1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 1
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 2 Hoa Thịnh Đốn ngày 1 tháng 4 năm 2024 Kính thưa quý Văn Thi hữu, Tháng tư thường gợi lại kỷ niệm đau buồn trong những ngày chúng ta mất miền Nam Việt Nam vào năm 1975. Mặc dù đã qua 49 năm niềm đau ấy vẫn day dứt mãi trong tâm hồn chúng ta, không thể nào quên được. Hãy viết để chia nhau nỗi buồn; đồng thời, ôn lại những thành công mà chúng ta bền bỉ đạt được sau những chặng đường gian truân. Thay mặt Ban Chấp Hành VBVNHN, Cung Lan chân thành cảm ơn sự tham gia đóng góp của quý Văn Thi hữu. Kính chúc quý Văn Thi hữu luôn dồi dào sức khỏe, an vui và sáng tác đều đặn. Quý mến, Cung Thị Lan Chủ tịch VBVNHN 2024-2026 Đăng Nguyên Phó chủ tịch VBVNHN 2024-2026 Erlinda Thuỳ Linh Phó chủ tịch VBVNHN 2024-2026 Lê Thị Ý Thủ quỹ VBVNHN 2024-2026 Lê Thị Nhị Tổng Thư Ký VBVNHN 2024-2026 Diêm Trân Kratzke Uỷ viên dịch thuật VBVNHN 2024-2026 Chủ tịch Cung Thị Lan Phó chủ tịch Erlinda Thuỳ Linh Thủ quỹ Lê Thi Ý Tổng thư ký Lê Thị Nhị Uỷ viên dịch thuật Diêm Trân Kratzke Phó chủ tịch Đăng Nguyên
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 3 TƯỞNG NIỆM: Cố Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam - 48 năm tạ thế của Thi Bá Vũ Hoàng Chương (1976/2024) (VBVN - Tiền thân của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại ) Kính mong được Ban Chấp Hành Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại đăng vào Đệ Nhị Tam Cá Nguyệt San của VBVNHN. Xin đa tạ. Trước hết, xin cho phép tôi tán thán công sức của đương kim Chủ tịch VBVNHN Cung Thị Lan, đã có sáng kiến tuyệt vời là ngưng không cập nhật bài vở của Văn Thi hữu như trước. Thay vào đó là làm một bộ Tam Cá Nguyệt San, và sẽ cho đăng bài của tất cả Văn Thi hữu theo từng quyển I - II - III - IV như yêu cầu được đăng của quý Văn Thi hữu. Tôi thật sự rất mừng với sáng kiến nầy, bởi bài vở của từng tác giả sẽ cô đọng theo chủ đề như Xuân, Hạ, Thu, Đông hoặc thêm một số có liên quan đến những chi tiết khác như lịch sử, văn học, nghệ thuật...v…v…- Và như vậy, bài vở sẽ được tác giả chọn lọc chu đáo và chi tiết hơn, đồng thời bài của mỗi tác giả sẽ khiến độc giả thích thú bởi đa dạng, phong phú chủ đề nhưng lại dễ tìm đọc khi muốn. Hơn nữa, mỗi tác giả sẽ không bị loãng do đơn lẻ ít ỏi có thể làm độc giả không mấy quan tâm, hoặc không tìm đọc trong Trang Cá Nhân, đồng thời cũng làm tác giả hầu như không mất nhiều thì giờ do phải viết thường ngày, trong khi vẫn còn bộn bề bởi cuộc sống. Tiếp theo, tôi xin được nói lời xin lỗi và tri ân cựu Chủ tịch Dương Thành Lợi, vì mãi đến bây giờ tôi mới đọc được bài viết: VĂN BÚT VIỆT NAM - Sử Lược 1957 - 2020 - Được cựu Chủ tịch gởi vào Diễn đàn ngày 24 tháng 6, 2023, nhưng do tôi phải tập trung để hoàn thành việc in thêm 2 quyển Thơ Đường Luật, nên chưa có thì giờ đọc kỹ. -Và sau khi đọc đi đọc lại tập tài liệu quý giá nầy, tôi mới nhận ra được là tôi thiếu sót biết bao nhiêu nếu không hiểu chút gì về lịch sử của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, nơi mà tôi đã gắn bó nhiều năm qua…Càng đọc, càng thấu hiểu và thật nể phục công sức tìm tòi nghiên cứu tài liệu của cựu Chủ tịch Dương Thành Lợi để hoàn thành tác phẩm quý kể trên. Trân trọng. ThanhSong KimPhú
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 4 TƯỞNG NIỆM: - CỐ CHỦ TỊCH VĂN BÚT VIỆT NAM (1969 / 1973 - Tiền thân của VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI hiện tại) - Thi bá, Giáo sư VŨ HOÀNG CHƯƠNG - Tạ thế 48 năm (1976/2024) Duyên may đưa đến kịp thời khiến tôi viết trang bài nầy là tình cờ tìm thấy lại các bài thơ tôi đã xướng, hoặc họa cũng khá lâu về Giáo sư Vũ Hoàng Chương, bậc Thi Bá mà Thơ Văn cùng cuộc đời đầy tiết tháo của một Kẻ Sĩ trước bạo quyền hay tù đày cũng không lay chuyển được tấm lòng son sắt, quyết giữ gìn trong sáng Tiếng Việt của một Giáo Sư Văn Chương yêu nước: Thầy Vũ Hoàng Chương. - Thầy thật xứng đáng cho lớp hậu sinh chúng tôi thương tiếc và kính ngưỡng vô cùng. Thật tình mà nói, trước giờ không biết bao nhiêu bài viết rất hay, đầy đủ chi tiết về Giáo sư, của các tác giả từng là những Văn Thi sĩ thành danh đã lâu, nên quả tình tôi không hề dám bon chen viết thêm, chỉ là mạn phép gom góp lại một số tài liệu cùng hình ảnh liên quan đến Giáo sư trên trang Internet, rồi trích đoạn hay tóm lượt một số chi tiết quan trọng, để khi tưởng nhớ về Giáo sư, tôi dễ dàng đọc, không phải mất nhiều thời gian tìm kiếm… Bên cạnh đó, tôi xin gởi kèm một số bài thơ mà tôi mạo muội cẩn họa cùng Giáo sư và các bằng hữu (gồm 10 đoạn Liên hoàn họa Tá vận bài Thập Thủ: Nhớ Cố Nhân của Giáo sư, cùng 7 bài lẻ khác)…để vọng tưởng về một vị Cựu Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam (tiền thân của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại hiện tại) một bậc tài hoa bạc mệnh sinh bất phùng thời của tiền bối cố Chủ tịch, một trong những vị sáng lập, duy trì và phát triển không ngừng để giữ vững Diễn đàn Văn Bút Việt Nam, tiền thân của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại hiện hành. Chẳng những vậy, Thi bá Vũ Hoàng Chương còn là một vị Giáo sư dạy về bộ môn Văn Chương, được không biết bao nhiêu thế hệ học trò kính ngưỡng Thầy. Tôi rất mừng là may mắn được tham dự vào một Diễn đàn có tầm cở giá trị về Văn Chương như thế nầy, để không mai một ước mơ và cùng được học hỏi, giồi mài kiến thức để hoàn thiện mình hơn, hầu sau nầy lưu lại cho con cháu mình những bài viết có sự trau chuốt hoặc tìm hiểu cặn kẽ, chỉnh sửa thận trọng từ ngữ trong mỗi bài Thơ/Văn cho bớt lỗi, cũng là điều đáng phải hết sức cố gắng. Do sống xa quê hương lúc tuổi xế chiều, thường hoài niệm về cố thổ, chỉ biết dùng Thơ-Văn để ký gởi tâm sự, và vì hầu hết trong chúng ta, trong đó có
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 5 tôi, không phải là những Văn-Thi sĩ thành danh, nên càng thấy vinh dự hạnh phúc khi được cùng chung trong một Diễn đàn với các vị là những bậc Thầy trong Văn Chương Thi Phú nầy, khiến tôi cũng không dám buông thả mình khi viết lách, với niềm ao ước sẽ nối gót tiền nhân, ráng sức giữ gìn trong sáng Ngôn Ngữ Việt giàu đẹp của chúng ta, và mong mỏi Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại ngày một rực rỡ hơn, để kịp chen chân cùng với Văn Bút Quốc Tế, nên tôi đã rất yêu thích tác phẩm của tiền nhân, và cố học hỏi thêm ở các Thi Văn hữu lão thành trên trước, cố gắng đóng góp chút phần nhỏ nhoi của mình. Kính mời quý vị nhàn lãm. Xin tri ân và kính lời chúc bình an đến tất cả quý Văn Thi hữu. Trân trọng. ThanhSong KimPhú
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 6 Thi Bá Vũ Hoàng Chương Xướng Trọn đời Thi Bá Vũ Hoàng Chương Ông lái đò nơi chốn học đường Giáo dục nhân tài cho đất nước Lưu truyền tri thức giúp quê hương Sơn hà đổi chủ bao thê thảm Tổ quốc thay ngôi bấy đoạn trường Gìn giữ văn chương ngôn ngữ Việt Ngàn thu tiết tháo rạng ngời gương ThanhSong ntkp
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 7 Đề Miếu Thi Vương Vũ Hoàng Chương Xướng Ngậm ngùi tưởng nhớ Vũ Hoàng Chương Thi phú nào thua thuở Thịnh Đường Thất thế không theo phường thảo khấu Suy thời chẳng khuất lũ sơn dương Hiên ngang chỉ trích nào e sợ Dõng dạc chê bai há nhún nhường Nước mất thân tàn theo vận nước Muôn đời nổi tiếng “Đức Lưu Phương” Đốc sự Nguyễn Thành Nhơn (Cựu Phó Tỉnh Trưởng Biên Hòa) Nhớ Thầy Vũ Hoàng Chương Họa 1 Văn Lang trò cũ nhớ Thầy Chương Kỷ niệm nào quên thuở học đường Bút thánh như vầng mây bảng lảng Thi thần tựa khúc nhạc du dương Lời ngay góp ý không kiêng nể Ý thẳng bình thơ chẳng nhịn nhường Ách nước tai nhà cam tuyệt mạng Danh lừng tiếng dội khắp muôn phương Hoàng Thứ Lang (Sư phụ của KP)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 8 Nhớ Thầy Vũ Hoàng Chương Họa 2 Bồi hồi vọng tưởng Giáo Sư Chương Khí tiết thanh cao thẳng một đường Kịch diễn lòng son ngời bóng nguyệt Thơ trau dạ sắt rạng vầng dương Tù đày chiếu rách tâm không chuyển Sống mái cơm ôi trí chẳng nhường Vận nước suy tàn thân bạc mệnh Danh thơm lan tỏa khắp mười phương ThanhSong ntkp
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 9 Tiểu sử Giáo Sư Vũ Hoàng Chương: Ông sinh ngày Mồng 1 tháng Tư Ất Mão (1915) tại Nam Định - Quê quán Hưng Yên, thuộc gia đình khoa bảng giàu có. Bố làm tri huyện, Mẹ hay chữ, biết sử dụng đàn Nguyệt. 1937: Tú tài Pháp, Phần I môn Cổ ngữ. 1938: Tú tài Pháp, Phần II môn Toán 1938/1939: Học Luật tại Hà Nội 1940: Tự xuất bản Thơ Say 1941/1942: Học ban Toán Đại cương tại Đại học Khoa Học Hà Nội 1942: Dạy học, cùng lập ban kịch và diễn kịch. 1943: Xuất bản tập Mây. 1944:-Xuất bản kịch thơ (3 vở): Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp. - Cưới bà Đinh Thục Oanh, chị của Thi sĩ Đinh Hùng. 1948: Xuất bản tập thơ Lửa cùng với Đoàn Văn Cừ, Thái Nguyên. 1954: X/bản Rừng Phong- Di cư vào Nam (trước hiệp định Genève) 1959: X/bản Hoa Đăng, đoạt giải thưởng toàn quốc về Thơ. Tham dự Hội nghị Thi Ca Quốc Tế tại Bỉ (Tháng 9) 1960: Tái bản chung tập thơ Say + Mây - X/bản Cảm Thông. Tái bản Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp. 1961: X/bản tập kịch thơ: Tâm Sự Kẻ Sang Tần. Tập thơ Tâm Tình Người Đẹp. 1962: Tự xuất bản tập Trời Một Phương 1963: X/bản tập Thi Tuyển - Sáng tác Lửa Từ Bi 1964: Tham dự Hội nghị Văn Bút Á Châu tại Bangkok, Thailand. 1965: Tham dự Hội nghị Văn Bút Quốc Tế tại Bled, Nam Tư cũ. 1966: Xuất bản tập Ánh Trăng Đạo. 1967: Tham dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế tại Côte d’Ivoire (Phi Châu) - Xuất bản tập Bút Nở Hoa Đàm. 1968: Xuất bản Nhị Thập Bát Tú tập I - Tập II. 1969 - 1973: Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. 1970: Xuất bản Ta Đợi Em Từ 30 Năm. In 2 lần. Tái bản tại Mỹ. Loạn Trung Bút, tùy bút, văn diễn thuyết.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 10 1971: Xuất bản Ngồi Quán 1972: Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai - Tuổi Học Trò 1974: Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau - Ta Đã Làm Chi Đời Ta. * Một số Thi phẩm của Giáo sư Vũ Hoàng Chương được dịch sang tiếng Pháp, Anh, Đức…. 1976: * Ngày Thứ Ba 13 tháng 4 Dương lịch, 1976 (ngày trăng chưa tròn) nhằm 14 tháng 3 1976 Ất Mùi, tháng Nhâm Thìn, năm Bính Thìn, Giáo Sư bị bắt giam tại khám Chí Hòa. * Ở trong tù, bài thơ: Trong Khám Chí Hoà, được Giáo sư viết đúng 1 tháng sau ngày bị bắt. * Vào ngày 6/9/1976 Dương Lịch (13/8/1976 Âm lịch) Giáo sư từ trần 5 ngày sau khi được thả (với 5 tháng biệt giam). Đám tang thật hiu quạnh do thời cuộc, chỉ có vài Thi Văn hữu cùng gia đình đưa tiễn ông về cõi vô cùng.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 11 Trong Khám Chí Hòa Xướng Thấm thoắt vào đây tháng đã tròn, Lông hồng gieo xuống nhẹ như non. Một manh chiếu nát, thân tơi tả, Nửa bát cơm hôi, xác mỏi mòn. Ngày đến bữa ăn thường nhớ vợ, Đêm về giấc ngủ lại thương con. Dẫu bao nước chảy qua cầu nữa, Hồ dễ gì phai được tấc son! Vũ Hoàng Chương 1976 Trong Khám Chí Hòa Cẩn họa Mười bốn vầng trăng dẫu chửa tròn Màn đêm bàng bạc đỉnh đầu non Cơm tù dạ thẳng tình khôn đổi Chiếu ngục lòng ngay nghĩa khó mòn Lắm lúc u hoài thương phận vợ Nhiều khi khắc khoải xót đời con Giang sơn gấm vóc dù thay chủ Ngọc nát tâm nguyền giữ phẩm son ThanhSong KimPhú
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 12 Cảm Đề: Hoàng Hạc Lâu & Nguyễn Du Đã bao giờ có hạc vàng đâu Mà có người tiên để có lầu Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở Làm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu Trăng gió hão huyền như khói sóng Nồi kê chín tới nghĩ mà đau! Vũ Hoàng Chương - Xướng Cảm Đề : Hoàng Hạc Lâu & Nguyễn Du Đời dù biết chẳng có tiên đâu Vẫn cứ ngâm thơ Hạc với Lầu Thôi Hiệu băn khoăn Hoàng Hạc trước Nguyễn Du khắc khoải Thúy Kiều sau Ngàn Thu hạc mãi thương hiên cũ Vạn cổ tiên luôn vướng kiếp sầu Bào ảnh phù vân là huyễn mộng Thi nhân vọng tưởng để hồn đau! ThanhSong ntkp - Cẩn họa
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 13 Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hiệu với Vũ Hoàng Chương & Tản Đà * Hoàng Hạc Lâu Bản dịch: Xưa hạc vàng bay vút bóng người, Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi. Vàng tung cánh hạc đi đi mãi, Trắng một màu mây vạn vạn đời. Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi. Gần xa, chiều xuống, đâu quê quán ? Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi! Vũ Hoàng Chương *
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 14 Hoàng Hạc Lâu Bản dịch: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tản Đà Cảm Tác HOÀNG HẠC LÂU Hạc Vàng ai cỡi vút xa bay Hoàng Hạc Lâu kia nỗi nhớ đầy Quạnh quẽ sông dài sương trắng phủ Hắt hiu triền vắng liễu buồn lay Bãi Anh Vũ sáng tươi bờ cỏ Bến Hán Dương chiều bạc biển mây Hải giác thiên nhai người có thấu Em nơi cố quận ngóng đêm ngày ThanhSong KimPhú Bản thủ bút của nhà thơ Vũ Hoàng Chương tặng nhà phê bình thơ Đặng Tiến năm 1973. (Đăng trong Diễn đàn Phi Dũng, Ngày 03-23-2012)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 15 —————————————————————— HOÀNG HẠC LÂU Tác giả : Quỳnh Giao Sinh tiền, Vũ Hoàng Chương là thày dạy Việt văn của Cung Tiến. Ông sinh năm 1916, trước người nhạc sĩ tên tuổi này 22 năm. Nhưng với thói quen khoáng đạt của một nhà thơ, ông không hề câu nệ, vẫn coi Cung Tiến như người bạn vong niên hơn là một đứa học trò. Có lần ông nói đùa. Rằng Cung Tiến phổ thơ biết bao người mà chưa từng phổ thơ Vũ Hoàng Chương! Cung Tiến không quên điều ấy nhưng biến cố 1975 đã ụp trên cả nước và người nhạc sĩ thì lưu vong ra ngoài, còn nhà thơ kẹt lại ở bên trong với những Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Xuân Ninh, Phan Lạc Phúc, v.v.... Trong nỗi bi phẫn về cảnh bạn bè tán lạc, Vũ Hoàng Chương đã cảm dịch bài thơ Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu, rồi nhờ bạn bè chuyển ra ngoài, đến tay Cung Tiến khi ấy còn ở Canberra bên Úc... Thôi Hiệu là nhà thơ khét tiếng thời Thịnh Đường vào đầu thế kỷ thứ tám. Bài thơ của ông khiến một người như Lý Bạch còn nghẹn lời không dám viết về lầu Hoàng Hạc và được Kim Thánh Thán ngợi ca là "bút pháp tuyệt kỳ, tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Luật". Đấy cũng là bài được người mình dịch sang Việt ngữ nhiều nhất. Có người đếm ra hơn bốn trăm bản dịch khác nhau, từ Tản Đà, Ngô Tất Tố đến Trần Trọng Kim, Trần Trọng San, Nguyễn Đức Hiển, v.v... Với Cung Tiến và bằng hữu thì bài cảm dịch của Vũ Hoàng Chương là một sự tuyệt mỹ vì tâm cảnh mọi người vào lúc đó. Từ bên ngoài, nhận được bản dịch, Cung Tiến nhớ thầy, nhớ các bạn và nhớ lại cung cảnh xa xưa nên đã xuất thần phổ nhạc rất nhanh rồi tìm cách gửi về ngay năm sau. Nhưng không kịp nữa!
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 16 Vũ Hoàng Chương bị cầm tù và bị kiệt sức mới được thả ra và tạ thế sau đó năm ngày nên không bao giờ được nghe ca khúc này. Bây giờ nhớ lại thì xin ghi bài cảm dịch của ông để chúng ta khỏi quên và cùng thưởng thức: Xưa hạc vàng bay vút bóng người Đây lầu Hoàng hạc chút thơm rơi Vàng tung cánh hạc đi đi mãi Trắng một màu mây vạn vạn đời Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi Gần xa chiều xuống nào quê quán Đừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi... Khi còn tại thế, ông Nguyễn Đức Hiển tại Houston, Texas, viết rằng bản dịch của Vũ Hoàng Chương "còn hay hơn nguyên bản, mà nguyên bản vốn đã hay tót vời". Ông Hiển có thể nói không ngoa vì bản thân đã dịch đi dịch lại mười mấy lần bài thơ của Thôi Hiệu! Ông còn dụng công so sánh hai câu thực của nguyên bản, gồm sáu thanh trắc liên tiếp: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du với câu "thực" do Vũ Hoàng Chương để lại mà ông cho là ảo diệu hơn: Vàng tung cánh hạc đi đi mãi Trắng một màu mây vạn vạn đời... Khi đọc lại, làm sao không ngậm ngùi với những chữ tuyệt diệu như "vút" bóng người, hay chút "thơm" rơi...? Và câu kết, "Đừng giục cơn sầu nữa, sóng ơi!", nghe thê thiết hơn vần lục bát của Tản Đà: Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai! Cung Tiến đưa Hoàng Hạc Lâu vào nhạc với phần hòa âm soạn cho dương cầm và viết trên cung Ré giáng Trưởng, nhịp 4/4 chậm rãi tha thiết - andantino - và
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 17 ý nhị. Piano mở đầu bằng hai ô nhịp, hai mesures, viết lối Arpège chùm hai nốt, thánh thót, êm đềm. Rồi lời ca cất lên bồi hồi day dứt như một truyện kể, mà dùng phép tả cảnh để tả tình: Xưa hạc vàng bay vút bóng người... Đây lầu Hoàng hạc chút (ứ ư) thơm rơi... Đàn piano lại rải, nghe như tiếng chim hót, và cứ thế ca khúc dẫn người nghe vào một bức tranh cổ, với cánh hạc vàng ẩn hiện sau vầng mây bạc có nắng chiếu, có cây bến Hán Dương u buồn và cỏ bờ Anh Vũ vắng vẻ, chẳng còn ai chơi... Đoạn nhạc chuyển tiếp nỉ non đan lượn những ngậm ngùi rồi chợt mở ra tâm sự kẻ tư hương, nhớ quê, nhớ bạn... Gần xa chiều xuống nào quê quán Đừng giục cơn sầu nữa (ư ứ), sóng (à à) ơi... Rồi đàn lại buông arpège hai nốt nhẹ nhàng, lãng đãng chìm khuất, mơ hồ như cánh hạc vàng tan trong khói sóng... Toàn bài, Cung Tiến dùng âm giai ngũ cung đầy chất Đông phương với nét nhạc thanh thản, nhuốm vẻ Lão Trang và phảng phất giai điệu Claude Debussy trong bài "Clair de Lune". Cung Tiến rất chuộng Debussy khi nhạc sĩ người Pháp này khám phá nhạc Á Đông vào đầu thế kỷ trước. Debussy cũng dùng hợp âm ngũ cung và cũng lấy "Arpège" rải tay trái và đưa ra một hợp âm lạ tai mà hài hòa êm ái.... Bài "Hoàng Hạc Lâu" là viên ngọc quý của thơ Đường. Bản dịch Vũ Hoàng Chương là bài chuyển ngữ mang tâm sự của một thi hào trong hoàn cảnh bi đát của đất nước. Ca khúc Cung Tiến là sự kết hợp lạ kỳ của tình cảm và nhạc thuật để nối liền ngần ấy nét đẹp của thơ, của nhạc. Điều hơi tiếc là ít người biết hoặc trình bày ca khúc trác tuyệt này để đời sau còn nhớ Vũ Hoàng Chương và dòng nhạc quý phái của miền Nam chúng ta khi mình đã mất hết...
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 18 Lần cuối mà miền Nam tự do có buổi sinh hoạt để vinh danh Vũ Hoàng Chương là vào tháng Ba năm 1975, tại phòng trà Khánh Ly do Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền tổ chức. Đã 35 năm tròn rồi. Sau đó là cảnh chia ly tan tác. "Vàng tung cánh hạc"... như ánh chớp chợt lóe rồi vụt tắt. Dư âm còn lại là tiếng nhạc lãng đãng trong chiều tà. Sau đấy là cõi tối đen của thơ và nhạc.... (Quỳnh Giao viết bài này ngày 27 Tháng 10, 2010) Hình bên dưới : trang đầu ca khúc Hoàng Hạc Lâu do Cung Tiến gửi về tặng bằng hữu còn kẹt ở nhà: Phạm Đình Chương, Thái Thanh, Nguyễn Xuân Nghĩa.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 19 Vọng Cố Hương (Tung Hoành Trục Khoán Vận) * NHẬT quang chiếu rọi xuống chân cầu MỘ mẹ mồ cha cách biệt lâu HƯƠNG lý trùng trùng đau xót dạ QUAN san vời vợi tái tê đầu HÀ Cừ giao đấu gia thù nặng XỨ Quảng tranh giành quốc hận sâu THỊ tứ biên cương đều khốn khổ YÊN BA GIANG THƯỢNG SỬ NHÂN SẦU ThanhSong ntkp * Họa (mượn 2 câu 7 + 8 trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, bản Hán Việt: Nhật Mộ Hương Quan Hà Xứ Thị - Yên Ba Giang Thượng Sử Nhân Sầu) ————————————————————
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 20 NHỚ CỐ NHÂN (Thập Thủ Liên Hoàn) Xướng 1. Khanh của Hoàng ơi lửa bốn phương Khói lên ngùn ngụt chén tha hương Nghe vang sóng rượu niềm ly tán Chạnh xót nòi thơ buổi nhiễu nhương Biết có đêm nào trăng Thủy Tạ Ngâm cùng ai nữa kịch Anh Nương Dệt khôn thành mộng tơ tầm rối Mây cách non Vu nhớ lạ thường 2. Mây cách non Vu nhớ lạ thường Chiêm bao lẩn quất bướm mê đường Tình si hận đã mành ngưng máu Người ngọc hoa chưa bóng gợn tường Mấy thuở còn thơm trang Dị Sử Muôn đời vẫn đẹp gái Tây Sương Cố Đô một buổi lầm chinh chiến Vầng nguyệt chia hai vạn dặm trường 3. Vầng nguyệt chia hai vạn dặm trường Đêm sầu lữ quán tóc pha sương Xanh xanh cỏ ngút bao hàng lệ Bằn bặt hoa chìm nửa phiến gương Liễu biếc loi thoi bờ rủ oán Sen vàng lững đững gót bay hương Chờ nhau chẳng gặp nhau trong mộng Vẳng tiếng gà lên chợt nhớ thương
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 21 4. Vẳng tiếng gà lên chợt nhớ thương Dòng châu hoen gối đẫm canh trường Theo màu ngọc tỏ ghê màu tuyết Đè chữ “tư” nằm cạnh chữ “tương” Cả một mùa say duyên nghệ thuật Nửa năm trời lỡ hẹn yêu đương Bèo đây hoa đấy dù trôi giạt Hai ngả quỳ tâm vẫn hướng dương 5. Hai ngả quỳ tâm vẫn hướng dương Kẻ đầu sông kẻ cuối sông Tương Kìa mây kìa sóng lòng xa gửi Này kịch này thơ nợ trót vương Tiên dịch còn thơm lời ký chú Thần giao chẳng lẽ thuyết hoang đường Trang thơ đọc lại bài trao ý Vần dậy men nồng nhạc chuyển hương 6. Vần dậy men nồng nhạc chuyển hương Nét thon mềm gợi vóc băng sương Hôn nhoè cặp má hoa bên cửa Ghì hẫng đôi tay nguyệt trước giường Tỉnh, bẽ bàng duyên, vò nát mộng Nằm, điên cuồng nhớ, đập tan gương Đêm nào, Khanh nhỉ! tình ta mới Hà Nội đèn treo đỏ phố phường
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 22 7. Hà Nội đèn treo đỏ phố phường Sóng hồ trăng giãi bập bềnh sương Một trời thu ngủ men hoàng cúc Đôi bạn tình say mộng viễn phương Kìa ý đàn trao mười nẻo gió Đây lòng hoa mở bốn mùa hương Ôi thôi, khoảnh khắc dâu thành bể Gươm báu rùa thiêng cũng đoạn trường 8. Gươm báu rùa thiêng cũng đoạn trường Nhớ nơi kỳ ngộ hứng thê lương Sao nằm quạnh quẽ mờ sông Hán Sầu chất bao la hẹp điệu Đường Lòng nghệ sĩ mơ tình tuyệt mỹ Cây Hàm Dương cách khói Tiêu Tương Chia ta đằng đẳng năm già nửa Một trái tim mềm trĩu nhớ thương 9. Một trái tim mềm trĩu nhớ thương Ngờ đâu tan tác cánh uyên ương Kiếp phiêu bồng ấy đời thi bá Nẻo định tình kia bụi chiến trường Sông thẳm non cao hồn Thục Đế Mây gầy mưa quạnh giấc Tương Vương Ai đi chốn cũ giùm ta nhắn Rằng kẻ vào Ngô nhớ Lạc Dương
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 23 10. Rằng kẻ vào Ngô nhớ Lạc Dương Lòng băng chẳng thẹn với đài gương Ngâm câu chiết liễu còn sa lệ Ngược nẻo tiền thân ướm hỏi đường Khói ngút ba canh hồn bướm lẩn Tơ chia mười mối ruột tầm vương Đèn hoa chợt thắm môi hàm tiếu Khanh đã về trong lửa Túy hương Vũ Hoàng Chương (1947)* (Tặng kịch sĩ Tuyết Khanh) * Theo hồi ký của Bà Đinh Thục Oanh phu nhân của Ông, Thi Bá V.H.Chương làm bài nầy giữa năm Đinh Hợi (1947)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 24 Nhớ Cố Hương (Thập Thủ Liên Hoàn) Cẩn họa - Tá vận 1. Đêm dài trăn trở kiếp tha phương Gió chuyển ân tình vọng cố hương Đỉnh núi trăng vờn mây bảng lảng Lưng đồi khói phủ móc nhương nhương Thương cha vóc hạc không người đỡ Xót mẹ hình mai chẳng kẻ nương Nhớ thuở chia tay vì quốc nạn Còn mơ mộng hão chuyện phi thường 2. Còn mơ mộng hão chuyện phi thường Luyến tiếc ngày thơ mọi nẻo đường Nhặt lá vàng rơi bên góc phố Cài hoa tím rụng ở ven tường Bâng khuâng nắng sớm nào e nắng Thờ thẫn sương chiều há ngại sương Hạnh phúc bên Thầy Cô bạn hữu Yêu hoa phượng đỏ rợp sân trường 3. Yêu hoa phượng đỏ rợp sân trường Thích lá trên cành đẫm giọt sương Cuối hạ nhìn mây vờn bóng nguyệt Đầu thu ngóng gió gợn đài gương Mà mong dáng ngọc đừng phai sắc Lại ước da ngà chớ nhạt hương Bất lụn canh tàn trau chuốt chữ Nâng niu lá thắm tặng người thương
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 25 4. Nâng niu lá thắm tặng người thương Buổi sáng cùng chung đoạn đến trường Đẹp nghĩa xin chờ như bến Thước Tròn duyên hãy đợi tựa dòng Tương Bền lòng nguyện ước dù khôn đặng Chặt dạ thề bồi dẫu khó đương Vật hoán tinh di tình vững chãi Quan san diệu vợi mấy trùng dương 5. Quan san diệu vợi mấy trùng dương Tự thuở giang đầu biệt bến Tương Thương buổi ly tan sầu đoạn đoạn Nhớ thời chia cắt khổ vương vương Người lìa cố thổ không chung lối Kẻ phải tha phương chẳng trọn đường Nguyệt lặn tâm tư đời viễn khách Tròn thâu khắc khoải mộng hoài hương 6. Tròn thâu khắc khoải mộng hoài hương Bến quạnh sông buồn phủ khói sương Cánh tựa chim bay vờn trước bão Người y bóng dọi xuống bên giường Đớn đau chẳng thiết màu son phấn Khổ sở không màng phiến lược gương Lòng muốn chùng theo từng phím nhạc Buồn thay điệu tấu bát âm phường
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 26 7. Buồn thay điệu tấu bát âm phường Gặp buổi đông về ngập tuyết sương Lạt lẽo người thân miền khách địa Hững hờ kẻ lạ chốn tha phương Phòng đơn quạnh quẽ ta đùa bóng Gác vắng tiêu điều khói cợt hương Những tưởng trăm năm tròn gối mộng Ngờ đâu cách biệt giấc miên trường 8. Ngờ đâu cách biệt giấc miên trường Trời nỡ nào trêu khách thiện lương Dạ ngọc gìn tâm khôn lạc lối Lòng băng giữ ý khó sai đường Chàng vui thanh thản đầu sông Giác Thiếp tủi u hoài giữa bến Tương Gói ghém ân tình trong kỷ niệm Càng thêm tiếc nuối bởi còn thương 9. Càng thêm tiếc nuối bởi còn thương Chùng phím đàn uyên tử biệt ương Vọng tưởng đường xưa khi đến lớp Hoài mơ lối cũ lúc qua trường Một đời nghĩa trọng lòng lưu luyến Trọn thuở tình sâu dạ vấn vương Bến liễu sương mờ chim gọi bạn Sầu buông lặng lẽ bóng tà dương
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 27 10. Sầu buông lặng lẽ bóng tà dương Ráng ửng sông chiều sáng tợ gương Chẳng trách hờn ai rời thế tục Còn vui chúc kẻ đến thiên đường Mây như thảm bạc êm đềm trải Nắng tựa tơ vàng óng ánh vương Người dẫu vô thường ta lại nhớ Từng đêm ngóng đợi dịp hồi hương… ThanhSong ntkp CA.Oct/11/2022 Cảm tác "Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai" * Xướng Khanh của Hoàng ơi mỏng mảnh vai Thu ba sóng mắt ẩn mày ngài Người làm Sâm rạng chiều hôm tối Ta chịu Thương tàn buổi sớm mai Bởi trọng tài năng tình thắm thiết Vì yêu chí hướng nghĩa lâu dài Khôn cùng chung bước đành đôi ngã "Đời vắng em rồi say với ai" ThanhSong ntkp * "Đời vắng em rồi say với ai " Thơ của Giáo sư Vũ Hoàng Chương
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 28 THÁNG TƯ ĐEN Mỗi độ tháng Tư về trên đất khách Tôi nhớ về thời quá khứ đã qua Ba mươi tháng Tư, mất nước tan nhà Đất khách, tôi ôm mối hờn vong quốc Cuộc đổi đời, tôi xang bang xất bất Đàng thê nhi nặng gánh toát mồ hôi Vài chục năm sau hiền phụ qua đời Gác trọ Nhà Già, mình tôi chiếc bóng Trên bốn mươi năm mất nước tan nhà Nhìn lại mái đầu, tóc trắng như hoa Mỗi tháng Tư sang, tâm tư thổn thức Buồn phận mình, người thất quốc ly gia. Hoa Đô(Lockwood House) Trần Công/Lão Mã Sơn
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 29 Tháng Tư với người lính: Nguyên Bông Trước tác Tinh Tú Ký Ức Thi hóa Ngân Hà Tình Tự Thăm thẳm trong vũ trụ tư duy với vạn góc cạnh phức tạp gói ghém vô vàn ký ức đặc sắc của kho tàng quá khứ quý báu như những tinh tú lấp lánh trên dải ngân hà đậm đà tình người. Tịnh tâm lần từng hạt chuỗi ký ức quá vãng để điểm sơ qua từng dấu mốc thời gian có lẽ tâm tư nào cũng bừng tĩnh biến chuyển từ trạng thái ngạc nhiên đến cảm giác bồi hồi về vô vàn sự kiện đã xảy ra đối với một cá nhân thật vô cùng bé nhỏ trong vũ trụ thiên hà bao la. Có những ấn tích sâu đậm hoàn toàn nằm ngoài khả năng tự quyết nhưng cũng có biết bao hệ quả do chính sự nhận định suy đoán chủ quan nhất thời đã tạo ra. Ký ức quá vãng được tâm thức cá nhân trân trọng bảo dưỡng trong vũ trụ tư duy. Tâm thức hiện hữu nhờ sự giao tiếp đa dạng giữa trí tuệ, tâm lý và tiềm thức. Trí tuệ đón nhận các dữ kiện từ học thức đến kinh nghiệm xúc tác đa diện. Tâm lý là lăng kính suy luận đa chiều dựa trên cảm tính, tâm linh, tưởng tượng cùng nhiều yếu tố rung động kích sóng giác quan trực tiếp lẫn gián tiếp. Tiềm thức chi phối phương cách hành xử phản chiếu duy nghiệm bàng bạc từ kho tàng ký ức của quá khứ trang trải suốt cuộc đời. Thật may mắn cho những cá nhân biết cẩn trọng lưu giữ ký ức đặc sắc da diện và đa dạng. May mắn hơn nữa là những tao nhân có thể hạ bút minh họa tình tự ngọc ngà trong kho tàng quá khứ với những ấn tích vãng nhật sâu đậm trên đường đời trải dài từ giây phút ý thức trải nghiệm cho đến khoảnh khắc ráo mực trên trang giấy vừa sơ thảo. “Kỷ niệm năm xưa xa diệu vợi Nhớ nhung sao vẫn cứ đong đầy!” Tuổi Học Trò Hoài niệm ký ức đưa chúng ta về lại với những ấn tích quá vãng của thời gian, luyến tiếc cảm giác hạnh phúc, gợi nhớ kỷ niệm đau thương, ôn lại nhiều kinh nghiệm ấn sâu vào tiềm thức tác tạo nếp hằn trên khuôn mặt trải đời dạn dày phong sương và trong tâm hồn của sự thổn thức con tim lẫn niềm sôi động lý trí. Trên dải ngân hà tình tự của vũ trụ bao la đậm đà niềm thương nỗi nhớ hiện diện một lữ khách chậm rãi, từ tốn, cẩn thận góp nhặt, chọn lọc trước tác tinh tú ký ức để thi hóa tình yêu, tình bằng hữu, tình chiến hữu, tình quê hương, nợ núi sông. “Quê tôi vẫn có những con đường Hun hút bốn mùa nắng với sương Khói sớm ươm tình xây mộng ước Gió chiều chở nhớ dệt yêu thương Trên không, mây núi pha màu nước Dưới lũng, hoa rừng tỏa sắc hương Lắm lúc trời đang cơn rét lạnh Lối mòn nằm đó, nỗi buồn vương!” Những con đường
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 30 Trên quê hương đó bên kia bờ Thái Bình Dương xa vời vợi thuở nào chớm nở tình yêu ban đầu da diết với những ký ức thật đẹp, thật nhẹ nhàng nhưng khắc tạc biết bao ấn tích thật sâu đậm khó phai mờ trong tâm khảm của lữ khách. “Cũng bởi vì yêu mới vấn vương Chờ giờ tan học đón người thương! Chập chờn gió lá lay vầng nguyệt Thấp thoáng đèn trăng đuổi ánh dương.” Tự hỏi “Cái thuở hai ta chung bóng hình Ngồi bên nhau ngắm ánh bình minh. Nẻo xưa rảo bước mơ nồng ấm Trường cũ ươm lầu mộng đẹp xinh.” Còn nhớ chăng em “Anh nhắn về em tỏ mấy lời Lòng buồn sao bỗng thấy chơi vơi! Mai kia, sông mộng xuôi dòng thác Mốt nọ, thuyền mơ lạc bến đời!” Lời này cho em “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.” Đất nước chìm trong khói lửa chiến tranh, lữ khách “đáp lời sông hận” kề vai bao chàng trai Việt can đảm đem sinh mệnh đối đầu ngăn chặn cơn hồng lũ tan tác. Chàng đi, nàng ở, kẻ mong, người chờ. “Dựng quốc kỳ thiêng, tay sát cánh Đáp lời sông hận, súng kề vai. Đường gươm cứu nước đà trui luyện Thanh kiếm an dân đã giũa mài.” Bóng cờ bay “Trận gió tàn thu quá bẽ bàng Mang theo màu nhớ buổi chiều sang. Người ra biên trấn nhiều nhung nhớ Kẻ ở hậu phương lắm phũ phàng!” Đêm giọt sầu đong “Bao năm hương lửa tan mây khói Một kiếp giang hồ thẹn núi sông! Kẻ cắm sào ngang giăng mắt đợi Người đi biền biệt, ngậm ngùi trông!” Ai đưa con sáo sang sông? Tháng tư hạ tay súng, tan chính nghĩa, xiết tình người. Cả dân tộc bị đày vào đáy địa ngục do hồng quỷ cai quản tàn bạo theo sự chi phối của ngoại bang. Nước mắt đau khổ chảy dài thành dòng sông thương tâm trong lòng triệu triệu người từ ải Nam Quan đến tận mũi Cà Mau.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 31 “Anh em buông súng, niềm tin mất Đơn vị rã hàng, hy vọng tan! Non nước chìm nhanh làn sóng đỏ Đồng bào quấn vội mảnh khăn tang!” Mộng tan “Chinh nhân buông súng lòng nhung nhớ Dân chúng đeo sầu dạ ngẩn ngơ!” Bão lòng Đồng đội tan hàng, người chết nơi rừng thiên, kẻ lao tù tận núi thẳm. “Mấy năm binh lửa, người vương tội. Một kiếp cùm gông, kẻ mất hồn!” “Hai vai nợ nước quăng nguyên gánh Một mảnh tình nhà xé nửa đôi! Gió rít điệu ru khi giã biệt Mưa gào điệp khúc lúc chia rời!” Tâm sự người tù “Lanh lảnh rừng xanh hai cữ dồn Giật mình ngơ ngác, lệ chờ tuôn! Mấy năm binh lửa, người vương tội Một kiếp cùm gông, kẻ mất hồn!” Điệu kẻng buồn Dưới đáy cõi âm ý thức hệ có lẽ không nỗi lòng nào sâu đậm bằng nỗi lòng cha mẹ mong chờ ngày về của con hay tình vợ khắc khoải đắn đo lo lắng từng phút từng giây cho chinh phu bị đày ải trong lao ngục địch tù “Thân ốm trơ xương, áo cũng không! Ôm bụng đói chờ cơm lót dạ.” “Bao nhiêu nôn nóng, bấy lần trông Mong mỏi sao cho gặp được chồng. Bốn bức thư chui, thăm một bận Hai hàng lệ ứa, chảy đôi dòng! Mắt sầu chở nhớ, quà đâu có Thân ốm trơ xương, áo cũng không! Ôm bụng đói chờ cơm lót dạ Rừng già phong kín giấc mơ lòng…” Tâm sự người vợ tù Ra tù rồi ly hương nhưng lữ khách vẫn mãi nặng lòng với cố quốc xa thật xa mãi bên tận trời Đông. “Lữ khách chưa quên tình đất nước, Sao lòng như mất một quê hương!” (Mất một quê hương). “Tha hương ai thấu hiểu lòng ta Bảng lảng chiều dâng mỗi chuyện nhà. Nhìn sóng nhấp nhô thương xứ lạ Trông mây vời vợi nhớ quê xa! Sáng ra ngắm mãi làn sương sớm Chiều lại mơ hoài vạt nắng tà.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 32 Bến đó ngổn ngang cơn nước loạn Bờ đây lã chã giọt châu sa!” Nỗi nhớ bên này Bên bờ Đại Tây Dương xa xôi quê nhà lữ khách mãi ấp ủ ước mơ “Nung chí quật cường bao tháng hận, Dựng cờ phục quốc bấy mùa đông! Chung lưng đậu sức giành cương thổ, Đất nước an bình buổi sáng trong.” (Lửa Lạc Hồng). “Lửa binh thiêu rụi đời son trẻ Tuổi hạc chất chồng tóc bạc già! Một gánh giang sơn còn nặng nợ Làm sao cứu lại nước non nhà?” Gỡ lịch “Con Rồng sát cánh như thân thể Cháu Lạc kề vai tựa bóng hình. Cho dẫu thăng trầm nơi viễn xứ Quốc kỳ phất phới cảnh an bình…” Lá Cờ Xinh Vị lữ khách chậm rãi, từ tốn, cẩn thận góp nhặt, chọn lọc trước tác tinh tú ký ức để thi hóa tình yêu, tình bằng hữu, tình chiến hữu, tình quê hương, nợ núi sông là Thi sĩ Nguyên Bông ở Orlando, Florida. VH Nguyên Bông, tên thật là Trương Văn Bỗng, nguyên là Đại úy Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 312/Địa Phương Quân VNCH. Cựu Đại Úy Trương Văn Bỗng đã được trao tặng 1 Huy chương Vàng, 2 Huy chương Bạc, 3 Huy chương Đồng, 2 Chiến Thương Bội Tinh và 2 Bằng Tưởng Lục của Quân lực VNCH. “Người ngay, đứng thẳng không luồn cúi Quốc biến, vùng lên phải đấu tranh. Chí cả nương thời theo vận nước Trương cờ đại nghĩa cứu dân lành.” Chí anh hùng VH Nguyên Bông tham gia Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại khá lâu và từng phụ trách nhiều vai trò khả trọng từ Phó Chủ Tịch đến Tổng Thư Ký trong các Ban Đại Diện Vùng ở Florida. VH Nguyên Bông là một trong các thành viên sáng lập hội Văn Nghệ Tự Do và gánh vác vai trò Chủ tịch hội VNTD nhiệm kỳ 2014-2016. VH Nguyên Bông có hai tác phẩm đã được ấn hành là Khung Trời Xuân Phía Sau (2011) và Hoài Niệm (2016). Nguời viết diện kiến Thi sĩ Nguyên Bông lần đầu tiên trong đêm Tao Ngộ Bằng Hữu ở Orlando vào hôm 30-12-2016. VH Nguyên Bông ít nói và hầu như nếu không chăm chú lắng nghe thì bằng hữu khó nhận ra hình dáng của một thi sĩ vững vàn về luật lệ Đường thi cũng như chịu khó trau chuốt kết từ chọn ngữ khi sáng tác. Trong đêm Tao Ngộ Bằng Hữu anh gởi tặng viễn khách từ phương xa tác phẩm mới nhất Hoài Niệm trình bày 10 truyện ngắn và 201 bài thơ. Nguời viết hứa là sẽ đọc và đã nghiền ngẫm trong thời gian nghĩ lễ sau đó ở South Beach nhưng mãi đến gần đây mới suy ra được tựa đề Trước tác Tinh Tú Ký Ức thi hóa Ngân Hà Tình Tự phản ảnh thi ý đậm đà đa diện và đa dạng trong tác phẩm Hoài Niệm của VH Nguyên Bông.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 33 Hai trăm lẻ một bài thơ trong tác phẩm Hoài Niệm được VH Nguyên Bông trước tác theo luật Đường thi. “Luật đây là sáu luật, là luật hòa hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh, pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm” (Tiền Mộc Yêm). “Thể thơ Đường có người cho là toàn hảo nhưng cũng có vị đánh giá là gò bó điển hình như ‘một câu Thất Ngôn thì có hoặc 4 tiếng bằng 3 tiếng trắc, hoặc 4 tiếng trắc 3 tiếng bằng thì những tiếng bằng trắc ấy phải có thanh độ khác nhau.. Trong mỗi câu ít nhất là phải có 1 tiếng trường bình thì nghe mới êm...’ (Hoàng Thứ Lang). Đó là chưa bàn đến chính vận và thông vận cùng biết bao thi lệ khác! Vì vậy cho nên nhiều thi nhân bài bác sự gò bó “nghiêm ngặt chặt chẽ” của Đườmg thi trong đó có danh gia như Lý Bạch, Hàn Sơn từ lúc Đường thi thịnh hành chứ chẳng phải đợi chi đến đời sau. Lý Bạch (701-762 TL) là thi tiên được Đường Minh Hoàng ưu ái ban quyền uống rượu miễn phí toàn quốc, được đánh giá là “kim cổ kỳ nhân” mà còn không gò ép thơ của ông theo phép Đường thi thì thi lệ có lẽ không hệ trọng bằng thi nhã hay thi ý. Tâm đắc hay không tùy thuộc hoàn toàn theo quan điểm chọn lựa của mặc khách nhưng tựu trung thì thể thơ Đường có lẽ dễ thích hợp với tao nhân với tâm tồn tiết chế tình cảm, chú trọng nội tâm.” (Trích “Đường thi vạn nẻo Ngõ thơ lượng tình” © Vịnh Thanh) Nghệ thuật mang bản chất tuyệt mỹ riêng biệt hoàn toàn không tùy thuộc vào thi lệ hay văn pháp tuy vậy nếu lưu ý thì dễ thấy là từ xưa đến nay các bậc đại thi sĩ khi làm thơ Đường đều cẩn trọng trau chuốt gieo vần, và chính vận hiện rõ trong bao thi phẩm kỳ tuyệt. Hai trăm lẻ một bài thơ của VH Nguyễn Bông - một thi sĩ trầm tĩnh tiết chế tình cảm - được nhuận sắc chuẩn xác và cân đối với luật lệ Đường thi. Nhân sinh chuyển hóa bao nhân ảnh Thế sự vần xoay lắm cảnh đời!” Bình minh trên biển Khi lắng đọng dòng suy nghĩ để nghiền ngẫm các vần thơ trong thi tập Hoài Niệm, nguời viết chuyển từ trạng thái ngạc nhiên đến cảm giác tâm đắc không chỉ riêng về thi lệ mà còn bao gồm cả thi nhã và thi ý của dòng thơ đậm đà tình yêu, tình bằng hữu, tình chiến hữu, tình quê hương, nợ núi sông của VH Nguyên Bông. “Chữ nghĩa rồng bay mờ biển cả Văn thơ phượng múa mịt rừng sâu.” Bút Hoa Đôi dòng kiến giải chuyển đạt tâm ý chân thành giới thiệu tác phẩm Hoài Niệm của Thi sĩ Nguyên Bông, một lữ khách chậm rãi, từ tốn, cẩn thận góp nhặt, chọn lọc trước tác tinh tú ký ức để thi hóa dải ngân hà tình tự trong vũ trụ bao la đậm đà niềm thương nỗi nhớ. Vịnh Thanh Dương Thành Lợi Giữa rừng hoa tuyết tỏa sáng Saint Valentine’s Day @ 14.2.2017
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 34 Tháng Tư với người lính: Đăng Nguyên Bềnh Bồng Trong Nỗi Nhớ Lạc Bước Giữa Rừng Thơ “Ru đời, ru nỗi lênh đênh Ru qua biển rộng, bồng bềnh xa khơi Nhịp tan, nhịp vỡ, nhịp rời Quay đi, ngoảnh lại… quê người lưu vong.” (Vương vấn tình quê) Vị lữ khách với ba lô trĩu nặng tâm tư dạt dào tình cảm cất bước ra đi bỏ lại sau lưng bên kia bờ Thái Bình Dương một bầu trời quê hương gói ghém những ấn tượng sâu đậm của quá khứ quý báu với biết bao kỷ niệm vui buồn lẫn lộn suốt quảng đường đời thăng trầm gian truân. “Người đi biệt biệt tăm Bỏ vầng trăng tà xế.” (Dòng sông biệt tăm) “Ra đi chưa trọn tình sông núi Nhớ nước thương đời lệ lệ rơi.” (Thay lời tựa) Bầu trời quê hương bên kia nửa quả địa cầu ôm ấp tình thương lẫn nỗi nhớ của thuở xa xưa nào đó lúc trời đất hình như thật gần gũi với tình người trong vũ trụ thương yêu vô bờ bến tràn đầy nhịp đập con tim trỗi sống giữa khung cảnh thơ mộng trìu mến. “Mùa mưa nào ướt áo em tôi Thấm cả bờ vai, tóc rối bời Dìu bước nhau đi, chiều Vỹ Dạ Anh làm thơ, mưa Huế rơi rơi...” (Mùa mưa nhớ Huế) “Tự nhiên em đến như cánh tay Chụp xuống vai anh chiều Chúa Nhật Cho mát hồn những ngày nóng bức Cho mát buồn những ngày chia ly.” (Hơi thở mùa hè) “Người đi để lại buồn trong mắt Tóc xõa bờ vai thấp thoáng trông Nón lá che nghiêng ai đứng đợi Bên cầu Gia Hội nước còn trong Một thoáng mơ qua, sớm vội tàn Bởi đời đôi ngả, bước ly tan Thương hoài mái tóc trăng thề ấy Bên phố thu xưa nhặt lá vàng.” (Một thoáng mơ)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 35 Bầu trời quê hương tuy xa vời vợi đó nhưng cũng thật rất gần để chớp mắt là thấy trong góc cạnh sâu thẳm của tâm trạng đa cảm trọn vẹn khung cảnh “Huế còn thương cùng sông Hương núi Ngự, Ai chờ ai trên bến đợi chiều xưa” khiến lữ khách dẫu ở bất cứ chân trời góc biển nào cũng gìn giữ “Tim tôi vẫn mãi là tim Huế, Yêu Huế nồng nàn, Huế thiết tha.” “Huế của riêng tôi, một góc trời Trầm tư lặng lẽ êm đềm trôi Sông Hương e ấp đôi bờ mộng Núi Ngự mơ màng gió thổi xuôi... Huế của riêng tôi mãi đậm đà Dù bao năm tháng đã chia xa” (Huế của riêng tôi) Bàn bạc phảng phất thoảng nhẹ trong vẽ đẹp kín đáo của đất thần kinh xa xưa ngày nào là bóng dáng kiều diễm của vũ trụ lãng mạn tình yêu đôi lứa để vô hình trói buộc vị lữ khách lãng du trên đường đời vô tận: “Đi Bắc đi Nam đâu chẳng nhớ, nhưng nghe Huế nói… nhớ làm sao!” “Thuở trước từ quê lên Huế học Quen người em gái dốc Nam Giao Từ Đàm, Bảo Quốc cùng đi lễ Màu áo hương lam quyện má đào. Rồi giã từ em vào Thủ Đức Chiến trường đi mãi, lạc đời nhau Lâu lâu gặp được người quê cũ Nghe giọng thương thương thật ngọt ngào. Dường như Huế mình không quên được Nghe nói, nghe cười, lòng xuyến xao Đi Bắc đi Nam đâu chẳng nhớ Nhưng nghe Huế nói… nhớ làm sao!” (Huế lạ thường) Yêu thương là bản năng tự nhiên nhưng biết yêu là tình tự lãng mạn độc đáo phản ảnh khía cạnh đam mê đặc biệt của tình nhân. Vũ trụ yêu thương của lữ khách gói ghém chứa đựng tình cảm bất tử nhẹ nhàng quyến luyến hòa luyện vào nhịp đập con tim bập bùng và mặn nồng hơn cả nhịp độ thủy triều dâng hạ của đại dương trùng trùng điệp điệp. “Mời em! Rượu chuốc Tình lơi Huyên huyên Náo náo Tuyệt vời cố nhân.” (Tuyệt vời cố nhân) “Nóng bỏng đời riêng, vó ngựa điên. Trong mơ gọi dậy, mãi mê tìm. Trăng thừa còn dấu in trên gối.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 36 Nóng bỏng riêng đời, nóng bỏng em.” (Vó ngựa điên) Hôm qua là quá khứ. Ngày mai là tương lai. Hiện tại biến mất trong chớp mắt với cao độ gia tăng của thời gian quý báu. Ai cũng cố níu kéo hiện tại nhưng có lẽ không bao giờ thực hiện được ước mơ viễn vong đó bởi vì cần có xa mới có gần, có buồn mới biết vui cho nên có hợp thì phải có tan. Vòng luân chuyển của tình tự đôi lứa hầu như không bao giờ chấm dứt. Còn lại chỉ là dư âm của kỷ niệm vui buồn, đôi lúc bỗng trở lại chớp nhoáng như một thoáng mơ trong khoảnh khắc thời gian hình như dừng nhịp... “Người vỡ đất hoang tận cuối trời Tôi xây hồn mộng giữa chơi vơi Chuyến tàu xuyên suốt qua sa mạc Nhạc tấu khúc đời chậm chậm rơi.” (Hiu hiu cồn cát) “Người đi để lại buồn trong mắt Tóc xõa bờ vai thấp thoáng trông Nón lá che nghiêng ai đứng đợi Bên cầu Gia Hội nước còn trong Một thoáng mơ qua, sớm vội tàn Bởi đời đôi ngả, bước ly tan Thương hoài mái tóc trăng thề ấy Bên phố thu xưa nhặt lá vàng.” (Một thoáng mơ) “Giờ còn không? một chút gì nhau! Em ở bên kia tóc nhuốm màu Anh ở bên này sầu rả rich Mùa mưa về lạnh buốt canh thâu.” (Mùa mưa nhớ Huế) “Hè đỏ rơi rơi hoa phượng hồng Lòng tôi dào dạt nỗi chờ mong Qua mùa thi ấy nên duyên nợ Ðôi lứa chung nhau một tấm lòng. Chứng kiến tình tôi, cành phượng nồng Tưởng thuyền xuôi mái, nước thong dong Ðâu ngờ chinh chiến làm phiêu bạt Kẻ ở người đi, bỏ bến không. ... Tôi về quê cũ sau chinh chiến Nghe tiếng ve sầu giọng nỉ non Buồn bã tôi ôm hoa phượng héo Phủ lên bia mộ, khóc trong hồn.” (Thương một mùa hoa)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 37 Cuộc đời có lẽ là vô thường do đó có hợp thì sẽ có tan, có đến chắc phải có đi. Biệt ly là kết cục khó tránh của nỗi niềm yêu thương do đó tình cảm ngày nào rồi cũng phải từ biệt bỏ rơi lữ khách một mình ấp ủ các vần thơ giữa dòng đời cuồn cuộn tuôn về cõi vô định. “Từng cơn mưa rào, trận mưa mau Từ mái hiên đêm nhỏ giọt sầu Thơ chẳng bao giờ em được đọc Mà sao vẫn nhớ mùa mưa đầu.” (Mùa mưa nhớ Huế) “Có lẽ tình ta mãi cách ngăn Bởi thời ly loạn, bởi duyên căn Bao giờ về lại bên hồ Tịnh Nhớ thuở ban đầu gặp dưới trăng.” (Có lẽ tình ta) “Chờ mong mấy thuở tương phùng nhỉ! Gặp gỡ, chia ly, thoáng chạnh lòng Dòng thác thời gian trôi chậm lại Bên bờ hiu quạnh, mộng tàn đông.” (Hạ buồn) Lịch sử cận đại của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tàn phá duy vật tác hại. Trên đường đời trải dài suốt kiếp người, như nhiều chàng trai xứ Việt của thời lịch sử khốc liệt ngày nào, lữ khách đã cất bước lên đường trả nợ núi sông để bảo vệ đất nước trước cơn bão lửa thiêu đốt di sản giá trị đạo đức ngàn năm của dân tộc. “Sinh ra trong thời loạn Thân thế có cần chi Đời trai đành phiêu bạt Ra đi không hẹn về. Buồn vui theo vận nước Trôi dạt khắp sơn khê Qua bốn Vùng Chiến Thuật Nơi nào cần là đi.” (Trong cơn mê) “Người lính phong trần thương trận địa Giầy sô áo trận đầy hai vai. Cho tôi hơi thở hồn Xuân Lộc Đất đỏ cao su phơi tháng ngày Trận chiến cuối cùng vào lịch sử Hàng hàng lớp lớp bủa trùng vây.” (Nửa hồn chinh chiến) Tháng tư đen tước quyền tự vệ, trói buộc dân tộc đẩy cả nước vào ngưỡng cửa địa ngục bị phong tỏa bởi đám ma vương quỷ đỏ. Bóng đen chính trị của đồ tể ý thức hệ bao trùm từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 38 dần dần len lỏi đầu độc tê liệt mọi khía cạnh sinh hoạt của xã hội. Đồng đội tan rã, gia đình chia ly, nước mắt đau khổ chảy dài thành dòng sông thương tâm trong lòng người. “Nước mắt tôi nhỏ xuống phận người Hồn oan gục ngã chiều Ba Mươi Tháng Tư mất nước mồ phiêu dạt Mãi mãi còn nguyên giọt máu tươi. Ai về Xuân Lộc hư linh cảm Núi Chứa Chan vần vũ mây trôi Chớp mắt thời gian đầu bạc trắng Giọt sầu, giọt đắng, giọt đầy vơi. Nước mắt tôi khô cạn không lời Đường đi xa mãi quê hương ơi! Tháng ngày màu trắng pha sương đục Đốt nén hương lòng thương nước tôi. Lai Khê còn đó rừng xanh thẳm Long Khánh xa xăm cuối nẻo trời Người lính già nua thương trận địa Mưa rơi, mưa rơi, chiều mưa rơi.” (Thương trận địa) “Ðầu Xuân, Xuân Lộc mờ trong khói Tuyến thép vang lừng cuộc chiến chinh Ðất đỏ pha thêm màu máu đỏ Nghìn năm lịch sử mãi ghi tên. .. Trở lại Gia Ray thân cải tạo Nhìn đồi Phượng Vỹ nắng vàng lên Trung Ðoàn Năm Hai đâu rồi nhỉ! Phượng Vỹ còn kia! thầm gọi tên.” (Chiều nhớ Xuân Lộc) “Thời gian qua biển lửa Ngày đối diện cùm gong Ðêm hành hạ xác thân Ðảo điên qua vận thế.” (Dòng sông biệt tâm) “Tiễn anh giọt lệ mưa tầm tã Ðốt nén tâm hương tôi nguyện cầu Sống gửi thác về nương cõi Phật Tây Phương tịnh cảnh phước dài lâu.” (Khóc chiến hữu) Lữ khách bị đày đọa như lao nô trên quê hương mình trong các trại tù khổng lồ giết dần mòn những hào kiệt, anh thư của đất nước. Trong bóng đêm thăm thẳm của địa ngục ý thức hệ là tia sáng mỏng manh của niềm tin tự do, và tự do cuối cùng đã đến với lữ khách trên đường lưu vong làm kiếp người tị nạn.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 39 “Tạ ơn Tự Do cho tôi sống Tôi viết tình tôi chẳng dở dang Tôi khóc tôi cười không cấm cản Tự Do đổi bằng máu lệ nhỏ hàng hàng.” (Tạ ơn) “Dập vùi cơn lốc xoáy Lịch sử như gió lùa Bàng hoàng thân tị nạn Mòn mỏi gót giầy khua.” (Đêm Đông) “Làm khách lạ giữa quê hương câm nín Gót chân khua thê thiết gõ trong hồn Tìm bạn bè, giờ lưu lạc mười phương Ôm kỷ niệm để vỗ về quá khứ.” (Chung điệu nhớ) Trên xứ lạ, lạc lõng bơ vơ giữa rừng người hấp tấp vội vã tuôn theo cuộc sống dồn dập, lang thang đi tìm hương vị của ngày ấy nhưng biết bây giờ lưu lạc ở phương trời góc bể nào? Hàng năm mỗi dịp nàng Xuân đến lại khiến lữ khách đau nhói trong lòng với vương vấn tình tự cất gởi ở bên kia nửa quả địa cầu và nỗi nhớ các chiến hữu thuở xa xưa. “Ở đây như thể phương trời khác Nên nhớ quê hương đến não lòng” (Đi giữa rừng Thu) “Ở đây dư dả lời chúc tụng Nhưng thiếu quê hương của mẹ hiền” (Chiều Xuân) “Vang vọng hồn quê bát ngát sầu Sông thương núi nhớ mãi tìm nhau Lính già thân gửi phương trời lạnh Cố quốc xa mờ nát ruột đau.” (Buồn tháng Tư) “Nhớ chiều hành quân nơi quê cũ Trên những rừng thưa, những ngọn đồi Chờ chuyến trực thăng vào trận địa Thương rừng, nhớ bạn đã xa xuôi. Giờ thảnh thơi nghe mưa thác đổ Tưởng chừng như thể nước mắt rơi Bạn bè đâu mất, tìm không thấy Chỉ thấy hồn đau, xác rã rời.” (Mưa xứ người)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 40 “Ðường chiều quanh mấy ngả Bóng xế tà tà vây Tuổi đời cao chồng chất Ngày nào đi? Ai hay! Bạn bè ngày một ít Nhớ khi còn tù đầy Chia nhau tùng ngụm nước Sao bây giờ chia tay!” (Đường chiều) Trong đáy sâu thăm thẳm của địa ngục ý thức hệ, lữ khách tồn tại được nhờ vào niềm tin tự do. Trên xứ sở của an lành thanh bình, niềm tin tự do đó trở thành khác khao hy vọng cho đồng bào thân yêu bên kia bờ Thái Bình Dương sẽ được cùng Chung Điệu Nhớ “Mơ một ngày có cơ duyên huyền diệu, Người với người chung điệu nhớ Nam Ai”. “Mơ một ngày về đầy nắng ấm Sài Gòn mở hội đón Xuân ca Vui Xuân, vui giữa lòng dân tộc Tay nắm tay nhau, đời Thái Hòa.” (Mơ một tình Xuân) “Tôi sẽ cùng em Trong lời thơ Không nói Ðể cùng em Ðốt sách, đốt kinh, đốt hiến pháp Ðốt hiến chương, luật lệ… Của bọn cầm quyền, vua quan tồi tệ Của bọn độc tài đảng trị, ma giáo, sa tăng, ác quỉ Hút máu dân lành từng đêm. Tôi sẽ gặp em Ðọc những bài thơ đen Cho người già, người trẻ, xã hội toàn thi sĩ Chỉ biết làm thơ Thế giới công bình. Trước Thượng Ðế. Hư Vô. Thần Bí.” (Ngụ ngôn đen) Vị lữ khách cất bước trên đường đời biền biệt từ quê hương ấp ủ tình thương vượt Thái Bình Dương bao la đến bến bờ tự do là một thi nhân hiền hòa trong tư cách, bao dung trong nhận định và sống thật với sự trong sáng dạt dào tình người.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 41 Vị lữ khách “Làm thơ chẳng để làm thi sĩ, Chỉ tại thương thơ thương ý đời” được minh họa trong khải văn sơ thảo này là nhà thơ Đăng Nguyên Nguyễn Đáng, cựu học sinh Quốc Học Huế, nguyên Đại Úy Biệt Đội Quân Báo SĐ 18 QLVNCH. Từng đạt giải thưởng thơ năm 1960 và năm 1962 của Quốc Học Huế, tham gia nhiều tổ chức văn hóa đa dạng như Hội Thơ Tài Tử, Hội Văn Nghệ Sĩ Tự Do, Hội Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong, Hội Văn Học Nghệ Thuật Vùng Hoa Thịnh Đốn, VH Đăng Nguyên hiện là đương kim Chủ Tịch VBVNHN Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Tôi diện kiến và giao hữu với nhà thơ Đăng Nguyên từ khi chúng tôi nhận lãnh nhiệm vụ khó khăn phụ trách Chủ Tọa Đoàn trong Đại Hội VBVNHN kỳ 10 đầy sóng gió vào tháng 12/2014 tại California. Anh trân trọng tình bạn và, được tôi yêu cầu, anh đã gởi kịp tập thơ Dòng Mực Tha Hương trước khi tôi ra sân bay đi nước ngoài vào trung tuần tháng 8/2015 cho nên cần tác phẩm để nghiền ngẫm trong lúc rảnh rỗi. Dòng Mực Tha Hương chứa đựng những vần thơ đưa độc giả trở về cõi mộng nào đó dạt dào tình cảm dịu dàng của miền Nam trìu mến xa xưa cũng như gợi nhớ những giây phút xao xuyến hồi tưởng kỷ niệm ngọc ngà bị chôn vùi sâu thẳm dưới đáy vực lãng quên của cuộc đời thực tại vùn vụt đi qua. Rừng thơ của lữ khách Đăng Nguyên lấp lánh tinh tú thi ngữ như quang tuyến tinh khiết của ngọn hải đăng tỏ sáng trong sương mờ mù mịt để định hướng cho con thuyền tình thương ấm áp ghé bến xứ người lạnh lẽo thỉnh thoảng thiếu xót tình tự đồng hương nồng nàn. “Tạ ơn thơ đã cho tôi mộng Nếu chẳng còn thơ, mộng cũng tàn Giấy bút ai còn chăm chút nữa Tình đời chắc hẳn lắm ly tan.” (Tạ ơn) Dòng Mực Tha Hương dẫn dắt độc giả lạc bước vào rừng thơ ấm cúng, đa dạng và đa sắc. Xin đa tạ thi sĩ Đăng Nguyên đã cho tôi cơ hội được thưởng lãm những vần thơ thật đa cảm trong giây phút trống vắng xa cách sự ấm cúng của gia đình. Bềnh bồng trong nỗi nhớ, Lạc bước giữa rừng thơ.. .. tôi hạ bút ghi lại những cảm nghĩ cá nhân về rừng thơ ấp ủ tình người của VH Đăng Nguyên để chia sẻ cùng quý văn thi hữu trân trọng nét hay vẽ đẹp đa dạng khắp bốn phương trời trong vũ trụ thi thơ. Vịnh Thanh Tokyo, Nhật Bản 2015
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 42 Tháng Tư với người lính: Nguyễn Thế Giác Vượt khói Tương Tàn Cánh Nhạn hoài Xuân “Nước tôi đó vỏn vẹn đầy đôi thúng Đòn gánh buồn kẽo kẹt nghiến bờ vai” Vũ trụ tâm tư cá nhân nào cũng ấp ủ một bầu trời đa cảm sâu thăm thẳm với nhiều góc cạnh phức tạp chứa đựng sự hân hoan, thất vọng, thỏa mãn, buồn tủi, ước mơ, hoài tưởng, nhớ nhung, chờ đợi… Bầu trời tâm sự đó dẫu đương đầu với bão tố tình cảm hay cuồng phong thời cuộc hoặc tuyết sương thử thách vẫn dễ dàng chuyển sắc thay đổi với nắng ấm trong lành khi cánh nhạn xuất hiện đem đến thông điệp của mùa Xuân, mùa của tình thương bừng sáng, chân lý trồi sinh và hy vọng vươn lên. Xuân Hạ Thu Đông vương vấn lưu luyến tao ngộ mỗi năm theo chu kỳ chung niên 365 và một phần tư ngày hay 8 ngàn 766 giờ tức là 525 ngàn 960 phút đồng nghĩa với 31 triệu 557 ngàn 600 giây. Mỗi giây phút tĩnh lặng quý báu có được của hoài nhân trên đường đời lưu vong biền biệc hình như được trân trọng giữ gìn trọn vẹn để hồi tưởng nhớ nhung lại những khoảng khắc khả ái của quá khứ thăng trầm được ấp ủ bởi quê hương sông nước nơi đất Việt xứ Nam xa thăm thẳm bên kia trời Á châu. Cạnh bờ Thái Bình Dương bao la trên dãi đất dáng cong uốn theo đồ hình thái cực thâm thúy là những dòng sông ngọt ngào đậm nét ấn tình yêu. “Em nhớ cho anh giòng sông xưa Có vầng trăng ấp ủ bóng dừa Lung linh đọt mạ sương còn đọng Rạo rực men tình cũ đong đưa” (Một chuyện tình) “Bước em thơm ngọt thùy dương Dáng em ngàn liễu ngậm sương vóc gầy Tóc em là ngọn heo may Một thời thu biếc vùi say giấc nồng Em về tôi đợi bên sông Thuyền tình lơ lững theo giòng nhân gian” (Chiêm bao người tình)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 43 Tình yêu cá nhân có lẽ ban đầu lúc nào cũng bắt đầu với sự cảm nhận thật bỡ ngỡ rồi đưa lối đến tương tư trong “chiêm bao” chan chứa tình tự để “buồn thiu” khi chia tay, hạnh phúc lạ lùng khi gặp mặt dẫu chỉ là chợt thoáng. “Chiều qua sông cuộn đìu hiu Thuyền ai lơ lững buồn thiu lạc giòng” (Tâm sự một giòng sông) . “em lẳng lặng rụt rè bỡ ngỡ nụ hôn đầu e ấp tuổi hoa niên những bàn tay hiền diệu thần tiên lùa mái tóc bềnh bồng trôi trước gió . mùa Xuân trong em . dường đâm chồi nẩy ngó . anh đam mê mầu đỏ mọng môi em” (Em là giòng suối nhỏ) “Nhè nhẹ ru em một thủa nào Mơ hồ êm dịu giấc chiêm bao Nhớ chăng vụng dại lời âu yếm? Thung lũng mùa xuân rót ngọt ngào” (Giòng sông dĩ vãng) Đất nước xứ Nam của tình thương xa xôi đó và những con người sinh tồn trên dãi đất cạnh bờ Thái Bình Dương đó không bao giờ chấp nhận trở thành quận huyện của bất cứ đế quốc nào cho nên chấp nhận hy sinh to tát để giữ gìn quyền tự chủ trong khoảng trời tuy hạn hạn hẹp nhưng chứa đựng đầy tình tự dân tộc: “Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc” (Trần Bình Trọng). Noi theo tấm gương hy sinh hào hùng đó vô vàn chiến sĩ đã cống hiến sức sống cũng như sinh mệnh nhằm bồi đắp lớp phù sa quý báu cho trường thành phòng thủ ngăn cản làn sóng xâm lăng ý thức hệ cộng sản khốc liệt. Bao kiếp trai đã hãnh diện rũ đời thư sinh để lên đường đáp theo tiếng gọi của non sông.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 44 “Giũ áo thư sinh làm lính trận Bỏ bút, bỏ nghiên, bỏ bạn bè Người yêu bé bỏng hay hờn giận Anh dỗ hoài, em chẳng chịu nghe Và anh theo tiếng gọi sông hồ Gối đầu định mệnh dựa hư vô Đêm nay ray rức nhớ trăng mười sáu Hình ảnh giai nhân mãi tôn thờ” (Giòng sông dĩ vãng) “Đời lính trận tháng .. năm .. dài buồn tủi Mong Quê Hương đất vỡ trổ ân tình Đem khí tiết đáp đền ơn sông núi Mơ một ngày nhìn được ánh quang minh” (Rồi Tổ Quốc đi vào cơn giông bão) Có người ra đi trong thuơng yêu tức là có người ở lại trong nhớ nhung. Nơi hậu phương người tình mong chờ, ngoài trận địa khi có được khoảng khắc tĩnh lặng giữa làn pháo đạn rung trời chuyển đất là người lính vội kê ba lô hạ bút họa thơ tình. “Kê chiếc ba lô viết thư tình Mới ngày nào đó tuổi thư sinh Giờ ôm báng súng ghì lồng ngực Còn lại hôm nay bóng với hình” (Một chuyện tình) Trên quãng đường đời thực tế đầy gian nan của người lính tác chiến ít khi cho phép sự lãng mạn được trỗi dậy tồn tại lâu dài. Giữa những bình minh chuyện trò với chiến hữu là bóng đen đợi chờ của thương tích chiến tranh tan tóc. Giữa những ngày giờ sống là sự tính toán đa đoan của tử thần rình rập sau làn mưa pháo đạn. Giữa những giây phút bình an tĩnh lặng là sự hiểm nghèo chập chờn giăng bẫy. “Mưa đêm xào xạt bờ lau sậy Mơ dáng Cao Nguyên đất đỏ đường Rồi thấy tiền đồn rực hỏa châu Pháo bầy .. pháo lũ .. chụp lên đầu Đứa con lạc giọng gào quân viện
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 45 Ra .. rả điện đàm nuốt khổ đau” (Ray rứt) “Nhớ những đêm vượt Trường Sơn đón giặc Nhìn Hỏa Long sưởi ấm cả núi rừng Đốt điếu thuốc nghe khói cay lòng mắt Ôm bản đồ nhìn mãi trục tiến quân .. Nhớ những ngày dài nằm chờ tiếp tế Mưa đầy trời gió cuốn lộng Poncho Súng lên đạn vẫn nụ cười ngạo nghễ Xé tan tành tuyến thép rực trận đồ” (Chỉ còn là kỷ niệm) Dự đoán thời khóa biểu sinh dưỡng có lẽ dễ dàng nhưng không ai có thể tính toán được thời điểm của cái chết vốn có thể lâu dài hay bất ngờ quá thình lình khó tưởng tượng. Sự bức tử của Việt Nam Cộng Hòa cũng không ra khỏi công thức tự thủy chí chung này (tự thủy chí chung: từ đầu tới cuối). “Hà Nội xót xa buồn phản bội. Sài Gòn tức tưởi hận thơ ngây.” (Mùa Thu trong lòng người hải ngoại) “Mất Thủ Đô một chiều mưa ray ráy Bến bạch Đằng tàu vội vã nhổ neo Làm Lính chiến chưa một lần trốn chạy Nên vụng về chết lặng đứng nhìn theo” (Hồi tưởng) “Chưa một lần biết giương ngọn cờ hàng Quyết tử chiến thi gan, không chùn bước ... Nhưng Kỷ Luật là sợi giây oan trái Trói tay chân trang dũng sĩ một thời” (Thế là xong hồ mã nản chân bon)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 46 Đất nước bị tước quyền quyết tử, dân tộc bị bắt buộc phải đầu hàng. Đồng bào bị xua vào địa ngục cai trị bởi lũ quỷ cà rồng chính trị* chủ trương “tru di” ý chí dân tộc, bòn rút sinh lực tổ quốc để cống hiến cho ngoại bang. “Ôi Việt Nam! Mẹ còng lưng nắng cháy Quảy lên vai nghiệp nước truân chuyên Máu đổ thành sông tưới cả ba miền Cho dân tộc đứng trên bờ tự quyết” (Ôi Việt Nam! Mẹ còng lưng nắng cháy) “Cứ đến ngày này xin gục mặt Cho đời khỏi thấy nét u mê Mẹ ơi! Con lỡ làm mất nước Biết một lần đi là bặt lối về Cứ đến ngày này đau chữ nghĩa Nhai từng tiểu luận Chuyện Ba Mươi Tháng Tư năm ấy buồn thấm thía Từ đó trên môi tắt nụ cười” (Khóc hận) Lưu vong xa đất nước, mỗi giây phút tĩnh lặng trong 525 ngàn 960 phút hay 31 triệu 557 ngàn 600 giây của một năm thường vô tình dẫn dắt hoài nhân hồi tưởng trở về với thôn xưa vết cũ bên kia bờ Thái Bình Dương nơi những giòng nước đan chéo chuyên chở tình người đậm đà. “Anh vẫn nghe nhung nhớ ngập hồn Từ ngày đất nước tắm hoàng hôn Chân lê theo tiếng hờn Sông Núi Ray rứt từng đêm chuyện mất, còn!” (Người yêu ngày xưa của lính) “Quy nhơn ơi . Quê hương xưa trôi bềnh bồng . trên giòng đời bàn bạc . ký ức hằn sâu mảnh vụng cuộc đời . tiếng sóng biển rập ... rình buồn man mác ngậm ngùi đi chừng thương tiếc đầy ... vơi” (Chuyện tình ngày xưa của lính)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 47 “Chắt chiu mãi nôi miếu đường cổ kính Buồn ly hương theo ngày .. tháng .. bềnh bồng Trong huyết quản vẫn trung kiên Người Lính Sẽ trở về bơi lội cả giòng sông” (Bên giòng sông Côn) Người lính trận ngày nào tranh đấu bảo vệ quê hương trước làn sóng đỏ vẫn không nhụt chí “dù chiến bại linh hồn chưa bạc nhược, đã chắc chiu từng đóm mắt hỏa châu” (Là chứng nhân một bài học đau thương). Người lính đó vẫn luôn ấp ủ giấc mộng “Đất Việt trời Nam nhạn sẽ về.” “Chỉ mong góp sức gầy Quê Mẹ Cũng muốn lê chân dạo phố phường Ôm dáng Sài Gòn chiều xế bóng Gội giòng sông Cửu sáng tinh sương” (Giao Cảm) “Vẫn hoài niệm mãi ngày quang phục Chuộc lại bao nhiêu những lỗi lầm Văng vẳng đâu đây rộn nẻo đường! Nhìn theo con nước Thái Bình Dương Ta mơ đi giữa lòng Dân Tộc Quân Phục hiên ngang khắp phố phường” (Ngày này năm đó) “Là chinh nhân tôi khẩn nguyện với lòng Khi tôi chết ôm ngọn cờ chung thủy Bạn bè tôi, ngày giã từ vũ khí Phủ ngọn cờ yên nghỉ một đời trai Từ đó Giang Sơn vọng tiếng thở dài Hoa địa ngục giữa trần ai nước Việt Đất tạm dung chạnh lòng đau thương tiếc Lá Quốc Kỳ bất diệt ở trong tôi.” (Đời ta chỉ có ngọn cờ)
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 48 Lịch sử cận đại của Việt Nam chứng giám hàng chục năm chiến tranh tàn khốc với cái chết đau thương hình như cư ngụ rất gần và đồng hành sát cánh với cuộc sống tình cảm của con người. Biết bao người lính oai hùng một thời đã hy sinh mạng sống để bảo vệ quyền tự do của dân tộc trước cơn thác lũ tấn công man rợ của cộng sản quốc tế. Biết bao chiến sĩ đã hiến thân đền nợ nước trong đó có cả thi nhân người đã sáng tác những vần thơ đậm đà tình đời kể trên. Trong một cuộc hành quân tái chiến đầy máu lửa, thi nhân đã bị bắn gục bởi hai (2) viên đạn, một trúng vào cổ và một giữa bán cầu não. “Người trai ấy: . Vất nửa hình hài trong lòng Dân Tộc . Nhưng Quê hương đã vuột khỏi tầm tay Đong nước mắt ngậm ngùi theo cơn lốc Bão trong hồn Bố chấp nhận đắng cay” (Cho con một giòng sông) “Bất đắc chí nghẹn ngào ôm súng gãy Trái tim đau hai mảnh máu chảy ròng Viên đạn địch đốt lân tinh nồng cháy Nhìn ngọn cờ vàng bão táp cuồng phong” (Mất một nửa nghĩa là còn tất cả) Nhưng Trời không cho anh chết, Chúa chưa chịu nhận anh về có lẽ bởi vì.. “Trời toan đại dụng nên rèn chí, Chúa giúp thành công ắt có thời Ví thử đường đời bằng phẳng cả Anh hùng, hào kiệt cũng thường thôi” (Phan Bội Châu) Thi nhân bị bắn gục nhưng Trời không cho chết Chúa chưa gọi về, tác giả của những bài thơ đa cảm khí phách hào hùng trong thương tiếc nguyên là Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Nguyễn Thế Giác. Từ đống tro tàn chiến tranh cánh nhạn Nguyễn Thế Giác đã vươn lên cất cánh trỗi dậy nhắc nhở gia đình, bằng hữu, chiến hữu, văn hữu, đồng bào cũng như ngoại nhân về sự hy sinh cao cả cho tự do
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 49 của dân tộc Việt Nam và cất cao tiếng nói yêu nước chân tình qua các án văn, vần thơ đa cảm khẩn hứa với quê hương bên kia bờ Thái Bình Dương: “Đông Âu ngọn gió Xuân vừa đến, Đất Việt trời Nam nhạn sẽ về” (Ngày xuân ngẫu cảm). “Dẫu nước mất nhưng Quê Hương bất diệt Vững niềm tin tha thiết với Non Sông Triệu linh hồn ai oán tận biển Đông Ôm tiếc nuối sụt sùi trông Quê Mẹ” (Khi nước mắt) Nếu một mai có ai về đất Việt Mang thật nhiều hạt giống yêu thương! Gieo lên cả ba miền mầm tâm huyết Mọc thành cây Nhân Bản rợp Thiên Đường” (Nếu một mai) Văn hữu Nguyễn Thế Giác nguyên là Tiểu Đoàn Trưởng QLVNCH và được trao tặng nhiều huy chương cùng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương với Nhành Dương Liễu trước 1975. Trước khi bước vào quân ngũ anh từng sáng tác cho Đặc San của Ty Thông Tin tỉnh Bình Định, các báo Con Ong, Phổ Thông, Thời Nay, Sinh Viên Huế, Lập Trường, và sáng lập Thi Đoàn Hoang Đảo tạo diễn dàn cho các cây bút trẻ ở miền Trung. Tại hải ngoại VH Nguyễn Thế Giác cộng tác với hầu hết các báo Việt ngữ và xuất bản nhiều tác phẩm văn thơ như Chiều Tỉnh Lẻ Miền Trung, Nắng Quê Hương, Gió Nam Bình Định, Giọt Nước Mắt Cho Quê Hương, Trên Đỉnh Buồn Miền Đông, Tâm Sự Một Giòng Sông, Trên Lưng Trường Sơn, Đứa Con Không Quốc Tịch, Buồn Lên Mấy Đốt Ngón Tay, Ba Mươi Mùa Xuân Trên Lưng Người Tị Nạn, v.v. Ngoài trách nhiệm quan trọng trong Văn Bút VNHN anh còn là một trong các sáng lập viên Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Nam Tự Do và cũng từng giữ vai trò chủ bút cho nguyệt san Tự Do Dân Bản.
1/3/2024 VBVNHN TAM CÁ NGUYỆT SAN K Ỳ II 2024 50 Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Nguyễn Thế Giác Houston @ 2016 Tôi gặp VH Nguyễn Thế Giác lần đầu tiên tại Đại Hội 10 ở California vào tháng 12/2014 và lần thứ hai trong Hội Ngộ Văn Bút Hè 2015 ở Florida. Tôi nhớ mãi câu nói của anh: “Các anh đi bằng đôi chân, tôi đi bằng cái đầu.” Đôi cánh ngọc ngà, vững chãi ôm ấp chân tình, của cánh nhạn Nguyễn Thế Giác chính là hồng nhan tri kỷ của anh, chị Đinh Thị Hồng Lê.