi bò đàn ở xã Sơn Quang bước đầu có kết quả... 2. Xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh vững mạnh, góp phần đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ Lực lượng vũ trang huyện, từ bộ đội địa phương dến dân quân tự vệ, lực lượng công an, từ công an vũ trang đến công an địa phương, sôi nổi mở các đợt thi đua tập luyện, luôn luôn đảm bảo chế độ trực chiến, tuần tra, canh gác, tuyệt đối bảo đảm an toàn và an ninh trong toàn huyện, ở các chân hàng, kho hàng, cửa khẩu phía 99 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ ngày 27, 28, 29-11-1971. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy. 100 Nghị quyết Đại hội Đảng bộ ngày 27, 28, 29-11-1971. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.


202 Tây, biên giới Sơn Kim. Trong hội thao toàn tỉnh ngày 27-10-1971, về 10 môn kỹ thuật bộ binh, lực lượng vũ trang Hương Sơn giành được giải tư. Trước yêu cầu của nước bạn Lào, chấp hành Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, của Bộ Tư lệnh Quân khu IV và Tỉnh đội, đầu tháng 10-1969, một đại đội dân công Hương Sơn được cử tham gia phục vụ chiến đấu ở tỉnh Bô-ly-khăm-xây, đánh bại chiến dịch Cù Kiệt của địch. Tiếp đó, các đơn vị dân công lại được lệnh ở lại giúp bạn chuẩn bị chiến trường cho mùa khô tới. Đại đội phòng không 12,7 ly của dân quân Hương Sơn đã điều lên đường 13 chiến đấu kìm chân địch trong mùa mưa. Tất cả các đơn vị của Hương Sơn tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ngày 24-3-1970, một toán phỉ gồm 25 tên lọt vào vùng biên giới (địa phận xã Sơn Kim). Công an, bộ đội và dân quân tự vệ của ta đã phát hiện kịp thời, đuổi đánh, buộc chúng phải tháo chạy. Vừa sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bất kỳ lúc nào, ở đâu, trên địa bàn huyện hay trên đất bạn Lào, dân quân tự vệ các địa phương lại vừa là nòng cốt lực lượng thanh niên đi đầu trong lao động sản xuất, hưởng ứng phong trào “Phong cách lao động mới” do Huyện đoàn thanh niên phát động. Giữa lúc mọi mặt công tác, sản xuất của huyện đang được đẩy mạnh thì tháng 4-1972, đế quốc Mỹ ném bom trở lại miền Bắc, gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lần này diễn ra ác liệt gấp nhiều lần so với trước. Chúng thả bom nổ chậm, bom từ trường, thủy lôi phong tỏa hết tất cả tuyến đường thủy, bộ của ta, các trọng điểm trên đường 8 đều bị máy bay địch ném bom đánh phá dữ dội. Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, tất cả các cầu lớn nhỏ trên các đường bộ mà ta vừa sửa lại đều bị bom địch đánh sập. Không những thế, chúng còn rải bom bi, bom sát thương bừa bãi vào vùng dân cư. Sáng ngày 26-4 âm lịch năm 1972, chúng đánh bom vào xã Sơn Bằng, làm 7 người chết (có 2 trẻ em và 1 cháu đang trong bụng mẹ, cháy 2 nhà). Nguy hiểm nhất, chúng dùng cả máy bay chiến lược B.52 ném bom rải thảm khắp nơi không kể là vùng dân cư, trường học hay bệnh viện, không kể ngày đêm. Trong hai tháng 11 và 12-1972, máy bay B.52 liên tục đánh vào các xã Sơn Diệm, Sơn Bằng trong lúc nhiều tốp phản lực khác đánh phá hầu như khắp các địa phương trong huyện, gây tổn thất lớn cho nhân


203 dân. Điển hình là vào lúc 21 giờ ngày 4-11-1972, máy bay B.52 đánh vào xã Sơn Diệm, gây nên tội ác tày trời làm 98 người chết và 37 người bị thương. Trong khói lửa chiến tranh vô cùng tàn bạo của kẻ thù, quân dân Hương Sơn đã biến đau thương thành hành động thi đua đẩy mạnh mọi mặt công tác trong thực tiễn. Dưới ánh sáng những chủ trương sáng suốt Trung ương Đảng, nhất là Lời kêu gọi ngày 16-4-1972 của Trung ương Đảng và Chính phủ, mặt khác, do có những kinh nghiệm trong cuộc chiến đấu vừa qua, nhất là những kinh nghiệm về công tác tư tưởng, Đảng bộ, quân và dân Hương Sơn đã nhanh chóng ổn định tình hình, bình tĩnh bước vào cuộc chiến đấu. Những tư tưởng sợ địch, sợ máy bay B.52 được phân tích, phê phán, khắc phục. Ở miền Nam, cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta đang diễn ra dồn dập và thu nhiều thắng lợi càng làm nức lòng quân dân ở hậu phương lớn. Ngày 2-5- 1972, tỉnh Quảng Trị được giải phóng hoàn toàn. Quân dân Hương Sơn vui mừng đón tiếp bộ đội đường 9 đi, về trên địa bàn huyện. Từ khi đế quốc Mỹ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, đội quân dự nhiệm toàn huyện 619 người đã hăng hái luyện tập, thường xuyên bổ sung cho quân chủ lực và bộ đội địa phương. Trong đợt huấn luyện mùa Thu 1972 của dân quân tự vệ và quân dự nhiệm toàn tỉnh, Hương Sơn giành được vị trí thứ hai. Để phục vụ cuộc tiến công chiến lược của quân dân miền Nam, năm 1972 là năm tỉnh Hà Tĩnh huy động nhân lực nhiều nhất trong cả 8 năm chống Mỹ, cứu nước (1965-1972). Chấp hành chỉ thị của Tỉnh ủy, huyện Hương Sơn đã có 6 đợt tuyển quân và rất nhiều đợt huy động dân công hỏa tuyến. Đợt một tuyển quân vào đầu năm, có 438 nam thanh niên lên đường. Đợt 3 và đợt 4 giữa năm, có 510 nam và 50 nữ. Tổng cộng 6 đợt, có 1.256 nam nữ thanh niên nhập ngũ, đạt 109% chỉ tiêu, bằng 1,37% dân số, bằng 37,6% số thanh niên độ tuổi 18-30 của huyện. Nhiều người trong diện chính sách được miễn nghĩa vụ vẫn kiên quyết lấy máu viết đơn xin ra trận. Hương Sơn lại một lần nữa dẫn đầu toàn tỉnh về công tác tuyển quân. Cũng trong năm 1972, 750 dân công phục vụ hỏa tuyến các đợt của huyện lần lượt lên đường phục vụ các mặt trận và luôn luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, trong năm 1972, huyện còn điều một số đơn vị dân quân tự vệ đi chiến đấu ở các chiến trường B, C, đạt 98% quân số trên giao. Một trung đội 12,7 ly


204 của dân quân gồm 38 cán bộ và chiến sĩ được điều đi phối hợp với tiểu đoàn 44 của quân chủ lực chiến đấu giúp bạn Lào, bảo vệ cùng giải phóng Mường Nham. Trong các tháng cuối năm, quân dân Hương Sơn lại phục vụ chiến dịch 872 của bạn đánh Khăm Muộn. Đánh giá về phong trào tuyển quân và huy động nhân lực phục vụ tiền tuyến của huyện, Ban Chỉ huy Quân sự tỉnh đã khẳng định: “Hương Sơn có quyết tâm chỉ đạo cao, có biện pháp chỉ đạo cụ thể, giải quyết chính sách công bằng, nâng tỷ lệ đồng đều trong tuyển quân và huy động nhân lực phục vụ kháng chiến. Đợt tuyển quân nào cũng vượt chỉ tiêu quân số và bảo đảm thời gian quy định. Các đơn vị dân công hỏa tuyến và chiến đấu ở chiến trường B, C đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hương Sơn không có xã nào mất trắng, không có xã nào không có thanh niên đi bộ đội. Những xã khá là Sơn Phố, Sơn Tiến, Sơn Ninh. Đào lạc ngũ ít nhất. Toàn huyện có 17 xã không có người đào lạc ngũ”101. Trong 8 năm (1965-1972), toàn huyện Hương Sơn có trên 6.000 thanh niên nhập ngũ, bằng 6,6% dân số; 43,5% số hộ có con em tòng quân, 24 hộ có 4 người trở lên tại ngũ. Có 3 xã được xếp loại giỏi, 12 xã loại khá và là huyện dẫn đầu công tác tuyển quân của tỉnh, vinh dự được tặng thưởng 8 Huân chương và 5 Cờ thi đua xuất sắc. Người đi chiến trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, người ở lại hậu phương đảm bảo trọn vẹn mọi công tác, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, xây dựng và bảo vệ quê hương, quyết không để kẻ thù xâm phạm phá hoại. Ngay đêm 8-4-1972, quân dân Hương Sơn cùng bộ đội biên phòng bắt gọn một toán phỉ 31 tên, thu toàn bộ vũ khí và điện đài. Trong khói lửa chiến tranh ác liệt của kẻ thù, mọi mặt hoạt động của huyện đều được duy trì và tiếp tục phát triển. Trong lúc đế quốc Mỹ âm mưu dùng bom đạn hủy diệt mọi mầm sống, mọi sự phát triển của huyện, thì tháng 9-1972, thêm một trường phổ thông cấp III được thành lập ở vùng hạ huyện - Trường cấp III Lê Hữu Trác, đóng tại xã Sơn Hà. Điều đó càng khẳng định sức sống mãnh liệt, truyền thống hiếu học của nhân dân huyện Hương Sơn. 101 Báo cáo tổng kết công tác tuyển quân năm 1972 của Ban chỉ huy quân sự tỉnh. Tài liệu lưu lại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh.


205 Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao vẫn diẽn ra sôi nổi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” phát triển rộng khắp, cổ vũ tinh thần hăng hái thi đua lao động sản xuất, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ v.v… Bị thất bại trước chiến lược ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở vào, đế quốc Mỹ phản bội lời cam kết, liều lĩnh tập trung lực lượng không quân đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác của miền Bắc. Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, với trận “Điện Biên Phủ trên không”, quân dân Thủ đô Hà Nội đã đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và cuối cùng phải ký kết Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Đó là thất bại chưa từng có trong lịch sử tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đồng thời, là thắng lợi hết sức vẻ vang của quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quân dân và Đảng bộ Hương Sơn rất tự hào đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cả dân tộc. III. HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG DỐC SỨC CHI VIỆN TIỀN TUYẾN GIÀNH THẮNG LỢI HOÀN TOÀN (1-1973 ĐẾN 30-4-1975) 1. Khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa, củng cố hậu phương Từ sau Hiệp định Pari, miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng trong hòa bình. Tuy vậy, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai không bao giờ can tâm từ bỏ âm mưu phá hoại nền độc lập, tự do của nhân dân ta. Ngày 28-1-1973, Trung ương Đảng ra Lời kêu gọi nhân dân cả nước “tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hòa bình, thống nhất nước nhà”. Bước vào thời kỳ cách mạng mới, Đảng bộ, quân và dân Hương Sơn có nhiều thuận lợi mới. Sau bao nhiêu năm chiến tranh, giờ đây hòa bình đã được lập lại. Toàn Đảng, toàn dân phấn khởi trước những thắng lợi đã giành được. Huyện đã xây dựng được một số nhân tố mới trong công cuộc phát triển kinh tế - văn hóa. Nhưng khó khăn thử thách vẫn còn nhiều. Kinh tế của huyện chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phụ thuộc vào thiên nhiên. Đời sống nhân dân còn thiếu thốn về mọi mặt.


206 Đứng trước những thuận lợi và khó khăn đó, ngay sau khi hòa bình lập lại, Huyện ủy họp, phân tích tình hình nhiệm vụ và phát động một đợt thi đua, trước mắt, ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, chăm bón lúa Đông Xuân, lập thành tích chào mừng thắng lợi vĩ đại của toàn dân tộc, chào mừng chiến công oanh liệt của quân và dân Thủ đô Hà Nội, và quyết định triệu tập Đại hội Đảng bộ vào đầu quý II năm 1973. Trong không khí náo nức mừng ngày chiến thắng, hầu như toàn quân, toàn dân Hương Sơn đã đổ ra đường, ra đồng sửa chữa đường xá, rà phá, tháo gỡ bom mìn, chăm bón lúa, màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Các cơ quan, trường học, bệnh viện, đơn vị vũ trang sửa sang lại trụ sở, chỉnh đốn lại nền nếp, chuyển hướng mọi công tác từ thời chiến sang thời bình, làm thêm, làm bù những công việc trong chiến tranh dồn lại. Từ ngày 26 đến ngày 30-4-1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Hương Sơn lần thứ IX được tiến hành tại hội trường huyện. Đồng chí Nguyễn Hồng Lam thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy dự và chỉ đạo đại hội. Nhận định về những thành quả đạt được, Đại hội khẳng định: Đảng bộ và quân dân Hương Sơn đã phát huy cao độ lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù sâu sắc, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng làm tròn nhiệm vụ bảo vệ hậu phương, chi viện tiền tuyến, hoàn thành xuất sắc công tác tuyển quân, dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong. Trong nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa của địa phương đã xuất hiện những nhân tố mới như xác định được phương hướng làm thủy lợi nội đồng, du nhập giống lúa Xuân vào các địa phương một cách thắng lợi. Tuy vậy, phong trào Hương Sơn còn nhiều mặt yếu kém, sản xuất nông nghiệp khá bấp bênh, trong tình trạng làm chưa đủ ăn, thu chưa đủ chi. Đảng bộ chưa thực sự vững mạnh, ý chí chiến đấu, tiến công trên mặt trận sản xuất chưa cao. Trên cơ sở phân tích sâu sắc thành tựu và hạn chế của Đảng bộ, Đại hội đề ra phương hướng phấn đấu trong nhiệm kỳ tới là: “Từng bước xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, lấy việc nâng cao ý chí cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể mà tạo nên tinh thần cách mạng tiến công trong cách làm ăn, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng, đạt 3 mục tiêu trong nông nghiệp. Quyết tâm tự túc lương thực, giải quyết tốt vấn đề thực phẩm. Từng bước khai thác thế mạnh của Hương Sơn, mở rộng sản xuất và thâm canh cây màu, đẩy mạnh trồng lạc, có kế hoạch triển khai trồng chè xuất


207 khẩu, hướng dẫn phát triển trồng cây đồi trọc, cây ăn quả v.v... Ra sức xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, từng bước cải tạo thợ thủ công và người buôn bán nhỏ. Trên cơ sở đó mà củng cố lực lượng quốc phòng vững mạnh, đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng miền Bắc XHCN”102. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, gồm có 19 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Huyện ủy có 7 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Tứ và đồng chí Đào Thị Vượng được bầu lại làm Bí thư và Phó Bí thư Huyện ủy. Sau Đại hội, thông qua cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp, chính quyền các cấp cũng được kiện toàn; đồng chí Đào Thị Vượng được bầu làm Chủ tịch. Thực hiện lời kêu gọi của Đại hội lần thứ IX Đảng bộ huyện “Phất cao cờ tháng Tám chống nghèo nàn, đánh tan giặc đói”, trong 2 tháng thi đua, nhân dân toàn huyện đã thu hoạch chiêm Xuân, nhập kho nhanh gọn và hoàn thành nghĩa vụ lương thực vụ chiêm, trong đó, có 13 hợp tác xã hoàn thành nghĩa vụ cả năm; đồng thời, đẩy mạnh sản xuất vụ thu, mùa. Hơn 4 vạn lượt người đã tích cực lao động khai hoang, làm thủy lợi, làm giao thông. Trong số 43 hợp tác xã, đã phục hóa được 35 ha, lấp hố bom giải phóng đồng ruộng được 21 ha, khai hoang được 68 ha. Nhiều điển hình tiên tiến đã xuất hiện trong phong trào như các hợp tác xã Đông Châu, Đại Châu (Sơn Châu), Đại Hà (Sơn Hà), Trung Thành (Sơn Trung), Đại Kim (Sơn Kim), Hồng Phú (Sơn Phú)... Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất, các hợp tác xã huy động xã viên tu bổ đường liên thôn, liên xã, làm thêm hàng chục kilômét đường mới và 5 cống lớn trên trục đường chính của huyện. Lực lượng dân công cùng với bộ đội tu sửa Đường 8, làm cầu tràn Hà Tân, làm đường mới từ Sơn Trung đi Khe Cò để kịp thời phục vụ chiến dịch vận tải ĐB3 của Trung ương. Trên mặt trận thủy lợi, 38 đội 02 của các hợp tác xã gồm 870 người, 10 đội chuyên nghiệp của huyện, gồm 325 người cùng hàng ngàn thanh niên trong đội tình nguyện xây dựng quê hương, khẩn trương tu bổ các hồ đập nhỏ, làm thêm 5 hồ đập mới, kết hợp cắm tiêu, cắm vè kiến thiết lại đồng ruộng. Nhiều xã đã xây dựng, quy hoạch lại đồng ruộng tương đối hoàn chỉnh, bố trí lại canh cư hợp lý, thuận tiện như Sơn Long, Sơn An, Sơn Lễ, Sơn Thịnh, Sơn Hòa. 102 Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Hương Sơn lần thứ IX. Tài liệu lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tĩnh.


208 Hai tháng thi đua mở đầu đợt “Phất cờ tháng Tám” đã thu được nhiều thắng lợi. Do vụ Thu năm ấy bị bão sớm gây thiệt hại nặng, nhân dân toàn huyện đã quyết tâm phấn đấu thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy “lấy mùa bù thu, lấy màu bù thóc, lấy cao bù thấp”, không để nạn đói xảy ra. Tháng 9-1973, Huyện ủy quyết định khởi công xây dựng trạm bơm điện Sơn Châu, có trạm biến thế và 6 km đường điện cao thế từ Linh Cảm về. Bước vào Đông Xuân 1973-1974, Huyện ủy phát động “chiến dịch thủy lợi vì quê hương” bắt đầu từ ngày 25-11-1973 với khẩu hiệu “Toàn Đảng, toàn dân Hương Sơn xuất quân ra trận quyết chí lập công đông xuân thắng lợi” mở đầu cho phong trào thủy lợi năm 1974. Trong vòng 1 tháng, toàn huyện đã đào đắp được 21 vạn m3 , đạt khối lượng lớn nhất từ trước đến nay. Mặt khác, do vốn đầu tư vào xây dựng cơ bản được tăng nhanh, nên trong chiến dịch này, công trình Khe Cò và đầu mối trạm bơm điện Sơn Châu đã được hoàn thành. Cùng với thủy lợi, trong các tháng cuối năm 1973, công tác giao thông nông thôn được đẩy mạnh, khối lượng đào đắp gấp 2 lần so với 7 tháng trước. Song song với phong trào thi đua đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các Chỉ thị số 208, số 209 của Trung ương về việc củng cố quan hệ sản xuất, tăng cường công tác quản lý kinh tế, Huyện ủy đã chỉ đạo triển khai trong 2 hợp tác xã trọng điểm, sau đó, triển khai trên quy mô toàn huyện, kết hợp với học tập Điều lệ hợp tác xã và mở Đại hội Nông dân tập thể từ cơ sở đến huyện. Chỉ thị số 208 và số 209 được thực hiện trong suốt hai năm 1974, 1975. Riêng trong đợt 1 năm 1974, các hợp tác xã đã thu hồi được 347 ha ruộng đất do cá nhân lấn chiếm và thu nợ xã viên được 82.000 đồng. Các Đảng bộ Sơn Châu, Sơn Hà, Sơn Mỹ, Sơn Trường, Sơn Trung, Sơn Tây, Sơn Lĩnh đã lãnh đạo thực hiện tốt công tác này. Trong hai năm 1974-1975, có 6 hợp tác xã phát triển lên quy mô toàn xã. Đến tháng 7-1975, toàn huyện có 13 hợp tác xã quy mô toàn xã, do đó, tổng số hợp tác xã từ 79 xuống còn 58 cơ sở. Có 9 hợp tác xã quy hoạch lại ruộng đất, bố trí lại sản xuất, chia lại đội cơ bản và thành lập các đội chuyên. Toàn huyện, có 38 đội chuyên thủy lợi, 30 đội chuyên giống. Ngoài ra, còn có các độ chuyên làm bèo, chăn nuôi... Đi đôi với quy hoạch lại ruộng đất, Tỉnh ủy chủ trương vận động dời dân lên đồi để mở rộng diện tích canh tác. Đây là một chủ trương lớn của tỉnh, được chỉ đạo thực hiện rất quyết liệt. Các xóm dân cư trù phú ven bờ sông Ngàn Phố của các xã


209 Sơn Bằng, Sơn Trung, Sơn Phố vốn tồn tại từ bao đời nay được vận động giãn dân vào các xóm trong hoặc lên miền ngược. Dân công toàn huyện được huy động đi vận chuyển nhà cửa, tài sản cho những gia đình di dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, 11 xã đã dời 528 hộ, mở rộng thêm được 80,8 ha canh tác. Cũng thời gian này, Huyện ủy chủ trương xây dựng huyện lỵ mới ở vùng núi Nầm (thuộc địa phận xã Sơn Châu). Phong trào thi đua “Phất cao cờ tháng Tám chống nghèo nàn, đánh tan giặc đói” diễn ra sôi nổi nhưng cũng rất quyết liệt nhằm “tự túc lương thực, giải quyết tốt vấn đề thực phẩm”. Phong trào đã thu được những kết quả bước đầu. Diện tích gieo trồng năm 1974 tăng 1,6% so với năm 1973, trong đó, diện tích lúa tăng 2%; diện tích lúa chiêm xuân năm 1975 tăng 6,4% so với năm 1974. Phương hướng mở rộng diện tích màu, trồng nhiều khoai chuối, sắn, khoai được các hợp tác xã thực hiện và xác nhận là phương hướng đúng đắn. Diện tích khoai lang vụ thu năm 1974 tăng 90% so với năm 1973. Sang năm 1975, diện tích và sản lượng ngô, khoai, sắn lại tiếp tục tăng hơn năm 1974. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát triển. Đàn trâu, bò, lợn nói chung đều tăng. Nhiều hợp tác xã phát triển thêm nghề nuôi cá. Năm 1974, các hợp tác xã đã thả 85 vạn cá bột, năm 1975, thả thêm 10 vạn con. Sản xuất thủ công nghiệp của huyện cũng có mặt phát triển, nhất là sản xuất vôi phục vụ nông nghiệp phát triển nhanh, kịp thời. Sản lượng vôi năm 1973 đạt 1.400 tấn, năm 1974 đạt 2.013 tấn. Sản xuất gạch ngói bước đầu được chú ý. Nghề thủ công mới, có triển vọng là nghề sản xuất bột sắn và bột dong riềng bằng máy quay tay cũng bắt đầu được đầu tư. Phương hướng mở rộng vùng chè xuất khẩu của huyện được tiến hành có kết quả. Vùng chè Sơn Thọ từ 46 ha (1972) đã phát triển lên 102 ha (1974). Những thành tích đạt được là những nhân tố mới xuất hiện trong công cuộc phát triển kinh tế của Hương Sơn. Sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội những năm đầu hòa bình của huyện Hương Sơn cũng có những bước phát triển mới. Số người đi học tăng nhanh, nhất là học sinh bổ túc văn hóa. Số học sinh phổ thông năm 1973 là 24.888 em, tăng 5,8% so với năm 1972, năm 1974 là 26.752 em, tăng 10% so với năm 1973. Hai trường phổ thông cấp III phát triển khá. Ngành mầm non và nhà trẻ phát triển đều và khá, có những điển hình toàn diện như nhà trẻ và trường mẫu giáo xã Sơn Tân. Phong


210 trào bổ túc văn hóa tiếp tục đi lên vững chắc, liên tục, nhiều xã có phong trào khá như Sơn Phú, Sơn Diệm, Sơn Hà, Sơn Mỹ, Sơn Lễ. Các xã Sơn Phú, Sơn Diệm, Sơn Hà đã hoàn thành phổ cập cấp I bổ túc văn hóa cho toàn dân. Phong trào thi đua với Bắc Lý và Cẩm Bình trong ngành giáo dục phát triển mạnh. Nhiều xã được công nhận là xã có phong trào giáo dục toàn diện, điển hình là Sơn Diệm, Sơn Châu. Ngành Y tế tiếp tục duy trì phong trào thi đua với Vân Đình và Cẩm Long, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, phát triển khá 3 công trình, nhất là các xã Sơn Tân, Sơn Hà, Sơn Châu, Sơn Thịnh, Sơn Kim, Sơn Tây, Sơn Diệm. Hai xã được công nhận đơn vị tiên tiến là Sơn Tây và Sơn Hà. Bệnh viện huyện phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất và chất lượng khám, chữa bệnh, xây dựng phòng mổ bằng gạch ngói, có điện và hệ thống loa truyền thanh phục vụ bệnh nhân. Bệnh viện có 100 giường bệnh, có đủ các khoa: nội, ngoại, phụ sản, nhi, lây, mắt, tai mũi họng, răng hàm mặt. Trong những năm 1973 -1975, tuy đã có những nhân tố mới, những bước phát triển mới, nhưng nhìn chung, công cuộc phát triển kinh tế - văn hóa của Hương Sơn vẫn còn nhiều khó khăn và vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Thiên tai nặng nề, thất thường, liên tiếp quanh năm chưa có biện pháp phòng chống hữu hiệu làm cho sản xuất nông nghiệp rất bấp bênh, sản lượng lương thực không ổn định, kéo theo chăn nuôi phát triển không vững chắc. Tổng sản lượng lương thực chỉ đạt 70% kế hoạch, nghĩa vụ đối với Nhà nước, kể cả nông sản, thực phẩm, đặc sản đều sút kém. Nhiều hợp tác xã phải giải tán trại nuôi lợn tập thể. Tình trạng thiếu đói nhiều lúc còn diễn ra gay gắt, phải dựa vào sự trợ cấp của Nhà nước. Sản xuất thủ công nghiệp nhiều mặt giảm sút. Hợp tác xã cơ khí Thống Nhất sau một thời hoàng kim ngắn ngủi ngày càng đi xuống và đứng trước nguy cơ tan rã, trong khi công cụ còn thiếu, nông cụ cải tiến càng thiếu nghiêm trọng. Các lò rèn ở địa phương thì buông lỏng quản lý, cho thợ tùy tiện làm riêng. Các ngành nghề trong hợp tác xã nông nghiệp được khoán trắng cho xã viên nộp tiền thu điểm, nhất là đối với thợ mộc, gây nên tình trạng mất công bằng, suy bì, tị nạnh, tiêu cực. Nhiều hợp tác xã thủ công chỉ còn tồn tại trên hình thức. Rừng là thế mạnh của kinh tế huyện Hương Sơn, nhưng ngoài việc khai thác, sản xuất của lâm trường, việc khai thác, sản xuất của nhân dân không được tổ chức, không thành phương hướng sản xuất kinh doanh của hợp tác xã. Phong trào trồng


211 rừng kém, năm 1974 chỉ đạt 30% kế hoạch, tỷ lệ cây sống thấp, chỉ đạt 74%. Phong trào trồng cây của các địa phương dần dần mai một. Do đó, dẫn đến tình trạng rừng bị phá hoại, diện tích ngày càng thu hẹp. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, trong thời gian này huyện đã thành lập Lâm Trường trồng rừng và chuyển giao phương thức quản lý của Lâm Trường Hương Sơn từ Trung ương quản lý sang tỉnh quản lý. Công tác cải tạo tiểu thương, quản lý thị trường không chặt chẽ, vừa gây khó khăn cho người muốn làm ăn chính đáng, vừa tạo điều kiện cho tình trạng làm ăn phi pháp phát triển trở lại. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa cao. Chất lượng dạy và học có chiều hướng đi xuống nhanh chóng và nghiêm trọng. Song song với sự nghiệp chi viện tiền tuyến, chiến đấu và phục vụ chiến đấu; nhiệm vụ phát triển kinh tế và văn hóa tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng được Đảng bộ chú trọng lãnh đạo nhân dân và phấn đấu đạt nhiều thành tích. Nguyên nhân dẫn tới tình hình trên, ngoài nguyên nhân khách quan như thời tiết, hậu quả chiến tranh, có nguyên nhân chủ quan là sự lãnh đạo của các cấp bộ Đảng còn nhiều thiếu sót. Tuy coi thủy lợi là biện pháp hàng đầu, nhưng sự lãnh đạo của các cấp, các ngành lại không tập trung đúng mức, dẫn đến tình trạng các công trình làm không dứt điểm, dân bỏ công sức nhiều mà hiệu quả thấp. Đến năm 1975, các công trình thủy lợi chỉ mới tưới được 2.100 ha vụ chiêm (chiếm 40,5% diện tích) và 1.800 ha vụ mùa (49,5% diện tích). Giao thông nông thôn còn hạn chế, nhiều công trình xây dựng không dứt điểm, không vững chắc. Mặt đường, cầu cống thường xuyên bị sạt lở, hư hỏng, gây ách tắc trong giao thông. Quy mô các hợp tác xã nông nghiệp lại quá lớn, trong lúc công tác quản lý lại non kém, bất cập. Các hợp tác xã không xây dựng được quy trình sản xuất, quy trình kỹ thuật, vẫn làm ăn theo kiểu tùy tiện. Do tập trung lãnh đạo phát triển, củng cố hợp tác xã nông nghiệp, các cấp bộ Đảng trở lại tình trạng coi nhẹ sản xuất thủ công nghiệp, lơ là sản xuất lâm nghiệp. Sự lãnh đạo của Đảng bộ còn một số thiếu sót quan trọng là sự buông lỏng kéo dài vai trò của Nhà nước trong việc quản lý sản xuất, quản lý đời sống, quản lý xã hội, còn nảy sinh khuynh hướng không đúng đắn là tập trung mọi mặt cho hợp tác xã nông nghiệp. Hợp tác xã nắm việc quản lý giáo dục, bổ túc văn hóa, y tế, thậm chí quản lý cả hộ khẩu, hộ tịch...


212 Những tồn tại, yếu kém trên là trở lực đối với phong trào cách mạng của huyện và đòi hỏi phải có một thời gian dài để tìm ra biện pháp hữu hiệu khắc phục. 2. Dốc sức chi viện cho tiền tuyến, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Sau ngày hòa bình lập lại, thực hiện chủ trương của cấp trên, Huyện ủy đã kịp thời lãnh đạo các lực lượng vũ trang chuyển hướng hoạt động, vừa củng cố tố chức, nâng cao chất lượng chính trị, hoàn thành huấn luyện, vừa làm nòng cốt, xung kích trong lao động sản xuất, đồng thời nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Đầu năm 1973, lực lượng dân quân tự vệ và quân dự nhiệm được củng cố, sắp xếp lại. Huyện có một tiểu đoàn du kích cơ động được trang bị súng 12,7 ly, 2 đại đội bộ binh. Dân quân xã được tách khỏi du kích. Cơ quan, công, nông, lâm trường có lực lượng tự vệ chiến đấu. Lâm trường Hương Sơn, nông trường Tây Sơn, mỗi nơi có tới một tiểu đoàn tự vệ. Tỷ lệ dân quân tự vệ chiếm tới 10% dân số, có xã như Sơn Bằng, Sơn Tây, Sơn Quang, Sơn Thọ lên tới 12%. Ban chỉ huy xã đội, huyện đội đều được củng cố. Nhiều cán bộ quân đội phục viên được đưa vào các ban chỉ huy. Đồng chí Bí thư Đảng ủy xã trực tiếp làm chính trị viên xã đội, một cấp ủy viên được cử làm xã đội trưởng. Đảng viên được tăng cường vào lực lượng dân quân tự vệ, năm 1973, tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ mới là 28%; năm 1974, lên tới 39,4%. Huyện đội đã tập trung chỉ đạo củng cố các đơn vị còn yếu, làm cho phong trào dân quân, du kích toàn huyện tiến lên khá đồng đều. Dân quân xã Sơn Tiến từ một đơn vị yếu kém đã vươn lên thành đơn vị tiên tiến. Từ đợt “luyện quân mừng Xuân đại thắng” đầu năm 1973, đến các đợt luyện quân khác, năm nào lực lượng vũ trang Hương Sơn cũng đều hoàn thành tốt. Năm 1973, dân quân du kích xã Sơn Tân, đại đội dân quân du kích Trung Trường Lĩnh (xã Sơn Lĩnh), trung đội du kích xã Sơn Hồng được công nhận là “Đơn vị quyết thắng”. Năm 1974, Hương Sơn là đơn vị triển khai huấn luyện sớm nhất và khá nhất tỉnh. Không những đóng vai trò nòng cốt trong việc chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, dân quân du kích đã thành lực lượng đi đầu trong các hoạt động sản xuất, trong giao thông, thủy lợi... Thực hiện chủ trương của Huyện ủy, huyện đội đã tổ chức cho các đơn vị đi xây dựng quê hương kết hợp với huấn luyện như tổ chức đào hói Nầm, tổ


213 chức khai hoang trồng sắn. Trong dịp mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng đầu năm 1975, lực lượng vũ trang Hương Sơn được tặng Cờ Quyết thắng. Đồng thời với việc củng cố dân quân du kích, Huyện ủy đã chú trọng lãnh đạo củng cố tổ chức công an, tăng cường công tác bảo vệ trị an, bảo vệ biên giới. Lực lượng công an phối hợp với dân quân, tự vệ đã luôn làm tròn nhiệm vụ của mình. Năm 1974, ngành công an Hương Sơn được công nhận là đơn vị quyết thắng dẫn đầu phong trào thi đua toàn tỉnh. Dân quân, du kích cũng là một lực lượng hùng hậu bổ sung cho quân chủ lực. Trong thời bình, Hương Sơn vẫn luôn luôn giữ vững truyền thống tốt đẹp về công tác tuyển quân. Thanh niên Hương Sơn luôn luôn phát huy cao độ truyền thống yêu nước, xung phong ra tuyến lửa, nhất là trong những năm tháng miền Nam sôi sục khí thế giết giặc lập công, quyết “đánh cho ngụy nhào”. Năm 1973, toàn huyện tuyển quân vượt chỉ tiêu 3,6%, năm 1974 vượt 7%, vinh dự được nhận lẵng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng tặng lực lượng vũ trang Hà Tĩnh. Đầu năm 1975, để chi viện cho chiến trường Trị - Thiên - Huế trong cuộc tổng tiến công nổi dậy, chỉ tiêu tuyển quân của huyện được giao gấp 3 lần số quân của 2 năm trước cộng lại. Đảng bộ đã phát huy truyền thống, dựa vào các đoàn thể, phát động phong trào “Ba cử, hai nguyện”103, thực hiện một cách dân chủ, công bằng, nhất là khơi dậy tinh thần yêu nước của thanh niên, mặc dù số thanh niên gọi tuyển quân một lần rất lớn, nhưng tuổi trẻ Hương Sơn đã nô nức xung phong ghi tên tòng quân. Toàn huyện, tuyển vượt quá chỉ tiêu và giao quân đúng thời hạn cho Sư đoàn F.316, Binh đoàn 22 và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Ngày hội tòng quân đầu Xuân 1975 của huyện thực sự sôi động không khí tổng tiến công. Các địa phương tổ chức tiễn đưa con em rất rầm rộ, rất long trọng. Anh chị em tân binh đều náo nức ra tiền tuyến. Chính sách hậu phương quân đội đã được các địa phương thực hiện tốt. Hội phụ nữ luôn luôn tổ chức đón tiếp, tiễn đưa ân cần, chu đáo con em mình cũng như các đơn vị bộ đội, dân công đi qua về lại hoặc đóng quân, trú quân trên địa bàn... Đợt vận động nuôi quân cuối năm 1974, đầu năm 1975, toàn huyện đã thu được 70 tạ gạo và 5.000 đồng. 103 Ba cử: Đoàn thể cử, gia đình cử, cơ quan và hợp tác xã cử; Hai nguyện: Gia đình tự nguyện, bản thân tự nguyện.


214 Thực hiện cuộc vận động “Đền ơn trả nghĩa cho thương bệnh binh”, Huyện ủy đã lãnh đạo xây dựng xí nghiệp may mặc cho thương binh ở Sơn Diệm, các hợp tác xã đã huy động 250.000 ngày công, 1.200 m3 gỗ, 17.000 gạch ngói, 350.000 lá kè và 851.442 đồng để xây dựng 141 ngôi nhà tình nghĩa cho Đoàn 70 ở Khe Cò (Sơn Lễ). Hương Sơn là huyện dẫn đầu tỉnh trong cuộc vận động này. Mặt khác, các cấp ủy, chính quyền, các hợp tác xã, đoàn thể địa phương luôn luôn quan tâm, chăm sóc, động viên, giúp đỡ các gia đình bộ đội, gia đình thương binh, liệt sĩ ở địa phương. Nhiệm vụ chi việc tiền tuyến đặt ra hết sức cấp bách và rất to lớn. Trung ương Đảng chỉ thị cho các địa phương, các cấp, các ngành chi viện liên tục, toàn diện, kịp thời cho chiến trường miền Nam và Lào, bảo đảm yêu cầu tác chiến trước mắt và chuẩn bị thời cơ tấn công nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam. Hà Tĩnh vừa là nơi tiếp nhận hàng, vừa là nơi trung chuyển để đi các nơi khác. Hương Sơn là hậu phương trực tiếp của chiến trường Lào. Chiến dịch vận tài DB3 của Trung ương đầu năm 1973 đã tạo chân hàng dự trữ ở phía Tây Nam đường 8 để phục vụ chiến trường Trung và Thượng Lào. Dân công thường xuyên tu sửa đường sá, cầu cống để phục vụ tốt nhất cho quân và hàng ra tiền tuyến. Bước sang năm 1974, với khẩu hiệu “Tất cả cho giải phóng hoàn toàn miền Nam”, nhiệm vụ chi viện chiến trường càng cấp bách và nặng nề hơn. Nhân dân Hương Sơn mặc dù đời sống còn rất khó khăn vẫn luôn luôn làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước theo tinh thần truyền thống “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nghĩa vụ lương thực, thực phẩm năm nào cũng đảm bảo kế hoạch trên giao và luôn luôn phấn đấu vượt mức, khi có điều kiện. Năm1974, toàn huyện đã đóng 320 tấn lạc, vượt 31,3% chỉ tiêu trên giao. Dân công hỏa tuyến luôn luôn đảm bảo đủ số lượng, đúng thời gian. Được giáo dục, động viên chu đáo nên anh chị em luôn luôn phát huy truyền thống của quê hương, nỗ lực thi đua tăng cân, tăng chuyến phục vụ chiến trường. Trên hướng mặt trận phía Tây, không kể mùa mưa hay mùa khô, các đại đội dân công Hương Sơn vừa vận chuyển hàng chục tấn gạo, muối, đạn dược, thực phẩm giúp bạn tạo nên những chân hàng dọc Đường 8, đến tận các đỉnh núi Paca Đông, Xăm Xoọc, hoặc thị trấn Pạc San. Giữa năm 1974, một đại đội dân công đã dũng cảm vượt đèo Côncacha, bám sát phục vụ C1-D50 của chủ lực, có khi cùng bộ đội đột kích vào tận đồn bốt địch.


215 Từ sau Hiệp định Pari được ký kết (1-1973), trước sự phát triển của phong trào cách mạng, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Đảng bộ huyện đã đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Từ thời chiến chuyển sang thời bình, Đảng bộ đã chăm lo củng cố tổ chức, giáo dục cán bộ, đảng viên chống lại những biểu hiện xả hơi, lơ là cảnh giác. Thực hiện Nghị quyết số 195 và Chỉ thị số 192 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng đảng viên, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng, Huyện ủy đã chỉ đạo 7 đảng bộ xã làm thí điểm, sau đó, triển khai trong toàn Đảng bộ. Qua cuộc vận động, các đảng bộ nông thôn đã đưa ra khỏi Đảng 454 người không đủ tư cách đảng viên, băng 9,73% tổng số đảng viên. Các chi bộ cơ quan, trường học đưa ra khỏi Đảng 20 người. Trong hai năm 1973- 1974, toàn huyện kết nạp thêm 94 đảng viên mới (trong đó có 47 nữ). Đến cuối năm1974, toàn huyện có 31 đảng bộ xã, 63 chi bộ cơ quan, trường học trực thuộc với tổng số đảng viên là 5.399 (1.368 đảng viên nữ), trong đó, có 21 đảng viên thế hệ tiền khởi nghĩa, 248 đảng viên thế hệ kháng chiến chống Pháp, 1.585 đảng viên được kết nạp trong 10 năm chống Mỹ, cứu nước. Chất lượng của tổ chức Đảng và chất lượng đảng viên cũng được nâng lên so với trước. Cuối năm 1974, kết quả phân loại cho thấy có 10 đảng bộ khá, 17 đảng bộ trung bình, 4 đảng bộ kém, 39,3% đảng viên phấn đấu tốt, 48% đảng viên phấn đấu chưa tốt và còn 12% đảng viên thuộc loại yếu kém. Thực hiện Nghị quyết số 225 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, thông qua đại hội Đảng các cấp, tổ chức cơ sở Đảng đã được kiện toàn phù hợp với yêu cầu sản xuất. Toàn Đảng bộ có 64 chi bộ được tổ chức theo đội sản xuất, 58 chi bộ theo hợp tác xã và 22 tổ Đảng theo các ngành nghề trực thuộc. Các cấp ủy cũng được kiện toàn, tăng cường thêm cán bộ trẻ và có trình độ văn hóa. Trong cấp ủy, số cán bộ trẻ tăng từ 5 lên 7%, số có trình độ văn hóa cấp II từ 76 lên 80%. Huyện ủy cũng chăm lo hơn đến nhiệm vụ đào tạo cán bộ và bồi dưỡng đảng viên, năm nào cũng có người được cử đi học trường Đảng các cấp. Huyện ủy cũng đã xây dựng được một mạng lưới cán bộ huấn luyện chương trình cơ sở cho đảng viên.


216 Bước sang năm 1975, toàn Đảng bộ được tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết 23 của Trung ương Đảng về “tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng”. Đợt này đã thu hút tới 87% tổng số đảng viên toàn Đảng bộ tham gia. Qua việc tổ chức các đợt học tập nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng về xây dựng và chỉnh đốn tổ chức Đảng một cách sâu rộng từ trên xuống dưới, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng và kết nạp thêm những đảng viên trưởng thành từ trong phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ, Đảng bộ đã lớn mạnh lên rất nhiều. Do vậy, Đảng bộ đã đảm đương được những nhiệm vụ công tác nặng nề trước yêu cầu cấp bách, to lớn của cách mạng, có những mặt đạt thành tích xuất sắc như công tác tuyển quân, chi viện tiền tuyến trong giai đoạn quyết liệt nhất để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tuy vậy, nhìn chung số đảng viên phấn đấu tốt của Đảng bộ còn chiếm tỷ lệ thấp, số đảng viên trung bình còn nhiều. Đây chính là sức ỳ lớn của Đảng bộ, biểu hiện ở ý chí cách mạng giảm sút, quan điểm đấu tranh giữa hai con đường không rạch ròi, lo vun vén cá nhân, đoàn kết nội bộ kém, ý thức chấp hành chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng không cao... Tinh thần đấu tranh xây dựng trong khi thực hiện Nghị quyết số 195 - NQ/TW của Bộ Chính trị về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp lớp đảng viên Hồ Chí Minh và Chỉ thị số 192 - CT/TW của Ban Bí thư về đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi đảng không được tốt, không triệt để và có những trường hợp thiếu vô tư. Các cấp uỷ Đảng chưa thực sự chăm lo xây dựng Đảng, nhất là việc củng cố các tổ chức cơ sở Đảng và tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cốt cán của Đảng. Đối với quần chúng còn nhiều biểu hiện mất dân chủ, chưa phát huy đầy đủ quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Có những hạn chế trên đây trong Đảng bộ trước hết và chủ yếu là do sự tu dưỡng của từng cán bộ, đảng viên chưa cao, chưa thường xuyên. Mặt khác, có những chủ trương biện pháp của trên do không được nghiên cứu, bàn bạc dân chủ, kỹ lưỡng nên chưa phù hợp với tình hình, hoàn cảnh địa phương vẫn được đề ra và bắt buộc phải thực hiện như chủ trương dời dân lên đồi, núi, hoặc biện pháp đóng thực phẩm theo nghĩa vụ vườn... Từ đó, trong từng cấp bộ Đảng đã nảy sinh những ý kiến không thống nhất, dẫn đến sự thiếu đoàn kết, dần dần làm giảm sút ý chí chiến


217 đấu của một số cán bộ, đảng viên. Tình trạng thiếu dân chủ kéo dài từ trong hoàn cảnh chiến tranh sang hòa bình đã hạn chế sức mạnh của Đảng bộ. Mặc dù còn có những hạn chế, yếu kém trên các lĩnh vực tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, công tác xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Song, phải khẳng định rằng những gì Hương Sơn làm được đã đóng góp to lớn vào công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975 “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất đất nước và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Hậu phương lớn cho tiền tuyến. * * * So với chiều dài lịch sử, chặng đường 10 năm tuy ngắn ngủi nhưng lại vô cùng oanh liệt, vẻ vang trong lịch sử của Đảng bộ Hương Sơn Trong mười năm ấy, kẻ thù đã trút xuống mảnh đất này biết bao bom đạn, gây nên bao đau thương tang tóc cho nhân dân và nhiều lúc đã đặt phong trào cách mạng của huyện trước những khó khăn, thử thách hết sức gay go, ác liệt. Thế nhưng, Đảng bộ, quân và dân toàn huyện trước sau như một, vẫn tuyệt đối tin tưởng vào đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn nêu cao ý chí quyền tâm chiến đấu bảo vệ quê hương. Đảng bộ đã lãnh đạo quân dân toàn huyện kịp thời chuyển hướng mọi hoạt động của huyện từ thời bình sang thời chiến, chỉ đạo có hiệu quả hoạt động phòng không sơ tán, bảo đảm đến mức cao nhất an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân, đồng thời, giáng trả đích đáng kẻ thù xâm lược. Trong những năm tháng chống chiến tranh phá hoại, quân dân Hương Sơn đã bắn rơi 3 máy bay Mỹ, phối hợp với đơn vị bạn bắn rơi và bắn bị thương nhiều chiếc khác. Vừa dũng cảm đánh trả máy bay địch, quân dân vừa bảo vệ vững chắc biên giới, bắt gọn tất cả các toán biệt kích, thám báo của chúng. Thành tích nổi bật của quân dân Hương Sơn là đã bảo vệ được con đường giao thông huyết mạch cũng như chân hàng, kho hàng chi viện cho các chiến trường, đón nhận, bảo vệ và giúp đỡ cho các binh đoàn chủ lực, các đơn vị, cơ quan, trường học đến đóng trên địa bàn. Trong khói lửa chiến tranh, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ, các mặt hoạt động của huyện vẫn giữ vững được thế ổn định, không bị xáo trộn, thậm chí, có mặt đạt kết quả cao hơn cả thời kỳ trước chiến tranh.


218 Trong sản xuất nông nghiệp, một số nhân tố mới đã mở ra triển vọng phát triển tốt đẹp, như việc phát triển thủy lợi nội đồng, kết hợp tiểu thủy nông với trung thủy nông, việc du nhập giống cây con mới, phương hướng di dân khai hoang mở rộng diện tích, phát triển trồng màu... Toàn huyện đã đào được 72 hồ đập lớn nhỏ trong những năm tháng chiến tranh đó. Nhiều hợp tác xã đã vươn lên đạt năng suất lúa 5 tấn/ha, trong đó, hợp tác xã Đại Hà luôn giữ vững vị trí dẫn đầu tỉnh về năng suất lúa. Con em Hương Sơn vẫn ngày ngày “đội bom” đến trường. Tỷ lệ học sinh phổ thông so với dân số vào loại cao nhất miền Bắc (chỉ đứng sau hai thành phố lớn là Hà Nội và Hải Phòng). Nét nổi bật trong lịch sử Hương Sơn thời kỳ này là Đảng bộ đã giáo dục, bồi dưỡng và phát huy đến mức cao nhất tinh thần yêu nước của lớp thanh niên sinh ra và trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám. Trong 10 năm (1965-1975), Hương Sơn luôn vượt chỉ tiêu trên giao về tuyển quân, tuyển thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến cả về số lượng cũng như thời gian và là đơn vị dẫn đầu tỉnh về thành tích tuyển quân. Bộ đội, thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến của huyện luôn nêu cao ý chí quật cường, anh dũng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Qua 10 năm, toàn huyện đã có trên 5.000 người nhập ngũ, 700 người đi thanh niên xung phong, hàng vạn lượt người đi dân công hỏa tuyến. Để góp phần làm nên chiến thắng, 2.112 con em Hương Sơn đã vĩnh viễn nằm xuống trên các chiến trường và 1.877 người đã hy sinh một phần xương máu của mình và hàng vạn người dân Hương Sơn đã hy sinh tài sản, xương máu của mình đóng góp cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và chống đế quốc Mỹ, toàn huyện đã có 5 cá nhân, 15 đơn vị được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, hàng trăm Bà Mẹ được phong tặng, truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Đảng bộ, quân và dân Hương Sơn tự hào đã phát huy cao độ lòng yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ và xây dựng vững chắc quê hương, không tiếc sức người, sức của chi viện tiền tuyến, góp phần xứng đáng cùng toàn dân tộc giải phóng hoàn toàn miền Nam ruột thịt ngày 30-4-1975, thống nhất đất nước. Vinh dự và tự hào lớn nhất là ngày 22-12-


219 1994, nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân huyện Hương Sơn là huyện nằm trong tốp đầu của 11 huyện trong Quân khu 4 được Nhà nước tuyên dương danh hiệu cao quý “Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Đảng bộ Hương Sơn ngày càng vững vàng và có sự trưởng thành vượt bậc. Những bài học kinh nghiệm từ thành công và hạn chế của phong trào cách mạng trong giai đoạn lịch sử 10 năm chống Mỹ, cứu nước mãi mãi có giá trị, góp phần soi sáng bước đường đi lên của Đảng bộ và nhân dân Hương Sơn trong những chặng đường cách mạng tiếp theo.


Click to View FlipBook Version